Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
02/12 Tỉnh thức cầu nguyện
- Viết bởi Lc 21, 34-36
Tỉnh thức cầu nguyện.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 34 thường niên.
"Các con hãy tỉnh thức, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến".
Lời Chúa: Lc 21, 34-36
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất.
Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Phải đề phòng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Tháng 9-2009, Tổng Thống Nga Medvedev
gọi nạn nghiện rượu là quốc nạn.
Mỗi năm tính bình quân mỗi người dân uống khoảng 18 lít,
gấp đôi lượng rượu được coi là nguy hiểm cho sức khỏe.
Nửa số người Nga chết giữa khoảng 15-54 tuổi là do hậu quả của rượu.
Trẻ em và phụ nữ cũng nghiện.
Tuổi thọ trung bình của đàn ông chỉ còn là 59.
Vì nhiều người chết nên dân số Nga sụt giảm mỗi năm.
Làm gì để cai nghiện cho hơn hai triệu người Nga,
đó là chuyện nhức đầu cho các nhà lãnh đạo.
Nhưng tại sao người ta lại bị nặng nề bởi rượu Vodka?
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta
về những thứ nặng nề đè trên trái tim người Kitô hữu.
Trong khi chờ đợi Chúa đến vào thời điểm không đoán trước được,
chúng ta có thể bị vướng vào những thú vui buông thả.
Sống bừa bãi, phóng túng, nhậu nhẹt, say sưa,
đó vẫn là cám dỗ muôn thuở của thân xác.
Chỉ cần đi một vòng thành phố hay các vùng quê vào ban đêm,
chúng ta thấy ngay cả một thế giới của ăn uống, hưởng thụ.
Nhưng trái tim con người còn có thể trở nên nặng nề
bởi những lo âu trần thế (x. Lc 8, 14).
Làm sao nhà cửa có thêm tiện nghi? làm sao thêm lương và lên chức?
Những nỗi lo toan về cuộc sống vật chất vắt kiệt con người,
khiến con người không còn khả năng mở ra trước Chúa và tha nhân.
Con người giàu lên, nhưng lại thấy mình bất hạnh và gia đình đổ vỡ.
Mỗi năm ba mươi ngàn người chết vì tự tử ở Nhật.
Trái tim nặng nề nên nhiều người mắc bệnh tim mạch.
Trái tim bị kéo xuống cái thực dụng tầm thường ở trên mặt đất,
nên con người bị còng xuống, không ngước lên được điều trên cao.
Ngày Chúa đến như một bất ngờ, như một cái bẫy sập xuống,
không phải chỉ trên người Do Thái,
nhưng trên mọi dân cư ở khắp mặt địa cầu (c. 35).
Cả thế giới phải chịu phán xét chẳng trừ ai.
Bởi đó thái độ cần có mỗi ngày của người môn đệ
là luôn luôn thức tỉnh và cầu nguyện,
để có sức mà thoát khỏi mọi điều sắp xảy ra (c. 36).
Để chuẩn bị cho cái chung cục, thì phải sống đều đặn cái hàng ngày.
Làm sao để khi Con Người là Đức Giêsu trở lại trên mây trời,
Ngài thấy chúng ta đang ở tư thế đứng thẳng,
không phải xấu hổ cúi đầu, không bị ràng buộc bởi đam mê,
nhưng vui sướng vì mình đã không uổng công chờ đợi.
Có những lo âu vẫn chi phối tôi làm tôi nặng lòng.
Có những mê đắm kéo ghì tôi xuống và bắt tôi làm nô lệ.
Mùa Vọng sắp đến mời tôi tỉnh thức và cầu nguyện, để đứng lên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại. Amen.
Suy niệm 2: Cuộc chiến cuối cùng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ma quỉ luôn chống phá chương trình của Thiên Chúa. Gây ra cuộc chiến giữa thiện và ác. Ma quỉ muốn bành trướng vương quốc sự dữ của nó. Cuộc chiến khởi đầu từ tạo thiên lập địa. Và sẽ kéo dài cho đến ngày tận thế.
Càng đến cuối thời gian cuộc chiến càng khốc liệt. Vì ma quỉ phải vận dụng hết năng lực tàn phá để giành lấy con người. Đa-ni-en đã thấy những con thú ngày càng hung dữ hơn. Tức là các vua chúa trần gian ngày càng hùng mạnh hơn. Đến vị vua cuối cùng thì quả thực vô đối. Ông tiêu diệt hết các vua trước. Và còn báng bổ cả Thiên Chúa. Vì ông nghiền nát cả vũ trụ dưới chân. Mọi người phải cúi đầu khuất phục trước thế lực hung hãn này. Nhưng cuối cùng thời hạn của thế gian chấm dứt. Thiên Chúa là chủ của lịch sử và vũ trụ sẽ ngự đến xét xử. Tước lấy quyền uy của vua chúa trần gian. Trao vào tay dân thánh của Chúa. Bấy giờ quyền uy mới là tối thượng. Và sẽ bền vững đến muôn đời (năm lẻ).
Chúa Giê-su diễn tả ngày của Chúa đến như chiếc lưới bất ngờ chụp xuống. Không ai và không gì trong vũ trụ thoát khỏi giờ xét xử kinh hoàng ấy. Chỉ duy những kẻ thuộc về Chúa mới được cứu rỗi. Muốn thuộc về Chúa, ta phải “đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”. Sự đời ngày càng hấp dẫn. Khiến người ta say mê. Càng say mê lòng trí càng nặng nề. Càng sống theo xác thịt ta càng xa Thần Khí. Càng thuộc về trần gian càng xa Nước Chúa. Vì thế Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức để phân định tốt – xấu, thiện – ác, Thiên Chúa – trần gian. Có những thứ men tinh vi của ma quỉ, xác thịt, thế gian nhiễm vào tâm hồn. Khiến ta lầm lạc lầm tưởng xấu là tốt. Vì thế phải rất tỉnh thức. Nhưng để dứt khoát chối từ ta cần phải can đảm. Trần gian có những giá trị quyến rũ khiến ta khó dứt lìa. Xác thịt yếu đuối lắm. Vì thế phải cầu nguyện ta mới có thể đứng vững trong ngày của Chúa.
Khi ta đã chiến thắng trong cuộc chiến cuối cùng, ta sẽ được đưa vào Nước Chúa. Ở đấy không còn chết chóc nữa. Chỉ có sự sống. Không còn bệnh tật. Chỉ có sức khoẻ. Không còn bóng tối nữa. Chỉ có ánh sáng. Không còn sự ác nữa. Chỉ còn sự thiện. Không còn chiến đấu nữa. Vì ma quỉ xác thịt thế gian đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Ta hoàn toàn thuộc về Chúa. Ta được chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa. Được hiển trị với Chúa. Đến muôn thuở muôn đời (năm chẵn).
Chỉ cần một điều. Trong suốt cuộc chiến trần gian, hãy “tuân giữ các sấm ngôn trong sách này”.
Suy niệm 3: Tỉnh thức cầu nguyện
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Kết thúc diễn từ về ngày tận thế, Chúa Giêsu đưa ra hai thái độ sống cụ thể trong khi chờ ngày của Chúa. Thứ nhất là thái độ sống thanh thoát: "Các con phải đề phòng, chớ để lòng mình đắm say tửu sắc, đa mang sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu các con, vì ngày ấy sẽ ập tới mọi dân cư trên khắp mặt đất". Nói khác đi, Chúa muốn chúng ta sống sứ điệp và giá trị Tin Mừng, không để mình bị mê hoặc chạy theo các chủ trương duy vật, hưởng thụ, qua lo thu tích của cải như một bảo đảm an toàn cho cuộc sống mà lãng quên những nhu cầu tâm linh và các giá trị siêu việt của cuộc sống.
Ðể khỏi rơi vào tình trạng thiếu chuẩn bị trong ngày của Chúa, Chúa Giêsu nêu ra điều kiện tiên quyết, đó là tỉnh thức và cầu nguyện: "Các con phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có đủ sức thoát khỏi những điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người". Cầu nguyện là nhìn nhận Chúa là tất cả, là đặt thánh ý Chúa trên hết. Ðồng thời, cầu nguyện là nhận biết mình yếu đuối và cậy trông vào ơn Chúa. Nhờ cầu nguyện, chúng ta sẽ có thái độ tỉnh thức trong đời sống thường ngày, sẽ nhạy bén với tiếng gọi của Chúa qua những biến cố cuộc sống để luôn tìm đẹp lòng Chúa.
Ngày mai chúng ta không biết sẽ ra sao, ngày cuối đời lại càng mù tịt. Xin Chúa cho chúng ta biết sống từng giây phút hiện tại, sao cho luôn được Chúa chúc lành và được tình thương Chúa che chở, để ngày Chúa đến sẽ là ngày hạnh phúc cho chúng ta.
Suy niệm 4: Nền văn hóa của sự chết
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Hòa Lan đã dấn sâu hơn vào nền văn hóa của sự chết. Ngày 28/11/2000, quốc hội Hòa Lan đã chính thức thông qua luật mới cho phép các bác sĩ được trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử. Với luật này, Hòa Lan là nước đi tiên phong trong nền văn hóa của sự chết, tuy chưa chính thức ban hành luật cho phép các bác sĩ trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử.
Ngày nay, nhiều nước công nghiệp tiên tiến cũng đang ngày càng bị nhận chìm trong điều thường được gọi là văn hóa của sự chết. Trong khuôn khổ của ngày Năm Thánh dành cho các giáo dân tham gia truyền giáo diễn ra tại Vatican vào tháng 12/2000, một hội nghị về những khó khăn trong cuộc sống chứng nhân giữa đời đã được tổ chức. Nhân dịp này, bà Mêrian Clindon, giáo sư luật học tại đại học Harvard, Hoa Kỳ, và từng được cử làm trưởng đoàn Toà Thánh tham dự diễn đàn phụ nữ tại Bắc Kinh vào năm 1995, đã trình bày cho hội nghị về nền văn hóa chết chóc đang lan rộng trong xã hội Hoa Kỳ. Bà Clindon nói rằng một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất trong nền văn hóa sự chết là con người không còn màng đến các giá trị đạo đức nữa. Quan hệ gia đình ngày càng mong manh. Tình mẫu tử bị khinh miệt. Trẻ con dành ít giờ cho cha mẹ và anh chị em hơn là màn ảnh truyền hình. So với đám đông thầm lặng, nền văn hóa sự chết lại được thịnh hành hơn trong những thành phần ưu tú và lãnh đạo trong xã hội.
Ðặc trưng của nền văn hóa của sự chết ấy là sự phát triển tràn lan của chủ nghĩa duy vật, duy hưởng thụ, duy khoái lạc và tục hóa.
Tựu trung, luật cho phép các bác sĩ trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử là thể hiện cuối cùng của trào lưu khước từ sự sống, chối bỏ ý nghĩa của sự sống. Thật thế, sở dĩ con người có ý tìm đến cái chết là bởi vì họ không còn nhìn thấy giá trị và ý nghĩa của sự sống nữa. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ của Ngài hãy tỉnh thức để không chạy theo nền văn hoá của sự chết ấy. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu được đưa ra liền sau khi Ngài loan báo về ngày tận thế. Chúa Giêsu loan báo về ngày thế tận không phải để đe dọa con người, mà trái lại mời gọi con người mặc lấy thái độ tỉnh thức và tin tưởng phó thác. Ngày thế tận không phải là một biến cố khiến cho con người phải sợ hãi hay thất vọng, mà trái lại là điểm đến tất yếu của lịch sử. Ngày thế tận không phải là tận cùng của lịch sử. Trong ý nghĩa toàn bộ của lịch sử ấy, cuộc sống con người có ý nghĩa và mọi biến cố trong cuộc sống con người đều có ý nghĩa. Niềm vui, nỗi khổ, thành công, thất bại, giàu sang, nghèo hèn, sức khỏe, bệnh tật, tất cả đều có ý nghĩa và giá trị của nó. Nhận ra ý nghĩa của tất cả mọi sự trong cuộc sống, cũng có nghĩa là tuyên xưng rằng Chúa là Chúa tể của lịch sử, và như vậy, thái độ phù hợp nhất là sống mọi biến cố với tâm tình thương yêu và phó thác. Trong một xã hội chối bỏ mọi giá trị đạo đức, cuộc sống con người có niềm tin phải là một chứng tá về những giá trị vĩnh cửu. Trong một xã hội thiếu niềm tin, cuộc sống của người tín hữu phải là một ngọn đèn pha mang lại tia sáng của tin yêu và hy vọng. Trong một xã hội vắng bóng tình yêu, cuộc sống của người môn đệ Chúa Kitô phải chiếu ngời hân hoan và quảng đại. Ðó là thách đố đang được đặt ra cho chúng ta hôm nay.
Nguyện xin Chúa củng cố niềm hy vọng của chúng ta.
Suy niệm 5: Tỉnh thức thật
“Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì ngày ấy ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc. 21, 34-36)
Ở câu 31 thánh Lu-ca đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tỉnh thức vì nước trời gần rồi, Ngài lấy lại đề tài này vì lý do ngày phán xét đến đột ngột, nên đừng để mình mê ngủ. Lời khuyên tỉnh thức, sẵn sàng là một khía cạnh cốt yếu trong sứ điệp của Đức Giêsu. Giáo hội thời đầu đã nắm bắt rất kỹ tầm quan trọng của lời cảnh giác này, câu sau đây của thánh Phao-lô có thể soi sáng cho tâm trí chúng ta hiểu rõ vấn đề này: “Theo Thần khí hướng dẫn, anh em hãy cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh và hãy tỉnh thức trong mọi lúc với mọi nhẫn nại chờ đợi” (Ep. 6, 18). Những cuộc canh thức đóng một vai trò lớn lao trong phụng vụ như thánh Phao-lô còn chứng tỏ: “Anh em hãy kiên trì cầu nguyện, hãy tỉnh thức cầu nguyện và tạ ơn” (Col. 4, 2). Chuẩn bị như vậy để theo Đức Kitô tiến lên mừng lễ Phục sinh.
Những cuộc canh thức đó diễn tả đúng tư tưởng của Đức Giêsu về chủ đề tỉnh thức, vì lúc đó vấn đề luôn luôn được chú trọng là cầu nguyện mỗi khi chiều đến, vì Tin mừng luôn luôn nhắc nhở: “Chiều đến Đức Giêsu vào nơi thanh vắng cầu nguyện”. Loại canh thức này của Đức Kitô không phải như thứ canh gác của người lính canh coi chừng kẻ phục kích, cũng không phải như võ sĩ luôn luôn sẵn sàng tránh những cú đấm bất ngờ, cũng không phải như con mèo rình bắt chuột. Sự canh thức của chúng ta cũng không phải thứ âm mưu quỷ quyệt của trận chiến giữa ta với Thiên Chúa. Nếu thế thì khốn cho chúng ta.
Từ ngữ tỉnh thức diễn tả chính xác phải theo tư tưởng của Đức Giêsu, tỉnh thức có nghĩa là chăm chú có ý tứ, có ý thức, như đầy tớ khôn ngoan và trung tín, chăm chú làm việc để khi chủ về bất cứ giờ nào trong đêm khuya, nó biết chuẩn bị trước những điều cần, những gì chủ muốn, nó không để thiếu thứ gì cho chủ, người mà nó yêu mến kính trọng. Tỉnh thức như thế cũng giống như bà mẹ rất quan tâm trông coi săn sóc nhà cửa với tâm tình yêu mến, để không một cái gì ở ngoài tầm tay âu yếm của bà. Gia đình sẽ không túng thiếu cái gì, dù có bất ngờ xảy đến.
Nước Thiên Chúa hiện diện trong mỗi biến cố của lịch sử cứu độ, nó không tỏ ra nơi những tiếng sụp đổ ầm ầm của những tai họa kinh hoàng, nó đi qua nhẹ nhàng vô cảm đối với những ai không lo đề phòng. Sau hết, ngôn ngữ thật của tỉnh thức mà Chúa đòi hỏi các môn đệ, đó không phải là thứ ngôn ngữ khá tinh tế sao?
RC
Suy niệm 6: Cầu nguyện và tỉnh thức
Nếu chúng ta chỉ còn có một ngày cuối cùng để sống, hẳn sẽ có nhiều điều trăng trối được nhắn gửi tới mọi người. Cũng vậy, nếu còn một ngày để làm việc, người ta sẽ làm nhiều chuyện tốt đẹp để lại cho đời và cho người.
Hôm nay, ngày cuối cùng của năm Phụng Vụ, Giáo Hội cũng muốn nhắn gửi chúng ta một thông điệp căn bản và quan trọng khi dùng đoạn Tin Mừng theo thánh Luca để nói về sự tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ cần thiết cho ngày Chúa đến, ngày đó là ngày cuối cùng của cuộc đời con người và nhân loại.
Tỉnh thức và cầu nguyện để biết phải làm gì cho xứng hợp với Nước Trời.
Cầu nguyện và tỉnh thức để loại bỏ những thứ không cần thiết như chè chén, say sưa, mê theo khoái lạc...
Nếu còn ngày cuối cùng thì hẳn chúng ta đừng lo lắng điều gì trần thế, mà hãy chuẩn bị cho tâm hồn thật thanh thoát để được vào chung hưởng hạnh phúc Nước Trời: "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức Công chính của Người, còn tất cả những cái khác, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33).
Chiếc lưới bất thần chụp xuống cho chúng ta thấy cái chết và số phận của mọi người: không ai thoát được nó. Tuy nhiên, sau đó được đem đi đâu mới là điều quan trọng. Vì thế, nó sẽ trở nên vui mừng cho những ai được đem vào nơi hạnh phúc và bình an. Ngược lại, sẽ là điều kinh hoàng và bất hạnh cho những ai bị loại ra ngoài.
Muốn được đem vào Nước Trời, thì hẳn phải tỉnh thức như chủ nhà canh trộm ban đêm; như đầy tớ mong ông chủ đi ăn cưới về; như năm cô trinh nữ khôn ngoan có đèn và dầu.
Khi cầu nguyện, chúng ta khỏi sa chước cám dỗ và có sức chiến đấu với ma quỷ; và cuối cùng, cầu nguyện để đón nhận được ơn thánh của Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trung tín với sứ điệp Lời Chúa. Sống bác ái yêu thương. Không bị vướng bận quá nhiều vào của cải ở đời. Sống vô vị lợi, không đòi hưởng thụ. Không để mình bị ngủ mê trong tội hay chạy theo các chủ trương duy vật, hưởng thụ, mà lãng quên những nhu cầu tâm linh và các giá trị siêu việt của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, mỗi ngày chúng con phải đối diện với cái chết. Xin cho chúng con biết chuẩn bị ngày đó đến với chúng con bằng thái độ tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Kitô hữu cần luôn tỉnh thức và cầu nguyện
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Không ai có thể biết trước ngày tận cùng của cuộc đời. Vậy người Kitô hữu cần luôn tỉnh thức và cầu nguyện, luôn trong tư thế sẵn sàng đón nhận phút giây đó.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy con sẵn sàng đón nhận ngày cánh chung. Ngày cánh chung đến vào lúc chẳng ai ngờ, có thể là ngày mai, hay năm tới, cũng có thể là sau khi con đã nhắm mắt xuôi tay. Để chuẩn bị biến cố bất ngờ ấy, con chỉ còn cách là luôn sẵn sàng, luôn thức tỉnh và cầu nguyện.
Cuộc sống hôm nay dễ khiến con sa đà mê muội. Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và các sản phẩm của nó đã tạo ra một lối sống xô bồ, chạy đua hưởng các tiện nghi. Người ta lo toan cho có được những lạc thú, dù có phải trả giá bằng sự cực nhọc vất vả, bằng sự bận rộn kéo dài. Giữa cảnh người người đôn đáo làm lụng sắm sửa, mấy ai đủ tỉnh thức để nghĩ tới ngày tận thế hoặc nghĩ tới nấm mồ của mình. Con mê muội cũng vì con ít cầu nguyện, ít vào nơi thanh vắng với Chúa. Mặc dù con không thể chạy một mạch thẳng tới nấm mồ của mình, nhưng cái chết lại có thể đến với con bất kể giờ phút nào. Phúc cho con nếu đó là lúc con đang tỉnh thức và cầu nguyện.
Lạy Chúa, con tha thiết xin Chúa gìn giữ con luôn ở trong tình yêu Chúa. Xin đừng để sóng đời lôi cuốn con đi, đừng để con lìa xa Chúa, quên cả ngày trở về với Chúa là nguồn cội của con. Xin Chúa thương cứu con trong giờ lâm tử. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy tỉnh thức, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến”.
Suy niệm 8: Chu toàn bổn phận đã được trao phó
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vào ngày 11/9/2001, cả thế giới kinh hoàng nhìn tháp đôi tòa nhà thương mại thế giới ở New York sụp đổ do hai chiếc máy bay Boeing 767 mà các tên khủng bố đâm vào. Biến cố kinh hoàng này đã làm cho cả thế giới thức tỉnh trước nạn khủng bố trên hành tinh chúng ta. Khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ và Tây Âu, mọi người luôn được nghe những lời kêu gọi chú ý cảnh giác ở tất cả những nơi công cộng như sân bay, nhà ga, sân vận động, xe bus, mêtro... ngay cả thùng rác.
Suy niệm
Đức Giêsu mạc khải về những dấu hiệu kinh hoàng vào ngày Chúa đến, ngày tận thế: Sẽ có những sự việc lạ xảy ra trong vũ trụ một cách toàn diện. Điều này cho thấy nếu chỉ dựa vào những biến cố riêng lẻ như trong các thời đại nhìn các biến cố xảy ra để đoán ngày tận thế là việc hoàn toàn sai lầm. Ngày Đức Giêsu trở lại để phán xét như Ngài loan báo là ngày Ngài hoàn tất tước hiệu Con Người (x. Lc 21,25-26).
Trước những điềm lạ xảy ra, nếu sống thức tỉnh, chúng ta sẽ không phải “lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ” (Lc 21,25), và cũng không “sợ hãi kinh hồn chờ đợi” (Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng dậy và ngẩng đầu lên” (Lc 21,28). Vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ như Đức Giêsu nhắn nhủ: “giờ cứu rỗi các con đã gần đến” (Lc 21,28). Cho nên, chúng ta hãy vững tâm và hy vọng, vì với người thức tỉnh, ngày đó sẽ là ngày “tạo dựng” một thế giới mới như Thiên Chúa loan báo trước qua ngôn sứ Isaia trong Cựu ước: “Trời mới Đất mới được tạo dựng sẽ tồn tại trước nhan Ta như thế nào, dòng dõi các con và tên các con cũng sẽ tồn tại như vậy!” (Is 65,17; 66,22). Thánh Gioan sau này đã được thị kiến nhìn thấy trời mới đất mới vào ngày tận cùng của thế giới, Ngài ghi chép lại: “Bây giờ tôi thấy một Trời mới và Đất mới; vì trời cũ và đất cũ đã qua đi. Sẽ không còn sự chết nữa; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa.”(Kh 21,1-4). Thánh Phêrô mời gọi chúng ta mong chờ Trời mới Đất mới mang tâm tình: “Hãy cố gắng hết sức để sống làm sao cho tinh tuyền, không vết nhơ tội lỗi và an bình trước mặt Chúa!” (2Pr 3,9). Sống hết sức là thể hiện sự trung tín đến cùng mà thánh Phaolô nói với chúng ta: “Chúng ta mong chờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra” và mong rằng: “Chúng ta bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Chúa Kitô, Chúa chúng ta ngự đến” (1Cr 1,6-9).
Mong đợi trong tỉnh thức, mà tỉnh thức là luôn ở tư thế “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”, là chu toàn bổn phận đã được trao phó (x. Lc 12,35-48). Tỉnh thức và cầu nguyện nghĩa là tâm tư nguyện cầu không ngừng, không nhàm chán hay nản chí (x. Lc 18,1).
Tỉnh thức như thánh Phaolô kêu mời: “Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: Không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tuông. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13,14) như Chúa Giêsu đã luôn cảnh tỉnh: “Chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng việc đời…” (Lc 21,34). Cho nên, chúng ta thoát khỏi sự bám rễ của đam mê vào thế gian mà ra đi đón Chúa với tấm lòng chờ đợi, trong tâm hồn thức tỉnh như thánh Gioan Chrysostome nhấn mạnh: “Với vũ khí của ánh sáng, chúng ta sẽ trở nên chói lòa hơn cả những tia nắng mặt trời”. Mặt Trời Công Chính, Đức Kitô trong ngày Ngài đến.
Ý lực sống
“Đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày” (Rm 13,13-14).
Suy niệm 9: Phải tỉnh thức và cầu nguyện
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi đã trình bầy và xác quyết về việc Chúa đến, hôm nay Đức Giêsu trình bầy cho chúng ta thái độ phải có để chờ đợi Chúa đến: đó là tỉnh thức và cầu nguyện. Chúng ta còn phải hiểu rộng ra việc Chúa đến: đó là Chúa đến trong hiện tại bằng ơn thánh, trong giờ chết của mỗi người và trong ngày cánh chung của toàn thể nhân loại. Trong ngày đó , người khôn ngoan đích thực sẽ cho là một ngày an vui hạnh phúc. Còn người khờ dại thì coi ngày đó là ngày báo oán. Chúng ta khôn hay dại? Hãy dùng quyền tự do mà định đoạt ngay từ bây giờ.
2. Đức Giêsu báo trước một điều bất ngờ: Ngày Con Người quang lâm và mỗi người sẽ ra trình diện với Người. Ngày đó là ngày nào? Không ai biết được vì chỉ có Chúa Cha mới biết. Để chuẩn bị cẩn thận cho ngày phán xét, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn: phải thường xuyên canh phòng tâm hồn mình cho khỏi mọi chước cám dỗ; phải liên lỉ cầu xin Chúa giúp sức cho mình được trung thành bền đỗ làm tôi Chúa, sống đẹp lòng Chúa đến giây phút cuối cùng. Vì ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu thoát.
3. Vì lý do Chúa đến cách bất ngờ và việc phán xét có tính cách nghiêm minh, không ai có thể thoát được như chiếc lưới bất ngờ chụp xuống, nên Chúa truyền lệnh phải đề phòng bằng cách tiêu cực và tích cự: tỉnh thức và cầu nguyện.
* Cách tích cực: Phải sống thanh thoát: “Các con phải đề phòng, chớ để lòng mình đắm say tửu sắc, đa mang sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu các con”(Lc 21,34). Nói khác đi, Chúa muốn chúng ta sống sứ điệp và giá trị Tin Mừng, không để lòng mình bị mê hoặc chạy theo các chủ trương duy vật, hưởng thụ, quá lo thu tích của cải như một bảo đảm an toàn cho cuộc sống mà quên lãng những nhu cầu tâm linh và các giá trị siêu việt của cuộc sống.
* Cách tích cực: “Các con phải tỉnh thức và cầu nguyện, để có đủ sức thoát khỏi những điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người”(Lc 21,36).
- Phải tỉnh thức: là ở trong tư thế tỉnh táo, cẩn thận để có thể đối phó kịp thời với mọi cảnh ngộ và sẵn sàng đón tiếp Chúa đến bất cứ lúc nào.
- Phải cầu nguyện: vì sức con người yếu đuối, và tự mình không làm được gì, nên cần phải cầu nguyện để cho được sức chống trả những cám dỗ, những thử thách, và bách hại để dễ dàng xứng đáng đón nhận Chúa: ”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.
4. Chúa bảo chúng ta phải đề phòng vì cái chết luôn luôn đến bất ngờ: “Chúng con hãy tỉnh thức vì chúng con không biết ngày nào giờ nào”. Đúng như vậy, tuy bất ngờ nhưng không hoàn toàn bất ngờ vì Chúa thương chúng ta, Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước cái chết để chúng ta kịp thời chuẩn bị.
Mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu; mỗi khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn, đó cũng là một tín hiệu; mỗi chiếc răng bị hư, đôi mắt mờ xuống, tay chân yếu đi, một chứng bệnh xuất hiện... tất cả đều là những tín hiệu.
Và quan trọng hơn nữa, đó là những tín hiệu mà Chúa gửi trước cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng giả mù giả điếc trước những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của chúng và chuẩn bị sẵn sàng.
5. Chúa đang đến trong từng biến cố cuộc sống, chứ không chỉ đến trong uy nghi của giáo đường; Ngài đến trong từng sinh hoạt hằng ngày của chúng ta, chứ không chỉ đến trong những phút cầu kinh, nguyện ngắm; Ngài nói qua những biến cố cuộc sống, Ngài hành động ngay cả khi chúng ta không tưởng nhớ đến Ngài. Ngài yêu thương dù chúng ta phản bội Ngài, Ngài tha thứ dù chúng ta quay mặt làm ngơ với Ngài. Ngài luôn có đó trong từng hơi thở của chúng ta. Xin Ngài cho chúng ta luôn tỉnh thức để nhận ra Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
6. Truyện: Hãy nghĩ về sự chết.
Một vị đan sĩ tên là Mésique bất trung với ơn gọi, ông đang sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng, Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đồng hồ ấy. Ông xin người ta cho ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở trong đó suốt 12 năm trời. Hằng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối.
Trước mặt các tu sĩ vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng: “Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ dám phạm tội”.
Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho mọi người một ấn tượng sâu đậm (Góp nhặt).
Suy niệm 10: Nghĩ đến lúc cuối cùng của lịch sử và của đời mình
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Đoạn Tin mừng này là một phần của diễn từ chung luận trong đó Chúa Giêsu nói tới những việc sẽ xảy ra vào những ngày cuối cùng. Chúa không dừng lâu ở việc mô tả các dấu chỉ, nhưng chú ý đến thái độ mà môn đệ Đức Giêsu phải có.
- Thái độ thứ nhất là chú ý tới việc quan trọng là đón Chúa đến: không nên để mình bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn bên ngoài để rồi lo chè chén say sưa hoặc chỉ lo chuyện sống chết, chỉ lo chuyện thế gian... và bất cứ lúc nào cũng nghĩ đến việc Chúa đến, dù cho có thình lình, đột ngột, họ cũng không ngỡ ngàng.
- Thái độ thứ hai là kiên trì trong việc cầu nguyện liên lĩ: cầu nguyện để xin Ngài mau đến, cầu nguyện để xin ơn đứng vững trước những xáo trộn bên ngoài.
B.... nẩy mầm.
1. Trong ngày cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội muốn chúng ta nghĩ đến lúc cuối cùng của lịch sử và của đời mình. Chúa dạy: để có thể bính an khi ngày cuối cùng ấy đến, chúng ta phải luôn nghĩ tới ngày đó và phải cầu nguyện luôn.
2. “Hãy giữ mình, kẻo lòng chúng con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời”: những thú vui vật chất và những lo lắng sự đời làm cho lòng con người ra nặng nề và quên đi điểm cuối của cuộc hành trình đời mình.
3. Ngày mai chúng ta không biết sẽ ra sao, ngày cuối đời lại càng mù mịt. Xin Chúa cho chúng ta biết sống từng giây phút hiện tại, sao cho luôn được Chúa chúc lành và được tình thương Chúa che chở, để ngày Chúa đến sẽ là ngày hạnh phúc cho chúng ta.
4. Cái chết thường đến một cách bất ngờ. Trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã nói rõ điều ấy “Chúng con hãy tỉnh thức vì chúng con không biết ngày nào giờ nào”. Đành rằng có nhiều người bệnh một thời gian khá lâu rồi mới chết, nhưng chẳng ai ngờ mình sẽ chết vào ngày này, giờ này.
Tuy bất ngờ nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ, vì Chúa thương chúng ta, Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước cái chết để chúng ta kịp chuẩn bị. Mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu; mỗi khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn, đó cũng là một tín hiệu; một chiếc răng bị hư, đôi mắt mờ xuống, tay chân yếu đi, một chứng bệnh xuất hiện… tất cả đều là những tín hiệu. Và quan trọng hơn nữa, đó là những tín hiệu mà Chúa gởi trước cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta. Vì thế chúng ta đừng giả mù giả điếc trước những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của chúng và chuẩn bị.
5. Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đống hồ ấy.
Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phóng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hàng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi:
- Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.
Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho một người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt).
Suy niệm 11: Thái độ phải có của môn đệ Chúa Giêsu
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Đoạn Tin Mừng này là một phần của diễn từ chung luận, trong đó Chúa Giêsu nói tới những việc sẽ xảy ra vào những ngày cuối cùng. Chúa không dừng lâu ở việc mô tả các dấu chỉ, nhưng chú ý đến thái độ mà môn đệ Đức Giêsu phải có.
- Thái độ quan trọng thứ nhất là phải chú ý tới việc đón Chúa đến: không nên để mình bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn bên ngoài, để rồi lo chè chén say sưa hoặc chỉ lo chuyện sống chết, hay chỉ lo chuyện thế gian mà quên lãng việc quan trọng này.
- Thái độ thứ hai phải có là luôn kiên trì trong việc cầu nguyện: cầu nguyện để xin Ngài mau đến, cầu nguyện để xin ơn đứng vững trước những xáo trộn bên ngoài.
Có một người đàn ông kia sống rất hạnh phúc và đầy đủ, tuy nhiên, ông vẫn cảm thấy lo sợ cho cuộc đời. Một hôm, ông nảy ra ý muốn, muốn đi tìm một ai đó chỉ cho ông biết, làm thế nào để cho ông chắc chắn là ông sẽ chiếm hữu được cuộc sống đời đời mai sau. Theo lời hướng dẫn, ông tìm ra được một tu sĩ có tiếng thánh thiện. Khi đến nơi, ông thưa với tu sĩ đó rằng:
- Thưa thầy, nếu biết rằng, chỉ còn sống có một ngày nữa thôi thì thầy sẽ làm gì?”
Đưa tay ra vuốt chùm râu bạc trắng, vị tu sĩ bình thản trả lời:
- Có gì đâu, sáng dậy đọc kinh, sau đó dùng chút trà rồi ra vườn tưới cây, đi thăm và dùng cơm với bạn bè rồi về ngủ.
- Đó là việc hằng ngày thầy vẫn làm mà. Con muốn hỏi ngày cuối đời kia mà?
- Đúng vậy! Ngày thường và ngày cuối đời có gì khác đâu.
2. Quả thực là chúng ta không biết ngày mai sẽ ra sao, và ngày cuối đời thì lại càng mù mịt hơn. Chính vì thế mà Chúa bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức.
Một tài xế xe buýt ở Hoa Kỳ đã chiếm một kỷ lục hiếm có trong suốt hai mươi ba năm hành nghề. Trên một triệu cây số, ông chưa bao giờ gặp hay gây ra một tai nạn nhỏ nào. Được hỏi lý do, ông trả lời: “Hãy nhìn đường!”. Câu trả lời tuy đơn sơ, nhưng chứa đựng cả một triết lý sống.
“Hãy nhìn đường!”. Có lắm người đi đường hoặc lái xe mà không nhìn đường. Tai nạn xảy ra hầu hết đều do sự lơ đễnh của người lái xe. Người bộ hành gặp tai nạn rủi ro có khi cũng do đi đường mà không nhìn vào con đường mình đang đi.
Chú tâm vào công việc mình đang làm, chính là luật của thành công. Một vận động viên trên sân cỏ sẽ không ngừng chú ý đến quả banh, đến đối phương, đến bạn đồng đội. Một học sinh muốn học giỏi cũng phải chú tâm theo dõi và lắng nghe lời giảng dạy. Một người mẹ trong gia đình phải chú tâm vào ngân quĩ gia đình, vào công việc hàng ngày. Đó là thái độ tỉnh thức mà chúng ta phải luôn có để khỏi quá ngỡ ngàng trước ngày Chúa đến gọi chúng ta.
Cái chết thường đến một cách bất ngờ. Tuy bất ngờ nhưng không phải hoàn toàn bất ngờ, vì Chúa thương chúng ta, nên Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều tín hiệu báo trước cái chết để chúng ta kịp chuẩn bị. Mỗi khi chúng ta thấy một người khác chết, đó là một tín hiệu; mỗi khi chải đầu thấy mái tóc mình bạc hơn, đó cũng là một tín hiệu; một chiếc răng bị hư, đôi mắt mờ xuống, tay chân yếu đi, một chứng bệnh xuất hiện… tất cả đều là những tín hiệu. Đó là những tín hiệu mà Chúa gởi trước cho chúng ta vì Chúa thương chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng giả mù giả điếc trước những tín hiệu tình thương ấy. Tốt nhất là đón nhận chúng, nhận ra ý nghĩa của chúng và chuẩn bị.
Một vị đan tu tên là Mésique bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Đột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đống hồ ấy. Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hàng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên đập phòng đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng, trước khi ra đi:
“Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.”
Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho một người mọi ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt).
Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Cha Piô, người được Chúa in năm dấu thánh:
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
Cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường. Amen.
01/12 Nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố
- Viết bởi Lc 21, 29-33
Nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 34 thường niên.
"Khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến".
Lời Chúa: Lc 21, 29-33
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ thí dụ này rằng: "Các con hãy xem cây vả và mọi thứ cây cối. Khi chúng đâm chồi nảy lộc, thì các con biết rằng mùa hè đã gần đến.
Cũng thế, khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo thật các con, thế hệ này sẽ chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi; nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Xem cây vả
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cây vả là một cây rất thường thấy ở xứ Paléttin.
Khi nó đâm chồi, người ta biết ngay đã vào mùa hè.
Rồi thì nó sẽ ra hoa và kết trái.
Không phải chỉ có cây vả, mọi cây khác cũng vậy (c.29).
Cứ nhìn tình trạng hiện tại của cây, ta biết được điều gì sắp xảy đến.
Nước Thiên Chúa cũng vậy.
Trước khi Nước Thiên Chúa đến sẽ có những dấu hiệu
ở trên trời, dưới đất hay ngoài biển khơi.
Đức Giêsu đã nhắc cho ta về những dấu hiệu đó (Lc 21, 11. 25-26).
Khi bắt đầu đi rao giảng cách đây hai ngàn năm,
Đức Giêsu tuyên bố: Nước Thiên Chúa đã đến gần (Mc 1, 15).
Và Nước ấy đã được khai mạc với chính con người Đức Giêsu.
Lời nói và việc làm của Ngài đã mở ra Nước ấy trên mặt đất.
Như hạt giống, Nước ấy đã không ngừng lớn lên cả ngày lẫn đêm,
đã ảnh hưởng mạnh mẽ như nhúm men trong đống bột,
và đã phải chịu sự tấn công của kẻ thù gieo cỏ lùng vào giữa lúa.
Với sự phục sinh của Đức Giêsu, Nước ấy chắc chắn sẽ đến.
Chắc chắn Nước Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang,
dù chúng ta không biết rõ khi nào, tuy sẽ có những điềm báo trước.
Ngày Nước Thiên Chúa đến cách huy hoàng trên trái đất
sẽ là ngày tận thế, ngày Đức Giêsu trở lại để phán xét mọi người.
Kitô hữu là người tin vào lời Đức Giêsu.
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua” (c. 33).
Chúng ta chờ đợi, vì chúng ta tin Đức Giêsu sẽ trở lại.
Sau hai ngàn năm chờ đợi và nỗ lực dựng xây,
ngày Đức Giêsu quang lâm đã gần hơn nhiều.
Biết đâu câu nói sau của Đức Giêsu
lại chẳng ứng nghiệm cho chính thế hệ chúng ta:
“Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.” (c. 32).
Không được để mình nguội lạnh và mất đi thái độ chờ đợi.
Không được để chiến thắng tạm thời của sự dữ ở đâu đó
khiến chúng ta mất đi lòng tin,
và những bách hại khiến ta mất đi lòng kiên trì cần thiết (Lc 21, 19).
Nước Thiên Chúa vẫn đến gần hơn mỗi ngày.
Không thiếu dấu chỉ để nhận ra Nước Thiên Chúa đang đến.
Chúng ta phải thấy có biết bao dấu chỉ tích cực, đầy hy vọng,
ngay giữa những khi tưởng như Nước ấy bị xóa sổ, loại trừ.
Đừng để mình rơi vào thái độ bi quan, khoanh tay vì chán nản.
Phải làm sao để ngày tận thế không phải là một ngày buồn,
ngày của những đổ vỡ và mất mát chia ly.
Phải làm sao để ngày ấy là ngày lịch sử nhân loại mở sang trang mới.
Đức Giêsu xuất hiện như Điểm Ômêga, Điểm đến của cả vũ trụ.
Con người và cả vũ trụ đều được hưởng ơn cứu chuộc (Rm 8, 19-23),
và Thiên Chúa Cha được tôn vinh.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện. Amen.
Suy niệm 2: Trời mới đất mới
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Vũ trụ có một chủ nhân. Và có một lịch sử. Chính Thiên Chúa là chủ nhân của vũ trụ và của lịch sử. Chúa cho phép vũ trụ tồn tại trong một thời gian. Và cho con người tự do sử dụng. Đến thời hạn, vũ trụ chấm dứt. Lịch sử không còn. Nhưng con người sẽ bị xét xử về cách sử dụng vũ trụ. Mọi sự đều sẽ qua đi. Nhưng Lời Chúa luôn tồn tại. Có từ trước muôn đời. Tồn tại đến muôn muôn thuở. Trước khi lịch sử chấm dứt và vũ trụ tiêu tan, sẽ có những biến cố kinh thiên động địa. Dường như thế lực trần gian muốn vùng dậy cố nắm lấy những giây phút cuối cùng.
Từ xa xưa Đa-ni-en đã tiên báo sẽ có những vua chúa trần gian xuất hiện. Ngày càng hung dữ hơn. Bốn con thú lần lượt xuất hiện. Con sau dữ tợn hơn con trước. Con cuối cùng thật là ghê gớm. “Con thú thứ tư đáng kinh đáng sợ và mạnh mẽ vô song; răng của nó bừng sắt và rất to. Nó ăn, nó nghiền, rồi lấy chân chà đạp những gì còn sót lại”. Nhưng rồi thời gian của nó chấm dứt. Quyền thống trị thuộc về Con Người: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một, vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (năm lẻ).
Gio-an cho biết những con thú đó chính là hiện thân của con Mãng Xà xa xưa. Lần này nó bị tiêu diệt vĩnh viễn. Thế lực sự dữ hết thời hạn tồn tại. Tất cả những ai đã chết đều sống lại để chịu xét xử. “Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách…Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa”. Tuy nhiên trời cũ đất cũ qua đi. Quyền lực trần gian không còn nữa. Nhưng sẽ xuất hiện trời mới đất mới. Xinh đẹp vô cùng. Hạnh phúc vô song. Vững bền thiên thu. Chính Thiên Chúa làm chủ (năm chẵn).
Ai theo con Mãng Xà. Thuộc về thế gian. Sẽ hưởng lợi đời này. Sẽ hối tiếc khi vũ trụ đời này qua đi. Và phải kinh hoàng khi đến trước toà xét xử của Chúa. Ai theo Chúa sẽ chịu thiệt thòi ở đời này. Nhưng đến ngày đời này tiêu tan. Sẽ vô cùng phấn khởi. Vì được giải thoát. Vì được đi vào trời mới đất mới. Được vĩnh viễn hưởng hạnh phúc bên Chúa. Tôi chọn chóng qua hay vĩnh cửu. Đời này hay đời sau. Con Mãng Xà hay Thiên Chúa?
Suy niệm 3: Dấu Chỉ Thời Ðại
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Người ta vẫn thường nói: có nguyên nhân mới phát sinh ra hậu quả. Trong thế giới vật chất này, chẳng có gì là ngẫu nhiên, có lửa thì có khói, các vật rắn chạm vào nhau sinh ra tiếng động.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhắc đến nguyên lý đó. Ngài dạy chúng ta phải biết nhìn vào các biến cố xẩy ra trong thời đại để nhận biết rằng Chúa đang đến: "Các con hãy xem cây vả cũng như các cây khác, khi cây đâm chồi, các con biết rằng mùa hè đã gần đến. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xẩy ra, các con hãy biết rằng Nước Thiên Chúa đã gần đến".
Theo Cha Lausade, Thiên Chúa nói với chúng ta bằng hai cách: hoặc bằng Lời Chúa trong Kinh Thánh, hoặc qua các biến cố xẩy đến trong đời sống thường ngày. Ðiều quan trọng là chúng ta phải quan tâm để nhận ra lời nhắn nhủ của Chúa. Tuy nhiên, chúng ta thường dễ nhận ra Kinh Thánh là Lời Chúa, là giáo huấn của Chúa, mà ít nhận ra các dấu chỉ thời đại cũng là Lời Chúa, là thánh ý Chúa, nói khác đi, chúng ta ít nghe được tiếng Chúa nói với chúng ta qua các tạo vật, qua niềm vui, nỗi buồn, qua cả những lầm lỗi của chúng ta.
Do đó, để có thể nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố, chúng ta cần phải có thái độ lắng nghe và yêu mến. Có những người không bao giờ đặt vấn đề: Tại sao tôi sống? Sống để làm gì? Chết rồi đi đâu? Người Kitô hữu chúng ta biết rõ ý nghĩa của cuộc đời, nhưng cũng cần chăm chú lắng nghe để nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống, vì đó là tiếng gọi của tình yêu mà chỉ những ai yêu mến Chúa mới nhận ra được.
Xin cho chúng ta nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, để chúng ta luôn hân hoan tiến bước và chu toàn thánh ý Chúa mỗi ngày, cho đến ngày chúng ta hưởng nhan Chúa trên Nước Trời.
Suy niệm 4: Cây vả không trái
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Cây vả là một loại cây rất thường thấy khắp nơi tại Thánh Ðịa, là một loại cây có tàn che mát, sai trái và thường được trồng trong vườn nho hoặc cũng để mọc cả những nơi đất cát sỏi đá bên vệ đường. Trong Tân Ước, chúng ta thấy cây vả nhiều lần được Chúa Giêsu nhắc tới, như Chúa đã thấy Nathanael ngồi dưới gốc cây vả trước khi Philipphê dẫn đến gặp Ngài, hoặc ví dụ về cây vả trồng trong vườn nho đã ba năm mà không sinh trái. Thánh Mátthêu cũng ghi lại bài giảng trên núi có đoạn viết như sau: "Cứ xem quả thì biết cây, có ai hái được quả nho trong bụi gai hay trái vả trong khóm nho sao?"
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ trên đường đi về Giêrusalem, Ngài nhìn thấy cây vả bên vệ đường. Ngài lên tiếng nguyền rủa cây vả không có trái để nói về tác động linh nghiệm của đức tin. Nhưng điều đặc biệt nhất của cây vả là khi thu đông về thì lá vả rụng hết trơn, cành khô cứng trơ cọng trông như đã chết khô không còn chút sức sống nào, nhưng bắt đầu mùa xuân sang, cây vả lại trổ lá sớm và cành lá sum suê nhất, hơn nữa nó lại sai trái và trái nó ra rất sớm, đàn chim trời hợp lại líu lo trên cành mang lại sinh khí và vui tươi trong thôn xóm.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mượn một hình ảnh tiên báo mùa hè sắp tới khi thấy cây vả cùng các loại cây khác nẩy lộc. Cây vả và những cây khác đâm chồi nẩy lộc là chuyện thường đối với dân cư trong thôn làng, nhưng thật ra nó đã gói ghém một niềm vui tràn trề của một mùa mới sắp đến. Những biến động trong xã hội và thế giới là những dấu chỉ của Nước Chúa đổi mới mọi sự, như chúng ta đã Suy niệm trong bài Tin Mừng hôm qua. Nếu từng giây phút của một năm qua chúng ta đã nhớ lại dấu ấn của hồng ân và tình thương của Chúa, thì chúng ta sẽ thấy hồng ân và tình thương ấy lớn lao đến chừng nào.
Ngày cuối cùng của năm phụng vụ sắp kết thúc và chúng ta sắp bước vào mùa Vọng, mùa trông chờ Chúa đến với ta, với vũ trụ và với nhân loại, một trời mới đất mới sẽ đến. Nước Thiên Chúa đang đến gần, mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Chúa và tình thương của Ngài mới bền vững muôn đời.
Lạy Chúa,
Con biết lấy gì tri ân Chúa. Suốt một năm qua biết bao nhiêu biến động đến với con, trong thôn làng con bao người đã được về cùng Chúa trong ánh sáng bất diệt. Nước Chúa, Nước của tình thương, của ơn Chúa, của an bình mà mỗi giây phút đều chung tiếng hoan ca ca tụng Ngài. Xin cho mỗi người chúng con biết nhận ra dấu tích tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con được kể là con dân trong Nước Thiên Chúa đời đời.
Suy niệm 5: Nước Trời lên ngôi
“Anh em cũng vậy, khi thấy những điều ấy xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Thầy bảo thật anh em: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.” (Lc. 21, 31-33)
Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo ngay bài mô tả cảnh sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu dùng lối văn khải huyền của Do thái tả cảnh tàn phá thành như những tai họa vũ trụ. Dùng thể văn này. Lu-ca không muốn nói với chúng ta về ngày tận thế. Ông muốn trình bày cho chúng ta về ngày sụp đổ của Giê-ru-sa-lem và thay thế Giê-ru-sa-lem là thời kỳ lên ngôi của nước trời. Sau khi đền thờ sụp đổ, thời đại Hội thánh bắt đầu, thời đại của nước trời bất diệt không bao giờ bị thay thế nữa, thời đại của giao ước mới và đời đời.
Mỗi khi có ngôn sứ đến loan báo tận thế, có lẽ vì chúng ta cần một sứ giả mới. Lúc đó mỗi người hoàn toàn phải tính toán “khi thấy cây cối đâm chồi”, mình phải xem “mùa hè đã đến gần” với mình chưa, vì không có ai khác tính toán thay cho mình được. Vả lại, mỗi người cư xử theo cách riêng của mình, chúng ta không có thể cư xử như họ. Chúng ta cũng không cần biết khi nào mặt trời và các tinh tú rơi xuống đầu chúng ta. Nhưng chúng ta biết chắc mỗi người là một vệ tinh, và dại dột thay, nếu tự mình lại làm cho mình bị nổ tung! Chúng ta còn có một sức mạnh tự động phá hủy khác vượt trên sức rung động của trái đất. Nhưng biết được khi nào những biến cố cuối cùng đó đến thì không quan trọng. Điều quan trọng là chắc chắn chúng sẽ xảy ra, và thế kỷ này chưa hết, thì đa số chúng ta đã qua đi theo với vòng quay của trái đất.
Điều cần thiết phải nhớ là chúng ta sẽ qua đi, nhưng lời Chúa nói không bao giờ qua đi. Nếu lời Chúa tồn tại đời đời, thì chúng ta phải cố gắng lắng nghe để được sống chứ đừng giả điếc làm ngơ kẻo chúng ta phải chết đời đời.
Nếu biết nhớ kỹ bài diễn văn này, một bàigiáo thuyết loan báo cho chúng ta biết tất cả mọi sự hiện tại sẽ có ngày chấm dứt. Vậy tốt nhất chúng ta hãy hết lòng trông cậy và đặt lời Chúa vào tận con tim của mình để sinh nhiều hoa trái trong khi đợi chủ về thu hoạch. Chủ sẽ thưởng công cho chúng ta: “Quả thật, quả thật, Tôi bảo thật các anh em, đến giờ và chính bây giờ những người chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai nghe thì sẽ được sống đời đời” (Ga. 5, 25)
RC
Suy niệm 6: Đứng thẳng và ngẩng cao đầu
Xem CN 33 TN B
Ở miền bắc nước ta, cứ vào độ tháng 1,2,3 âm lịch, các cây cối thường đâm trồi nẩy lộc sau một thời gian dài ngủ yên trong khí hậu mùa đông. Hình ảnh này báo hiệu cho biết mùa xuân ấm áp đã về để đẩy lui cái lạnh của mùa đông tiết giá.
Trong mùa xuân, người ta thường trồng cây cối. Bởi vì ở vào mùa này, khi trồng, cây không bị chột...
Hôm nay, Đức Giêsu dùng hình ảnh cây vả và các loài cây khác để diễn tả mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Cây vả là thứ cây quen thuộc trong Tin Mừng. Đức Giêsu đã nhắc đến nhiều lần về loại cây này, như: Chúa đã thấy Nathanaen ngồi dưới cây vả trước khi Philipphê dẫn đến gặp Ngài, hoặc thí dụ về cây vả trồng trong vườn nho đã ba năm mà không sinh trái. Thánh Matthêu cũng ghi lại bài giảng trên núi có đoạn như sau: “Cứ xem quả thì biết cây, có ai hái được quả nho trong bụi gai, hay trái vả trong khóm nho sao?”.
Hình ảnh cây vả được Đức Giêsu dùng trong bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến sự xuất hiện của Nước Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu là mùa xuân đến để loan báo lời Chân Lý của Thiên Chúa cho nhân loại. Những ai đón nhận Ngài cũng như Giáo Huấn của Ngài thì sẽ được đâm trồi nẩy lộc như cây cối mùa xuân.
Ai không tin, thì sẽ bị héo úa tàn phai. Nếu cây cối, nó luôn hướng về mặt trời như là sự khao khát cần tiếp nhận ánh sáng để quang hợp thế nào, thì mỗi chúng ta cũng cần phải đứng thẳng trong tư thế của người công chính, để nhạy bén tiếp nhận những lời Chân Lý của Chúa, ngõ hầu được sự sống đời đời như vậy.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đón nhận ơn Chúa trong cuộc sống. Nhạy bén với những dấu chỉ hiện tại. Hướng lòng về những chuyện tương lai. Hành động đón chờ phải là hành động của kẻ đứng thẳng và ngẩng cao đầu trong tư thế tỉnh thức và chờ đợi để đón nhận ơn Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được yêu mến Chúa. Xin cho con được sinh hoa kết quả nhờ được gắn liền với Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Dấu chỉ báo hiệu Chúa đang đến
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Các biến cố lớn nhỏ xảy ra trong thời đại là những dấu chỉ báo hiệu Chúa đang đến. Các dấu hiệu ấy chính là sứ điệp Chúa gửi đến chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dùng Lời Quyền Năng để sáng tạo vũ trụ. Lời Chúa có sức mạnh phi thường, là lời chân lý bền vững. Cho dù trời đất qua đi, nhưng Lời Chúa vẫn tồn tại. Hằng ngày, con nghe Lời Chúa, con khám phá sứ điệp Chúa gửi đến cho con. Nhưng nói đúng hơn: chính Chúa soi sáng và giúp con nhận ra tiếng Chúa kêu mời.
Nhưng lạy Chúa, Chúa nói với con không chỉ bằng Lời Chúa trong Thánh Kinh, nhưng cụ thể hơn, Chúa còn nhắn nhủ con qua các biến cố lịch sử và qua những sự việc xảy ra trong cuộc đời của riêng con. Con đã nhận ra những lời giáo huấn trong Thánh Kinh, nhưng ít khi nhận ra dấu chỉ thời đại.
Xin Chúa giúp con biết chăm chú lắng nghe tiếng Chúa nói qua các tạo vật. Từng biến cố xảy ra là từng sứ điệp Chúa gửi đến. Xin giúp con vui lòng đón nhận Lời Chúa qua niềm vui nỗi buồn của cuộc sống, vì Lời Chúa có sức mạnh giúp con vượt qua tất cả những trở ngại ấy. Và xin Chúa giúp con nhận ra tiếng Chúa qua những lỗi lầm vấp váp, như ánh sáng soi chiếu giúp con hiểu rõ thân phận yếu đuối mỏng dòn của mình, để mỗi ngày con càng tin vào Chúa hơn.
Lạy Chúa, con tin rằng tiếng Chúa tràn ngập yêu thương. Ước gì tiếng gọi tình yêu ấy thôi thúc con thực hiện điều Chúa muốn. Và ước gì vì yêu Chúa, con biết lắng nghe tiếng Chúa qua những người đại diện Chúa ở trần gian, như những ánh sáng cho cuộc sống hôm nay. Amen.
Ghi nhớ: “Khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến”.
Suy niệm 8: Dấu chỉ triều đại nước Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Ở Việt Nam, khi nghe tiếng chim ríu rít vang khắp thôn xóm, những cành mai thay lá đơm bông (ở miền Nam), những cây đào kết nụ mơn mởn (ở miền Bắc) như một lời hò hẹn gặp gỡ, các loại hoa ở khắp nơi trên quê hương mẹ khoe sắc như là tín hiệu báo mùa xuân đang về…
Dù không cần ai nói, nhưng mỗi người chúng ta đều cảm nghiệm được xuân đang đến theo lời mời gọi của thiên nhiên, của chu kỳ xoay vần đất trời.
Suy niệm
Tất cả mọi thứ Chúa dựng nên đều tuân theo một quy luật tự nhiên. Những tín hiệu của tiết trời báo cho chúng ta những khoảng thời gian cụ thể trong một năm: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Cây vả tới mùa đâm bông nảy lộc đó là dấu hiệu, biết mùa hè đã đến gần.
Sự hiện diện của Ðức Giêsu là dấu chỉ triều đại nước Thiên Chúa đã xuất hiện. Ðó là niềm vui cho những tâm hồn ngay chính. Hãy ngẩng đầu lên để đón mừng ngày vinh quang đã tới. Chúa Giêsu mượn hình ảnh cây vả và các cây khác đâm chồi nảy lộc để gói ghém niềm vui tràn trề của một mùa mới sắp đến: Thời kỳ đâm chồi nảy lộc để sinh hoa trái hầu được cứu độ trong ngày Chúa đến…
Thật thế, qua từng biến cố của cuộc đời, chúng ta hãy lắng nghe tiếng Chúa, để biết, nhận ra và thực thi ý Ngài. Nhờ đó chúng ta hiểu rõ ý nghĩa của cuộc đời: Sinh hoa trái. Cuộc đời mang những tín hiệu loan báo Đức Giêsu đang hiện diện.
Chính khi chúng ta nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc đời, chúng ta luôn hân hoan tiến bước và chu toàn thánh ý Chúa mỗi ngày: Như cây vả đâm chồi nảy lộc, chuẩn bị cho ngày Chúa quang lâm, ngày chúng ta hưởng nhan Chúa trên nước Trời.
Thật thế, nước Thiên Chúa đang đến gần...
Ý lực sống
“Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết,
thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống”. (Kh 2,10c)
Suy niệm 9: Dụ ngôn cây vả
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi giải thích cho các môn đệ về những điềm báo trước về việc Đền thờ và thành Giêrusalem bị sụp đổ, Đức Giêsu dùng dụ ngôn cây vả để chứng thực cho điều Ngài vừa dạy. Chúng ta biết mọi sự Chúa dựng nên đều tuân theo một quy luật tự nhiên của nó. Cũng vậy, cây vả đến mùa thì đâm bông nảy lộc, thì đồng thời cứ dấu hiệu đó, người ta biết mùa hè đã đến gần. Như vậy, khi thấy “những điều đó” (các thế lực gian tà lung lay) thì hãy biết triều đại Thiên Chúa sắp đến.
2. Đức Giêsu báo trước trong ngày tận thế, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Sẽ có những điềm lạ xẩy ra trên trời dưới đất làm mọi người kinh sợ. Dĩ nhiên các môn đệ muốn biết ngày nào viếc ấy xẩy ra, Nhưng Đức Giêsu không nói rõ mà chỉ đưa ra dụ ngôn về cây vả để báo trước ngày đó.
Những người ở ngoài Bắc chúng ta dễ hiểu điều Đức Giêsu nói đây. Cây cối cứ mùa đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái. Nhìn xem cây cối có thể biết thời tiết, hoặc nói đến hình thức cây cối người ta biết ở vào tháng nào, ví dụ:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa (Nguyễn Du, truyện Kiều)
Không cần phải có câu “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”, ai cũng biết ngay là đã cuối mùa xuân, sắp sang hạ.
3. Để diễn tả chân lý cho người nghe dễ hiểu, người ta thường dùng những ví dụ dựa vào những sự vật, biến cố, công việc trong đời sống thường nhật để giải thích. Ở đây, diễn tả biến cố Chúa đến trong ngày cánh chung, Đức Giêsu dựa vào hình ảnh cây vả cũng như cây khác, để làm nổi bật giáo huấn của Chúa về ngày cánh chung. Bên Thánh địa cứ vào tháng ba, cây vả nảy lộc bất luận trời nóng hay lạnh, hạn hán hay mưa lụt. Cứ thấy cây vả đâm chồi nảy lộc là biết gần đấn mùa hè.
Cũng một cách như cây vả là điềm báo mùa hè, thì khi thấy thiên tai xẩy ra cũng là điềm báo thành Giêrusalem bị sụp đổ, và do đó cũng là những điềm báo Nước Thiên Chúa đã gần đến, mà Matthêu (24,32-35) và Marcô (13,28-31) nói về biến cố cánh chung (Trần Hữu Thành).
4. Một lần nữa, Đức Giêsu khẳng định: “Còn về ngày hay giờ đó, thì dù các thiên sứ trên trời, hay cả Con Người đi nữa, cũng không ai biết được trừ một mình Chúa Cha mà thôi”(Mc 13,32). Đúng vậy, Đức Giêsu với tư cách là Thiên Chúa thì Ngài biết điều đó, nhưng với tư thế là con người nhân loại như chúng ta thì Ngài không biết.
Khi đượ hỏi bao giờ đến ngày tận thế? Thánh Augustinô đã trả lời dứt khoát: ”Việc này hoàn toàn nằm trong quyền hạn của Thiên Chúa”. Nơi khác, ngài còn nói: “Đức Giêsu không cho biết ngày của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người”.
Chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới nhưng chúng ta biết chắc chắn ngày ấy phải đến. Đó không phải là tai họa trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đó là ngày mà Thiên Chúa dọn sẵn cho chỗ ở mới, một thế giới mới cho nhân loại.
5. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tỉnh thức để đọc được ý nghĩa của từng biến cố cuộc sống. Mỗi biến cố xẩy đến là một dấu chỉ mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa: mỗi biến cố xẩy đến đều ẩn chứa một tiếng gọi của Ngài. Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biết đón nhận ơn Chúa trong cuộc sống. Nhạy bén với những dấu chỉ hiện tại. Hướng lòng về những chuyện tương lai. Hành động đón chờ phải là hành động của kẻ đứng thẳng và ngẩng cao đầu trong tư thế tỉnh thức chờ đợi để đón nhận ơn Chúa.
6. Truyện: Dấu chỉ thời đại.
Một nhà thám hiểm Tây phương lạc đường giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trong cát nóng. Thỉnh thoảng ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi.
Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông ta tự nghĩ rằng: “Đây chỉ là một ảo ảnh. Trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước chân tiếp tục đi.
Không bao lâu sau đó, có hai người du mục tình cờ đi qua lối đó. Họ bắt gặp một cái xác người. Một người trong họ đã thốt lên: “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này”?
Nhưng người bạn lắc đầu giải thích: “Ông ta là một người Tây phương. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng nên không nhận ra những dấu chỉ của Chúa”.
Suy niệm 10: Dấu chỉ triều đại Thiên Chúa sắp đến
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Khi thấy cây vả đâm chồi thì người ta biết mùa hè sắp đến; cũng thế, khi thấy “những điều đó” (các thế lực gian tà lung lay) thì hãy biết triều đại Thiên Chúa sắp đến.
B.... nẩy mầm.
1. “Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên: “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?”. Nhưng người bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.
Thảm trạng của con người thời đại: con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại.” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
2. Sự dẻo dai gan lì và lạc quan trong đời sống thiêng liêng: Giữa muôn vàn thử thách đau thương, người tín hữu không hẳn sẽ bị chết dí, nhưng có sức vươn dậy. Từ vài tín hiệu thật nhỏ nhoi, họ có khả năng nhìn ra những dấu chỉ tình thương cứu độ của Chúa đang đến gần.
3. Sự nhậy bén trong đời sống thiêng liêng: Có khả năng nhìn ra những tín hiệu loan báo tin vui. Nhìn ra ngay những chồi non và những con chim én loan báo mùa xuân: bắt được tín hiệu qua một nụ cười muốn làm hoà của người anh chị em vừa mới va chạm với ta. Nhìn ra thiện chí và sự đổi mới nơi những người ta thường ác cảm.
4. “Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần. Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra thì hãy biết là triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 21,30-31)
Phim truyện Tây Du Ký đã cho chúng ta thấy hình ảnh một bầy khỉ sống hạnh phúc trong động Hoa Quả. Trong lúc ăn uống no say thì có một con khỉ già ngã lăn ra chết. Cái chết của nó khiến cho bầy khỉ buồn bã và lo sợ không biết bao giờ mới đến phiên mình.
Vâng cuộc sống đầy đủ là dấu hiệu của hạnh phúc, nhưng cũng có thể là con đường dẫn đến đau thương, là mầm mống dẫn đến sa đoạ.
Tề Thiên, con khỉ đầu đàn đã phải lên đường tìm thuốc trường sanh. Con người cũng đang tìm cho mình sự sống vĩnh cửu. Theo quy luật của sự sống thì tôi phải chết. Khi tôi sinh ra là dấu hiệu tôi sẽ phải chết. Theo dòng thời gian, tôi lớn lên không thể tránh khỏi những bệnh tật. Đó là những dấu hiệu cảnh giác tôi. Về già, tôi cảm thấy yếu dần. Yếu dần là dấu hiệu tôi phải chết.
Nhưng với người kitô hữu, chết không phải là hết mà là cửa ngõ của sự sống, sự sống vĩnh cửu mà những dấu hiệu kia báo trước. Vậy tôi phải sẵn sàng, phải tỉnh thức để khỏi đánh mất sự sống đời đời.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhận ra những dấu hiệu của sự sống vĩnh cửu trong đời con, để đừng sống như đã chết. (Hosanna).
Suy niệm 10: Dấu chỉ triều đại Thiên Chúa sắp đến
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Khi thấy cây vả đâm chồi thì người ta biết mùa hè sắp đến; cũng thế, khi thấy “những điều đó” (các thế lực gian tà lung lay) thì hãy biết triều đại Thiên Chúa sắp đến.
B.... nẩy mầm.
1. “Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên: “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?”. Nhưng người bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.
Thảm trạng của con người thời đại: con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại.” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
2. Sự dẻo dai gan lì và lạc quan trong đời sống thiêng liêng: Giữa muôn vàn thử thách đau thương, người tín hữu không hẳn sẽ bị chết dí, nhưng có sức vươn dậy. Từ vài tín hiệu thật nhỏ nhoi, họ có khả năng nhìn ra những dấu chỉ tình thương cứu độ của Chúa đang đến gần.
3. Sự nhậy bén trong đời sống thiêng liêng: Có khả năng nhìn ra những tín hiệu loan báo tin vui. Nhìn ra ngay những chồi non và những con chim én loan báo mùa xuân: bắt được tín hiệu qua một nụ cười muốn làm hoà của người anh chị em vừa mới va chạm với ta. Nhìn ra thiện chí và sự đổi mới nơi những người ta thường ác cảm.
4. “Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần. Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra thì hãy biết là triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 21,30-31)
Phim truyện Tây Du Ký đã cho chúng ta thấy hình ảnh một bầy khỉ sống hạnh phúc trong động Hoa Quả. Trong lúc ăn uống no say thì có một con khỉ già ngã lăn ra chết. Cái chết của nó khiến cho bầy khỉ buồn bã và lo sợ không biết bao giờ mới đến phiên mình.
Vâng cuộc sống đầy đủ là dấu hiệu của hạnh phúc, nhưng cũng có thể là con đường dẫn đến đau thương, là mầm mống dẫn đến sa đoạ.
Tề Thiên, con khỉ đầu đàn đã phải lên đường tìm thuốc trường sanh. Con người cũng đang tìm cho mình sự sống vĩnh cửu. Theo quy luật của sự sống thì tôi phải chết. Khi tôi sinh ra là dấu hiệu tôi sẽ phải chết. Theo dòng thời gian, tôi lớn lên không thể tránh khỏi những bệnh tật. Đó là những dấu hiệu cảnh giác tôi. Về già, tôi cảm thấy yếu dần. Yếu dần là dấu hiệu tôi phải chết.
Nhưng với người kitô hữu, chết không phải là hết mà là cửa ngõ của sự sống, sự sống vĩnh cửu mà những dấu hiệu kia báo trước. Vậy tôi phải sẵn sàng, phải tỉnh thức để khỏi đánh mất sự sống đời đời.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhận ra những dấu hiệu của sự sống vĩnh cửu trong đời con, để đừng sống như đã chết. (Hosanna).
Suy niệm 11: Dấu chỉ của Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Kết thúc diễn từ về ngày tận thế, Chúa Giêsu nói thật rõ: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. (Lc 21,33)
1. Vâng, mọi sự rồi sẽ qua đi hết. Chỉ có Thiên Chúa mới đời đời.
Có một sự kiện mà ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy: Đó là ngày hôm nay, con người ít nhậy bén với những giá trị thiêng liêng.
Nhà giảng thuyết Payson nói: “Triệu chứng của sự suy thoái thiêng liêng cũng giống như sự suy thoái thân xác. Nó thường bắt đầu bằng việc không thích ăn và chê chán mọi thứ thực phẩm, như cầu nguyện, đọc Thánh Kinh và sách thiêng liêng. Khi nào có những triệu chứng đó, bạn hãy cẩn thận; sức khỏe thiêng liêng của bạn đang lâm nguy. Cần đến ngay vị Đại Y Sĩ là Thánh Linh để chữa trị”.
Một người giàu có nọ xây một toà nhà rất đầy đủ tiện nghi, có thể nói là ngoài sức tưởng tượng! Xây xong, ông mời bạn bè đến tham quan, và những người này đã không ngớt lời khen ngợi công trình tuyệt mỹ. Chính chủ nhà cũng tỏ ra không kém phần hứng khởi, và sau khi dọn đến ở trong ngôi nhà mới, ông đã bày ra mọi thứ trò tiêu khiển, đủ mọi lạc thú trên đời!
Ngày nọ, một người tôi tớ đáng kính của Thiên Chúa đến thăm và được ông chủ mời đi tham quan tòa nhà tráng lệ. Sau khi hướng dẫn vị khách đi xem xong, người chủ giàu có mới hỏi người của Thiên Chúa có ý kiến gì không. Vị này trả lời:
- Tòa nhà làm tôi rất hài lòng. Tuy nhiên, nó dư một cánh cửa! Ông cần bít cánh cửa này lại nếu ông muốn có một tòa nhà không chê vào đâu được và hạnh phúc lâu bền!
- Cánh cửa nào thế?
- Đó là cánh cửa mà có lẽ không bao lâu nữa đâu, người ta sẽ khiêng thi hài của ông đi qua. Ngày nào cánh cửa này còn mở, ngày đó hạnh phúc của ông trong lâu đài này sẽ không thể kéo dài, và cái gì không kéo dài được thì không có giá trị cao. Hãy biết rằng, thời gian đang qua đi này sẽ được tiếp nối bằng sự vĩnh cửu, cái sẽ không bao giờ qua đi!
Lời sách Khôn ngoan:
Tất cả sẽ qua đi như bóng câu vụt mất,
như mẩu tin khẩn cấp loan truyền.
Và cũng tựa con tàu đi trên sóng nước
ai còn thấy dấu vết khi nó đã băng qua?
Ai còn thấy lằn tàu trên sóng biển?
Như con chim bay lượn giữa bầu trời,
ai tìm được đường bay của nó?
Ðập đôi cánh trên làn khí nhẹ,
nó vỗ cánh lướt đi, vùn vụt băng ngang trời,
và rồi không còn một dấu vết đường bay.
Như khi mũi tên lao về đích,
trời xé ra, rồi lập tức khép lại
mà không ai biết nổi đường tên bay.
Cũng thế mà thôi, bọn chúng mình” (Kn 5,9-12).
2. Hãy biết khôn ngoan nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa.
Khi thấy cây vả đâm chồi thì người ta biết mùa hè sắp đến; cũng thế, khi thấy “những điều đó” (các thế lực gian tà lung lay) thì hãy biết triều đại Thiên Chúa sắp đến.
Khi nói điều này Chúa Giêsu muốn nói đến vai trò dấu chỉ trong đời sống của chúng ta.
Theo cha Lausade, Thiên Chúa nói với chúng ta bằng hai cách: hoặc bằng Lời Chúa trong Kinh Thánh, hoặc qua các biến cố xảy đến trong đời sống thường ngày. Điều quan trọng là chúng ta phải quan tâm để nhận ra lời nhắn nhủ của Chúa. Chúng ta thường dễ nhận ra Kinh Thánh là Lời Chúa, là giáo huấn của Chúa, mà ít nhận ra các dấu chỉ thời đại cũng là Lời Chúa, là thánh ý Chúa. Nói khác đi, chúng ta ít nghe được tiếng Chúa nói với chúng ta qua các tạo vật, qua niềm vui, nỗi buồn, qua cả những lỗi lầm của chúng ta.
Năm 1937, nữ tu Têrêsa được cử làm giám đốc của một trường trung học dành riêng cho các học sinh giàu tại Calcutta. Nữ tu vẫn còn nhớ mãi lời căn dặn của mẹ mình:
“Con hãy nhớ rằng: con được gởi đến Ấn Độ là để phục vụ người nghèo”. Trước cảnh đói khổ của dân chúng, trước cảnh cô đơn của các bệnh nhân, những người phong cùi và nhất là trước cảnh trẻ em và những người già cả lê lết ngoài đường phố, nữ tu Têrêsa cảm thấy không yên tâm để tiếp tục nghề thầy giáo của mình, nhất là thầy giáo cho học sinh giàu nữa.
Ngày 10.07.1946. trên một chuyến xe lửa chật chội, ngồi bên những người cùng khổ, nữ tu Têrêsa bỗng nghe như có tiếng thì thầm trong lòng:
“Con hãy ra khỏi nhà dòng để phục vụ người nghèo bằng cách đến ở với họ, sống giữa họ và như họ”.
Đây là lần thứ hai chị nghe tiếng gọi như thế. Xác tín rằng: đây là tiếng gọi của Chúa, chị đã trình bày ước nguyện lên bề trên và đúng một năm sau, chị đã được bề trên và Đức Giám Mục bản quyền địa phương cho phép ra khỏi dòng để sống với những người nghèo khổ.
Cởi bỏ chiếc áo dòng của các nữ tu, chị choàng vào chiếc áo Sari cổ truyền Ấn Độ, ăn mặc giống như người nghèo, nữ tu Têrêsa đã hoàn toàn trở thành một người nghèo giữa những người nghèo.
30/11 Ngư phủ lưới người
- Viết bởi Mt 4, 18-22
Ngư phủ lưới người.
Thứ Năm tuần 34 thường niên – THÁNH ANRÊ, TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
"Các ông bỏ lưới mà đi theo Người".
* Thánh Anrê quê ở Bétsaiđa. Ban đầu người là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó theo Chúa Kitô. Người cũng đã dẫn em là thánh Phêrô đến gặp Chúa. Chính người cùng với thánh Philipphê đã giới thiệu những người ngoại giáo với Chúa Kitô và đã cho biết có một em bé mang theo bánh và cá khi những người nghe Chúa giảng không có gì ăn. Sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, người đã đi loan báo Tin Mừng ở nhiều nơi và đã bị đóng đinh thập giá ở A-khai-a.
LỜI CHÚA: Mt 4, 18-22
Khi ấy, nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người.
Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Thánh Anrê, Tông Đồ--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
2. Thánh Anrê, Tông Đồ--TGM Giuse Nguyễn Năng
3. Thánh Anrê, Tông Đồ--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
4. Thánh Anrê Tông đồ--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
5. Thánh Anrê, Tông Đồ--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
6. Thánh Anrê, Tông Đồ--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
7. Thánh Anrê--Lm. Nguyễn Hưng Lợi 8
8. Tông đồ trước nhất, Anrê-- J.M
9. Thánh Anrê tông đồ--Phó Tế Huỳnh Mai Trác
10. Thánh Anrê tông đồ--giaophanvinhlong.net
11. Chân dung Thánh Anrê Tông đồ--Trầm Thiên Thu
12. Ơn gọi và sứ mạng--Nt. Anna Nguyễn Thị Nguyện
13. Thánh Anrê, tông đồ--Minh An
14. Thánh Anrê, tông đồ--tinvuixuanloc.vn
15. Ước mơ thăng tiến--giesu.net
16. Thánh Anrê tông đồ--Giáo Phận Phú Cường
17. Thánh Anrê tông đồ--giaophanvinhlong.net
18. Ơn gọi tuyệt vời--nhathothaiha.net
19. Noi gương thánh Anrê theo Chúa rao giảng Tin mừng--Đaminh Trần Văn Chính
20. Thánh Anrê con người khiêm tốn
21. Từ bỏ để chọn lựa
22. Thánh Anrê, Tông Đồ
23. Thánh Anrê tông đồ
24. Dám hy sinh chính mình
1.Thánh Anrê, Tông Đồ--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Như một sự tình cờ, lúc đang đi dọc theo bờ hồ Galilê,
Đức Giêsu thấy bóng dáng các anh đánh cá quen thuộc.
Hẳn họ đã có lần nghe Ngài giảng và thấy Ngài chữa lành bệnh nhân.
Đức Giêsu yên lặng nhìn các anh làm việc.
Họ đang quăng lưới bắt cá hay ngồi trong khoang vá lưới với cha.
Cảnh tượng rất đời thường và ấm áp.
Đẹp biết mấy chuyện con người làm việc chung với nhau.
Sau này họ sẽ biết cách làm việc với nhau trên con thuyền Giáo Hội.
Chúa Giêsu hôm nay cũng thấy tôi.
Tôi thế nào, Ngài thấy tôi thế ấy.
Cái nhìn của Ngài không làm tôi bị tê liệt, nhưng cho tôi tự do.
Ngài chấp nhận trọn vẹn con người tôi, cả tội lỗi và yếu đuối.
Chẳng cần son phấn, tôi thu hút Ngài bằng cái mộc mạc của tôi.
Ngài gặp tôi hôm nay lúc tôi đang mải mê làm một việc gì đó.
Ngài gặp tôi giữa cái vất vả kiếm sống của đời thường.
Hạnh phúc cho người nào được thấy Thiên Chúa (Mt 5, 8),
và cũng thật hạnh phúc cho người nào được Thiên Chúa thấy.
“Các anh hãy theo tôi”: đây là một lời mời dành cho mọi Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu khởi đi từ tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Người Do Thái thường tầm sư học đạo,
còn ở đây, chính Thầy Giêsu đi chọn môn đệ cho mình (Ga 15, 16).
Ngài mời ta đi theo chính con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý tưởng cao đẹp hay một dự án hấp dẫn.
“Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới con người.”
Một cuộc đổi đời thực sự, từ lưới cá đến lưới con người.
Con người của mọi dân tộc là mối bận tâm của Thiên Chúa.
Theo Chúa Giêsu là chia sẻ nỗi thao thức của Ngài về nhân loại,
và đồng lao cộng khổ với Ngài trong sứ mạng cứu độ thế giới.
Simon và Anrê đã bỏ chài lưới, Giacôbê và Gioan bỏ thuyền và cha.
Sự từ bỏ nào cũng gây ít nhiều xót xa đau đớn.
Biển cả, sóng nước, thuyền bè, lưới cá, người cha, người vợ:
biết bao giá trị phải bỏ lại, những người tôi đã và vẫn còn yêu mến.
Từ bỏ chỉ khả thi nếu tôi gặp một giá trị cao hơn, một tình yêu lớn hơn.
Chúa không đòi mọi người phải sống đời tu, nhưng đòi phải từ bỏ mình.
Từ bỏ đơn giản là đặt Thiên Chúa lên trên mọi thụ tạo khác,
là chọn Giêsu trong giây phút hiện tại, là đón lấy cái bấp bênh.
Bốn anh ngư phủ đã lên bờ để đi theo một ông thợ mộc bỏ nghề.
Đời họ đã sang một trang mới.
Hôm nay Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi như một sự tình cờ.
Ngài vẫn thấy, vẫn gọi, để tôi bỏ và đi theo.
Không thấy và gọi, thì cũng chẳng ai từ bỏ và đi theo.
Tiến trình này được lặp lại nhiều lần, làm nên hành trình Kitô hữu.
Hôm nay tôi mong theo Chúa hơn hôm qua, và ngày mai hơn hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. Amen.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
2.Thánh Anrê, Tông Đồ--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa mời gọi: “Hãy theo Ta”. Các môn đệ đã đáp trả cách quảng đại và dứt khoát. Ta hãy lắng nghe và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi cùng với Giáo Hội mừng lễ thánh An-rê, con xin tạ ơn Chúa, vì Chúa cho con được tiếp tục chương trình cứu thế của Chúa. Nhìn lại ơn gọi của các tông đồ ngày xưa, con nhớ lại ơn gọi Kitô hữu của chính mình hôm nay. Con tạ ơn Chúa đã gọi con và chọn con gia nhập vào đoàn dân của Chúa, dù rằng Chúa biết con rất bé nhỏ, tầm thường.
Lạy Chúa, được trở thành người Kitô hữu là niềm hạnh phúc lớn cho con. Và con biết rằng một khi đáp lại tiếng Chúa là chấp nhận bỏ lại sau lưng những gì ngăn trở con đến với Chúa và theo Chúa. Thế nhưng, có nhiều lúc con đã bất trung, không sống xứng với ơn gọi và sứ mạng Chúa trao. Thời gian đã làm nhạt nhòa tình yêu Chúa trong tim con. Và những vui thú, đam mê, cùng bao nỗi lo lắng, đã làm con quên mất sứ mạng Chúa trao. Lạy Chúa, xin Chúa thứ tha cho con. Xin Chúa luôn làm nóng lại tình yêu và lòng nhiệt thành trong con, để con luôn trung thành với tiếng Chúa gọi.
Con cũng cầu xin cho những người trẻ hôm nay, khi sống giữa bao quyến rũ của thế trần, họ biết lắng nghe và quảng đại đáp lại tiếng Chúa cách mau mắn, biết hiến dâng cuộc đời tươi đẹp của mình để phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em. Amen.
Ghi nhớ: “Các ông bỏ lưới mà đi theo Người”.
3.Thánh Anrê, Tông Đồ--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
ANRÊ tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh ANRÊ được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như anh mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài:
- Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người ta.
Đây không phải lần đầu ANRÊ đã gặp đấng cứu thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói:
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Và ANRÊ có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng thiên sai mong chờ. Gioan và ANRÊ lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ: - Các anh tìm chi vậy?
Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại:
- Thưa Thầy, thày ở đâu?
Chúa Giêsu nói: - Hãy đến mà xem.
Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi trở về nhà ANRÊ đã nói với anh mình: - Chúng tôi đã gặp được Đấng thiên sai.
Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tông thờ Đấng cứu thế ở trong lòng rồi.
Ở tiệc cưới Cana, ANRÊ đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
ANRÊ đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc Phúc âm những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính ANRÊ đã nói:
- Có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy thì thấm vào đâu đối với ngần này người (Ga 6,8 -9) .
Và Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở Gierusalem, Ngài còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người. Ngài đã nghe loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đã sung sướng gặp lại Thày chí thánh. Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật trên của Phúc âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về ANRÊ. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày. Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh ANRÊ ở Taurida.
Egêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư? Nhưng ANRÊ không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:
- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ong đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Egêa vặn lại: - Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không hề sợ sệt, ANRÊ như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một đau khổ giá như thày mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Egêa:
- Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy:
- Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới thầy chí thánh là Đấng đã nhờ Người mà cứu chuộc Ta.
Dịu dàng ANRÊ giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúngvây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói: - Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng ANRÊ không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện: - Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền thánh ANRÊ đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV... người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh ANRÊ.
4.Thánh Anrê Tông đồ--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Đức Giêsu bắt đầu chức vụ công khai bằng rao giảng Tin mừng về Nước Thiên Chúa. Tin mừng này rõ ràng ngày càng liên hệ đến bản thân và chức vụ của Ngài. Thời gian tại thế ngắn ngủi mà ý định mà mọi người khắp thế giới phải được nghe Tin mừng cứu độ. Vậy việc gọi và chọn môn đệ để huấn luyện và sai đi là cần thiết.Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên vào thời gian trước ngày rao giảng và làm phép lạ tại Capharnaum. Các ông này là những người bình thường chuyên nghề đánh cá, tính tình thì mộc mạc dễ thương, không có cao vọng.
Chúa gọi Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan
Từ Giuđêa trở về, các ông lại tiếp tục công việc thường nhật của các ông là đánh cá. Chính trong lúc đang hành nghề mà Chúa đã kêu gọi các ông. Các ông sinh sống bằng nghề đánh cá ở Biển hồ: dài 21 cây số và rộng 12 cây số, mang nhiều tên khác nhau: Biển hồ, hồ Gênêsareth hoặc biển hồ Tiberiade. Gọi là Tiberiade, vì vua Antipas muốn lấy lòng vua Tibère nên khi xây một thành phố ở Biển hồ đã lấy tên Tibère mà đặt. Tại đây, khi nghe tiếng Chúa gọi, các ông đã bỏ tất cả mà đi theo Chúa.
Cách thức Chúa gọi
Chúa gọi các ông cách gọn gàng và đơn sơ: “Hãy theo Ta”. Vừa nghe, chúng ta thấy 4 ông này tưởng chừng bị thôi miên, vừa nghe một tiếng nói đã đứng lên theo ngay, không suy nghĩ, không tính toán.
Thật ra, bốn ông này không xa lạ gì với Chúa Giêsu. Ít ra, hai người đã biết Chúa Giêsu lúc ông Gioan Tẩy giả giới thiệu cho Anrê và Gioan khi Chúa Giêsu đi ngang qua “Đây là Con chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian”. Hai ông nghe xong liền đi theo Chúa Giêsu, đàm đạo với Ngài từ 4 giờ chiều tới tối. Sau đó, ông Anrê lại giới thiệu Simon cho Chúa Giêsu và Chúa đã nói với Simon: “Ngươi sẽ được gọi là Kê-pha” nghĩa là Đá.
Ta có cảm giác như Đức Giêsu có cái nhìn hết sức lôi cuốn. Ngài không nói: “Ta có một hệ thống thần học muốn đầu tư vào các ngươi, Ta có một số triết thuyết muốn các ngươi suy nghĩ, Ta muốn được thảo luận với các ngươi”. Nhưng Ngài chỉ phán: “Hãy theo Ta”. Tất cả đều bắt đầu bằng một xúc động từ thâm tâm, làm nảy sinh lòng trung thành không gì lay chuyển nổi.
Nói thế không có nghĩa là một khi đã theo Chúa Giêsu chẳng có ai suy nghĩ gì cả, nhưng phần đông chúng ta, theo Chúa Cứu thế như là “phải lòng”, là bắt đầu yêu vậy.
5.Thánh Anrê, Tông Đồ--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
I. GƯƠNG THÁNH NHÂN
Thánh An-rê, em thánh Phê-rô, là người đầu tiên trong Mười Hai Tông đồ đã biết Chúa Giê-su, ngay sau khi Người chịu phép rửa ở sông Gio-đăng, lúc ngài còn là môn đệ của Gioan Tẩy giả.
* Phúc âm kể như sau: “Hôm đó, ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông, thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: - Đây là Chiên Thiên Chúa.
Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: - Các anh tìm gì thế?
Họ đáp: - Thưa Ráp-bi (nghĩa là Thưa Thầy) Thầy ở đâu?
Người bảo họ: - Đến mà xem.
Họ dã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng 4 giờ chiều (Ga 1,35-39).
Và sau khi ở lại với Chúa Giê-su, ngài đã giới thiệu Chúa cho anh mình trước tiên:
- Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a (nghĩa là đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn anh mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Gê-su nhìn ông Si-mon, và nói:
- Anh là Si-mon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kê-pha (tức là Phê-rô) “ (Ga 1,40-43).
* Trong phép lạ Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều, thánh nhân là người lên tiếng thưa với Chúa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6,9).
* Và ở Giê-ru-sa-lem, khi những người Hy-lạp xin gặp Chúa Giê-su, ông là người đãgiới thiệu họ với Chúa (Ga 12,22).
Tương truyền sau khi Chúa về trời, thánh nhân đã loan báo Tin mừng ở Giê-ru-sa-lem, Giu-đê và Ga-li-lê. Sau đó ngài đến giảng đạo ở vùng Biển Đen và Hy-lạp và chịu tử đạo tại đây.
Khi bi điệu ra nơi hành hình, vị Thẩm phán ôû Pa-tra đe dọa: - Nếu ngươi không dâng hương tế thần, ngươi cũng sẽ phải chết treo trên khổ giá như thế.
Thánh nhân chẳng những không sợ mà còn vui mừng nói: - Chết treo trên khổ giá, đó là hạnh phúc lớn nhất của tôi vì được chết giống Thầy chí Thánh của tôi.
Viên tổng trấn nổi giận, truyền đem treo ngài lên thập giá cho chết. Khi nhìn thấy thập giá mà ngài sẽ bị treo lên, Ngài chào mừng và nói: - Ôi Thánh giá là nơi Chúa chịu chết chuộc tội loài người, tôi đã quý mến ngươi từ lâu. Ngươi hãy giúp tôi đến gặp Chúa Giê-su là Thầy Chí Thánh của tôi.
Lý hình cột treo ngài lên thập giá. Từ trên cao, ngài kêu gọi mọi người hãy tin thờ Chúa rồi gục đầu tắt thở.
II. BÀI HỌC
* Chúng ta học được bài học gì qua cuộc đời của Thánh An-rê? Có nhiều bài học nhưng có lẽ bài học thực tế nhất đó là bài học biết quan tâm đến người khác.
Gặp được Chúa Giêsu, An-rê đã nghĩ ngay đến anh mình.
Trong hoang địa khi Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ tìm của ăn cho dân chúng ăn, một mình An-rê đã nhanh chóng thấy được một em bé có 5 chiếc bánh và hai con cá.
Tại Giêrusalem, những người Hy Lạp đang băn khoăn không biết làm sao để có thể gặp được Chúa, An-rê đã có mặt để dẫn họ đến với Chúa.
Tin mừng chỉ ghi lại có ba lần như thế nhưng với ba lần đó chúng ta cũng có thể thấy được An-rê là con người tốt như thế nào.
* An-rê đã sống như thế, còn chúng ta thì sao? Không biết ngày nay chúng ta có sống được như thế hay không? Hình như là ngày nay con người nghĩ đến mình nhiều hơn nghĩ đến người khác. Việc biết quan tâm đến những người khác người đã trở thành hiếm hoi. Thế giới ngày nay với cuộc sống hướng nhiều về hưởng thụ đang làm cho con người chỉ muốn vun quén cho mình mà không biết đến người khác.
Có một ông Vua nọ bị dân gán cho một căn bệnh hiểm nghèo, đó là “Tứ chứng nan y” gồm: Mù, què, câm, điếc.
Một hôm, một người vào cung Vua, yết kiến. Vua hỏi:
- Nhà ngươi vào gặp Ta chắc có chuyện gì?
- Tâu Bệ Hạ -người đó thưa lại- hạ thần nghe rằng Bệ Hạ đang mang một căn bệnh rất hiểm nghèo là “Tứ chứng nan y” nên hạ thần vào thăm Bệ Ha.
Nghe thế, Nhà vua liền nổi giận quát: - Kẻ nào dám bịa đặt bảo ta bị bệnh? Chân tay mắt mũi ta lành lặn thế này mà bảo ta mù, què, câm, điếc sao?
Người kia liền tâu: - Thần nghe thiên hạ đồn như vậy, nay gặp Vua mới biết sự thực. Nhưng xét lại, thì tin đồn ấy cũng chẳng sai.
Nhà vua chặn lời và nói: - Vậy ngươi hãy chỉ cho ta xem nào!
- Tâu Bệ Hạ, thứ nhất dân kêu kiện nhiều mà Bệ Hạ không thèm trả lời, không giải quyết, nên bọn họ tưởng Bệ Hạ bị câm.
Thứ hai, giặc ngoại bang tràn lan muốn xâm chiếm đất nước, nhân dân hoang mang lo sợ, kêu cầu nhà Vua mà vua không lo gì hết, nên họ tưởng là nhà Vua họ bị điếc.
Thứ ba, cuộc sống của Bệ Hạ thì quá sung sướng, trên nhung lụa, còn ngược lại, dân chúng sống trong cùng cực, đói khổ. Họ không hề thấy Bệ Hạ dòm ngó gì đến họ, cũng chẳng thèm quan tâm lo lắng đến đời sống của họ, nên họ tưởng Bệ Hạ bị đui.
Và cuối cùng, vì họ không bao giờ thấy Bệ Hạ ra khỏi cung điện, mà ngày đêm chỉ biết ăn chơi với các cung phi, nên họ tưởng là Bệ Hạ bị què!
Chúng ta hãy xin với thánh An-rê điều chỉnh lại cuộc sống của chúng ta.
Diễn giả Leo Buscaglia lần nọ có kể về một cuộc thi mà ông là giám khảo. Mục đích của cuộc thi là tìm ra đứa trẻ biết quan tâm nhất. Người thắng cuộc là một em bé 4 tuổi.
Người hàng xóm của em là một ông lão vừa mất vợ. Nhìn thấy ông khóc, cậu bé đến sân nhà ông, lại gần, rồi leo lên ngồi vào lòng ông và cứ ngồi mãi như thế. Khi mẹ em hỏi em đã trò chuyện những gì với ông ấy, cậu bé trả lời: “Không có gì đâu ạ. Con chỉ để ông khóc!”
6.Thánh Anrê, Tông Đồ--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
I. GƯƠNG THÁNH NHÂN
Thánh An-rê, em thánh Phêrô, là người đầu tiên trong Mười Hai Tông đồ đã biết Chúa Giêsu, ngay sau khi người chịu Phép rửa ở sông Giođan, lúc ngài còn là môn đệ của Gioan Tẩy giả.
Phúc âm kể như sau: "Hôm đó, ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói:
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: - Các anh tìm gì thế?
Họ đáp: Thưa Rápbi (nghĩa là Thưa Thầy) Thầy ở đâu?
Người bảo họ: - Đến mà xem.
Họ dã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng 4 giờ chiều (Ga 1,35-39).
Và sau khi ở lại với Chúa Giêsu, ngài đã giới thiệu Chúa cho anh mình trước tiên:
Chúng tôi đã gặp Đấng Messia (nghĩa là đấng Kitô). Rồi ông dẫn anh mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simon, và nói:
- Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha (tức là Phêrô) " (Ga 1,40-43) .
Nhưng thánh nhân chỉ được Chúa chính thức gọi theo Người lúc đang thả lưới với anh là Phêrô, ở biển hồ Tibêria. Người gọi các ông trong hoàn cảnh sau đây:
Người đang đi dọc biển hồ Galilê thì thấy hai anh em kia, là ông Simon cũng gọi là Phêrô, và người em là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển. Vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông:
- Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.
Lập tức các ông bỏ chài lưới mà đi theo Người" (Mt. 4,18-20).
Trong phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều, thánh nhân là người lên tiếng thưa với Chúa: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!" (Ga 6,9).
Và ở Giêrusalem, khi những người Hy Lạp xin gặp Chúa Giêsu, ông là người đã giới thiệu họ với Chúa (Ga.12,22).
Tương truyền sau khi Chúa về trời, thánh nhân đã loan báo Tin mừng ở Giêrusalem, Giuđê và Galilê. Sau đó ngài đến giảng đạo ở vùng Biển Đen và Hy Lạp và chịu tử đạo tại đây.
Người ta bắt ngài đem nộp cho quan tổng trấn ở Patra. Viên nầy bảo ngài tế thần thì ngài nói: - Thần của các ông là ma quỷ xấu xa không nên thờ. Chỉ phải thờ Thiên Chúa là Vị Thẩm phán có quyền xét xử mọi người.
Tổng trấn hỏi lại:
- Vị Thẩm phán anh nói là Giêsu bị đóng đinh treo trên khổ giá đó phải không? Nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết treo trên khổ giá như thế.
Thánh nhân chẳng những không sợ mà còn vui mừng nói:
- Chết treo trên khổ giá, đó là hạnh phúc lớn nhất của tôi vì được chết giống Thầy chí Thánh của tôi.
Viên tổng trấn nổi giận, truyền đem treo ngài lên thập giá cho chết. Khi nhìn thấy thập giá mà ngài sẽ phải bị treo lên, Ngài chào mừng và nói:
- Ôi Thánh giá là nơi Chúa chịu chết chuộc tội loài người, tôi đã quý mến ngươi từ lâu. Ngươi hãy giúp tôi đến gặp Chúa Giêsu là Thầy Chí Thánh của tôi.
Lý hình cột treo ngài lên thập giá. Từ trên cao, ngài kêu gọi mọi người hãy tin thờ Chúa rồi gục đầu tắt thở.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã khen ngợi thánh An-rê tông đồ, ngài nói: "Sau khi ở lại với Đức Giêsu và học cùng Người được nhiều rồi, An-rê đã không giấu kho tàng quý báu nơi mình, nhưng vội vàng chạy đến anh mình và chia sẻ với anh…
Những điều ông đã học trong thời gian rất vắn kia, ta có thấy ông đã nói lên thế nào không? Ông vừa tuyên xưng uy thế của Thầy, một uy thế hấp dẫn các môn đệ, vừa nói lên sự siêng năng chăm chỉ của môn đệ đã chuyên chú ngay từ đầu. Đó là tiếng nói của một tâm hồn hết sức ao ước Đấng Messia đến, và của linh hồn mong đợi. Người tự trời đến, rồi nhảy mừng khi thấy Người hiện ra, và vội vàng đi báo tin đặc biệt đó cho kẻ khác. Đặc điểm của tình anh em, của nghĩa bạn bè và của tấm lòng chân thật là thông đạt cho nhau những điều thiêng liêng"
II. BÀI HỌC
* Chúng ta học được bài học gì qua cuộc đời của Thánh Anrê? Có nhiều bài học nhưng có lẽ bài học thực tế nhất đó là bài học biết quan tâm đến người khác.
Gặp được Chúa Giêsu, An-rê đã nghĩ ngay đến anh mình.
Trong hoang địa khi Chúa Giêsu ra lệnh cho các môn đệ tìm của ăn cho dân chúng ăn, một mình An-rê đã nhanh chóng thấy được một em bé có 5 chiếc bánh và hai con cá.
Tại Giêrusalem, những người Hy Lạp đang băn khoăn không biết làm sao để có thể gặp được Chúa, Anrê đã có mặt để dẫn họ đến với Chúa.
Tin mừng chỉ ghi lại có ba lần như thế nhưng với ba lần đó chúng ta cũng có thể thấy được An-rê là con người tốt như thế nào.
* An-rê đã sống như thế, còn chúng ta thì sao? Không biết ngày nay chúng ta có sống được như thế hay không? Hình như là ngày nay con người thường nghĩ đến mình nhiều hơn nghĩ đến người khác. Việc biết quan tâm đến những người khác người đã trở thành hiếm hoi. Thế giới ngày nay với cuộc sống hướng nhiều về hưởng thụ đang làm cho con người chỉ muốn vun quén cho mình mà không biết đến người khác.
Chúng ta hãy xin với thánh An-rê điều chỉnh lại cuộc sống của chúng ta.
Đây là câu chuyện của một sinh viên được loan đi trên mạng Internet:
“Vào tháng thứ hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên cho chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: "Chị tạp vụ ở trường tên là gì?". Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sâm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:
Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài nọc đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường. Chị ta tên là Dorothy.
7.Thánh Anrê--Lm. Nguyễn Hưng Lợi
Chúa đã chọn các tông đồ để tiếp nối sứ mạng rao giảng Tin Mừng và góp tay vào công trình cứu độ của Thiên Chúa. Chúa tuyển chọn các tông đồ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội. Chúa chọn các tông đồ với ơn huệ nhưng không của Ngài. Chúa muốn chọn ai tùy ý Chúa.
Thánh Anrê
Theo tiếng Hy Lạp, Anrê có nghĩa là trượng phu và thanh nhã. Thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Anrê và một tông đồ khác với Chúa Giêsu. Thánh nhân đã đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành ngư phủ lưới người ta". Anrê và Phêrô đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Anrê đã được nhắc nhớ nhiều lần trong các sách Tin Mừng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã nói tiên tri về thành thánh Giêrusalem, Anrê đã thắc mắc hỏi Chúa Giêsu khi nào thì sẽ xẩy ra như lời Chúa nói. Sau khi Chúa sống lại, các tông đồ nghe lời Chúa ở lại Giêrusalem để lãnh nhận Chúa Thánh Thần và sau đó ra đi loan báo Tin Mừng. Sử liệu ít ghi lại về công cuộc truyền giáo của các ngài nơi nhiều vùng đất, nơi nhiều nước trên thế giới. Nhưng có đoạn viết đã tường thuật về cuộc tử đạo của thánh Anrê tông đồ. Thánh nhân đã dứt khoát không chịu để cho người ta thương ngài xin quan tha chết cho ngài. Ngài đã dứt khoát chịu chết để được nên giống Chúa Giêsu. Chúa đã chấp nhận lời ngài kêu xin, Ngài đã không chịu khuất phục quan lãnh sự Akai và chấp nhận cái chết như lời Chúa Giêsu đã nói: "Khi nào Ta được giương cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta". Thánh nhân đã được Chúa cho đội mũ triều thiên công chính. Giáo chủ thành Alexandrie năm 357 đã đem hài cốt Ngài về Constantinople.
Lời cầu nguyện
Vì muốn nên giống Chúa Giêsu, thánh nhân đã liều mình, hy sinh chịu chết: "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu" (Ga 15,13). Thánh nhân đã cảm nghiệm sâu xa lời: "vì Người mà tôi chịu đau khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi" (2Tm 2,9). Và như thế, Ngài cảm nghiệm: Ðức Giêsu, Ðấng"chúng ta sẽ cùng hiển trị với Người, nếu Ta kiên tâm chịu đựng" (2Tm 2,12).
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính thánh Anrê, người ngư phủ đã tin Ðức Giêsu là Ðấng Mêsia và mau mắn giới thiệu cho em mình. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố niềm tin của chúng con để chúng con cũng chia sẻ niềm tin của mình cho những người chúng con gặp gỡ. (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Anrê, tông đồ).
8.Tông đồ trước nhất, Anrê-- J.M.
Lễ Thánh Anrê là lễ trước nhất trong lịch sử phụng vụ chư thánh, Ngài là người trước nhất đi theo Đức Giêsu và là người trước nhất tuyên bố Đức Giêsu là Đấng Messia. Thánh Gioan kể nhiiều chi tiết về Thánh Anrê hơn Thánh Matthêu cho chúng ta biết thái độ của Thánh Anrê.
Anrê là anh của Simon. Ngài đã thuộc nhóm đạo đức của Thánh Gioan tiền hô. Ngài cùng với Thánh Gioan đi tháp tùng Thánh Gioan Tiền Hô. Khi Thày thấy Đức Giêsu đi ngang qua, thày đã nói: “Đây Chiên Thiên Chúa”. Anrê đã bỏ thày lại và đi theo Đức Giêsu, đến nơi ở của Người và họ đã ở lại với Người từ ngày đó!”
Ngày hôm sau, khi em mình là Simon, Ngài nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu”. (Ga 1, 41-42)
Theo truyền khẩu Ngài chết ở Patras Hy Lạp, bị đóng đinh vào thập giá hình chữ X.
Ngày nay, ta luôn luôn có cảm tưởng rằng để noi gương các thánh, chúng ta phải thực hành nhân đức đặc sác của Ngài. Đúng thế! Nhưng suy nghĩ về các Thánh mà chúng ta biết điều thúc dục chúng ta là luôn cầu nguyện theo gương các Ngài, như phụng vụ khêu gợi cho chúng ta. Tờ kê khai các nhân đức của các Ngài thì dài vô tận và chúng ta sẽ như chim chích vào rừng, nói thế không phải chuyện dỡn!
Nhưng thay vì lạc vào rừng, tiên vàn ta hãy theo Thánh Anrê, cũng như các thánh, muốn dạy chúng ta bài học độc nhất là: gặp gỡ Đức Ki-tô và yêu mến Người. Đó là đúng nhất. Không còn bài học nào khác, cũng không phải tìm ai nữa, Ngài đã tìm được Đấng giải thích cho lý trí của Ngài: “Tôi đã gặp được Đấng tôi yêu và yêu tôi”. “Tôi yêu Người trọn vẹn vì lý do đó”.
Anrê nghĩa là dâng hiến, là trung tín, là tất cả trong tình yêu, tình bạn khiêm tốn.
9.Thánh Anrê tông đồ--Phó Tế Huỳnh Mai Trác
Thánh Anrê quê ở Bethsaida, xứ Galilê, cùng với em là Phêrô, làm nghề đánh cá bên bờ hồ Tiberia. Anrê là người khát vọng Thiên Chúa. Khi được nghe thánh Gioan Tẩy giả rao giảng và làm phép rửa thì Anrê biết rằng Đấng Cứu Thế đã đến. Và khi nghe Gioan giới thiệu về Ðấng Cứu Thế: “Hãy nhìn Đức Giêsu đang đi đến, đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.” Anrê nghe Gioan nói như vậy liền đi theo Chúa Giêsu và từ đó không hề rời Chúa nữa bước. Anrê vội vã tìm em mình là Simon Phêrô và nói: “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Messia, có nghĩa là Đấng Kitô!.” và đem Phêrô giới thiệu cùng Chúa Giêsu. Từ giờ phút này Anrê là một người Tông đồ thật sự của Chúa.
Chúa Giêsu đã không hứa gì với Anrê và Phêrô. Nhưng khi được gọi thì hai ngài đã bỏ tất cả để theo Chúa. Các ngài từ bỏ những gì các ngài sở hữu, từ vật chất đến tinh thần một lòng quyết theo Chúa. Không giữ gì riêng cho mình cho đến cả mạng sống.
Anrê là người biết cách móc nối với người khác. Chính Anrê đã đem cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá đến với Chúa để Chúa làm phép hóa bánh và cá ra nhiều đủ nuôi năm ngàn người và còn dư thừa. Khi những người Hy lạp muốn được gặp Chúa Giêsu thì cũng chính Anrê đứng ra dàn xếp.
Các nguồn tài liệu cho biết thánh Anrê đã bị hành quyết tại Patras xứ Hy lạp. Vào thế kỷ thứ bốn, hài cốt của ngài được di chuyển về Constantinople. Đến thế kỷ 15 một số di tích quan trọng được đem về đặt để tại Vatican, đến năm 1966 thì được giao chuyển lại cho Giáo Hội Đông Phương như một thiện chí hiệp thông giữa Giáo Hội La mã với các giáo phụ Đông Phương. Xứ Ukrainia tôn kính thánh Anrê như đấng đầu tiên mang Tin Mừng đến Kiev và xứ Scotland thì chọn ngài làm đấng phù trì quốc gia của họ.
10.Thánh Anrê tông đồ--giaophanvinhlong.net
Andreas mà tiếng Việt Nam phiên âm là Anrê là một danh từ ít dùng trong tiếng Hy lạp. Tuy nhiên nó mang một ý nghĩa rất thi vị: Anrê nghĩa là trượng phu, thanh nhã.
Đọc Tân ước, chúng ta chỉ thấy một ít đoạn sau đây nói về thánh Anrê, hoặc nói đến tên ngài.
Lần trước hết: hôm ấy thánh Gioan Tẩy giả đứng với hai môn đệ tại Bêthania, bên kia sông Giođanô. Nhìn thấy Chúa Giêsu đi qua, ngài nói với hai môn đệ: “Kìa Con Chiên Thiên Chúa”. Nghe nói như thế, hai môn đệ vội rảo theo Chúa Giêsu, Chúa Giêsu bảo họ: - Các người tìm ai?
- Thưa Thầy, Thầy đi đâu bây giờ?
- Cứ đến mà xem.
Lúc đó là bốn giờ chiều và hai môn đệ đi theo Chúa suốt buổi hôm ấy. Hai môn đệ đó là Anrê; em ông Simon Phêrô, và một người khác có lẽ là Gioan. Lúc về nhà gặp Phêrô, Anrê kể lại cho em nghe: “Ồ, chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mesia, rồi Anrê dẫn em đến gặp Chúa Giêsu. Hôm sau, Chúa Giêsu trẩy đi Galilêa còn Anrê và Phêrô ở lại Bétsaiđa mạn bắc hồ Tibêria.
Nhưng lần khác, đi trên bờ hồ Chúa Giêsu thấy Anrê và Phêrô đang thả lưới vì các ông là những dân chài, Chúa liền bảo họ: - Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi nên kẻ đánh lưới người!
Lập tức họ bỏ lưới và theo Chúa. Lại một lần sau khi giảng ở nhà hội Caphanaum ra, Chúa vào nhà ông Phêrô và Anrê chữa khỏi bệnh cho bà mẹ vợ ông Phêrô.
Còn lần trên núi, bên kia biển Galilêa, dân chúng vây quanh Chúa Giêsu. Thấy họ đói, Chúa Giêsu lại hỏi: - Làm sao kiếm của ăn cho họ được?
Thánh Anrê thưa: - Đằng kia có đứa trẻ mang năm chiếc bánh mạch nha và hai con cá nhỏ, nhưng bấy nhiêu thấm vào đâu với số người đông đảo này!
Chúa Giêsu nói: - Cứ bảo họ ngồi xuống. Rồi Người làm phép lạ nhân bánh ra nhiều và phân phát cho mỗi người được ăn no nê. Cũng chính Anrê lúc ở Giêrusalem vì thánh Philipphê xúi giục đã trình bày cho Chúa biết có một số dân ngoại nói tiếng Hy lạp muốn xin gặp Chúa. Lần nữa, khi Chúa Giêsu ở đền thờ đi ra và nói cho các môn đệ biết ngày “tàn” của đền thánh, thì thánh Anrê cùng với thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, đã lợi dụng lúc Chúa ngồi trên núi cây dầu nhìn về thánh đường đến hỏi riêng Chúa: - Xin Thầy hãy nói cho chúng con biêt khi nào việc ấy xảy đến, và có dấu hiệu gì báo trước!
Sau cùng thánh Anrê là một trong lớp mười hai tông đồ được Chúa sai đi giảng đạo. Trong số mười hai tông đồ, thánh Matthêu và thánh Luca kể thánh Anrê sau thánh Phêrô, thánh Máccô lại kể ngài sau ba thánh Phêrô; Giacôbê và Gioan. Tuy nhiên các sách Hy lạp vẫn chủ trương thánh Anrê được Chúa gọi đầu tiên.
Tài liệu Phúc âm chỉ cho chúng ta biết như vậy về thánh Anrê. Còn riêng về quãng đời truyền giáo của thánh nhân, chúng ta không có một văn liệu nào xác đáng. Trừ một đoạn văn rất đẹp ghi lại rất vắn tắt cuộc tử đạo của ngài như sau:
Quan lãnh sự xứ Akhaia truyền trói thánh Anrê vào cây thập giá để ngài chết dần mòn. Dân chúng nhất định không chịu, họ bảo: người này là đấng công chính, là bạn của Thiên Chúa, và là bậc thầy nhân hậu mà phải điệu đi giết à! Nhưng đứng trước thánh giá, thánh nhân kêu lên:
“Ôi! Thánh giá! Ôi sự rỗi từ lâu bạn đã mệt mỏi chờ tôi! Tôi tin tưởng rằng bạn sẵn sàng đón nhận người đầy tớ của Đấng đã chịu treo trên bạn, và tôi sung sướng bước đi theo bạn. Tại sao bạn được dựng lên ở đây, tôi đã nhận biết tất cả bí nhiệm của bạn rồi. Xin bạn hãy nhận lấy kẻ bạn mong chờ, để chính tôi, kẻ ngày đêm thầm ước vẻ đẹp của bạn cũng tìm thấy bạn. Nơi bạn tôi tìm được phần thưởng Thiên Chúa hứa cho tôi. Ôi Thánh giá dịu hiền! Hãy đưa kẻ hèn này về với Thiên Chúa Đấng Cứu chuộc tôi”.
Dân chúng lặp lại những lời ấy cho quan phó lãnh sự nghe và kêu nài:
“Xin ông hãy trả lại cho chúng tôi người công chính, người thánh của Thiên Chúa. Xin đừng đang tâm giết người đẹp lòng Thiên Chúa. Đừng động đến con người hiền lành và đạo đức dường ấy. Đã hai ngày chịu treo nhưng ông ấy vẫn còn sống và luôn thốt ra những lời thánh thiện. Xin quan hãy trả lại chúng tôi con người thánh này để chúng tôi được sống với ông. Xin quan cởi trói người trinh khiết này để mọi gia đình được an hòa, hãy buông tha người hiền nhân này để khắp xứ Akhaia được hưởng nguồn cứu độ. Còn thánh Anrê ngài kêu cả tiếng:
“Lạy Chúa Kitô, xin đừng để đầy tớ Chúa đã được treo lên cây gỗ này vì danh Chúa bị tháo gỡ xuống. Xin chớ để kẻ được diễm phúc thấu hiểu huyền nhiệm thánh giá bị rơi vào mưu gian loài người... Nhưng lạy Chúa Giêsu, Đấng con yêu mến, tin nhận và ao ước được hưởng kiến, xin hãy đón nhận con, vì linh hồn con sắp được giải thoát. Amen”.
Theo sử gia Êusêbiô, thánh Anrê giảng đạo tại Scythia, nhưng theo nhiều tác giả khác, thánh tông đồ lại giảng đạo tại Êthiôpia, mấy xứ về phía nam Hắc hải và Patras thuộc Akhaia.
Nhưng điều phức tạp hơn cả có lẽ là nơi để thi hài thánh nhân. Thánh Gioan Kim khẩu nói rõ rằng không biết. Trái lại, sách tử đạo thư dòng thánh Giêrônimô lại chép ngài làm Giám mục tại Patras và chết ngày 30 tháng 11 mà không rõ thánh nhân chết năm nào. Nhưng năm 357, giáo chủ thành Alexanđria đem hài cốt ngài về Constantinôpôli. Ngoài ra còn rất nhiều nơi tự xưng là giữ được hài cốt thánh Anrê, như miền Fênicia, miền Basilicate, miền Concordia và đảo Chyprô. Vì thế, ngay từ mấy thế kỷ đầu tiên, rất nhiều nhà thờ mang tên thánh Anrê. Ngay ở Rôma năm 475, Đức Giáo Hoàng Simpliciô đã xây và thánh hiến một thánh đường kính thánh Anrê gần đại giáo đường Đức Bà Cả. Và cho đến thời Trung cổ, tại Rôma có hơn 30 nhà thờ dâng kính thánh Anrê. Phá kỷ lục hơn hết là tại nước Anh có hơn 700 thánh đường hay nguyện đường nhận thánh Anrê làm bổn mạng. Riêng tại nước Pháp, cũng như tại Việt Nam, sau thánh Phêrô, thánh Anrê rất được giáo dân tôn sùng và nhận làm bổn mạng.
Giáo hội kính lễ thánh Anrê vào ngày 30 tháng 11 hằng năm.
11.Chân dung Thánh Anrê Tông đồ--Trầm Thiên Thu
Ngày 30 tháng Mười Một, Giáo hội Công giáo mừng lễ kính Thánh Anrê Tông Đồ. Ngài là một trong bốn môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu, nhưng ngài ít xuất hiện và cũng ít được nhắc tới.
Thánh Anrê là anh của Thánh Phêrô, gọi là Simon, con ông Giôna. Hai anh em làm nghề đánh cá ở vùng biển Galilê. Trong danh sách các tông đồ, Thánh Anrê thường được nhắc tới ngay sau Thánh Phêrô.
Theo Hy ngữ, tên Anrê có nghĩa là “can đảm” hoặc cái gì đó “nam tính”, diễn tả ý cha mẹ mong muốn nơi con trai của mình. ĐGH Benedicto XVI nói: “Điều ấn tượng là tên Anrê không là tiếng Do Thái, mà là tiếng Hy Lạp, cho thấy sự cởi mở về văn hóa trong gia đình ngài. Ở Galilê có văn hóa và ngôn ngữ Hy Lạp” (Buổi Tiếp Kiến Chung, 14-6-2006).
Cha mẹ đã đặt tên cho con trai lớn là Anrê, tên theo tiếng Hy Lạp, nhưng lại đặt tên con trai thứ là Simôn, tên theo tiếng Aram. Điều đó phản ánh môi trường văn hóa phan trộn giữa Do Thái và dân ngoại tại Galilê.
Khi Chúa Giêsu đi dọc theo biển hồ Galilê thì thấy hai anh em Anrê và Simon (Phêrô) đang quăng chài xuống biển, Ngài nói: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người (Mt 4:18-20).
Trong các Phúc Âm nhất lãm và sách Công Vụ, danh sách 12 Tông đồ luôn được liệt kê thành ba nhóm, mỗi nhóm bốn người. Nhóm thứ nhất nói tên những người gần gũi Chúa Giêsu nhất, trong đó có hai cặp anh em: [1] Phêrô và Anrê, các con của ông Giôna, [2] Giacôbê và Gioan, các con của ông Dêbêđê.
Như vậy, Thánh Anrê là một trong bốn Tông đồ gần gũi với Chúa Giêsu nhất, nhưng Thánh Anrê có vẻ ít gần gũi nhất trong bốn người. Thật vậy, đã vài lần Phêrô, Giacôbê và Gioan được ưu tiên đi với Chúa Giêsu, nhưng không có Anrê. Chẳng hạn khi Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor, có mặt Phêrô, Giacôbê và Gioan, nhưng không có Anrê. Kinh Thánh cho biết rằng Thánh Anrê là một trong các Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu. Ông thấy Chúa Giêsu trước Phêrô. Vì là người theo Chúa Giêsu trước, ông mệnh danh là Protoklete – Tông đồ được gọi đầu tiên.
Thánh Anrê thực sự là con người của niềm tin và hy vọng. Khi nghe Gioan Tẩy Giả gọi Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36), Anrê ngạc nhiên, lúc đó có một môn đệ khác: “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: ‘Các anh tìm gì thế?’. Họ đáp: ‘Thưa Thầy, Thầy ở đâu?’. Người bảo họ: ‘Đến mà xem’. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1:37-39).
Như vậy, Anrê đã được tận hưởng giây phút thân mật với Chúa Giêsu. Kinh Thánh cho biết: “Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và nói: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia’ (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: ‘Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha’ (tức là Phêrô). Hôm sau, Đức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê. Người gặp ông Philípphê và nói: ‘Anh hãy theo tôi’. Ông Philípphê là người Bếtxaiđa, cùng quê với các ông Anrê và Phêrô” (Ga 1:40-44). Thánh Anrê có tinh thần tông đồ khác thường.
Khi chạnh lòng thương dân chúng và muốn cho họ ăn uống, vì lúc đó chiều tối rồi, Chúa Giêsu bảo các môn đệ lo cho họ ăn, ông Philípphê nói: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6:7). Lúc đó, ông Anrê thưa với Chúa Giêsu: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6:9). Và hôm đó, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho khoảng 5.000 người ăn no nê, không kể phụ nữ và trẻ em.
Thánh Anrê rất nhạy bén khi thấy ngay một đứa bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, nhưng ngài cũng rất thực tế khi nhận thấy “bấy nhiêu chẳng thấm vào đâu” so với đám đông người như vậy. Tuy nhiên, Chúa Giêsu biết mình sắp làm gì nên bảo đem số thực phẩm ít ỏi đó cho Ngài.
Một lần khác, một trong các môn đệ thân tín (có thể là Anrê) đã chỉ đền thờ và trầm trồ khen công trình đồ sộ, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ” (Mc 13:2).
Sau đó, lúc Đức Giêsu ngồi trên núi Ô-liu, đối diện với Đền Thờ, các ông Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi nhỏ: “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục thì có điềm gì báo trước” (Mc 13:4). Chúa Giêsu bắt đầu nói với các ông: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói ‘Chính Ta đây!’, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Khi anh em nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã, thì đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục. Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có động đất ở nhiều nơi, sẽ có những cơn đói kém. Những sự việc ấy là khởi đầu các cơn đau đớn” (Mc 13:5-8).
Qua đó, chúng ta có thể suy diễn rằng chúng ta không nên ngại hỏi Chúa Giêsu điều gì, dù hỏi nhiều, nhưng chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận giáo huấn của Ngài dành cho chúng ta, chắc chắn có thể có những điều không hợp ý riêng của chúng ta, nhưng đó mới là cách “xin vâng” đẹp Ý Thiên Chúa.
Thánh Anrê còn là nhịp cầu” nối kết những người Do Thái và dân ngoại đi theo Chúa Giêsu. Anrê và Philipphê là người trung gian giữa Chúa Giêsu và người Hy lạp. Khi có những người muốn gặp Chúa Giêsu, ông Anrê và ông Philípphê đến thưa với Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12:23-25).
Chúa Giêsu muốn nói rằng Ngài sẽ gặp nhóm người Hy Lạp, nhưng không đơn giản, vì họ chỉ hiếu kỳ mà thôi. Giờ vinh quang của Ngài sẽ đến bằng cái chết, như hạt lúa mì được gieo vào lòng đất. Cái chết trên Thập Giá của Ngài sẽ đơm hoa kết trái: Hạt lúa mì chết đi là biểu tượng cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá, hạt lúa mì chết đi mới trổ sinh bông hạt là biểu tượng sự phục sinh. Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh và là Ánh Sáng cho mọi dân tộc. Nói cách khác, Chúa Giêsu đã tiên tri về Giáo hội, hóa trái phát sinh từ Cuộc Vượt Qua của Ngài.
ĐGH Benedicto XVI cho biết: “Một số truyền thống cổ coi Thánh Anrê là người trung gian của người Hy Lạp khi gặp Chúa Giêsu, là Tông đồ của người hy Lạp trong những năm sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Họ cho chúng ta biết rằng Thánh Anrê dành phần đời còn lại để rao giảng và làm trung gian cho Chúa Giêsu đối với người Hy Lạp”.
Thánh Phêrô, em trai của Thánh Anrê, đã đi từ Giêrusalem tới Antiôkia và Rôma để thực hiện sứ vụ. Còn Thánh Anrê lại đi rao giảng cho người Hy Lạp. Họ là huynh đệ về huyết thống và cả về mối tương quan giữa Tòa Thánh và Constantinople. Hai Giáo hội vẫn là “chị em” với nhau. Năm 1964, Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã trao thánh tích Thánh Anrê cho Tổng giám mục Chính Thống giáo của GP Patras ở Hy Lạp, nơi Thánh Anrê đã chịu tử đạo. Trước đó thánh tích Thánh Anrê được lưu giữ tại Vatican. Năm 2006, Giáo hội Công giáo, qua ĐHY Roger Etchegaray, đã trao phần thánh tích khác của Thánh Anrê cho Giáo hội Chính thống Hy Lạp.
Đức Thượng Phụ của Giáo hội Constantinople là Bartholomew I đã thăm ĐGH Phanxicô sau khi được bầu làm giáo hoàng. Là người kế vị Thánh Phêrô, ĐGH Phanxicô đã lưu ý vai trò quan trọng của Đức Thượng Phụ Bartholomew I là người kế vị Thánh Anrê và gọi là “người anh em Anrê”. ĐGH Phanxicô vui mừng nói: “Trước mặt mọi người, tôi hết lòng cảm ơn về những điều Đức Thượng Phụ Bartholomaios I đã nói với chúng ta. Xin cảm ơn nhiều! Xin cảm ơn nhiều!”.
Truyền thống cho biết rằng Thánh Anrê tử đạo tại Patras (Patræ), Hy Lạp, thuộc vùng Achaea, phía Bắc duyên hải Peloponnese. Ngài tử đạo bằng cách chịu đóng đinh trên thập giá hình chữ X, quen gọi là “Thập Giá Thánh Anrê”. Còn người em là Thánh Phêrô thì xin được đóng đinh ngược vì cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh như Thầy Giêsu. Thánh Anrê là bổn mạng của nước Tô Cách Lan, Nga và Hy Lạp. Quốc kỳ của nước Tô Cách Lan là hình Thập Giá của Thánh Anrê.
Như chúng ta thấy, ở đây là tinh thần Kitô giáo rất sâu sắc, không coi Thập Giá là cực hình nhục nhã mà là phương tiện đến với Đấng Cứu Độ, để hạt lúa mì nảy sinh. Bài học quan trọng: Thập giá của cuộc đời chúng ta sẽ đạt được giá trị nếu chúng ta vui vẻ chấp nhận đó là một phần của Thập Giá Đức Kitô, và coi đó là Ánh Sáng Đức Kitô chiếu tỏa trên chúng ta.
Lạy Thánh Anrê, xin nguyện giúp cầu thay. Xin thúc giục lòng chúng con mau mắn nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa ngay. Amen.
12.Ơn gọi và sứ mạng--Nt. Anna Nguyễn Thị Nguyện
Thánh Matthêu thuật lại việc Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên, đang khi các ông đang hành nghề chài lưới, trong số đó có thánh Anrê. Đáp lại lời mời gọi của Chúa: “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành lưới người như lưới cá”. Anrê bỏ lại tất cả theo Chúa, Anrê đã tin nhận Đức Giêsu là Đấng Messia và đem anh là Simon Phêrô giới thiệu với Chúa và cả hai trở nên môn đệ của Chúa. Khi được Chúa gọi và trao cho sứ mạng, từ nay cuộc đời của Anrê thay đổi hoàn toàn. Anrê đã dành trọn cuộc đời cho ơn gọi theo Chúa. Từ một dân chài lưới trở thành người rao giảng Tin Mừng của Chúa cho muôn dân. Thánh Anrê đã trung thành với sứ mạng ấy bằng cả cái chết, nhờ đó Tin Mừng cứu độ của Chúa được đến với muôn dân muôn nước. Thánh Anrê rao giảng Tin Mừng tại các nước HyLạp, Nga và Ba Lan. Ngài bị đóng đinh vào thập giá như Thầy của mình, nhưng là thập giá hình chữ x.
Phải chăng mỗi người chúng ta cũng được Chúa mời gọi và trao cho một sứ mạng. Ơn gọi làm linh mục được găn liền với sứ mạng mục tử của Chúa Kitô; Ơn gọi thánh hiến trong bậc tu trì là sống theo mẫu gương của Chúa và làm chứng cho Nước Trời mai sau. Ơn gọi hôn nhân gắn liền với sứ mạng sinh sản và giáo dục con cái…Và mỗi người chỉ có hạnh phúc thật sự khi sống đúng với ơn gọi và sứ mạng của mình. Một người gia trưởng trong gia đình sẽ tìm thấy niềm vui khi chu toàn bổn phận một người chồng, người cha trong gia đình. Người mẹ cũng gặp được hạnh phúc khi thể hiện sứ mạng làm mẹ trong việc sinh thành dưỡng dục con cái của mình trở nên những đứa con ngoan. Một Linh Mục cũng sẽ tìm được hạnh phúc khi là người mục tử hy sinh cho đoàn chiên, khi thấy những vất vả của mình đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Những người sống đời thánh hiến cũng chỉ tìm được bình an đích thực khi bước theo Chúa Kitô một cách trọn vẹn và chu toàn sứ mạng Chúa trao phó .
Mọi thụ tạo được dựng nên đều tốt lành và hoàn hảo theo tính chất riêng của mỗi loài. Sự trật tự lạ lùng trên trái đất chỉ tồn tại khi muôn loài muôn vật thi hành đúng chức năng của nó: mặt trời chiếu sáng, hoa tỏa hương, muối ướp mặn, biển gợn sóng… Tất cả đang biểu lộ nét đặc thù của mình đồng thời tô điểm cho trái đất sinh tươi hài hòa. Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, được Chúa mời gọi tham dự vào sứ mạng của Chúa là đem Tin Mừng đến cho muôn dân. Sứ mạng ấy được thể hiện ngay trong bổn phận gắn liền với ơn gọi bậc sống mà Chúa đã an bài cho mỗi người và tìm thấy hạnh phúc ngay trong ơn gọi và sứ mạng riêng biệt của mình.. Tuy nhiên, cuộc sống hôm nay còn nhiều bất trắc và đau khổ, thiên tai, bệnh tật, nghèo đói con người rơi vào bất hạnh và thất vọng. Phải chăng con người đã không sống đúng với phẩm giá cao quí ấy: vì là kiệt tác trong các loài thụ tạo của đấng tạo thành, con người có khả năng nhận biết và yêu mến. Nhờ đó con người có khả năng đáp trả tiếng gọi yêu thương của Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Vì thế con người chỉ sống đúng phẩm giá của mình là yêu thương và chỉ tìm thấy hạnh phúc khi biết sống yêu thương .
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con làm người, làm kitô hữu, Chúa đã mời gọi và trao cho chúng con một sứ mạng. Nhờ lời chuyển cầu của Thánh Anrê tông đồ xin cho chúng con biết sống xứng đáng với ơn Thiên Chúa đã kêu gọi và chu toàn sứ mạng Chúa trao phó, nhờ đó chúng con tìm được hạnh phúc và niềm vui trong cuộc sống hôm nay và mai sau cũng được thừa hưởng vinh quang Nước Trời.
13.Thánh Anrê, tông đồ--Minh An
Mỗi sự việc là một bài toán mà đáp số là sứ điệp Chúa muốn chúng ta đón nhận để làm cho nên trọn. Vì thế, ta cần phải tỉnh thức để nhận ra ý Chúa và sứ điệp của Ngài muốn nơi chúng ta.
Khi nói đến ơn gọi, người ta thường hay nghĩ đến một điều đặc biệt, khác thường của người được gọi. Mà quả thực, không ai có thể tự ban cho mình vinh dự này nhưng là do Chúa, nhờ ơn Chúa như trường hợp của Mosê, Aharon, các tiên tri, các ngôn sứ trong Cựu Ước và các Tông đồ, các môn đệ trong Tân Ước rồi những người kế tiếp cho đến tận hôm nay. Ai ai cũng được kêu gọi để thuộc về đòan chiên của Đức Kitô.
Mỗi thành phần trong dân Chúa đều được kêu gọi, nhưng mỗi người theo cách của mình, tùy ơn riêng nhận được để thực hiện mọi điều bao hàm trong ơn gọi kitô hữu như sự thánh thiện ở đời này hay sự tham dự vào Phúc Âm hóa của Hội Thánh và đạt được vinh phúc ở đời sau. Chính thánh Tôma Aquinô đã quả quyết rằng: “Ơn gọi đi tu không khác với ơn gọi làm kitô hữu bao nhiêu, vì đó không phải là ơn gọi mới đối với ơn gọi làm kitô hữu mà chỉ là sống ơn gọi này một cách triệt đệ hơn, thành ra quyết định đi tu là người ta có thể tự mình quyết định được, vì đó là quyết định kéo dài theo Chúa Kitô, một quyết định chủ động trong đời sống kitô hữu”.
Đọc bài Tin Mừng của thánh Mtthêu 4, 18-22, ta thấy ơn gọi của tông đồ Anrê cũng hơi đặc biệt hơn những anh em Tông đồ khác. Chúa gọi Anrê lúc ông đang là ngư phủ trên biển hồ Galilêa bằng lời tài khéo của Người “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Điều này có nghĩa là tác giả Matthêu đặt lời tiên tri vào Chúa Giêsu để loan báo một sự lạc quan về việc quy tụ lại các dân Do thái đang rải rác khắp nơi và kêu gọi sự trở lại của dân ngoại để nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Như thế, ta thấy rằng sứ vụ của thánh Anrê và các tông đồ khác theo thánh Matthêu là sẵn lòng tham gia vào công cuộc truyền giáo theo gương Chúa Giêsu mà không phân biệt Do thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, có đạo hay ngoại giáo…( x. Gl 3, 26- 28), nhưng tất cả đều được đón nhận Tin Mừng và hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa, qua lòng nhiệt thành, trách nhiệm và sứ vụ của các môn đệ.
Còn theo Tin Mừng của thánh Gioan, thì Anrê được Chúa Giêsu gọi vào giờ thứ 10, qua lời giới thiệu của sư phụ Gioan tẩy giả: “ Đây là Chiên Thiên Chúa” lập tức Anrê và một người bạn đã đi theo Đức Giêsu ( x Ga 1, 35- 42). Chính Anrê cũng là người đã giới thiệu Chúa Giêsu cho em mình là Phêrô và được Chúa đón nhận Phêrô vào hàng ngũ các tông đồ. Có thể nói được rằng, theo Tin Mừng Gioan thì thánh Anrê là người đầu tiên loan báo Tin Mừng về Đấng Messia: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia”. Ông đã loan báo Đấng Messia cho em mình là Phêrô và cũng có lẽ nhờ lời loan báo này mà Anrê đã đưa được Phêrô đến với Chúa, đưa được Phêrô từ một ngư phủ nghèo nàn, quanh quẩn bên biển hồ Galilê, thành Giáo hòang tiên khởi của Giáo Hội Công Giáo Rôma.
Sau ngày Chúa Phục Sinh và Thăng Thiên, người ta tương truyền rằng thánh Anrê đã loan báo Tin Mừng ở Giêrusalem, Giuđêa và Galilê. Sau đó, ngài đến giảng đạo ở vùng Biển Đen và Hy Lạp rồi chịu tử đạo tại nơi đây. Thánh nhân đã dứt khoát không chịu để cho người ta thương ngài xin quan tha chết cho ngài. Ngài đã dứt khoát chịu chết để được nên giống Chúa Giêsu. Chúa đã chấp nhận lời ngài kêu xin, Ngài đã không chịu khuất phục quan lãnh sự Akai và chấp nhận cái chết như lời Chúa Giêsu đã nói:"Khi nào Ta được giương cao khỏi đất,Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta".Thánh nhân đã được phúc tử đạo và Thiên Chúa đã đội mũ triều thiên công chính cho Ngài.
Sơ qua mấy dòng ơn gọi và sứ vụ của thánh Anrê tông đồ trong ngày lễ hôm nay, để ta thấy rằng, ơn gọi đến với thánh nhân thật đơn giản nhưng đầy phức tạp và cam go. Đồng thời, đem ra so sánh với ơn gọi làm kitô hữu, hay làm tu sĩ của mỗi cá nhân chúng ta xem có gì là khác biệt, là thành quả. Thực vậy, có nhiều người đã nghe được tiếng Chúa, một thứ tiếng vọng lên từ bên trong, tuy âm thầm nhưng rất rõ ràng, mời gọi nhưng không kém phần thúc bách. Khi đáp lại tiếng Chúa là chúng ta bước vào một khúc quanh mới của cuộc đời và từ đó bản thân được đổi khác. Khi lắng nghe và tìm biết ý Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện nhưng điều quan trọng là ta có dám đáp trả lời mời gọi của Ngài hay không? Nhiều khi chúng ta bịt tai, ngoảnh mặt làm ngơ như không hề nghe thấy tiếng Chúa, để khỏi phải đáp trả, khỏi phải từ bỏ, vì có lẽ chúng ta còn quá nhiều những sợi dây vấn vương quấn chặt lấy cuộc đời, khiến chúng ta không dễ gì tháo gỡ, không dễ gì để hy sinh từ bỏ mà đáp lại lời mời gọi của Chúa. Thực ra, ngày hôm nay, Chúa không hiện ra trực tiếp để kêu gọi chúng ta hay truyền dạy chúng ta phải làm điều nọ, điều kia, nhưng tiếng Chúa vẫn âm thầm gởi đến với chúng ta qua các sự kiện, qua các biến cố của cuộc đời. Mà những biến cố, những sự kiện đó chính là một dấu chỉ của thánh ý Chúa. Mỗi sự việc là một bài toán mà đáp số là sứ điệp Chúa muốn chúng ta đón nhận để làm cho nên trọn. Vì thế, ta cần phải tỉnh thức để nhận ra ý Chúa và sứ điệp của Ngài muốn nơi chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết thực thi sứ vụ tông đồ theo thánh ý Chúa như tinh thần của thánh Anrê, vị tông đồ giàu tình bạn của chúng con. Amen.
14.Thánh Anrê, tông đồ--tinvuixuanloc.vn
Hôm nay Giáo Hội cử hành Lễ kính Thánh Anrê tông đồ, chúng ta cùng suy niệm về ơn gọi của người tông đồ, và áp dụng vào sứ mạng tông đồ của chúng ta.
1. Ơn gọi tông đồ:
Trong bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: bốn môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi làm tông đồ đang khi các ông làm nghề chài lưới, tại bờ biển Galilêa, đó là hai anh em ông Simon Phêrô và Anrê, và hai anh em ông Giacôbê và Gioan.
Trước hết, là được Chúa kêu gọi: Ơn gọi làm tông đồ là một ơn gọi đặc biệt đến từ Thiên Chúa. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã chọn gọi những kẻ người muốn (Mc 3,13). Chúa Giêsu yêu thương họ, yêu thương mãnh liệt, yêu thương đến độ gọi họ được trở thành bạn hữu của Chúa (x.Ga 15,15), sống gần gũi với Chúa, chia sẻ công việc của Chúa.
Kế đến, là phài đi theo Chúa và được Chúa huấn luyện. 12 tông đồ đi theo Chúa Giêsu và làm môn đệ của Ngài. Các ông đến và ở với Chúa (Mc 3,14). Các ông được Chúa huấn luyện để trở thành người tông đồ, nghĩa là trở thành những sứ giả phổ biến Tin Mừng cứu độ của Chúa cho muôn dân.
Đồng thời, là sự từ bỏ: Bài Tin Mừng thuật lại rằng: "Các ông bỏ lưới mà đi theo Người" (Mt 4,22). Cũng vậy, những ai muốn đi theo Chúa Giêsu và làm môn đệ của Ngài, đều phải sẵn sàng từ bỏ tất cả: bản thân, gia đình, của cải vật chất và những quyến rũ của thế gian thì mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa. Hơn nữa, các tông đồ còn phải chấp nhận những thử thách trong vai trò người tông đồ, chấp nhận sự khinh chế, ruồng rẫy của người đời, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận chịu chết để làm chứng cho Chúa. Có biết từ bỏ mới trở nên giống như Thầy mình. Điều này là một thách đố cho những ai đang trên con đường theo Chúa.
Cuối cùng, những ai làm tông đồ của Chúa Giêsu đều được Chúa tín nhiệm trao phó công việc của Chúa, sẵn sàng được Chúa sai đi Loan báo Tin Mừng (Mc 3,14). Các tông đồ luôn mang nơi bản thân mình sứ điệp quan trọng, đó là “làm cho muôn dân trở nên “môn đệ” của Người” (Mt 28,19).
Thánh Anrê tông đồ là môn đệ của Chúa Giêsu, hăng say nhiệt tâm truyền giáo, và sẵn sàng chết tử vì đạo để làm chứng cho Tin Mừng. Gương của Thánh Anrê tông đồ tỏa sáng trong Giáo Hội hôm nay. Cụ thế, việc phục vụ cho công cuộc Loan báo Tin Mừng vẫn tiếp tục trong Giáo Hội của Đức Kitô và trở thành “bản chất” của Giáo Hội. Giáo Hội luôn là Giáo Hội truyền giáo.
2. Áp dụng ‘sứ mạng tông đồ’ của người tín hữu hôm nay:
Tất cả mọi kitô hữu đều được Chúa và Giáo Hội mời gọi làm việc tông đồ cho Chúa. Chúng ta hãy áp dụng sứ mạng tông đồ vào đời sống của mỗi người, mỗi gia đình Công Giáo.
2.1. Mỗi người tín hữu Loan báo Tin Mừng
Mỗi người tín hữu Kitô, qua Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức cũng đều được mời gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu và có bổn phận phải Loan báo Tin Mừng. Mục tiêu của việc tông đồ chính là đưa con người tới chỗ nhận biết và yêu mến Đức Kitô, và nhờ việc tuân giữ giáo huấn của Người, giúp con người đạt tới cuộc sống vĩnh cửu.
Chúng ta muốn là tông đồ, trước hết hãy là người có Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu, tin vào Chúa Giêsu, sống thân mật với Chúa Giêsu, và luôn mang trong mình những tâm tư của Chúa Giêsu. Tâm tư và đời sống của Chúa Giêsu là yêu thương và cứu độ nhân loại. Chúng ta hãy là người tông đồ gieo rắc Tin Mừng tình thương và ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi người, mọi nơi.
Để Tin Mừng của Chúa được lan rộng và hiệu qủa, thì hãy nhớ: đây là công việc của Chúa Thánh Thần. Vì Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Vì thế, chúng ta hãy đặt mình dưới tác động của Thánh Thần Thiên Chúa. Hãy để Chúa Thánh Thần dẫn dắt và làm công việc Loan báo Tin Mừng. bản thân chúng ta cần phải sống theo Thần Khí, chứ đừng theo những đam mê của xác thịt (x. Gal. 5,16). Bước theo Thần Khí là noi gương Chúa Kitô, tôn vinh Chúa Cha và phục vụ mọi người (x. Mt. 20,27-28).
2.2. Các Gia đình Công Giáo Loan báo Tin Mừng
Việc Loan Báo Tin Mừng ngày nay trong Giáo Hội được nhắc nhiều đến vai trò của các gia đình. Năm 2014 sắp tới, đường hướng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dẫn các gia đình đến việc sống: “Phúc Âm Hóa đời sống gia đình”.
Thật vậy, môi trường đầu tiên cho việc tông đồ chính là gia đình. Người chồng Loan Báo Tin Mừng cho vợ, vợ cho chồng, cha mẹ cho con cái, anh chị em Loan Báo Tin Mừng cho nhau. Thánh Phaolô dạy rằng: “Chồng ngoài đạo được thánh hóa nhờ người vợ, và vợ ngoài đạo được thánh hóa nhờ người chồng có đạo” (1Cr 7,14). Nhiều cặp vợ chồng đã giúp nhau nên thánh và thánh hóa gia đình: như cha mẹ của Thánh trẻ Têrêsa, mẹ của thánh Don Bosco, mẹ của thánh Augustinô.…
Làm sao cho gia đình của chúng ta và yêu thương phục vụ nhau, cùng nhau thăng tiến đời sống gia đình theo gương sống của Thánh Gia Thất. Làm sao cho gia đình đình của chúng ta trở nên gia đình đức tin, gia đình thánh thiện và đạo đức. Muốn được như thế, gia đình chúng ta đừng quên việc đọc Lời Chúa, cầu nguyện tối sớm. Đó cũng là cách giáo dục con cái cầu nguyện, sống Tin Mừng của Chúa.
Các gia đình không chỉ nhắm đến việc nên thánh, đạo đức và yêu thương, mà còn phải làm chứng tá cho Tin Mừng bằng cuộc sống gia đình mình nữa. Là những gia đình đã được đón nhận đức tin trước hay có đức tin vững vàng hơn, mỗi gia đình Công giáo với tư cách là gia đình, hãy góp phần thánh hóa các gia đình khác, bằng việc chia sẻ, giúp đỡ và giới thiệu Chúa cho các gia đình xung quanh.
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính thánh Anrê, người ngư phủ đã tin Ðức Giêsu là Ðấng Mêsia và mau mắn giới thiệu cho em mình. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố niềm tin của chúng con để chúng con cũng chia sẻ niềm tin của mình cho những người chúng con gặp gỡ. (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Anrê, tông đồ).
15.Ước mơ thăng tiến--giesu.net
“Tôi sẽ làm cho anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mt 4,19)
Suy niệm: Các học sinh miệt mài học tập, các công nhân, kỹ sư cặm cụi làm việc,… mọi người đều đang… ước mơ: ước mơ đạt tới một cái gì đó hơn cái đang có trong hiện tại này, theo đuổi nó, và biến nó thành hiện thực. Đó chính là ước mơ thăng tiến bản thân, động cơ cho mọi chọn lựa và nỗ lực trong cuộc sống. Hẳn An-rê và các bạn cũng mơ ước một cuộc sống nào đó hơn cuộc sống ngư phủ tầm thường. Lời mời gọi đi theo thầy Giê-su để trở thành những người thợ “lưới người như lưới cá” mở ra cho các ông một triển vọng thăng tiến mới mẻ, nhưng cũng đầy mạo hiểm. Chỉ vì say mê thầy Giê-su mà các ông dám bỏ thuyền bỏ lưới đi theo Ngài để thực hiện ước mơ.
Mời Bạn: Là Ki-tô hữu, bạn đang ước mơ cái gì? Phải chăng là một cuộc sống ấm êm với những thành đạt mà theo lẽ thường người ta vẫn hằng mơ ước? Điều đó không có gì sai. Thế nhưng phải chăng chỉ có bấy nhiêu? Lời Chúa nhắc bạn rằng dù sống giữa những sự đời thường, bạn vẫn có thể mơ ước một cái gì đó hơn nữa, đó là ước mơ nên thánh như “Cha chúng ta trên trời là Đấng Thánh”; đó là say mê Thầy Giê-su đến độ dám liều bỏ mọi sự để bước theo thật sát những bước chân của Ngài.
Sống Lời Chúa: Say mê Đức Ki-tô, tôi quyết tâm dù làm một việc nhỏ, không làm một cách tầm thường xoàng xĩnh mà làm với tất cả tận tâm và yêu mến.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con ước mơ trở nên những tay thợ lành nghề cho cánh đồng truyền giáo Chúa, xin Chúa giúp con vượt qua tất cả những thách đố để đáp lại tiếng gọi trở nên tông đồ nhiệt thành của Chúa. Amen.
16.Thánh Anrê tông đồ--Giáo Phận Phú Cường
Trình thuật Tin Mừng chúng ta suy gẫm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên đi theo Người. Họ là: Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Khi gặp họ đang làm nghề chài lưới, Người bảo: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”(Mt 4, 19).
Lời kêu gọi của Chúa Giêsu cho thấy điều cốt lõi của người môn đệ là bước theo và ở lại với Người. Chính sự gắn kết mật thiết với Chúa, người môn đệ Đức Kitô sẽ cảm thấu được tình yêu và thông hiểu được giáo huấn của Người. Nhờ đó, họ mới có thể trở nên “những kẻ lưới người”, rao giảng Tin Mừng tình yêu và mang nhiều người đến với ơn cứu độ của Chúa.
Thánh Anrê mà Giáo Hội mừng kính hôm nay là một trong những môn đệ như thế. Sau khi ở lại với Chúa, nhận biết Người là Đấng Messia, học hỏi giáo huấn của Người, thánh nhân đã tín thác trọn vẹn cuộc đời mình cho Chúa và nhiệt thành cộng tác vào sứ vụ cứu độ của Người.
Là Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi bước theo Chúa Giêsu. Nhưng tâm thế của người môn đệ đích thực không chỉ là bước theo Chúa như những người đồng hành, mà còn là gắn bó mật thiết và chung phần chia sẻ sứ vụ với Người. Mỗi người chúng ta đều là “ngư phủ” bằng cách trở nên là chứng tá, là người loan báo Tin Mừng, là người an ủi, chữa lành những tổn thương nơi tha nhân, là khí cụ mang tình yêu Chúa đến cho người khác, nhất là những anh chị em đang gặp đau khổ, bất hạnh.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã thương chọn gọi chúng con làm môn đệ Chúa. Xin cho chúng con biết tận dụng mọi cơ hội để được gần Chúa, để được Chúa yêu thương, hướng dẫn và biến đổi chúng con thành những khí cụ hữu dụng để loan báo tình yêu cứu độ của Chúa đến cho muôn người. Amen.
17.Thánh Anrê tông đồ--giaophanvinhlong.net
Andreas mà tiếng Việt Nam phiên âm là Anrê là một danh từ ít dùng trong tiếng Hy lạp. Tuy nhiên nó mang một ý nghĩa rất thi vị: Anrê nghĩa là trượng phu, thanh nhã.
Đọc Tân ước, chúng ta chỉ thấy một ít đoạn sau đây nói về thánh Anrê, hoặc nói đến tên ngài.
Lần trước hết: hôm ấy thánh Gioan Tẩy giả đứng với hai môn đệ tại Bêthania, bên kia sông Giođanô. Nhìn thấy Chúa Giêsu đi qua, ngài nói với hai môn đệ: "Kìa Con Chiên Thiên Chúa". Nghe nói như thế, hai môn đệ vội rảo theo Chúa Giêsu, Chúa Giêsu bảo họ:
- Các người tìm ai ?
- Thưa Thầy, Thầy đi đâu bây giờ ?
- Cứ đến mà xem.
Lúc đó là bốn giờ chiều và hai môn đệ đi theo Chúa suốt buổi hôm ấy. Hai môn đệ đó là Anrê; em ông Simon Phêrô, và một người khác có lẽ là Gioan. Lúc về nhà gặp Phêrô, Anrê kể lại cho em nghe: "Ồ, chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mesia, rồi Anrê dẫn em đến gặp Chúa Giêsu. Hôm sau, Chúa Giêsu trẩy đi Galilêa còn Anrê và Phêrô ở lại Bétsaiđa mạn bắc hồ Tibêria.
Nhưng lần khác, đi trên bờ hồ Chúa Giêsu thấy Anrê và Phêrô đang thả lưới vì các ông là những dân chài, Chúa liền bảo họ:
- Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi nên kẻ đánh lưới người!
Lập tức họ bỏ lưới và theo Chúa. Lại một lần sau khi giảng ở nhà hội Caphanaum ra, Chúa vào nhà ông Phêrô và Anrê chữa khỏi bệnh cho bà mẹ vợ ông Phêrô.
Còn lần trên núi, bên kia biển Galilêa, dân chúng vây quanh Chúa Giêsu. Thấy họ đói, Chúa Giêsu lại hỏi:
- Làm sao kiếm của ăn cho họ được ?
Thánh Anrê thưa:
- Đằng kia có đứa trẻ mang năm chiếc bánh mạch nha và hai con cá nhỏ, nhưng bấy nhiêu thấm vào đâu với số người đông đảo này!
Chúa Giêsu nói:
- Cứ bảo họ ngồi xuống. Rồi Người làm phép lạ nhân bánh ra nhiều và phân phát cho mỗi người được ăn no nê. Cũng chính Anrê lúc ở Giêrusalem vì thánh Philipphê xúi giục đã trình bày cho Chúa biết có một số dân ngoại nói tiếng Hy lạp muốn xin gặp Chúa. Lần nữa, khi Chúa Giêsu ở đền thờ đi ra và nói cho các môn đệ biết ngày "tàn" của đền thánh, thì thánh Anrê cùng với thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, đã lợi dụng lúc Chúa ngồi trên núi cây dầu nhìn về thánh đường đến hỏi riêng Chúa:
- Xin Thầy hãy nói cho chúng con biêt khi nào việc ấy xảy đến, và có dấu hiệu gì báo trước!
Sau cùng thánh Anrê là một trong lớp mười hai tông đồ được Chúa sai đi giảng đạo. Trong số mười hai tông đồ, thánh Matthêu và thánh Luca kể thánh Anrê sau thánh Phêrô, thánh Máccô lại kể ngài sau ba thánh Phêrô; Giacôbê và Gioan.
Tuy nhiên các sách Hy lạp vẫn chủ trương thánh Anrê được Chúa gọi đầu tiên.
Tài liệu Phúc âm chỉ cho chúng ta biết như vậy về thánh Anrê. Còn riêng về quãng đời truyền giáo của thánh nhân, chúng ta không có một văn liệu nào xác đáng. Trừ một đoạn văn rất đẹp ghi lại rất vắn tắt cuộc tử đạo của ngài như sau:
Quan lãnh sự xứ Akhaia truyền trói thánh Anrê vào cây thập giá để ngài chết dần mòn. Dân chúng nhất định không chịu, họ bảo: người này là đấng công chính, là bạn của Thiên Chúa, và là bậc thầy nhân hậu mà phải điệu đi giết à! Nhưng đứng trước thánh giá, thánh nhân kêu lên:
"Ôi! Thánh giá! Ôi sự rỗi từ lâu bạn đã mệt mỏi chờ tôi! Tôi tin tưởng rằng bạn sẵn sàng đón nhận người đầy tớ của Đấng đã chịu treo trên bạn, và tôi sung sướng bước đi theo bạn. Tại sao bạn được dựng lên ở đây, tôi đã nhận biết tất cả bí nhiệm của bạn rồi. Xin bạn hãy nhận lấy kẻ bạn mong chờ, để chính tôi, kẻ ngày đêm thầm ước vẻ đẹp của bạn cũng tìm thấy bạn. Nơi bạn tôi tìm được phần thưởng Thiên Chúa hứa cho tôi. Ôi Thánh giá dịu hiền! Hãy đưa kẻ hèn này về với Thiên Chúa Đấng Cứu chuộc tôi".
Dân chúng lặp lại những lời ấy cho quan phó lãnh sự nghe và kêu nài:
"Xin ông hãy trả lại cho chúng tôi người công chính, người thánh của Thiên Chúa. Xin đừng đang tâm giết người đẹp lòng Thiên Chúa. Đừng động đến con người hiền lành và đạo đức dường ấy. Đã hai ngày chịu treo nhưng ông ấy vẫn còn sống và luôn thốt ra những lời thánh thiện. Xin quan hãy trả lại chúng tôi con người thánh này để chúng tôi được sống với ông. Xin quan cởi trói người trinh khiết này để mọi gia đình được an hòa, hãy buông tha người hiền nhân này để khắp xứ Akhaia được hưởng nguồn cứu độ. Còn thánh Anrê ngài kêu cả tiếng:
"Lạy Chúa Kitô, xin đừng để đầy tớ Chúa đã được treo lên cây gỗ này vì danh Chúa bị tháo gỡ xuống. Xin chớ để kẻ được diễm phúc thấu hiểu huyền nhiệm thánh giá bị rơi vào mưu gian loài người... Nhưng lạy Chúa Giêsu, Đấng con yêu mến, tin nhận và ao ước được hưởng kiến, xin hãy đón nhận con, vì linh hồn con sắp được giải thoát. Amen". Theo sử gia Êusêbiô, thánh Anrê giảng đạo tại Scythia, nhưng theo nhiều tác giả khác, thánh tông đồ lại giảng đạo tại Êthiôpia, mấy xứ về phía nam Hắc hải và Patras thuộc Akhaia.
Nhưng điều phức tạp hơn cả có lẽ là nơi để thi hài thánh nhân. Thánh Gioan Kim khẩu nói rõ rằng không biết. Trái lại, sách tử đạo thư dòng thánh Giêrônimô lại chép ngài làm Giám mục tại Patras và chết ngày 30 tháng 11 mà không rõ thánh nhân chết năm nào. Nhưng năm 357, giáo chủ thành Alexanđria đem hài cốt ngài về Constantinôpôli. Ngoài ra còn rất nhiều nơi tự xưng là giữ được hài cốt thánh Anrê, như miền Fênicia, miền Basilicate, miền Concordia và đảo Chyprô. Vì thế, ngay từ mấy thế kỷ đầu tiên, rất nhiều nhà thờ mang tên thánh Anrê. Ngay ở Rôma năm 475, Đức Giáo Hoàng Simpliciô đã xây và thánh hiến một thánh đường kính thánh Anrê gần đại giáo đường Đức Bà Cả. Và cho đến thời Trung cổ, tại Rôma có hơn 30 nhà thờ dâng kính thánh Anrê. Phá kỷ lục hơn hết là tại nước Anh có hơn 700 thánh đường hay nguyện đường nhận thánh Anrê làm bổn mạng. Riêng tại nước Pháp, cũng như tại Việt Nam, sau thánh Phêrô, thánh Anrê rất được giáo dân tôn sùng và nhận làm bổn mạng.
Giáo hội kính lễ thánh Anrê vào ngày 30 tháng 11 hằng năm.
18.Ơn gọi tuyệt vời--nhathothaiha.net
“Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. (Mt 4,18-22)
Ơn gọi là lời mời gọi làm đẹp lòng Chúa bằng chính con người của mình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã kêu gọi những môn đệ đầu tiên phục vụ cho sứ mạng loan báo Tin mừng của Người. Đây là những môn đệ sẽ hiện diện trong biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giêsu. Bởi các ông có một sự đơn sơ, quyết đoán và phó thác vào tình yêu thương của Thiên Chúa.
Thánh Anrê đã lắng nghe tiếng Chúa và trở nên môn đệ của Người. Thánh nhân đã sống trọn vẹn ơn gọi được lãnh nhận. Và giờ đây, Ngài đang hưởng vinh phúc Nước Trời. Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi nên thánh bằng chính ơn gọi của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra ơn gọi độc đáo của mỗi người. Nhờ đó, chúng con có thể làm đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn bằng cách sống hết mình với ơn gọi mà Chúa đã ban cho mỗi người chúng con. Amen.
19.Noi gương thánh Anrê theo Chúa rao giảng Tin mừng--Đaminh Trần Văn Chính
Người bảo các ông: “ Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Lập tức các ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. (Mt 4, 19)
Suy niệm
Nhà Đại văn hào Voltaire (1694-1778) người nước Pháp, ông là một con người rất tài giỏi, có nhiều khả năng hơn người, nhưng thay vì dùng những tài năng Chúa ban cho đó để ca tụng, ngợi khen Thiên Chúa và làm sáng Danh Ngài thì ông lại chống đối, đả kích Giáo Hội và châm biếm báng bổ Thiên Chúa. Có một lần ông tuyên bố như sau: “Ông Giê-su phải cần đến ba mươi ba năm và Mười Hai người môn đệ mới hình thành được đạo Công Giáo, còn tôi, chỉ cần một mình trong vòng hai mươi năm tôi sẽ làm cho Chúa về hưu, vì không còn ai phục vụ Ngài nữa!”.
Đúng hai mươi năm sau lời lộng ngôn đó thì ông ta qua đời. Cơn hấp hối của ông diễn ra thật là khủng khiếp, ông tru tréo gào thét và dùng tay cào xé thân xác mình.
Chứng kiến cảnh tượng đó, người giúp việc của ông đã nói rằng:
Nếu quỷ Satan mà nó có thể chết được, thì nó cũng không chết cách dữ tợn như Voltaire.
Một người khác cùng chăm sóc cho Voltaire lúc lâm chung thì nói:
Nếu đánh đổi cho tôi tất cả sự giầu có của Châu Âu, thì tôi cũng không muốn phải chứng kiến một lần nữa cái chết của kẻ vô thần!
Bài Tin Mừng hôm nay thánh sử Matthêu tường thuật lại sự việc Đức Giê-su kêu gọi Bốn Môn Đệ đầu tiên; đó là các ông Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đi theo Ngài để loan báo Tin Mừng. Chúng ta biết rằng với quyền năng vô cùng của Thiên Chúa thì Ngài chỉ cần phán một lời thôi nhân loại sẽ hoàn toàn được cứu rỗi hết. Thế nhưng Thiên Chúa không muốn như vậy, mà Ngài muốn trong công trình cứu độ của Ngài có sự cộng tác của mỗi người chúng ta. Khi xưa, khi bắt đầu hành trình rao giảng, Ngài đã tỏ bày ý muốn đó bằng cách chính thức mời gọi các Môn Đệ để họ cùng Ngài mà đi loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Cho đến lúc trước khi về trời Người còn truyền lệnh cho các môn đệ: “ Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20).
Điều đáng lưu ý và cảm phục ở đây là sau khi nghe tiếng Đức Giê-su kêu gọi thì bốn ông đã đáp lại bằng một thái độ dứt khoát, không do dự, không chần chừ: “Lập tức các ông bỏ mọi sự mà đi theo Người”. Các ông không đòi hỏi nơi Đức Giê-su một điều kiện nào hết, các ông chỉ một lòng nghe theo tiếng Chúa, dứt bỏ mọi sự và đi theo Ngài. Qua thái độ trên, chúng ta thấy lòng tin tưởng và phó thác nơi các ông mạnh mẽ dương nào, mặc dầu lúc đó có thể các ông chưa hiểu biết về Đức Giê-su nhiều. Điều này đáng để cho chúng suy gẫm mà học đòi bắt chước.
Ngày chúng ta được rửa tội thì chúng ta nghiễm nhiên trở thành con cái của Thiên Chúa và là một thành phần trong đại gia đình Giáo Hội. Lúc đó chúng ta có bổn phận và trách nhiệm “ đem Thiên Chúa đến cho mọi người và đem mọi người về với Chúa”, đó là căn tính của người Ky tô hữu.
Trong nghi thức Phép Thanh Tẩy, chúng ta nhận được cây nến cháy sáng. Điều đó nói lên rằng chúng ta đã nhận được ngọn lửa sáng từ Đức Giê-su ky tô, ngọn lửa sáng ấy sẽ soi sáng cho chúng ta tiến bước trên đường đời, đồng thời chúng ta cũng phải biết đem ngọn lửa cháy sáng đó để soi sáng cho mọi người chung quanh.
Qua Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta đã trở thành môn đệ của Chúa và vì thế chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho mọi người chung quanh bằng đời sống đạo đức gương mẫu, chu toàn các giới luật của Chúa và của Hội Thánh để từ cuộc sống tốt đẹp đó người ngoài nhìn vào mà nhận ra Thiên Chúa đang ngự trị trong tâm hồn của chúng ta. Ngoài ra, chúng ta còn phải siêng năng cầu nguyện, kết hợp với những hy sinh hãm mình dâng lên Thiên Chúa để cầu xin cho những người chưa biết Chúa sớm trở về cùng Ngài, đồng thời sẵn sàng đóng góp tiền của cho công việc truyền giáo của Giáo xứ cũng như Giáo Phận nơi mình đang sinh sống. Đó là phương cách tốt nhất để chúng ta cùng cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ của Ngài
Thánh Phao-lô trong thư gửi cho tín hữu Cô-rin-tô đã viết: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9, 16). Thiết nghĩ, câu nói này không phải chỉ dành riêng cho thánh nhân mà là câu nói tâm niệm của mỗi người tín hữu Công Giáo.
Hôm nay cũng là ngày Giáo Hội kính nhớ thánh Anrê Tông Đồ. Đây cũng là dịp để chúng ta noi gương bắt chước thánh nhân mà sẵn sàng từ bỏ mọi sự của thế gian mà mạnh mẽ, dứt khoát đi theo Chúa và trở nên môn đệ của Ngài.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, Chúa cho con được vinh dự cộng tác với Ngài trong công trình cứu chuộc nhân loại, xin cho đời sống của con trở nên khí cụ trong bàn tay của Chúa để mọi ngày trong suốt cuộc đời của con biết kính thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự, biết yêu thương và phục vụ anh em, biết cầu nguyện, hy sinh hãm mình với ước mong Danh Chúa được mọi người đón nhận khắp nơi. Con cầu xin nhờ Danh Đức Giê-su Ky-tô Chúa của con. Amen.
Sống Lời Chúa.
Luôn cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo được tiến triển và mỗi ngày cố gắng làm một việc tốt với ý nguyện cho mọi người nhận biết Chúa.
20.Thánh Anrê con người khiêm tốn
Khi một chiếc tầu hỏa xuyên châu lục chạy vèo qua khung cửa, một giám mục đã già đang nói với một linh mục trẻ vừa mới ra khỏi chủng viện về đời sống đầy những biến cố của ông. Rồi ông quay lại linh mục trẻ và yêu cầu ông này kể lại ơn gọi của mình.
Linh mục kiểu cách đáp lại:
”Ồ, nói ra thì rất đơn giản, tất cả những gì con muốn nói là vì Chúa đã cần đến con.”
Giám mục nhận xét: ”Này anh bạn trẻ, đây là sự trùng khớp thật thú vị: Nếu như tôi còn nhớ, trong Tin Mừng chỉ có một lần Chúa nói Người cần một cái gì đó. Trong Lu-ca 19:34 nhân dịp Người sắp sửa vào Giê-ru-sa-lem một cách vinh quang, Người nói Người cần một con lừa.”
Thánh Kinh có câu: "Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi” (Tv 130, 1). Ai sống khiêm tốn thì sẽ được Thiên Chúa yêu thương và được mọi người quý mến.
"Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,5). Điều Chúa cần nơi chúng ta chính là tấm lòng khiêm tốn thực thi thánh ý Người.
Thánh Anre là một con người như thế. Đầy khiêm tốn và nhiệt huyết. Theo Thánh Kinh Anrê là môn đệ đầu tiên được thánh Gioan giới thiệu đến với Chúa Giêsu. Anre đã không nghĩ cho mình mà ông đã nghĩ đến anh.
Ông đã gặp anh và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia. rồi ông đưa Simon Phêrô đến gặp Đức Giêsu. (Ga l,41-42).
Lần thứ hai chúng ta gặp lại An rê trong Kinh Thánh vài tháng sau.
Một đám đông nghe Chúa giảng suốt ngày. Trời đã xế và Người phải trở về. Đối với một số người. đường đi xa xăm lắm.
Những người đàn bà đã thấm mệt, những đứa trẻ đã lả người.
Họ không còn lương thực. Tông đồ của Chúa Giêsu nghĩ ngợi hoang mang.
Rồi Anrê bước tới, Phúc âm lại bảo "Anrê, em của Phêrô" lại một lần nữa đã giới thiệu một người đến với Chúa Giê-su khi ông nói:
"Đây có một em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá..." (Ga 6,9).
Và rỗi lần thứ ba ta gặp lại nhằm vào ngày lễ cuối cùng của cuộc đời Đấng Cứu Thế.
Đức Giêsu vào Yêrusalem vinh dự tràn đầy. Vài người gốc Hy Lạp đến Yêrusalem (Ga 12,20). Họ đến dự lễ Vượt Qua. Họ nghe nói về Giêsu Nazareth. Họ muốn gặp Người.
Và thế là Anrê, không một giây do dự, cùng Philíp đã dẫn những người gốc Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu, và chắc hẳn đó là điều làm Chúa hài lòng.
'Và người ta sẽ từ Phương Đông. Phương Tây, từ Phương Bắc, Phương Nam mà đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa" (Lc 13,29).
“Còn Thầy, một khi Thầy được giương lên khỏi mặt đất. Thấy sẽ kéo mọi người lên với Thầy" (Ga 12,32).
Ngoài ba lần ấy, ta không côn gặp lại An rê nữa.
Qua đây ta thấy, Anrê luôn là người giới thiệu kẻ khác cho Chúa Giêsu.
Nhưng nhờ Anre mà Chúa có một người thừa kế di sản của Chúa. Nhờ Anre mà Chúa có thể nhân rộng bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn. Nhờ Anre mà Chúa đã mang tin mừng tới cho dân ngoại.
Xin cho chúng ta biết noi gương thánh Anre luôn sống quảng đại nhưng đầy khiêm tốn. Không khoe trương đánh bóng chính mình nhưng hết mình mang người khác đến với Chúa để nhờ những nỗ lực của chúng ta, Giáo hội có thêm nhiều người làm tông đồ sáng danh Chúa. Amen.
21.Từ bỏ để chọn lựa
Từ bỏ là một thái độ dứt khoát, đòi hỏi một ý chí kiên định, một sự chọn lựa khôn ngoan và sáng suốt.
Con người luôn luôn có hai chiều hướng tồn tại, đó là thiện và ác, phúc và tội, khôn ngoan và dại khờ, đúng và sai, lợi ích và thiệt thòi, sống và chết, thiên đàng và hoả ngục. Đứng trước một sự chọn lựa ta phải dứt khoát không thể lưỡng lự, hoặc chọn cái hay chọn cái khác, mà phải chọn dứt khoát. Vì khi lưỡng lự chính là lúc ta thiếu khôn ngoan sáng suốt nên không thể đưa ra quyết định dứt khoát để chọn lựa.
Chính vì tâm lý, ý chí con người luôn hay dao động nhất là về tình cảm và giàu sang, cho nên dẫn đến dùng dằng trong chọn lựa khó dứt khoát, và thời cơ sẽ mau qua. Khi thời cơ đã qua thì sự thiếu dứt khoát luôn trở nên một điều xấu, hoặc nuối tiếc. Có câu chuyện kể rằng:
Trên sân ga, một đôi tình nhân đang ngồi bên nhau để dành cho nhau những giây phút chia tay cuối cùng, vì cô ta phải dứt khoát từ bỏ anh, người cô yêu say đắm để vâng lời cha mẹ mà chuyển đi phương xa. Khi đoàn tàu đã hú còi báo chuẩn bị chuyển bánh, thì đôi uyên ương dùng dằng khó dứt khoát. Khi cô ta nghe tiếng mẹ gọi, cô đã vội vàng chạy lên tàu. Khi chạy đến nơi thì cửa tàu cũng đã khép. Buồn bã qua lại chỗ người yêu, thì người yêu cũng đã lên tàu về quê.
Lòng người luôn bị dao động bởi thiếu sức mạnh của tinh thần, vắng bóng sự khôn ngoan của Thánh Thần, khi trong tình huống cần phải quyết định dứt khoát thì không thể dứt khoát.
Tin Mừng hôm nay theo thánh Mát-thêu (4,18-22) tường thuật Chúa Giêsu đi tuyển các môn đệ để thực hiện công cuộc cứu chuộc trần gian. Chúa Giêsu đã gọi ông Phê-rô và ông Anre đi theo Chúa làm tông đồ của Chúa. Khi ông Anre nghe tiếng Chúa Giêsu gọi, thì ngay lập tức ông bỏ tất cả ở mà đi theo Chúa. Ông đã có một thái độ dứt khoát không một chút do dự hay hoài nghi.
Vì sao ông lại có thể dứt khoát trong chọn lựa như thế. Cũng như sự chọn lựa dứt khoát theo Chúa của mười hai tông. Phải chăng các ông đã nhìn thấy những phép Chúa Giêsu đã làm, hay các ông biết Chúa là Vua, hay Chúa rất giàu sang phú quý… Chúa Giêsu không phải như thế.
Vậy vì đâu mà các ông có chọn lựa dứt khoát như thế?
Có thể nói rằng, sau khi Chúa Giêsu ăn chay bốn mươi ngày đêm để cầu nguyện, Chúa Giêsu đã tràn đầy Thánh Thần hiện rõ trên con người đầy quyền uy của Thiên Chúa, nên khi nhìn thấy Chúa Giêsu và nghe tiếng Chúa gọi, thì trong lòng ông đã nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thánh. Và ông chọn lựa dứt khoát.
Làm sao ông Anre có thể nhận ra Chúa Giêsu?
Để nhận ra Chúa Giêsu là Đấng không thuộc về thế gian đang đứng trước mặt mình, chắc chắn ông đã có một đời sống thánh thiện, thuộc về Thiên Chúa. Đời sống của ông chính là luôn cầu nguyện kết hợp với những điều dạy bảo trong kinh thánh, khao khát sự trọn lành thánh thiện, và đặc biệt là ông luôn sống trong sự hướng dẫn của Thần Khí Chúa. Cho nên khi gặp Chúa Giêsu và nghe lời mời gọi, Thần Khí Chúa đã tác động mạnh mẽ trong ông, và ông đã biết từ bỏ để sẵn sàng chọn làm môn đệ của Chúa Giêsu.
Cũng như tông đồ Nathanael khi gặp Chúa Giêsu (Ga 1, 45-51), ông thốt lên: “Lậy Thầy, Thầy là con Thiên Chúa, là vua Israel”. Hoặc cuộc gặp gỡ của ông Gia kêu (Lc 19, 1-10), khi Chúa gọi ông từ trên cây sung, ông đã vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón tiếp Người. Ông Nathanael và ông Gia kêu chắc chắn là có một đời sống kết hợp với Thiên Chúa qua đời sống thường ngày, dù là vẫn ở trong tình trạng yếu đuối tội lỗi. Nhưng sau khi gặp Chúa, đã từ bỏ dứt khoát để chọn điều tốt đẹp nhất là Chúa Giêsu Kitô.
Trong cuộc sống của mỗi con người ngày nay, nhất là trong thời đại công nghệ hiện đại 4.0, mạng lưới thông tin tuyên truyền rất linh hoạt, thông minh, ảo diệu, thuật hoá khôn lường, làm cho cái tâm của mỗi con người đều bị ảnh hưởng, dẫn đến mù mờ lương tâm, không biết chọn lựa, dẫn đến dứt khoát từ bỏ những điều tốt lành mà tin theo phó thác những điều xấu xa, tội lỗi. Thậm chí chọn lựa sai lầm đến nỗi chống đối cả Giáo Hội, chống đối cả Thiên Chúa.
Từ Bỏ để Chấp Nhận, nếu cứ thuận theo con người thì không thể có một chọn lựa đúng, một chọn lựa thánh thiện hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, cần phải có một sự kết hợp với Chúa Thánh Thần, để mọi suy nghĩ và quyết định từ bỏ hay chọn lựa mới thật sự là đúng, là thánh thiện, là được sống muôn đời. Trong Mùa Vọng, hơn bao giờ hết là cần phải biết chuẩn bị để đón Chúa, khi Chúa Giêsu Hài Đồng đến trong lòng, ta sẽ có sự Từ Bỏ dứt khoát để chọn lựa sự Bình An của Chúa Hài Đồng Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn biết noi gương Thánh Anre sống đời sống kết hợp với Chúa trong cầu nguyện, trong bác ái, trong hy sinh và trong phục vụ, để con luôn có Chúa trong tâm hồn, trong trí khôn, cho con luôn sáng suốt và khôn ngoan để chọn điều tốt lành, thánh thiện, và chỉ chọn một mình Thiên Chúa. Amen.
22.Thánh Anrê, Tông Đồ
Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như anh mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài:
- Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người ta.
Đây không phải lần đầu Anrê đã gặp Đấng Cứu Thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói:
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Và Anrê có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng Thiên Sai mà nhân loại mong chờ. Gioan và Anrê lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ:
- Các anh tìm chi vậy?
Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại:
- Thưa Thầy, thày ở đâu?
Chúa Giêsu nói:
- Hãy đến mà xem.
Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi trở về nhà Anrê đã nói với anh mình:
- Chúng tôi đã gặp được Đấng Thiên Sai.
Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tôn thờ Đấng Cứu Thế ở trong lòng rồi.
Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc phục sinh những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đã nói:
- Có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy thì thấm vào đâu đối với ngần này người (Ga 6,8-9).
Và Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở Giêrusalem, Ngài còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người. Ngài đã nghe loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đã sung sướng gặp lại Thày Chí Thánh. Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật trên của Phúc Âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc Âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc Hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày.
Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida: Egêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:
- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Egêa vặn lại:
- Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một khổ giá như thày mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Egêa:
- Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy:
- Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới Thầy Chí Thánh là Đấng đã nhờ ngươi mà cứu chuộc ta.
Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói:
- Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện:
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.
23.Thánh Anrê tông đồ
Anrê tiếng Hy Lạp có nghĩa là mạnh mẽ, can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm 1 trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Thân phụ là Gioana. Như anh mình là Phêrô, ngài làm nghề đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền.
Như thế, ngài thuộc lớp người nghèo được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênêzareth. Thánh Anrê là một trong 4 người môn đệ đầu tiên đã được Chúa Giêsu gọi ngay sau khi Người chịu phép rửa ở sông Giođan, lúc ấy Anrê đang là môn đệ của Gioan Tẩy giả.
Phúc âm kể như sau: “Hôm đó, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu, Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?”
Họ đáp: “Thưa Rabbi (nghĩa là “Thưa Thầy”), Thầy ở đâu?”
Người bảo họ: “Hãy đến mà xem”.
Họ đã đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người. Lúc đó vào khoảng 4 giờ chiều (Ga 1, 35-39). Và sau khi ở lại với Chúa Giêsu, Anrê đã giới thiệu Chúa cho anh mình trước tiên: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1, 41-42).
Rồi ông dẫn anh mình đến gặp Đức Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha (tức là Phêrô)” (Ga 1, 40-43).
Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy, Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Thánh nhân được Chúa chính thức gọi theo Người lúc đang thả lưới với anh là Phêrô, ở biển hồ Tibêria. Người gọi các ông trong hoàn cảnh sau đây: “Người đang đi dọc biển hồ Galile thì thấy hai anh em kia, là ông Simon cũng gọi là Phêrô, và người em là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển. Vì các ông làm nghề đánh cá, Người bảo các ông: “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức, các ông bỏ chài lưới đi theo Người (Mt 4, 18-20).
Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc Chúa phục sinh những kẻ chết. Trong phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều, chính Anrê là người lên tiếng thưa với Chúa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 12, 22).
Ở Giêrusalem, Anrê còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người (Ga 12, 23). Anrê đã được nghe loan báo về các chân phúc, các dụ ngôn, ngài cũng có mặt trong bữa tiệc ly. Sau Phục sinh, ngài đã sung sướng gặp lại Thầy Chí thánh. Ngày lên trời, Anrê thấy Thầy khuất vào đám mây. Ngày hiện xuống, Anrê cùng các tông đồ hân hoan đón nhận Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật trên của Phúc Âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Tương truyền sau khi Chúa về trời, thánh nhân đã loan báo Tin Mừng ở Giêrusalem, Giuđê và Galilê. Sau đó, ngài đến giảng đạo ở vùng Biển Đen và Hy Lạp rồi chịu tử đạo tại đây.
Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc Âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc Hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, ngài ăn chay 5 ngày.
Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida: Êgêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: “Kẻ ngoại lai” này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư?
Nhưng Anrê không sợ gì Êgêa. Ngài đã nắm vững được chân lý, ngài nói: Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết, ông phải biết đến Vị Thẩm phán xét xử mọi người ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.”
Êgêa vặn lại: “Vị Thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.” Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc, làm sao ngài để mất danh dự được đóng đinh và cùng một đau khổ giá như Thầy mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, ngài nói với Êgêa: “Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.”
Thánh nhân chẳng những không sợ mà còn vui mừng nói: “Chết treo trên khổ giá, đó là hạnh phúc lớn nhất của tôi, vì được chết giống Thầy Chí thánh của tôi”. Viên tổng trấn nổi giận truyền đem treo ngài lên thập giá cho chết.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính và nói: “Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu ta mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới Thầy Chí thánh là Đấng đã nhờ ngươi mà cứu chuộc ta.” Dịu dàng, Anrê giang tay ra, ngài bị cột bằng dây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo dây cho ngài. Họ nói: “Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quý của Thiên Chúa.”
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này, ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi Thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp Thầy, trong Thầy mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.” Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền rằng việc thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV, người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.
Lý hình cột treo ngài lên thập giá. Từ trên cao, ngài kêu gọi mọi người hãy tin thờ Chúa rồi gục đầu tắt thở.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã khen ngợi thánh Anrê tông đồ: “Sau khi ở lại với Đức Giêsu và học cùng Người được nhiều rồi, Anrê đã không giấu kho tàng quý báu nơi mình, nhưng vội vàng chạy đến anh mình và chia sẻ với họ…
“Những điều ông đã học trong thời gian rất vắn kia, ta có thấy ông đã nói lên thế nào? Ông vừa tuyên xưng uy thế của Thầy, một uy thế hấp dẫn các môn đệ, vừa nói lên sự siêng năng chăm chỉ của môn đệ đã chuyên chú ngay từ đầu. Đó là tiếng nói của một tâm hồn hết sức ao ước Đấng Mêsia đến, và của linh hồn mong đợi Người tự trời đến, họ nhảy mừng khi thấy Người hiện ra, rồi vội vàng đi báo tin đặc biệt đó cho kẻ khác. Đặc điểm của tình anh em, của nghĩa bạn bè và của tấm lòng chân thật là thông đạt cho nhau những điều thiêng liêng.”
Thánh Anrê là mẫu gương người công chính mới này. Quả vậy, Anrê nghe theo lời giới thiệu của Thầy mình là thánh Gioan Tẩy giả đến gặp Chúa Giêsu (Ga 1, 29-35). Trong cuộc gặp gỡ này, ngài đã tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế. Nhờ niềm tin này mà ngài đã bỏ mọi sự để đi theo Chúa và làm tông đồ của Chúa trong nhóm Mười Hai (Ga 1, 35-42).
Trong lễ kính thánh Anrê, bài Tin Mừng (Mt 4, 18-22) thuật lại ơn gọi như sau: Chúa Giêsu “thấy” những người này: Người kêu gọi, họ bỏ tất cả và đi theo Người. Họ cũng không tìm lý do và cũng không sợ khó khăn. Thực ra, họ cảm nghiệm bằng tình yêu nhanh hơn lý trí: Đức Giêsu là ai và đi theo Người có nghĩa là gì.
Đặt bài Tin Mừng này trong ngày lễ mừng kính thánh Anrê tông đồ, phụng vụ muốn chúng ta nhận thức rằng: “Thánh Anrê là một trong nhóm Mười Hai tông đồ của Chúa. ngài đã nghe nói, được giới thiệu về Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, nên ngài đã hoàn toàn dấn thân và dâng trọn cuộc đời cho Chúa trong đời sống và sứ vụ Tông đồ.”
Thánh Anrê quả là vị Tông đồ giàu tình bạn và ngài đã quảng đại và vị tha chia sẻ Chúa Giêsu cho người khác, chứng tỏ Anrê là người khiêm nhường, người làm công cho kẻ khác, là người ẩn mình để kẻ khác lớn lên, là người giữ vai phụ cho người khác và ông sẵn sàng bị quên lãng. Trong cánh đồng Tông đồ truyền giáo để mở rộng Nước Chúa, Chúa Giêsu cần những người như Anrê. Bạn có sẵn lòng làm công việc như Anrê để rao giảng Tin Mừng không?
Qua con người và công việc của thánh Anrê, chúng ta cảm nhận rằng Chúa cần những người giàu tình bạn chân thành. Những người tuy tài năng chỉ “một nén” nhưng sống làm chứng và ra đi kể lại câu chuyện “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”.
Những cuộc gặp gỡ nhau để chia sẻ kinh nghiệm sống Lời Chúa, những hoạt động Tông đồ truyền giáo khắp nơi đang diễn ra trên thế giới… phải chăng là những công việc của thánh Anrê mà chúng ta mừng kính hôm nay?
Ước gì lời chúng ta tung hô trong mỗi thánh lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến” được thực hiện nơi cuộc sống của mỗi người chúng ta theo tinh thần của thánh Anrê: vị Tông đồ giàu tình bạn.
24.Dám hy sinh chính mình
– Ghi nhớ: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.” (Mt 4,20)
– Suy niệm: Thái độ cần có của người môn đệ Chúa là tinh thần hy sinh, từ bỏ và mau mắn bước theo Thầy. Tinh thần ấy đã hội đủ nơi thánh tông đồ Anrê mà chúng ta mừng kính ngày hôm nay. Vừa nghe Đức Giêsu gọi, thánh Anrê và anh là Phêrô lập tức bỏ chài lưới và bỏ cả cha lại mà mau mắn bước theo Đức Giêsu.
Sứ mạng loan báo Tin mừng cho muôn dân luôn là việc cấp bách của mọi thời đại. Thái độ chần chừ, uể oải hay chùn bước trước những hy sinh, từ bỏ là không phù hợp với người loan Tin mừng. Ngày nay, Chúa và Giáo hội vẫn đang rất cần những người dám hy sinh chính mình dấn thân loan Tin mừng cứu độ cho mọi người. Noi gương thánh Anrê Tông Đồ chúng ta mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi và dám hy sinh tất cả vì Tin mừng và vì Danh Đức Giêsu, hầu mai ngày chúng ta được cùng thánh nhân hưởng hạnh phúc Nước Trời bên Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
– Sống Lời Chúa: Cộng tác làm những công việc chung cách tích cực và vui vẻ.
– Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Xin ban cho Giáo hội Chúa có nhiều người dám hy sinh và dấn thân cho việc loan báo Tin mừng . Xin Chúa cũng rộng ban cho Giáo hội nhiều tay thợ gặt lành nghề và thiện chí để Giáo hội Chúa được lan rộng khắp nơi hầu mưu ích ơn cứu độ cho nhiều người. Amen.
29/11 Làm chứng về Chúa
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Làm chứng về Chúa.
Thứ Tư tuần 34 thường niên.
"Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy, nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất".
Lời Chúa: Lc 21, 12-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.
"Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Một sợi tóc
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Lúc trời còn tối, ngày 16 tháng 11 năm 1989, tại nước El Salvador,
một nhóm người có vũ trang đã xâm nhập vào Đại Học Trung Mỹ.
Chúng đã giết sáu linh mục Dòng Tên và hai mẹ con người nấu ăn.
Giết xong chúng đã kéo xác ra ngoài vườn và làm những trò man rợ.
Các linh mục này đều là những nhà trí thức, có ảnh hưởng trong xã hội.
Họ muốn nói lên tiếng nói của người nghèo, chịu cảnh bất công,
muốn chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài khiến hơn 70 ngàn người chết.
Họ đã phải trả giá bằng vụ thảm sát bất ngờ,
đã chết như những chứng nhân, những vị tử đạo thời mới.
Chuyện ấy đã xảy ra cách đây hai mươi năm rồi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói về những cuộc bách hại
xảy ra trước khi Ngài trở lại trong ngày tận thế.
Các môn đệ sẽ phải chịu những gì Thầy mình đã chịu.
Họ sẽ bị bắt, bị ngược đãi, bị tù đày, bị đem ra tòa đạo, tòa đời (c. 12).
Họ sẽ bị nộp bởi chính người thân, bị mọi người thù ghét,
và thậm chí bị giết hại (cc. 16.17).
Tất cả những gì các môn đệ phải chịu đều là vì danh Thầy (cc. 12. 17).
Chính tình yêu trung tín đối với Thầy và giáo huấn của Thầy
đã khiến bao Kitô hữu tự nguyện đón nhận khổ đau và cái chết.
Không phải chỉ chối Thầy cách công khai mới mang tội bất trung.
Không phải chỉ bước qua thập giá mới là phản bội.
Bất cứ khi nào chúng ta bước qua những giá trị ngàn đời của Kitô giáo,
như sự thật, sự sống, công bằng, bác ái, nhân phẩm, tự do và lương tâm,
khi ấy chúng ta chối bỏ Đức Kitô Giêsu.
Bất cứ khi nào chúng ta dám xả thân để sống cho những giá trị đó,
chúng ta đã làm chứng cho Ngài rồi.
Gioan Tẩy Giả đã chết vì nói sự thật mất lòng với Hêrôđê.
Maria Goretti đã chết vì muốn sống trong sạch.
Maximilien Kônbê đã xin chết thay cho người khác vì lòng bác ái.
Tất cả đều được Giáo Hội tôn kính như những vị tử đạo,
dù họ không chết vì tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô.
Đối với Đức Giêsu, giây phút đứng trước tòa là giây phút quan trọng.
Người môn đệ có cơ hội công khai làm chứng cho Thầy (c. 13).
Đức Giêsu không để họ một mình đối diện với sức mạnh của quyền uy.
Ngài hứa sẽ giúp họ trả lời những cáo buộc của tòa án (c. 15; Cv 6, 10).
Thế nên họ chẳng có gì phải xao xuyến, lo âu (c. 14).
Tòa án trở thành nơi làm chứng tuyệt vời của người môn đệ.
Điều quan trọng khi bị bách hại là phải kiên trì (c. 19).
Có nhiều kiểu hành hạ nhằm làm cho người môn đệ bỏ cuộc.
Nhưng một sợi tóc anh em cũng không bị mất (c. 18)
nghĩa là Chúa sẽ lo từng li từng tí cho môn đệ của mình.
Mạng sống của các môn đệ ở đời này có thể bị mất (c. 16),
nhưng nếu họ kiên trì và trung tín, họ sẽ giữ được nó ở đời sau.
Chúng ta cầu cho nhau được ơn kiên trì giữa thử thách của thời đại mới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Suy niệm 2: Tiếng nói cuối cùng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Càng về cuối thời gian người tôi tớ Chúa càng khốn đốn. Vì thế gian càng trở nên điên cuồng. Quyền lực trần gian muốn khẳng định mình. Ra tay bắt bớ hành hạ những người tôi tớ của Thiên Chúa. Quyền lực này thật ghê gớm. Gây nên chia rẽ trong bản thân. Trong người thân. Trong gia đình: “Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em”. Người công chính sẽ bị nộp. Bị kết án. Và bị giết chết. Nhưng Chúa căn dặn ta đừng sợ. Đó chính là cơ hội làm chứng cho Chúa. Và Thánh Thần sẽ soi sáng cho ta biết phải nói gì để chống lại thế gian gian ác bất công. “Cứ kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”.
Điều đó đã được chứng nghiệm thời ông Đa-ni-en. Đế quốc Ba-by-lon vô đạo quá hùng mạnh. Dân Chúa bị bắt làm nô lệ. Những thanh niên ưu tú như Đa-ni-en phải phục vụ nhà vua. Vua Bên-sát-xa càng ngông cuồng hơn vua cha Na-bu-cô-đô-nô-sô. Coi mình hơn Thiên Chúa. Chúa đã ra tay. Bàn tay hiện lên viết những hàng chữ mà nhà vua không hiểu. Bấy giờ phải thỉnh cầu Đa-ni-en. Đa-ni-en cho biết: “Ngài tự cao tự đại, đã chống lại chúa Tể trời cao….Vì thế, Thiên Chúa đã cho phần bàn tay ấy đến viết những hàng chứ kia…vương quốc của ngài đã bị phân chia và trao cho các dân Mê-đi và Ba-tư”. Đa-ni-en, người nô lệ đã trở thành người làm chứng cho Chúa (năm lẻ).
Thế lực trần gian điên cuồng ngạo mạn. Nhưng rồi sẽ tàn lụi. Thiên Chúa sẽ có tiếng nói cuối cùng. Cơn lôi đình của Thiên Chúa sẽ đến chấm dứt thời gian và không gian của thế lực trần gian. Thiết lập vương quốc mới “như biển trong vắt pha ánh lửa, và những người thắng Con Thú, thắng tượng của nó và con số tương đương với tên nó; tôi thấy họ đứng trên biển trong vắt ấy, họ cầm những cây đàn của Thiên Chúa và hát bài ca của ông Mô-sê, tôi tớ Thiên Chúa, và bài ca của Con Chiên; họ hát rằng: ….Chỉ có Ngài chí thánh chí tôn. Người muôn nước sẽ về phủ phục trước Tôn Nhan, vì ai ai cũng đều thấy rõ những phán quyết công minh của Ngài” (năm chẵn).
Trong thời gian cuối cùng này chúng ta sẽ gặp rất nhiều khốn khó. Sự dữ nổi lên tư bề. Ma quỉ muốn một lần cuối cùng vùng vẫy chống lại Thiên Chúa. Bắt bớ những tôi tớ trung tín. Muốn áp đặt sự dữ và vương quốc của nó trên trần gian. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Hãy can đảm làm chứng cho Chúa trước mặt các vua quan thời đại mới. Bằng đời sống siêu thoát. Không theo thói đời. Hãy tin tưởng. Trần gian rồi sẽ qua đi. Tiếng nói cuối cùng thuộc về Chúa. Cứ kiên trì. Ta sẽ được giải thoát.
Suy niệm 3: Cơ hội làm chứng
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Bài Tin Mừng hôm nay là một đoạn ngắn trong diễn từ về ngày tận thế. Có một câu chúng ta cần lưu ý, trong đó Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con sẽ bị người ta bắt bớ, ngược đãi, nộp cho Hội đường, và điệu đến trước nhà cầm quyền, vì Danh Thầy. Ðó là cơ hội để các con làm chứng về Thầy". Thật lạ lùng: bị bắt bớ, ngược đãi, tống ngục là chuyện đau khổ, nhục nhã, thất bại, thế mà Chúa Giêsu lại cho là hân hoan, là cơ hội tốt để làm chứng.
Trong thực tế, các môn đệ đã sống và thực hành điều đó. Phêrô và Gioan bị bắt và bị điệu ra trước Công nghị Do thái, các ngài chẳng những không buồn phiền, lo sợ, mà còn hân hoan, vui vẻ, vì nhờ đó có dịp để nói về Chúa Giêsu cho người khác. Phaolô bị bắt và bị xét xử, ngài cũng mạnh dạn nói về Chúa Giêsu cho các nhân vật cỡ lớn, như Tổng trấn Felix, Festo, và cả Hoàng đế Herode Agrippa nữa.
Nhưng cái gì đã tạo ra sự biến đổi nơi các môn đệ, cũng là bắt bớ, bách hại mà có người cho là thất bại, người khác lại cho là cơ may? Thánh Augustinô giải thích: cuộc sống con người là sự xung đột giữa hai tình yêu: yêu Chúa đến độ khinh mình, hoặc yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa. Nếu tội là yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa thì dĩ nhiên tôi sẽ bám vào những gì tôi cho là sung sướng ở trần gian, như tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp, và khi bị bắt bớ, tôi bị mất tất cả, lúc đó, bắt bớ bị coi là thất bại. Nhưng nếu tôi yêu Chúa đến độ coi thường bản thân, thì có bị bắt bớ vì Chúa, cũng chẳng mất mát gì; người ta có thể lấy tiền bạc, danh vọng, địa vị của tôi, chứ không thể lấy mất Chúa của tôi được, và đó còn là dịp để tôi rao giảng về Chúa cho họ là khác. Do đó, chẳng sợ gì hết, chỉ sợ tội mà thôi; cái căn bản là tình yêu đối với Chúa, nó làm thay đổi cuộc đời.
Trong thực tế, muốn biết chúng ta có yêu Chúa hay không, cứ nhìn vào cuộc sống hàng ngày xem chúng ta có dám vì Chúa mà can đảm khước từ những đam mê bất chính, những tham vọng không hợp ý Chúa, những thú vui không đẹp lòng Chúa, cho dẫu có vì thế chúng ta phải nghèo túng, phải vất vả hay không? Nếu trong cuộc sống, chúng ta dám hy sinh tất cả vì Chúa, lúc đó chúng ta mới có thể coi trường hợp bị bắt bớ vì Chúa là cơ hội để làm chứng cho Chúa.
Xin cho chúng ta được luôn mạnh mẽ trong niềm xác tín đó, và sẵn sàng làm chứng cho Chúa trong tất cả cảnh huống nào của cuộc đời.
Suy niệm 4: Đối mặt với thử thách
Vì danh Thầy anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình (Lc. 21, 17-19)
Người ta cứ tưởng rằng những người Kitô sẵn lòng tuyên xưng sứ điệp tình yêu và lòng thương xót, thì họ phải luôn luôn được đón rước, được thông cảm và được ca ngợi. Quá ảo tưởng! trái lại, họ là những tuyển sinh hoàn toàn được chỉ định chịu bắt bớ khổ nhục, chỉ vì lý do đơn giản này: sứ điệp của Đức Kitô là cách mạng, nó quấy rầy và phản đối những thói sống và những cách suy nghĩ của người đời.
Người ta chống đối Đức Kitô từ hai ngàn năm rồi. Người ta đã tấn công, hành xích các tông đồ và các Kitô hữu thời đầu tiên. Người ta cũng thấy xảy ra cho các tín hữu thời nay như vậy.
Là dịp để làm chứng
Đối với một Kitô hữu, phải được dự phần vào bị chống đối, bị dẫn đến khổ đau và bị đánh giá là tiêu cực. Sự chống đối cho họ có dịp làm chứng tốt hơn khi được đặc quyền đặc lợi. Người Kitô trở nên tốt hơn cho nhiều người khi người ta tấn công mình. Thử thách làm mình trưởng thành, sửa chữa mình, tăng nghị lực gấp bội cho mình, quyết tâm xác tín hơn và để có thể đạt nhiều thành tích tốt đẹp hơn. Thật ngược đời, chính giữa cơn thử thách và bị hành khổ, người Kitô có thể đạt tới đỉnh phong phú. Tất cả xảy ra đối với mình như xảy ra đối với Đức Kitô. Chính giờ phút này Thiên Chúa ở gần mình nhất và thực hiện một lần nữa mầu nhiệm đau khổ và sự chết để trở thành nguồn sự sống.
Những Kitô hữu quá yên ổn thì sao?
Nếu tất cả những điều trên là đúng, thì chúng ta phải tự hỏi mình: Có khi nào tôi đã chịu bắt bớ vì đức tin chưa? Có khi nào tôi chịu thử thách và chịu đau khổ vì lý do xác tín tôi là Kitô hữu không? Nếu chưa có bao giờ thì có lẽ niềm tin của tôi quá yếu, vì tôi là Kitô hữu quá sống yên ổn, vì tôi là một môn đệ quá yếu hèn của Đức Kitô. Khi một Kitô hữu thật sự không lo lắng tới ai, thì phải dành nhiều giờ để xét mình, để tự tra hỏi mình về giá trị hiện sinh Kitô hữu của mình? Đời sống Kitô hữu của mình có giá trị gì không?
RC
Suy niệm 5: Đau khổ vì đức tin
Xem lại thứ Sáu tuần 14 TN
Mang trong mình thân phận con người, với đầy đủ những giới hạn nhất định, chúng ta hẳn không thoát ra khỏi cảnh sợ hãi khi thử thách, đau khổ và cái chết xảy đến. Những người Công Giáo cũng không nằm ngoài quy luật đó. Mặt khác, người Công Giáo cũng không phải là hội của những người liều lĩnh để rồi coi những đau khổ, thử thách và bắt bớ như là một thành tích... Chắc chắn là không, và Đức Giêsu cũng không cổ súy cho chúng ta lựa chọn với thái độ như vậy!
Tuy nhiên, có những thử thách mang lại cho chúng ta niềm tin. Có những đau khổ mang lại cho chúng ta sự hãnh diện. Có những cái chết sẽ trả lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu! Tại sao thế? Thưa chính vì Chúa, vì Đạo mà chúng ta bị như thế thì thật là phúc cho chúng ta.
Theo lẽ thường, những người sống niềm tin của mình, thi hành cốt lõi Tin Mừng trong cuộc sống, thì sự bắt bớ, đàn áp, đánh đập và giết chết là số phận phải trả cho những lựa chọn vì Nước Trời.
Hậu quả này đã đến với Đức Giêsu và tất cả những ai tin cũng như rao giảng danh Ngài thì cùng chung số phận như vậy.
Thật thế, suốt dòng lịch sử hơn 2000 năm, Giáo Hội Công Giáo không ngừng bị bắt bớ... hàng hàng, lớp lớp, những con người trung kiên với đức tin đã phải đầu rơi máu đổ trên khắp mọi nơi... Vì thế, số phận của Thầy cũng là của trò, vì: “Môn đệ không trọng hơn Thầy”.
Ở mọi thời, người ta có thể kết án với đầy đủ mọi thứ tội. Tuy nhiên, mẫu số chung cho các bản án đó là chết vì đức tin, vì đạo, vì danh Chúa Kitô. Như thế, cuộc đời đầy thử thách của các ngài đã ứng nghiệm với Lời của Đức Giêsu: “Vì Danh Thầy, các con sẽ bị mọi người thù ghét”.
Trong cuộc sống hôm nay, những bách hại đó vẫn còn, nhưng có khác hơn vì nó đến từ nhiều phía, như: tự do tôn giáo không được đảm bảo; lương tâm con người bị chà đạp, o ép, công lý thuộc về đám đông. Số phận của những người lương thiện bị coi rẻ. Sự thật không được tôn trọng. Công bằng, công lý bị tước đoạt... Tất cả những thứ đó đưa người Kitô hữu vào một cuộc bách hại tận sâu thẳm từ lương tâm khi khước từ những điều bất chính, nghịch với đạo lý Tin Mừng.
Trước thực trạng đó, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trung thành với Lời Chúa dạy để sống trọn vẹn giá trị của Tin Mừng. Chấp nhận thiệt thòi phần xác để được lợi phần hồn. Đón nhận mọi đau khổ khi đứng lên đấu tranh cho công lý và công bằng. Và, nếu có phải đánh đổi để đón nhận phần thưởng sự sống đời đời thì hãy sẵn sàng và cố gắng, vì quê hương đích thực của chúng ta ở trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: con đường đưa đến hạnh phúc thật chính là con đường khổ giá. Xin Chúa ban cho chúng con cam đảm, trung thành đi theo Chúa đến cùng. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 6: Sống đời nhân chứng đức tin
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thử thách, gian nguy, khốn khó đều là những cơ hội thuận tiện để sống đời nhân chứng đức tin. Chúa sẽ nâng đỡ, bảo vệ người Kitô hữu. Nếu kiên trì, ta sẽ chiến thắng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, ngày nay lòng thủy chung đang bị người ta xóa dần đi. Người ta ly dị nhau vì không muốn cùng chia sẻ với nhau một giai đoạn khó khăn của cuộc sống. Người ta xa dần với Đạo vì cho rằng Đạo gò bó họ suốt đời.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở con về lòng chung thủy đối với Chúa, về sự tín trung trong đời sống đức tin. Đời sống nào cũng vậy, có những lúc thật khó khăn hiểm nghèo, nhưng những hoàn cảnh ấy có thể làm nổi bật một nét sáng ngời nào đó. Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Đời sống đức tin của con cũng vậy. Những hoàn cảnh khó khăn chính là dịp để con làm chứng, để con tỏ bày đức tin, tỏ bày con người thật của con.
Lạy Chúa, có thể lúc này đây niềm tin của con chưa gặp những khó nguy. Nhưng con biết rằng lúc này con phải củng cố niềm tin của mình, làm cho niềm tin của mình lớn lên, bền vững, để khi gặp khó khăn, chính niềm tin và ơn Chúa sẽ nâng đỡ con, sẽ giúp con chống chọi với những giông tố bên ngoài.
Xin cho con biết chuẩn bị ngay từ bây giờ để con có thể trở nên chứng nhân của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy, nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất”.
Suy niệm 7: Làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Giáo hội Rôma trong ba thế kỷ đầu bị bách hại dữ dội và chúng tôi đã thực sự xúc động khi đến thăm hang toại đạo ở Rôma. Có tới 500.000 Kitô hữu đã được phúc tử đạo và được an táng trong các hộc mộ ở hang toại đạo...
Ở Rôma bây giờ có những hang dài đến nỗi không biết nó đi tới đâu nên người ta phải bít lại, và gần như nó chạy khắp thành phố Rôma, một thành phố Rôma chìm bên dưới lòng đất ở các độ sâu 20m, 40m và sâu nhất là 60m (Theo Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc, Máu Đào Tử Đạo - Hiến tế sự sống).
Suy niệm
Ðức Giêsu tiên báo về số phận các môn đệ: Vì Ngài mà các ông sẽ bị bách hại, bị ghét bỏ, ngay trong gia đình, nơi những người thân thuộc. Nhưng đó là cơ hội để các con làm chứng về Thầy. Ðức Giêsu hứa sẽ trợ giúp các môn đệ khi các ông gặp gian nan khốn khó.
Thật thế, sau này các môn đệ đã sống lời tiên báo của Thầy. Phêrô và Gioan bị bắt và bị điệu ra trước Công nghị Do Thái, các ngài không hề lo sợ, mà còn hân hoan, vui vẻ, vì nhờ đó có dịp để nói về Chúa Giêsu cho người khác (x. Cv 3-5). Phaolô bị bắt và bị xét xử, ngài cũng mạnh dạn nói về Chúa Giêsu cho mọi người: Trước Hội đồng, Tổng trấn Felix, Festo, và cả vua Herôđê Agrippa…(x. Cv 22-25). Các môn đệ đã lấy cái chết để làm chứng cho Đức Kitô.
Chúng ta là Kitô hữu, người môn đệ Chúa Kitô, cũng phải can đảm đón nhận những thử thách, những khó khăn trong cuộc sống chấp nhận chịu thiệt thòi khi sống lời Chân lý đối lập với bóng tối, dám can đảm khước từ những đam mê bất chính, những tham vọng không hợp ý Chúa. Vì Chúa Kitô dù phải nghèo túng, phải vất vả.
Xin Chúa cho chúng ta có niềm tin luôn mạnh mẽ, sẵn sàng làm chứng cho Chúa trong tất cả hoàn cảnh của cuộc đời.
Ý lực sống
“Máu tử đạo là hạt giống sinh ra người tín hữu”. (Tertullianô)
Suy niệm 8: Những cuộc bách hại
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi loan báo những tai họa: các tiên tri giả, chiến tranh loạn lạc, và các thiên tai xẩy đến cho mọi người, thì Luca ghi tiếp về việc các tín hữu Chúa sẽ gặp cơn bách hại. Tuy các tín hữu bị bách hại nhưng đó là cơ hội tốt cho sứ mệnh của họ. Đức Giêsu hứa sẽ trợ giúp các môn đệ khi các ông gặp gian nan, khốn khó. Là Kitô hữu, những người theo Chúa Kitô, chúng ta cũng phải can đảm đón nhận thử thách, những khó khăn trong cuộc sống và chấp nhận chịu thiệt thòi vì Ngài bằng những hành động chân thật, không gian dối, không làm điều xấu điếu ác.
2. Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu báo trước sự bách hại sẽ xẩy đến cho các Kitô hữu. Đức Giêsu tiên báo điều này đã ứng nghiệm từng câu chữ trong những thời kỷ bách hại. Biết bao người mang danh Kitô hữu đã phải chịu bắt bớ, ngược đãi, tù đầy, tra tấn và bị giết chết để làm chứng cho Chúa Kitô. Quả thật, từ hai ngàn năm qua, chính vì danh Đức Kitô, các tín hữu bị thù ghét và bách hại. Như vậy, bách hại là số phận của những người mang danh Kitô hữu. Không thể là môn đệ Chúa mà không đi lại con đường chính Ngài đã đi qua. Đức Kitô đã báo trước cho các môn đệ: “Môn đệ không trong hơn Thầy”, nếu Ngài đã bị bách hại, các môn đệ cũng phải bị bách hại.
3. Phúc âm theo thánh Matthêu đã được viết ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo hội đầu tiên đã trải qua, như cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stêphanô tại Giêrusalem. Các Tông đồ cũng đã từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con người trước những khó khăn, những bách hại, là lo sợ. Và Đức Giêsu tiếp tục khuyên các Tông đồ hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người môn đệ của Chúa cần sẵn sàng cho mọi nghịch cảnh xẩy ra.
4. Ngày nay, không còn có những cuộc bách hại đổ máu, nhưng lại có vô số hình thức chối bỏ và chà đạp tự do tôn giáo. Ngày nay, không còn có những cuộc bách hại công khai, nhưng lại có vô số những cuộc tấn công tinh vi hơn nhằm loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống con người, và các cuộc bách hại ấy dù không làm thân xác con người bị tổn thương, nhưng nhân cách và lương tâm con người ngày càng bị bóp nghẹt và chết dần chết mòn. Ngày nay, không còn có những cái chết đẫm máu, nhưng tử đạo có nghĩa là can đảm đi ngược dòng đời, và khước từ những gì ngược với giá trị của Tin Mừng (Mỗi ngày một tin vui).
5. Là Kitô hữu, chúng nên loại bỏ ý nghĩ đi theo Đức Kitô để tìm sự dễ dãi, an toàn và vinh quang cho bản thân đời này. Vì ở đời này không có niền vui và hạnh phúc nào bền bỉ ngoài Thiên Chúa. Nhưng nếu chọn Chúa, chúng ta phải hy sinh và chịu nhiều thiệt thòi, bị người đời nhạo báng, bắt bớ. Vì thế gian, ma quỷ và xác thịt là một trở ngại lớn cho việc sống theo Tin Mừng. Nên chúng ta đừng ngạc nhiên khi gặp khó khăn vì sống đời chứng nhân, mà hãy vui mừng vì được cộng tác vào việc làm sáng danh Chúa.
6. Trong khi bị bách hại, chúng ta hãy can đảm lên vì Đức Giêsu đã nói với chúng ta: “Đó là cơ hội để các con làm chứng cho Thầy”. Như vậy, một lần nữa, Đức Giêsu lại nhắc nhở chúng ta: đừng bận tâm khi nào tận thế, hãy lo sống hiện tại và kiên trì. Đối với chúng ta hôm any, điều quan trọng là trung thành làm chứng cho Chúa, là sống đúng tư cách của một Kitô hữu đích thực, chứ không phải chỉ có tiếng mà không có miếng, không phải hữu danh vô thực, nhất là hãy thể hiện tối đa tình yêu thương đối với nhau, đó là cách làm chứng cho Chúa, cho đạo tốt nhất.
7. Truyện: Trên đường hành hương.
Một nhà truyền giáo Ân độ đã kể lại câu chuyện sau đây:
Một hôm trên một quãng đương vắng, ông thấy một người đàn bà nằm phủ phục sát đất. Đây là một cử chỉ khá quen thuộc trong những cuộc hành hương ở Ấn độ.
Sau một lúc người đàn bà đứng dậy đi mấy bước rồi lại phủ phục trên mặt đường. Trên một quãng đường ngắn, người đàn bà đã phủ phục như thế đến bảy , tám lần.
Thấy thế, nhà truyền giáo mới dừng lại gợi truyện. Ông Hỏi:
- Bà đi về đâu vậy?
Người đàn bà giơ tay chỉ về hướng Himalaya và nêu tên của một ngôi đền nổi tiếng ở đó. Theo lời bà giải thích thì tại đây khi sấm chớp nổi lên Thiên Chúa sẽ biểu dương quyền uy của người phía dưới thung lũng.
Như vậy, từ đây cho đến ngôi đền đó người đàn bà phải vừa đi vừa phủ phục như thế trên cả ngàn lần. Khi được hỏi bà làm như vậy với mục đích gì, người đàn bà trả lời ngắn gọn và quả quyết như sau: “Để được thấy Chúa”.
Cử chỉ của người đàn bà Ấn độ trong câu chuyện trên đây có thể gợi lên cho chúng ta hình ảnh của một cuộc chiến đấu.
Được thấy Chúa, người tín đồ Ấn giáo trên đây sẵn sàng chấp nhận một cuộc hành hương gian khổ hầu như quá sức con người. Thế nhưng lòng khao khát thấy Chúa và niềm hy vọng mãnh liệt sẽ được gặp Ngài đã khiến người tín đồ ấy can trường tiến bước và kiên trì phủ phục tới cà ngàn dặm đường như thế thật đáng cho chúng ta nể phục.
Muốn được hưởng vinh quang với Đức Giêsu, chúng ta cũng phải biết can đảm và kiên trì như vậy.
Suy niệm 9: Gian nan khốn khổ là cơ hội để làm chứng
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trong văn mạch diễn từ chung luận, Chúa Giêsu báo trước cho môn đệ mình biết rằng có một thời kỳ Giáo Hội sẽ bị bắt bớ. Rồi Ngài dạy họ phải sống thế nào trong thời kỳ đó:
- câu 13: hãy coi những khốn khó đó là dịp để ta làm chứng cho Chúa.
- câu 14-15: đừng sợ phải bào chữa thế nào, vì Ngài sẽ ban cho họ sự khôn ngoan mà kẻ thù không thể nào thắng được.
- câu 16-18: đừng sợ khi bị bắt bớ và thù ghét, vì vẫn có Chúa quan phòng trong tất cả những hoàn cảnh éo le đó.
- câu 19: phải kiên trì.
B.... nẩy mầm.
1. Câu 13: gian nan khốn khổ là những cơ hội để làm chứng. Những cha mẹ giàu cho con cái rất nhiều tiền nhưng chúng vẫn không tin rằng cha mẹ thương chúng, bởi vì chúng chưa có “bằng chứng” về sự tận tụy cực khổ của cha mẹ. Bởi thế, Chúa Giêsu đã chịu nạn chịu chết để chứng tỏ cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương họ. Cũng vì thế, các tông đồ rất vui mừng khi bị bách hại, vì đó là dịp họ chứng tỏ tấm lòng của họ đối với Chúa. cho Thaày”.
2. Trong Tin Mừng có nhiều “lời hứa” rất đáng sợ: “Chúng con sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp”; “Họ sẽ giết một số người trong chúng con”; “Vì danh Thầy, chúng con sẽ bị mọi người thù ghét” v.v. Tại sao thế? Bởi vì đó chính là con đường mà người môn đệ phải đi: “Ai muốn theo ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34); và đó cũng chính là hạnh phúc thật của người môn đệ Chúa “Phúc cho ai bị bắt bớ vì sự công chính” (Mt 5,10).
3. Có lúc nào đó chúng ta thử chậm rãi đọc lại những lời thấm thía trong kinh cầu các thánh tử đạo Việt Nam:
- “Là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô”,
- “Là thành phần trung kiên của Hội Thánh”,
- “Xưa Chúa đã ban cho các Ngài được vững tin vào Lời Chúa, và đầy sức mạnh của Thánh Thần, nên các Ngài đã cam lòng chịu gian lao đau khổ, quyết một lòng theo Đức Kitô trên con đường thập giá và hy sinh đến giọt máu cuối cùng”,
- “Các Ngài đã hy sinh tất cả vì đức tin”...
4. Kiên trì trong nhiệm vụ: Nhiệm vụ của đồng hồ là mỗi giây phải kêu lên một tiếng tic-tac. Một chiếc đồng hồ trẻ vừa sinh ra từ một hãng chế tạo được đưa về đặt trong phòng khách một gia đình. Cậu bé làm bài toán về những tiếng tic-tac mình phải phát ra: mỗi phút 60 giây, một giờ 60 phút, một ngày 24 giờ, một tháng 30 ngày, một năm 12 tháng. Cậu rùng mình sợ hãi vì không biết mình phải làm nhiệm vụ bao nhiêu năm. Thấy thế, cụ đồng hồ già đứng ở xó nhà lên tiếng an ủi: “Cháu ơi đừng quá lo sợ như thế. Bác đã làm công việc này suốt 3 thế hệ rồi. Kinh nghiệm của bác là chỉ cần để ý mỗi giây phát ra một tiếng thôi”. (Bruno Hagspiel)
5. “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình” (Lc 21,19)
Một chàng thanh niên nọ bị bỏ rơi từ khi mới lọt lòng mẹ. Nhờ tình thương của ông bà cụ, anh thoát chết. Được sự nuôi nấng của gia đình, theo thời gian, anh lớn lên, rồi trở thành một ngư phủ. Hằng ngày anh ra khơi đánh cá về giúp cha mẹ nuôi. Cuộc sống tưởng êm đẹp. nào ngờ một hôm tai họa ập đến, anh bị thương trầm trọng do tai nạn thuyền gây ra. Mặc dù đã bán hết tài sản để chữa chạy nhưng anh vẫn không khỏi bệnh. Bố mẹ anh “gạt nước mắt” làm một cái chòi ở đầu đường rồi đặt anh vào đó để anh được sống nhờ lóng thương xót của khách qua đường. Do không được săn sóc, người anh mọc đầy ghẻ lở. Bệnh tật ngày một tăng, cơ thể hao mòn, cuộc đời như đã mất…
Nhưng rồi Thiên Chúa lại mỉm cười với anh. Với những lời động viên, an ủi, khuyến khích của bố mẹ nuôi mới, anh đã cố gắng kiên nhẫn tập luyện: mỗi ngày 1 giờ, rồi 2 giờ, 3 giờ và cứ thế… Bây giờ trong anh bừng lên một niềm vui sung sướng, hạnh phúc: Tôi sẽ bình phục.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì Chúa luôn ở với con, gìn giữ con và nâng đỡ con. (Hosanna).
Suy niệm 10: Cái giá người môn đệ Chúa phải trả
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Trong văn mạch diễn từ chung luận, Chúa Giêsu báo trước cho môn đệ mình biết rằng, có một thời kỳ Giáo Hội sẽ bị bắt bớ. Rồi Ngài cho họ biết, phải sống thế nào trong thời kỳ đó: Đó là đừng sợ khi bị bắt bớ và thù ghét, vì vẫn có Chúa quan phòng trong tất cả những hoàn cảnh éo le đó và phải kiên trì.
1. Patric bon Chasteur, người đã bị Đức Quốc xã tra tấn cầm tù vì tội chống lại sự tàn bạo của Hitler hồi thế chiến thứ II, trong tác phẩm thời danh của ông với tựa đề: “Cái giá những người môn đệ Chúa phải trả”, đã viết: “Khổ đau là phù hiệu của những người môn đệ Chúa Giêsu”.
Luther, một trong những người đã ly khai khỏi Giáo Hội Công giáo, khi định nghĩa về Giáo Hội cũng nói: “Giáo Hội là cộng đoàn của những người chịu đau khổ, chịu chết vì Đức Kitô và vì Tin Mừng”.
Người môn đệ Chúa Giêsu không được coi gian nan thử thách như một cực hình, nhưng phải coi đó là những cơ hội để làm chứng.
Ông Jacques Bouroche là một người ngoài công giáo, trước khi được ơn trở lại, ông hằng ước ao chứng kiến đời sống thánh thiện của đức giám mục François Fénelon (1651-1715)
Ngày kia ông đã liên lạc được với vị giám mục thời danh và xin Ngài cho ông được tới thăm Ngài một thời gian.
Vị giám mục đã niềm nở đón tiếp và đối xử ân cần đến nỗi Jacques Bouroche còn thấy thoải mái hơn cả ở nhà mình. Tuy nhiên, chỉ lưu lại được vài ngày, ông đã thu dọn hành lý, chào vị giám mục và ra đi trước thời hạn dự định.
Khi được hỏi tại sao ông lại vội vàng bỏ đi như vậy, ông Jacques Bouroche đã thú nhận:
“Tôi không thể ở lại lâu hơn. Vì nếu còn ở lại, sớm muộn gì tôi cũng sẽ theo đạo công giáo mất, một điều mà hiện tại bản thân tôi chưa muốn”.
Chúng ta hãy nhớ lời của Chúa Giêsu: “Chúng con hãy làm chứng!” (Lc 21,13)
Đó là ơn gọi, là sứ mệnh, là căn tính, là lý do hiện hữu của người Kitô chúng ta.
2. Và cuối cùng, là phải kiên trì.
Chúa mời gọi chúng ta dấn bước vào con đường hẹp vừa dài vừa xa vạn dặm. Con đường về thiên quốc dài dằng dặc, có khi phải đi bằng cả cuộc đời của mình. Chẳng những dài, mà còn là con đường hẹp nữa, cho nên đòi hỏi họ phải kiên trì.
Một nhà truyền giáo tại Ấn Độ đã kể lại câu chuyện sau đây:
Một hôm, trên một quãng đường vắng, ông thấy một người đàn bà nằm phủ phục sát đất. Đây là một cử chỉ khá quen thuộc trong những cuộc hành hương ở Ấn Độ.
Sau một lúc, người đàn bà đứng dậy đi mấy bước rồi lại phủ phục trên mặt đường. Trên một quãng đường ngắn, người đàn bà đã phủ phục như thế đến bảy, tám lần.
Thấy thế, nhà truyền giáo mới đứng lại gợi chuyện. Ông hỏi:
- Bà đi về đâu vậy?
Người đàn bà giơ tay chỉ về hướng Hy-Mã-Lạp-Sơn và nêu tên của một ngôi đền nổi tiếng ở đó. Theo bà giải thích, thì tại đây khi sấm chớp nổi lên, Thiên Chúa sẽ biểu dương quyền uy của Người phía dưới thung lũng.
Như vậy, từ đây cho đến ngôi đền đó, người đàn bà phải vừa đi vừa phủ phục như thế trên cả ngàn dặm. Khi được hỏi bà làm như vậy với mục đích gì, Người đàn bà trả lời ngắn gọn và quả quyết như sau: “Để được thấy Chúa”.
Cử chỉ của người đàn bà Ấn Độ trong câu chuyện trên đây có thể gợi lên cho chúng ta hình ảnh của một cuộc chiến đấu.
Để được thấy Chúa, người tín đồ Ấn giáo trên đây sẵn lòng chấp nhận một cuộc hành trình gian khổ hầu như quá sức con người. Thế nhưng, lòng khát khao được thấy Chúa và niềm hy vọng mãnh liệt sẽ được gặp Ngài đã khiến người tín đồ ấy can trường tiến bước, kiên trì phủ phục trên con đường cả ngàn dặm như thế, thật đáng cho chúng ta nể phục.
Muốn được hưởng vinh quang với Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải biết can đảm và kiên trì như vậy.
Không có một phần thưởng nào mà không phải trả giá. Không có môt vinh quang nào mà không ướt đẫm mồ hôi.
Đây là những lời trích từ sách Gương Chúa Giêsu:
“Có rất nhiều người muốn lên thiên đàng với Chúa Giêsu, nhưng rất ít người muốn vác khổ giá với Chúa.
Nhiều người muốn ngồi ăn với Chúa, nhưng ít người muốn bắt chước đức nhiệm nhặt của Chúa.
Ai cũng muốn vui hưởng với Chúa mà ít người muốn chịu khó vì Chúa.
Nhiều người theo Chúa đến lúc bẻ bánh, nhưng ít ai chịu được cảnh nhục nhã của Thánh giá.
Nhiều người ca tụng Chúa khi được Chúa ban yên ủi.
Nhưng, nếu Chúa lánh đi và bỏ họ một tí, là y như họ phàn nàn hay nản chí luôn”.
Lạy Chúa,
Chúa đã chịu chết và sống lại,
xin dạy chúng con biết chiến đấu
trong cuộc chiến mỗi ngày
để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của Thập Giá.
Ước gì từ nay, không gì có thể
làm cho chúng con xa Chúa. Amen.
28/11 Gắn bó với Chúa từng giây phút
- Viết bởi Lc 21, 5-11
Gắn bó với Chúa từng giây phút.
Thứ Ba tuần 34 thường niên.
"Không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào".
Lời Chúa: Lc 21, 5-11
Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá". Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: "Chính ta đây và thời gian đã gần đến", các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu".
Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Anh em làm chứng cho Thầy
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Trong số 117 vị Tử Ðạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988,
có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.
Ðó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Ðê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo,
bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.
“Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con.
Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý,
sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ.”
Ðó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
Nhà bà Ðê là nơi các linh mục trú ẩn.
Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861,
quan Tổng Ðốc Nam Ðịnh cho quân bao vây làng của bà.
Bà Ðê bị bắt lúc đã 60 tuổi.
Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo,
bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.
Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam,
đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu,
bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng:
“Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy,
mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình,
người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam
là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.
Thiên Chúa đã làm điều phi thường
nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối.
Quan “Hùm Xám” tỉnh Nam Ðịnh cũng phải bó tay
trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ,
bà thánh Ðê đã phó mặc cho Chúa đời mình.
Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án,
vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin,
dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,
không đòi hy sinh mạng sống,
nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa,
trước thập giá của Ðức Giêsu,
y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình,
đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.
Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo
gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp
mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin
được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo,
và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy
cho hơn 80 triệu đồng bào trên quê hương.
Cầu nguyện:
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài
cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin
mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
Suy niệm 2: Không còn hòn đá nào
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người Do thái yêu mến, gắn bó và hãnh diện về đền thờ Giê-ru-sa-lem. Lộng lẫy nguy nga chưa từng thấy. Uy nghi hoành tráng đến hớp hồn. Nhưng Chúa Giê-su cho biết “những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”. Chẳng có gì vững bền trên đời. Dù những phiến đá lớn lao vững chãi. Cả thế giới còn bị tiêu huỷ ra tro. Huống hồ một công trình bé nhỏ trên trái đất. Thật đáng sợ ngày kinh hoàng ấy. “Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện”. Vì thế phải biết chuẩn bị. Đừng gắn bó với những vẻ đẹp và sức mạnh chóng qua. Càng gắn bó sẽ càng hối tiếc. Hãy chuẩn bị cho ngày kinh hoàng đó.
Sách Khải huyền diễn tả số phận thế giới giống như một vụ mùa. Thời gian Chúa cho phép vũ trụ tồn tại là thời gian gieo hạt, trồng cấy. Cho cây nho, cây lúa mọc lên. Phát triển. Thời gian chấm dứt là thời gian Chúa tiêu huỷ vũ trụ. Lúa và nho đã chín. Cần phải gặt về. Đổ vào bồn ép. Để chịu phán xét. Trong cơn lôi đình khủng khiếp. “Xin tra liềm của Ngài mà gặt, vì đã đến giờ gặt: mùa màng trên đất đã chín rồi”. Trái đất đã chín. Lịch sử đã chín. Con người đã chín. Thời hạn đã chấm dứt. Cẩn thận kẻo bị ép trong bồn ép thịnh nộ (năm chẵn).
Na-bu-cô-đô-nô-sô được ơn thấy thị kiến về vận mệnh của chính mình, của vương quốc và của thế giới. Mọi vương quốc hùng mạnh rồi cũng sẽ tiêu tan. Mọi cố gắng của loài người không vượt qua được số phận. Thời gian nhường chỗ cho đời đời. Hữu hạn nhường bước cho vô hạn. Nhân loại phải tuân phục Thiên Chúa. Sức mạnh của Thiên Chúa không ai có thể chống cưỡng được. Đó là điều Đa-ni-en giải nghĩa giấc mơ cho Vua: “Đức Chúa Trời sẽ lập một vương quốc không bao giờ bị tiêu diệt, vương quốc ấy không bị giao cho một dân khác, nhưng nó sẽ đập tan và tiêu diệt tất cả mọi vương quốc này, đến muôn đời nó sẽ đứng vững; cũng như ngài đã thấy tảng đá bị tách khỏi núi dù không có bàn tay nào đụng tới, tảng đá ấy đập tan của sắt, đồng, đất sét, bạc và vàng” (năm lẻ).
Mọi sự sẽ qua đi. Chỉ Thiên Chúa vĩnh cửu. Thật dại dột khi gắn bó với những gì mau qua. Tôi sẽ mất tất cả. Sẽ buồn phiền. Khôn ngoan là gắn bó với Thiên Chúa. Làm việc cho Nước Trời. Ở trần gian có thể bị thiệt thòi. Nhưng sẽ bền vững trong Chúa, trên trời.
Suy niệm 3: Thời gian chuyển tiếp
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ðối với người Do thái, Ðền thờ Giêrusalem là biểu tượng cho niềm vui và hãnh diện, và là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, là nơi hằng năm muôn dân tuôn về đó để mừng lễ. Ðền thờ được xây bằng đá quí, sừng sững trên ngọn đồi này vẫn được xem là nơi nương tựa vững chắc có thể đương đầu với thời gian. Thế mà Chúa Giêsu lại tuyên bố sẽ có ngày nó bị tàn phá, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.
Về thời điểm các sự việc đó xảy ra, dưới ngòi bút của thánh Luca, câu trả lời của Chúa Giêsu không chỉ riêng cho Giêrusalem mà còn bao gồm cả chiều kích lịch sử cứu độ: cũng như Ðền thờ Giêrusalem, thế giới này dù có vững vàng đến đâu, thì một ngày nào đó cũng sẽ tàn lụi. Trong khoảng thời gian trước ngày Chúa trở lại sẽ có nhiều tai ương khốn khó. Hình ảnh các biến cố thiên nhiên, như động đất, hạn hán, mất mùa, ôn dịch; những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ trên trời, hay hình ảnh chiến tranh, loạn lạc, là những yếu tố trong lối hành văn được các Tiên tri sử dụng để báo trước về ngày chung thẩm của Thiên Chúa. Tuy nhiên, các biến cố đó không phải chỉ là những hình ảnh, mà là sự thật; chúng cũng tác dụng như một nhắc nhở con người ý thức bản chất thụ tạo yếu đuối và mỏng dòn của mình, đồng thời soi sáng cho con người biết chiều kích về ơn gọi siêu việt của mình là sống như con cái Thiên Chúa và trung thành thực hiện ơn gọi đó, trong khi chờ đợi ngày Chúa lại đến.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tin tưởng vào tình thương bao la của Chúa. Xin cho chúng ta hằng gắn bó với Chúa và sống hết tình con thảo từng giây phút đời sống chúng ta.
Suy niệm 4: Ngôn ngữ khải huyền
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong thời điểm tuần lễ cuối cùng của năm Phụng Vụ, Giáo Hội mời gọi con cái mình Suy niệm những đoạn Kinh Thánh trình bày chủ đề cánh chung trong một ngôn ngữ riêng biệt, gọi là ngôn ngữ Khải huyền. Ðoạn Phúc Âm hôm nay là đoạn mở đầu cho những lời dạy của Chúa Giêsu về cánh chung và về việc Chúa sẽ trở lại trong vinh quang. Những người nghe Chúa Giêsu giảng dạy về biến cố này thì xem ra như muốn biết rõ về thời gian, lúc biến cố xảy ra. Nhưng trong lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Ngài xem ra nhấn mạnh nhiều hơn đến thái độ sống của những đồ đệ của Chúa: phải sống thế nào để có thể đón Chúa ngự đến vào lúc kết thúc lịch sử nhân loại và vũ trụ.
Ngôn ngữ được Chúa Giêsu dùng ở đây là ngôn ngữ Khải huyền, một lối diễn tả đặc biệt thường được dùng trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước. Ngôn ngữ Hy Lạp và tiếng Việt dịch ra là Khải huyền, có nghĩa là mạc khải, mạc khải điều huyền nhiệm. Mọi chi tiết, mọi sự cố diễn ra và được mô tả trong ngôn ngữ Khải huyền đều không nên được chúng ta hiểu theo nghĩa đen, nhưng là một biểu tượng, một hình bóng cho một ý tưởng nào đó. Những biến cố, những tai ương được dùng trong ngôn ngữ Khải huyền muốn nói lên cho chúng ta biết vũ trụ, thế giới chúng ta đang sống không tồn tại đời đời mãi mãi, nhưng sẽ đi đến một lúc kết thúc và cuộc đời mỗi người chúng ta cũng như toàn thể nhân loại cũng sẽ đến lúc kết thúc, và giây phút kết thúc cuối cùng đó, là giây phút Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi cho con người, nhờ qua Chúa Giêsu Kitô. Mục tiêu của ngôn ngữ Khải huyền không phải là để làm cho người ta lo sợ, lo sợ tận thế, lo sợ cái chết, nhưng như là một lời kêu gọi, một lời thức tỉnh, thôi thúc người ta hãy sống tỉnh thức một cách tích cực để lãnh nhận ơn cứu rỗi của Chúa. Ðó là những lời của niềm hy vọng. Hy vọng một cuộc biến đổi hoàn toàn và đầy vinh quang của con người cũng như của thế giới. Một niềm hy vọng về trời mới và đất mới, nơi công bằng và hòa bình của Thiên Chúa ngự trị. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi giây phút Chúa ngự đến trong vinh quang, mỗi người đồ đệ Chúa cần sống giây phút hiện tại một cách can đảm, kiên trì giữa những thử thách xảy đến, và nhất là cần sống gắn bó mạnh mẽ, kết hiệp mật thiết với Chúa để vượt thắng được những cám dỗ chối bỏ Chúa mà chạy theo những vị tiên tri giả, những chúa kitô giả, những kẻ tự phụ muốn thay thế chỗ của Chúa nơi tâm hồn con người, những kẻ mạo danh Chúa để lường gạt và hưởng lợi. Mỗi người chúng ta cần trưởng thành mỗi ngày một hơn trong đức tin, đức cậy và đức mến, để có thể khám phá ra Chúa đang ngự đến hàng ngày trong mọi biến cố lớn nhỏ, để cứu rỗi chúng ta vì Ngày yêu thương chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con chúc tụng Chúa là chủ của vũ trụ và lịch sử, vì Chúa hiện diện trong chúng con và trong thế giới, trong những nỗi lo âu cũng như những nỗi vui mừng và hy vọng của chúng con. Xin thương giúp chúng con biết chăm chú, biết lắng nghe lời Chúa dạy và khám phá Chúa hiện vẫn đang ở với chúng con mỗi ngày mỗi lúc nơi người anh chị em đang cần được giúp đỡ, cần được yêu thương.
Suy niệm 5: Đền thờ sụp đổ
Nhân có mấy người nói về đền thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” (Lc. 21, 5-6)
Đoạn Tin mừng này khá phức tạp: hai phần không liên hệ với nhau. Trong đoạn đầu, Đức Giêsu loan báo sự tàn phá đền thờ Giê-ru-sa-lem. Trong đoạn hai, người ta đặt câu hỏi mong Người trả lời: “Bao giờ xảy ra và có điềm gì báo trước?”. Nhưng Người không trả lời như họ mong muốn, Người lại nói đến những điềm báo về ngày tận thế. Chúng ta nhận xét vài điều liên hệ tới đền thờ sụp đổ.
Hai kiểu giải thích:
Tại sao đền thờ Giê-ru-sa-lem bị tàn phá? Tại sao Đức Giêsu nói tiên tri “sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” của lâu đài tráng lệ này được người Do thái tôn kính?
Đức Giêsu đã giải thích hai lần về vấn đề này. Trong Luca đoạn 19, 44 Người coi biến cố này là một hình phạt đổ xuống dân thành vì họ không nhận ra Đấng Thiên sai Cứu thế của Thiên Chúa. Lần thứ hai, trong Tin mừng theo thánh Gio-an đoạn 2, 19-22 giải thích sâu sắc hơn ẩn chứa một chút mầu nhiệm: “Hãy phá đền thờ này, và trong ba ngày, Tôi sẽ xây dựng lại”. Đức Giêsu muốn cho hiểu rằng: Đã đến thời Thiên Chúa ngự ở khắp mọi nơi và tỏ mình ra không chỉ ở đền thờ. Người quả quyết rằng đền thờ phải biến đi để Ngài hiện rõ ràng trước hết và trên hết trong chính Con Người của Con Thiên Chúa. Nói cách khác, Đức Giêsu phục sinh là đền thờ, đền thờ mới và duy nhất. Ngày phục sinh là ngày đền thờ Giê-ru-sa-lem suy tàn đi, biến đi.
Con người là đền thờ Thiên Chúa.
Thánh tông đồ Phao-lô đã bổ túc tư tưởng của Đức Giêsu khi giải thích: Mỗi Kitô hữu và toàn bộ mọi Kitô hữu hình thành Giáo hội, là đền thờ mới để Thiên Chúa ngự. Chúng ta có thể nói mà không nghịch lại với tư tưởng của thánh Phao-lô rằng: Thực sự chính trong con tim của bất cứ người nào đều là nơi Thiên Chúa ngự.
Nếu quả thật như vậy, chính trong con tim mỗi người phải đi tìm Thiên Chúa trước hết. Ai không gặp được Thiên Chúa ở với mọi người thì họ không gặp được Ngài bao giờ.
R.C
Suy niệm 6: Ngày phân biệt
Một công trình hoành tráng, nguy nga, hùng vĩ được xây dựng lên để thách đố với thời gian, khẳng định với thời đại, đó chính là thành thánh Giêrusalem. Quả thật, đây là công trình thế kỷ; là niềm tự hào, hãnh diện của người Dothái... Tuy nhiên, công trình này rồi cũng như hoa kia sớm nở tối tàn mà thôi. Dù nguy nga, đồ sộ cỡ nào thì trước mặt Chúa cũng chỉ là phù vân!
Quả thật, sự kiện năm 70 sau Chúa Giáng Sinh, quân đội Rôma đã phá đổ tan tành, không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào, và nó đã thành biển lửa và máu. Ngày nay, người ta chỉ còn biết đến nó như là một sự kiện của lịch sử hay như một kỷ niệm buồn tủi với nước mắt...
Hình ảnh thành thánh Giêrusalem bị tàn phá là tiền đề để giúp cho chúng ta cảm thấy trước sự kinh hoàng, ghê rợn trong ngày chung cuộc của con người và thế giới. Ngày đó đến với các điềm báo trước như: hạn hán, mất mùa, bệnh dịch, những điềm lạ xuất hiện trên trời như: kinh thiên, động địa, hay chiến tranh tàn phá và loạn lạc... Ngày đó là ngày phán xét, ngày phân biệt tốt và xấu; thiện và ác; chiên và dê; lúa và cỏ lùng; cá tốt và cá xấu...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Nước Trời như một điểm đến của chúng ta. Cần nhạy bén với các dấu chỉ thời đại, hầu thay đổi cuộc sống để trở nên tốt hơn. Cần tránh cho xa những điều bất chính và mặc lấy thái độ của những người sống trong ân sủng. Suy nghĩ, hành động tốt để ngày Chúa đến với chúng ta là một ngày tràn ngập vui mừng. Chớ dại mà bám víu vào những thứ tưởng chừng sẽ tồn tại trong cuộc sống như: vật chất, chức quyền, danh vọng; hay những thú ăn chơi, đàn điếm, cờ bạc mà quên đi mục đích tối hậu của mình.
Chỉ có Lời Chúa là tồn tại và là Lời Hằng Sống có sức biến đổi cũng như cứu vãn chúng ta khi chúng ta lắng nghe và thực hành mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tỉnh thức và sẵn sàng, vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến. Xin ban ơn cứu độ cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Giá trị trần gian không tồn tại
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đền thờ Giêrusalem sẽ bị tàn phá vì dân Do thái đã khước từ Chúa Giêsu. Tuy nhiên sự sụp đổ ấy lại mở ra một thời kỳ mới: Tin Mừng vượt ra ngoài khuôn khổ Do thái để lan rộng trên toàn thế giới.
Cầu nguyện: Lạy Cha, mọi biến cố đều góp phần làm cho chương trình cứu độ của Cha đạt tới kết quả tốt đẹp. Con hiểu rằng đền thờ tự nó là tốt. Tuy nhiên người Do thái đã quá ảo tưởng. Họ bám víu vào đền thờ, đến độ không còn nhận ra Chúa Giêsu là Đấng được Cha sai đến cứu độ loài người. Tôn giáo của họ đã trở nên cứng nhắc, sa lầy và Cha đã để cho đền thờ bị tàn phá để mời gọi họ suy nghĩ lại. Người Do thái ngỡ ngàng, tiếc xót, thậm chí tức giận vì đền thờ sẽ bị phá, nhưng Cha muốn nhờ đó thanh luyện niềm tin của họ. Biến cố ấy cũng giúp cho Tin Mừng không còn bị ràng buộc vào các thể chế Do thái, để từ nay có thể lan rộng và thấm nhập vào mọi dân tộc.
Lạy Cha, mỗi biến cố đều là một dấu chỉ và là một lời mời gọi. Xin Cha giúp con hiểu được dấu chỉ và nghe được tiếng gọi của Cha. Cha là chủ lịch sử. Qua những bước thăng trầm, Cha vẫn từng bước đưa lịch sử nhân loại đến cùng Cha. Qua những nẻo đường quanh co của con người, Cha vẫn viết lên một lịch sử cứu độ thực tốt đẹp lạ lùng. Xin Cha ban cho con lòng yêu mến, để mọi sự đều góp phần sinh ích lợi cho con. Nhiều lúc Cha để cho con phải trải qua những cơn khủng hoảng, để nhờ đó con được lớn lên trong ân sủng. Nhiều lúc Cha dắt con đi qua những chặng đường tăm tối, để nhờ đó Cha thanh luyện lòng tin của con. Con xin cảm tạ Cha và phó thác trong tay Cha. Amen.
Ghi nhớ: “Không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào”.
Suy niệm 8: Sự sụp đổ của thành Giêrusalem
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi chỉ trích các luật sĩ và đề cao cử chỉ quảng đại của bà góa, Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi Đền thờ về phía núi Cây Dầu. Từ nơi này nhìn thấy Đền thờ Giêrusalem đồ sộ nguy nga và kiên cố, các môn đệ tấm tắc khen ngợi và có cảm nghĩ Đền thờ bền vững đến muôn đời, nhưng Đức Giêsu lại báo trước sự sụp đổ của thành Giêrusalem, viễn cảnh của ngày tận thế. Dân Israel không tin và không chấp nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Họ dễ dàng nghe theo những lời giáo huấn của những kẻ giả hình, những kẻ mạo danh Ngài. Đức Giêsu dạy phải tỉnh thức chờ đợi Ngài. Đồng thời cũng báo trước sẽ có những biến cố lớn lao xẩy ra trước ngày tận thế.
2. Trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay là Đức Giêsu loan báo việc Đền thờ Giêrusalem sẽ bị tàn phá và liên kết với việc tàn phá Đền thờ, Đức Giêsu nói về ngày tận thế. Trong khi chờ đợi “Ngày của Chúa” tức là Chúa đến lần thứ hai, các tín hữu sẽ phải trải qua nhiều gian nan thử thách, phải qua một thời đại bị bách hại. Nhưng đừng sợ, hãy kiên trì vì sự bách hại sẽ là một cơ hội để làm chứng cho Tin Mừng. Chính Chúa sẽ làm cho các tín hữu chiến thắng trong thời kỳ sau cùng với điều kiện họ phải luôn bền đỗ.
3. Hình ảnh Đến thờ Giêrusalem được Hêrôđê Cả cho tái thiết lại trang hoàng lộng lẫy và lóng lánh ngọc thạch. Mọi người tự hào và trầm trồ khen ngợi. Nhưng đúng như những gì Tin Mừng loan báo, thành Giêrusalem đã bị tướng Titus của Rôma phóng hỏa và bình địa xóa sổ vào năm 70 và dân Do thái tản mác khắp nơi trên địa cầu. Với cách diễn tả của các tác giả Tin Mừng, các ngài thường liên tưởng đến biến cố Giêrusalem và biến cố cánh chung. Và rồi, bao nhiêu công trình mà con người tự hào và khen ngợi, từ công trình khoa học kỹ thuật đến các công trình kiến trúc... rồi sẽ trở thành tro bụi khi ngày tận thế đến (Mỗi ngày một tin vui).
4. Tin Mừng hôm nay thuật lại Đức Giêsu báo trước sự kiện Giêrusalem sẽ bị tàn phá; đồng thời cũng tiên báo về ngày cánh chung, về tận củng cũa vũ trụ này. Theo lẽ thường cái gì đã có thủy (điểm khởi đầu), thì cũng sẽ có chung (điểm cuối), “hữu hình hữu hoại”: cái gì xuất hiện hữu hình thì cũng có lúc hình thể đó bị hư hoại đi. Đó là một chân lý, một quy luật chứng nghiệm trong thực tế chứ không phải một cái nhìn bi quan. Nhận định ấy giúp ta tiếp cận thế giới vật chất này cách khôn ngoan, chừng mực hơn, không quá bám víu vào nó, vì mọi vật có ngày rồi sẽ tiêu tan, nay còn mai mất. Khi cảm nghiệm được sự bất tất, mau qua của vạn vật, ta mới thấy được cái giá trị của vĩnh cửu, là thực tại Thiên Chúa đã từng hé lộ cho ta khi Đức Giêsu rao giảng Nước Thiên Chúa: “Trời đất sẽ qua đi nhưng lời Ta sẽ tồn tại mãi”(x.Mt 5,18)(5 phút Lời Chúa).
5. Nói đến ngầy tận thế, xem ra là vấn đề mơ hồ và xa xôi, đưa đến bi quan, nhưng lại là điều có thật. Tuy nhiên, khi nói đến ngày kết thúc cuộc đời mình thì đó là điều chắc chắn và thiết thân. Mỗi người phải lo cho số phận mình, không ai có thể thay thế được. Một lúc nào đó, ngay cả con người chúng ta dù muốn hay không, cái chết cũng đến với chúng ta. Chúng ta sẽ ra đi như chúng ta đã vào đời. Từ trong bóng tối đi ra, chúng ta cũng trở về với bóng tối. Đã một thời không có chúng ta, và cũng sẽ đến thời không ai còn nhắc đến chúng ta nữa. Mỗi ngày có trên 200.000 người chết, mỗi giờ có 10.000 người chết. Hôm nay, ngày mai hay bất cứ lúc nào, tôi cũng sẽ được đếm trong số những người phải ra đi ấy .
6. Nhưng có nhiều người cứ sống như không bao giờ chết, họ sống không mục đích, họ sống cho qua ngày như trên tấm mộ bia của anh chàng Bopp có viết câu: “Đây là nơi yên nghỉ của một người không biết tại sao mình sống”. Các nhà văn muốn viết một quyển truyện hay thường nghĩ trước phần kết của câu truyện. Chúng ta muốn viết quyển truyện đời mình cho hay thì cũng phải nghĩ trước về ngày chết của mình, đừng như nhân vật trong truyện dưới đây: Nhà khoa học Huxley đang gấp vì sự đến trễ phiên họp trong đó ông phải đọc một bài tham luận. Ông nhảy lên một chiếc xe ngựa và bảo người đánh ngựa: “Hãy chạy hết tốc lực”. Xe chạy một quãng, ông mới giật mình nói: “Nhưng mà ta đang chạy đi đâu vậy”? Người đánh ngựa đáp: “Tôi cũng chẳng biết, chỉ biết là xe đang chạy hết tốc lực” (Clifton Gadiman).
7. Truyện: Sắm sẵn hành trang chưa?
Một quan lớn kia có nuôi một tên hề để hầu hạ. Quan trao cho nó một cây gậy, bảo nó cứ giữ cho đến khi có ai điên rồ hơn nó thì hãy cho.
Cách vài hôm sau, quan thọ bệnh nguy kịch. Hề ta vào thăm, hỏi rằng:
- Khi qua đời rồi, quan sẽ đi đâu?
- Ta đi xa lắm.
- Vậy bao giờ quan về? Một tháng nữa chăng?
- Không.
- Một năm à?
- Cũng không.
- Vậy thì bao giờ quan mới về?
- Chẳng bao giờ về được.
- Thế thì trong cuộc man du đó quan đã sắm sẵn hành trang gì chưa?
- Chưa sắm gì hết.
- Đi xa mà chẳng có hành trang gì, quan thật điên hơn tôi. Vậy xin nhận lấy cây gậy này.
(Ms Lê Văn Thái, Những tia sáng 2, tr 159).
Suy niệm 9: Vấn đề chung kết của lịch sử
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Đoạn này mở đầu một đơn vị văn chương được gọi là “diễn từ chung luận” (Lc 21,5-36), trong đó Chúa Giêsu bàn đến những vấn đề “chung kết” của lịch sử là: sự sụp đổ của thành Giêrusalem, ngày tận thế, và ngày Đức Kitô quang lâm. Diễn từ này khó hiểu, một phần vì được viết theo văn thể khải huyền, phần khác vì 3 biến cố trên được nhắc đến xen lẫn nhau khiến người đọc không biết rõ những câu nào nói đến biến cố nào.
- các câu 5-6: Chúa Giêsu tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá.
- câu 7: thính giả liên tưởng tới ngày tận thế nên hỏi Chúa Giêsu khi nào thì tận thế và có dấu nào báo trước không.
- câu 8-11: Chúa Giêsu không muốn cho biết những dấu chỉ rõ ràng về ngày tận thế. Bởi đó trước tiên Ngài khuyên người ta chớ tin vào những dấu chỉ mà người này người nọ đưa ra cho rằng sắp tận thế. Kế đó Ngài dùng những hình ảnh khải huyền khó hiểu để nói một cách úp úp mở mở rằng khi tận thế thì những gì xưa nay người ta cho là chắc chắn đều sẽ lung lay.
B.... nẩy mầm.
1. Mọi công trình con người xây dựng, dù cho kiên cố và quý giá đến đâu đi nữa, kể cả Đền thờ Giêrusalem... tất cả đều sẽ có ngày sụp đổ. Chẳng có gì bền vững ở thế giới này. “Trăm năm bia đá cũng mòn”; “Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa. Hoa nào không phai tàn? trăng nào không khuyết? ngày nào mà không có đêm? yến tiệc nào không có lúc tàn?”
2. Triết lý Á Đông: “sự vật hễ có hình thì có hoại”.
3. Trong tuần lễ cuối cùng của năm Phụng vụ, Lời Chúa nhắc chúng ta hãy suy nghĩ về những vấn đề cuối cùng của đời người: chết, phán xét, số phận đời đời...
4. Các nhà văn muốn viết một quyển truyện hay thường nghĩ trước phần kết của câu truyện. Chúng ta muốn viết quyển truyện đời mình cho hay thì cũng phải nghĩ trước về ngày chết của mình, đừng như nhân vật trong chuyện dưới đây:
“Nhà khoa học Huxley đang gấp vì sợ đến trễ phiên họp trong đó ông phải đọc một bài tham luận. Ông nhảy lên một chiếc xe ngựa và bảo người đánh ngựa “Hãy chạy hết tốc lực”. Xe chạy một quãng, ông mới giật mình hỏi “Nhưng mà ta đang chạy đi đâu vậy?”. Người đánh ngựa đáp: “Tôi cũng chẳng biết, chỉ biết là xe đang chạy hết tốc lực”. (Clifton Gadiman).
5. Cả cuộc sống êm ả lẫn cuộc sống bất ổn cũng đều tiềm tàng những thuận lợn và những hiểm nguy cho đời sống thiêng liêng. Vấn đề là làm sao luôn rút được ích lợi ngay giữa hai tình cảnh đối nghịch đó:
- Nếu được sống triền miên trong sự êm ả (vd: sống trong một xã hội sung túc đầy đủ, không bao giờ phải lo chiến tranh hoạn nạn…) người ta sẽ dễ an tâm sống đạo thờ phượng Chúa. - Nhưng cũng dễ rơi vào chỗ coi thường, bất cần đến đạo, bất cần đến Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, mỗi khi dân Chúa li bì trong cảnh thái bình mà đâm ra truỵ lạc, tự mãn, không coi Thiên Chúa ra gì, thì thường xuất hiện vị ngôn sứ loan báo tai hoạ để nhắc nhở dân (gọi là ngôn sứ báo hoạ).
- Ngược lại, nếu luôn phải sống trong phập phồng lo sợ, người ta dễ thấy mạng sống mình mong manh, thấy của cải vật chất không giúp bảo đảm gì nhiều cho mình. Khi đó người ta dễ chạy đến với Chúa. - Nhưng nếu cứ phải sống triền miên trong bất ổn, cuộc đời dễ mất ổn định và khó lòng đạt được những hoa trái của sự bình an. Suy niệm đời ông Gióp giúp ta hiểu rõ hơn.
6. “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,6)
Ồ một chiếc bông hồng vừa hé nở đẹp quá! Thế mà chỉ vài ngày sau nó đã tàn úa, vì đó chỉ là những vẻ đẹp chóng qua.
Đền thờ Giêrusalem, một công trình mất đến 40 năm mới hoàn tất, vậy mà Chúa bảo rồi sẽ có ngày bị tàn phá. Giữa những vẻ đẹp nhân tạo, những vẻ đẹp của trần thế chóng qua, Chúa muốn tôi tìm kiếm vẻ đẹp không bao giờ tàn úa. Chỉ có vẻ đẹp của tâm hồn, chỉ có sự thánh thiện mới không có gì phá huỷ đ. Vẻ đẹp đó chỉ có thể tô điểm bằng yêu thương và phục vụ.
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và phục vụ, để giữ mãi vẻ đẹp của tâm hồn. (Hosanna)
Suy niệm 10: Ngày tận cùng
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Đây là đoạn mở đầu cho một đơn vị văn chương được gọi là “diễn từ chung luận” (Lc 21,5-36), trong đó Chúa Giêsu nói đến những vấn đề “chung kết” của lịch sử và qua đó Chúa cũng muốn ám chỉ đến ngày tận cùng của một đời người.
Đoạn diễn từ này khó hiểu vì được viết theo văn thể khải huyền. Chúa đã dùng những hình ảnh rất thật nhưng chưa xảy ra để nói một cách úp úp mở mở về ngày chung cuộc và có ý cho mọi người hiểu rằng, ngày chung cuộc chắc chắn rồi cũng sẽ xảy đến như vậy.
Vâng! Mọi công trình do con người xây dựng, dù cho có kiên cố và quý giá đến đâu đi nữa, kể cả Đền thờ Jêrusalem...đều sẽ có ngày sụp đổ. Chẳng có gì bền vững ở thế giới này. “Trăm năm bia đá cũng mòn” ; “Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa. Hoa nào không phai tàn? Trăng nào không khuyết? Ngày nào mà không có đêm? Yến tiệc nào không có lúc tàn?”
Triết lý Á Đông: “sự vật hễ có sinh thì có hoại”.
“Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,6).
Một lúc nào đó, dù muốn hay không muốn, cái chết cũng đến với chúng ta. Chúng ta sẽ ra đi như chúng ta đã vào đời. Từ trong bóng tối đi ra, chúng ta cũng sẽ trở về với bóng tối. Đã có một thời không có chúng ta, và cũng sẽ đến thời không ai còn nhắc đến chúng ta nữa.
Một hôm trong một cuộc nói chuyện, một giáo sư dạy triết hỏi các sinh viên của mình:
- Em nào trả lời câu hỏi của thầy thì giơ tay lên - thầy nói với cả lớp.
- Ai có thể kể về cha mẹ mình?
Mọi người đều giơ tay.
- Ai có thể kề về ông bà mình?
Khoảng ba phần tư lớp giơ tay.
- Vậy em nào có thể kề về ông bà cố của mình?
Chỉ hai trong số 60 sinh viên giơ tay.
- Giờ thì các em hãy suy nghĩ kỹ đi nào - thầy bảo - Chỉ mới cách có hai thế hệ mà rất ít người biết cụ cố mình là ai. Có thể các em từng thấy một bức ảnh cũ kỹ phai màu được cất kỹ trong hộp thuốc lá mốc meo, hay đã nghe kề một câu chuyện tiêu biểu về gia tộc mình, và biết có người trong tổ tiên mình đã lội bộ năm dặm đường để đến trường. Nhưng mấy người trong các em thật sự biết tổ tiên của mình là ai, các cụ nghĩ gì, hãnh diện, lo sợ hay mơ ước điều gì. Các em thử nghĩ xem. Chỉ trong vòng ba thế hệ thôi mà các bậc tiền nhân đều đã bị lãng quên. Vậy, liệu điều đó có xảy đến với các em sau này không?
Để thầy nêu câu hỏi cụ thể hơn cho các em. Các em thử tương tượng xem ba thế hệ sau mình. Lúc ấy các em đã ra người thiên cổ lâu rồi. Chỗ các em ngồi bây giờ sẽ là chỗ của các chít chắt. Liệu chúng có biết gì về các em không? Hay là các em cũng sẽ chìm sâu trong dĩ vãng?
Các em muốn cuộc sống của mình hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thề hệ sau? Các em sẽ để lại di sản nào? Sự lựa chọn hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của các em. Thôi bây giờ lớp chúng ta nghỉ. Không ai trong lớp đứng dậy và ùa về như mọi khi. Mọi người đều ngồi lại và suy nghĩ về lời thầy nói. (Jodie Foster)
Đó cũng là số phận chung của con người.
2. Quả thật, không gì thê thảm bằng cái chết. Chúng ta muốn sống, sống mãi, chúng ta muốn được người đời nhắc đến, nhưng rồi chúng ta phải chết, bị chìm trong quên lãng của thời gian. Mỗi ngày có trên 20.000 người chết, mỗi giờ có đến 10.000 người chết. Hôm nay, ngày mai hay bất cứ lúc nào, tôi cũng sẽ được đếm trong số người phải ra đi ấy.
Tác giả Đường Bá Hổ có bài thơ về đời người như sau:
Xuân đi, Hạ lại, Thu sang Đông,
Chóng như thoi đưa, như nước chảy,
Vừa tiễn buổi chiều chuông chùa kêu,
Đã báo rạng đông, gà gáy sáng,
Ta thử tính xem những người nhãn tiền,
Một năm đã thấy khuất vô số.
Lô nhô nắm đất cánh đồng hoang,
Quá nữa không ai người tảo mộ.
Người ta thường nói “Các nhà văn muốn viết một quyển chuyện hay thì thường phải nghĩ đến phần kết của câu chuyện trước.
Trên vòng bán nguyệt của khung cửa chính của Nhà thờ chính tòa Milanô người ta thấy có khắc ba dòng chữ. Phía dưới hình hoa hồng được trạm trổ tinh vi của vòng bán nguyệt thứ nhất, người ta đọc được dòng chữ: “Mọi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh khắc!”. Bên vòng bán nguyệt của khung cửa kia, dưới hình một cây Thập Giá, có dòng chữ: “Mọi đau khổ chỉ kéo dài trong khoảnh khắc”.
Và ở vòng bán nguyệt của khung cửa giữa dẫn vào lòng chính Vương cung Thánh Đường có khắc dòng chữ: “Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng nhất!”
Xin nhắc lại một lần nữa: “Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng nhất!”
27/11 Cho Ði Tất Cả
- Viết bởi Lc 21, 1-4
Cho Ði Tất Cả.
Thứ Hai tuần 34 thường niên.
"Người thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ".
Lời Chúa: Lc 21, 1-4
Khi ấy, Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền. Người cũng thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ, nên bảo rằng: "Thầy bảo thật các con, bà goá nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người.
Vì mọi người kia lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu, bà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Bỏ vào tất cả
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thánh Luca là văn sĩ tuyệt vời viết về sự hiền dịu của Đức Kitô.
Nhưng thánh nhân cũng là người nhấn mạnh đến sự đòi hỏi.
Thầy Giêsu đòi ai muốn theo Ngài phải từ bỏ tất cả (Lc 14, 33).
Các môn đệ đầu tiên như Simon, Gioan, Giacôbê, Lêvi,
đều là những người đã bỏ tất cả để theo Thầy (Lc 5, 11. 28).
Bà góa nghèo trong bài Tin Mừng hôm nay (c.4)
cũng là người đã bỏ vào thùng tiền tất cả những gì bà có để sinh sống.
Tất cả và trọn vẹn, chính là điều Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người.
Yêu Ngài bằng tất cả trái tim và tất cả sức lực của mình,
đó là mệnh lệnh của Thiên Chúa dẫn đến sự sống vĩnh cửu (Lc 10, 27).
Có người tự hỏi nếu bà góa nghèo dâng cho Đền thờ
tất cả số tiền nhỏ nhoi còn lại thì ngày mai bà sống bằng gì.
Bà có phải là người bị đầu độc và bóc lột bởi các kinh sư không,
vì đã có những kinh sư nuốt chửng nhà của các bà góa (Lc 20, 47)?
Đức Giêsu có coi bà góa này như một tấm gương cho ta không?
Khi ngồi nhìn người ta dâng cúng tiền cho Đền thờ,
Đức Giêsu thấy người giàu bỏ tiền, có khi là những món tiền lớn.
Nhưng Ngài cũng thấy một bà góa nghèo bỏ tiền vào thùng.
Một món tiền rất nhỏ, bằng đơn vị tiền tệ nhỏ nhất.
Ngài nói cho các môn đệ nghe về cách đánh giá của Ngài,
cũng là cách đánh giá của Thiên Chúa.
Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn những người giàu.
Vì các môn đệ có thể bị ngỡ ngàng, nên Ngài giải thích cho họ.
Người giàu bỏ vào từ sự dư thừa của họ.
Còn bà góa bỏ vào từ sự túng thiếu của bà (c. 4).
Trao đi một điều đụng chạm đến cuộc sống của mình
thì khó hơn gấp bội,
vì mình phải gánh chịu hậu quả ngay lập tức.
Bà góa ở Xarépta chắc chắn đã gặp khó khăn
khi ngôn sứ Êlia xin bà làm cho ông một cái bánh nhỏ trước đã,
rồi sau đó mới làm cho bà và con bà (1 V 17,13).
Bà đã dám vâng lời dù đang túng thiếu,
dù nhà chỉ còn một nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò.
Cái chết đang đến với mẹ con bà, vậy mà bà đã dám chia sẻ.
Chia sẻ của hai bà góa trên đây đều nằm trong những tình huống
tưởng như không thể chia sẻ được, vì chẳng có gì để chia sẻ.
Chia sẻ cho Chúa hay cho tha nhân lúc ấy, thật là quý biết bao,
vì nó đòi ta ném mình vào sự mất an toàn,
và đồng thời ném mình vào vòng tay quan phòng của Thiên Chúa.
Mọi tính toán kiểu con người biến mất,
để nhường chỗ cho lòng quảng đại vô bờ.
Chắc chắn Thiên Chúa chẳng để cho bà góa nghèo phải chết đói.
Hũ bột không cạn và bình dầu không vơi
vẫn là quà tặng Chúa ban cho bất cứ ai dám trao đi tất cả đời mình,
vì trao đi mà sau đó mình không thấy thiếu thì không thật là trao đi.
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Suy niệm 2: Tấm lòng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa có cách đánh giá kỳ lạ. Khác người. Chúa nhìn bề trong chứ không nhìn bề ngoài. Đối với Chúa tâm hồn quan trọng hơn của cải. Tình yêu quan trọng hơn lễ vật. Trật tự của Chúa khác với trật tự trần gian. Ở trần gian ai cũng chú trọng tới những người quyền cao chức trọng, ăn mặc sang trọng, thân hình phương phi, và nhất là dâng cúng nhiều tiền của. Nhưng Chúa lại chú ý tới những người thấp hèn, ăn mặc nghèo nàn, thân hình bé nhỏ, và dâng cúng ít ỏi. Chúa đánh giá cao bà goá dâng hai đồng kẽm. Vì: “Những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, tuy thật túng thiếu, đã bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”. Như thế tuy bà có ít ỏi. Nhưng tấm lòng của bà thật lớn lao. Bài bị người đời khinh chế. Nhưng bà được đánh giá cao trước mặt Chúa. Bà từ người cuối hết trong trần gian. Trở thành người lớn nhất trong Nước Trời. Chúa không cần của lễ. Chúa cần tấm lòng. Đối với Chúa những tấm lòng quảng đại là cao quí nhất.
Đa-ni-en và ba người bạn có tấm lòng yêu mến Chúa. Các cậu chu toàn lề luật Chúa. Nên chối từ bổng lộc vua ban. Các cậu thà ăn rau cỏ. Không chịu ăn thịt luật đạo cấm. Tâm hồn cao quí đó hiện lên sắc mặt. Nên các cậu khôi ngô tuấn tú hơn những trẻ khác ăn uống theo chế độ vua ban. Còn hơn thế nữa. Chúa thưởng công cho các cậu được trí khôn ngoan, “được hiểu biết mọi thị kiến và điềm báo mộng”. Vua rất yêu thích cho các cậu được ở bên cạnh. “Thế là bốn cậu này được đứng chầu vua, và khi vua hỏi các cậu về bất cứ điều gì cần đến sự khôn ngoan và tài trí, thì đều thấy các cậu trổi vượt gấp mười lần hơn tất cả các thầy phù thuỷ và pháp sư trong toàn vương quốc”. Các cậu đã trở thành những người xuất sắc hàng đầu. Là hoa trái của quyền năng Chúa. Đó là Chúa thưởng công cho tấm lòng quảng đại của các cậu. Vì yêu mến Chúa mà chấp nhận thiệt thòi (năm lẻ).
Đó là những hình ảnh báo trước Nước Trời. Chịu thiệt thòi ở trần gian. Họ trở thành của lễ đầu mùa khiến Chúa hài lòng. Thánh Gio-an đã nhìn thấy những người được Chúa thưởng công, đi theo hầu cận Con Chiên. Và hát những bài ca mới chỉ có thiên thần mới hiểu được. “Không ai có thể học được bài ca này, ngoài một trăm bốn mươi bốn ngàn người đã được chuộc về từ mặt đất. Họ đã được chuộc về từ giữa loài người, làm của đầu mùa dâng lên Thiên Chúa và Con Chiên. Chẳng ai thấy miệng họ nói dối: không ai chê trách họ được” (năm chẵn). Đó là bài ca của tấm lòng. Chỉ có tấm lòng mới học được. Chỉ có tấm lòng mới hiểu được.
Tôi có tấm lòng không khi sống đạo? Có tấm lòng không đối với Chúa? Và đối với anh em?
Suy niệm 3: Cho Ði Tất Cả
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Vào thời xưa cũng như thời này, có những giai tầng bị loại ra bên lề. Họ có thể là những người mắc bệnh không có thuốc chữa, họ có thể là những người nghèo không một xu dính túi. Trong số những người nghèo bị gạt ra bên lề xã hội, có các bà góa; nhất là trong hệ thống tổ chức xã hội xưa kia tại Israel, phụ nữ khi kết hôn phải cắt đứt giây liên hệ với gia đình ruột thịt, và từ lúc chồng chết cũng là lúc mọi tiếp tế vật chất từ nhà chồng bị đình chỉ.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay có thể nói là một người nghèo tuyệt đối. Qua nghĩa cử đơn sơ của bà, Chúa Giêsu đã khám phá ra sự quảng đại cao cả và lòng cậy trông phó thác tuyệt đối của bà vào Thiên Chúa. Mặc dù chỉ đóng góp hai đồng tiền nhỏ có giá trị 1/4 xu, nhưng bà đã cho đi tất cả những gì mình có để nuôi sống; vì thế bà xứng đáng được Chúa Giêsu khen ngợi. Tuy nhiên sự kiện và lời khen ngợi này có thể nêu lên hai vấn nạn: thứ nhất, liệu chúng ta phải nghèo về vật chất để được thuộc về Nước Thiên Chúa chăng? thứ hai, liệu người nghèo phải cho đi tất cả, kể cả những nhu yếu phẩm nếu họ muốn được Chúa khen ngợi chăng?
Ðã hẳn trong Tin Mừng, người nghèo được chúc phúc, trong khi theo cách diễn tả của Chúa Giêsu người giầu có khó vào được Nước Trời. Thật ra, người nghèo được gọi là có phúc, không phải vì họ nghèo, cũng như Tin Mừng không bao giờ đề cao sự nghèo khổ, vì sự nghèo túng tự nó không làm cho ai nên thánh, có chăng chỉ những người nghèo biết chấp nhận thân phận của mình để chờ đợi từ người khác và cậy trông phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Nói khác đi, cái nghèo vật chất không phải tự nó biến sự túng thiếu thành nguồn ơn phúc, nhưng chính tinh thần nghèo khó, chính ý thức sự lệ thuộc của mình vào người khác, nhất là đặt trọn niềm tín thác vào Thiên Chúa, mới làm cho những người nghèo trở nên giầu tình người và đậm đà tình Chúa.
Bà góa nghèo trong Tin Mừng hôm nay chỉ có hai đồng tiền nhỏ để sinh sống, nhưng bà đã dâng cúng trọn vẹn cho Chúa. Có lẽ bà có được hai đồng tiền đó là do lòng hảo tâm của người khác và bà muốn biểu lộ sự tín thác của mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa qua việc cho đi tất cả. Vấn đề đáng suy nghĩ là liệu hành động của bà góa nghèo này có giá trị trong xã hội ngày nay, nếu không phải là tạo thêm sự nghi kỵ trong xã hội? Sống trong một xã hội cạnh tranh như hiện nay, còn có một mô thức của xã hội nơi bài giảng trên núi của Chúa Giêsu được đem ra thực hành, để không ai còn bị tiền tài, danh vọng, quyền lực chi phối, nhưng mọi người đều thực hành tình liên đới, yêu thương, chia sẻ. Với lời khen ngợi hành động của bà góa nghèo, Chúa Giêsu một lần nữa muốn đảo lộn trật tự xã hội, vì Ngài không những kêu gọi sự thay đổi của từng cá nhân, nhưng còn muốn đẩy mạnh tiến trình đổi mới xã hội, nơi mọi người đóng góp tất cả những gì mình có để xây dựng và phục vụ xã hội.
Ðể sống trọn Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi: Tôi có tinh thần nghèo khó để ý thức sự lệ thuộc của tôi vào người khác và vào Thiên Chúa không? Tôi đã và đang làm gì để góp phần xây dựng một xã hội mới. Ước gì mẫu gương của bà góa nghèo phản ánh tình yêu Thiên Chúa, Ðấng trao ban tất cả cho con người, giúp chúng ta mạnh tiến trên con đường xây dựng Nước Chúa giữa lòng xã hội.
Suy niệm 4: Người Ðàn Bà Góa
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Có rất nhiều câu chuyện về những người nghèo chia sẻ một cách hào phóng cho những người túng thiếu. Câu chuyện cảm động nhất hẳn phải là câu chuyện của bà góa thành Xêrepta thời tiên tri Êlia:
Toàn vùng phải trải qua một cơn hạn hán lâu dài, trong nhà người đàn bà chỉ còn lại một ít bột và một vài giọt dầu cuối cùng đủ để bà chuẩn bị một bữa ăn cuối cùng cho bà và đứa con trai nhỏ. Vừa gặp người đàn bà đang đi kiếm củi, tiên tri Êlia đã nói hầu như ra lệnh cho bà rằng: "Hãy chuẩn bị thức ăn cho ông!" Không một chút do dự hay chống chế, người đàn bà khốn khổ đã làm theo lời vị tiên tri và phép lạ từ lòng quảng đại của bà đã diễn ra: một vò dầu trong nhà bà không bao giờ cạn cho đến khi cơn hạn hán chấm dứt.
Người đàn bà góa mà Chúa Giêsu đã nhìn thấy cử chỉ quảng đại trong Tin Mừng hôm nay cũng chia sẻ một cách hào phóng chẳng khác nào người đàn bà góa thời tiên tri Êlia. Cùng với những người giầu có đang lũ lượt đi tới trước hòm tiền để dâng cúng, người đàn bà góa chỉ bỏ đúng có hai đồng xu nhỏ. Nhưng trong khi những người giàu có làm cử chỉ dâng cúng để cho người khác thấy, và có lẽ sự sang trọng cũng dễ gây sự chú ý của những người chung quanh, thì Chúa Giêsu, Ðấng thấu suốt mọi sự bí ẩn trong lòng người đã chỉ chú ý đến người đàn bà góa. Dưới ánh mắt của Ngài, người đàn bà góa nghèo này là người dâng cúng nhiều nhất. Bà cho nhiều nhất bởi vì trong khi những người giàu có chỉ cho của dư thừa, người đàn bà góa cho chính những gì mình có để độ nhật, và cho tất cả những gì bà có chứ không phải chi một vài xu lẻ.
Mẹ Têrêsa Calcuta cũng có lần kể lại một câu chuyện tương tự: "Một năm nọ, có một người phụ nữ nghèo đến gõ cửa xin giúp đỡ. Người đàn bà cho biết rằng bà có tám đứa con nhỏ và từ nhiều ngày qua, trong nhà không còn một hột gạo. Mẹ Têrêsa lấy gạo trao cho người đàn bà. Số gạo vừa đủ cho bà và các con bà. Nhưng trước sự ngạc nhiên của mẹ, người đàn bà xin một bao trống, chia số gạo làm hai rồi giải thích rằng bên cạnh nhà bà còn có một gia đình Hồi giáo cũng không còn gạo ăn từ nhiều ngày qua".
Người đàn bà nghèo muốn chia sẻ một nửa những gì mình đang có cho người láng giềng của mình. Chúng ta có thể học được nhiều bài học từ những câu chuyện trên đây. Những người đàn bà góa và người nghèo nói chung, có thể dạy chúng ta ý thức về sự lệ thuộc vào Chúa. Họ nói với chúng ta rằng sống qua ngày quả là một nỗi khốn khổ, nhưng có Chúa luôn lo liệu mọi nhu cầu cần thiết cho chúng ta. Họ nhắc nhở chúng ta rằng mỗi ngày qua đi không biết bao nhiêu ân phúc Chúa ban, nhưng không được chúng ta nhìn nhận và đáp trả với lòng biết ơn, và cho chúng ta thấy rằng của cải vật chất có thể là những xiềng xích đang trói buộc chúng ta, và càng có ít, con người càng có cơ may để sống hạnh phúc hơn. Nhưng quan trọng hơn cả, bài học mà chúng ta có thể học được nơi những người đàn bà góa trên đây, cũng như từ những người nghèo nói chung là càng trao ban, chúng ta càng hạnh phúc. Trao ban những gì mình có đã đành, nhưng trao ban chính bản thân mới đích thực là trao ban. Một quà tặng không bao hàm người tặng thì chỉ là một món quà chơi trội. Cho là cho chính bản thân. Ðó chính là cách cho của Chúa Giêsu. Ngài trao ban thịt máu Ngài cho chúng ta. Ðược Ngài nuôi dưỡng bằng thịt máu Ngài, ước gì các tín hữu Kitô chúng ta cũng trở thành những kẻ trao ban một cách quảng đại.
Suy niệm 5: Ai quảng đại thật?
Ngước mắt lên nhìn, Đức Giêsu thấy những người giầu sang đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. Người cũng thấy một bà góa túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. Người liền nói: “Thầy bảo thật anh em: Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn ai hết.” (Lc. 21, 1-3)
Quảng đại thật:
Những vẻ bề ngoài thường làm ta lầm. Những người quảng đại nhất không hẳn là những người bỏ nhiều tiền nhất vào thùng dâng cúng. Lòng quảng đại thật cũng không đo của mà người ta cho. Muốn đánh giá đúng lòng quảng đại, phải xem họ cho cái họ thiếu thốn. Người ta cho nhiều tiền không phải là rất quảng đại. Người ta có thể cho ít mà vẫn quảng đại.
Sự thật đó hoàn toàn đơn giản. Đức Giêsu không phải nhắc nhở điều đó một cách vô ích đâu, vì chúng ta dễ lầm tưởng đánh giá theo bề ngoài. Đức Giêsu đánh giá tận đáy lòng người ta, nên Người nói: “Bà góa nghèo này bỏ vào nhiều hơn ai hết”. Người ta ngày nay có thể nói như thế về nhiều người nghèo, mặc dầu bề ngoài nghèo, nhưng lại tỏ ra quảng đại hơn nhiều người giàu.
Dư thừa của cải:
Có phải vô tình Tin mừng cho thấy bà góa này có lòng quảng đại hơn các ông bà giàu kia không? Có lẽ không.
Quả thật, người ta có thể thấy nhiều người giàu có lòng quảng đại thật, và cũng có nhiều người nghèo hà tiện ghê gớm. Nhưng thật ra có lẽ có nhiều người nghèo quảng đại hơn nhiều người giàu. Đó là điều Đức Giêsu muốn nói. Họ cho nhiều khi họ túng thiếu hơn là lúc họ dư thừa. Lòng quảng đại đáng giá thật khi cho lúc lâm cảnh túng quẫn.
Chúng ta biết rất nhiều người nghèo dâng cúng lúc họ đang túng thiếu. Còn nhiều người giàu dâng cúng được nhiều hơn không, nếu xét theo lòng quảng đại? Có bao nhiêu người giàu dâng cúng nhiều hơn cái dư thừa của họ?
Có lẽ phải nói rằng giàu sang quá làm ngăn trở để nên quảng đại thật.
R.C
Suy niệm 6: Cần có cái nhìn của Chúa
Xem lại CN 32 TNB và thứ Bảy tuần 9 TN
Sau khi Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ bằng việc đánh đuổi con buôn để trả lại cho đền thờ sự thánh thiêng đúng nghĩa. Hôm nay, Đức Giêsu tiến xa hơn khi nói đến tâm hồn của con người trong việc thực hành niềm tin tôn giáo. Vì thế, Ngài đã thay đổi quan niệm xưa khi cho rằng: một người được Thiên Chúa chúc phúc là một người đông con nhiều cháu, đoàn xúc vật và của cải nhiều... Đây là não trạng mang đậm truyền thống của tiền nhân nơi những người Dothái đương thời với Đức Giêsu. Lối suy nghĩ này còn bén rễ sâu vào khái niệm dâng cúng tiền bạc trong đền thờ. Họ cho rằng: ai dâng cúng nhiều thì dấu chỉ người đó được nhiều ơn..., bởi thế, ở gần hòm tiền, luôn có người phụ trách xướng lên lớn tiếng số lượng mỗi người dâng để cho mọi người biết.
Thấy thế, Đức Giêsu đã xóa bỏ quan niệm đó và mặc cho nó một ý nghĩa sâu xa được khởi đi từ tấm lòng chân thành chứ không phải là những vật phẩm bề ngoài.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay hiện lên hình ảnh của một bà góa nghèo. Bà được Đức Giêsu đề cao vì đã dâng tất cả những gì mình có. Thật vậy, bà không có nhiều tiền, nhưng bà có tấm lòng bao la. 2 đồng tiền nhỏ mà bà bỏ vào thùng không đáng gì so với những đồng tiền của giới nhà giàu dâng cúng. Tuy nhiên đây là cả gia sản hiện tại của bà. Thấy được nghĩa cử cao quý đó, Đức Giêsu đã lên tiếng khen ngợi: “Ta bảo thật anh em, bà goá nghèo khó này đã bỏ vào hòm nhiều hơn mọi người”.
Khi đề cao bà góa nghèo như vậy, Đức Giêsu đã không chú ý đến số lượng, mà Ngài đã đề cao phẩm chất. Sự ca ngợi của Đức Giêsu dành cho bà làm toát lên cái nhìn của Thiên Chúa. Ngài nhìn từ bên trong tâm hồn, trong khi con người thì lại nhìn từ những cái bên ngoài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: tấm lòng của con người mang tính quyết định chứ không phải những gì bên ngoài. Giá trị tâm linh thì quan trọng hơn lễ vật. Nếu dâng cúng nhiều mà không có tấm lòng yêu thương, bác ái thì chỉ là một cách phô trương mà thôi.
Mặt khác, với cái nhìn của Đức Giêsu cho chúng ta thấy: đừng vì bề ngoài mà xét đoán anh chị em mình tốt hay xấu. Cũng đừng vì tiền mà thay đổi thái độ trắng đen và phân biệt đối xử, hoặc đừng vì những thứ bề ngoài mà an tâm rằng ta được phúc hơn người!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương bà góa nghèo để đến với Chúa bằng tấm lòng chân thành trong sự yêu mến. Xin Chúa cũng ban cho chúng con có cái nhìn như Chúa để được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Thái độ khi ta làm việc lành
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đối với Chúa, điều quan trọng không phải là số lượng, nhưng là thái độ khi ta làm việc lành. Những việc làm của ta, dù nhỏ bé, nếu được thực hiện với lòng yêu mến và tín thác nơi Chúa, Ngài sẽ vui nhận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con vẫn hiểu rằng: khi cho đi là lúc lãnh nhận, khi quên mình là lúc gặp lại mình. Nhưng những lúc con cho đi, dù với danh nghĩa vì Chúa hay vì đồng loại, con vẫn thường cảm thấy nơi con có gì như đang mất mát, vì thế con tiếc nuối, sợ bị thiệt thòi.
Có lẽ vì thế, khi nhìn lại những tháng ngày đã qua, con thấy hầu như con đã chỉ cho người khác cái mà con dư thừa. Con cho đi bằng tay phải nhưng đã tìm cách lấy lại bằng tay trái. Con muốn quên mình, nhưng lại so đo tính toán hơn thiệt. Xét cho cùng, tình yêu của con còn quá nhỏ, lòng bác ái còn quá vụ lợi, sự dâng hiến còn quá miễn cưỡng, sự phục vụ còn quá nhỏ bé. Con chưa thật quảng đại và phó thác để dám quên mình cách triệt để, ngõ hầu tôn vinh danh Chúa và thăng tiến anh em. Do đó, đời sống đạo của con chưa thật sự đổi mới, xứ đạo và môi trường sống của con chưa phát triển tốt đẹp.
Lạy Chúa, chính Chúa nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hiến mạng sống vì người mình yêu”. Xin ban cho con tình yêu nồng nàn và lòng tín thác cao độ như bà góa dâng hết mọi đồng xu cho Chúa, để con dám vắt kiệt thời giờ, tiền của, sức lực và cả mạng sống của con vì Chúa, vì Giáo Hội, và vì anh chị em sống quanh con. Amen.
Ghi nhớ: “Người thấy một bà góa nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ”.
Suy niệm 8: Dâng cho Chúa tất cả tấm lòng
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa đi xuống phố, một người ăn mày chạy đến gặp mẹ và nói: “Thưa mẹ Têrêsa, mọi người đều cho mẹ tiền để giúp người bệnh tật”. Anh nói thêm với giọng hơi buồn: “Con cũng muốn cho mẹ tiền. Nhưng suốt cả ngày hôm nay, con chỉ có được ba mươi xu. Dù ít, nhưng con muốn cho mẹ số tiền ấy”. Mẹ Têrêsa suy nghĩ một lúc: “Nếu mình lấy ba mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu không lấy, sẽ làm tình cảm anh ta tổn thương”. Vì thế, Mẹ đưa tay ra để lấy số tiền ấy và cám ơn anh.
Mẹ chia sẻ: “Tôi chưa bao giờ thấy được niềm vui như thế trên khuôn mặt của bất cứ ai như trên khuôn mặt của người ăn mày đó khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền mẹ Têrêsa làm bác ái… Số tiền thật bé nhỏ đó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu thương của anh”. Mẹ nhấn mạnh: “Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to tát của công việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành”.
Suy niệm
Bà góa bỏ vào đền thờ phần nhỏ bé, nhưng Chúa Giêsu khen ngợi và nhấn mạnh rằng bà đã dâng lên cho Thiên Chúa tất cả tấm lòng và nêu tấm gương cho các môn đệ… Bà góa đã dâng cúng với tất cả tấm lòng thành, bằng sự mến yêu nồng nàn đối với Chúa. Bà dâng cúng hai đồng tiền kẽm, tuy nhỏ nhất nhưng đó là tất cả những gì thiết yếu cho cuộc sống của bà, như thế bà đã dâng cả mạng sống. Nhìn cung cách dâng cúng của bà, Đức Giêsu đã khen: “Bà góa nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người”.
Thiên Chúa là Đấng “dò thấu lòng dạ” (Xh 2,23; x. Tv 7,10; 17,10), Ngài không quan tâm bởi những dáng vẻ bề ngoài, như lời ngôn sứ khẳng định: “Người ta nhìn bề ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn tận đáy lòng mỗi người (1Sm 16,7). Sau này, thánh Phaolô cũng khẳng định: “Thiên Chúa, đấng thấu suốt tâm can” (Rm 8,27). Cho nên, dù chỉ dâng hai xu kẽm, nhưng xuất phát từ tâm can yêu mến của bà góa. Qua tấm gương bà góa, Chúa Giêsu dạy chúng ta sống với Chúa cách sống đạo đơn sơ, chân thành và quảng đại với anh em trọn tấm lòng. Cho dù một tấm lòng rất nát về vật chất nhưng giàu về sự chân thành và yêu thương như hai xu kẽm của bà góa dâng tiền cho Chúa.
Xin cho chúng con một tấm lòng thành mang trọn tình yêu với Chúa với anh em, biết ý thức về sự mỏng giòn, nhỏ bé, thiếu thốn của mình mà cậy dựa vào ân sủng của Thiên Chúa, và học biết trân trọng thiện chí chân thành của anh em. Dâng cho Chúa với cả tấm lòng, khiêm tốn, ẩn kín vì như Chúa Giêsu khẳng định: “Cha các con, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho các con”(Mt 6,8).
Ý lực sống
“Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà” (Mẹ Têrêsa Calcutta).
Suy niệm 9: Hai đồng tiền nhỏ của bà góa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu cùng với các môn đệ sau khi giảng dạy cho dân chúng trong Đền thờ, liền sau đó Thầy trò đi ra ngoài quan sát dân chúng dâng cúng để giúp cho Đền thờ; chính tại đây, Đức Giêsu đã giáo huấn các môn đệ về ý nghĩa và giá trị của việc dâng cúng. Khung cảnh của Tin Mừng hôm nay nằm rất gần kho bạc vốn được dùng để chứa các đồ dâng cúng (x.2V 12,10). Các thùng tiền dâng cúng được thiết kế theo hình dáng cái loa kèn và được đặt rất nhiều trong sân dành cho phụ nữ. Chính vì đặt trong địa thế như vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho giới quan sát là chính các luật sĩ và tay chân lân cận. Đức Giêsu cùng các môn đệ dễ dàng quan sát những thùng tiền cũng như những người bỏ tiền dâng cúng vào đó.
2. Trong dòng người tấp nập bỏ tiền dâng cúng Đền thờ, Đức Giêsu đặc biệt chú y đến người đàn bà góa nghèo nàn. Bà đã âm thầm bỏ vào 2 đồng tiền kẽm với giá trị chỉ bằng ¼ đồng bạc Rôma. Bởi dân Do thái thời Đức Giêsu đang bị đế quốc Rôma thống trị. Chính vì thế, người dân phải sử dụng đồng tiền Rôma trên đó có mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma. Đây là loại tiền bạc, một đồng cân nặng 3,8g và tương đương với 0,875 quan vàng. Thấy được như thế, chúng ta mới thấy rằng đồng tiền mà bà góa trong Tin Mừng dâng cúng vốn giá trị chẳng đáng là gì, nhưng đối với Đức Giêsu, Ngài đã khen :”Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”(Lc 21,3).
3. Thiên Chúa ít để ý đến giá trị của dâng bề ngoài cho bằng tấm lòng nhiệt thành quảng đại của người dâng :”Thèm lòng chứ ai thèm thịt” hoặc “Cách cho quí hơn của cho”. Ý tưởng này giúp chúng ta ý thức hơn về những công việc phục vụ tha nhân, cũng như những công việc từ thiện bác ái hay dâng cúng của cải vật chất.
Tấm lòng của bà góa dành cho Chúa quả là lớn lao vì nó đụng chạm đến sự sống của bà, bà đã dâng cho Chúa không phải của dư thừa nhưng là tất cả cái mà bà có để sống. Tinh thần bác ái đích thực là biết chia sẻ cho tha nhân một phần sự sống, tức là những sự hy sinh của mình. Cũng vậy, chúng ta tỏ lòng mến Chúa bằng cách tự nguyện dâng hiến cho Chúa điều mà chúng ta có quyền được hưởng : sự nghèo khó, lòng thanh khiết và đức vâng lời.
4. Ai cũng công nhận “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” nhưng người ta thường “xem mặt mà bắt hình dong”, dựa vào hình thức bên ngoài để đánh giá phẩm chất bên trong : Tuyển nhân viên mấy ai chọn tiêu chuẩn “xấu người đẹp nết” thay vì “ưu tiên có ngoại hình” ? Lắm khi người ta đánh giá sản phẩm chỉ dựa vào mẫu mã kiểu dáng bao bì bắt mắt. Người ta cũng dễ có xu hướng thẩm định giá trị của một người dựa vào của cải, địa vị, bằng cấp v.v... Đức Giêsu thì khác, Ngài thẩm định giá trị hành vi từ đáy lòng con người. Ngài cho biết : Dù chỉ bỏ hai đồng tiền vào thùng dâng cúng, bà góa nghèo đã bỏ nhiều hơn ai hết vì đó là tất cả gia tài của bà ! Bà đã dâng tất cả những gì bà có và dâng với cả tấm lòng (5 phút Lời Chúa).
5. Một Linh mục nọ có thói quen hằng ngày viết trong nhật ký số quà nhận được và số quà cho đi. Thỉnh thoảng ngồi kiểm lại, nếu thấy phần nhận nhiều hơn phần cho, vị Linh mục ấy điều chỉnh lại điều phần cho nhiều hơn phần nhận.
Qua câu chuyện bà góa dâng hai đồng tiền kẽm vào Đến thờ, Đức Giêsu muốn dạy chúng bài học về việc cho đi cách quảng đại, cho đi mà không tính toán hon thiệt, cho đi bằng cả tấm lòng. Khi chúng ta quảng đại cho đi cả những gì cần thiết để duy trì mạng sống mình, là lúc chúng ta đang cho đi chính bản thân. Xét cho cùng, lòng quảng đại chính là trao tặng chính bản thân mình, dâng hiến mạng sống mình cho tha nhân.
6. Truyện: Bà Oseola Mc Carthy.
Báo New York Times đưa tin bà Oseola Mc Carthy: Biểu tượng “Lòng từ thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 03/10/1999 ở tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7/95, ông hiệu trưởng trường đại học phía bắc Missisipi đã vô cùng ngạc nhiên, khi có một phụ nữ xa lạ tên là Oseola Mc Carthy xin được tặng 150.000 đôla làm quĩ học bổng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carthy tặng tất cả tiền bạc mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: ”Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla”.
Suy niệm 10: Bà góa nghèo cho đi chính bản thân mình
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Gương dâng cúng của một bà goá:
- “Bà góa”: Xã hội do thái không có những quy định bảo vệ quyền lợi các góa phụ cho nên họ rất bị thiệt thòi: tài sản của chồng thì họ không được hưởng (con cái họ hưởng), gia đình cha mẹ ruột của họ cũng không còn lo lắng cho họ bao nhiêu. Vì thế, trong Thánh Kinh, bà góa, trẻ mồ côi và ngoại kiều là những hạng người xấu số nhất và nghèo nhất (x. Đnl 24,17-22).
- Bà goá nghèo này đã dâng vào hòm tiền Đền thờ “Hai đồng tiền kẽm”: nguyên ngữ là đồng tiền Kodrantes tức là loại tiền nhỏ nhất trong các loại tiền thời đó.
- Tuy số tiền là ít nhưng được Chúa Giêsu đánh giá cao hơn số tiền của những người khác, “vì mọi người kia lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu mà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”
B.... nẩy mầm.
1. Cho đi không phải của dư thừa mà là chính cái mình đang cần thiết. Sự cho đi như thế rất quý vì cũng là sự cho đi chính bản thân mình.
Thông thường khi có dư người ta mới cho: cho người nghèo và cho Giáo Hội.
2. Một Linh mục nọ có thói quen tốt là ghi kỹ trong nhật ký hằng ngày về những số quà nhận và số quà cho. Thỉnh thoảng kiểm lại, nếu thấy phần nhận nhiều hơn phần cho thì Linh mục ấy điều chỉnh lại để phần cho nhiều hơn.
Con người thường thích nhận hơn cho; có cho thì cũng để nhận lại.
3. Trong Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu luôn luôn khuyên người ta rằng: cách sử dụng tiền của tốt nhất là cho đi, để đổi lại gia tài trên trời.
4. Cử chỉ của bà goá là một định nghĩa của lòng quảng đại: quảng đại chính là cho mà không tính toán. Xét cho cùng, quảng đại chính là trao ban chính bản thân mình. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. Vào một mùa đông, tại một đất nước Châu Âu, một em bé 13 tuổi nghe nhà trường thông báo đợt lạc quyên tiền bạc và phẩm vật làm quà Giáng sinh cho các trẻ em nghèo trong vùng. Em đã dành dụm mọi chi tiêu vốn ít ỏi của em trong suốt 3 tháng. Khi đã được 15 đồng, em quyết định đón xe đò từ làng lên phố. Bất ngờ, một trận bão tuyết ập đến dữ dội làm tắt nghẽn mọi hoạt động giao thông. Không chịu bỏ cuộc, em xuống xe, co ro lội bộ băng qua cánh đồng đầy ngập tuyết trắng xóa và gió lốc lạnh buốt.
Ông hiệu trưởng nghe báo có người muốn đang đợi ở phòng khách. Ông thực sự kinh ngạc sửng sốt khi nhận món tiến chia sẻ từ tay em bé, bởi vì trước mặt ông chính là một trong số những em bé nghèo mà ông và nhà trường đã đưa vào danh sách tặng quà giáng sinh năm đó. (Góp nhặt).
Suy niệm 11: Biết cho đi
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong Tin Mừng Luca, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn luôn khuyên người ta phải biết cho đi, để đổi lại gia tài trên trời.
Thánh Phanxicô còn cho chúng ta thấy một ý nghĩa cao cả hơn của việc biết cho đi khi Ngài viết: “Chính lúc hiến thân là khi lãnh nhận, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.
Ở bên Palestine có hai biển hồ. Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào có thể sống ở bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Chẳng ai muốn sống gần đó. Còn biển hồ thứ hai là Galilê. Đây là biển hồ thu hút nhiều du khách nhất. Nước ở biển hồ này lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống được và cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều. Vườn cây xung quanh rất tốt tươi nhờ nguồn nước này...
Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều nhận được nguồn nước từ những khe suối ở trong núi chảy ra, rồi qua sông Giodan chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát, nồng độ muối rất cao không sinh vật nào có thể chịu được. Biển hồ Galilê cũng đón nhận những nguồn nước như thế rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và con người.
Một trong những định nghĩa về cuộc sống mà ai cũng đồng tình: một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa lan tỏa. Một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lời. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban thì tâm hồn mới tràn ngập vui sướng.
Thật bất hạnh cho ai cả cuộc đời chỉ biết giữ riêng cho mình. “Sự sống”, trong họ rồi cũng sẽ chết dần, chết mòn không làm nảy sinh được cái gì tốt giống như nước trong lòng biển Chết.
2. Thông thường mà nói thì khi có dư người ta mới cho: cho người nghèo và cho Giáo Hội cũng vậy. Sự cho đi như thế theo Chúa Giêsu chưa phải là sự cho đi tốt đẹp. Sự cho đi tốt đẹp theo Chúa là sự cho đi chính cái mình đang cần thiết. Sự cho đi như thế mới quý vì là sự cho đi chính bản thân mình.
Năm 1830, khi thánh Gioan Vianey sửa lại nhà thờ xứ Ars, có một bà già đem đến cho Ngài một đồng bạc, để dâng cúng vào việc tu bổ thánh đường. Thấy bà già quá nghèo nàn và vất vả, thánh Gioan không dám nhận. Ngài sợ bà phải hy sinh nhiều quá nên mới nói với bà:
- Cha cám ơn lòng tốt của bà, và chắc Chúa cũng đã nhìn thấy lòng rộng rãi và sốt sắng của bà rồi. Bà quá vất vả và thiếu thốn, nên xin bà hãy giữ lấy đồng bạc này để tiêu xài cho những thứ cần thiết.
Lúc ấy bà già đã thưa lại cách khiêm tốn rằng:
- Thưa cha, nếu Chúa cho con có của, con sẽ dâng cúng cho Chúa nhiều hơn, nhưng vì con nghèo, nên con chỉ có thế này để dâng cúng cho Chúa. Nhưng đây là tất cả tấm lòng yêu mến của con. Vậy xin cha hãy nhận lấy đồng bạc của con. Với đồng bạc này, nếu cha không mua được cái gì quí giá, thì xin cha hãy mua một viên gạch lát trong nhà thờ, để mỗi khi Chúa Giêsu ngự trong nhà tạm nhìn ra trông thấy viên gạch ấy, Chúa sẽ nhớ tới con.
Bà già trên đây chẳng khác gì bà goá ở trong bài Tin Mừng hôm nay. Bà đã biết sử dụng tiền của vào việc đạo đức, vào việc tu sửa nhà thờ của Chúa, mặc dầu tiền bạc của bà ít ỏi, chỉ có một đồng bạc. Đồng bạc này lại là cả gia nghiệp của bà. Vậy mà bà đã bỏ ra để giúp đỡ nhà thờ. Và như chúng ta thấy Chúa đánh giá thật cao việc dâng cúng của bà.
3. Việc làm của bà goá là một định nghĩa và cũng là một tấm gương về lòng quảng đại: quảng đại chính là cho đi mà không tính toán. Xét cho cùng, quảng đại chính là trao ban chính bản thân mình. (“Mỗi ngày một tin vui”)
Vào một mùa đông, tại một đất nước Châu Âu, một em bé 13 tuổi nghe nhà trường thông báo đợt lạc quyên tiền bạc và phẩm vật làm quà Giáng sinh cho các trẻ em nghèo trong vùng. Em đã dành dụm mọi chi tiêu vốn ít ỏi của em trong suốt 3 tháng. Khi đã được 15 đồng, em quyết định đón xe đò từ làng lên phố. Bất ngờ, một trận bão tuyết ập đến dữ dội làm tắc nghẽn mọi hoạt động giao thông. Không chịu bỏ cuộc, em xuống xe, co ro lội bộ băng qua cánh đồng ngập tuyết trắng xóa và gió lốc lạnh buốt.
Ông hiệu trưởng nghe báo có người muốn gặp ông đang đợi ở phòng khách. Ông thực sự kinh ngạc sửng sốt khi nhận món tiến chia sẻ từ tay em bé, bởi vì trước mặt ông chính là một trong số những em bé nghèo mà ông và nhà trường đã đưa vào danh sách tặng quà giáng sinh năm đó. (Góp nhặt).
26/11 Tốt lành và trung tín
- Viết bởi Mt 25, 31-46
Tốt lành và trung tín.
CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN năm A-ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
"Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra".
Lời Chúa: Mt 25, 31-46
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.
"Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta".
"Khi ấy người lành đáp lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?" Vua đáp lại: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm ch
"Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: "Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!"
"Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: "Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?" Khi ấy Người đáp lại: "Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta". Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Ed. 34, 11-12.15-17; 1Cr. 15, 20-26.28; Mt. 25, 31-46
1. Vì xưa Ta đói--‘Manna’
2. Làm cho chính Ta vậy--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
3. Vương quốc tình yêu--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Vương quyền để phục vụ và yêu thương--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
5. Đức Yêsu Kitô là vua--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
6. Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
7. Đức Giêsu Kitô Vua--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
8. Chúa nhật 34 CGK Vua Mt 25,31-46--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
9. Ông Vua là người nghèo—Lm. G. Nguyễn Cao Luật
10. Vua Tình Yêu--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
11. Vua tình yêu--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
12. Phán xét cuối cùng--Lm. FX. Vũ Phan Long
13. Chúa Kitô Vua--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
14. Chúa Kitô Vua Vũ Trụ--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
15. Vua của đời tôi là ai?--Lm. Xuân Hy Vọng
16. Chúa Kitô Vua--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
17. Thiên Chúa đã trở nên giống như bạn và tôi--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
18. Quyền lực của đồng tiền--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
19. Khi tình người mất - bạo lực lên ngôi--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
20. Nhân quả--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
21. Vua mục tử--Lm. Văn Hào SDB
22. Vua của lòng thương xót--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
23. Cuộc xét xử tình yêu--Lm. Hồng Phúc
24. Lễ Chúa Kitô Vua--Lm. Phêrô Trần Văn
25. Công dân nước trời --‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
26. Lễ Chúa Kitô Vua--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
27. Vương quốc của tình yêu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
28. Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển--Lm. Trầm Phúc
29. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
30. Sự phán xét--Lm. Mark Link, SJ.
31. Đối diện trước tòa phán xét--Lm Trần Bình Trọng
32. Chúa vẫn cho người bé mọn sự hiểu biết về mầu nhiệm nước trời--Lm Trần Bình Trọng
33. Dân vi quý--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
34. Đường về vương quốc tình yêu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
35. Suy niệm của Lm. Jos. Nguyễn Thái
36. Một tước hiệu dễ bị ngộ nhận--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
37. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
38. Giêsu vua Tình Yêu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
39. Những người được chúc phúc--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
40. Chúa Kitô Vua vũ trụ--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
41. Vua Giêsu, vị thẩm phán--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
42. Chúa Giêsu, Vua Tình yêu--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
43. Đức Giêsu, Vua Niềm Tin--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
44. Thần dân trung tín của Vua Tình Yêu--AM Trần Bình An
45. Cha Ta chúc phúc--Lm. Vũ Đình Tường
46. Chúa Kitô Vua--Lm. Ignatiô Trần Ngà
47. Yêu mến và phụng sự Chúa nơi tha nhân--Lm. Ignatiô Trần Ngà
48. Tha nhân là thân thể Chúa Giêsu--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Trần Ngà
49. Chúa Kitô, Vua tình yêu--Lm. Minh Vận, CRM
50. Lễ Kitô Vua: Dụ ngôn hay mô tả thật--Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
51. Hãy là môn đệ của Ta--Msgr. Edward Peter Browne--Lm. Gioan Trần Khả chuyển dịch
52. Suy niệm của JKN
53. Chúa Kitô Vua--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
54. Vua-lòng-Tin--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
55. Suy niệm của Lm Mark Link
56. Chúa Kitô Vua--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
57. Suy niệm của Lm Trần Khả
58. Chú giải của Fiches Dominicales
59. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
60. Chú giải của Noel Quesson
61. Chúa sẽ luận xét chúng ta về điểm nào?--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
62. Vua tình yêu--Trầm Thiên Thu
63. Vua lòng thương xót--Trầm Thiên Thu
64. Chẳng còn gì để nói!--Nguyễn Thế Bài
65. Những gì ta làm cho anh chị em là làm cho chính Chúa--Lm. Trần Đình Nhi
66. Chúa Giêsu, Vua Tình Yêu--An Phong
67. Chiên hay dê, người lành kẻ dữ--Đam. Nguyễn Đức Phú
68. Nước của Đức Giêsu ở chốn nào?--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
69. Lễ Chúa Kitô Vua--Để suy tôn vương quyền của Chúa Giêsu--Lm. Đan Vinh
70. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
71. Chúa Giêsu, Vua Tình Yêu--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
72. Kitô Vua
73. Phán xét
74. Lễ Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ
75. Đức Kitô Vua
76. Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ
77. Giờ thưởng phạt
78. Sống với mọi người
79. Cuộc sống của chúng ta tuỳ thuộc vào Mt 25,40
80. Để được yêu hơn
81. Vua phục vụ
82. Vua vĩnh cửu
83. Phán xét
84. Chúng ta là một phần của phong trào lớn lao
85. Lễ Chúa Kitô Vua
86. Lễ Chúa Kitô Vua
87. Chúa Giêsu là vua
88. Tình yêu
89. Tình thương
90. Tình thương
91. Làm sao tự định giá
92. Vua tình yêu--Huệ Minh
1.Vì xưa Ta đói--‘Manna’
Suy Niệm
Têrêsa Calcutta là người mê và sống đoạn Tin Mừng này.
Bà bị cuốn hút bởi những người đau khổ.
Dưới mắt bà, đó không chỉ là những người đáng thương,
mà còn là hiện thân của chính Chúa Giêsu đau khổ.
Tình yêu con người và tình yêu Chúa Giêsu quyện vào nhau.
Vì yêu Ngài, nên bà yêu con người mãnh liệt hơn.
"Tập nhìn ra chính Chúa Giêsu trong mỗi con người,
dù họ có vẻ đáng kinh tởm đến đâu đi nữa."
Đoạn Tin Mừng này được chọn đọc vào Chúa Nhật hôm nay,
vì ở đây Chúa Giêsu được mô tả như một vị Vua,
có thiên sứ theo hầu, ngồi trên ngai vinh hiển.
Ngài là Thẩm phán xét xử muôn dân,
tách biệt kẻ lành người dữ, thưởng phạt công minh.
Nhưng phán quyết của Ngài làm ai nấy kinh ngạc.
Người ta được chúc phúc hay bị nguyền rủa
dựa trên những việc họ đã làm hay không làm cho Ngài,
mà họ không hề hay biết.
Vua Giêsu chẳng ở đâu xa, chẳng ở cung vàng điện ngọc.
Ngài ở trong những người cùng khốn.
Vua Giêsu đồng hoá mình
với những người đói khát, khách lạ, trần trụi, đau yếu hay ở tù
mà chúng ta vẫn gặp mỗi ngày.
Ngài ẩn mình hay đúng hơn Ngài tỏ mình qua con người,
qua những người hèn kém đáng thương nhất.
Chúa vinh quang không ngại nhận họ là anh em.
Ngài không khoác tấm áo lộng lẫy kiêu sa
để dễ gần gũi với nỗi đau của người yếu thế.
Như thế chúng ta không phải tìm Chúa ở nơi xa xôi.
Ngài không chỉ ở trong nhà thờ, trong bí tích.
Ngài còn ở nơi những người đang cần chúng ta.
Mỗi người khốn cùng đều là một bí tích,
nơi chúng ta có thể thực sự gặp gỡ Chúa Giêsu.
Có những lần Chúa đi ngang qua đời ta
như vị vua giả trang làm người hành khất.
Ngày phán xét, chúng ta không được giả vờ ngạc nhiên
khi nghe biết mình đã để Ngài đi qua tay trắng.
"Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên tình yêu."
Tội lớn nhất là tội thiếu sót: không làm điều phải làm.
Hôm nay Vua Giêsu vẫn ngửa tay xin ta
giúp các anh em bé mọn nhất của Ngài.
Những người mù chữ, những trẻ em đường phố,
những người bị suy sụp tinh thần, cần được yêu thương,
những người không tìm được cho đời mình một chỗ trọ,
những người tự nhốt mình trong tù ngục đam mê,
những người trần trụi vì phải sống nhờ thân xác.
Phải làm một việc gì đó cụ thể
để Nước Chúa lớn lên trong thế giới này.
Phải xây dựng một điều tốt đẹp nào đó
để Vua Giêsu thật sự là Vua Vũ Trụ,
vũ trụ bên ngoài và vũ trụ trong lòng con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thế giới hôm nay còn nhiều bất công và đau khổ do con người gây ra cho nhau. Bạn thử nghĩ, với khả năng của mình, bạn làm được điều gì để người chung quanh hạnh phúc?
Thấy Chúa Giêsu nơi những người đói nghèo, rách rưới, vô gia cư nghề nghiệp, thậm chí đã có lần phạm pháp, bạn nghĩ điều đó có khó không? Làm sao tôi có thể đối xử với họ như với Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,
nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,
nếu Chúa là vua của hơn tám trăn ngàn nữ tu,
nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,
thì thế giới này sẽ đổi khác, Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên,
thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu:
có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,
nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,
chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,
giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,
nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,
dù Chúa đã đến trái đất này từ hơn 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền lòng chúng con,
và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công giáo chịu để Chúa chi phối đởi mình
và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
2.Làm cho chính Ta vậy--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
Một số vị vua thời xưa, vì muốn biết đời sống thực tế của dân
nên đã vi hành, nghĩa là cải trang làm thường dân,
bí mật ra khỏi cung vua, không cho ai biết.
Vua cố tình che giấu thân phận thật sự của mình,
vì muốn mắt thấy tai nghe những gì đang diễn ra trong nước,
nhờ đó vua biết được dân tình, và lãnh đạo sao cho hợp ý dân.
Vi hành thường là hành vi của một vị minh quân.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta hình ảnh một vị vua.
Đây không phải là một vị vua trần thế,
mà là Vua Giêsu trong ngày Ngài trở lại
ngự trên ngai vinh hiển, bừng tỏa ánh vinh quang,
có tất cả thiên sứ của Ngài theo sau hầu cận.
Muôn dân thiên hạ đông vô kể được tập hợp trước nhan Ngài.
Vua Giêsu sẽ là Đấng tuyên bố về số phận đời đời của họ.
Ngài tách biệt mọi người thành hai nhóm, đứng hai bên tả hữu.
Nhóm bên hữu được gọi là “những kẻ được Cha Ta chúc phúc.”
Nhóm này được mời đến thừa hưởng Nước Trời.
Còn nhóm bên tả là “những kẻ bị nguyền rủa.”
Họ sẽ phải chịu cực hình muôn kiếp với Satan.
Bởi đâu có sự khác biệt kinh khủng này nơi hai nhóm?
Vua Giêsu lấy tiêu chuẩn nào để phân loại đôi bên?
Biết được tiêu chuẩn này, chúng ta hy vọng được ơn cứu độ.
Có sáu việc bác ái được Vua Giêsu kể tới bốn lần:
Cho người đói ăn, người khát uống, người trần trụi áo che thân,
tiếp khách lỡ đường, thăm nom bệnh nhân, đến với tù nhân.
Một người được thưởng hay bị luận phạt
tùy theo người ấy làm hay không làm những việc ấy cho tha nhân.
Tha nhân ở đây là những kẻ thiếu thốn cả hồn lẫn xác.
Họ không chỉ cần cơm áo mà còn cần một mái nhà,
cần được an ủi, đỡ nâng, cần được lắng nghe, thăm hỏi.
Bất cứ ai dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm về mình,
đối xử với người khác như một phần của chính mình,
người ấy đã giữ được điều răn thứ hai mà Đức Giêsu nói đến.
Nhưng nét độc đáo và lý thú của bài Tin Mừng hôm nay
lại nằm ở chỗ Đức Giêsu đưa ra một khẳng định bất ngờ.
Đó là: những kẻ đói khát, rách rưới, vô gia cư, yếu đau,
thậm chí cả những kẻ bị giam cầm tù tội,
đều là hiện thân của chính Ngài, là sự hiện diện của Ngài.
Ai giúp họ là giúp Ngài, ai từ chối họ là từ chối Ngài.
Mà ai từ chối Ngài sẽ bị Cha Ngài không nhận vào Vương quốc.
Chúng ta thường quen với hình ảnh một Thiên Chúa oai phong,
một Thiên Chúa giàu sang, luôn là Đấng ban phát dư dật.
Chúng ta không quen với hình ảnh một Thiên Chúa ngửa tay xin,
Một Thiên Chúa xấu xí vì túng nghèo, vì bệnh tật, vì vấp váp.
Vua Giêsu nhận mình chính là đấng Emmanuel lạ lùng.
Ngài chẳng những ở với chúng ta,
mà còn ở nơi những anh chị em bất hạnh, thiếu may mắn.
Như thế Ngài vẫn ở quanh ta, ở gần ta đến nỗi ta có thế chạm được.
Lúc nào ta cũng có thể tiếp xúc với Ngài: nuôi sống Ngài qua ngày,
cho Ngài trú ngụ trong nhà mình, thăm ngài ở nhà tù, nhà thương.
Ngài không chỉ là Đấng ban ơn trong nhà thờ,
mà còn là Đấng đang xin ta trợ giúp ngoài nhà thờ.
Vào ngày tận thế, hy vọng chúng ta không bị sững sờ mà nói:
“Lạy Chúa, có bao giờ con thấy Chúa đói khát, lỡ đường, bệnh tật…”
Vua Giêsu quyền năng đã đồng hóa mình với những người yếu,
mà Ngài gọi là “những anh em bé mọn nhất này của Ta đây.”
Ngài không vi hành, giả trang thường dân như các vị vua ngày xưa.
vì Ngài hiện diện thật sự nơi từng người bị xã hội coi thường.
Chúng ta phải có khả năng thấy được sự hiện diện khó nghèo ấy.
Chúng ta sẽ bị xét xử không phải vì đã làm điều xấu xa,
Nhưng vì tội thiếu sót, không làm điều tốt có thể làm cho tha nhân.
Lời Nguyện
Lạy Chúa,
Xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hàng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta.”
Thánh Têrêsa Calcutta
3.Vương quốc tình yêu--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy nhiều sự thật quan trọng về kết cục của con người.
Sự thật thứ nhất là: thế giới này sẽ chấm dứt. Không có gì vĩnh cửu ở đời này. Mọi sự sẽ qua đi. Những gì được coi là bền vững lâu dài rồi cũng tan thành cát bụi. Của cải, tài năng, công danh cũng sẽ trở thành hư vô. Cả đến con người cũ cũng không còn. Sau cùng mọi người bằng nhau và phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét.
Sự thật thứ hai là: mọi người sẽ bị xét xử. Tất cả mọi người sẽ tụ tập lại. Tất cả mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình đã làm trong cuộc đời. Cuộc xét xử sẽ diễn ra công khai. Những trách nhiệm liên đới sẽ được sáng tỏ. Những liên hệ thầm kín sẽ được phơi bày. Nếu trên trần gian ta phải chứng kiến bất công thì tại phiên xử cuối cùng này sẽ có công bằng tuyệt đối. Chẳng ai có thể mua chuộc vị quan tòa tối cao, quyền uy và công thẳng.
Sự thật thứ ba: sẽ có một vương quốc mới. Tuy nhiên kết thúc thế giới cũ không phải là chấm dứt tất cả. Chúa Giêsu tổng kết thế giới cũ để đưa nhân loại vào một thế giới mới. Thế giới không còn thời gian. Thế giới vĩnh cửu. Thế giới không còn đau khổ. Thế giới hạnh phúc tràn đầy. Vì Chúa sẽ thiết lập một vươn quốc mới: vương quốc tình yêu. Cuộc xét xử chính là một cuộc tuyển lựa những công dân cho vương quốc mới. Vì là vương quốc tình yêu nên chỉ những ai có tình yêu mới được vào. Luật lệ trong vương quốc mới chỉ có một luật duy nhất: luật tình yêu. Việc cai trị cũng chỉ theo một nguyên tắc duy nhất: tình yêu. Chúa Giêsu trở thành Vua Tình Yêu.
Sự thật thứ bốn: đời này là cơ hội duy nhất. Thế giới mới và vương quốc mới không phải bất ngờ mà có, nhưng được xây dựng ngay từ đời này. Đời này tuy chóng qua nhưng là cơ hội để ta xây dựng vương quốc mới. Những ai có lòng yêu thương anh em, đặc biệt những anh em nghèo khổ, bé mọn, sẽ được tuyển chọn vào Nước Trời. Đời này ngắn ngủi nhưng lại là cơ hội duy nhất. Hết đời này sẽ không còn cơ hội nữa. Sẽ đi đến chung cuộc. Vì thế ta phải vội vàng mau mắn thực hành giới luật yêu thương, kẻo không kịp.
Với dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ta hết những bí mật của vận mạng thế giới. Và chỉ vẽ cho ta con đường để được nhận vào Nước Chúa: thực hành yêu thương bằng những việc làm cụ thể. Cho người đói ăn. Cho người khát uống. Cho người rách rưới ăn mặc. Thăm viếng người đau yếu và kẻ tù đầy. Đây là những việc vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể làm được. Ai cũng có điều kiện để làm.
Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, xin cho con biết thực hành yêu thương, để được nhận vào Nước Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Dụ ngôn ngày phán xét cuối cùng cho thấy những sự thật nào?
2- Ta có thể làm chủ vận mạng mình được không?
3- Điều kiện để được vào Nước Chúa có khó khăn gì không?
4- Nếu mọi người đều thực hiện Lời Chúa, bạn nghĩ thế giới này sẽ như thế nào? Có trở thành vương quốc của Chúa được không?
4.Vương quyền để phục vụ và yêu thương--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Trong những ngày này, cả thế giới hồi hộp theo dõi cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của hai ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ, một vị thuộc đảng Cộng hoà, một vị thuộc đảng Dân chủ. Cuộc đua càng gay cấn khi có những cáo buộc từ phía đảng Cộng hoà, cho rằng Đảng Dân chủ đã có những gian lận trong việc bầu cử, nhất là từ những lá phiếu gửi qua đường bưu điện. Những phê phán nặng lời đến từ hai phía, làm cho nước Mỹ hỗn loạn. Đã có nhiều cuộc biểu tình và bạo động đến từ những người ủng hộ các ứng viên tổng thống. Chắc chắn nước Mỹ phải có tổng thống trong vài tuần tới. Tuy vậy, những lùm xùm xung quanh việc bầu cử đang làm ảnh hưởng đến hình ảnh của đất nước quyền lực nhất thế giới. Nó cũng cho thấy cơn cám dỗ quyền lực thật ghê gớm và mạnh mẽ. Những hứa hẹn khi tranh cử, những thủ đoạn trong bầu cử, đều cho thấy người ta dùng mọi cách để đạt được quyền lực, mà đó lại lại quyền lực nhất thời.
Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội tôn vinh Đức Giêsu Kitô là Vua Vũ trụ. Danh hiệu “Vua” được coi như quy tóm những lời danh xưng mà Giáo Hội đã dành để tôn vinh Ngôi Lời nhập thể trong suốt một năm. Danh hiệu “Vua” dễ gây ngộ nhận, đồng thời có thể là cơ hội để những người thiếu thiện cảm với Kitô giáo suy diễn công kích. Thực sự, khi tôn vinh Đức Giêsu Kitô là “Vua”, truyền thống Giáo Hội khẳng định: Người là Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo. Người cũng là Đấng Cứu chuộc và xoá bỏ tội lỗi trần gian. Người là Đấng khai mở kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của công bình, chân lý và tình yêu. Trong giáo huấn của Chúa Giêsu, Người luôn nhấn mạnh đến những yếu tố này. Cũng như một vị vua thống trị cõi sơn hà, Đức Giêsu là Vua của hoà bình như lời tiên báo của các ngôn sứ trong Cựu ước. Người thiết lập hoà bình giữa các dân tộc, và nhất là hoà bình trong tâm hồn con người. Vương quốc của Người rộng lớn bao la và hiện diện trong trái tim của những ai thành tâm tìm kiếm Chúa và chuyên cần thực thi giáo huấn của Người.
Lời Chúa trong lễ Chúa Kitô Vua diễn tả Người là một vị Vua hoàn toàn khác với quan niệm trần gian. Ngôn sứ Edêkien diễn tả vị vua như một mục tử. Đây là hình ảnh rất quen thuộc trong xã hội Do Thái thời xưa. Vị vua này có đủ các đức tính của một mục tử, luôn ân cần săn sóc đàn chiên và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Hình ảnh người mục tử trong ngôn sứ Edêkien sẽ được tròn đầy ý nghĩa qua cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Người đã chấp nhận chết để nhân loại được sống. Người rảo khắp xứ Palestina để chữa lành con người tổn thương do tội lỗi và do bệnh tật thể xác cũng như tinh thần gây nên. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá đã quy tụ muôn dân, làm cho nhân loại trở thành gia đình của Thiên Chúa. Người đã phá bỏ bức tường ngăn cách giữa dân ngoại và dân Do Thái, làm cho thế giới này trở thành vương quốc của tình huynh đệ. Thánh Phaolô đã quảng diễn điều này trong thư gửi giáo dân Côrintô (Bài đọc II). Đức Giêsu được tôn vinh là Vua, vì Người đã chấp nhận cái chết để ban cho nhân loại sự sống, như một mục tử hy sinh mạng sống để đàn chiên được bình an. Cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta: quyền lực vương đế của Người không phải để thống trị, mà là để phục vụ và yêu thương.
Cũng hoàn toàn khác với quan niệm một vị vua trần gian hay một tổng thống ngoài đời, hình ảnh về vị Vua khiến chúng ta ngỡ ngàng hơn nữa, qua trình thuật của sử gia Matthêu về ngày phán xét chung. Lúc đó, vị Vua xuất hiện như một vị thẩm phán công minh. Người xét xử kẻ dữ và kẻ lành, trả công cho mỗi người theo công việc họ đã làm khi sống trên dương gian. Những người chịu phán xét ngạc nhiên trước lời tuyên bố của vị Thẩm phán: “Tôi bảo thật anh em: những gì anh em làm cho một trong các người bé mọn nhất này của Tôi, là anh em đã làm cho chính Tôi” (Mt 25,40). Thì ra, Đức Giêsu đồng hoá mình với những kẻ bé mọn, cơ nhỡ và bất hạnh trong cuộc đời, để rồi những ai giúp đỡ họ là giúp đỡ Chúa; những ai bỏ rơi họ là bỏ rơi Chúa. Vị Vua của chúng ta là như thế đó. Những ai chuyên tâm làm việc thiện và giúp đỡ anh chị em mình, xứng đáng được hưởng hạnh phúc đời đời.
Ngày hôm nay, vị Vua Giêsu vẫn đang cùng đi với chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống, để khích lệ, thêm sức cho chúng ta trên đường đời. Mỗi khi thực thi giáo huấn của Người là chúng ta góp phần làm cho vương quốc tình yêu của Người được triển nở và lan rộng. Lời cầu nguyện “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, cần phải đi đôi với những nỗ lực cố gắng làm cho vương quốc hoà bình mà Đức Giêsu khai mở được thực hiện. Là Kitô hữu cũng là công dân của vương quốc vĩnh cửu. Xin cho chúng ta sống xứng đáng với danh hiệu cao quý này, để đáng được Chúa chúc phúc, hôm nay cũng như vào giờ phán xét cuối cùng.
5.Đức Yêsu Kitô là vua--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng lễ Chúa Kitô là Vua. Ước gì mỗi người hãy để Đức Yêsu là vua nơi lòng mình.
1. Đức Yêsu là Vua
Vua là từ ngữ chỉ người đứng đầu một nước. Vua có quyền trên tất cả, lệnh của vua là luật cho thần dân. Vua là người có quyền sinh sát, có quyền để sống hay giết chết: “vua xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Dân Do Thái có Saul là vị vua đầu tiên, sau đó tới David rồi Salômôn. Việt Nam có Đinh Bộ Lĩnh làm vua đầu tiên lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng; vị vua cuối cùng của Việt Nam là Bảo Đại.
Đức Yêsu là vua. Dân Do Thái và những người lãnh đạo tôn giáo thời đó đã tố cáo Đức Yêsu như người muốn làm vua, nghĩa là, muốn nổi lên chống đối chế độ thống trị Roma lúc đó. Philatô đã hỏi Đức Yêsu: “nhà ngươi mà là vua dân Do Thái à?” Đức Yêsu chấp nhận Ngài là vua, nhưng không phải là vua ở trần thế này. Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy Đức Yêsu xuất hiện trên mây trời như vị vua ngồi trên ngai xét xử.
Đức Yêsu là Đấng rất đặc biệt, Ngài là người hoàn toàn như chúng ta, nhưng không chỉ là người. Ngài được Thiên Chúa ban cho toàn quyền trên trời dưới đất (Mt.28, 18). Ngài là Đấng vượt trên tất cả. Hôm nay, Giáo Hội dùng từ ngữ Đức Yêsu Kitô là Vua để mừng Ngài, và còn dùng nhiều từ ngữ khác để diễn tả con người đặc biệt của Ngài, chẳng hạn như Đấng chăn chiên lành, Chiên Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa nhập thể. Tất cả những từ ngữ trên chỉ có thể diễn tả phần nào “bản chất” của Đức Yêsu.
2. Đức Yêsu còn hơn một vị vua
Đức Yêsu là một người như tất cả mọi người. Những người làng Nadaret nhận biết điều này hơn ai hết. Họ đã muốn xô Đức Yêsu xuống vực khi Ngài về Nadaret rao giảng trong tư thế của một tiên tri (Lc.4, 28-30). Tuy nhiên, Đức Yêsu không chỉ là một người. Nơi Ngài còn có điều gì hơn nữa. Các tông đồ là những người được diễm phúc theo Ngài suốt ba năm trời đã nhận ra điều đó: Ngài làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, đi trên mặt hồ, truyền sóng biển hồ yên lặng, cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ què đi được. Không chỉ thế, Ngài còn nói những lời “rất khó nghe” với cái nhìn của người Do Thái, đặc biệt là những người có học: Ngài nói như thể Ngài ngang hàng với Thiên Chúa.
Ngài nói như thể Ngài với Thiên Chúa là một (Ga.10, 30); Ngài nói như thể Ngài có quyền tha tội mà theo quan điểm của người Do Thái: chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội (Mc.2, 7); Ngài nói như thể Ngài có trước Abraham, ông tổ của người Do Thái (Ga.8, 58). Cách hành xử của Đức Yêsu rất khác người, và như vậy chúng ta hiểu tại sao những người lãnh đạo và trí thức hồi đó không chỉ không ưa Đức Yêsu mà còn muốn giết Đức Yêsu nữa.
Sau khi Đức Yêsu sống lại, các tông đồ hiểu hơn người thầy mà họ yêu quý. Đức Yêsu luôn được hiểu là một Đấng “khác” với Thiên Chúa, nhưng Ngài liên kết với Thiên Chúa cách rất đặc biệt. Ngài nhận ý Thiên Chúa là ý và lương thực của Ngài (Mc.14, 36; Ga.4, 34). Ngài là một với Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao những nhà thần học sau đó đã dùng từ ngữ ngôi hai nhập thể để nói về bản thể của Đức Yêsu. Từ ngữ “ngôi hai nhập thể” cũng là từ ngữ để diễn tả thực tại khôn lường “Đức Yêsu”. Thiên Chúa là Đấng duy nhất; và Đức Yêsu là Đấng liên kết đặc biệt với Thiên Chúa đến độ có thể nói: Ngài là Thiên Chúa. Tuy vậy, Ngài “khác” với Thiên Chúa là Cha.
3. Hãy để Đức Yêsu là Vua
Đức Yêsu là Đấng diễn tả tuyệt vời về Thiên Chúa, đến độ các nhà thần học diễn tả Ngài là Lời của Thiên Chúa Tình Yêu. Đức Yêsu yêu thương và dạy dỗ con người. Con người, cuộc đời của Ngài là bài học, là lời dạy. Cách sống của Ngài là đường dẫn con người đến với Thiên Chúa. Ngài dạy con người sống yêu thương như Ngài: hiến mạng cho người mình yêu. Ngài chấp nhận chết trên thập giá vì yêu; bí tích Thánh Thể là biểu trưng trước đó.
Qua Đức Yêsu, đặc biệt qua cái chết thê thảm trên thập giá của Ngài, con người nhận biết Thiên Chúa yêu con người vô cùng, như thể còn hơn cả Đức Yêsu. Thiên Chúa yêu con người. Đức Yêsu yêu con người. Như vậy, những ai thuộc về Thiên Chúa cũng phải sống yêu thương. Tiêu chuẩn phán xét của vị vua vào ngày cánh chung, không phải là người đó có được rửa tội hay không, không phải người đó là linh mục hay giáo dân, không phải người đó có nói giỏi về Thiên Chúa không, mà là có yêu thương tha nhân hay không.
Chính khi con người yêu thương tha nhân, đặc biệt những người nghèo, là yêu thương Thiên Chúa, là biết Thiên Chúa. Cái biết được thể hiện bằng cuộc sống, chứ không bằng lời nói. “Ai yêu thương là biết Thiên Chúa, ai không yêu thương là không biết Thiên Chúa” (1Ga.4, 7-8). “Không phải những kẻ nói lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời, mà là những kẻ làm theo ý Thiên Chúa” (Mt.7, 21-23). “Dù xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc giúp cho một người”. Ai sống yêu thương, là đang để Đức Yêsu làm vua nơi lòng mình, là chấp nhận luật yêu thương trong vương quốc của Ngài. Nếu mình cố gắng sống yêu thương, thì gia đình sẽ an vui hạnh phúc hơn, những người sống và làm việc bên mình sẽ bình an hơn, cuộc đời mình sẽ tươi đẹp hơn. Hãy để Đức Yêsu làm vua nơi lòng mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đức Yêsu là ai đối với bạn?
2. Cuối năm người ta tính sổ đời. Bạn có định tính sổ với Chúa dịp cuối năm phụng vụ này không? Đâu là tiêu chuẩn để bạn tính sổ với Thiên Chúa?
3. Tha nhân, là ai đối với bạn? Bạn có cách nào để làm cuộc đời đẹp hơn không?
6.Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Hôm nay là Chúa Nhật cuối cùng của Năm Phụng Vụ: Chúa Nhật cuối cùng nhắc nhớ chúng ta thời điểm cuối cùng của mọi sự, của thời gian và cũng nhắc nhở thời điểm kết thúc cuộc đời chúng ta. Hướng về điểm tận cùng, Giáo Hội mời gọi chúng ta tôn vinh Đức Giê-su Ki-tô là Vua Vũ Trụ, và cũng là Vua của mỗi người chúng ta, của cuộc đời chúng ta nữa, đời này và đời sau.
Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa hãy lôi kéo chúng ta, để chúng ta trở thành “thần dân” của Người, để chúng ta thuộc về Người, thay vì là “thần dân” của những điều trong thế giới này, thuộc về những gì trong cuộc đời này, chẳng hạn tiền tài, danh vọng hay những điều hư ảo.
Chúng ta cũng hãy phó thác những người thân yêu quá cố của chúng ta nữa nơi tình thương bao dung của Đức Giê-su Ki-tô Vua, như thánh Phao-lô xác tín trong bài đọc II:
Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết,
thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô,
cũng được Thiên Chúa cho sống.
(1Cr 15, 22)
Vua Vũ Trụ và điểm kết thúc
Trong Thánh Lễ Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta tôn vinh Đức Giê-su Ki-tô, là Vua Vũ Trụ, nghĩa là “Đấng nắm vương quyền”, như thánh Phao-lô nói trong bài đọc II: “Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1Cr 15, 25-26).
Như thế, Thánh Lễ hôm nay đem lại cho chúng ta một niềm hi vọng rất lớn. Thật vậy, một đàng thời điểm cuối cùng của Phụng vụ năm A, từ Mùa Vọng năm 2016 đến hết tuần lễ này, nhắc nhớ chúng ta rằng, mọi sự, dù là trời dù là đất, dù có bền vững, dù có mới mẻ, dù còn trẻ trung, tất cả sẽ đi đến điểm kết thúc, trong đó có thế giới chúng ta đang sống, nhất là chính cuộc đời của chúng ta. Dù chúng ta ở lứa tuổi nào, rồi một ngày kia, chúng ta cũng sẽ đi đến điểm kết thúc là sự chết, giống như những người quá cố được an táng ở các nghĩa trang hay được lưu tồn trong các nhà hài cốt, mà chúng ta đã viếng thăm trong tháng 11 này, và nhất là giống như những người mới qua đời đang còn ở giữa chúng ta, vẫn chưa được mai táng.
Nhưng đàng khác, chúng ta có niềm hi vọng là Đức Giê-su Ki-tô, bởi vì Người đã vượt qua điểm tận cùng của mọi sự, Người đã chiến thắng cái chết, là điểm tới của tất cả chúng ta, để trở thành Vua của chúng ta, cả ở đời này lẫn đời sau. Vậy, chúng ta đừng tôn ai làm Vua, đừng biến điều gì làm chủ, làm chúa, làm thần tượng, hay làm cùng đích của chúng ta, dù đó là tiền của, phương tiện, bằng cấp, thành công, danh vọng, tiếng tăm. Bởi vì, cùng với chúng ta, tất cả rồi sẽ qua đi. Người Do thái đã tôn Đa vít làm vua, nhưng vua Đa vít cũng đã chết (x. 2Sm 5, 1-3). Vì thế, người Do-thái và chúng ta hôm nay được mời gọi hãy tôn thờ một Vị Vua duy nhất, mà vua Đa-vít chỉ là hình bóng thôi, đó là Đức Ki-tô Vua Muôn Loài.
Như thế, khi chúng ta tôn vinh Đức Ki tô là Vua, chúng ta không chỉ tôn vinh Người là Vua Vũ Trụ, nhưng còn là và nhất là Vua của cuộc đời của chúng ta, và không chỉ là Vua của cuộc đời mai sau, sau cái chết, nhưng còn là Vua của cuộc đời chóng qua của chúng ta hôm nay. Điều này sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta bình tâm với mọi sự, tương đối hóa mọi sự, đem lại hướng đi và niềm hi vọng cho chúng ta ngay hôm nay.
Và để tôn vinh và đón nhận Đức Giê-su Ki-tô là Vua của cuộc đời chúng ta, trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, Người mời gọi mỗi người chúng ta sống ơn gọi trở nên “con chiên”, thay vì tự biến mình “con dê”!
“Mục tử tách chiên và dê”
Trong cuộc phán xét, lúc đầu mọi người tụ tập không phân biệt, nhưng ngay sau đó Con Người đến trong vinh quang và tách cả loài người ra làm hai nhóm. Ở đây, Đức Giêsu dùng hình ảnh để diễn tả như trong các dụ ngôn: Con Người hành động giống như người mục tử tách chiên ra khỏi dê, sau đó đặt chiên ở bên phải và dê ở bên trái của mình.
Hình ảnh này thật an ủi chúng ta, bởi vì chắc chắn chúng ta không phải là “dê”, chẳng phải là dê con hay dê cụ gì cả. Loài người chúng tự bản chất là “chiên”, và con chiên là biểu tượng của sự hiền lành, vì chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được tái sinh trong máu của Con Chiên tinh tuyền, được kêu gọi trở thành môn đệ của Ngài. Vậy cái lũ dê kia ở đâu mà ra vậy? Thế nào là chiên, thế nào là dê? Đâu là đặc điểm của chiên và đâu là đặc điểm của dê?
Đức Vua gọi những người ở bên phải là những người được chúc phúc của Chúa Cha; họ được mời đến đón nhận Nước Trời, đã được chuẩn bị cho họ từ thủa tạo thiên lập địa. Những lời này làm chúng ta nhớ lại lời của thánh Phaolô: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ tình thương của Người” (Eph 1, 4). Họ được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, và sống theo ơn gọi thần linh của mình, đó là thông truyền, là chia sẻ, là động lòng, là cảm thông.
Đức Vua gọi những người ở bên trái là “những kẻ bị nguyền rủa”; họ bị đuổi xa khỏi Đức Vua, để vào nơi lửa cháy muôn đời vốn đã được chuẩn bị cho ma quỉ và các thần loại của nó. Điều lạ lùng là, Đức Vua đã không kể ra những hành vi phạm tội ghê gớm mà luật cấm: ghét anh em, trộm cắp, nói dối, lừa gạt, thề gian, bóc lột, cướp của, gian dâm, giết người. Nhưng lại kể ra những việc những người này đã không làm!
Như thế, vấn đề không phải là những hành vi ghê ghớm đã phạm, bởi vì Đức Vua không lấy sổ ra đọc to lên mọi tội lỗi của chúng ta; Ngài cũng không xét xử từng người một; Ngài chỉ nêu ra thái độ thờ ơ, dửng dưng đối với anh chị em đồng loại của cả một nhóm người đứng bên trái; nghĩa là những gì chúng ta đáng lẽ phải làm, không phải vì luật buộc, nhưng vì lòng mến, nhưng chúng ta đã không làm. Đức Vua không quan tâm đến những hành vi sai trái mà lề luật đạo đời nghiêm cấm, nhưng Ngài xét xử năng động sống với người khác ở nơi sâu thẳm của mỗi người. Có thể nói, những người đứng bên trái là những người đã sống theo năng động của ma quỉ và các thần của nó, đó là qui về mình, là không san sẻ, là cứng lòng, là vô cảm. Họ sẽ về sống với ma quỉ, xét cho cùng họ không cần phải bị xét xử và bị dẫn đi đến đó, bởi vì họ lựa chọn đi đến đó. Họ sinh ra là “chiên”, nhưng họ tự biến mình thành “dê”.
“Những anh em bé nhỏ nhất của Ta”
Khi công bố lí do của lời phán quyết, Đức Vua nói chính mình đã đói, đã khát, đã là khách lạ, là người không có cái khố che thân, là tù nhân. Và Ngài không nói theo nghĩa bóng hay nghĩa liên đới, vì Ngài đã thực sự là con người đáng thương này; hay đúng hơn, tất cả những con người đáng thương trong nhân loại mọi thời, mà Ngài gọi là những người bé nhỏ nhất và là “anh em của Ngài”, đều hội tụ nơi ngôi vị của Ngài, nhất là trong cuộc Thương Khó.
Vậy là còn có “những anh chị em bé nhỏ nhất” của Chúa nữa. Họ đâu rồi? Họ là anh chị em của Đức Kitô, họ thuộc về Đức Kitô, vì thế họ không bị xét xử. Đơn giản là vì Đức Kitô, không thể xét xử người thân của mình được.
Vì thế, lời mời gọi tận cùng của Lời Chúa hôm nay, là chúng ta hãy trở nên người thân của Đức Kitô, trở nên anh chị em của Đức Kitô; điều này có nghĩa là trở nên nhỏ bé như chính Đức Kitô đã trở nên nhỏ bé trong thế giới loài người. Như thế, chúng ta sẽ không bị đưa ra xét xử, như thánh Phaolô nói:
“Vậy giờ đây, những ai ở trong Đức Kitô,
thì không còn bị lên án nữa” (Rm 8, 1).
7.Đức Giêsu Kitô Vua--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay là ngày Chúa nhật cuối năm phụng vụ, Giáo hội hướng lòng chúng ta về ngày chung thẩm, ngày mà mọi người sẽ qua đi và vũ trụ sẽ ra tro. Ngày đó không ai biết được nhưng chỉ biết một điều là ngày ấy Chúa Giêsu sẽ xuất hiện lần thứ hai với dáng vẻ uy nghi của một vị Vua Thẩm phán, có các thiên thần hầu cận, để phán xét kẻ sống và kẻ chết như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin kính.
Ngài sẽ phán xét thế nào? Ngài sẽ phán xét theo tiêu chuẩn Ngài đã đề ra trong bài Tin mừng hôm nay: Tình yêu đối với tha nhân. Ngài đã đồng hóa Ngài với tha nhân trong nhiều dụ ngôn. Những ai thể hiện tình yêu ấy đối với Ngài qua tha nhân thì sẽ được thưởng, còn ai không yêu thương Ngài qua tha nhân thì sẽ bị phạt, đúng như quan niệm của dân gian:”Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”: việc lành việc dữ sau cùng đều có thưởng phạt.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Ez 34,11-12.15-17.
Lịch sử đen tối của dân Israel đã cho thấy Thiên Chúa đã đặt một số người làm mục tử để chăm sóc Israel là đoàn chiên của Chúa. Nhưng những người này chểnh mảng với nhiệm vụ chăn dắt mà chỉ lo tìm lợi riêng, do đó, họ đã dẫn chiên đến một tai họa lớn: dân Israel bị bắt cầm tù rải rác khắp đế quốc Babylon. Họ đã bị xa cách nhau, phải tiếp xúc với dân ngoại đạo, họ đã thấy cô đơn và bị bỏ rơi.
Vì thế, qua miệng tiên tri Ezéchiel, Thiên Chúa cho họ biết rằng chính Thiên Chúa sẽ đi tìm họ, tập họp họ lại và lấy lại đoàn chiên khỏi tay những mục tử xấu ấy và chính Ngài sẽ chăm sóc họ như mục tử chăm sóc đoàn chiên mình.
+ Bài đọc 2: 1Cr 15,20.26a-28.
Thánh Phaolô đưa ra cho tín hữu một so sánh: Adong cũ đã làm hỏng con người và làm cho con người phải chết. Chúa Kitô là Adong mới đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, giải thoát con người và ban cho con người sự sống mới. Do đó, Chúa Giêsu trở nên thủ lãnh nhân loại để đưa con người vào Nước Trời.
Và đến ngày cách chung, Chúa Giêsu Kitô Vua đã chiến thắng mọi kẻ thù và nắm quyền trên mọi loài mọi vật, sẽ trao lại cho Thiên Chúa Cha tất cả vương quyền và Ngài sẽ cho tất cả những ai tin Ngài được sống lại và cùng hưởng vinh quang với Ngài.
+ Bài Tin mừng: Mt 25,31-46.
Dụ ngôn mà thánh Matthêu mô tả bằng hình ảnh có tính cách khải huyền về ngày phán xét sẽ diễn ra trong ngày sau cùng. Khi đó, Đức Giêsu sẽ xuất hiện như một vị Vua thẩm phán đầy uy quyền, có các thiên thần hầu cận. Ngài sẽ tách biệt người lành kẻ dữ ra hai bên như người mục tử tách chiên ra khỏi dê để xét xử công minh.
Tiêu chuẩn của cuộc xét xử là luật yêu thương. Ngài đã đồng hóa Ngài với tha nhân: những ai thể hiện tình yêu cụ thể với những người khốn khổ bé mọn tức là thể hiện tình yêu đối với Ngài và sẽ được trọng thưởng. Ngược lại, những ai không thể hiện tình yêu đó đối với tha nhân tức là không yêu thương Ngài thì sẽ bị trừng phạt.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đức Kitô Vua Thẩm phán
I. BỐI CẢNH NGÀY LỄ.
Hôm nay là Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lề Chúa Giêsu Vua để nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục vụ và theo Ngài, đồng thời phải chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Chúa đến trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
Đức Giáo hòang Piô XI đã thiết lập lễ này vào ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan của Năm thánh 1925. Ngài thiết lập lễ này vì vào những thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết khác. Về phía Giáo hội, qua việc mừng kính tước hiệu là Vua của Chúa Kitô, Giáo hội khẳng định niềm tin trước sau như một của mình là tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô trên mọi con người, mọi gia đình, mọi xã hội và trật tự nhân loại.
Ngoài ra, để điều chỉnh một số lệch lạc trong đời sống đạo nơi một số con cái, Giáo hội là Mẹ nhắc nhở cho mọi người rằng Chúa Kitô không chỉ là người Anh hay người Bạn đồng hành mà Ngài còn là “Vua trên các vua, Chúa trên các chúa. Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời”.
II. MỘT NƯỚC CẦN CÓ VUA.
Người ta thường nói:”Kim chỉ phải có đầu”, trong một tập thể không thể có cảnh “cá mè một lứa” được, nhất là trong một nước. Hầu hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời, vì chỉ có con Trời mới là toàn năng công minh, thấu suốt mọi sự, mới giúp dân, ban ơn cho dân muôn phần tốt đẹp. Họ thường gọi Vua là Thiên tử, Trời có mắt, đèn Trời soi sáng, xin Trời phù hộ.
Bên phương Đông, Đức Khổng Tử đã thấy rõ vua Nghiêu, vua Thuấn, Vũ vương, Văn Vương làm vua theo mệnh Trời, cho nên vương quốc thời cổ đại của các ngài thật lý tưởng.
Kinh thư viết:”Thiên hựu hạ dân, tác chi quân, tác chi sư”: Trời giúp dân, đặt vua cai trị, đặt thầy dạy dỗ (Thái hệ thượng 7). Nhận biết Trời đặt mình làm vua, các ông hết lòng hết sức vâng theo mệnh Trời để giúp dân. Vua Vũ Vương viết:”Duy kỳ khắc tướng Thượng Đế, sủng tuy tứ phuơng”: Chỉ vì phục vụ Thượng Đế, giúp nhân dân bốn phương.
Bên Tây phương, Ba tư, Ai cập, Hy lạp hay La mã đều coi vua là con Thần Trời. Dân Do thái khi chưa có vua, họ đòi tiên tri Samuel:”Thế nào cũng phải có vua cho chúng tôi”(1Sm 8,19). Và ai được chọn làm vua đều được thánh hiến bằng xức dầu tấn phong, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với tiên tri Nathanael:”Hãy đi nói với Đavít:Ta là cha nó, nó sẽ là con Ta”(2Sm 7,5.14 và Tv 2,7). Nếu vua trung thành thực hiện sự công chính trong vương quốc và bảo đảm thịnh vượng cho toàn dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ vua khỏi tay quân thù” (Tv 20,21 và 45,4-8). (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A, tr 192).
Truyện: nữ hoàng Elizabeth lên ngôi
Năm 1952, lễ đăng quang của nữ hoàng Anh Elizabeth là một nghi thức long trọng nhất của thế kỷ 20. Ba triệu người đứng chật các đường phố Luân đôn. Từ các thuộc địa Anh, các đoàn đại biểu trong sắc phục địa phương cũng có mặt. Nữ hoàng ngự giá trên chiếc xe ngựa bằng vàng. Hơn 10 sư đoàn trong quân đội hoàng gia diễn hành. Năm trăm chiếc khu trục cơ nhào lộn trên không.
Vua chúa và các nhà lãnh đạo hầu hết đều có mặt mang theo tặng vật cho vị tân nữ hoàng. Nhưng có lẽ quà tặng cao qúi nhất mà thế giới tặng cho nữ hoàng là ngọn cờ nước Anh lần đầu tiên được một người Tân tây lan cắm trên đỉnh Everest ở độ cao 8.846 mét vào chính ngày áp lễ đăng quang.
III. ĐỨC GIÊSU XƯNG MÌNH LÀ VUA.
1. Nơi Đức Giêsu xưng vương.
Sau phép lạ bánh ra nhiều, dân chúng hồ hởi muốn tôn Ngài làm vua, nhưng Ngài đã lẩn tránh vì Ngài không muốn cho dân chúng hiểu Ngài làm vua theo kiểu thế gian. Ngài chỉ nhận mình là Vua khi đứng trước toà án Philatô, với dáng vẻ tang thương tiều tụy, Ngài khẳng định Ngài là Vua: “Ông nói phải, Tôi là Vua”. Chính Philatô cho Ngài ngồi ở Gabata, ghế dành cho quan tòa. Như vậy, vô tình Philatô công nhận Ngài là Vua và Ngài sẽ xét xử dân Do thái.
Ngoài ra, ông còn truyền viết tấm bảng treo trên đầu Chúa Giêsu với hàng chữ I.N.R.I.
(Jesus Nazareth Rex Judaeorum) có nghĩa là Giêsu Nazareth vua dân Do thái, tức là công nhận Đức Giêsu là Vua. Ngai vàng của Ngài là cây thập giá. Từ trên cao, Chúa nhìn xuống thần dân, giang hai tay ra để ôm lấy dân Ngài. Và diễn từ nhận chức của Ngài là:”Xin tha cho họ” và cao điểm là:”Mọi sự đã hoàn tất”.
2. Vương quốc của Ngài.
Vương quốc của Ngài không có tính cách chính trị . Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian như các vua chúa ở trần gian. Vương quốc mà Ngài lập ra không có lãnh thổ hay tài nguyên vì vương quốc ngài là vương quốc thiêng liêng nên vô biên giới và vĩnh cửu, nước không thuộc thời gian nhưng thuộc thời cánh chung.:”Nuớc Người sẽ không bao giờ cùng”(Kinh Tin Kính).
IV. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA MỤC TỬ.
Đức Giêsu là Vua không theo nghĩa như các vua trần gian, nhưng Ngài xưng mình là Vua Mục tử nhân lành. Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài đọc I). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố:”Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta”(Ga 10,10). Ngài còn nói thêm:”Ta đến để cho chiên Ta được sống và được sống dồi dào. Chính Ta là mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên”.
Ờ Nước Trời, Đức Giêsu là Vua đích thực muôn đời vì Ngài đã hạ mình xuống làm tôi trung vâng lời Chúa Cha hiến mình chịu chết trên thập giá để cứu chuộc muôn dân, đưa muôn dân về với Thiên Chúa Cha trong nước vĩnh phúc hằng sống.” Chính vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài, ban cho cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu để trên trời dưới đất và hoả ngục phải bái quì khi nghe danh thánh Giêsu” (Pl 2,6).
Nếu Đức Kitô là Vua Mục tử thì vương quốc của Ngài là vương quốc tình thương. Đặc điểm của công dân trong nước này là những con người bất hạnh, khổ đau. Chính Đức Kitô, vị Vua Mục tử, đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn nghèo khổ:”Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc vương quốc của Ngài là chính những hành động của tình thương.
V. ĐỨC GIÊSU LÀ VUA THẨM PHÁN.
1. Ngài đã khẳng định vậy.
Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng:”Và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Lòng tin của Hội thánh đã được xây dựng trên lời Chúa:”Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái”(Mt 25,31).
Ngai uy linh có nghĩa là ngai vinh quang, người Do thái quan niệm ngai vinh quang chỉ dành cho Thiên Chúa, các ngai khác dành cho các tông đồ (Mt 19,28). Khi nói Chúa ngự lên ngai uy linh là một cách mạc khải Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
2. Ngài phán xét như thế nào?
a) Dựa trên tình thương.
Sự phán xét của Ngài không tùy thuộc vào kiến thức của chúng ta có, sự may mắn hay tiếng tăm của chúng ta đạt được, nhưng tùy theo vào sự giúp đỡ mà chúng ta đã làm cho người khác. Cha Mark Link nói:”Khi Chúa đến, Ngài không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Ngài sẽ cân đo trái tim của chúng ta yêu thương ra sao”.
Những điều Chúa nêu ra là cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp đón khách lạ, an ủi người bệnh, thăm viếng kẻ bị tù... Đó là những việc mà ai cũng có thể làm, đó là những sự giúp đỡ đơn giản cho mọi người cần đến mà chúng ta vẫn gặp hằng ngày. Không có ví dụ nào mở ra con đường đi tới vinh quang cho những người tầm thường nhất bằng ví dụ này.
Người Á đông chúng ta tuy không biết Thiên Chúa, nhưng có một quan niệm rất chính xác và cao sâu về Ông Trời: Ông Trời là chủ tể của mọi loài, không ai sống ngoài tầm kiểm soát của Ông Trời, sống theo ý Trời thì có phúc, làm ngược ý Trời thì bị phạt. Hai câu phản ảnh rõ nhất quan niệm trên là “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”: Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt được. Và còn một câu khác nữa cũng nói lên quan niệm ấy:”Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong: Người sống theo Trời thì còn, người nghịch với Trời thì mất.
Dù là dân đen hay vua chúa, dù nghèo hay giầu, dù trẻ hay già... cuối cùng rồi thì ai cũng chết và trình diện trước mặt Chúa, Vua Trời. Khi đó Vua Trời sẽ xét xử cuộc sống mỗi người dựa trên Luật Yêu thương. Người nào sống yêu thương là “thuận thiên” và sẽõ được “tồn” trong hạnh phúc vĩnh hằng. Kẻ sống mà không yêu thương là kẻ “nghịch thiên” và sẽ “vong” vĩnh viễn trong cõi trầm luâm. (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 564)
b) Giúp đỡ không tính toán.
Tất cả những người giúp đỡ không nghĩ rằng họ đã giúp đỡ Chúa Giêsu và tích trữ công đức đời đời cho mình. Họ giúp vì không thể không giúp, đó là bản chất tự nhiên không tính toán, phát xuất từ lòng yêu thương thật. Trái lại những người không muốn giúp đỡ người khác thường tỏ ra:”Nếu chúng tôi biết là anh thì chúng tôi đã sẵn lòng giúp”. Cũng có những người ra tay giúp đỡ nếu họ được người ta khen ngợi, cám ơn và công bố ra cho nhiều người biết, như thế không phải là họ giúp đỡ ai mà chỉ để chiều theo lòng tự ái tự tôn của họ. Giúp đỡ như vậy không phải là rộng lượng nhưng là ích kỷ trá hình. Sự giúp đỡ đẹp lòng Chúa phải là sự giúp đỡ không vì mục đích nào ngoài sự giúp đỡ cả.
Truyện: thánh Martinô thành Tours.
Ông là một quân nhân La mã và một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí , Martinô không có tiền, nhưng ông thấy người hành khất xanh xao và run rẩy vì lạnh, Martinô đã cho những gì ông có: ông cởi chiếc áo nhà binh đã sờn rách và xé một nửa cho người hành khất. Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ đang bao quanh Chúa Giêsu và Ngài đang mặc nửa chiếc áo lạnh nhà binh của ông. Một thiên sứ hỏi Ngài:”Tại sao Ngài mặc chiếc áo sờn rách đó? Ai đã cho Ngài áo đó”? Chúa Giêsu trả lời:”Martinô, tôi tớ của Ta đã cho Ta”.
c) Cho đi thì sẽ được.
Tất cả những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho Chúa mà những gì chúng ta làm cho Chúa thì không thể mất được. Những gì chúng ta làm cho tha nhân, dù nhỏ mọn như một chén nước lã thì cũng có phúc trước mặt Chúa. Trái lại, những gì chúng ta không làm cho tha nhân tức là không làm cho Chúa, mà đã không làm cho Chúa là một điều có lỗi. Do đó, Chúa sẽ xét xử chúng ta theo nguyên tắc:”Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng”: có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt. Được thưởng hay bị phạt là do chúng ta định đoạt lấy, không ai có thể làm thay cho chúng ta được..
Truyện: cho đi thì sẽ được.
Một ngày mùa đông lạnh giá, Lady Grey, một phụ nữ qúi tộc người Anh, rất giầu có, đã cải trang làm một người hành khất đi ăn xin từng nhà trong thành phố Luân đôn. Đến một số nhà, bà bị xua đuổi một cách tàn nhẫn. Một vài nơi khác, bà chỉ được bố thí cho những thứ thừa thãi vất đi. Điều lạ là tất cả những người ấy là những gia đình giầu có. Thế rồi bà tìm đến một căn nhà lụp xụp nghèo nàn. Tại một túp lều xiêu vẹo, bà được một ông lão tàn tật ân cần mời vào sưởi ấm bên bếp lửa và cùng chia nhau một khúc bánh mì đen.
Hôm sau chính người nữ qúi tộc ấy sai các gia nhân đến tận nhà mời những người mà bà đã đến ăn xin tối hôm trước tới dự một bữa tiệc tại dinh thự của bà. Tất cả khách được hướng dẫn vào một phòng chiêu đãi sang trọng và mỗi người được đặt chỗ ngồi riêng dọn sẵn. Bấy giờ ai nấy thấy trước mặt mình là những món ăn y như những thứ mà họ đã đem bố thí cho “bà ăn mày”: chỗ thì củ khoai thối, chỗ thì miếng bánh mốc không ăn được, có nơi là một cốc nước lã bẩn thỉu, lại có nơi chỉ là chiếc đĩa trống không. Duy chỉ có chiếc đĩa trước mặt ông lão tàn tật đầy ắp những món ăn ngon lành sang trọng. Mọi người chưa hết ngạc nhiên thì bà qúi tộc xuất hiện và tuyên bố:”Hôm qua tôi đích thân đi ăn xin từng nhà để hiểu biết hơn về lòng nhân ái của qúi vị. Hôm nay tôi chỉ đáp lễ bằng cách dọn ra mời qúi vị những thứ mà qúi vị đã cho tôi. Tôi tin rằng qúi vị cũng sẽ được tiếp đãi như vậy trong bữa tiệc mai sau truớc mặt Thiên Chúa là Đấng bây giờ đang đứng trước nhà qúi vị để trông chờ tấm lòng nhân ái của qúi vị”.
(Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 139)
Nghe xong câu truyện trên đây, nhất là qua bài Tin mừng của Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta thấy cả hai đều qui về một mục đích là nêu cao và làm sáng tỏ một vấn đề hết sức hệ trọng trong đời sống đạo đức: đó là yêu thương giúp đỡõ tha nhân, đặc biệt với những kẻ hẩm hiu cùng khốn là yêu thương chính Chúa và Chúa chỉ căn cứ vào đó mà đối đãi lại với chúng ta.
Nếu Thiên Chúa là Tình yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, thì đạo của Ngài hẳn phải là đạo yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài.
Rồi trước khi chấm dứt cuộc đời rao giảng Tin mừng ở trần gian, Chúa còn quả quyết:”Ta bảo thật, những gì các ngươi làm cho một trong những người bé nhỏ của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta”. Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục nhập thể nơi mỗi người Kitô hữu hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ. Ngài cần đến môi miệng chúng ta để nói lời an ủi khuyến khích. Ngài cần đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương. Ngài cần đến đôi chân chúng ta để đến với mọi người.
Laudetur Christus Rex in saecula saeculorum.
8.Chúa nhật 34 CGK Vua Mt 25,31-46--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Hạt giống...
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả Chúa Giêsu là một vị vua đang xét xử toàn thể loài người vào ngày cánh chung: Ngài phân chia loài người thành hai hạng tốt và xấu; và tiêu chuẩn để biết tốt xấu là có thực thi bác ái cách cụ thể đối với những người anh em bé mọn của mình hay không. Vua Giêsu tự đồng hóa Ngài với những người bé mọn đang đói khát, trần truồng, tù đày, bệnh tật, đau khổ.
B.... nẩy mầm.
1. Có người nói chơi rằng thế giới này là thế “gian” chứ đâu phải thế “ngay” cho nên đầy dẫy sự gian dối, lọc lừa. Ai gian dối thì thuộc về nước thế gian, kẻ yêu chuộng chân lý mới thuộc về Nước của Chúa. Yêu chuộng chân lý là sống thật với Chúa, với lương tâm mình và với mọi người.
2. “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này chỉ để làm chứng về Chân lý”: noi gương Chúa Giêsu, tôi cũng phải cố gắng làm chứng cho chân lý giữa thế giới đầy gian trá này.
3. Một giáo viên tâm lý trắc nghiệm về sự thông minh của nhóm học sinh 8 tuổi. Thầy lấy ra một bản đồ về địa lý thế giới, cắt làm nhiều mảnh nhỏ và đưa cho một cậu bé.
Cậu bé xem xét những mảnh giấy cách kỹ lưỡng, rồi nhanh chóng ráp lại bản đồ mà không một chút sai sót.
- Tuyệt vời ! Làm thế nào em ráp nhanh và chính xác như vậy?
- Ồ, có một hình người rất lớn ở mặt sau. Chỉ cần ráp các mảnh lại theo đúng hình người đó thì thế giới sẽ xuất hiện.
Đức Kitô chính là khuôn mẫu mà cả thế giới phải theo. (Góp nhặt)
4. Hai người trẻ đang dùng ca nô đi du lịch ở một miền hoang vắng. Họ bỗng khám phá một túp lều nhỏ. Bước vào trong họ thấy một quyển Thánh Kinh đang mở và một tờ giấy ghi những dòng chữ như sau:
“Chủ lều thân mến. Túp lều của bạn đã cứu mạng tôi. Tôi đang bị bệnh rất nặng và cần chỗ trú ẩn thì may mắn gặp được túp lều này. Ơn này rất trọng, tôi không thể trả bằng tiền được mà chỉ xin Chúa chúc lành cho bạn. Xin bạn hãy đọc Mt 25,31tt.” (Mt 25,31tt chính là bài dụ ngôn của Lễ hôm nay).
Một trong hai người trẻ ấy nói: “Trước đây tôi cũng thường đọc đoạn Tin Mừng này. Nhưng hôm nay tôi thấy nó có một ý nghĩa hết sức đặc biệt” (Mark Link, Vision 2000).
9.Ông Vua là người nghèo—Lm. G. Nguyễn Cao Luật
Mt 25,1-13
Vua, chính là người nghèo
Có một bức tranh diễn tả về cuộc phán xét cuối cùng, trong đó, bên cạnh hình một tên quỹ là hình Đức Kitô oai phong. Bức tranh đó rất lớn, nói lên Con Người đã trở lại, Người được gọi là "Vua" và tất cả mọi nước đều tụ tập trước nhan Người. Xưa kia, tại chân tháp Ba-ben, tội lỗi đã làm tan vỡ các dân tộc, trở thành những mảnh nhỏ. Giờ đây, các mảnh nhỏ ấy lại vỡ tan, nhưng để nảy sinh một nhân loại mới phù hợp với thánh ý Thiên Chúa, một dân tộc thánh thiện, bao trùm cả vũ trụ.
Bản văn phụng vụ trong lễ Đức Kitô Vua thật lạ lùng. Thánh Mát-thêu sắp xếp trình thuật này vào giai đoạn mà số phận của con người dường như đã được định đoạt: Người bị kết án và chịu hành hình như một nô lệ. Trước đây, khi dân chúng tỏ ra quý chuộng Người, thì Người lại nói về đau khổ và sự chết; còn ở đây, khi trần gian sắp sửa sụp đỗ dưới chân Người, thì Người lại lên tiếng nói về vinh quang và vương quyền. Người tự giới thiệu về chính mình như vị Vua xét xử cả nhân loại.
Phải chăng đây là một ước mơ muốn báo thù, hay là khoa trương ước vọng? Phải chăng là Đức Giêsu muốn khước từ việc xoá mình đi và theo đuỗi quyền lực? Điều lạ lùng nữa là Đức Giêsu tự nhận Người có quyền xét xử vốn dành riêng cho Thiên Chúa, như lời ngôn sứ Ê-dê-ki-en: ""Đức Chúa là Chúa Thượng phán: Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê"" (Ed 34,17). Đặc biệt hơn, Người còn tự đổng hoá với những người bé nhỏ, hèn kém: ""Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy... Mỗi lần các ngươi không làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.""
Vị vua này thật khác xa với lời mô tả của ngôn sứ Sa-mu-en khi ông cảnh giác đám đông dân chúng Ít-ra-en đang muốn chọn một ông vua để cai trị họ: "Đây là quyền hành của nhà vua sẽ cai trị anh em... Chiên dê của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân. Còn chính anh em sẽ làm nô lệ cho ông. Ngày ấy, anh em sẽ kêu than vì vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình, nhưng ngày ấy Đức Chúa sẽ không đáp lời anh em."" (1 Sm 8,11.17-18)
Đúng hơn, Thiên Chúa đáp lời con người đang bị áp bức bằng cách gửi đến cho họ một vị vua trong thân phận một nô lệ. Vương quyền của vị vua này không đặt trên quyền lực và cũng không có ý định chiếm chỗ của Thiên Chúa. Vương quyền này đặt sức mạnh của mình trên tình yêu, tình yêu của một vị Thiên Chúa đã đến trong chỗ của một con người. Trong Đức Giêsu, Vương quyền đã hoàn toàn thay đổi ý nghĩa: thay vì thống trị sẽ là tình yêu.
Một ông vua với những ý nghĩa khác thường
Tin Mừng cho thấy có những lúc Đức Giêsu từ chối là vua, có lúc Người lại nhận. Thật ra, Đức Giêsu không bao giờ chấp nhận một vương quyền theo nghĩa chính trị, quân sự và hống hách. Người không hề muốn chấp nhận vai trò của một ông vua theo cách hiểu thông thường của nhân loại.
Tuy nhiên, Người chấp nhận là Vua Lãnh Đạo như ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo. Vị vua này là người chăm sóc các con chiên đã được trao phó cho mình. Vương quyền của vị vua này là phục vụ.
Đức Giêsu cũng chấp nhận là Vua Chiến Thắng vào thời gian cuối cùng như thánh Phao-lô trình bày. Vị vua này là Đấng chiến thắng sự dữ và sự chết. Chiến thắng bởi vì Người hiến dâng mạng sống của chính mình; chiến thắng bởi vì Người chấp nhận tự huỷ và hoàn toàn vâng phục Chúa Cha.
Đức Giêsu còn chấp nhận là Vua Xét Xử như dụ ngôn của thánh Mát-thêu. Thế nhưng vị vua này lại tự đổng hoá với những người nghèo, với những người bị bách hại và với tất cả những người khốn khổ.
Nói tóm, Vương quyền của Đức Giêsu chỉ được diễn tả cách trọn vẹn và trung thực qua việc dành ưu tiên để phục vụ người nghèo, và dành mọi nỗ lực để phát triển đức ái.
Lúc này, Đức Giêsu là vị vua đang trên đường tiến gần đến cái chết, một vị vua sắp bị đóng đinh. Tuy vậy, Người hiểu rõ chương trình từ ngàn đời của Thiên Chúa sẽ được thực hiện: Thiên Chúa đã tạo thành thế gian, để rổi một ngày kia, thế gian sẽ được thừa hưởng vương quyền của Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Vua để phục vụ, để đem lại sự sống, đổng thời Người cũng là Vua để xét xử, để thưởng phạt. Tuy nhiên, đây là một cuộc xét xử kỳ lạ, bởi vì trong đó, con người được phân loại và có quyền tự bào chữa. Một số người cảm thấy hân hoan, còn số khác lại càu nhàu. Một số người ngạc nhiên vì mình được xếp vào loại người lành, một số khác lấy làm lạ vì mình bị liệt vào số người dữ. Dụ ngôn quả là gây ngạc nhiên, bởi vì cuộc xét xử đem lại ơn cứu độ cho những người nghĩ rằng mình chẳng có điều gì tốt lành, và kết ánh những người cho rằng mình công chính.
Nói thế, bởi vì tiêu chuẩn để xét xử là tình yêu. Mà tình yêu đó rất đơn giản, đơn giản đến nỗi ngay những người trong cuộc cũng không nhận ra: cho ăn, cho uống, cho mặc, đón tiếp, thăm viến, săn sóc. Cuộc xét xử của Đức Giêsu không dựa trên những công trạng, nhưng dựa trên những cử chỉ khiêm tốn để phục vụ anh em đổng loại. Vì vậy, mỗi hoạt động nhằm giúp đỡ người khác, dù âm thầm và nhỏ bé, cũng đều có giá trị vĩnh cửu, giá trị đời đời.
Đàng khác, cuộc xét xử của Đức Giêsu không là gì khác hơn việc mặc khải ra những điều còn giấu kín. Có thể mỗi người không hiểu hết giá trị của các công việc, nhưng trước mặt vị Thẩm Phán công minh, các công việc đó đều có ý nghĩa và có ảnh hưởng đến cuộc sống vĩnh cửu. Lời phân xử của vị Thẩm Phán trong dụ ngôn được đặt trong bối cảnh của ngày cuối cùng, nhưng cũng là một cảnh giác cho cuộc sống hiện tại. Tình yêu sẽ là tiêu chuẩn để mỗi người tự xét xử, bắt đầu ngay từ cuộc đời này. Như thế, cuộc sống vĩnh cửu đã được khởi đầu ngay tại trần gian. Vương quyền của Đức Giêsu đã được thể hiện khi mỗi người biết phục vụ anh em mình.
Cử hành lễ Đức Kitô Vua, đó chính là dấn thân thực thi việc phục vụ anh em, chứ không phải là hoạt động cho chiến thắng của Đức Kitô như người ta dấn mình vào chính trị.
Chưa phải là kết thúc
Với dụ ngôn này, cũng có thể hiểu rằng, cuộc chơi chưa kết thúc. Không ai có quyền ngủ yên trên những vầng hào quang, và ngược lại, cũng không ai có quyền thất vọng. Bài Tin Mừng quả là một "cú sốc", có tác dụng như một bản thí nghiệm. Có sáu hành động để bày tỏ lòng thương xót, mỗi người sẽ dựa trên đó để tự đánh giá về mình, đánh giá cách chân thành, không dối trá.
Nếu ai nhận thấy mình đã thi hành trọn đủ sáu công việc - hoan hô người đó - thì họ vẫn phải tiếp tục, bởi vì sau khi đã phục vụ người khác cách anh dũng, theo như lời thánh Phao-lô, họ vẫn có thể bị loại (1 Cr 9,27). Họ cần phải nhớ rằng bản liệt kê đó chưa phải là tất cả. Sáu hoạt động này mới chỉ là những ví dụ điển hình và thông thường. Tuỳ theo sáng kiến và hoàn cảnh của mỗi người, bản liệt kê còn có thể kéo dài, kéo dài đến vô tận, bởi vì tình yêu làm gì có giới hạn.
Nếu ai đó nhận thấy mình ở tình trạng số không, thì đừng lo sợ và kết án chính mình. Tất cả còn có thể thay đổi và còn có thể bắt đầu. Và cho dù tâm hổn mỗi người có kết án chính mình, thì cũng hãy luôn nhớ rằng "Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta" (1 Ga 3,20).
Như thế, trình thuật về cuộc xét xử cuối cùng không làm chúng ta sợ hãi, trái lại, nó khuyến khích chúng ta đón nhận ơn cứu độ, an ủi chúng ta vì cho biết rằng chưa tới thời xét xử và tất cả đều có thể. Nó cũng làm chúng ta an tâm khi nhắc nhở cho ta: không ai có quyền xét xử, trừ một mình Thiên Chúa. Điều đó thật đáng mừng.
Hình ảnh về sự phân cách còn cho thấy:
* Có ơn cứu độ, có thiên đàng. Ở dưới đất này, tất cả chưa được quyết định rõ ràng, nhưng cũng không có gì là vô ích. Có một nền công lý dành cho những người bị thất bại, những người bé mọn, những người bị gạt ra bên lề, những người vô tội. Vào ngày chung cuộc, những người bị sát hại sẽ được con cháu mình đón tiếp, và những thế lực sự dữ sẽ phải trả lại vinh quang.
* Và cũng có sự kết án, có hoả ngục. Đó là đạo lý của Hội Thánh. Nếu không, con người chỉ là một thứ đổ chơi, một thứ máy móc chẳng có tự do, cũng chẳng có tình yêu. Có hoả ngục, nhưng Hội Thánh vẫn hy vọng và cầu nguyện để con người đừng điên rổ mà gieo mình xuống đó, khi quyết liệt từ chối đôi tay rộng mở của vị vua đã đón nhận vòng gai.
Kết thúc năm Phụng vụ
Tuần lễ cuối năm Phụng vụ, trong niềm tiếc nuối một năm đã qua, trong niềm vui mừng một năm thành đạt, trong nỗi ê chề một năm thua bại, trong tất cả vũ trụ đang chuyển mình, trong tất cả mọi người đang tranh sống, trong tất cả công to việc nhỏ của con người, Hội Thánh muốn chúng ta nghe lại những bài Tin Mừng về ngày cánh chung và cử hành lễ Đức Giêsu Kitô Vua như ngọn đèn soi sáng cho cuộc sống nhân linh.
Làm sao không cảm thấy bâng khuâng
trước bầu khí se lạnh của mùa đông đang đến.
Làm sao không xao xuyến
khi nhìn lại quãng hành trình một năm vừa đi qua.
Làm sao không náo nức
trước cánh cửa năm mới đang mở ra,
chào đón và thách thức, kêu mời và đe doạ.
Làm sao không cảm thấy lâng lâng
khi đối diện với cuộc đời,
cuộc đời kỳ lạ của anh, của chị, của em,
và cuộc đời huyền nhiệm của chính mình.
Cuộc đời thật lạ kỳ,
vừa quyến rũ, vừa đáng sợ, vừa tươi đẹp, vừa hiểm ác,
vừa thúc bách phải bắt tay xây dựng một thế giới mới đang đến,
vừa cảnh giác đừng bám chặt lấy một thế giới chóng qua.
Phải chăng đó là một cuộc giao tranh thực sự?
Phải chăng đó chính là mầu nhiệm Đức Giêsu Vua
đang chuyển mình ngay trong chính giữa cuộc đời, ngay trong chính lòng mình?
Và phải chăng chính tôi,
tôi cũng đang ẩn núp,
đang lăng xăng một góc nào đó trong cuộc chiến đấu này?
* * *
Lạy Chúa Kitô,
Lời chúng con ca hát reo mừng Chúa là Vua,
thật ra cũng là lời hô hào kêu mời chúng con xông vào cuộc đời.
Việc chúng con cử hành thánh lễ Chúa là Vua
cũng chính là từng bước chân
chúng con tiến vào mầu nhiệm cứu độ trong cuộc đời.
Và lạy Chúa,
Ngọn cờ vương quyền của Chúa
chính là niềm trông cậy vô bờ cho chúng con trong cuộc đời này.
10.Vua Tình Yêu--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Nhìn vào bất cứ cây thánh giá nào, chúng ta cũng thấy phía trên đầu có một tấm bảng ghi những chữ mà đọc theo tiếng Việt là IN-RI, thực ra đó là bốn vần đầu viết tắt của bốn chữ La Tinh: Jesus Nazarenus Rex Judaeorum), nghĩa là Giêsu Na-da-rét, vua dân Do Thái. Có lẽ tổng trấn Philatô khi ra lệnh treo tấm bảng đó lên đầu thập giá Chúa, ông không nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế chính trị cho ông, bất kể sự phản đối của người Do Thái. Nhưng có một điều ông không bao giờ nghĩ tới, mà điều đó lại thật quan trọng đối với đức tin của người Công giáo, bởi vì tấm bảng đó là một lời tuyên xưng không thể xóa nhòa: Chúa Giêsu Kitô thực sự là Vua.
Vậy chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là vua nghĩa là thế nào? Ngài là vua gì? Trước hết, chúng ta phải gạt ra ngoài những ý nghĩa về một ông vua mà người đời thường hiểu, tức là một ông vua theo nghĩa chính trị, Chúa Giêsu không bao giờ làm vua theo nghĩa này. Vì thế, khi dân chúng được hưởng phép lạ Chúa làm, họ hồ hởi phấn khởi tung hô Chúa là vua, Ngài đã từ chối. Ngài từ chối vì họ muốn Ngài là một nhà lãnh đạo quốc gia hay một người lãnh đạo quần chúng để đánh đuổi thực dân đế quốc, giành lại chủ quyền cho đất nước và đem lại phồn vinh cho dân tộc.
Tuy nhiên trong ngày Ngài khải hoàn vào thành Giêrusalem, tức là ngày lễ Lá, Ngài đã im lặng, không cải chính, để cho người ta hái lá, lấy áo trải trên đường cho Ngài đi, và chấp nhận để cho họ tung hô Ngài là con vua Đa-vít, vua dân Do Thái. Cũng thế, trước tòa án Philatô, Chúa Giêsu xác nhận Ngài là vua, nhưng Ngài cũng nói rõ ngay: Nước Ngài không thuộc trần gian này. Ngài là vua không lãnh thổ, không biên giới, Ngài không là vua của riêng một dân tộc hay một đất nước nào mà là vua tâm hồn mọi người. Hiến pháp của Ngài là Kinh Thánh, sức mạnh của Ngài không phải là binh lực vũ khí mà là tình yêu. Mục đích của Ngài đến trần gian là thực hiện kế hoạch và chương trình tình yêu của Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta có thể trả lời cho câu hỏi: Chúa Giêsu là vua gì? Ngài là vua Tình Yêu. Tình yêu đã đưa Ngài đến trần gian để phục vụ mọi người và xây dựng nước tình yêu, để tất cả những ai ở trong nước của Ngài đều là công dân tình yêu. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua vũ trụ, vua cả nhân loại, Ngài đã thi hành vương quyền của Ngài bằng cách yêu thương con người đến nỗi chết cho con người. Đó là cái chết vì tình yêu và cho người mình yêu, nên bất cứ ai đón nhận tình yêu cứu độ của Ngài và sống tình yêu cứu độ ấy, họ sẽ được nhận vào nước Chúa. Do đó, nếu chúng ta nói Thiên Chúa là Tình Yêu, thì chúng ta cũng phải nói Chúa Giêsu là Tình Yêu. “Giêsu, Vua Tình Yêu ”, đó là tựa đề một cuốn sách viết về Chúa đã được xuất bản lâu rồi, và mới đây lại có một cuốn sách khác, có tựa đề là “Một tình yêu có tên là Giêsu”. Cả hai cách gọi đó cũng là những điều chúng ta tuyên xưng Chúa hôm nay: Chúa Kitô là Vua, Chúa Kitô là Tình Yêu, Chúa Kitô là Vua Tình Yêu.
Chúa Kitô là vua của chúng ta, vua tình yêu, vậy chúng ta phải sống thế nào để đúng là thần dân của Ngài? Bài Tin Mừng hôm nay trả lời cho chúng ta câu hỏi đó, Chúa Giêsu nói về ngày quang lâm của Ngài, và qua đó Chúa bảo chúng ta hãy đối xử tốt đẹp, hãy thể hiện tình yêu thương với nhau. Đúng vậy, Chúa Giêsu nói về ngày quang lâm của Ngài, tức là ngày Ngài trở lại phán xét mọi người. Chúa nói đến vấn đề phán xét không phải là để hù dọa hay làm cho con người phải lo sợ, nhưng Ngài muốn nhắc bảo cho mọi người biết: có ngày phán xét để sống cuộc sống hiện tại cho tốt hơn, Ngài không muốn nhấn mạnh về tương lai, nhưng nhấn mạnh đến hiện tại.
Đây là một cách tế nhị để bảo cho chúng ta biết: chúng ta đã sống thế nào trong đời sống hiện tại, thì chúng ta sẽ được thưởng hay bị phạt trong đời sống mai sau như vậy. Chúng ta là chiên hay chúng ta là dê? Vì lý do gì chúng ta trở thành chiên hay dê? Hay vì lý do gì chúng ta trở thành người được chúc phúc hay bị nguyền rủa? Được vào cõi sống hạnh phúc muôn đời hay phải vào chốn cực hình ngàn thu? tất cả đều căn cứ vào cuộc sống của chúng ta hôm nay. Như vậy, cuộc sống hiện tại tuy ngắn ngủi và tạm bợ nhưng lại là tiêu chuẩn Thiên Chúa sẽ căn cứ vào đó mà thưởng hay phạt chúng ta.
Chúng ta trở thành chiên hay dê là tại chúng ta có biết hay không biết phụng sự Chúa, mà phụng sự Chúa như Chúa cho biết là phục vụ những người anh em đồng loại, nhất là những người đau khổ và bất hạnh về thể xác cũng như tinh thần, bởi vì tất cả những gì chúng ta làm cho họ là làm cho chính Chúa, và Chúa căn cứ vào đó mà thưởng phạt chúng ta. Thực vậy, chắc chắn có ngày chúng ta sẽ chết, chết rồi chúng ta sẽ đến tòa Chúa phán xét, Chúa sẽ thưởng hay phạt chúng ta. Thưởng hay phạt đều căn cứ vào cuộc sống hôm nay mà chúng ta đang sống, và tiêu chuẩn được Chúa đặc biệt căn cứ vào đó để phán xét là lòng yêu thương người.
Yêu thương là đặc điểm, là dấu hiệu đích thực của người con cai Chúa như Chúa đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”.
Yêu thương là điều dễ làm tăng uy tín cho người môn đệ Chúa hơn mọi giá trị khác. Nó có thể thay thế được rất nhiều đức tính, nhưng không đức tính nào thay thế được nó.
Yêu thương là phương tiện hữu hiệu nhất để truyền giáo. Nhờ yêu thương, người ta dễ có cảm tình với chúng ta, và nhờ đó sẽ có cảm tình với đạo.
Yêu thương là tiêu chuẩn chính yếu mà Chúa sẽ căn cứ vào đó để định đoạt ai được vào thiên đàng, bởi vì chỉ có yêu thương, con nguời mới có thể được vào thiên đàng, chỉ có tình yêu thương, con người mới có thể xây dựng thiên đàng ngay trên trần gian này, bởi vì thiên đàng cũng đồng nghĩa với yêu thương.
Hôm nay chúng ta suy tôn Chúa Kitô là vua, chúng ta hãy nhìn lại đời sống của chúng ta có đang sống đúng cung cách là những thần dân của vua Kitô không? Tức là nhìn lại xem chúng ta đang sống, đang thể hiện tình yêu thương như thế nào từ trong gia đình, trong cộng đoàn, trong tập thể và với mọi người. Xin Chúa cho chúng ta cảm nếm được ngay trong cuộc sống ở trần gian này thiên đàng mà Chúa đã hứa, thiên đàng mà chúng ta chỉ có thể có được bằng cuộc sống yêu thương mà thôi.
11.Vua tình yêu--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, các dân tộc thuộc vùng núi Cô-ca-dơ ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một ông vua Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực, ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng, hối lộ. Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng hay hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng. Điều không may xảy ra cho ông, người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông, sự kiện này làm ông đau khổ khó nghĩ. Không có luật trừ hay châm chước nào đối với sắc lệnh mà ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua ngồi yên trong phòng để suy nghĩ, sang ngày thứ tư, ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai người lính trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo luật định. Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa quất xuống trên người mẹ ông, thì nhà vua liền chạy đến bên cạnh bà, ông mở trói cho bà, rồi ra lệnh cho hai người lính trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc đánh roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua, với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói: " Bây giờ thì các ngươi có thể ra về, luật đã được thi hành, máu của vua các người đã chảy ra để đền bù cho tội ác này". Kể từ ngày đó, trong đất nước, người ta không còn bao giờ nghe nói đến tội tham nhũng hay hối lộ nữa.
Hình ảnh của ông vua trên đây có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào điều mà Giáo Hội gọi là mầu nhiệm nhập thể cứu độ. Chúa Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa hóa thân làm người đề cứu độ con người. Cũng như ông vua Hồi giáo trên đã chịu đòn thay cho mẹ và diệt trừ tham nhũng, hối lộ khỏi đất nước, Thiên Chúa đã mang lấy thân phận con người, trải qua tất cả những cảnh huống của con người, kể cả cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ con người.
Nói rõ hơn, Thiên Chúa yêu thương con người. Tình yêu ấy không phải là một lý thuyết trừu tượng nhưng đã trở nên hữu hình, và loài người có thể cảm nghiệm được qua con người và cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là chính tình yêu của Thiên Chúa giữa người trần, có nghĩa là vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho chúng ta. Ngài dùng con Ngài để thực hiện ý định yêu thương của Ngài, như thánh Gioan đã viết: " Cứ dấu này chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, là Ngài đã sai con một xuống trần để cứu chuộc chúng ta". Chúa Giêsu đã đến, Ngài đã giảng dạy, và cuối cùng, Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá. Thập giá là đỉnh cao cuộc đời Chúa Giêsu và cũng là đỉnh cao tình yêu của Thiên Chúa, như Chúa đã nói: "Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì người mình yêu".
Nếu Thiên Chúa là tình yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, thì đạo của Ngài hẳn phải là đạo yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay đã thuật lại. Rồi trước khi chấm dứt cuộc đời rao giảng Tin Mừng ở trần gian, Chúa còn quả quyết: " Tôi bảo thật, những gì anh em làm cho một trong những người bé nhỏ của tôi, là anh em đã làm cho chính tôi". Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục nhập thể nơi chính mỗi người Kitô hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ. Ngài cần đến môi miệng chúng ta để nói lời an ủi khuyến khích. Ngài cần đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương. Ngài cần đến đôi chân chúng ta để đến với mọi người.
12.Phán xét cuối cùng--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Có những người gọi đây là “dụ ngôn về cuộc phán xét thế gian”. Tuy nhiên, nếu muốn đúng nghĩa dụ ngôn, chúng ta chỉ có cc. 32b-33, được coi như một dụ ngôn ngắn. Phần lớn của bản văn được tạo nên bởi hai mẩu “đối thoại phán xét” chính (cc. 34-40.41-45). Có thể gọi đây là một bức họa về phán xét. Đây không phải là một bản văn khải huyền, vì không có thị kiến, cũng không phải là một bài huấn giáo về phán xét, vì không có một lần nào bản văn ngỏ lời trực tiếp với các độc giả.
Qua bản văn hôm nay, chúng ta gặp được niềm hy vọng của Hội Thánh vào Đức Kitô quang vinh (“Chúa” [Kyrios]: cc. 37.44; Đức Vua: cc. 34.40 // “mục tử”: c. 32). Hẳn là tác giả đã lấy cảm hứng từ các bản văn ngôn sứ như Tv 2,7; 110,1-3; Đn 7,14. Tuy nhiên, ngoại trừ quang cảnh hùng vĩ đó, sứ điệp trọng tâm của bản văn vẫn không khác sứ điệp của những bản văn đi trước: Người đầy tớ trung tín (24,45-51), Các trinh nữ (25,1-13), Ba người tôi tớ (25,14-30) trong đó ta thấy cuộc gặp gỡ với ông chủ, cũng được gọi là kyrios, kết thúc với phần thưởng hoặc hình phạt.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Quang cảnh Phán xét cuối cùng (25,31-33);
2) Xét xử những người bên phải (25,34-40);
3) Xét xử những người bên trái (25,41-45);
4) Kết luận (25,46).
3.- Vài điểm chú giải
- muôn dân (32): Theo S. Hre Kio (“Understanding and Translating “Nations” in Mt 28,19”, dans The Bible Translator 41 (1990) 236), trong số 16 lần từ ngữ ethnê được dùng trong Mt, chỉ có ba lần liên hệ với cuộc phán xét thế gian (24,7; 24,14; 25,32), thì rất có thể từ ngữ phải được hiểu theo nghĩa tổng quát, không giới hạn (= Do Thái + Dân ngoại); trong những trường hợp khác, từ này được hiểu là “Dân ngoại” (4,15; 5,47; 6,7; 6,32; 10,5; 10,18; 12,18; 12,21; 18,17; 20,19; 20,25; 21,43; 24,9).
- tập hợp trước mặt Người (32): Cựu Ước cũng đã nói đến cuộc quy tụ hoành tráng các dân trên thế giới lại để chịu Thiên Chúa phán xét (Ge 4,2; Is 66,18; Gr 25,31; v.v.). Ở đây chúng ta cũng gặp lại viễn tượng ấy: đây không còn phải là cử chỉ từ bi thương xót của người mục tử cánh chung quy tụ những người được chọn (Mk 4,6; Xp 3,19; Ed 34,12-13) hoặc quy tụ cả Do Thái lẫn Dân ngoại vào một đoàn duy nhất (Gr 3,17), nhưng là hành vi uy quyền triệu tập loài người ra trước tòa Thiên Chúa.
- tách biệt chiên với dê (32): Chính xác thì đây là chiên và dê con. Ban ngày chúng có thể đi chung, nhưng về đêm người ta phải tách dê con ra để giữ cho chúng ấm. Vì chiên thì có giá trị hơn dê con, ta hiểu tại sao chiên được đặt về bên phải vị Thẩm phán cánh chung, vì chỗ bên phải là chỗ danh dự.
- Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn (37): Không phải là những người lành quên, nhưng họ không biết là khi giúp đỡ những người túng cực là họ đã làm cho chính Con Người. Ý nghĩa tròn đầy của các hành vi của họ chỉ được vén mở vào giờ cuối cùng. Điều này hoàn toàn phù hợp với nền luân lý của Mt (“Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”, Mt 6,4).
- những anh em bé nhỏ nhất (40): Từ ngữ “bé nhỏ” (nêpios và mikros) được dùng nhiều lần trong Mt để gọi những thành viên yếu hơn hoặc có nhu cầu hơn trong cộng đoàn (11,25; 26,16: nêpios; 10,42; 13,32; 18,6; 26,39.73: mikros), còn từ elakistos, “bé nhỏ nhất” để gọi con người thì chỉ xuất hiện trong bản văn ở đây mà thôi. Dường như từ này không đồng nghĩa với hai từ trên, mà lại có nghĩa xã hội nhiều hơn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn của chúng ta là bản văn cuối cùng trước khi truyện Thương Khó bắt đầu, đồng thời, là giáo huấn cuối cùng Đức Giêsu ban cho các môn đệ.
* Quang cảnh Phán xét cuối cùng (31-33)
Bản văn mở ra với một quang cảnh hùng vĩ: Con Người “đến trong vinh quang”: Người vẫn là mục tử “tách biệt chiên với dê”, nhưng cũng là Đức Vua uy phong chủ trì cuộc xét xử chung cuộc. Chúng ta mường tượng ra khung cảnh được nói đến trong dụ ngôn Cỏ lùng (13,41-43), với cùng những nhân vật (một bên: Con Người, các thiên thần, Chúa Cha, những người công chính, những người làm việc tốt; bên kia: ma quỷ, các thiên thần của ma quỷ, những kẻ xấu, những kẻ bị chúc dữ), nhưng được triển khai rộng ra. Đức Giêsu xuất hiện trong vinh quang của Người, chung quanh có các thiên thần, ngự trên một cái ngai vinh quang (c. 31). Tất cả những yếu tố mô tả đây là biểu tượng của sự hiện diện và quyền lực của Thiên Chúa. Vinh quang là sự hiển lộ rạng rỡ, chói ngời của Thiên Chúa. Các thiên thần đứng trước nhan Người làm chứng về sự hiện diện của Người. Cái ngai tượng trưng uy quyền của Người, từ đó Người điều khiển cách chắc chắn.
* Xét xử những người bên phải và bên trái (34-45)
Đã có quyền lực và sự uy hùng của Thiên Chúa, Đức Giêsu thực hiện việc xét xử. Lời tuyên án có tính vĩnh viễn, không thể hồi tố. Đức Giêsu đã đến như “Con Người”, Đấng đã được Thiên Chúa trao cho quyền chúa tể, vương vị và vương quyền (x. Đn 7,14). Người tuyên án như “Đức Vua” đang thi hành quyền chúa tể vô song (25,34.40). Người hành động như là “Con Thiên Chúa” đang lên tiếng nhân danh Chúa Cha (x. 25,34) và đứng về phía những người túng quẫn, được coi như là anh em Người và con Thiên Chúa (c. 40). Người được mọi người có mặt nhận biết như là “Chúa tể” (cc. 37.44). Trong cuộc xét xử, địa vị và uy quyền của Đức Giêsu cũng như trọng lượng lời Người và hành động của Người được tỏ bày.
Mọi dân tộc, tất cả mọi người không ngoại lệ, phải trả lẽ về mình trước nhan Người. Tức khắc có một chi tiết khiến chúng ta ngạc nhiên: Đây không phải là những người Israel (23,37–24,31) hoặc các Kitô hữu (24,45–25,30) mà là “muôn dân” (panta ta ethnê) (c. 32). Cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước, “các dân tộc” (ta ethnê) dường như là một từ ngữ chuyên được dùng để gọi các Dân ngoại. Tuy nhiên, ở đây cũng có thể hiểu theo nghĩa bao quát: dân Chúa và Dân ngoại. Tác giả Mt viết cho một giáo đoàn hỗn hợp, gồm các Kitô hữu gốc Do Thái và Dân ngoại, để giáo huấn họ về việc đưa Lời Chúa ra áp dụng (24,45–25,30; x. Rm 2,13). Đến ngày tận thế, mọi người, dân Do Thái cũng như người ngoại, đều được triệu tập đến trước mặt vị Thẩm phán tối cao. Không ai có thể coi như không có Người. Mỗi người sẽ bị xét xử theo tiêu chuẩn chính Người quy định và Người xác định số phận đời đời cho từng người. Bất kể địa vị, giai cấp xã hội, phái tính, giống nòi hoặc tuổi tác, mọi người đều bị xét xử theo một tiêu chuẩn như nhau.
Khi đó, tất cả sẽ bị xét xử, không phải tùy theo những công trạng đã đạt hoặc những lỗi đã phạm đối với các khoản luật lệ nào, nhưng là những lỗi phạm đến anh chị em đồng loại. Bản văn không nêu ra những việc như là một cuộc trả thù chống lại các thẩm phán bất công và các bạo chúa đã áp bức Israel hoặc dân mới của Thiên Chúa, nhưng nêu ra những việc đã không làm cho hạng người cùng rốt trong bậc thang xã hội. Đây là những việc làm cho con người (“những anh em”), trong tư cách là con người, chứ không phải là trong tư cách là người Israel hay là Kitô hữu. Cũng không có nét gì là chuyên biệt tôn giáo trong các công việc này. Đức Giêsu đã gọi những ai thi hành ý muốn của Cha Người là “anh em” Người (12,48-50). Nhưng ở đây trong tư cách vị thẩm phán, Người lại nói đến “những anh em bé nhỏ nhất”, tức là những người cùng chia sẻ thân phận nghèo khó và khiêm tốn như Người (x. 11,28-30). Đức Giêsu thích tự đồng hóa với những người bé nhỏ, bởi vì đức tính tapeinôsis, “sự khiêm nhường”, là nhân đức căn bản của Người (x. 11,28-36) và những người yếu đuối là đối tượng Người ưu ái chăm sóc. Tất cả mọi người đều là “anh em” Người (x. Rm 8,29; Dt 2,11.17), nhưng những người túng quẫn hơn và xấu số mới là “anh em” Người cách gần gũi nhất.
Lời tuyên án được công bố vào cuối một cuộc đời hoặc cuối một kinh nghiệm, nhưng án xử thì được thực hiện dọc theo dòng lịch sử. Có thể nói mỗi người xây dựng chính hạnh phúc hay bất hạnh vĩnh cửu ngày qua ngày. Loài người sẽ bị xét xử không phải về những gì đã nghĩ hoặc đã nói, nhưng về những gì đã làm cho chính anh em mình. Không phải mọi người đều đã biết Đức Giêsu, nhưng mọi người đều có một nẻo đường để gặp được Người, đó là nẻo đường “các việc từ bi thương xót”; đó chính là các việc Người đã làm. Ta gặp lại giáo huấn của Đức Giêsu: không phải là nói như Đức Kitô, nhưng là hành động như Người, mới được chiếu cố. Khi săn sóc những người “nhỏ bé nhất”, những người túng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những người trần truồng, những người ngồi tù (cc. 35-36), ta vừa làm giống như Đức Kitô vừa săn sóc chính Đức Kitô. Ta giúp đỡ Đấng một ngày kia sẽ là thẩm phán.
Khi nhắc đến một vài nhu cầu sơ đẳng, như thiếu thức ăn, thức uống, nơi ở, quần áo, và cả tình trạng bệnh tật và tù đày, Đức Giêsu không muốn cung cấp một danh sách rốt ráo. Người không yếu cầu điều không thể làm được, nhưng việc tặng ban và giúp đỡ vừa sức chúng ta.
Những ai đã dấn thân làm việc tốt, Đức Giêsu gọi họ là “những kẻ Cha Ta chúc phúc” và ban cho họ Vương quốc vĩnh cửu (c. 34). Thiên Chúa trong tư cách là Cha của Đức Giêsu đã chúc phúc cho họ.
* Kết luận (46)
Như một mặt trời, lòng tốt của Đức Giêsu và tình yêu của Người rọi tới họ, làm cho họ tươi nở trong niềm vui và hạnh phúc, và ban cho họ sự sống viên mãn (c. 46). Những gì họ đã trao tặng cho người thân cận với sức yếu đuối nay nhận được đầy tràn do Thiên Chúa ban: tình yêu, sự hiệp thông, sự sống và niềm vui.
Còn những người khác thì bị loại khỏi nhan Thiên Chúa. Lửa tượng trưng sự dày vò và đau đớn giáng xuống trên tất cả những ai bị loại không được nhận sự chúc phúc và sự sống của Thiên Chúa. Họ không được sống trong sự nhân lành chói chan của Chúa Cha và trong cộng đoàn những người có sự tốt lành này. Số phận của họ là cộng đoàn những kẻ ích kỷ và thất bại, là sự thù ghét căm hờn.
+ Kết luận
Bài diễn từ đầu tiên của Đức Giêsu bắt đầu bằng phúc lành (5,3-12), bài cuối cùng kết thúc bằng cảnh phán xét cuối cùng. Toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu được gom lại giữa hai giáo huấn quan trọng này, là những giáo huấn nói về những gì chúng ta có thể chờ đợi từ nơi Thiên Chúa và những gì chính chúng ta phải làm. Trong bài nói về phán xét cuối cùng, Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc trao tặng nhưng-không, tỏ bày lòng từ bi thương xót và sự tốt lành cho người anh em. Đấy là yếu tố chính, lãnh vực chuyên biệt để chúng ta hành động. Tuy nhiên, cũng không được quên những giáo huấn khác của Đức Giêsu. Nhận biết uy quyền của Người và quyền lực của Chúa Cha làm cho chúng ta có khả năng và thúc đẩy chúng ta hành động theo các tiêu chuẩn của Chúa Cha cũng là của Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tất cả những gì chúng ta là và có đều là của cải được ký thác. Chúng ta không được phung phí theo ngẫu hứng, nhưng phải sử dụng theo ý muốn của Thiên Chúa và nhằm phục vụ Ngài (25,14-30). Bài Tin Mừng hôm nay cho biết ý muốn của Thiên Chúa là gì và việc phục vụ được yêu cầu hệ tại điều gì: giúp cho một người ở trong tình cảnh quẫn bách là giúp chính Đức Giêsu. Việc giúp đỡ ấy khiến chúng ta được chấp nhận trong ngày phán xét để được đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Từ khước hoặc bỏ qua không giúp đỡ người khác sẽ khiến chúng ta bị kết án vào ngày phán xét và đưa chúng ta đến hình phạt đời đời.
2. Những người nghèo khó túng cực tự họ không thể tự đồng hóa với Đức Giêsu, nhưng chính Người tự đồng hóa với họ. Do đó, mỗi việc giúp đỡ dành cho những người nhỏ bé có một giá trị bền vững. Đàng sau mỗi người, và nhất là đàng sau mỗi người nhỏ bé, yếu đuối, bị thử thách, có Đức Giêsu đang hiện diện; trong con người này, Đức Giêsu gặp chúng ta và xin chúng ta giúp đỡ. Do Đức Giêsu, mỗi người nhận được một phẩm giá thường hằng, và hành động được thực hiện vì Người sẽ nhận được một giá trị vô song và quyết định đối với số phận của mình.
3. Đức Giêsu không nói: Ta đã bị bệnh và các ngươi đã chữa ta lành, Ta đã bị tù và các ngươi đã giải thoát Ta. Chữa lành bệnh tật và giải phóng thường vượt quá khả năng chúng ta. Tuy nhiên, để chia sẻ thì không cần nhiều của cải hoặc những tài năng đặc biệt, nhưng cần một trái tim rộng mở và có lòng thương cảm. Bởi vì có rất nhiều nhu cầu khác nhau, về thể lý, tâm lý hoặc tinh thần. Điều đầu tiên là phải có con mắt, trái tim và sự nhạy cảm; nhất là phải nhận ra nhu cầu của người anh chị em.
4. Bài học của đoạn Tin Mừng này đã rõ: Đến cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu. Những người công chính là những người đã chu toàn Luật Thiên Chúa, như chính Đức Giêsu đã diễn tả qua điều răn lớn nhất. Một lần nữa, ở đây, Người lại đồng hóa tình yêu đối với tha nhân với tình yêu đối với Thiên Chúa. Để những việc ta làm cho anh chị em được gọi là “tốt”, ta hãy làm việc ấy cho chính Thiên Chúa.
5. Tác giả Mt tin rằng Hội Thánh Kitô giáo không có một vị trí đặc biệt nào tại cuộc phán xét. Các Kitô hữu cũng bị xét xử bởi Con Người, Đức Chúa của họ, chỉ dựa trên các hành vi yêu thương họ đã làm, y như bất cứ người nào khác. Chính vì thế, họ chẳng có gì để tự mãn.
13.Chúa Kitô Vua--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Hầu hết các dân tộc thời xưa đều mơ ước và tin rằng vua của họ là con Trời, vì chỉ có con Trời mới là toàn năng công minh, thấu suốt mọi sự, mới giúp dân, ban ơn cho dân muôn phần tốt đẹp. Họ thường nói: Vua là Thiên tử, Trời có mắt, đèn Trời soi sáng, xin Trời phù hộ.
Bên Đông Phương, Khổng Tử đã thấy rõ Vua Nghiêu, Vua Thuấn, Vũ Vương, Văn Vương làm vua theo mệnh Trời, cho nên vương quốc thời cổ đại của các ngài thật lý tưởng. Kinh Thư viết: "Trời giúp dân, đặt vua cai trị, đặt thầy dạy dỗ: Thiên hựu hạ dân, tác chi quân, tác chi sư" (Thái hệ thượng 7).
Nhận biết Trời đặt mình làm vua, các ông hết lòng, hết sức vâng theo mệnh Trời để giúp dân. Vua Vũ Vương viết " chỉ vì phục vụ Thượng Đế giúp nhân dân bốn phương: "Duy kỳ khắc tướng Thượng Đế, sủng tuy tứ phương" (Thái thượng 7). Người ta đã gọi thời đó là Hoàng kim thời đại: dân được tôn trọng: "Lấy dân làm gốc: Duy dân bang bản". "Gốc kiên cố, nước được an ninh thịnh vượng: Bản cố, bang minh". "Khắp nơi bốn bể thông thương, hòa hợp: Tứ hải hội thông" (Ngũ Tử 4 và Vũ Công 30).
Do đó về sau, các Vua Tầu, Nhật và Việt Nam đều được gọi là con Trời: Thiên Tử, Quân Tử, tuy nhiều kẻ bất xứng. Bên Tây phương, Ba Tư, Ai Cập, Hy Lạp hay La Mã, đều coi vua là con Thần Trời.
Dân Do Thái khi chưa có vua, họ đòi Tiên tri Samuel: "Thế nào cũng phải có vua cho chúng tôi" (1Sm. 8,19). Và ai được chọn làm Vua đều được thánh hiến bằng xức dầu tấn phong, trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa: Thiên Chúa nói với Sứ ngôn Nathanael: Hãy đi nói với Đavít: "Ta là cha nó, nó sẽ là con Ta" (2Sm. 7, 5.14 và Tv. 2,7). Nếu Vua trung thành thực hiện sự công chính trong vương quốc và bảo đảm thịnh vượng cho toàn dân, Thiên Chúa sẽ bảo vệ Vua khỏi tay quân thù (Tv. 20, 21 và 45, 4-8).
Nhưng ngay cả Đavít được gọi là Thánh Vương và Salomon được khôn ngoan không ai bằng, vẫn đầy bất xứng, bất trung. Loài người dù Nghiêu, Thuấn, Đavít hay Tổng thống, Thủ tướng không thể làm vua xứng đáng với ơn Thiên Chúa, và sự mong muốn của nhân dân. Vì thế Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài đến cứu vãn nhân loại. Chỉ có Người Con duy nhất đó mới chính là vua thật của nhân loại đến muôn đời: Đó là Đức Giêsu Kitô. Vua Giêsu khác với vua thế gian ở hai lĩnh vực trần thế và nước Trời. Ở trần thế, Ngài là Vua như mục tử nhân lành, Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài I - Êz. 34, 11-17).
Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: "Tôi là Mục tử nhân lành, Tôi biết chiên Tôi và chiên Tôi biết Tôi" (Ga. 10, 10. 11-14) Tôi đến để cho chiên Tôi được sống và được sống dồi dào. Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên.Ngài còn là vua như tôi trung đau khổ: Ngài hạ mình khiêm tốn, nhường nhịn, dịu hiền, khả ái: "Đây là tôi trung Ta đã tuyển chọn, rất yêu dấu, rất đẹp lòng Ta. Thần khí Ta ngự trên Người. Người loan báo công lý trước muôn dân, Người không cãi vã, kêu to, chẳng ai nghe thấy tiếng Người ngoài phố xá. Người không đành bẻ gẫy cây lau đã giập, chẳng nỡ tắt tim đèn leo lét, cho đến khi Người đưa công lý toàn thắng và muôn dân hy vọng danh Người". (Mt. 12, 18-21).
Ngài làm Vua chỉ chuyên chăm lo phục vụ và hy sinh, Ngài nói: "Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người", "chứ không như vua thế gian lấy quyền thống trị dân bắt dân phục vụ mình" (Mt. 20, 25. 27-28)
Từ hơn 700 năm trước, tiên tri Isaia đã loan báo về Người Tôi Trung đau khổ đã hy sinh đến cùng cực: "Ngài đã bị khinh bỉ như đồ phế thải, bị trừng phạt đầy đọa, bị đâm, bị tra tấn, bị nghiền nát làm hy lễ tạ tội, Ngài chịu đựng, không mở miệng, ngậm câm như chiên cừu bị dẫn đến lò sát sinh ". Ngài bị liên lụy vì tội vạ hết thảy chúng tôi để giải án tuyên công nhiều người (Is. 53, 1-11) và Thiên Chúa đã đặt Ngài làm "Cố vấn kỳ diệu, Thần anh dũng, Cha đời đời, Vua bình an, quyền binh Ngài bao la vô tận, cho nước được bền vững kiên cố từ nay cho đến muôn đời, nhờ công minh đức nghĩa Ngài" (Is. 9, 5-6)
Ở nước Trời, Đức Giêsu là vua đích thực muôn đời vì Ngài đã hạ mình xuống làm tôi trung, làm mục tử, vâng lời Chúa Cha hiến mình chịu chết trên Thập giá để cứu chuộc muôn dân, đưa muôn dân về tôn vinh Thiên Chúa Cha trong nước vinh phúc hằng sống, "chính vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài, ban cho Ngài một danh hiệu trên mọi danh hiệu để trên trời dưới đất và hỏa ngục phải bái quỳ khi nghe danh thánh Giêsu" (Phil. 2,6).
Ở trên trời, "Ngài ngự trên ngai vinh quang, có các Thiên Thần hầu cận, để đón rước chúc phúc cho những ai cho kẻ đói ăn, khát uống, tiếp đón khách lạ, cho kẻ trần truồng mặc, thăm nom kẻ đau yếu, tù đầy. Ai có lòng trong sạch, hiếu hòa, hy sinh vì nước Trời, Ngài thưởng công cho họ được thừa hưởng vương quốc, được Cha Ngài ban phúc hưởng sự sống muôn đời. Còn kẻ không biết thương người đói khát, rách rưới, đau yếu, đau khổ, không biết hy sinh vì nước Trời bị Ngài loại bỏ, chúng phải vào chốn cực hình muôn kiếp" (Mt. 25, 31-46)
Lạy Chúa Giêsu là Vua, xin cho các vị lãnh đạo biết sống theo gương Chúa là Mục tử nhân lành và Tôi Trung đau khổ để họ sáng suốt phục vụ và hy sinh cho đồng loại. Xin cho con tận tâm chăm lo cho kẻ đói ăn, khát uống, giúp đỡ những ai rách nát nghèo hèn, an ủi những người đau khổ, bệnh tật để họ được sống lại trong tình thương muôn đời của Chúa. Amen.
14.Chúa Kitô Vua Vũ Trụ--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Khi nghe hay suy niệm về Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta có những ấn tượng gì? Chúng ta mong muốn điều gì nơi vị Vua này, hay những gì Ngài sẽ thực hiện cho chúng ta? Là Kitô hữu, chúng ta có thể tuyên xưng về Chúa Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa, là vị Vua của tình yêu thương cách mạch lạc, hào hùng. Nhưng thật ra trong tận cõi thâm sâu của lòng trí mình, Ngài có thực sự là vị Vua, là Chúa, là Chủ của cuộc đời chúng ta hay không?
“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” đó là sứ điệp mà Thánh vịnh 22 trong bài Đáp ca đã mời gọi chúng ta; trong mọi hoàn cảnh sống, hãy tin tưởng và ký thác cuộc sống cho Chúa. Hãy để vị Vua Giêsu Kitô chăm sóc, nuôi dưỡng, che chở bảo vệ chúng ta. “Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống.” Câu hỏi được đặt ra: Chúa Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, là Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo nên trời đất muôn vật, vậy thì tại sao Chúa lại vẫn để cho xảy ra khi có nhiều người đang còn vật lộn với cuộc sống nghèo đói, đau khổ trên trần gian này?
Chúa Giêsu trong Tin mừng của Matthêu soi sáng, mời gọi chúng ta, hãy mở lòng tìm kiếm, đón nhận vị Vua Kitô Vũ Trụ này và hãy tin nhận về chính vương quyền của Ðức Giêsu Kitô trong chính cuộc sống của chúng ta, cũng như những mối tương quan trong các hành động của chúng ta với vương quyền của Ngài. Vậy thì, chúng ta sẽ đi đâu để tìm gặp vị Vua Kitô và vương quyền của Ngài được thể hiện như thế nào? Thật ra, chúng ta sẽ không thể tìm thấy được hình ảnh của một vị Vua Kitô với vàng bạc, của cải, cung điện nguy nga tráng lệ; chúng ta cũng sẽ không bao giờ tìm thấy hình ảnh của vị vua, ngồi trên ngai tòa để cai trị, để bắt người khác phục lụy mình. Nhưng hôm nay chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng và đối diện với hình ảnh của một vị Vua Vũ Trụ nhân từ với trái tim của Người Mục tử giàu lòng thương xót, một vị Thiên Chúa Toàn Năng, đầy uy quyền trong những con người phận nhỏ, những con người đang phải chịu những hoàn cảnh đói khổ, yếu đau, tù đày…, trong những hình ảnh của những con người như vậy, Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta hãy khám phá, tin nhận Ngài là Cha, là vị Vua yêu thương của chúng ta, đồng thời chúng ta hãy yêu thương và sẻ chia những gì mà chúng ta đã lãnh nhận. Vì chính khi chúng ta làm một điều gì cho một trong những anh chị em bé mọn nhất là chúng ta đã làm cho chính Thiên Chúa.
Mattheu cũng đã minh chứng hầu giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về hậu quả và hệ lụy của sự bất công, nghèo đói, đau khổ và thiếu thốn trong cuộc sống trần gian này. Ai trong chúng ta cũng được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng, che chở và bảo vệ. Thế nhưng, con người đã không biết sử dụng những ơn lành mà Chúa ban để tôn vinh Chúa và đem lại ơn ích cho tha nhân. Hậu quả và hệ lụy của mọi đau khổ, nghèo đói… là do con người chỉ nghĩ đến những lợi ích cá nhân, do con người sống ích kỷ hẹp hòi với người đồng loại, do con người chỉ biết sống như chỉ có ngày hôm nay mà thôi. Còn tệ hại hơn khi con người nhẫn tâm bóc lột và “sống trên xương máu” của những con người nghèo khổ, bất hạnh và phận nhỏ.
Hình ảnh của một vị Vua tốt lành, vị Mục tử nhân hậu được vang vọng lại trong lời của Tiên tri Ezêkiel. Thiên Chúa luôn quan tâm, lo lắng, chăm sóc, bảo vệ, chở che, còn hơn thế, Ngài sẽ băng bó, chữa lành khi chúng ta bị thương tích hay sẽ đi tìm để đưa chúng ta về khi lầm đường lạc lối. Trong khi con người ngày nay thường chọn cho mình nhiều “Thần Tượng” để chạy theo, bắt chước, họ muốn lựa chọn cho mình nhiều vị vua như tiền bạc, của cải, danh vọng… Nhưng với chúng ta là những Kitô hữu, liệu chúng ta có muốn mở lòng để tin nhận Chúa Giêsu Kitô là vị Vua của lòng trí và cuộc đời của chúng ta hay không?
Thưa ACE, trong những ngày cuối năm phụng vụ, nhìn lại trong suốt thời gian qua, chúng ta có thật sự vui và hạnh phúc, khi chúng ta có vị Vua Giêsu, cùng với những ân phúc và vương quốc mà Ngài hứa ban cho chúng ta? Hạnh phúc đích thực của chúng ta không phải chỉ là những gì chúng ta đã lãnh nhận được, nhưng còn hệ tại nơi những gì chúng ta quảng đại, yêu thương, sẻ chia cho anh chị em vì danh Chúa. Xin Chúa Kitô Vua Vũ trụ, giúp chúng con tín thác hơn vào Ngài và xin cho chúng con luôn chọn Chúa là Vua là đối tượng duy nhất của lòng trí con, để con yêu mến, tôn thờ và phụng sự Chúa mỗi ngày trong suốt cuộc đời con. Amen.
15.Vua của đời tôi là ai?--Lm. Xuân Hy Vọng
Kính thưa quý cộng đoàn Phụng vụ! Hẳn ai trong chúng ta ít nhiều đã quen với hình ảnh vương đế oai phong trong truyền thuyết, cổ tích Việt Nam! Bên cạnh nhiều vị vua hiền đức, biết hy sinh tư lợi mà lo cho xã tắc, dân an, quốc mạnh; cũng không thiếu những thời vua chúa sa vào lạc thú, chỉ biết lợi ích cá nhân, mà chẳng lo cho dân nước!
Hôm nay, chúng ta mừng kính trọng thể lễ Chúa Ki-tô Vua với một tâm thế hồ hỡi khác mọi khi. Vì ai nấy đều lo giãn cách, giữ mọi biện pháp cơ bản hầu phòng bệnh dịch quái ác cô-vi, nhưng cũng không quên sống đạo, sống bác ái như vị Vua Giê-su đã dạy và làm gương cho chúng ta: hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu (x. Ga 15, 13). Hơn nữa, dịp lễ này khiến chúng ta nhìn lại, tự vấn và xác tín rằng: ngoài Vua Giê-su Ki-tô, còn ai hoặc điều gì đang cai trị đời tôi? Tôi biết không ai khác hoặc sự việc gì đó có thể làm vua đời tôi, nhưng vì thói hư tật xấu, vì thói đời bản thân mà tôi đang cho phép họ hay sự thể ấy kiểm soát và điều khiển đời tôi như thể vương đế?
Trước hết, Vua Ki-tô của chúng ta đích thật là chủ chiên lành, Người chăn dắt, nuôi dưỡng đoàn chiên, chứ không vì lợi ích cá nhân hay lợi ích nhóm mà loại bỏ đoàn chiên hoặc lãng quên chúng: "chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta...Ta sẽ chăm sóc và chăn dắt nó trong sự công chính" (x Ed 34, 15-16). Người là vị vua dám bỏ vinh quang trời cao, xuống gian trần, mặc lấy xác phàm con người. Người là vị vua dám ra đi tìm kiếm chiên lạc, bất luận nó bị thế nào. Người là vị vua trao ban sự sống bản thân để mọi người được sống và sống dồi dào (x. Ga 10, 10). Nếu chúng ta là thần dân của vị vua này, ắt hẳn chúng ta cũng noi gương Người, biết mưu cầu lợi ích tha nhân hơn là tư lợi, biết hy sinh cho tha nhân, biết chia san ân sủng, tài năng cho cộng đoàn, thay vì chôn dấu, v.v...
Mặc dù là vua muôn dân, muôn loài, nhưng Đức Giê-su Ki-tô khiêm hạ đến tột cùng (x. Pl 2, 6-11), và "Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự" (x 1Cr 15, 24. 28). Đường đường là vị vua cao sang, ai ai cũng phải phục tùng, bái quỳ, và được bảo vệ hết mực. Như chúng ta quen với hình ảnh thông thường: dân nước, quân lính phải bảo vệ vua, kể cả hy sinh mạng sống mình; nhưng ở đây ngược lại, Vua Giê-su hy sinh mạng sống mình, không những bảo vệ mà còn mang lại sự sống đời đời cho thần dân của Người. Vậy tôi đang là thần dân của Người, hay dân của thần nào khác? Thần ấy có thể là tiền tài, danh vọng, cái tôi, địa vị, quyền lợi cá nhân, hoặc một thú vui nào đó đang thống trị, giam hãm đời tôi. Nếu tôi là thần dân của Vua Giê-su, thì chắc chắn không ai khác, chỉ có Người làm chủ toàn bộ con người và cuộc đời tôi.
Sau cùng, Vua Giê-su Ki-tô là vị Vua nhân hậu và công bình như người mục tử tách chiên ra khỏi dê (x. Mt 25, 32). Người tách biệt chiên và dê dựa trên tình bác ái mà chính Người đã sống, đã làm chứng cho chúng ta, cũng như chúng ta được lãnh nhận sức mạnh ân sủng từ Người, ngỏ hầu thực thi giới răn yêu thương ấy. Chứ Người không dựa trên những tiêu chuẩn mà chúng ta hay mặc định như: thành quả, thành đạt để phân xử. Người cũng chẳng dựa trên văn bằng học vấn, trình độ khoa học, hay nghiên cứu để phân xử công bình. Đúng hơn, Người chỉ dựa vào việc chúng ta đã sống bác ái yêu thương cụ thể chưa, hay chỉ sống giới răn ấy trong tư tưởng, trong lý tưởng, trong lời nói, mà chưa thực hành bao giờ, hoặc nếu có thực hiện đi chăng nữa cũng chỉ hời hợt và thứ yếu! Vua Giê-su Ki-tô đòi hỏi thần dân của Người biết nhận ra sự hiện diện của Người nơi anh chị em, đặc biệt những ai bé mọn nhất, vì Người tự đồng hoá mình với họ: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40). Tương tự, nếu chúng ta không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là chúng ta không làm cho chính Vua Giê-su (x. Mt 25, 45).
Giờ đây, với tâm tình đơn sơ, tín thác, chúng ta cùng hiệp nhất dâng lời nguyện xin:
Lạy Vua Giê-su lòng con mến yêu
Xin trao đời con vào đôi tay nhân từ của Chúa
Xin mãi làm Vua khoan dung hướng dẫn đỡ nâng
Đừng để con trở nên "ông vua con" của mình
Đừng để ai đó cai trị, điều khiển trí lòng con
Đừng để sự gì chiếm lấy ngôi vị vương đế đích thật
Đừng để và đừng để con sa vào ý nghĩ làm "vua chúa" ai!
Trên hết, xin Người làm Vua vĩnh hằng đời con. Amen!
16.Chúa Kitô Vua--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ “Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ” đã được Đức Pi-ô XI thiết định vào năm 1925 để khẳng định niềm tin của Giáo Hội vào quyền tối thượng của Chúa Giê-su trên mọi người, mọi gia đình và mọi xã hội nhân loại. Trong bức Thông Điệp của mình “Quas primas” vào ngày 11 tháng 12 năm 1925, Đức Pi-ô XI đặc biệt tố cáo chủ nghĩa thế tục làm phương hại tận căn vương quyền của Đức Ki-tô.
Trước đây, Lễ Chúa Ki-tô Vua đã được ấn định vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng mười. Từ cuộc canh tân phụng vụ, Lễ này kết thúc năm phụng vụ, vì nó được trình bày như đỉnh cao của tất cả mầu nhiệm Đức Kitô.
Ed 34: 11-12, 15-17
Bài Đọc I, trích sách Ê-dê-ki-en, là dụ ngôn người mục tử nhân lành, trong đó ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Đấng Mê-si-a mà muôn dân mong đợi không chỉ là vua, nhưng còn là mục tử nhân lành chăn dắt dân Ngài.
1Cr 15: 20-26, 28
Bài Đọc II, trích thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, trong đó thánh Phao-lô gợi lên vương quyền của Chúa Ki-tô. Thiên Chúa đã quy phục mọi sự cho Ngài. Vào ngày chung cuộc, Chúa Con sẽ hoàn lại cho Cha Ngài thế giới mà Ngài đã vĩnh viễn tiêu diệt quyền lực của Sự Ác và Tử Thần.
Mt 25: 31-46
Tin Mừng trình bày Ngày Chung Thẩm, vào ngày đó Đức Vua vinh hiển mở cửa Nước Trời cho tất cả những ai đã yêu mến Ngài qua việc yêu thương anh chị em bất hạnh của họ, những người mà Đức Vua tình yêu tự đồng hoá mình với họ.
BÀI ĐỌC I (Ed 34: 11-12; 15-17)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào thời kỳ bi thảm nhất của lịch sử Ít-ra-en: những cuộc xâm lăng của đế quốc Ba-by-lon vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Sau khi vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-so đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 598 tCn, ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc đoàn người ưu tú đầu tiên bị dẫn đi lưu đày tại Ba-by-lon.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en tiên báo một tai họa còn lớn lao hơn. Tai họa này bất ngờ xảy đến mười một năm sau đó. Quân đội Ba-by-lon triệt hạ kinh thành Giê-ru-sa-lem và phá hủy Đền Thờ (588-587). Cuộc xuất chinh thứ nhất của quân đội Ba-by-lon là trừng phạt trong khi cuộc xuất chinh thứ hai chấm dứt vương quốc Giu-đa.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cực lực tố cáo hạnh kiểm của các vua Ít-ra-en là bất tài, vị kỷ, bất công: họ là những mục tử gian ác đã dẫn dân của mình đến chỗ phải ly tán khắp nơi. Danh xưng “mục tử” được dùng để gọi vua rất phổ biến ở Đông Phương, thuộc ngôn ngữ triều đình.
Khi tai họa bất ngờ giáng xuống trên dân tộc mình, ngôn sứ Ê-dê-ki-en từ ngôn sứ loan báo tai họa biến thành ngôn sứ loan báo niềm hy vọng: Sẽ đến ngày Đức Chúa đích thân cầm lấy vận mệnh của dân Ngài, Ngài sẽ là vị Mục Tử đích thật.
1. Sứ điệp hy vọng
Trước hết, sấm ngôn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en được ứng nghiệm ngay tức thời. Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ, Đền Thờ bị tàn phá, đám đông dân cư bị đi lưu đày. Đó là một thời kỳ thử thách, một thời kỳ “mây mù tăm tối” (hình ảnh truyền thống để gợi lên sự trừng phạt của Thiên Chúa): mỗi lần kinh thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm, mỗi lần một đoàn dân cư bị lưu đày sang Ba-by-lon. Sau khi Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm lần thứ hai, thành thánh bị san thành bình địa, một số lượng dân cư Giê-ru-sa-lem và Giu-đê trốn chạy sang Ai-cập: đàn chiên bị tản mác khắp nơi.
Ngôn sứ hứa Thiên Chúa sẽ can thiệp. Chính Ngài sẽ đích thân chăn dắt đàn chiên của mình: “Chúng có tản mác đến tận đâu vào một ngày mây mù tăm tối, thì Ta cũng sẽ cứu chúng ra”. Đó là lời hứa hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem và quy tụ lại ở quê cha đất tổ. Đức Chúa sẽ đích thân băng bó tất cả những ai bị thương tích, bồi bổ những ai bệnh hoạn trong cơn thử thách, Ngài “sẽ dựa vào công lý mà săn sóc”. Ngài sẽ trừng trị những mục tử gian ác, những kẻ cậy quyền dựa thế chà đạp những kẻ nghèo hèn thấp cổ bé miệng.
Sứ điệp chứa chan hy vọng gởi đến cho những kẻ sống kiếp lưu đày và những nạn nhân xấu số của những cuộc xâm lăng, nhưng cũng tiên báo một sự thay đổi sẽ xảy đến trong lịch sử Ít-ra-en: sau cuộc hồi hương trở về, vương quyền sẽ không còn được khôi phục lại nữa. Chỉ một mình Đức Chúa sẽ lãnh đạo dân Ngài.
2. Tôn giáo tình yêu
Qua dụ ngôn người mục tử nhân lành, ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi sứ điệp còn quan trọng hơn. Những mối liên hệ giữa Thiên Chúa và tín hữu của Ngài được trình bày như những mối liên hệ đầm ấm thân tình; những hình ảnh chất chứa biết bao âu yếm, sôi nổi, sống động như một điệp khúc: “Con nào mất, Ta sẽ lo tìm kiếm; con nào lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh hoạn, Ta sẽ bồi bổ; con nào béo khỏe, Ta sẽ giữ gìn”.
Ở nơi dụ ngôn người mục tử nhân lành ẩn chứa một tôn giáo tình yêu. Đức Chúa, Đấng trừng phạt dân Ngài, nhưng không quên họ và yêu thương họ, là một Thiên Chúa chí công vô tư: Ngài biết “phân xử giữa chiên và chiên, giữa dê và cừu”. Đây là hình ảnh mà thánh Mát-thêu lấy lại trong Tin Mừng về Ngày Chung Thẩm: chính trên những tiêu chuẩn tình yêu này mà vị Vua Mục Tử tuyên án.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 20-26, 28)
Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô, được thánh Phao-lô loan báo Tin Mừng, đa số là người gốc Hy-lạp, ngay cả những người không phải gốc Hy lạp cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Việc kẻ chết sống lại đặt ra cho họ một vấn nạn. Tại sao thân xác vốn ngăn trở linh hồn lại được thăng hoa cách viên mãn, vốn ngục tù giam hãm linh hồn lại được sống lại?
Đối với tư tưởng Do thái quan niệm con người như toàn thể, việc kẻ chết sống lại được cắm rễ trong một niềm tin truyền thống từ nhiều thế kỷ. Thánh nhân dành phần kết của bức thư để trả lời cho những biện bác mà cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô nêu lên.
1. Một sự liên đới giữa sự phục sinh của Đức Giê-su và sự phục sinh của chúng ta
“Đức Giê-su đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu”. Chúng ta đều phải chết vì thân phận tội lỗi của chúng ta, liên đới với sự chết và tội lỗi ở nơi A-đam, nhưng được sống lại nhờ liên đới với Đức Ki-tô, Ngài là Đầu của toàn thể nhân loại được tái sinh, Trưởng Tử của đoàn người đông đúc được sống lại. Theo Ngài và nơi Ngài toàn thể con người của chúng ta được cứu.
2. Vương quyền của Đức Giê-su
Lúc đó, thánh nhân triển khai tư tưởng của mình trong một thị kiến vĩ đại về ngày chung cuộc. Sau khi đã tiêu diệt dứt khoát mọi thế lực Ác Thần và cuối cùng là Tử Thần, Chúa Con sẽ trao lại cho Chúa Cha vương quyền mà Ngài đã được trao ban. Như vậy mọi sự đều hoàn tất. Sứ mạng của Chúa Con được chu toàn. Lúc đó, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.
TIN MỪNG (Mt 25: 31-46)
Năm phụng vụ hoàn tất trên thị kiến vĩ đại mà truyền thống Ki-tô giáo gọi “Ngày Chung Thẩm”. Thị kiến này đóng lại bài diễn từ cánh chung, trong đó Đức Giê-su gợi lên những viễn cảnh nối tiếp nhau về ngày cùng tận của thế giới và ơn cứu độ của mỗi người.
1. Con Người
Bức tranh được gợi hứng từ thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: Con Người ngự giá mây trời mà đến và Thiên Chúa trao cho Người “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Đn 7: 13-14).
Ngai vinh hiển, sự hiện diện của các thiên thần vào ngày chung thẩm, là những nét đặc trưng của truyền thống ngôn sứ và các tác giả khải huyền. Nhưng hoạt cảnh được soi sáng chủ yếu bởi thuật ngữ “Con Người” được đặt ở đầu. Tước vị “Con Người” theo nguyên ngữ: “con của loài người”. Đây là diễn ngữ Kinh Thánh được gặp thấy trong sách Ê-dê-ki-en, đồng nghĩa với “một phàm nhân”: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây” (Ed 2: 1). Trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “Con Người” là một nhân vật có nguồn gốc thiên giới, nhưng không kém phàm nhân.
Như vậy, Đức Vua, được gọi “Con Người”, giáng trần để xét xử trần gian nhắc nhớ, trước tiên Ngài cùng chia sẻ nhân tính của chúng ta. Nét đặc trưng này ngự trị toàn bộ hoạt cảnh: Vua -Thẩm Phán muốn liên đới với anh em đồng loại của mình, đặc biệt những kẻ nghèo khổ thua thiệt và bênh vực họ, đến độ Ngài tự đồng hoá mình với họ.
Cựu Ước thường hằng cho thấy Thiên Chúa đứng về phía những kẻ thấp cổ bé miệng bị áp bức thua thiệt. Chính Ngài đích thân đảm nhận việc báo oán cho họ. Trong Xuất Hành, Thiên Chúa một cách nào đó tự đồng hoá mình với những người khốn khổ, bị áp bức (Xh 2: 23-25). Sách Gióp mô tả những nguyên do Thiên Chúa trừng phạt nhân danh công lý theo những từ ngữ loan báo Tin Mừng:
“Anh đòi anh em nộp của cầm mà chẳng có lý do,
lại còn lột cả áo che thân của họ.
Kẻ mệt nhoài, anh chẳng cho nước uống,
người đói lả, anh từ chối bánh ăn.
Anh trao đất đai cho kẻ có quyền hành,
và cho người thần thế được định cư.
Các quả phụ, anh đuổi về tay trắng,
các cô nhi, anh bắt phải bó tay.
Vì thế, cạm bẫy bủa vây anh tứ phía
làm cho anh bất chợt phải sợ hãi kinh hoàng” (G 22: 6-11).
2. Mến Chúa và yêu người
Nét tiêu biểu của Ki-tô giáo đó là “Mến Chúa và yêu người là một”. Nhưng ai có thể công bố “mến Chúa và yêu người là một”, nếu không là Đấng hiệp nhất ở nơi Ngài Thiên Chúa và nhân loại chúng ta?
Trong hoạt cảnh Ngày Chung Thẩm, việc chọn lựa giữa những người công chính và quân vô đạo được thực hiện trên tiêu chuẩn tình yêu, minh họa hùng hồn nhất nét tiêu biểu của Ki-tô giáo: “Mỗi lần các ngươi làm hay không làm như thế cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm hay không làm cho chính Ta vậy”.
3. Bối cảnh lịch sử
Được đặt vào trong bối cảnh lịch sử của nó, đoạn Tin Mừng này đã có thể có âm vang ngay tức thời. Đức Giê-su đã từng gọi các môn đệ Ngài là những “kẻ bé nhỏ” (Mt 10: 42) hay “anh em Thầy” (Ga 20: 17). Vào lúc thánh Mát-thêu ghi lại đoạn văn này, những người Kitô hữu đang phải sống trong cảnh bị bách hại, chịu những gian truân tứ phía, bị tù đày. Đức Giê-su dự phần vào những nỗi truân chuyên của họ. Không phải chính trên đường Đa-mát Đức Giê-su đã nói với Phao-lô, kẻ bách hại các tín hữu của Ngài: “Tại sao ngươi bách hại Ta?” (Cv 9: 4) sao? Chắc chắn đoạn Tin Mừng hôm nay đã đem đến một niềm an ủi lớn lao biết là ngần nào cho những người Ki-tô hữu đang sống trong cảnh bách hại và cho những ai giúp đỡ họ hay gia đình của họ. Tuy nhiên, bản văn có một tầm mức hoàn vũ hơn nhiều.
4. Tầm mức hoàn vũ
“Các dân thiên hạ sẽ tụ họp trước mặt Người”. Vị Vua-Thẩm Phán ngỏ lời với hết mọi người. Đức Giê-su đã lật đổ những viễn cảnh của sách Lê-vi, theo đó yêu người thân cận chỉ giới hạn ở nơi đồng bào của mình, để công bố chiều kích “tứ hải giai huynh đệ” của Luật Đức Ái. Tác giả thư gởi tín hữu Do thái khẳng định rằng Đức Giê-su đã trở nên anh em của tất cả mọi người: “Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa… Thật vậy, Đấng thánh hóa là Đức Giê-su, và những ai được thánh hóa đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em, khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em…” (Dt 2: 9-17). Hơn nữa, chính Đức Giê-su đã công bố: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 50).
Đức Giê-su nối kết diễn từ “Cánh Chung” với diễn từ “Các Mối Phúc Thật”, đồng thời đem đến một khía cạnh mới mẽ. Ngài mở rộng sự tuyển chọn của Thiên Chúa ở bên kia Ki-tô giáo nói riêng. Tất cả những ai thực hành Đức Ái huynh đệ sẽ được định vị trong tinh thần của Đức Ki-tô: họ sẽ nhận được gia sản và dự phần vào những lời chúc phúc của Chúa Cha.
Đây là ân ban trực tiếp của mầu nhiệm Nhập Thể. Cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời không là một giai đoạn tạm thời: Thiên Chúa tháp nhập vĩnh viễn vào nhân loại, và qua nhân loại, Ngài cho chúng ta được tháp nhập vào Ngài.
17.Thiên Chúa đã trở nên giống như bạn và tôi--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước. Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến ngài càng khó quyết định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu nữa mình hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự để hai người có một tình yêu đích thực và trọn vẹn.
Câu chuyện bỏ ngỏ ở đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo ôn”, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”. Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một vì Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta đến nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một “Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài. Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta. Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn, qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản thân để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?
Hôm nay, là ngày lễ Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta, Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen.
18.Quyền lực của đồng tiền--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một chú rể trước khi tập sự cho hôn lễ, đã bí mật gặp vị mục sư và đưa ra lời đề nghị.
- Tôi sẽ đổi 100 đô la lấy việc bỏ các từ ‘yêu thương, tôn trọng, vâng lời và chung thủy với cô ấy mãi mãi’ trong lời thề kết hôn.
Vị mục sư đồng ý và nhận lấy 100 đô la với vẻ hài lòng.
Hôm sau, vào buổi lễ chính thức, vị mục sư nhìn thẳng vào mắt chàng trai, mỉm cười nhẹ nhàng và chậm rãi nói:
- Chàng trai, bạn có hứa sẽ luôn sẵn sàng phủ phục mình trước mặt cô gái đứng trước mặt đây, vâng theo mỗi mệnh lệnh của cô ấy, mang đồ ăn sáng đến bên giường cô ấy vào mỗi buổi sáng trong suốt cuộc đời của bạn. Đồng thời thề trước mặt Chúa sẽ không bao giờ thèm nhìn bất kỳ người phụ nữ nào khác cho đến khi cả hai không còn trên cõi đời này nữa không?
Chú rể nuốt nước bọt và nhìn xung quanh, đáp lại bằng một giọng rất nhỏ nhẹ:
- Vâng.
Sau nghi thức, chàng trai ngay lập tức bám chặt lấy vị mục sư và rít lên:
- Tôi nghĩ chúng ta đã có một thỏa thuận?
Lúc này, vị mục sư mới đặt lại vào tay chú rể tờ tiền cũ và thì thầm:
- Cô ấy đã đưa cho tôi 200 USD cơ!
Chưa bao giờ chúng ta thấy quyền lực của đồng tiền lên ngôi như ngày hôm nay. Có tiền thì có chức. Có chức thì có tất cả. Có tiền có thể sai khiến. Sai khiến người khác làm cả những chuyện bất chính hay phi đạo đức. Có tiền có thể bẻ cong công lý. Đồng tiền có thể giúp người có tội trở thành không!
Có lẽ vì đồng tiền có một sức mạnh như thế nên người người đi kiếm tiền. Kiếm tiền bằng mọi cách. Kiếm tiền bằng mọi thủ đoạn miễn sao có tiền! Thực tế, ai đã vào đời, bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh đua với người đời mà không một lần cảm nghiệm cái mãnh lực của đồng tiền? Đồng tiền nối liền với khúc ruột của con người, nó cũng chính là cái nguyên do đưa đến buồn vui sướng khổ của nhân loại? Cũng chính đồng tiền đã đưa đẩy con người tới thành công hay thất bại, được thiên hạ nể vì, nhân nhượng hay khinh khi coi thường! Vì thế tiền bạc đã biến thành một thứ quyền lực vô song, có ảnh hưởng trong cuộc sống con người. Thế sự thăng trầm, con người thay lòng đổi dạ, xã hội đảo điên, luân thường đạo lý bị xáo trộn, tất cả cũng vì ảnh hưởng của đồng tiền.
Đồng tiền thực sự có một sức mạnh và quyền lực nhất định trong cuộc sống. Nó mang đến hạnh phúc cho con người nếu con người tạo ra nó từ sự chính nghĩa, nhưng nó cũng có thể làm sa ngã hoặc huỷ hoại một nhân cách khi ai đó tôn sùng nó hơn tất cả mọi điều khác trong cuộc đời. Cái giá phải trả cho sự mù quáng trước "Quyền lực của đồng tiền" là đánh mất bản thân, tình thân, tình yêu - những điều mà đồng tiền không bao giờ có thể “mua” lại được.
Hôm nay lễ Chúa Kitô Vua, Giáo hội nhắc nhở chúng ta còn có một giá trị quý hơn tiền, hơn danh lợi thú là có được Đức Kitô ngự trị. Đồng tiền sẽ không mua được Nước Trời. Đức Kitô thì hứa ban cho chúng ta sự sống đời đời. Đồng tiền không mang lại bình an cho con người, nhưng Đức Kitô là niềm hoan lạc nếu chúng ta để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc đời. Đồng tiền khiến chúng ta sống ích kỷ, hưởng thụ. Đức Kitô biến chúng ta thành những con người có ích cho tha nhân với thái độ phục vụ quảng đại và vô vị lợi.
Đồng tiền là nguyên nhân gây nên những chia rẽ, tranh chấp, hận thù. Đức Kitô là nguyên lý cho sự hiệp nhất bình an. Chiếm được đồng tiền thì con người bo bo giữ lấy trong ích kỷ, xa lánh mọi người. Chiếm được Đức Kitô thì con người sẽ chia sẻ đến cho muôn người. Thế nê, có Đức Kitô trong cuộc đời là có bình an, có hạnh phúc, có niềm vui. Vắng Đức Kitô sẽ chỉ còn những tranh chấp, xa lánh và đố kỵ lẫn nhau.
Ước gì chúng ta luôn tìm kiếm Đức Kitô và dành cho Ngài vị trí số một trong cuộc đời. Ước gì loài người chúng ta hãy hãnh diện là loài làm chủ đồng tiền chứ không phải là nô lệ của đồng tiền. Có chăng là biết quy phục một mình Đức Kitô mà thôi.
Xin Chúa giúp chúng ta biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng ta luôn can đảm chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những hào nhoáng của danh lợi thú mau qua. Amen.
19.Khi tình người mất - bạo lực lên ngôi--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mỗi ngày chỉ cần lướt qua vài trang báo là có thể thấy vô số tin "tức" về hành vi bạo lực trong xã hội, mà nguyên nhân đâu có gì to tát: va quệt xe cộ ngòai đường, lời qua tiếng lại trong quán cà phê... thế là đánh nhau; một cái "nhìn đểu" cũng đủ là nguyên nhân giết người. Không thể không tự hỏi: vì sao bây giờ người ta nhục mạ nhau, đánh nhau, giết nhau... dễ dàng đến thế?
Dư luận Việt Nam thời gian qua rất phẫn nộ khi đọc được những dòng tin trên Facebook của một người có nick name "Kẹo Mút Chơi Bời" khoe khoang rằng: "Chúng tôi vừa đâm một ông già gần 60 tuổi... khả năng chết."
Sau đó lại thêm: "Tin buồn! Chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin, cụ già 60 tuổi đêm qua chúng tôi đâm xe máy đã củ tỏi hồi 17g07 ngày 02.11. Anh em phang lô đề nhiệt tình đi. Lão sinh năm 1953."
Trước hiện trạng này, có người cho rằng một số thanh niên Việt Nam hiện nay không hề thấy lương tâm cắn rứt khi làm thiệt hại đến vật chất lẫn tinh thần của người khác, trái lại còn tỏ ra vui mừng, đặc biệt trong trường hợp này.
Tin từ Công an Thành phố Yên Bái cho biết người có nickname "Kẹo mút chơi bời" trên Facebook đã tới trình diện cơ quan công an ngày 10/11 theo giấy triệu tập để làm rõ hành vi gây phẫn nộ "lên Facebook khoe tông xe chết người".
Đúng như xác minh của Cơ quan Công an Thành phố Yên Bái, người có nickname "Kẹo mút chơi bời" trên Facebook tên thật là Nguyễn Văn Linh (SN 1991, thị trấn Phong Hải, huyện Bảo Thắng - Lào Cai).
Theo Luật Sư Phạm Thanh Bình của công ty luật Hồng Hà thì "Kẹo Mút Chơi Bời" dù không phải là thủ phạm gây tai nạn (là người ngồi sau người gây tai nạn), nhưng không chịu đưa nạn nhân đi cấp cứu gây nên cái chết của ông này thì có thể bị xem xét trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, tội danh dành cho người đồng phạm đó là "không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng."
Phải chăng xã hội ngày hôm nay đang đánh mất tình đồng loại bằng thái độ dửng dưng, thiếu trách nhiệm và vô cảm trước những bất hạnh của tha nhân? Có lẽ chủ nghĩa "Mackeno" đã ăn sâu vào tâm thức người trẻ hôm nay. Họ không còn tính nghĩa hiệp. Họ không còn nghĩ đến việc phải ra tay giúp đỡ tha nhân khi cần. Họ thích sống cho riêng mình và tìm tư lợi cho cá nhân hơn là dám sống cho lợi ích tha nhân. Họ không còn dám sống "mình vì mọi người" mà chỉ còn đòi người khác "mọi người vì mình" mà thôi.
Xã hội hôm nay dường như đã mất tình liên đới nên thiếu những nghĩa cử cao đẹp của tình người như: "lá lành đùm lá rách" hay "chị ngã em nâng". Ngày xưa cha ông ta đã tìm được sự nâng đỡ của đồng bào, dẫu rằng nước có mất nhà có tan, nhưng vẫn tìm được niềm vui nhờ sự yêu thương đùm bọc của tình làng nghĩa xóm như câu ca dao xưa đã nói:
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng".
Ngày nay điều đó đã thay vào bằng sự vô cảm như lời tâm sự của chị Ngô Lan Chi thổ lộ trên trang facebook cá nhân: "Xã hội ngày càng phát triển, những giá trị đạo đức tốt đẹp đang bị các bạn trẻ dẫm nát bằng những phát ngôn gây sốc, bằng những việc làm mà không ai có thể tượng tượng ra. Tôi nghĩ lối sống vô cảm của một bộ phận bạn trẻ đang ngày càng biến tướng và có xu hướng lan rộng đối với những người trẻ xung quanh".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải sống tình liên đới với tha nhân, không chỉ vì có chung một Cha trên trời nên "tứ hải giai huynh đệ", mà còn vì con người là "hình ảnh Thiên Chúa". Chính Chúa đã tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Chúa mời gọi chúng ta: ai tiếp rước họ là tiếp rước chính Chúa. Ai giúp đỡ họ là giúp đỡ chính Chúa. Ngược lại, Chúa cũng sẽ luận phạt vì chúng ta đã từng khước từ thi ân cho những con người cùng khổ đó.
Thực vậy, trong ngày phán xét, Chúa không hỏi về bằng cấp của chúng ta cao hay thấp. Chúa không xét duyệt chúng ta dựa trên địa vị trần thế của chúng ta. Chúa phán xét theo tinh thần bác ái mà chúng ta đã dành cho tha nhân. Vâng, chúng ta đều phải trả lẽ trước mặt Chúa về tất cả những hành vi của mình. Nhưng công hay tội tuỳ thuộc vào lòng bác ái chúng ta có hay không trong những lời nói và việc làm của mình. Chúa đã từng chê trách thái độ vô cảm của những biệt phái, và của những thầy tư tế khi để mặc người bị nạn trên đường đến Giêricô. Chúa cũng từng dùng dụ ngôn để răn dạy thái độ dửng dưng trước bất hạnh của đồng loại qua dụ ngôn "người phú hộ và Lagiaro". Chúa cũng sẽ luận tội nếu chúng ta cũng thiếu trách nhiệm và sống thiếu tình liên đới qua đời sống yêu thương và phục vụ tha nhân.
Chúa Giêsu là Vua, nhưng Ngài đã cúi mình phục vụ tha nhân. Ngài tự hoà nhập với con người. Ngài đồng hành với con người. Ngài chia sẻ phận người nổi trôi với con người. Ngài đã đến để phục vụ và hiến mạng sống vì hạnh phúc tha nhân. Ngài còn mời gọi chúng ta "ai muốn làm lớn hãy cúi mình phục vụ anh em".
Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống cao đẹp cho dẫu có thiệt thòi vì đi ngược lại với lối sống của thế gian. Xin cho chúng ta luôn can đảm làm chứng cho tình yêu bất diệt của Chúa là dám "thí mạng sống mình vì người mình yêu" và biết yêu thương tha nhân như chính mình. Amen.
20.Nhân quả--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái Mt 25,33).
"Nhân" là nguyên nhân, "Quả" là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt do mầm ấy phát sinh. Trong nhân có qủa và trong qủa có nhân. Chính trong Nhân hiện tại có hàm chứa cái Qủa tương lai. Nhân thế nào thì Qủa thế ấy. Thưởng phạt ngày sau đều tùy thuộc vào những hành động tốt hoặc xấu của chúng ta thực hiện ngày hôm nay. Nói chung, ai trong chúng ta cũng muốn được hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Chúng ta biết con đường lên thiên đàng là thiên đàng mà. Nếu chúng ta muốn được hưởng an lạc ngày sau, chúng ta phải sống vui tươi và an bình ngày nay. Biết rằng cuộc đời ai cũng có những sự chen lẫn giữa vui sướng và khổ sầu. Sự khổ đau trong cuộc sống không phải luôn luôn là sự tiêu cực. Vì sự đau khổ cần thiết như là những thử thách để giúp ta tinh luyện cho cuộc đời sáng thêm. Ví như lửa thử vàng, gian nan thử đức vậy.
Kết thúc Năm Phụng Vụ, Giáo Hội mừng Đại Lễ Chúa Kitô Vua, Vua Các Vua, Chúa Các Chúa. Chúa Giêsu là trung gian giao hòa giữa trời với đất. Ngài đã nhập thể để rao truyền tin mừng cứu độ. Chính Ngài là trung tâm và là cốt lõi của tất cả mọi sự hiện hữu. Ngài mở lối dẫn chúng ta vào hưởng niềm vui hạnh phúc Nước Trời. Con đường Chúa đi là con đường yêu thương trong khổ giá. Muốn lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta phải dõi theo lối bước của Ngài. Hai giới răn nồng cốt tóm kết tất cả lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em như chính mình. Đức yêu thương được thể hiện qua sự giúp đỡ, chia sẻ, thăm viếng và sống tình bác ái với nhau. Con đường đức ái là con đường tuyệt hảo dẫn vào quê trời.
Chúa Giêsu dẫn bước chúng ta vào cuộc sống thật ngày sau qua dụ ngôn phân định Chiên và Dê. Chiên và dê chỉ là hình ảnh tượng trưng gởi theo một sứ điệp nói về sống bác ái vị tha. Chiên dê, phải trái, bên này bên kia hay thiên đàng hỏa ngục là ranh giới để phân biệt tốt xấu, lành dữ và thưởng phạt. Phúc thay những ai được xếp vào hàng bên phải: Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ (Mt 25, 34). Không phải tự nhiên hùa theo đám đông mà được ơn cứu độ. Mỗi người phải phấn đấu từng ngày để nên trọn lành. Chúng ta có thể quan sát hình ảnh một thửa ruộng trong đó có lúa và cỏ dại. Khi chủ ruộng vun xới chăm sóc cả hai lúa và cỏ đều được hưởng phân bón và tưới gội đồng đều. Lúa và cỏ cùng chung hưởng nắng ban mai, sương sớm và mưa nguồn. Phát triển tốt nhưng kết qủa thì khác nhau, lúa trổ sinh bông hạt và được thu hoặch cho vào kho lẫm. Còn cỏ dại bị người ta chà đạp và thu gọn đem thiêu đốt.
Theo giáo lý Nhà Phật, nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả và nếu không có Quả thì không có Nhân. Cũng chính trong cái Quả hiện tại, đã có hình bóng của Nhân quá khứ. Vì thế, mỗi vật đều có thể gọi là nhân hay quả: Đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân và qủa tiếp nối nhau và đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền. Nhân qủa đi đôi và ảnh hưởng tới nhau như gieo gió thì gặt bão. Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi. Đôi khi chúng ta tự hỏi rằng tại sao những người làm ác mà họ vẫn sống phây phây lại giầu có sung sướng, trong khi những người hiền lành, đạo đức lại rơi vào cảnh túng quẫn và khổ đau. Câu trả lời là đời sống tạm này chưa kết thúc, chúng ta chưa thể kết luận thế nào là hạnh phúc thật.
Một Nhân không thể sinh ra Quả, mà phải nhờ vào môi trường vạn vật chung quanh. Sự vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có một Nhân nào có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều Nhân khác. Sự liên đới trùng trùng điệp điệp giữa muôn loài làm thành bước tiến của thiên nhiên vạn vật. Không có thụ tạo nào đứng riêng biệt một mình trong vũ trụ. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra gì được cả, nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng, đất nước và nhân công. Có biết bao nhiêu yêu tố để hình thành một chuỗi Nhân Quả. Trong bất cứ một loài thụ tạo nào cũng có mỗi liên hệ chằng chịt với thế giới hiện hữu chung quanh.
Về phương diện tinh thần, những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tính tình tốt hay xấu trong hiện tại. Tư tưởng và hành động quá khứ là Nhân, tính tình và nếp sống trong hiện tại là Quả. Tính tình và nếp sống hiện tại là Nhân, để tiếp tục tạo ra hành động trong tương lai là Quả. Nhân Qủa tiếp nối không ngừng qua những hành vi chúng ta thực hiện hằng ngày. Chúng ta có thể thay đổi và sửa sai những lầm lỡ trong qúa khứ để tạo thành Nhân tốt. Không bao giờ trễ, nếu chúng ta biết bắt đầu lại. Mỗi ngày chúng ta có thể tạo nhân tốt, hậu qủa sẽ tốt. Sống trong xã hội, con người phải tương trợ và có ảnh hưởng lẫn nhau. Tục ngữ nói: Gần mực thì đen, gần đèn thị rạng. Một người làm phúc, muôn người đều được hưởng nhờ. Một cây trổ hoa, cả vườn cây thơm hương.
Sống bác ái vị tha là một bổn phận cao quý của con người. Chúng ta thường gặp thấy các Tăng Ni Phật Giáo đi khất thực. Các Tỳ-kheo đi một mình hay từng nhóm, không đứng trước cửa chợ mà đi theo thứ tự, từ nhà này sang nhà khác, không phân biệt, mắt nhìn xuống và yên lặng đứng đợi trước mỗi cửa nhà để xem thức ăn có được đặt vào bình bát không. Khất thực là xin vật thực của người đời để nuôi thân mà cũng còn có bổn phận nhắc nhở chúng sinh làm việc phúc đức. Trong Đạo Công Giáo, Kinh Bổn có dạy thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối: Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Cho khách đỗ nhà. Chuộc kẻ làm tôi. Chôn xác kẻ chết. Thương linh hồn bảy mối: Lấy lời lành mà khuyên người. Mở dạy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Đây là những mối phúc quan trọng giúp đỡ tha nhân về vật chất và tinh thần. Thật ngạc nhiên khi chúng ta nghe Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nói về ngày phán xét. Ngài phán xét về thực hành đức yêu thương hơn là về những sa ngã phạm tội khác. Được thưởng hay bị phạt đều tùy thuộc vào việc thực hành mười bốn mối này.
Con người không thể nên tốt một mình, nhưng phải tương trợ lẫn nhau mà sống. Người ta thường nói: Thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba yếu tố kết thành sự thành công. Chúng ta cần có tha nhân để cùng chia sẻ nâng đỡ, cần có cuộc sống xã hội để cộng tác xây dựng và cần có người đồng hành để chung vai sát cánh gánh vác công việc. Ngày phán xét sau cùng, thẩm phán sự sống sẽ hỏi chúng ta về sự liên đới Nhân Qủa giữa người với người. Với những người tạo Nhân tốt qua việc bác ái, sẽ được nghe những lời an ủi: Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước (Mt 25, 35).
Bất cứ vị thánh nào cũng có trái tim yêu thương rộng mở. Các Ngài biết chia sẻ và dâng hiến. Hiến dâng cuộc đời cho Chúa và phục vụ tha nhân. Không có sự liên đới với tha nhân, chúng ta khó có thể nên trọn lành. Tha nhân tốt hoặc xấu vẫn có thể sẽ giúp chúng ta nên tốt lành. Chúng ta có thể tìm tựa nương đức ái nơi những người khốn cùng, nghèo đói, cô đơn, bệnh hoạn, tù đầy và thất vọng. Họ chính là hình ảnh của Đấng đã dám thí mạng vì yêu. Giúp đỡ những kẻ bé mọn và cùng khốn nhất là chúng ta đang làm cho chính Chúa, Chúa Giêsu đã phán: Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta' (Mt 25, 36).
Thật đáng phải run rẩy và sợ hãi khi chúng ta phải đối diện với sự phán xét sau cùng. Thiên Chúa nhân từ nhưng công bằng vô cùng. Giờ phán xét sẽ không có một ai khác chống lưng cho chúng ta. Chúng ta cũng không còn điểm tựa nào khác để biện hộ. Sự thật phơi bầy trước tôn nhan chói lòa của Tạo Hóa. Chúng ta gieo Nhân nào thì sẽ được gặt Qủa đó. Trong cuộc lữ hành trần thế, biết bao lần chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau khổ, đói khát và cùng quẫn của anh chị em, giờ đây chúng ta phải đối diện: Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: 'Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng (Mt 25,41).
Ngày phán xét, Chúa sẽ không chất vấn chúng ta về bao nhiêu việc vĩ đại đã thực hiện. Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ: Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời (Lc 10,20). Thiên Chúa không đếm bao nhiêu giờ chúng ta đã đọc kinh, cầu nguyện, lần hạt, tụ họp sinh hoạt… Chúa sẽ nhìn xem trái tim của chúng ta đã mở rộng yêu thương đến mức nào. Chúng ta đã chia sẻ gì cho những kẻ bé mọn nhất của Chúa. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta qua ý muốn của Chúa, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Chúa lại dành quyền cho chúng ta lựa chọn. Hạnh phúc thay những ai được Chúa cho đứng về phía bên phải: Còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu" (Mt 25,46).
Lạy Chúa, đã rất nhiều lần chúng con đã thưa rằng: Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu? (Mt 25,44). Chúa trả lời: Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta'. (Mt 25,40). Xin Chúa khơi dậy lòng yêu thương bác ái nơi tâm hồn, để chúng con biết cùng chia sẻ. Chúng con cảm tạ danh Chúa muôn ngàn đời. Amen.
21.Vua mục tử--Lm. Văn Hào SDB
“Ngài sẽ ngồi trên ngai vinh hiển, như một mục tử” (Mt 25,31-32).
Những công trình nghệ thuật và văn chương cổ điển, như những bức họa của Michelangelo tại đền thờ Sixtine hay của họa sĩ Dante, rất cuốn hút người xem với những cảnh vẽ về ngày phán xét sau cùng. Sự pha trộn những nét tương phản được diễn tả rất sống động, như sự đối kháng giữa thiên thần và quỷ dữ, giữa lửa và mây, giữa những con người vui sướng vì được cứu thoát và những kẻ bị chúc dữ đầy khiếp sợ. Các bức họa muốn diễn bày ý tưởng, là trong ngày chung thẩm, người tốt lành sẽ được ân thưởng, và kẻ gian ác sẽ bị luận phạt. Các họa sĩ cũng mô tả chân dung của Đấng phán xử như một vị Vua uy lực, đấng sẽ ra phán quuyết tối hậu về số phận của mọi người, người tốt cũng như kẻ xấu. Những hình ảnh này chắc chắn làm an tâm những ai đang cố gắng sống ngay lành, tuy còn phải nỗ lực hoàn thiện, đồng thời cũng gợi nhắc những ai làm điều xấu phải cố gắng hoán cải để nên hoàn thiện hơn.
Hình ảnh một vị Vua thần thánh đầy uy quyền, công bố những phán quyết để xử phạt, hoàn toàn đối nghịch với hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương qua dáng dấp một vị mục tử nhân lành, mà bài đọc thứ nhất cũng như Thánh vịnh đáp ca hôm nay gợi tả. Dung mạo của Đấng Chăn Chiên nhân hậu luôn chăm sóc đoàn chiên, đi tìm kiếm các con chiên lạc, thu gom chúng về đàn để không bị tản mát, chữa trị những con bị đau yếu, dẫn chúng về đồng cỏ xanh tươi đầy ắp thức ăn bổ dưỡng, cho chúng thư thái nghỉ ngơi và được no khát nơi dòng suối trong - hoàn toàn đối nghịch với một Đấng uy quyền ngồi trên tòa cao ngất ngưởng để xét xử và ra những phán quyết nhằm nghiêm phạt. Trong Tin mừng Matthêu, nhiều lần Đức Giêsu đã nói với các môn đệ hãy bắt chước Ngài, sao chép lại tình yêu mục tử giống như Ngài. Ngài chạnh lòng thương cảm trước đám đông như bầy chiên lang thang không người chăn dắt (Mt 9,36). Ngài sai các môn đệ đi “tìm các con chiên lạc nhà Israel (10,6). Ngài cũng khuyến mời các học trò hãy thực hành giống như Ngài, một người chăn chiên liều lĩnh, đã bỏ lại 99 con trên đồng vắng để đi kiếm tìm con chiên lạc mất (18, 10-14).
Trong trình thuật Tin mừng hôm nay, thánh Matthêu dung hòa cả hai chiều kích xem ra có vẻ đối nghịch này, để khải thị chủ đề về cánh chung. Một đàng, là vào giờ phút chung thẩm sau hết, sự chọn lựa cuộc sống nơi mỗi người chúng ta mang tính chất quyết định và không thể thay đổi. Đàng khác, Đức Giêsu, đấng ngồi trên ngai phán xử lại là một Người Chăn Chiên giàu lòng nhân hậu. Đức Giêsu vừa là một Vị Vua uy quyền, ngự trên ngai tòa cao sang, nắm trong tay toàn quyền sinh sát trên tất cả sinh linh, đồng thời, Ngài cũng là một mục tử hiền lành, rất mực bao dung và đầy lòng thương xót. Hình ảnh sống động nhất nơi dụ ngôn không phải là dung mạo một ông vua với vinh quang chói sáng theo quan điểm trần gian, nhưng là một Đức Vua cao cả được đồng hóa với khuôn mặt của những con người cùng khổ đang đói, đang khát, đang lang thang nơi đầu đường xó chợ, đang rét mướt trần trụi không manh áo che thân, đang quằn quại bi thương trong bệnh hoạn hay đang bị giam giữ chốn lao tù. Những con người khốn khổ này được đồng hóa với chính Đức Giêsu. Điệp khúc đó được lập đi lập lại bốn lần trong câu truyện dụ ngôn, như muốn làm vang lên những tiếng thét gào ai oán của những người khốn khổ nhất. Họ giống như những con chiên thương tích và ốm yếu trong đàn đang cần được chăm sóc. Những học trò của Đức Giêsu khi thực hành giáo huấn này, biết bày tỏ lòng thương cảm đến các cận nhân chung quanh, chính là họ đang hiển thị dung mạo yêu thương của Đức Giêsu - Vua Mục Tử, một cách rõ nét nhất.
Trong Tin Mừng Gioan, quyền uy của Đấng chăn chiên hiện lộ trong việc kết hợp thân tình giữa chủ chăn và đoàn chiên (10,14), khi người mục tử biết từng con chiên(10,3), và người chăn chiên hy sinh ngay cả mạng sống mình cho đoàn chiên (10,11). Đây là uy quyền được diễn bày bằng tình yêu, một thứ uy quyền được sẻ chia, được trao ban để đi vào lòng người, chứ không phải là một thứ uy lực đứng ngạo nghễ trên cao, chỉ để công bố những phán quyết trừng phạt cách nghiêm khắc.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cảnh báo chúng ta. Đương nhiên, chúng ta không khiếp sợ trước một vị vua oai phong nghiêm trị các thần dân khi chúng ta sao lãng bổn phận do lơ là hay yếu đuối. Nhưng những ai vẫn ngoan cố đóng khép lòng mình lại, chối từ lòng thương xót của Đấng Chăn Chiên nhân hậu, chính họ đã tự chuốc lấy án phạt cho chính mình.
Mỗi người chúng ta có tự do để chọn lựa số phận muôn đời. Sự định đoạt đó tùy vào thái độ chúng ta hôm nay có biết đón nhận hay khước từ tình yêu của Vị Chăn Chiên nhân hậu, đấng luôn yêu thương và muốn cứu độ chúng ta.
22.Vua của lòng thương xót--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Vua Vũ Trụ đã từng mong được xót thương…
Ấn tượng trước hết tôi có khi đọc đoạn Tin Mừng về ‘cuộc phán xét chung’ là theo đạo chẳng có ích gì, bởi vì khi ‘tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê’ thì Vua Vũ Trụ đâu có áp dụng tiêu chuẩn tôn giáo, có đạo hay không; cũng vậy khi phán ‘hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn’ cũng đâu chỉ dành cho những người đã rửa tội, năng chịu các phép bí tích. Tiêu chuẩn Người áp dụng có vẻ quá đời thường, quá nhân bản, và có phần nào quá thực dụng chủ nghĩa nữa là khác, đến độ cả các không Kitô hữu (non-Christians) cũng dễ dàng đạt được: sống bác ái, sống từ nhân với hết mọi người. Các Phật tử chẳng hạn có lẽ còn thực thi ‘từ bi xả hỉ’ hơn cả người Công giáo, các đồng chí đồng đội ngoài chiến trường còn đùm bọc nhau keo sơn hơn cả các tu sĩ trong cộng đoàn. Nếu đã như thế thì làm Kitô hữu được Phúc Âm dạy bảo, được các Bí Tích đỡ nâng, được các luật lệ, luân lý chở che… thực sự sẽ mang lại cho tôi ích lợi gì trong cuộc xét xử ngày Đức Vua quang lâm?
Ấn tượng tiếp theo là Đức Vua này quá chủ quan. Người xét xử không căn cứ theo một bộ luật khách quan được ban hành, trong đó có cả luật ‘mến Chúa yêu người’ vẫn thường được coi là quan trọng hơn hết. Luật pháp phải khách quan, nhất là khi xét xử, để cứ theo đó mà áp dụng công bằng cho mọi người. Đàng này tiêu chuẩn Đức Vua dùng để xét xử lại chỉ qui hướng trực tiếp về cá nhân Ngài thôi: “vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đến hỏi han”. Khi đặt các lời trên vào miệng Quan Án, hình như Đức Giêsu muốn cho thấy chính Đức Vua vinh quang từ lâu vẫn hằng chờ mong để mình được mọi người xót thương và gia ân. Như vậy được chúc phúc hay bị nguyền rủa đều dựa trên một tiêu chuẩn chung là lòng nhân ái mà mỗi người có trong tương quan thuận hay nghịch với một Đức Vua hằng xót thương tha thứ và chờ đợi được thương xót lại.
Chập hai điều này lại với nhau, tôi mới thoáng phát hiện ra một nét độc đáo và siêu việt của ơn gọi Kitô hữu mà mình được diễm phúc tiếp nhận. Nhiều người không phải là Kitô hữu, chưa hề biết gì về Đức Vua hằng thương xót và hay tha thứ, nhưng vô hình chung lại thường xuyên đi vào tương quan thuận với ‘Đấng dấu mặt’ hằng chờ đợi được xót thương “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói, khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu hay ngồi tù…?” để mà cho ăn, cho uống, đón tiếp, cho mặc, thăm viếng hỏi han… Đức Giêsu cho thấy rõ, thế là đã quá đủ để tạo một tương quan thuận với Thiên Chúa tình yêu và chỉ đòi hỏi có tình yêu. “Ta bảo thật: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy”. Tôi thành thực chúc mừng các anh chị em chưa được biết Chúa vì thật may cho anh chị em! Thế nhưng, nếu chỉ mới giữ có một vế (làm mà không biết) mà đã được như thế, huống hồ chi nếu giữ được cả hai vế (làm và biết). Kitô hữu là những người duy nhất trên trần gian này được diễm phúc có cả hai vế để tiến vào tương quan cá vị sâu đậm nhất với Đức Vua xót thương và chờ đợi được xót thương. Nhờ đức tin mà ngay từ ngày lãnh phép rửa tội họ đã nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng đầy lòng nhân ái và yêu thương; trong suốt quá trình sống đời Kitô hữu, nhất là khi lãnh nhận các Bí Tích, đặc biệt bí tích giải tội, họ đã có không biết bao nhiêu dịp để cảm nghiệm được lòng từ ái của Đức Vua; Lời Chúa hằng thôi thúc họ diễn đạt tương quan với Người bằng đời sống bác ái, yêu thương và phục vụ. Tiêu chuẩn sống của họ không còn phải là một điều luật khách quan ‘kính Chúa yêu người’, mà đã là một tương quan nhân vị mới, cho dầu theo cách nói quen thuộc của người Do Thái Đức Giêsu gọi đó là ‘Điều răn mới’, “là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Do đó không một Kitô hữu nào sẽ còn dám nói “Có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa đói…” Rồi họ còn có muôn ngàn dịp để nhận ra và cảm nghiệm Đức Vua yêu thương họ, cũng như họ thừa biết rằng Đức Vua họ tôn thời khao khát được họ yêu mến và xót thương lại biết là dường nào, đặc biết qua các hành động nhân hậu đối với người anh em. Do đó khi gặp lại Đức Vua quang lâm, các Kitô hữu sẽ phải là những người “đứng thẳng và ngẩng đầu lên!” (Lc 21:28) vì họ đã biết chắc rằng mình đứng bên phải trong số các kẻ “được Cha Ta chúc phúc”.
Lạy Đức Vua Vũ Trụ, Vua tình yêu và xót thương, cảm tạ Vua đã cho con cơ hội tuyệt vời để nhận biết con được Người thương xót và Người cũng khao khát được con xót thương lại. Chớ gì chương trình sống Kitô của con chỉ đơn giản là nhận biết mình được xót thương để rồi cố gắng đáp trả. Xin cho mọi người, không phân biệt lương giáo, biết cùng nhau ban phát lòng xót thương Chúa hằng khao khát, nhờ chính các Kitô hữu chúng con nhận thức ngày càng sâu sắc hơn, và nhắc nhở cho mọi người rằng: có một Đức Vua yêu mến và xót thương hết thảy mọi người. Amen.
23.Cuộc xét xử tình yêu--Lm. Hồng Phúc
Giữa công trường Thánh Phêrô ở La Mã có một ngọn tháp cao chót vót mang một cây Thánh giá vươn lên giữa trời xanh. Ngọn tháp có từ đời Hoàng đế Caligula, được đưa về dựng giữa công trường năm 1586. Trên ngọn tháp có khắc ba câu sau đây:
Christus vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus regnat: Chúa Kitô hiển trị.
Christus imperat: Chúa Kitô thống quản.
Ngày hôm nay, Giáo hội cũng đọc lại ba câu khắc trên đá tạc vào lòng đó, để tôn vinh Chúa Giêsu là Vua, nhân ngày bế mạc năm Phụng vụ.
Từ trên chóp đỉnh năm Phụng tự, Giáo hội cho chúng ta thấy vị trí cao sang của Con Thiên Chúa là vua toàn thể vũ trụ.
Trong Cựu ước, các vua được gọi là mục tử dân Chúa, vì các vị lãnh đạo đầu tiên như Abraham, Moisê, Davit là những người chăn chiên. Trong bài đọc thứ nhất, Tiên tri Ezechiel mô tả Thiên Chúa là một vì Vua chăn dắt đoàn chiên. Ngài tập họp đoàn chiên tan tác vì tội lỗi của chính mình cũng như của các nhà lãnh đạo. Ngài giải cứu chúng khỏi miệng sói dữ. Ngài tân tình phục vụ đoàn chiên cách riêng những thành phần đau yếu bé mọn. Ngài đối xử với đoàn chiên như bà mẹ săn sóc con cái: “Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau… Ta sẽ chăm sóc và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính”. Thật là hình ảnh cảm động của Thiên Chúa, một nhà Vua Mục Tử.
Thánh Phaolô trong Thánh Thư gởi giáo đoàn Corintô, đề cập đến Vương quyền cao cả và vô hạn của Thiên Chúa. Đức Kitô Phục sinh là Alpha và Omêga, nghĩa là khởi điểm và cùng tận. Nhờ Ngài, mọi sự đã phát sinh thì nhờ Ngài vạn vật sẽ trở về với Thiên Chúa Cha. Ngài đã Phục sinh, đã toàn thắng sự chết thì con người cũng không phải hoảng sợ trước sự chết. Chúa Kitô chính là Thầy, là Vua. Ai tin ở Ngài sẽ không phải chết: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống”. Ngài thật là Vua, là Chúa, có quyền trên sự sống và sự chết.
Bạn đã có dịp đến Vatican kính viếng Thánh điện Sixtine và chiêm ngưỡng bức danh họa vĩ đại của Michel-Ange về Ngày Thẩm phán theo Phúc Âm Matthêô? Thật là lớn lao vĩ đại. Họa sĩ để ra một năm, nằm trên sàn vẽ, vừa vẽ vừa suy niệm về ngày phán xét chung. Chúa Giêsu, Đấng Thẩm phán, đến trong vinh quang để xét xử công tội của mỗi người. Bài Phúc Âm hôm nay, tuy nói đến cuộc giáng lâm của Chúa, nhưng trước tiên là nói đến số phận của mỗi người: “Ngài sẽ đến ngự trên ngai uy linh, có hết thảy mọi Thiên thần hầu cận và Ngài sẽ phân chia họ ra”.
Trước mặt Ngài chỉ có những người đã sống trong Tình yêu và những người đã chối bỏ Tình yêu. Con người lộ diện trần trụi, giờ sự thật đã điểm.
“Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta. Và những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em hèn mọn nhất của Ta, là các ngươi đã không làm cho chính mình Ta”.
Cuộc thẩm phán là một cuộc xét xử về Tình yêu, yêu Chúa và yêu tha nhân, vì Thiên Chúa là Vua, Vua Tình yêu vậy.
Ngày mồng 01 tháng 10 năm 1989, Giáo hội đã long trọng phong Chân phước cho Nicéphore Diez (1893-1936) và 25 Bạn Tử đạo thuộc Dòng Thương khó, tử đạo trong cuộc nội chiến 1936 ở Tây Ban Nha. Phần đông các vị đã đồng thanh kêu lớn tiếng: “Vạn tuế Chúa Kitô là Vua”, trước khi ngã gục trước họng súng.
Chúng ta cùng với Giáo hội lớn tiếng hôm nay tuyên xưng Christus vincit- Christus regnat- Christus imperat.
24.Lễ Chúa Kitô Vua--Lm. Phêrô Trần Văn
Việc Giáo Hội long trọng mừng kính Chúa Kitô là Vua vũ trụ vào Chúa Nhật cuối của năm phụng vụ muốn dạy tất cả tín hữu rằng Ngài là tâm điểm của mọi sự vật trong lịch sử. Ngài chính là khởi điểm và cũng là cùng đích của mọi thụ tạo, là alpha và omega.
Để có thể tiến đến vinh quang phục sinh Ngài đã phải đi trọn con đường đau thương khổ gía, và chỉ có con đường đó mới dẫn đến sự sống mà thôi. Cả cuộc sống và cái chết của Ngài là một chia sẻ chân thành nhất những khốn khổ của thân phận con người. Ngài đã không bảo chúng ta phải vác thập giá của Ngài mới có thể làm môn đệ Ngài, nhưng là vác thập giá của chính mình. Thập giá của chúng ta tuy khác với cái của Ngài, xong xuất phát từ một tấm lòng chân thành muốn cùng được tham dự vào chính thập giá của Ngài. Thập giá của chúng ta là lời mời gọi hãy thực tình chia sẻ những nỗi thương đau của bao nhiêu anh chị em đồng loại. Nếu không thực hiện lời mời gọi này trong cuộc đời, là các tín hữu đã thoái thác hay tránh né con đường khổ giá để đi con đường tắt, bưng tai bịt mắt và giả điếc làm ngơ trước những lầm than của tha nhân. Con đường đi ngang về tắt ấy khiến chúng ta đánh mất cơ hội duy nhất được chia sẻ đau khổ với đức Kitô và anh chị em đồng loại, rồi chắc chắn dẫn ta đến một cùng đích khác hơn là vinh quang phục sinh của Vua vũ trụ.
Tin Mừng hôm nay vang vọng như lời nhắc nhở và hối thúc chúng ta đừng ẩn núp xa khỏi những hoạn nạn của tha nhân, nhưng cần xông xáo đi tìm để san sẻ, xoa dịu những nỗi cám cảnh của người đồng loại, vì họ cũng là con cái yêu dấu của Thiên Chúa: " Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." Chính lời của Ngài đã nhìn nhận và đồng hóa bản thân mình trong hình ảnh những anh em bé nhỏ nhất trong xã hội con người. Với lời xác quyết rõ ràng đó, Ngài không muốn chúng ta từ chối một linh hồn nào bằng bất cứ lý do gì.
25.Công dân nước trời --‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Ngày xưa ngày xưa, hai anh em cùng sống và làm việc chung trên một cánh đồng và chung một cối xay. Mỗi tối về, họ chia đều hoa lợi đã thu hoạch trong ngày. Người em sống độc thân, còn người anh có vợ và nhiều con cái. Bất chợt một hôm, người em sực nghĩ: “Thật không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Mình chỉ có một mình còn anh ấy pải nuôi cả vợ con nữa”. Thế rồi mỗi đêm, người em âm thầm lấy bớt số thóc lúa của mình đem đổ vào kho của người anh.
Gần như đồng thời, người anh sực nghĩ: “Thật không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Vì mình có con cái cấp dưỡng trong lúc tuổi già. Còn chú ấy sống một mình, sẽ chẳng có ai cấp dưỡng. Chú ấy cần dự phòng cho tuổi già sau này”. Thế rồi, mỗi đêm, người anh âm thầm lấy bớt số thóc của mình đem đổ vào kho của người em.
Kết quả mỗi buổi sáng thức dậy, cả hai đều rất ngạc nhiên thấy phần thóc của mình đã được bổ sung trở lại, không hề hao hụt. Song họ không hiểu tại sao.
Đến một tối, hai người bắt gặp nhau giữa đường khi đang mang thóc đổ vào kho của nhau. Cả hai lập tức hiểu ra sự việc. Và họ cảm động ôm chầm lấy nhau.
Nhiều năm sau khi họ qua đời, câu chuyện ấy lan rộng ra. Vì thế, khi dân chúng muốn xây dựng một thánh đờng cho thị trấn, họ đã chọn đúng chỗ mà hai anh em gặp nhau tối ngày xưa ấy, để đặt móng cho thánh đường – bởi họ nghĩ rằng không thể có chỗ nào khác trong thị trấn linh thánh hơn chỗ này.
***
Vua Giêsu là vua Tình yêu. Chỉ có ai sống yêu thương mới được ở trong vương quốc của Người. Hai anh em trong câu chuyện trên đây quả xứng đáng là thần dân của Vua Giêsu Tình yêu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mô tả cho các môn đệ về ngày Cánh Chung. Lúc đó, Người sẽ ngự đến trong vinh quang, có các thiên sứ theo hầu. Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển. Muôn dân sẽ quì tụ trước mặt Người, Người sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên và dê. Chiên bên phải và dê bên trái.
Thế là quá rõ, Đức Giêsu vừa là Vua vũ trụ, vừa là Thẩm phán thế gian. Người tuyển chọn các con dân của Người bằng một phương cách thật bất ngờ, đến nỗi những con chiên ngoan đạo của Người cũng không thể ngờ tới: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?” (Mt 25,37-39).
Hóa ra là, từ bấy lây nay, chúa hiện thân trong người đói khát, khách lạ, mình trần; trong kẻ đau yếu, tù đầy mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày. Tiêu chuẩn để được cấp hộ chiếu nước Trời thật đơn giản: Hãy làm những nghĩa cử yêu thương cho anh em, nhất là những người cùng khổ, vì chính Chúa đã đồng hóa mình với họ. Đức Giêsu nói: “Mỗi lần các người làm cho một người bé mọn nhất của Ta đây, là các người làm cho chính Ta” (Mt 25,40).
Người ta sẽ phải tách biệt ra, chiên hoặc là dê, người lành hay kẻ dữ, người thánh thiện hay kẻ tội lỗi. Điều đó căn cứ vào việc “Làm” hay “không làm” những nghĩa cử yêu thương cho những ai đang cần trợ giúp.
Người ta sẽ phải “ra đi chịu cực hình muôn kiếp” hay là “ra đi để hưởng sẹ sống muôn đời”, cũng chỉ dựa vào tiêu chuẩn duy nhất ấy, “làm” hay “không làm” những cử chỉ yêu thương cho những kẻ bần cùng, bất hạnh.
Nếu vua Giêsu ở trong cung vàng điện ngọc, xa rời quần chúng, thì người ta có lý dó để thoái thác không làm. Nhưng Người luôn ẩn thân trong những người nghèo hèn, khốn khổ; mà họ đông vô số kể, lúc nào cũng ở bên cạnh chúng ta, thì việc “không làm một cái gì đó” cho an hem khi họ cần đến, lại là một án phạt muôn đời cho những kẻ vô tâm, vô tình.
Nếu Vua Giêsu chỉ xét xử thần dân của Người dựa trên tình yêu, thì ai không biết động long trắc ẩn trước nỗi khổ của anh em, không dám cho đi những gì mình có để cứu giúp những kẻ khốn cùng, không dám xả thân phục vụ những con người bất hạnh, thì họ không thể nào là công dân của Nước Trời.
Chúng ta không giàu có vì những gì mình đã nhận lãnh, mà vì những gì mình đã trao ban. Cha Mark Link viết: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”.
Nếu con tim chúng ta không đam mê tượng vàng rực rỡ, chúng ta sẽ yêu cuộc đời nhiều hơn, sẽ tha thiết sống trọn vẹn hơn cho anh em. Và cỏ cây lại xanh tươi, nắng chan hòa ấm cúng, con tim reo vui hạnh phúc.
***
Lạy Chúa,
Xin cho trái tim chúng con nồng cháy yêu thương, cho bàn tay chúng con rộng mở để trao ban, cho đôi chân chúng con đến với những người nghèo khổ. Vì chỉ có thế, chúng con mới xứng đáng là thần dân của Vua Tình Yêu, luôn mang cờ hiệu là phục vụ và yêu thương. Amen.
26.Lễ Chúa Kitô Vua--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
Cùng với Giáo Hội Mẹ, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Chúa Kitô Vua, tuần cuối của năm Phụng Vụ, với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới.
Lời Chúa hôm nay muốn nói gì với chúng ta? Bài đọc thứ nhất trích từ sách Ez 34,11-17, trình bày việc Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Khi đến thời đến buổi Người sẽ qui tụ chúng ta lại trong miền đất yêu thương của Người; Người sẽ băng bó và an ủi những thương tật và đau buồn của những ai bị hắt hủi, bị bỏ rơi và bị tổn thương; đồng thời Người cũng loại trừ những lạm dụng luôn quay lưng lại với đồng loại của mình. Người là một vị Thiên Chúa hành xử nhân từ và công chính.
Bài đọc hai trích từ 1Cr 15,20-26.28. Thánh nhân nói với chúng ta về niềm hoan lạc cho những người tin vào tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, và trong sự chết của Ngài, chúng ta được cứu chuộc; trong sự sống lại của Ngài, chúng ta được sống lại, sống lại trong ngày hôm nay, trong tình nghĩa con cái đối với Thiên Chúa là Cha, và sống lại mai ngày trên quê hương Thiên Quốc khi tất cả được gom lại để qui phục vương quyền của Chúa Giêsu Kitô Vua.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu tường thuật lại quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt và phân xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để mà phân tách là tất cả những gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chúa Giêsu đồng hóa với tất cả những ai đang sống xung quanh và giữa chúng ta khi chúng ta chia sẻ cơm áo cho người đói khổ trần truồng, khi thăm viếng người bị bệnh nạn hoặc tù đày, tức là chúng ta đến với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên Thập giá. Khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa.
Thiên Chúa công bình sẽ dựa vào những hành động và phong cách sống ấy của chúng ta để mà xét xử, vậy chúng ta phải sống Lời Chúa như thế nào trong tuần sống sắp tới đây, tiên vàn chúng ta cảm tạ Thiên Chúa cho một năm Phụng Vụ đã qua, một năm chúng ta nhận lãnh rất nhiều ân sủng của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua các Thánh Lễ mỗi ngày và mỗi tuần, qua các biến cố trong cuộc sống, qua các mối tương quan chúng ta có lẫn nhau. Thứ đến chúng ta xin Thiên Chúa là Cha tha thứ cho chúng ta, vì những vô tâm vô trí và có khi cả những cố ý để mà xúc phạm đến tình yêu của Chúa và những tổn thương gây ra cho anh em mình, nhất là những người ta gặp gỡ mỗi ngày. Sau đó chúng ta có một quyết tâm mới cho những ngày tháng hồng ân của Năm Mới mà chúng ta chuẩn bị đi vào.
Một trong những điều Giáo Hội Mẹ kêu gọi chúng ta sống trong Năm Mới này, đó là biết sám hối những lỗi lầm của chúng ta. Trong sám hối chúng ta vừa nhận ra mình có tội với Chúa, với anh chị em xung quanh, đồng thời cũng bị thúc bách phải thay đổi thái độ và phong cách sống cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa.
Chúng ta dựa vào đâu để biết, để thay đổi? Lời Chúa trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe đã đưa ra những tiêu chuẩn, là Chúa Giêsu có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi con người mà chúng ta gặp mỗi ngày, chúng ta hãy đến với Ngài qua những con người đó, những con người thân thương và cả những con người thật khó mà có cảm tình, những con người mà chúng ta chung chia đức tin và cả những con người chưa hề có ý niệm gì về Thiên Chúa, nhất là những con người không muốn nhận Thiên Chúa là Cha của mình. Chúng ta đến và yêu thương họ, vì họ cũng được Thiên Chúa yêu thương và muốn dắt về để chung hưởng hạnh phúc trong quê hương Thiên Quốc.
Rồi những ngày này, biết bao người anh chị em của chúng ta đang phải vật lộn với đói khổ vì thiên tai, vì bệnh tật, vì bị bỏ rơi v.v..., chúng ta nghe lời các chủ chăn trong giáo phận và giáo xứ, chúng ta cố gắng đóng góp để giúp đỡ họ. Dĩ nhiên, nhiều người trong chúng ta không khá giả gì, và cuộc sống mỗi ngày cũng phải chắt chiu từng đồng để kiếm sống. Vả lại, đất nước (Việt Nam) của chúng ta là một trong ba nước có tệ nạn tham nhũng nhất thế giới (so với Pakistan và Indonesia). Nhưng với những con người mang tâm trạng yêu thương anh chị em mình đang đau khổ, chúng ta nên bớt chút những đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình để chia sẻ, mặc dù không biết có đến tay người nhận hay không? Nhưng Chúa biết tấm lòng của chúng ta dành cho nhau, nếu cứ ngại ngùng và suy nghĩ mãi thì không biết đến bao giờ những người anh chị em mới có được chén cơm manh áo.
Với tất cả những suy nghĩ dựa trên Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sốt sắng dâng lên Thiên Chúa Cha trước bàn thờ của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và nài xin ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, để chúng ta có một tuần sống xứng đáng là con Thiên Chúa, là dấu chứng tình yêu Chúa giữa anh chị em.
Có thể nói rằng, với hành vi dâng hiến quảng đại cho ý muốn của Chúa Cha, Đức Mẹ đã mang Đức Giêsu Kitô đến cho chúng ta. Noi gương Mẹ, chúng ta bước vào Mùa Vọng mới với tâm tình dâng hiến và đón nhận thánh ý Chúa Cha, thể hiện qua những gì chúng ta sống hôm nay như Mẹ Maria ngày xưa. Amen.
27.Vương quốc của tình yêu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Trong tác phẩm mang tựa đề: “Thị kiến của người Kitô hữu” (The Christian Vision) nhà văn John Powell có kể một câu chuyện thần thoại của người Ái Nhĩ Lan. Câu chuyện đưa chúng ta trở lại thời các vua cai trị đất nước này:
Một hôm nhà vua thấy mình không có con để kế vị, ông bèn sai các sứ giả thông báo cho các thành phố và làng mạc biết: nhà vua mời các thanh niên nào có đức tính tốt đến triều đình để được phỏng vấn. Như thế nhà vua hy vọng có thể chọn được một người xứng đáng lên ngôi vị mình trước khi băng hà. Hai đức tính được nhà vua đặc biệt lưu ý, đó là người thanh niên ấy phải có lòng mến Chúa và yêu người.
Chàng thanh niên trong câu chuyện nghe như có tiếng thầm kín bên trong thúc đẩy chàng lên đường đến triều đình để được nhà vua phỏng vấn, vì chàng quả thật là một người có lòng mến Chúa và yêu người. Nhưng chàng lại nghèo khó đến nỗi không có được một bộ quần áo chỉnh tề để đến triều đình. Chàng cũng chẳng có tiền để mua lương thực dự trữ cho cuộc hành trình dài đến lâu đài nhà vua. Cuối cùng, chàng quyết định đi xin quần áo và lương thực cần thiết.
Khi mọi sự đã sẵn sàng, chàng lên đường. Sau một tháng hành trình, chàng đã nhìn thấy lâu đài của nhà vua hiện ra trên đỉnh đồi ở đàng xa. Cũng vào lúc ấy, chàng gặp thấy một ông già nghèo đói ngồi bên vệ đường. Người ăn xin ngửa tay van xin chàng giúp đỡ: “Anh ơi, tôi đói, tôi rét, anh làm ơn cho tôi áo mặc, cho tôi bánh ăn”. Chàng thanh niên cảm động nhìn người ăn xin. Chàng cởi áo khoác của chàng và đổi lấy chiếc áo rách tả tơi của người ăn xin. Chàng cũng chia sẻ lương thực dự trữ của chàng. Rồi chàng đến lâu đài nhà vua trong bộ áo rách tả tơi và không đủ lương thực cho cuộc hành trình trở về. Đến trước lâu đài, lính gác chận chàng lại ở cổng, bắt chàng vào khu khách tham quan. Sau một thời gian dài chờ đợi, chàng mới được cho vào gặp nhà vua. Trước ngai vàng, chàng cúi mình thật sâu bái lạy, đến lúc đứng thẳng lên, chàng hết sức bỡ ngỡ, vì chàng thấy ông già ăn xin bên vệ đường mà chàng đã gặp giờ đây lại ngồi trên ngai vàng. Chàng lên tiếng hỏi:
- Tâu Đức vua, có phải Đức Vua là người ăn xin bên đường mà tôi đã gặp chăng?
- Đúng thế, Đức Vua đáp.
Chàng lại hỏi:
- Vậy tại sao Đức Vua lại làm như thế đối với tôi?
Đức vua đáp:
- Ta phải cải trang làm người ăn xin để thử xem ngươi có thật lòng mến Chúa và yêu người không.
Anh chị em thân mến,
Đây là câu chuyện thần thoại, nhưng điểm chủ yếu rất xác thực. Vương quốc của Chúa Kitô Vua là vương quốc của tình yêu. Muốn vào vương quốc của Ngài, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự. Tin Mừng hôm nay cho thấy: chúng ta sẽ bị xét vào cuối đời về cách chúng ta yêu mến và phục vụ Chúa Kitô Vua như thế nào trong những người anh em nghèo khó bé nhỏ nhất của chúng ta.
Chúng ta hãy nghe lại Lời Chúa: “Lúc ấy, Đức Vua sẽ phán: Ta đói, các ngươi đã cho ta ăn. Ta khát, các ngươi đã cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta đau yếu, các ngươi đã chăm sóc… Bấy giờ, những người công chính –đứng bên phải– hỏi lại Chúa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói hay khát đâu mà cho ăn cho uống…? Đức Vua sẽ đáp lại: Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
Đức Vua đã làm cho những người lành đức bên phải, cũng như những kẻ dữ đứng bên trái, đều phải chưng hửng. Người bên phải rất sửng sốt khi thấy Đức Vua kể những việc tốt họ đã làm cho những người bất hạnh trong cảnh đói khát, rách rưới, tù đày, như là những việc giúp đỡ họ dành cho chính bản thân Đức Vua. Còn người bên trái cũng hết sức ngỡ ngàng khi thấy Đức Vua đồng hóa bản thân Ngài với những người mà họ đã coi thường, nên đã không cho họ cơm ăn, áo mặc, nhà ở… Lời giải thích của Chúa đã làm cho cả hai bên- bên người lành và kẻ dữ- đều sáng mắt kinh ngạc: Họ không ngờ rằng mỗi lần họ tiếp đón hay hất hủi những người cần đến họ giúp đỡ là họ đã tiếp đón hay hất hủi chính Chúa Giêsu!
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa đã âm thầm len lỏi vào giữa đám đông nhân loại mà không ai biết. Chúng ta thường nhận diện được Chúa lúc chúng ta không ngờ. Vì thực khó mà nhận diện được Chúa, nếu chúng ta vẫn quan niệm Thiên Chúa như một Đế Vương phong kiến, chễm chệ trên ngai vàng. Nhưng nếu chúng ta nhận được rằng Thiên Chúa không phải là Vua thống trị nhưng là Vua phục vụ, thì chúng ta không thể không nhận ra Ngài nơi những người bé mọn nhất. Chúng ta sẽ không còn thắc mắc như người lành hay kẻ dữ trong ngày phán xét cuối cùng: “Thưa Ngài, có khi nào chúng tôi thấy Ngài đói, Ngài khát, Ngài rách rưới… đâu?” Bởi vì thiên Chúa đã ẩn dấu bộ mặt thần linh của Ngài trong bộ mặt nhân loại: Người láng giềng, bạn đồng nghiệp, nhưng cũng có thể là khuôn mặt của hàng triệu con người trên thế giới đang ê chề trong cảnh thiếu ăn, nghèo đói, thất nghiệp hay những công việc nô lệ, vô nhân đạo, đang bị kẻ mạnh áp bức hay người quyền thế bóc lột. Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng Thiên Chúa tự đồng hóa với khuôn mặt của hàng triệu con người đó, vì họ là anh em bé nhỏ của Ngài.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô là Vua. Vương quốc của Ngài là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc về Chúa Kitô và là công dân của Nước Thiên Chúa. Tình yêu, nói được là như “chứng minh nhân dân”, như “thẻ căn cước”của Nước Thiên Chúa. Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói cho bằng nhiều hành động thiết thực, sống động. Cụ thể là chia sẻ chính những lo lắng, khó khăn, khốn khổ, cùng cực của đồng bào trong hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống. chúa Giêsu đã khẳng định: chúng ta sẽ bị phán xét trong ngày sau hết về cách chúng ta đã phục vụ Đức Kitô Vua như thế nào trong những người anh em đói, khát, rách rưới, bệnh tật, tù tội… Hãy phục vụ những Đức Kitô Vua ấy thế nào để vào ngày cuối cùng, Chúa Kitô Vua sẽ mời gọi chúng ta: “Hãy đến, hỡi những người Cha Ta chúc phúc. Hãy đến thừa hưởng vương quốc đã dành sẵn cho anh em từ thuở đời đời”.
28.Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển--Lm. Trầm Phúc
Thời đại hôm nay, khi nói đến vua, người ta hiểu như một thể chế đã không còn hợp thời. Trên thế giới hôm nay, không có mấy nước còn vua, nhưng còn rất nhiều nhà độc tài không kém các vua thời xưa. Nhưng sao Giáo hội lại tôn vinh Chúa Kitô là vua? Giáo hội có đi ngược trào lưu hiện nay và tỏ ra như không còn phù hợp với con người hôm nay không? Giáo hội còn mang một não trạng cổ hủ hay không?
Trên thế giới hôm nay, từ vua mang nhiều nghĩa khác nhau và có rất nhiều thứ vua mới. Người ta nói đến vua bóng đá, vua sân khấu, vua dầu hỏa, vua xe điện… Nghĩa là một người nào đứng đầu trong một bộ môn nào đó. Vậy thì vua Giêsu cũng sẽ được hiểu theo nghĩa thông dụng đó không?
Hôm nay, ngày Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, Giáo hội tôn vinh Chúa Kitô Vua vũ trụ để chứng tỏ Chúa Giêsu là Đầu và là Cuối của mọi sự. Vua Giêsu của chúng ta không thể được xem như các vua trần thế. Ngài là vua tuyệt đối. Ngài là Đấng sáng tạo trời đất, vũ trụ càn khôn, Ngài là chủ thời gian và là cùng đích của mọi sự, là hạnh phúc của những kẻ yêu mến Ngài.
Những người không có đức tin có thể cho chúng ta là những con người ngây ngô, nhìn nhận một Thiên Chúa mà không bao giờ thấy. Một người không tin mà cũng là một người thân, nói với tôi: “Đối với tôi, chết là hết, sao anh có thể tin vào một Thiên Chúa tạo nên vũ trụ, chủ tể mọi loài, tôi không thể tin được, anh có thể cho tôi biết tại sao anh tin không?” Tôi từ chối, nhưng anh nài nỉ tôi mãi. Tôi chấp nhận trả lời vấn nạn của anh. Tôi hỏi: “Anh có chấp nhận nguyên tắc này không là của ai nấy xài, anh không có quyền lấy của người khác?” Anh trả lời: “Đúng vậy”. Tôi hỏi: “Vậy không khí anh đang thở là của ai, có phải là của anh không?” Anh ngạc nhiên bảo: “Thì tôi phải thở chứ làm sao?” “Nhưng có phải là của anh không?” Anh trả lời: “Không”. Nước ở dưới sông anh múc lên anh xài, có phải là của anh không?” Trả lời: “Không”. Tôi hỏi tiếp: “Tiền của anh, nhà của anh người ta lấy anh có chịu không?” “Không”. Vậy tại sao anh lấy không khí, nước… anh xài mà không phải là của anh, thì sao? Vậy là anh ăn cướp của người khác”. Anh ấy trả lời: “Anh cũng như tôi thôi”. Không, tôi khác hẳn, vì tôi nhìn nhận Đấng đã ban cho tôi mọi thứ đó và tôi gọi Ngài là cha tôi”. Anh im lặng, ra chiều suy nghĩ…
Vương quyền của Chúa Kitô vượt hẳn mọi vương quyền trần gian. Con người dù quyền thế đến mức nào cũng chỉ là con người, chỉ có một thời thôi. Và họ phải chết. Chúa Kitô là Vua muôn đời, là Vua tuyệt đối và vĩnh cửu. Ngài là chủ của sự sống, là chủ tể mọi loài. Ngài cũng là Tình Yêu. Vua Giêsu của chúng ta là Vua Tình Yêu.
Trong đoạn Tin Mừng thánh Matthêu chúng ta suy niệm hôm nay, thánh sử đã vẽ ra cho chúng ta một bức tranh hết sức hùng vĩ, cho chúng ta thấy rõ vương quyền của Chúa chúng ta như thế nào. Tuy chỉ là một dụ ngôn, nhưng chúng ta cũng có thể nhờ đó hiểu được Chúa muốn nói gì.
Thánh Matthêu trình bày vương quyền của Chúa Kitô như vị thẩm phán đầy uy nghi. Ngài phán xét toàn thể nhân loại chứ không chỉ một số người nào dưới quyền mình: “Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu”. Không thể có vị vua nào trong thế gian có được như thế. Ngài là vị thẩm phán tối cao, xét xử toàn thể nhân loại. Tất cả mọi người đều tề tựu trước nhan thánh Ngài. Ngài cho tách ra hai hạng người mà thánh Matthêu gọi là chiên và dê. Chiên chính là những người tốt và dê là những kẻ xấu.
Vua lên tiếng nói với những người tốt cũng như những kẻ xấu và gây ngạc nhiên cho cả hai. Với người tốt, Ngài cho họ thấy rằng, họ được ân thưởng vì đã thấy Ngài nghèo nàn, đau đớn, đói rách, khốn khổ, và đã thương đến Ngài: “Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống…” Ta đói, Ta khát… các ngươi đã làm cho chính Ta. Những lời đảo lộn tất cả mọi suy nghĩ của chúng ta. Những người lành hoàn toàn mất phương hướng: “Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống…?” Người nghèo, người khốn khổ đó là chính Ta.
Phúc cho chúng ta ngay từ trần gian này, chúng ta nhận biết Ngài qua những người anh em khốn khổ của chúng ta! Dù chúng ta không nhận ra Ngài nơi anh em khốn khổ đó, nhưng nếu chúng ta thực tình yêu thương họ, thì Ngài vẫn chấp nhận chúng ta trong đoàn chiên của Ngài, những kẻ được chúc phúc và sẽ lãnh nhận phần thưởng đã dành cho chúng ta. Như thế, chúng ta sẽ nhận thấy Ngài khắp nơi trên mọi nẻo đường của chúng ta. Thánh Gioan Thánh Giá nói: “Chúng ta sẽ được xét xử bằng tình yêu”.
Đối với những người không biết yêu thương, những người vô cảm, những kẻ chỉ biết khai thác anh em mình thì Vua sẽ không thể chấp nhận: “Hỡi những kẻ bị nguyền rủa kia, hãy đi khuất mắt Ta… mà vào lửa đời đời đã dành sẵn cho Ác Quỷ và các sứ thần của nó…”
Vua của chúng ta là Đấng toàn năng cao cả nhưng Ngài đã trở thành những người bé nhỏ nhất trên đời này. Hãy biến đổi cái nhìn của chúng ta. Xưa kia, khi xuống thế làm người, Ngài đã mang thân phận của con người nghèo nàn nhất, hôm nay, Ngài vẫn tiếp tục mang thân phận khốn khổ đó trong tất cả những người anh em khốn khổ của chúng ta. Chúng ta nghĩ sao? Chúng ta có thể dửng dưng trước nỗi thống khổ của anh em chúng ta được sao?
Những người như Mẹ Têrêxa Calcutta, Phanxicô Assisi, Vinh sơn đệ Phaolô và biết bao đấng thánh khác… những người đó đã tìm thấy Chúa trong những kẻ khốn khổ nhất. Các ngài đã sống như Chúa đòi hỏi. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn chú trọng đến người nghèo, những người bị bỏ rơi. Trong Tông Huấn Niềm vui Tin Mừng, Ngài đã cho thấy phải ưu tiên chú ý đến những người thấp hèn, những người dễ bị tổn thương.
Vua Giêsu của chúng ta đã tự đồng hóa mình với những ai khốn khổ bần cùng. Chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy Ngài trong những nơi sang trọng xa hoa, nhưng chính trong những người tật nguyền nghèo đói, chúng ta mới gặp Ngài. Nhưng chúng ta đủ yêu thương để nhìn thấy Ngài trong khuôn mặt của những người anh em khốn cùng không? Chúng ta có quyền chọn lựa, Ngài hay sự sang trọng thế gian? May thay, trong thế giới ích kỷ và xa hoa này vẫn còn những tâm hồn biết xả thân cho người nghèo, đem gia tài sản nghiệp cứu giúp những ai cùng khốn, dám liều mạng cho những nạn nhân chiến tranh… Vua Giêsu đang cần những bàn tay quảng đại đó.
Chúng ta có ở trong số những người đó không? Chúng ta có dám hy sinh một cái gì đó cho anh em thống khổ của chúng ta không? Chúng ta được mang danh là Kitô hữu, chúng ta đã làm gì?
Vua Giêsu sẽ không nhìn nhận chúng ta nếu chúng ta không nhìn nhận Ngài trong những kẻ bé mọn, những kẻ bị thiệt thòi nhất. Đó là điều kiện tiên quyết của Ngài. Không thể có con đường nào khác.
Chúa Giêsu hôm nay trở thành người nghèo nhất khi Ngài trở thành tấm bánh cho chúng ta. Ngài đến để mang lấy thân phận của mọi người hôm nay khi đến trong mỗi người. Ăn lấy Chúa Tình Yêu mà không trở thành tình yêu là một điều hết sức vô lý. Chúng ta không thể nào làm như thế vì nó sẽ làm tổn thương nặng nề cho Chúa chúng ta là Vua Tình Yêu.
29.Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Lễ này đã được Đức Giáo hoàng Pi-ô XI thiết lập vào năm 1935, không phải vì thế giới ngày nay đã từ chối vương quyền của Chúa, không nhằm tạo lại một cái gì đã mất, nhưng để giúp chúng ta là những người tin Chúa, nhớ đến một thực tại mà nhiều người đã bỏ quên: đó là vương quyền tuyệt đối của Chúa Ki-tô trên vạn vật, đồng thời cũng nhắc nhở mọi người nhớ đến cùng đích của cuộc sống: tất cả phải quy về một mối là Chúa Ki-tô. Không có Ngài, thế giới này sẽ là gì? Sẽ đi về đâu? Cuộc sống con người có ý nghĩa gì? Hiến chế “Giáo Hội trong thế giới ngày nay” đã nhấn mạnh đến điểm này. Chúa Ki-tô là đích điểm của mọi sự. TrongThông điệp “Đấng Cứu chuộc con người” của Đức Giáo hoàng Gioan-Phao-lô II càng nhấn mạnh hơn.
Cuộc sống con người chỉ có ý nghĩa khi nó kết thúc trong Chúa Ki-tô, trước mặt Vì Vua muôn thuở: “Ngài phải là Đầu và là Cuối cùng của mọi sự (Anpha và ô-mê-ga), là Đấng mà mọi sự có tự Ngài, là đường, là sự thật và là sự sống” của mọi người. Ngài là Đấng Cứu chuộc con người (Thông điệp Đấng cứu chuộc con người, số 17).
Thánh Mat-thêu đã trình bày Chúa Giêsu như một vị Vua, không phải như vua trần thế, mà là Vua của mọi loài, Vua tuyệt đối: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên thần theo hầu, bấy giờ Người sẽ lên ngai vinh hiển của Người”.
Chúng ta không thể nào so sánh vinh quang của một vị vua trần thế với vinh quang của Đấng đã Phục sinh.
Các vua trần thế chỉ như một ngọn đèn cháy một lúc rồi lụi tắt. Chúa Giêsu mới là Vua, vì vương quyền của Ngài không bắt đầu trong thời gian, Ngài là Vua tự muôn thuở: “Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con”. “Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con”. (Tv 110).
Nhưng Vua Giêsu của chúng ta là một Thiên Chúa nhập thể, đã sống trọn kiếp người, đã chết và đã sống lại. Ngài sống lại để trở nên “Chúa của kẻ chết và của kẻ sống” (thơ gởi giáo đoàn Cô-lô-sê). Vương quyền của Ngài vượt mọi ranh giới. Thánh Gioan, trong sách Khải Huyền đã nhìn thấy Ngài đầy vẻ uy nghi, sáng chói: “Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời! Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1,18). Thánh Gioan viết tiếp: “Thấy Ngài, tôi ngã vật xuống dưới chân Ngài như chết vậy”.
Bức tranh hoành tráng của Gioan diễn tả phần nào quyền uy tối thượng của Đấng đã toàn thắng sự chết. Ai có thể đọc hết sách Khải huyền mới có thể hình dung được nét oai phong thần linh của Chúa Giêsu… Đức Vua muôn thuở mà Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm.
Ngài là Thiên Chúa, là Ngôi Lời Thiên Chúa. Trước mặt Ngài, chúng ta chỉ có thể có một thái độ là tôn thờ. Và tôn thờ chính là nhìn nhận quyền tuyệt đối của Ngài trên chúng ta, quyền xét xử và thưởng phạt. Thực sự, chúng ta có nhìn nhận điều đó không? Tôn thờ chính là thi hành thánh ý của Ngài chứ không chỉ sống theo ước muốn của chúng ta. Tôn thờ chính là chỉ yêu một mình Ngài trên hết mọi sự… Đạo Công giáo không phải là một ách nô lệ, mà là một tình yêu trọn vẹn.
Dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy: “Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Ngài”.
Vua chúa trần gian chỉ có quyền trên một số người và trong một thời gian hạn định. Vua Giêsu nắm quyền trên toàn thể muôn dân, từ người thứ nhất là A-đam đến người cuối cùng trong thế giới. Chúng ta không thể hình dung được quyền uy cao cả của Ngài, vì chúng ta quá bé nhỏ, một hạt cát…. Chúng ta sẽ đến trước mặt Ngài và Ngài sẽ xét xử mọi người, không trừ ai. Vương quyền của Ngài là tuyệt đối. Lúc bấy giờ chúng ta mới biết, chúng ta sẽ như thế nào.
“Ngài tách chiên ra khỏi dê”, tức là những người lành và những người tội lỗi không còn lẫn lộn như ở trần gian. “Lúa tốt không còn lẫn với cỏ lùng nữa”. Giờ đó không còn thay đổi. Đó là giờ quyết định.
Vua ngỏ lời với những người lành, và lời Ngài gây ngạc nhiên. Ngài nêu rõ tại sao họ được ân thưởng: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói… các ngươi đã cho ăn…”
Ngài không hỏi họ đã sáng chế ra bao nhiêu máy móc tinh vi, cũng không hỏi đã xây bao nhiêu lâu đài dinh thự, sản xuất bao nhiêu đạn hạt nhân, đã chứa bao nhiêu tỷ bạc. Ngài chỉ hỏi họ có yêu thương giúp đỡ Ngài không? Vì Ngài đói rách, bệnh hoạn, khốn khổ…
Ngạc nhiên, ngỡ ngàng! “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn…đâu!” Đúng thế, chúng ta có bao giờ thấy Chúa đâu! Chúng ta chỉ thấy người nghèo, người khổ thôi, nhưng Đức Vua sẽ trả lời: “Ta đói trong những người đói, Ta đau khổ trong những người đau khổ”.
Thánh Phao-lô đã nghe tiếng Chúa gọi trên đường Đa-mas: “Sao-lê, Sao-lê, sao ngươi bắt bớ Ta?” Sao-lê trả lời: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Và câu trả lời vọng lại: “Ta là Giêsu ngươi đang bắt bớ”. Ta là Giêsu chứ không phải là môn đệ. Ngươi đang bắt bớ Ta chứ không phải môn đệ của Ta. Bao nhiêu lần chúng ta đã đọc, đã nghe câu nói này, chúng ta có ý thức được gì không? Chúa nói với Phao-lô, hôm nay Chúa cũng nói với chúng ta như thế, nhưng… chúng ta vẫn phớt lờ như không hay biết. Chúng ta muốn đứng bên phải, trong số chiên ngoan, nhưng thực sự, chúng ta không xứng đáng, chúng ta thấy Chúa đói mà không cho ăn… Chúng ta ngại phải móc túi, ngại cho… Chúng ta lo xa, chúng ta sợ mất mát, chúng ta sợ người ta lợi dụng…Chúng ta chưa nhìn thấy Chúa trong anh em khốn khổ… Chúng ta chỉ muốn sướng một mình, vui hưởng một mình, còn anh em… “sống chết mặc bây”.
Chúng ta chọn vua nào? Vua Giêsu? Nếu chọn Vua Giêsu, Ngài đang ở giữa chúng ta, Ngài là những đứa trẻ không ai thương đến, những người neo đơn, bệnh hoạn…
Vui mừng biết bao khi chúng ta khám phá ra Chúa Giêsu trong những người anh em khốn khổ! Hãy mở rộng tâm hồn để nhìn thấy điều kỳ diệu là Vua Giêsu chúng ta đang nghèo đói trong anh em… đang cần đến sự giúp đỡ ân cần của chúng ta. Hãy nhớ rằng “trong ngày sau hết, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu” (thánh Gioan Thánh Giá). Có lẽ chúng ta không thể làm hết mọi sự, giúp đỡ hết mọi người, nhưng chúng ta có làm hết khả năng để nâng đỡ những người anh em xấu số của chúng ta không?
Chúng ta lãnh nhận nhiều hơn anh em, không phải để chúng ta vui chơi phung phí, nhưng để chia sẻ. Chúng ta chỉ là “những người quản lý những ân huệ thiên hình vạn trạng của Chúa”, chúng ta không có quyền vui hưởng một mình…
Thánh Phan-xi-cô At-xi-di là một trong những khuôn mặt quen thuộc đã nhìn thấy Chúa Giêsu trong những người cùi… đã yêu thương phục vụ họ. Mẹ Tê-rê-xa Calcutta cũng thế. Đối với Mẹ, những người khốn cùng nhất trong xã hội, những người bị bỏ rơi… là những Chúa Giêsu cần được yêu thương. Tại sao chúng ta không thể nhìn thấy Chúa trong anh em khốn khổ? Chúng ta mù quáng đến mức độ nào? Hãy xin Chúa cho chúng ta một tâm hồn nhạy cảm trước những người anh em đang khốn khổ.
Vua Giêsu của chúng ta không đến với chúng ta bằng dáng vẻ oai phong như các vua trần gian, nhưng Ngài khiêm tốn đến với chúng ta nơi bàn thờ trong hình thức hết sức nhỏ bé để chúng ta gần gũi với Ngài hơn. Sau khi lãnh nhận Ngài, chúng ta có thể nhận ra Ngài rõ rệt hơn nơi anh em, và yêu mến Ngài trong anh em chúng ta hơn.
30.Sự phán xét--Lm. Mark Link, SJ
Cuộc đời của tài tử Martin Sheen giống như truyện phim Hollywood. Ông lớn lên trong gia đình nghèo ở Dayton, Ohio. Là một trong mười người con, cha ông là người di dân Tây Ban Nha và mẹ ông là người Ái Nhĩ Lan.
Ông nói, điều ảnh hưởng đến ông nhiều nhất trong thời niên thiếu là sự nhân từ của các nữ tu, các chị dạy học. Các chị thực sự sống đức tin mà họ tuyên xưng.
Dần dà, Martin đi vào ngành kịch nghệ, đến lập nghiệp ở Hollywood, và trở nên một siêu sao hàng đầu, thủ diễn các vai trong các phim ăn khách như Gandhi và Apocalypse Now.
Cũng như sự thành công đến với đời ông, vật chất chủ nghĩa cũng theo sau. Ông kiếm thật nhiều tiền và vui hưởng tất cả những gì đồng tiền có thể mua được. Điều đó kéo dài trong 16 năm.
Và rồi quay phim Gandhi ở Ấn Độ. Một ngày kia ông ngồi trên xe taxi, có mấy đứa trẻ bám theo xe, đong đưa ở bên cạnh.
Khi ông nhìn vào khuôn mặt chúng đang cười toe toét sau tấm kính xe, ông thấy răng chúng không còn, quần áo thì rách rưới, và tóc đầy chí rận. Ông nói:
Bỗng dưng tôi biết mình phải làm gì. Tôi bảo tài xế ngừng xe lại và đưa bọn trẻ vào trong xe.
Sự nghèo nàn, khốn khổ, và tuyệt vọng của bọn trẻ đã đưa ông trở về thời niên thiếu.
Tình tiết đó đã khiến ông nhớ lại những gì ông học khi còn nhỏ trong một trường Công Giáo và một gia đình Công Giáo: tất cả chúng ta đều là thân thể của Đức Kitô.
Và rồi một tình tiết thứ hai khiến ông suy nghĩ sâu xa hơn nữa. Khi quay cuốn phim Apocalypse Now ở Phi Luật Tân, ông bị một cơn đau tim.
Nhận xét về ảnh hưởng của biến cố đối với sự suy nghĩ của ông, trong một cuộc phỏng vấn ông nói, người diễn viên trong Apocalypse Now đã chết và đã được chôn ở Phi Luật Tân. Người diễn viên mà quý vị đang nói chuyện bây giờ thì không giống như người đã đóng cuốn phim đó.
Ông phải mất thêm bốn năm nữa để tái gia nhập Hội Thánh Công Giáo. Khi thực hiện điều đó, sự mạnh mẽ và tận tuỵ của ông với đức tin chỉ có thể diễn tả là lạ lùng.
Ông nói, ông vẫn hút thuốc và đánh bài và thích sự thoải mái, thích xe hơi, và vinh dự. Nhưng ông biết ông phải tìm cách từ bỏ.
Ông nói, chúng ta sống ở trái đất này không phải là tình cờ. Đức Kitô dạy chúng ta phải yêu thương tha nhân như chính mình. Và hãy nhìn xem tôi đã đối xử với tha nhân như thế nào, so với cách tôi đối xử với chính tôi!
Thiên Chúa không muốn tôi sống xa hoa trong khi hai phần ba dân số trên thế giới sống trong nghèo đói. Người Hoa Kỳ chúng tôi chiếm ít hơn 10 phần trăm dân số thế giới, nhưng chúng tôi sử dụng đến 50 phần trăm tài nguyên thế giới.
Một số người phải sống cực khổ để chúng tôi sống sung sướng. Họ phải mang gánh nặng của lối sống chúng tôi trên vai họ.
Ông Sheen nói rằng vợ ông có công giúp ông nghiêm trọng suy nghĩ đến sự kiện là ông sẽ bị phán xét sau khi chết, không chỉ những gì ông làm, nhưng còn những gì ông không làm. Bà ta nói với ông, Hãy nhìn đến người đói khát. Hãy nhìn đến người trần truồng. Hãy nhìn đến người vô gia cư. Chúng ta phải làm gì đó cho họ.
Điều này đưa chúng ta chú ý đến mỗi người ở đây. Làm thế nào chúng ta áp dụng bài Phúc Âm hôm nay và kinh nghiệm hoán cải của ông Sheen vào chính đời sống chúng ta? Chúng ta có thể bắt đầu theo phương cách này.
Khi chúng ta được rửa tội, vị linh mục xức dầu cho chúng ta. Chúng ta được mang tên – “Kitô Hữu” – chữ này xuất phát từ chữ Kitô, có nghĩa “người được xức dầu.”
Qua sự xức dầu chúng ta được trao cho ba sứ vụ của Đức Kitô là ngôn sứ, tư tế, và vua.
Nhiệm vụ ngôn sứ thêm sức mạnh để chúng ta làm chứng cho Phúc Âm.
Nhiệm vụ tư tế thêm sức mạnh để chúng ta cùng với Đức Kitô dâng hiến chính mình cho Chúa Cha trong Thánh Lễ.
Nhiệm vụ vua thêm sức mạnh để chúng ta hoạt động cho Vương Quốc Thiên Chúa được phát triển ở trần gian.
Và như thế chúng ta có thể thực hiện điều này. Bởi vì sự chết và sự phục sinh, Đức Kitô không còn sống ở thế gian trong một thân xác bằng xương thịt.
Người không còn dạy dỗ, yêu mến, và chữa lành cho dân chúng với chính đôi tay, đôi chân, và con tim của Người – như đã thi hành cách đây 2,000 năm.
Nếu các người hèn mọn của Chúa Kitô muốn cảm nghiệm được sự tiếp xúc đầy yêu thương của Người, với đôi tay chữa lành của Người, và lời tha thứ của Người, điều đó phải được xảy ra qua chúng ta.
Điều này có nghĩa Vương Quốc Thiên Chúa, mà Người đã khởi sự trên trái đất, phải được tiếp tục và phát triển bởi chúng ta. Đây là ý nghĩa của ngày lễ Kitô Vua.
Đó là sự tán dương vương vị của Đức Kitô bằng cách thi hành vương vị của chúng ta mà Người đã chia sẻ cho chúng ta khi nhận lãnh bí tích Rửa Tội.
Các bài đọc hôm nay kết thúc một niên lịch phụng vụ của Hội Thánh. Và trong tất cả những bài đọc của năm, chỉ một vài bài mang ý nghĩa quan trọng.
Vì các bài đọc hôm nay đem lại một ý nghĩa mà đã ảnh hưởng đến Martin Sheen cách sâu đậm, có thể nói, là chúng ta sẽ bị phán xét sau khi chết bởi cách chúng ta thi hành ba sứ vụ mà chúng ta đã được lãnh nhận trong bí tích rửa tội.
Chúng ta sẽ bị phán xét về cách chúng ta phục vụ Vua Kitô, nhất là trong những người bé mọn của Người.
Chúng ta hãy kết thúc với những dòng từ bài thơ của Brewer Mattocks. Bài thơ viết:
Cha sở của Austerity leo lên một tháp cao nhà thờ để có thể gần Chúa, như vậy ông có thể nghe và đưa lời Chúa xuống cho dân chúng ở dưới.
Một ngày kia, có tiếng nói thật xa xăm. Đó là tiếng nói của Thiên Chúa – là tiếng nói mà vị linh mục này chờ đợi đã lâu.
Vì thế ông leo lên cao hơn nữa, cho đến tận đỉnh tháp, và lớn tiếng nói vào khoảng không gian: “Chúa ơi, Ngài ở đâu?” Và Chúa trả lời “Ở dưới này trong đám dân chúng.”
31.Đối diện trước tòa phán xét--Lm Trần Bình Trọng
Giáo hội thiết lập lễ Chúa Kitô, vua vũ trụ vào cuối năm phụng vụ có ý chỉ cho người Kitô giáo thấy, không những Chúa là khởi nguyên của mọi loài, mọi vật, mà còn là cùng đích của mọi sự.
Đó chính là lời Chúa mạc khải cho thánh Gioan trong sách Khải huyền: Ta là Alpha và là Omêga (Kh 21:6 & Kh 22:13) có nghĩa là Chúa là nguyên thuỷ và là cùng đích của mọi loài, mọi sự, mọi vật. Cũng theo sách Khải huyền thì Chúa Kitô là Chúa trên các chúa, là Vua trên các vua (Kh 17:14) vì Người đã toàn thắng sự chết. Tất cả các vua chúa đều phải khuất phục thần chết, chứ không ai có thể tự mình sống lại. Còn Đức Kitô-Vua đã tự chấp nhận cái chết và sau ba ngày đã toàn thắng sự chết bằng việc phục sinh khải hoàn.
Chính vì thế mà thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô hôm nay đã rao giảng vương quyền của Đức Kitô: Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc (1Cr 15:20). Cũng vì chấp nhận vương quyền của Chúa là Vua các vua, là Chúa các chúa, mà các vị anh hùng tử đạo đã sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho đức tin.
Trong kinh Tin kính, người tín hữu tuyên xưng cùng với Giáo Hội: Người sẽ đến phán xét kẻ sống và kẻ chết. Trong ngày phán xét, Chúa Kitô hiện ra như là Vua và là thẩm phán tối cao. Với tư cách là Vua, Chúa phải cai trị cho tới khi Thiên Chúa đặt mọi kẻ thù dưới chân như thánh Phaolô nhắc lại trong thư gửi tín hữu Corintô hôm nay (1Cr 15:25). Với tư cách là Thẩm phán tối cao, Đức Kitô sẽ tách biệt chiên ra khỏi dê (Mt 25:32). Chiên và dê được nuôi cho ăn trong cùng một đồng cỏ. Đêm đến người ta cho chiên và dê vào chuồng tách biệt và người ta cũng tách biệt khi đem chiên và dê ra chợ bán.
Vương quốc của Chúa Kitô được thể hiện rõ rệt nhất qua hình ảnh người chăn chiên. Theo bài trích sách ngôn sứ Êdêkien hôm nay thì vị ngôn sứ đã than trách những hành động bê trễ của các tư tế và vua xứ Giuđa trong việc săn sóc đàn chiên là dân Chúa chọn. Và rồi ngôn sứ Êdêkien tiên báo là Chúa sẽ đích thân đến đưa dẫn đàn chiên lạc trở về: Ta sẽ đích thân săn sóc chiên Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng. Như người mục tử kiểm soát đàn chiên trong ngày chúng bị tản mát, thì Ta cũng kiểm soát đàn chiên của Ta như vậy (Ed 34:11-12).
Khi mặc lấy thân xác loài người, sống giữa nhân loại, Đức Kitô đã nêu gương phục vụ loài người bằng cách rửa chân cho các môn đệ và căn dặn họ cũng phải rửa chân lẫn cho nhau, nghĩa là phục vu lẫn nhau. Đức tin của người công giáo vào ngày thế mạt hay ngày phán xét là dựa vào Thánh kinh. Thánh kinh Cựu ước cũng như Thánh kinh Tân ước đều nói về ngày phán xét. Và tiêu chuẩn cho ngày phán xét là việc bác ái phục vụ. Để cho phù hợp với lời Người giảng dạy, Đức Kitô trong Phúc âm hôm nay đồng hoá với loài người khi Người phán: Bất cứ việc gì các con làm cho một trong những người hèn mọn nhất là các con làm cho chính Ta (Mt 25:40).
Như vậy Phúc âm cho thấy thành phần trong nước Trời mang theo trách nhiệm săn sóc, phục vụ giúp đỡ tha nhân như chính Chúa đã phục vụ. Đức Kitô cho thấy ngoài mối liên hệ hàng dọc giữa thần linh và nhân loại, nghĩa là giữa Thiên Chúa và loài người, thì còn một liên hệ hàng ngang giữa người với người. Loài người là tuyệt tác phẩm của Thiên Chúa vì loài người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1:26-27; 9:6) và được máu Con Thiên Chúa đổ ra để cứu chuộc (Dt 9:12). Vậy một trong những điều kiện để gia nhập vương quốc của Đức Kitô-Vua là dựa trên việc bác ái phục vụ như: Con Người đã đến, không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ (Mt 20:28). Về Trời rồi, thì Chúa cần dùng trái tim của ta để thoa dịu những nỗi thống khổ của loài người. Chúa cần dùng tay ta để nuôi dưỡng người đói khát, băng bó những vết thương người bệnh tật. Và Chúa cần dùng chân ta để đi thăm viếng người tù đầy và đau yếu...
Theo lời Chúa dạy thì trong ngày cánh chung, người ta sẽ phải chịu phán xét về trách nhiệm của mình đối với người lầm than xấu số. Cực hình sẽ được dành cho người không chịu phục vụ những người kém may mắn. Đó là hình phạt mà người phú hộ đã phải gánh chịu vì khi còn sống không chịu giúp đỡ người nghèo đói là Ladarô (Lc 16:19-31). Người phú hộ bị kết án, không phải vì ông ta giầu có, nhưng vì ích kỉ, không chịu chia sẻ. Giáo lý Công giáo cũng dạy: Sự phán xét sau cùng này sẽ phơi bầy tất cả những hậu quả tối hậu của những gì mà mỗi người đã làm tốt, hoặc đã bỏ qua không làm trong cuộc đời trần gian của mình (GLCG # 1039). Có lẽ từ trước đến nay khi đi xưng tội, ta chỉ có thói quen xưng thú những tội lỗi ta đã phạm. Để nhắc nhở cho mình về giáo lí Chúa dạy, khi đi xưng tội, ta cũng cần xưng những tội mà mình bỏ qua, không làm cho người khác. Đó là tội thiếu trách nhiệm liên đới với người lầm than, khổ cực.
Lời cầu nguyện xin cho được phán xét khoan dung:
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng loài người giống hình ảnh Chúa
và cứu chuộc loài người bằng máu Đức Kitô.
Xin dạy con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa
nơi người đói khát, vô gia cư, rách rưới, đau yếu, tù đầy.
Xin tha thứ những lần con bịt tai nhắm mắt
trước những nỗi thống khổ và rên xiết của người lầm than,
bất hạnh vì tính íck kỉ và lười biếng của con.
Xin ban cho con một trái tim biết rung cảm
để con sẵn sàng đáp ứng nhu cầu loài người. Amen.
32.Chúa vẫn cho người bé mọn sự hiểu biết về mầu nhiệm nước trời--Lm Trần Bình Trọng
Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay là một trong những lời lẽ an ủi và khích lệ nhất trong Thánh kinh. Chúa Giêsu tạ ơn Thiên Chúa Cha đã ban cho những người bé mọn sự hiểu biết về màu nhiệm nước Trời. Còn những người khôn ngoan thông thái lại không lãnh hội được. Điều được tiết lộ cho những người này thì lại bị giấu kín khỏi những người khác. Vậy đâu là sự khác biệt và tại sao có sự khác biệt? Việc Thiên Chúa bày tỏ cho loài người qua Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại, nghĩa là ai cũng có thể mua cuốn Thánh kinh để đọc, nếu có tiền.
Tuy nhiên chỉ có những người mở rộng tâm hồn, chỉ có những người khiêm tốn trước Đấng tối cao, mới có thể lãnh hội được lời Chúa. Đó chính là ý nghĩa lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan và thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn (Mt 11:25). Chẳng thế mà văn hào Pascal mới nói: Thiên Chúa của Ápraham, Ixaác và Giacóp, không phải là Thiên Chúa của các triết gia và những nhà thông thái. Pascal là nhà toán học, vật lý học và triết học mà đã nói lên điều đó.
Vậy có phải Thiên Chúa giấu, không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời không? Nếu Chúa xử với bậc khôn ngoan và thông thái như vậy thì có vẻ Chúa không công bình với họ vì chính Chúa đã tạo dựng nên người khôn ngoan và thông thái. Và nếu như vậy thì kể là cũng tội nghiệp cho họ. Thực sự thì Thiên Chúa bầy tỏ cho tất cả mọi người về màu nhiệm nước Trời, nhưng chỉ có những người khiêm tốn và mở rộng tâm hồn mới lãnh hội được mà thôi. Những người khôn ngoan và thông thái mà cậy mình kiêu ngạo thường không muốn tuỳ thuộc vào Chúa. Và khi người ta không muốn tuỳ thuộc vào Chúa là chính lúc mà mầu nhiệm nước Trời bị cất giấu khỏi họ. Khi mà tâm trí người ta đầy ắp những thứ mà người ta cho là của mình, thì những gì thuộc thiên giới không còn chỗ mà vào. Còn những người khôn ngoan và thông thái mà có lòng khiêm tốn và mở rộng tâm hồn thì vẫn có thể tìm đến Chúa để tiếp nhận màu nhiệm nước Trời. Họ là những người to lớn về trí tuệ, mà lại bé mọn về tâm hồn. Bé mọn theo nghĩa Thánh Kinh là đơn sơ, khiêm tốn, tuỳ thuộc và phó thác vào Chúa.
Để có thể đến với Chúa và đặt niềm tin phó thác vào Người như trẻ con phó thác vào cha mẹ, người ta cần có những đức tính của trẻ nhỏ: đơn sơ, khiêm tốn, tuỳ thuộc và phó thác. Khi lớn lên với những của cải giàu sang, sự hiểu biết sâu rộng và quyền hành, người ta có thể bớt tùy thuộc vào Chúa hay không còn muốn tuỳ thuộc vào Chúa hoặc vẫn muốn tuỳ thuộc vào Chúa tuỳ theo mức độ người ta gắn bó với của cải, quyền thế hoặc tài trí. Đặc biệt hôm nay Chúa mời gọi loài người: Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28).
Có khi nào ta cảm thấy vất vả vì công việc bổn phận trong gia đình và trách nhiệm ngoài xã hội, khiến ta muốn thoát khỏi những gánh nặng của cuộc sống không? Có khi nào ta phải mang những gánh nặng của cuộc đời như bệnh tật nan trị trong thân xác hoặc những vết thương về tinh thần và tình cảm khiến tâm can ta bị hao mòn, héo hắt không? Có bao giờ ta gặp cảnh khổ đau, sầu não, phiền muộn, âu lo, sợ hãi, chán nản, thất vọng không? Có khi nào người khác thấy ta có vẻ hạnh phúc, nhưng thực sự ta đang phải mang tủi hổ về bản thân và gia đình, ta phải ngậm đắng, nuốt cay và khóc thầm trong lòng không? Có khi nào ta không có ai hoặc không tìm được ai để thổ lộ nỗi lòng cho vơi nhẹ, vì sợ không được lắng nghe và không được giữ kín không?
Nếu vậy thì hôm nay Chúa mời gọi ta đến với Chúa để bày tỏ nỗi lòng với Chúa, để trút gánh nặng của cuộc sống vào lòng từ ái của Chúa, để hoà lẫn những đau khổ của đời ta với những khổ đau của Chúa trên thập giá mà dâng lên Thiên Chúa Cha, hầu làm giá đền tội cho chính mình và cho loài người. Chúa không hứa cất đi những gánh nặng khỏi cuộc sống của ta, nhưng còn mời gọi ta mang lấy ách của Người: Hãy mang lấy ách của tôi và học với tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11:29). Vậy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng như thế nào? Lời Chúa trong sách ngôn sứ Dacaria có mô tả về Đấng Cứu thế sẽ đến như sau: Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ (Drc 9:9). Lừa là con vật hiền lành và dễ chịu khuất phục. Khi vào thành Giêrusalem trong ngày lễ Lá, Chúa Giêsu đã thể hiện lời tiên tri về Người mà cưỡi trên lưng lừa con (Mt 21:7), chứ không cưỡi trên lưng ngựa mặc dầu có ngựa ở Giêrusalem thời bấy giờ. Điều đó nói lên ý muốn của Người là sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận khổ hình thập giá, để làm giá cứu chuộc loài người.
Và Chúa bảo đảm với ta: Ách của tôi thì êm ái, gánh của tôi thì nhẹ nhàng (Mt 11:30). Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Roma nêu lý do tại sao ách ta vác không được êm ái, và gánh ta mang không được nhẹ nhàng là vì ta không sống theo Thần Khí của Thiên Chúa (Rm 8:10). Ta cảm thấy mệt mỏi trong cuộc sống khi ta dựa vào sức riêng mà không cậy dựa vào ơn Chúa giúp cho ta vượt qua. Có bao giờ ta phàn nàn rằng Thiên Chúa và đạo giáo không đem lại ích lợi gì cho cuộc sống không? Nếu đạo giáo không mang lại được gì ích lợi cho cuộc sống, thì đạo phải tới ngày tàn lụi. Tuy nhiên đạo vẫn đứng vững được cho tới ngày nay và đã đem lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống muôn vàn người tín hữu. Nếu người ta không đạt được lợi ích thiêng liêng đó, thì lỗi tại đâu?
Vậy ta cần xét đâu là động lực thúc đẩy khiến cho ách mà ta vác trở nên êm ái, gánh nặng ta mang trở nên nhẹ nhàng? Thưa chính tình yêu của Đức Kitô đã khiến cho ách của Người trở nên êm ái, và gánh nặng trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô cũng đã nhận ra hệ quả của tình yêu khi đặt bút viết: Đâu có yêu, đấy không còn khổ, mà giả như người ta vẫn cảm thấy khổ, người ta lại chấp nhận cái khổ đó vì yêu. Đến với Chúa, tâm hồn ta sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng như Chúa hứa (Mt 11:29) và như thánh Augustinô đã xác nhận: Tâm hồn ta sẽ thao thức khắc khoải, cho tới khi được an nghỉ trong Chúa.
Lời cầu nguyện xin được bổ sức:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa hứa bồi bổ sức mạnh và nghị lực,
cho những ai vất vả và mang gánh nặng của cuộc sống.
Xin dâng lên Chúa những người đau khổ về thân xác và tâm hồn;
những người lo lắng sợ hãi; những người mỏi mệt và chán sống;
những người phải mang tủi hổ và mặc cảm trong cuộc đời.
Xin ban cho họ thêm can trường và hi vọng.
Còn những khó khăn và khắc khoải của đời con,
con cũng xin dâng lên Chúa với lòng trông cậy. Amen.
33.Dân vi quý--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Hằng năm vào ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, giáo hội hiệp với toàn thể vũ hoàn suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô, Người Con chí ái của Thiên Chúa (x.Col 1,16). Khi suy tôn Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ, giáo hội muốn khẳng định chân lý mà thánh tông đồ dân ngoại đã nói với tín hữu Côlôxê, đó là mọi sự trên trời cùng dưới đất đều được Thiên Chúa tạo thành nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô. Chúa Kitô không chỉ là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu mà Người còn là khuôn mẫu của mọi vật mọi loài, vì người là Trưởng tử của mọi loài thọ sinh.
Loài người là loài cao trọng nhất trong các loài thọ tạo hữu hình. Thánh Kinh minh định chân lý này qua việc bàn bạc của Thiên Chúa trước khi tạo dựng con người và sự lao nhọc của Thiên Chúa khi dựng nên con người. Các loài thọ tạo khác thì Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền "xẩy ra như vậy". Sự cao trọng của con người còn được khẳng định khi nó được dựng nên "giống hình ảnh" của Đấng Tạo Thành và được trao quyền làm chủ vũ trụ vạn vật (x.St 1,26-29). Hình ảnh của Đấng vô hình nay đã được mạc khải cách hoàn hảo và rõ nét nơi chính Đức Kitô (x.Col 1,15).
Suy tôn Chúa Kitô là Vua vũ trụ, giáo hội không chỉ khẳng định quyền tối thượng của Chúa Kitô trên mọi loài mà còn tuyên xưng Chúa Kitô chính là khuôn mẫu, là lẽ sống của mọi hiện hữu, nhất là của loài người. Qua các bài đọc của Chúa Nhật XXXIV TN C mà giáo hội cho trích đọc chúng ta nhận ra khuôn mẫu, lẽ sống mà Đức Kitô tỏ bày đó là hiện hữu cùng và hiện hữu cho.
"Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta" (Mt 1,23). Khi vào trần gian, Đức Kitô đã mạc khải cho nhân loại chúng thấy ý nghĩa của các hiện hữu là hiện hữu trong tương quan. Mọi thụ tạo, nhất là loài người, không ai là một hòn đảo. Ta chỉ là ta trong tương quan với người. Có người thì mới có ta. Trong mối tương quan gia đình dòng tộc, cha ông chúng ta có câu ngạn ngữ rất tượng hình: có con rồi mới có cha, có cháu rồi mới có ông, có bà.
Mối tương quan "cùng-với" này vừa nói lên sự tuỳ thuộc vừa nói lên sự liên đới giữa các hiện hữu. Nhiều muông thú hay vật nuôi như chim, gà, mèo, chó..., khi được nuôi riêng một mình thì chúng vẫn phát triển thành chúng, trái lại, con người không thể lớn lên, phát triển thành người cách đúng nghĩa khi sống một mình. Hiện tượng "người rừng" đó đây, không có khả năng nói, không có khả năng giao tiếp với đồng loại...là một minh chứng. Chúng ta làm người, chào đời, có mặt ở trần gian này là nhờ ai đó và với ai đó. Vì thế có thể nói rằng một trong những mục đích và ý nghĩa nền tảng của sự hiện hữu của con người đó là sống cùng, sống với và sống cho.
Cả cuộc đời của Đức Kitô trên trần gian, rõ nét nhất là quảng thời gian rao giảng Tin mừng và đích diểm là cái chết trên thập giá khẳng định cho chúng ta về mục đích ý nghĩa của kiếp nhân sinh. Đức Kitô là Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cvtđ 10,38). Và chính Người đã minh định rõ ràng: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28).
Trên đỉnh đồi Gôngôta, dù có thể tự cứu mình khỏi án hình thập giá, nhưng Chúa Kitô đã không tự cứu mình. Dù không tìm cách tự cứu mình thế mà Người đã hứa ban hạnh phúc Thiên đàng cho người bị treo bên phải Người, đồng thời xin Chúa Cha tha cho những người đang phỉ nhổ, hành hạ và giết mình mà trong số đó chắc chắn có cả người gian phi bị treo bên trái Người (x.Lc 23,39-43).
Hình ảnh của một vị minh quân theo quan niệm người xưa đó là người lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ. "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Hình ảnh vị minh quân này đã được Chúa Kitô thể hiện bằng vị mục tử nhân lành sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì đàn chiên và vì từng con chiên một. Xuất thân từ một người chăn chiên, Đavít đã được chọn gọi để làm vua Israel. Dù còn nhiều thiếu sót và lỗi lầm tày trời, nhưng Đavít chính là một hình ảnh tiên báo cho vị Mục Tử Nhân lành, vị Vua Công chính là Đức Kitô, Đấng đã dùng tình yêu của mình để dẫn đưa mọi thụ tạo, nhất là loài người về với sự thật căn bản: chúng ta là loài thụ tạo, chúng ta sẽ chỉ là mình khi hiện hữu đúng với thánh ý Đấng Tạo Thành đó là sống cùng và sống cho tha nhân.
Dỏng dạc trước Philatô, Chúa Kitô minh nhiên công bố: "Tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật, thì nghe tiếng tôi"(Ga 18,37). Và sự thật ấy được tỏ bày cách hoàn hảo bằng một Con Người chịu treo trên thập giá, với trái tim bị đâm thâu, hầu đưa toàn thề nhân loại đi lên và những ai tin vào Người thì sẽ được sống muôn đời (x.Ga 3,14-15), đồng thời làm cho muôn vật muôn loài được hòa giải với Thiên Chúa (x.Col 1,20).
Suy tôn Chúa Kitô là Vua tức nhìn nhận quyền tối thượng của Người trên đời chúng ta, là đón nhận lẽ sống, quy luật hiện hữu mà Người đã ban ra. Chúng ta có thể nhận ra quy luật ấy qua lời khẳng định của Chúa Kitô: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy...(Mc 8,34-38; Mt 16,24-28; Lc9,23-27).Và đến ngày tận thế, chính Đấng là Vua Vũ Trụ, khi "ngự trên ngai vinh hiển của Người" sẽ thẩm xét chúng ta dựa trên tiêu chí là thái độ sống cùng, sống cho tha nhân của chúng ta, đặc biệt cho những người anh em "bé mọn" (x.Mt 25,31-46).
34.Đường về vương quốc tình yêu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Suy niệm
Để vào Vương Quốc Tình Yêu, con người phải có Tình Yêu - Tình yêu Thiên Chúa và Tình Yêu tha nhân - Chúa Giêsu luôn luôn nhắc nhở về Giới Luật Yêu Thương trong xuyên suốt cuộc hành trình loan báo Tin Mừng của Ngài. Đường về Vương Quốc Tình Yêu không có con đường nào khác ngoài “Con đường Tình Yêu Giêsu”.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều thuộc vào hai điều răn ấy.” (Mt.34-40)
Yêu mến Thiên Chúa
Chúa Giêsu đã lặp lại một giới răn quan trọng trong Đệ Nhị Luật về điều luật yêu thương đối với Thiên Chúa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Đnl. 6,5).
Ta sống trong cuộc đời, mọi suy nghĩ và hành động đều phải nhắm đến mục đích tôn vinh Danh Thánh Chúa. Chính nhờ thế, mà mọi suy nghĩ và hành động được thánh hóa và định hướng theo ý ngay lành vì Thiên Chúa là Đấng toàn thiện. Thánh ý Thiên Chúa luôn là Chân Thiện Mỹ và mọi việc làm của con người theo thánh ý Ngài là để tôn thờ Ngài và làm ý định của Ngài thành hiện thực trong Vương Quốc Tình Yêu của Ngài từ ngay ở cuộc đời này và cho đến đời đời. Như Chúa Giêsu đã dạy ta cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, Nước cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời”.
Chính khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa, chúng ta biết thao thức và tìm về nguồn vĩnh cửu. Chúng ta biết tự hỏi và luôn nhìn lại từng bước đi của đời mình, như chàng thanh niên đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, con phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc. 10,17).
Chính khi ta yêu mến Thiên Chúa, ta mới biết đâu là chân giá trị của cuộc đời, để chúng ta biết chọn lựa, để chúng ta đừng “rời bỏ” hướng đi đúng đắn của đời ta chỉ vì những lợi lộc phù du. “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc,17-22).
Chính khi chúng ta biết yêu mến Thiên Chúa, chúng ta biết nương tựa nơi Ngài, trông đợi nơi Ngài, đặt niềm tin nơi Ngài, chứ không trông đợi vào sức mạnh ở trần gian. “Chúng ta chẳng phải là một thế hệ chỉ biết trong ngóng nơi trần thế sự tiến bộ nhất thời sao?” (Gioan Phaolô II. Thư gởi giới trẻ, số 5).
Chính khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, ta mới thủy chung với Thiên Chúa. Hoàn toàn phó thác nơi Ngài.
Yêu người thân cận
Chính từ lòng mến yêu Thiên Chúa giúp ta biết yêu mến tha nhân và chia sẻ chân tình những buồn vui trong cuộc sống.
"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt. 25,34-36).
Nói như cách nói của ĐGH Bênêđictô XVI, thế giới hôm là “một thế giới tan nát vì chia rẽ và hận thù”. Có biết bao người đói khát, lạc lỏng, trần trụi, bệnh hoạn, tù tội… trước những ánh mắt lạnh lùng của nhiều người sống phung phí, xa hoa, quyền lực, đàn áp, tàn bạo, tom góp…
Không chỉ là cơn đói thân xác mà còn là cơn đói tâm linh. Không chỉ là tù tội thân xác, mà còn là tù tội tâm hồn. Có biết bao người bị giam cầm trong thứ ngục tù ý thức hệ chính trị, tôn giáo, triết học, y học… xem nhẹ đạo lý, phi nhân, trong muôn hình vạn trạng phương cách hủy hoại những điều cao quý thiêng liêng của con người, như phá thai, khủng bố, buôn người, mafia…
Thay vì làm cho thế giới tốt đẹp hơn, nhiều người vì những lợi nhuận trước mắt, vì những quyền lợi riêng lẻ, đã làm bất cứ chuyện gì có thể làm được để đạt được mục đích lợi lộc ích kỷ của mình, gây ra biết bao điều bất hạnh cho người khác.
Rõ ràng, một thế giới tan nát vì thiếu tình thương.
Thánh Augustinô đã khuyên: “Ta hãy cùng nhau ao ước Thiên Quốc, hướng lòng về Quê Trời, chúng ta cảm thấy mình là lữ khách nơi trần thế này” (Chú giải Phúc Âm thánh Gio-an, bài giảng 35,9).
“Ao ước Thiên Quốc, hướng lòng về Quê Trời” bằng chính việc xây dựng một thế giới yêu thương ngay tại trần thế để ta chuẩn bị vào Vương Quốc Tình Yêu vĩnh hằng của Thiên Chúa”. Về Vương Quốc Tình Yêu, phải đi con đường Tình Yêu như Thầy Giêsu đã yêu thương nhân loại đến hiến tế mạng sống mình vì nhân loại trên Thập Giá.
Mỗi người cho nhau điểm tựa yêu thương, ta hướng tâm hồn lên cao là “đường về Vương Quốc Tình Yêu”duy nhất, không thể là đà trong những con đường dục vọng thấp hèn không có lối thoát ở trần gian.
"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.”
Để đạt được điều đó, Chúa đã cho ta thấy bức tranh ngày phán xét, trong đó, không có gì khác ngoài tình yêu mà con người dành cho nhau.
Trong tập truyện “Điểm tựa yêu thương”, có câu chuyện ngắn “Lời hứa” đáng cho ta suy ngẫm:
Vì xa cách nhau đến 5 tuổi, nên mọi người vẫn nói thật kỳ lạ khi chúng tôi lại giống nhau đến thế. Tôi và em gái có đường nét trên gương mặt rất giống nhau và dĩ nhiên, chúng tôi đều có mái tóc dài đỏ hoe. À, ít ra tôi vẫn còn tóc cho đến khi bắt đầu trải qua liệu pháp hóa trị. Những lọn tóc dài đỏ hoe của tôi rụng từng nắm khi quá trình trị liệu diễn ra.
Tôi sờ lên mái đầu đã trọc lóc của mình. Nước mắt ứa ra. Giờ thì mọi người sẽ không nói chúng tôi giống nhau nữa. Cô em Marlanea đang bay từ Montana sang thăm tôi. Nó không biết trông tôi sẽ tệ đến thế nào. Tôi muốn chuẩn bị tránh cho nó bị sốc hay ngăn nó thấy những gì nó sẽ chứng kiến. Tôi đã luôn trông nom nó, cố gắng bảo vệ nó an toàn, tránh xa mọi tổn hại Con bé ra đời vào ngày sinh nhật lần thứ năm của tôi. Mẹ tôi nói rằng nó là quà sinh nhật của tôi. Tôi xem việc đó là nghiêm túc và tôi yêu thương nó bằng tất cả trái tim mình.
Chúng tôi lớn lên bên nhau không rời nửa bước. Chúng tôi chính là những người bạn tốt nhất của nhau. Cha mẹ chúng tôi vẫn thường nói lẽ ra chúng tôi phải là hia chị em sinh đôi vì chúng tôi giống nhau quá nhiều, và chúng tôi quá thân thiết với nhau.
Thậm chí chúng tôi suy nghĩ cũng giống nhau nữa. Khi đi mua sắm, chúng tôi thường mua những món quà nhỏ cho nhau – từ áo thun cho đến tách cà-phê – nhưng hầu như lần nào chúng tôi cũng mua cho người kia cùng một món. Chúng tôi chia sẻ một sự gắn bó mà hầu hết mọi người đều không hiểu được.
Giờ đây là khi đã trưởng thành, chúng tôi sống ở hai bang khác nhau. Con bé gọi điện thoại cho tôi, khi tôi “A lô”, ngay lập tức, nó hỏi: “Em biết có chuyện không ổn. Nói em biết đi, chuyện gì vậy?”.
Không còn ngạc nhiên về khả năng kỳ bí khi biết trước có chuyện bất ổn xảy ra của cô em, tôi đành kể cho nó nghe. Chúng tôi lặng im, cùng khóc thầm. Những giọt nước mắt tôi không thể khóc vào sáng sớm hôm đó giờ đây tự nhiên tuôn ra trong lúc tôi trò chuyện với em gái qua điện thoại.
Từ lúc biết được tôi bị ung thư, gần như ngày nào con bé cũng gọi điện thoại. Trong giọng nó lúc nào cũng có sự lo lắng nhưng dù sao cũng luôn tươi tắn. Hàng tuần, con bé gửi cho tôi một tấm thiệp vui, một tia hy vọng rực sáng khiến tôi tin rằng cuộc đời sẽ lại bình yên.
Trong một cuộc trò chuyện đẫm nước mắt qua điện thoại, con bé nói với tôi rằng nó biết chắc tôi sẽ không qua đời vì ung thư.
Tôi hỏi trong nước mắt: “Vậy à, sao em biết?”.
“Bởi vì khi còn nhỏ, chúng ta đã từng hứa rằng chúng ta chỉ có thể qua đời nếu người còn lại cũng sẵn sàng ra đi. Mà em thì chưa sẵn sàng chết nên chị cũng không thể ra đi được.”
Chúng tôi chưa từng thỏa thuận xem nếu chúng tôi phá vỡ lời hứa thì chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng cả hai chúng tôi đều hiểu rằng điều đó chắc chắn phải rất nghiêm trọng.
Tôi nghe thấy tiếng taxi dừng trước cửa nhà. Em gái tôi, người bạn tốt của tôi, vừa đến.
Tôi run rẩy đưa tay lên sờ vào mái đầu trọc của mình một lần nữa trước khi mở cửa cho người bạn tốt nhất – em gái tôi.
Con bé đứng đó, mặt trời tỏa ánh nắng rực rỡ phía sau khiến nó lung linh như một thiên thần, giống hệt những gì tôi luôn nghĩ về nó. Con bé đứng đó, trong chiếc quần jeans bó và áo thun, đội một chiếc nón có hàng chữ: “Hôm nay đầu tôi xấu lắm”. Cả hai chị em cùng cười.
Tôi lên tiếng: “Chào em”.
Con bé trả lời: “Chào chị”.
Rồi con bé đưa tay lên gỡ nón ra. Em gái tôi đã cạo trọc đầu. Chúng tôi đứng đó, cùng khóc, cùng cười, và ôm lấy nhau.
“Trong chúng ta vẫn như hai chị em.” – Con bé nói.
“Chị yêu em.” – Đó là tất cả những gì tôi có thể nói.
Tôi nhắm mắt lại và thầm nguyện cầu: “Tạ ơn Chúa đã ban cho con cuộc sống. Tạ ơn Chúa trên Thiên Đường vì đã cho con người em. Cám ơn mẹ đã cho con món quà này”.
Dawn Braulick.
Đường về Vương Quốc Tình Yêu
“Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc!”.
Nếu ta có tên trong “những kẻ Cha Ta chúc phúc” thì hạnh phúc biết bao! Được Chúa gọi như vậy, là ta đã trải qua một cuộc đời thật ý nghĩa!
Giêsu Kitô, Vua Tình Yêu, Vua Hòa Bình, chỉ có con đường Giêsu mới dẫn chúng ta đến Vương Quốc Tình Yêu của Ngài.
Trong thế giới nhiều biến động và không ngừng hận thù tranh chấp, giữ được trái tim yêu thương để đến với nhau bằng tình yêu chia sẻ, nâng đỡ, cảm thông, tha thứ… như Tình Yêu Giêsu thật không dễ dàng gì! Nhân loại cần có nhau, nhưng chính nhân loại lại gây cho nhau những thương đau! Nhưng, Chúa sẽ ban cho sức mạnh để không ngừng phấn đấu vươn lên.
Trong Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 25, ngài kể lại:
Mắt hướng nhìn về sự sống vĩnh cửu, chân phước Pier Giorgio Flassati, qua đời năm 1925, lúc mới 24 tuổi, đã nói: “Tôi muốn sống thực chứ không muốn sống lây lất!”, và trên tấm hình chụp một cuộc leo núi, gửi cho một người bạn, chân phước viết: “Hướng lên cao”, ám chỉ sự trọn lành Kitô giáo, cũng là sự sống đời đời.
Tội lỗi là sự nghèo đói tâm linh, là sự thiếu thốn tâm hồn, là kiếp tù đầy của bóng tối, là khách lạ lạc lỏng trong cuộc hành trình, là vết thương vô hình gặm nhấm hồn xác… cần lắm tình thương của đồng loại.
Hãy là những “điểm tựa yêu thương” cho nhau trong cuộc đời này, để mai này chúng ta được vào Vương Quốc Tình Yêu của Ngài.
Lạy Chúa,
Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa,
Trong mọi người. Amen.
35.Suy niệm của Lm. Jos. Nguyễn Thái
“Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta.” (Mt 25:31-46)
Cách đây ít lâu, một nười lính Mỹ đang đi xe buýt ở Thụy Điển nói chuyện với một người đàn ông ngồi bên cạnh rằng, “Nước Mỹ là một quốc gia dân chủ nhất trên thế giới. Những người công dân bình thường có thể đi tới Tòa Bạch Ốc để gặp Tổng Thống và thảo luận công việc.” Người đàn ông bên cạnh trả lời, “Điều đó đâu có đáng là gì. Ở Thụy Điển, Nhà Vua và dân chúng cùng đi với nhau trên cùng một chiếc xe buýt kìa.” Khi người đàn ông vừa nói chuyện đó bước xuống khỏi xe buýt, người lính Mỹ đã được các hành khách khác còn lại trên xe nói cho biết người ấy chính là Vua Gustav Adolf VI.
Trong bài phúc âm hôm nay, Mt 25:31-46, “Dụ Ngôn Cuộc Phán xét chung” nói lên những điều nghịch thường của đức tin Kitô giáo. Ngày nay nói đến sự cai trị, người ta ngĩ đến sức mạnh của vũ khí, quyền lực, kinh tế, tiền bạc, quảng cáo,thị trường… Chúa Giêsu nói đến sự cai trị bằng tình yêu, phục vụ và trách nhiệm. Chúa Giêsu là Đức Vua. Người đến không phải để được phục vụ, nhưng phục vụ, và hy sinh mạng sống của Người làm giá cứu chuộc cho nhiều người (Mt 20:28). Vương Quốc của Người gồm những người cùng cực, nghèo khổ, đói khát, trần truồng, bị bỏ rơi, và tù tội. Những ai săn sóc, phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của họ thì thuộc về Vương Quốc của Người.
Ngược lại, chúng ta sẽ bị phạt “nếu chúng ta bỏ qua không đáp ứng những nhu cầu nghiệm trọng của những người nghèo khó và của những kẻ bé mọn, anh chị em của Ngài” (GLCG #1033). “Thiên Chúa chúc phúc cho những ai giúp đỡ những người nghèo và Ngài lên án những kẻ ngỏanh mặt đi” (GLCG #2443).
“Dụ ngôn cuộc phán xét chung” trình bày một bối cảnh người mục tử tách rời chiên ra khỏi dê. Đây là điểm sẽ tạo nên ngạc nhiên. Ai là chiên? Ai là dê? Đã có những người không nhận ra rằng họ đang phục vụ cho Chúa Kitô khi họ cho những người đói khát ăn uống, cho kẻ mình trần mặc, đón tiếp khách lỡ đường, viếng thăm người đau ốm, tù đày. Và cũng có những người đã không nhận ra rằng họ đã tực sự chểnh mảng, không săn sóc Đức Kitô, khi họ làm ngơ trước những nhu cầu của những người nghèo khổ (GLCG #2443).
Phúc âm nói rất rõ, người được cứu và người không được cứu, chiên và dê sẽ bị phân chia ra bởi tiêu chuẩn căn bản dực trên những việc làm bác ái yêu thương, chứ không phải dựa vào danh giá, chức vụ, và địa vị xã hội. Và đây chính là điều làm cho nhiều người phải ngạc nhiên.
Một văn sĩ Kitô giáo khác, Frederick Buechner đã diễn tả cùng một tư tưởng này như sau: “Nhiều người vô thần là một người có lgòn tin mà không biết. Ngược lại, nhiều người có lòng tin mà không biết. Ngược lại, nhiều người có lòng tin lại là một người vô thần mà không hay biết. Bạn có thể thành như thể có một Đấng Tối Cao. Ngược lại bạn cũng có thể thành thật tin tưởng rằng có một Thiên Chúa nhưng lại sống như thể không có gì.”
Chưa bao giờ sự chênh lệch giữa những người giàu có và những người nghèo khổ lại càng ngày càng tách biệt như ngày nay. Người Mỹ chiếm tỷ lệ là 4% dân số thể giới, nhưng đã tiêu thụ đến 40% số dầu hỏa của nhân loại. Họ nắm trong tay 80% của cải của thế giới. Tài tử Jack Nicholson chỉ nói mấy câu tếu táo trong phim Batman đã lãnh đợc 10 triệu đô la. Tài tử Bill Cosby với lợi tức cả trăm triệu đô la hàng năm nếu di chuyển đến sống ở một quốc gia nhỏ bé nào đó, có thể làm cho lợi tức của toàn thể quốc gia đó tằng lên gấp đôi. Ca sĩ Michael Jackson đã thương lượng với nhà xuất bản để ra một CD với hợp đồng đòi hỏi tăng từ 18 triệu tới 25 triệu đô la. Tất cả các cầu thủ thể thao về bóng rổ, baseball, và football, đều là các triệu phú! Michael Jordan ký hợp đồng 37 triệu đô la 1 năm.
Trong khi đó theo báo cáo của Hội Ngị quốc Tế về tình trạng của các trẻ em trên thế giới. Mỗi năm, có khoảng 14 triệu trẻ em chết oan uổng vì đói ăn, suy dinh dưỡng, và thiếu sự săn sóc về thuốc men. Bà Oprah Winfrey trên show truyền hình đã đề nghị rằng chỉ cần mỗi người Mỹ bỏ ra 19 xu một tuần, chưa tới 10 đô la một năm, có thể cứu vớt được 14 triệu sinh mạng trẻ em dễ dàng. Có người đề nghị rằng chỉ cần cắt giảm 10% ngân sách quốc phòng của Mỹ cũng có thể cứu sống được 14 triệu sinh mạng hằng năm.
Đối diện với tình trạng khủng hoảng của thế giới hiện nay, ĐGH Gioan Phaolo II đã kêu gọi mọi người hãy dấn thân xây dựng một nền văn minh mới:
“Chính Ngài nói với bạn ‘Hãy chỗi dậy! Hãy chỗi dậy!’ Ngài yêu cầu bạn từ bỏ các ngẫu tượng của thế giới và chọn Ngài là tình yêu, thứ tình yêu mang lại một ý nghĩa hoàn toàn cho cuộc sống của bạn và kêu mời bạn hướng về tuổi xuân cũng như về mùa xuân, vui vẻ sống mùa xuân trong việc trao tặng, trao tặng chính mình, trao tặng Chúa Kitô, trao tặng Ngài cho mỗi một người trong chúng ta, và sau đó trao tặng chúng ta cho Ngài, trao tặng chúng ta cho tha nhân cũng như trao tặng chúng ta cho ngài qua tha nhân. Đó là viễn ảnh của việc xây dựng một nền văn minh khác, một nền văn minh mới: nền văn minh tình thương.” (TVNNTB, tr. 153-154).
Thật vậy, Giáo Hội xét như hiền thê của Chúa Giêsu, tiếp nối công việc mục vụ của người, Giáo Hội luôn dứt khoát chọn lựa đứng về phía những người nghèo và nhừn kẻ bị bỏ rơi. Giáo Hội đã không ngừng lên tiếng, kêu gọi, và đấu tranh chống lại sẹ nghèo đói, bất công xã hội dưới mọi hình thức, nghèo về vật chất, tinh thần, và đặc biệt nghèo tình thương yêu (GLCG từ số 2443 tới 2449).
Trong cuộc Cách Mạng Pháp vào năm 1789 đã xảy ra một câu chuyện về một bà mẹ đi lang thang trong rừng 3 ngà với hai người con, họ không có gì ăn, phải ăn rễ và lá cây rừng để sống. Vào ngày thứ ba, bà mẹ nghe thấy tiếng của những người lính đang tiến đến gần, bà vội lôi kéo hai người con chui vào một bụi rậm ẩn trốn. Viên trung sĩ chỉ huy đám lính đi lục soát các bụi rậm đã nhìn thấy người mẹ đói khổ và hai đứa con thì chạnh lòng thương bèn đem cho họ một ổ bánh mì. Bà mẹ cầm ngay lấy nó, bẻ ra làm hai miếng, và cho mỗi người con một nửa. “Bà mẹ chẳng giữ miếng nào cho bà ấy cả,” viên trung sĩ nói. “Bà ấy không đói sao? Một người lính hỏi. “Không phải vậy, vì bà ấy là mẹ, viên trung sĩ trả lời.
Đứng trước nhu cầu của thế hiện nay, Mẹ Giáo Hội nhận thấy cần phải đáp lại bằng một nền văn minh của tình thương, qua lời nhắn nhủ của ĐGH Gioan Phaolo II, tình thương đó dựa trên tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Vua của Lòng Thương Xót, là nền tảng cho tất cả các giá trị phổ quát mà con người đang đi tìm kiếm.
36.Một tước hiệu dễ bị ngộ nhận--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tin Mừng thánh Matthêu chương XXV mẹ Hội Thánh đưa vào trong Thánh Lễ cuối năm Phụng vụ, dễ bị ngộ nhận như là gai chướng. Sự gai chướng dễ bị ngộ nhận này không nguyên chỉ vì tước hiệu Vua vũ trụ mà Hội Thánh suy tôn Thầy Chí Thánh và còn cả nơi nội dung lời giảng dạy của Người qua dụ ngôn “cuộc phán xét chung”.
Hình ảnh của một minh quân trong lịch sử quả là hiếm hoi so với nhiều ông vua gian ác, độc tài, chuyên chế. Nghĩ đến thể chế phong kiến người ta dễ có cái nhìn không mấy thiện cảm. Đã là quân chủ với một ông vua cai trị kiểu cha truyền con nối thì sự chuyên chế hà khắc thường xảy ra. Thế mà Hội Thánh vẫn không ngần ngại suy tôn Chúa Kitô với danh hiệu Vua vũ trụ. Qua danh hiệu này Hội Thánh không chỉ nhìn nhận quyền tối thượng của Đức Kitô trên mọi vật mọi loài thọ tạo, hữu hình và vô hình, mà còn tuyên bố với mọi người về niềm hạnh phúc và vinh dự của mọi loài thọ tạo khi có Đức Kitô làm vua của mình.
Đã là loài thọ tạo thì phải thần phục Đấng dựng nên mình. Tuy nhiên chúng ta không sống tâm tình thần phục như nguời nô lệ. Đấng xứng đáng là Vua, là chủ tể của chúng ta đã tự nguyện làm anh cả giữa loài người. Đấng tạo thành đã tự nguyện trở nên con của loài người. Và đặc biệt Người đã chọn hạnh phúc của con người, của từng người làm vinh quang của chính Người. Có thể nói không ngoa ngữ chút nào rằng Người tự nhận số phận của con người, của từng người, nhất là những người yếu thế, kém phận, làm số phận của chính Người.
Chúa Kitô làm vua của một vương quốc mà trong đó mọi người từ cổ chí kim đều là con dân của Người. Chúng ta hãnh diện và vui mừng vì vương quốc mà Chúa Kitô thống trị là một vương quốc mà trong đó “dân vi quý, dân vạn đại”. Chúng ta vui mừng và hãnh diện trong vương quốc này vì vị Vua cai trị chúng ta là Đấng có thể nói theo kiểu phàm nhân rằng “luôn lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ”. Chúng ta lại càng hãnh diện và vui mừng vì vương quốc Chúa Kitô thiết lập là một vương quốc mà trong đó không một ai là đáng bỏ đi, không một ai là thành phần hạ đẳng.
Khi các ngươi làm hay không làm điều tốt cho một trong những kẻ bé mọn này là các ngươi đã làm hay đã không làm cho chính Ta x.Mt 25,31-46). Hiến pháp, luật lệ của vương quốc này thật đơn giản. Đó là phải sống cho có lòng, có tâm với nhau, đặc biệt với người anh chị em yếu thế, kém may mắn cận kề chúng ta.
“Thầy bảo thật cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisiêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Và Chúa Giêsu đã quảng diễn sự phải “công chính hơn” này là không được phép loại bỏ bất cứ một ai dù chỉ là trong cung cách hành xử hay trong tâm trí. Không loại bỏ tha nhân chưa đủ, Người còn đòi hỏi phải biết liên đới với tha nhân trong hạnh phúc của họ. “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Dĩ nhiên, nếu vì lỗi của ta thì việc bỏ của lễ lại để đi làm hòa trước đã, là điều dễ hiểu. Còn nếu không phải do lỗi của ta mà do lỗi của người anh em, thì ta cũng phải làm như thế. Nếu không làm thì ta sẽ mắc phải món nợ tình yêu, vì ta thờ ơ với số phận của người anh em mình. Người có lỗi, người có tội là một trong những bé mọn mà ta cần quan tâm nâng đỡ. Mẹ Hội Thánh đã hiểu chân lý này khi dạy chúng ta những mối thương người: “Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dạy kẻ mê muội; An ủi kẻ âu lo; Răn bảo kẻ có tội…”
Không ai có thể lên trời “một mình”. Không ai có thể làm con dân Nước trời với sự ích kỷ, với thái độ bàng quan, hững hờ trước người anh em. Mặc dù vẫn có đó sự gai chướng của hình ảnh vị quân vương trần thế của quá khứ lịch sử, thế nhưng đã đón nhận chân lý trong niềm tin thì chúng ta cùng với toàn thể thụ tạo phải thần phục tuyệt đối Đấng tạo thành nên mình. Đã con thần dân của vương quốc tình yêu thì ta phải sống theo thể chế và luật lệ của vương quốc ấy mà thôi. Luật lệ và thể chế ấy không gì hơn là sự hiệp thông liên đới huynh đệ trong tình yêu của Vị Vua trên các vua đã yêu thương chúng ta trước đến độ hiến dâng cả mạng sống vì chúng ta. Lịch sử cho thấy đã từng có biết bao người xưa lẫn nay can đảm đón nhận sự gai chướng ít nhiểu bị ngộ nhận khi thần phục Đấng là Vua Vũ Trụ nhưng rồi họ đã cảm nghiệm nó thật là “êm ái và nhẹ nhàng” (x.Mt 11,28-30).
37.Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với niềm vui khôn tả và quả quyết rằng Người là Vua và là Chúa chúng ta. Nhưng vương quốc của Người không thuộc về thế gian này.
Vậy Người là Vua những gì? Người là Vua vinh quang, Vua mọi sự. Đơn giản, Người là Vua, hoàn toàn là Vua. Thực tế xem ra khó chấp nhận, vì con người muốn biến Đức Giêsu thành trò cười khi mặc cho Người áo tím và đội vòng gai.
Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa là Vua dân Ngài tuyển chọn. Tước hiệu này được gán cho Chúa Kitô, chính nơi Người mà mạc khải được hoàn tất. Người đã khai mở triều đại Thiên Chúa bằng chiến thắng trên sự chết, khước từ vương quốc nhân loại sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều: “Biết họ muốn tôn phong Người lên làm vua” (Ga 6, 5). Người sẽ thể hiện ý nghĩa tuyệt đối về vương quốc của Thiên Chúa trên thập giá. Bị kết án bởi những tham vọng của vương quốc thế trần, nhưng chiến thắng bằng vương quốc vĩnh cửu, yêu thương và an bình.
Khi nói đến tước hiệu “vua” một số người thường nghĩ ngay đến quyền lực và sức mạnh tuyệt đối. Nhưng quyền ở đây là gì? Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe có câu trả lời. Đó là quyền sống đời đời! Vậy câu hỏi được đặt ra: chúng ta trao quyền đó cho ai? Chính chúng ta cũng không có quyền sống đời đời, làm sao chúng ta có thể trao ban cho người khác? Ngay cả sự sống chúng ta lãnh nhận, chúng ta cũng không thể tặng ban cho chính mình, huống hồ là sự sống thần linh, sự sống đời đời.
Chúng ta lãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa, chỉ mình Thiên Chúa mới có thể trao ban sự sống ấy. Chúa Cha đã trao cho Chúa Con quyền này, và đặt vào tay Chúa Con, nên Chúa Con là Vua vũ trụ. Lời nguyện Thánh lễ hôm nay cho thấy Thiên Chúa muốn thiết lập mọi sự nơi Con yêu dấu của Ngài là Vua vũ trụ “Chúa Giêsu là nền tảng của chúng ta, nơi Người chúng ta đặt mọi hy vọng”. Chúng ta biết, muốn xây dựng một lâu đài cao vút, thì nền móng phải vững chắc và đáng tin. Vậy, Chúa Giêsu là đá tảng từ trời xuống đặt nền trên trái đất để xây dựng một nhân loại mới lên tới trời!
Đời sống chúng ta được xây dựng trên Chúa Kitô, đức tin càng chắc chắn và sống động thì sự hiện hữu của chúng ta càng gắn bó chặt chẽ với Thiên Chúa. Chính bởi nghe và đồng hóa với Lời Thiên Chúa mà đức tin chúng ta trở nên chắc chắn và lớn lên trong Đức Kitô.
Lời cầu nguyện đầu lễ: “Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi…” Một trong những thuộc tính của vị vua là bảo vệ thần dân, giải phóng dân của mình khỏi tay quân thù; Chúa Kitô Vua đã giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự chết. Hận thù, bạo lực, ngẫu tượng làm chúng ta thất vọng, Người đến giải thoát chúng ta khỏi mãnh lực của sự chết, khỏi nô lệ của mọi thứ vui, rượu chè, cờ bạc, sì ke, ma túy…
Lời Chúa trong sách Tiên tri Êdêkiel “Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau” (Ez 34, 15-16).
Và khi giải thoát chúng ta, Đức Kitô đã đưa ra khỏi tình trạng nô lệ để chúng ta trở nên những người tự do. Chính tình yêu cho phép chúng ta sống sự sống của Thiên Chúa nơi con người, và phục vụ đồng lo của mình của mình ại trong yêu thương khi trao ban cho người đói đồ ăn, người khát thức uống, cho khách đỗ nhờ, cho người mình trần áo mặc, viếng thăm kẻ bị giam cầm, an ủi người cùng khổ; tóm lại, yêu thương và phục vụ con người là trả lại cho anh em đồng loại phẩm giá bị đánh mất. Đây chính là điều Đức Giêsu đã làm để giải thoát con người.
Sau cùng, Đức Kitô có quyền xét xử. Chính người tuyên án: “Mỗi lần các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho chính Ta” (Mt 25, 40.45).
Chúng ta không thể chiếm lấy gia nghiệp nước trời đã chuẩn bị từ tạo tiên lập địa cho những ai phục vụ trong yêu thương. Chỉ người sống yêu thương mới có chỗ trong triều đại sự sống và chân lý, ân sủng và thánh thiện, công chính, yêu thương và an bình của Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện Ca hiệp lễ kết thúc bằng lời cầu xin: “cho hết mọi loài thọ sinh (…) biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng”.
Nếu Đức Kitô Vua đã chiến đấu cho đến chết, thì các thần dấn cũng phải chiến đấu. Vì thể chế xã hội loài người không muốn Đức Kitô cai trị trên họ nên họ chiến đấu chống lại Đức Kitô.
Nếu chúng ta là thần dân của Đức Kitô, chúng ta phải cầm vũ khí tốt để chiến đấu, vũ khí ấy là: chuyên cần cầu nguyện, siêng năng lãnh nhận các bí tích, sự chúc lành của Thiên Chúa chỉ cho chúng ta trước cuộc chiến đấu, biết chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa và của Đức Kitô trên mọi sức mạnh của sự dữ.
Chúng ta chỉ còn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Vua Kitô, sống trung thành với Người như những tôi tớ, can trường trong đức tinh, nhiệt thành trong đức mến, để một ngày kia, chúng ta có thể nghe Vua Kitô nói với chúng ta rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Mt 25, 34).
Lạy Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ Vua Giêsu, Vua Tình Yêu. Xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua vũ hoàn nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, mọi vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen.
38.Giêsu vua Tình Yêu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với niềm vui khôn tả và quả quyết rằng Người là Vua Tình Yêu và là Chúa chúng ta. Vua của Vương Quốc Yêu Thương và An Bình. Hôm nay, Vị Vua ấy nói với chúng ta về cuộc phán xét tình yêu. Khi sử dụng ẩn dụ chiên - dê, Người cho chúng ta thấy rằng đây sẽ là cuộc phán xét về tình yêu.
Chỉ có tình yêu là điều đáng kể, nên thánh Ignatiô Loyola chiêm niệm để đạt được tình yêu, và ngài khuyên chúng ta cần phải đặt tình yêu vào trong lời nói và việc làm của mỗi người. Tin Mừng chỉ rõ, mỗi việc bác ái chúng ta làm, là làm cho chính Chúa: "Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với" (Mt 25,34-36). Hơn nữa, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40).
Cuộc phán xét tình yêu, đưa chúng ta trở về với thực tại chân đặt trên đất, đầu ngẩng lên nghe Chúa Kitô phán xét. Vương triều của Chúa Kitô rất khác với chuyên quyền trần thế, bởi tình yêu là tiếng nói cuối cùng còn tồn tại.
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ý nghĩa của vương quốc hay quyền lực là để phục vụ người khác. Người khẳng định rằng Người là Chúa, là Thầy (Ga 13,13), và là Vua (Ga18,37), nhưng Người đã thi hành chức năng Thầy của mình bằng cách rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,4 ), và trao ban mạng sống mình. Chúa là Vua cai trị bằng sự khiêm nhường nằm trong (máng cỏ!) và bước lên ngai vàng là Cây Thập Giá.
Trên Thánh Giá có một bảng chữ viết rằng: "Giêsu Nagiarét, Vua dân Do Thái" (Ga 19,19), cái bên ngoài khẳng định mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu cai trị trên cây Thánh Giá và phán xét chúng ta bằng tình yêu, như thánh Gioan Thánh Giá đã nói: "Anh chị em sẽ bị xét xử về tình Yêu".
Câu hỏi được đặt ra: Vua Tình Yêu phán xét thế nào? Khi Chúa Giêsu giáng lâm, tất cả mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt để Người xét xử. Tiêu chuẩn là tất cả những gì chúng ta thực hiện cho anh em. Chính người tuyên án: "Mỗi lần các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm (hay các ngươi đã không làm) cho chính Ta" (Mt 25, 40.45). Vì thế, cái gì sẽ xảy ra cho những kẻ không những không cho kẻ đói ăn, mà còn cướp lương thực khỏi họ; không những không tiếp rước khách lạ, mà còn là nguyên nhân làm cho người khác trở nên khách lạ.
Chúng ta không thể chiếm lấy gia nghiệp nước trời đã chuẩn bị từ tạo tiên lập địa cho những ai phục vụ trong yêu thương. Chỉ người sống yêu thương mới có chỗ trong triều đại sự sống và chân lý, ân sủng và thánh thiện, công chính, yêu thương và an bình.
Ai trong chúng ta cũng muốn vào Vương Quốc ấy. Lời cầu nguyện Ca hiệp lễ kết thúc bằng lời cầu xin: "cho hết mọi loài thọ sinh (…) biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng".
Để được vào, chúng ta phải phấn đấu. Nếu Đức Kitô Vua đã chiến đấu cho đến chết, thì các thần dân cũng phải chiến đấu. Vì thể chế xã hội loài người không muốn Đức Kitô cai trị trên họ nên họ chiến đấu chống lại Đức Kitô.
Nếu chúng ta là thần dân của Đức Kitô, chúng ta phải cầm vũ khí tốt để chiến đấu, vũ khí ấy là: tình yêu, chuyên cần cầu nguyện, siêng năng lãnh nhận các bí tích, sự chúc lành của Thiên Chúa chỉ cho chúng ta trước cuộc chiến đấu, biết chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa và của Đức Kitô trên mọi sức mạnh của sự dữ.
Chúng ta chỉ còn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Vua Kitô, sống trung thành với Người như những tôi tớ, can trường trong đức tinh, nhiệt thành trong đức mến, để một ngày kia, chúng ta có thể nghe Vua Kitô nói với chúng ta rằng: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ" (Mt 25, 34).
Chắc một điều là Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng "đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến" (2Tim 4,8), thì Người sẽ là Ðấng Cứu độ và là vinh quang. Còn khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa trong ngày sau hết.
Lạy Chúa Giêsu Vua Tình Yêu, là Vua trên hết các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ. Xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua vũ hoàn với cả tình yêu, nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, xin dâng Chúa quyền lực, vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen.
39.Những người được chúc phúc--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đây là dụ ngôn cuối cùng trong loạt các dụ ngôn nói về việc Chúa đến bất ngờ; và do đó phải luôn luôn sẵn sàng (24,36-25,46). Đây cũng là giáo huấn cuối cùng của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi tin mừng Matthêô bước sang trình thuật Thương Khó. Về bố cục của đoạn 25,31-46, có thể phân chia như sau: - Bối cảnh buổi phán xét cuối cùng (25,31-33); - Đối thoại trong ngày phán xét chia làm hai phần: - Giữa thẩm phán với người bên phải (25,43-40) và - với những người bên trái (25,41-45); - Kết luận về số phận đối nghịch của hai nhóm (25,46).
Hai cuộc đối thoại có cấu trúc tương tự nhau, gồm: - Tuyên bố của vị vua về ân thưởng và hình phạt của mỗi nhóm dựa trên những gì họ đã làm hoặc không làm (cc. 34-36 và 41-43); - Đáp lời của mỗi nhóm (cc. 37-39 và 44); - Kết luận của vị vua, kèm theo cụm từ “Quả thật Ta bảo các ngươi” (cc. 40 và 45). Các lời đối đáp giữa vị vua và mỗi nhóm mở đầu bằng, tote, “bấy giờ” (cc. 34.37.41.44.45).
Mỗi cuộc đối thoại có cấu trúc lập lại: mỗi nhóm lập lại gần như từng chữ lời tuyên bố của vị vua: “đói/cho ăn”, “khát/cho uống”, “khách lạ/ tiếp đón”, “trần truồng/ chommặc”… (c. 35-36) – “đói/nuôi dưỡng”…. (c. 37-39). (x. W.D.Davies - D.C.Allison, The Gospel According to Saint Matthew. A Critical and Exegetical Commentary (ICC; Edinburgh: Clark, 1988, 1991, 1997) III, p. 416). Như thế các việc làm hay không làm cho Chúa được lập lại đến bốn lần. Và càng về sau, chi tiết càng được rút ngắn lại.
Bối cảnh buổi phán xét cuối cùng (cc. 31-33)
Trong ba câu dẫn nhập, Matthêô trình bày quang cảnh Con Người đến. Quang cảnh nầy gồm những yếu tố đã gợi lên trong tin mừng Matthêô trước đây (10,23; 13,41.49-50; 16,27-28; 19,28; 24,30-34; x. Đan 7,13-14). Đặc điểm của phần dẫn nhập nầy là các động từ ở thì tương lai. Chỉ những sự việc sẽ xảy ra trong ngày phán xét sẽ đến. Trong dẫn nhập nầy Matthêô không nói gì đến “lúc nào” Chúa đến (x. 24,36), mà chỉ trình bày ý nghĩa của việc Người đến. Quang cảnh nầy nhấn mạnh vinh quang của Con Người. Người “ngồi trên ngai”, “trong vinh quang của Người”, và “các thiên thần bao quanh Người”. Người thi hành quyền phán xét trên các dân tộc như một mục tử tách chiên ra khỏi dê. “Vinh quang của Người” (19,28) hay “trong vinh quang của Người” (c. 31[2x]) thật ra không phải vinh quang của riêng Người, mà là “vinh quang của Cha Người” (x. 16,27). Tính từ sở hữu autou, “của Người”, được dùng để nhấn mạnh tính cách Kitô trong cuộc hiển lâm nầy. Vị trí “ngồi trên ngai” là vị trí của một vị vua, và từ “ngai vinh quang của Người” Người thực hiện việc phán xét các dân tộc.
Ethnos, “dân tộc”, và cũng có nghĩa là “người-không Do thái”, rồi sau nầy “người-không Kitô hữu”. Khó có thể tưởng tượng có hai cuộc phán xét, một cho mười hai chi tộc Israel (19,28) và một cho muôn dân (25,31-32). Con Người chỉ đến một lần và trong lần ấy Người phán xét mọi dân tộc, trong đó có cả dân Israel. Vậy panta ta ethnè (c. 33) chỉ cách chung mọi dân trên mặt đất; hay nói cách khác là mỗi người, hekatos, như trong một lời tiên báo khác về việc ngự đến và phán xét của Con Người (16,27). Điều nầy có lẽ phù hợp hơn cho việc giải thích đoạn kế tiếp khi nói đến việc đối xử bác ái với “từng người anh em hèn mọn” (c. 40). Việc phán xét mang tính cách cá nhân. Việc nầy được hình tượng hoá qua hình ảnh phân tách chiên ra khỏi dê. Trong Do thái giáo “bên hữu” được quan niệm là bên tốt lành mang lại phúc lành; còn “bên tả” là bên xấu và bị chúc dữ.
Đối thoại trong ngày phán xét (cc. 34-45)
Con Người đang ngồi trên ngai được gọi là “Vua”, basileus. Những đoạn trước đã nói đến vai trò phán xét của Con Người (x. 13,41-43; 16,27). Chúa Giêsu với tư cách là vua khi Người phán xét. Nhiều lần trong Matthêô nói đến Người với tước hiệu là “Vua” (2,2; 21,5; 22,11; 27,11.29.37 và 42), và cũng nói về vương quốc của Người (13,41; 16,28; 20,21). Deute, “Hãy đến”, nhắc nhớ lời mời của một vị vua sai các đầy tớ đi nói với những người đã được mời đến dự tiệc cưới đã sẵn sàng (22,4). Và giữa những “người được chúc phúc, eulogèmenos, của Chúa Cha”, Chúa Giêsu là người đầu tiên được gọi bằng tên nầy (x. 21,9; 23,39). Người được hưởng vinh quang Nước của Cha Người trước tiên. Động từ khèronomeò, “thừa hưởng” xuất hiện 3 lần trong Matthêô (5,5; 19,29; 25,34), và đều có Nước Trời hay sự sống đời đời làm đối tượng. Về việc thừa hưởng Nước Trời xem 5,19-20; 7,21; 8,11... Nước Trời nầy hoặc chỗ trong Nước Trời đã được do chính Chúa Cha chuẩn bị (thành ngữ tương tự trong 20,23), “từ lúc tạo thành vũ trụ” (25,34; thành ngữ tương tự trong 13,35). Như thế, trong việc ân thưởng cho những người được chúc phúc, mục đích cứu độ của Thiên Chúa được viên thành.
Tiếp theo là cuộc đối thoại với những người bên hữu (cc. 34-40). Chúa Giêsu kể ra những việc họ đã làm. Các động từ ở thì bất định (aorist) chỉ các hành động tốt họ đã được thực hiện rồi trong đời của họ (cc. 35-39). Chính Chúa Giêsu đồng hoá với những người có thiếu thốn nầy; bởi đó những ai làm những việc nầy được kể là “những người được chúc phúc”. Các việc bác ái nầy được nói nhiều đến trong Cựu Ước (Is 58,7; Ezk 18,7.16; Gióp 22,6-7; 31,17.19.21.31-32; Tob 1,16-17; 4,16; Sir 7,34-35). Những điều được nêu ra là những nhu cầu căn bản của sự sống.
Những người đứng bên hữu được gọi bằng một tên khác nữa là “những người công chính”(c. 37.46). Họ đã không biết là họ đã làm cho chính Chúa Giêsu khi họ giúp đỡ những người thiếu thốn. Do đó họ đã đặt ra một lần ba câu hỏi: “Có bao giờ chúng tôi thấy…” (cc. 37-39). Những câu hỏi nầy cũng sẽ được lập lại, ngắn gọn hơn, nơi những người đã không giúp đỡ những người thiếu thốn (c. 44). Cả hai nhóm người đã làm điều tốt hay đã không làm điều tốt, đều không biết Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với những người thiếu thốn. Điều nầy muốn nói việc nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Người là yếu tố thiết yếu và không thể thiếu để được vào Nước Trời.
Chúa Giêsu đưa ra nguyên tắc, trung tâm của trình thuật, bắt đầu bằng công thức trang trọng “Quả thật, Tôi nói cho anh em”, “những gì các ngươi đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Tôi, là các ngươi đã làm cho chính mình Tôi” (c. 40). Ai là “người anh em hèn mọn nhất của Tôi?” Trong tin mừng Matthêô “Anh em của Tôi” chỉ các môn đệ của Người (12,48-49; 28,10). Đàng khác, những người “hèn mọn”, oi mikroi, thường chỉ các môn đệ (18,6.10.14). Và chính câu 10,42 xác nhận “những người bé mọn nhất” là các môn đệ của Chúa Giêsu khi Người quả quyết một chén nước cho các môn đệ của Người sẽ không mất phần thưởng sau nầy. Hơn nữa trong mạch văn ấy, Chúa Giêsu đã đồng hoá trọn vẹn giữa Người và các môn đệ của Người (10,40tt).
Đối thoại với những người bên tả (cc. 41-45). Ý tưởng của những lời Chúa Giêsu nói trong phần nầy tương tự như trong cc. 34-40, và dưới dạng phủ định (7 mệnh đề). Đồng thời, có những từ ngữ và cụm từ đối nghĩa so với đoạn trước: “Các ngươi hãy đi khỏi mặt Ta” (“hãy đến” trong c. 34), “những kẻ bị chúc dữ, katèramenoi, (“những người được chúc phúc” trong c. 34). Trong câu 41 có những bất đối xứng so với câu 34: Matthêô tránh không nói “những kẻ bị Cha Ta chúc dữ” (so sánh “những người được Cha Ta chúc phúc”), và không nói “lửa đời đời được chuẩn bị sẵn từ tạo thiên lập địa” (so sánh “Nước Trời đã được chuẩn bị từ tạo thiên lập địa”), bởi vì Thiên Chúa không tạo dựng con người để hủy diệt nó.
Danh sách các việc tốt như trong các câu 35-36 được nhắc lại, nhưng được rút ngắn lại. Những người thuộc nhóm bên tả nầy đã không làm cho Chúa Giêsu đúng những điều mà những người công chính đã làm. Lần nữa Chúa Giêsu khẳng định qua những việc làm cụ thể tương quan mật thiết giữa Người với những người thiếu thốn. Trong câu 41, nhóm người bên tả nầy tóm lại những việc đáng lý họ phải làm cho Chúa Giêsu trong động từ diakoneò, “phục vụ”. Họ đã không phục vụ, nghĩa là đã không giống như Người (20,28), và không được chúc phúc như Người và nhóm người bên hữu.
Lời của vị vua kết thúc ở câu 45, và sau cùng là lời của thánh sử (c. 46). Lời kết nầy lập lại lời của Chúa Giêsu trong hai câu 34 và 41 về việc thưởng/phạt cho hai nhóm người. Việc thưởng/phạt nầy mang tính cách đời đời, aiònios, “cực hình đời đời”, “sự sống đời đời”. Vậy trong ngày phán xét, người công chính và người bị chúc dữ sẽ được tách ra cách dứt khoát và đời đời.
Khi ngày phán xét cùng tận đến, mỗi người sẽ được phán xét theo việc họ đã làm mà trong tương quan với Chúa Giêsu. Khi đã ra trước mặt vị Vua thẩm phán số phận mỗi người, hoặc được chúc phúc hoặc bị chúc dữ, sẽ không bao giờ có thể thay đổi nữa.
40.Chúa Kitô Vua vũ trụ--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Chủ đề: Thập giá nơi quyền lực Đấng bị đóng đinh được tỏa rạng.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Thế gian biểu lộ quyền lực bằng danh lợi thú, được nhiều người chấp nhận, sùng bái sự khôn ngoan kiểu này.
Đức Giê-su mạc khải quyền lực khôn tả bằng sự tự hủy: không dành địa vị ngang hàng Thiên Chúa, trái lại, trút bỏ mình ra “không”, đem thân đội lốt người phàm, tự hạ mình vâng lời cho đến chết trên thập giá; vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài, tặng ban Danh hiệu vượt quá mọi danh hiệu, hầu khi nghe danh thánh Giê-su mọi gối phải bái quỳ, thờ lạy và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Giê-su là Chúa, để Thiên Chúa Cha được tôn vinh.
Những lời mạc khải vừa trích đọc, mô tả căn tính Giê-su kitô/Vua, đến trần gian để tất cả được sống và sống dồi dào.
Lễ Chúa Kitô, Vua vũ trụ, được cử hành vào chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ nhằm giới thiệu địa cao quý nhất của Đấng vượt trên tất cả, chủ tể mọi loài.
Nơi Ngài quy tụ tất cả trong cùng một quyền bính: sáng tạo, cứu chuộc và thần hóa thế gian. Quyền bính ấy được thực hiện trong “tình yêu và sự sống”, ngang qua thập giá của Đấng chịu đóng đinh. Đó là, vương quốc sự thật và sự sống, vương quốc công chính, bình an và hy vọng trong Thánh Thần.
Bởi vậy, danh hiệu Giê-su, Vua vũ trụ đồng hóa với danh hiệu Mục tử nhân lành của đoàn chiên. Ngài đến cốt để chiên được sống và sống dồi dào.
Để thấu hiểu vai trò Giê-su/Vua, Mục tử tốt lành của đoàn chiên, chúng ta suy gẫm các bài sách thánh tuyên đọc hôm nay.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Ézékiel, là những lời sấm an ủi, dẫy tràn niềm hy vọng Chúa gởi đến cho dân đang trong cảnh lưu đày bên Babylon. Họ bị phân tán trong mọi vùng của đế quốc Át-sua, như những bầy chiên bị tản mác trên các vùng đồi núi hoang vu rận rạp với đủ thứ đe dọa rình rập: bị kỳ thị khinh rẻ, bị bóc lột đến cả nhu cầu tối thiểu tồn tại, bị khủng bố hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần...
Trong hoàn cảnh như thế, dân mong mỏi điều gì nhất ? Thưa: được giải phóng khỏi nô lệ, được hồi hương, được tự do, độc lập! Nhưng ai sẽ làm công việc này ?
Ézékiel cho biết: Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ giải phóng dân, Ngài là Vua và cũng là Mục tử tốt lành. Chúa sẽ đích thân kiểm đếm chiên, sẽ lắng nghe nỗi lòng của chiên, xót thương số phận bi đát của chiên. Chính Ngài sẽ đưa chiên trở về miền đất hứa, miền đất tự do và sự sống. Nơi đó, chiên được bảo vệ khỏi mọi đe dọa ngoại bang, chẳng còn phải sợ thiếu thốn đói khát, được chữa trị phục hồi khi đau ốm. Tất cả đều được chăn dắt trong sự công minh chính trực.
Lời sấm đảm bảo cho một tương lai huy hoàng: chiên được sống và sống dồi dào. Thật hạnh phúc biết bao cho đoàn chiên có được đức vua/mục tử tốt lành như vậy!
Thật và rất thật, lời sấm, trong bài đọc I, ứng nghiệm trực tiếp nơi Chúa Giê-su, Vua/Mục tử nhân lành, được sai đến từ Chúa Cha “Thiên Chúa thật - Người thật”.
Giê-su Kitô đích thực “Messiah”, Đấng muôn dân mong đợi! Ngài đến thiết lập triều đại Nước Thiên Chúa, chăn dắt dân trong sự công minh chính trực: “Ngay từ bây giờ và cho đến muôn đời, lòng ghen yêu của Chúa thiên binh thực thi điều đó” (Is 9, 6).
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, ngự đến uy nghi tràn ngập vinh quang sáng láng, thực hiện việc xét xử muôn dân. Thật ra, đây là lối văn khải huyền muốn trình bày hồng ân cứu độ là vô giá, nhưng cũng cần đến sự mở lòng và cộng tác với ơn Chúa của mỗi cá nhân.
Bài sách thánh không nhằm kích thích óc tưởng tượng của người thời đại về một vị vua cao sang trần thế: mũ mão, áo sống, đai lưng, điện ngọc, bệ rồng, oai phong lẫm liệt, tiền hô, hậu ủng..., mà trên tất cả, trình bày vinh quang và uy quyền thập giá của Đấng chịu đóng đinh.
Thưa anh chị em,
Thập giá vừa mang năng lực “giết chết”, vừa mang “hồng ân sự sống”.
Đấng treo thập giá đã giết chết hận thù, tội lỗi và sự chết, để ban cho kẻ tin vào Ngài có khả năng “Đóng đinh thân xác mình cùng mọi tính hư vào thập giá” (Ga 5, 24), đồng thời, khi từ cõi chết sống lại, Đấng Phục Sinh cho kẻ sống lại với Ngài có khả năng tìm kiếm những sự Trên Trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Cuộc xét xử của Vua Kitô dựa vào 3 tiêu chí nền tảng: xét xử thế gian về tội, về sự công chính và về án phạt. Về tội: vì họ không tin vào Ta; về sự công chính: vì Ta về cùng Cha; về án phạt: vì đầu mục thế gian này đã bị kết án rồi (cf. Jn 16, 8 – 11).
Chiếu theo các tiêu chí nền tảng, áp dụng cho cuộc xét xử chung thẩm ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là sự thiếu lòng tin vào Chúa Giê-su.
Kẻ không tin Giê-su, cũng sẽ không chấp nhận tình yêu tự hiến trên thập giá, một mực kết án, Giê-su đồ chúc dữ, thì làm sao sống như Người đã sống “yêu thương đến cùng và dám chết vì người mình yêu”, nên họ khước từ “đức ái” đối với người anh chị em cho dù những người đó là hiện thân của chính Chúa.
Quyền lực của Đấng chịu đóng đinh biểu lộ trong sự phục sinh và cho những kẻ tin cũng được sống lại với Người.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, quảng diễn quyền tối thượng của Đức Kitô/Vua thực hiện trong việc làm cho kẻ tin được trỗi dậy với Ngài.
Giê-su, trỗi dậy từ cõi chết, mở đường sự sống cho những ai đã an giấc ngàn thu. Bởi sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Cha, Giê-su trở nên nguyên nhân phần rỗi đời đời cho tất cả những ai tùng phục Người.
Quyền cai trị của vua Giê-su là tiêu diệt mọi thế lực thù địch với chân lý, sự thật và sự sống, bắt mọi loài quy phục quyền bính mình, rồi trao lại cho Thiên Chúa Cha và trong vương quốc vĩnh cửu ấy: “Tình yêu và sự sống” tồn tại muôn đời.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay nhắn gởi chúng ta hai điều:
Một là: Tín thác cậy trông vững vàng vào ơn Chúa cứu độ, bởi lẽ, tin đã làm chúng ta nên công chính. Như dân Chúa thời lưu đày dẫy tràn niềm cậy trông ơn giải phóng và Chúa đã thực hiện vào lúc thời gian viên mãn, chúng ta cũng đừng bao giờ ngã lòng trông cậy, cho dù có ngập lút thử thách gian truân: tai họa, ốm đau bệnh tật, tang chế... Hãy tin vững vàng, bởi thâm tín rằng: Chúa đang ở đó đỡ nâng và bình an sẽ tràn ngập cõi lòng.
Hai là: Cộng tác với ơn Chúa để thực thi công bình, bác ái, yêu thương, vì những gì chúng ta làm cho những kẻ bé mọn nhất, là đang làm cho chính Chúa. Phần thưởng lớn lao trên trời sẽ dành cho kẻ thực thi huấn lệnh yêu thương của Ngài.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.
41.Vua Giêsu, vị thẩm phán--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu, Vua tình yêu.
1. Ngọn núi Corcovado và núi Tao Phùng
Dịp Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ tại Rio Brazil, tôi đi hành hương lên ngọn núi Corcovado cao 704m, kính viếng bức tượng Cristo Redentor – Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế Vua dang tay đứng trên đỉnh núi cao.
Có loại xe lửa nhỏ khoảng 30 chỗ ngồi đưa du khách lên núi theo đường ray. Cũng có một đường xe hơi chạy lên núi theo hình xoắn ốc, đây cũng là đường bộ cho những ai thích leo núi.Năm 1985, Francisco Passos và Tegesra Suris xây dựng tuyến đường sắt thông đến núi Corcovado.
Lên đến trạm cuối, chúng tôi đi thang máy lên chỉ cách đỉnh núi khoảng 100m và tiếp tục đi bộ khoảng 120 bậc thang là đến chân tượng Chúa.
Từ đỉnh cao phóng tầm mắt nhìn thành phố Rio de Janeiro tuyệt đẹp. Tôi dành nhiều thời giờ để ngắm trời mây cảnh vật và chụp hình lưu niệm; đặc biệt chiêm ngắm tượng Chúa Cứu Thế là một trong 7 kỳ quan mới của thế giới. Bức tương màu trắng thiên nhiên hướng nhìn về phía ngọn núi Zuckerhut – Sugarload.
Bức tượng Chúa Giêsu Vua là một đài kỷ niệm trên đỉnh ngọn núi Corcovado ở phía Nam thành phố. Bức tượng được dự định xây dựng để kỷ niệm 100 năm độc lập của nước Brazil do Kỹ sư kiến thiết Heitor da Silva Costa người Brazil phác họa vẽ mẫu. Bức tượng được khởi công thi hành năm 1922, nhưng gặp trở ngại vấn đề tài chánh nên việc thi hành kéo dài suốt 10 năm. Sau khi Tổng giáo phận Rio de Janeiro, Tòa Thánh Vatican và nước Pháp cùng trợ giúp cho dự án, công trình được hoàn thành, và khánh thành ngày 12.10.1931.
Bức tượng Chúa Giêsu cao 30 mét, chân đế cao 8 mét, đủ chỗ chứa cho 150 người vào trú ẩn trong tượng. Hai cánh tay Chúa Giêsu dang ra rộng 28 mét. Bức tượng nặng 1.145 tấn. Đầu và hai tay Chúa Giêsu do nhà điêu khắc người Pháp Paul Landowski làm ở Paris. Bức tượng làm bằng vật liệu bêtông cốt sắt theo từng phần ráp nối lại, và được kết bên ngoài bằng những viên đá dát theo kiểu Mosaic.
Năm 2006 dịp mừng kỷ niệm bức tượng được 75 năm, Giáo Hội đã chính thức nâng nơi đây thành nơi hành hương kính viếng Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế.
Đứng nơi ngọn núi Corcovado, tôi nhớ đến Tượng Kitô Vua (Tao Phùng) ở Vũng tàu. Với chiều dài 500m đi lên khoảng 1.000 bậc thang. Tượng được xây dựng 1974, do điêu khắc gia Văn Nhân và 50 thợ lành nghề thực hiện. Tượng có chiều cao 32 mét, chiều dài hai cánh tay là 18,4 mét; được đặt trên bệ khối chạm hình Tiệc ly. Bên trong tượng là cầu thang xoắn ốc gồm 133 bậc, chạy từ bệ lên cổ tượng. Trong lòng tượng có thể chứa 100 người cùng một lúc. So với tượng Kitô Vua ở Rio de Janeiro ở Brazil thì tượng ở Vũng Tàu cao hơn 2 mét.Tượng Chúa ở Brazil đứng trên đỉnh núi Corcovado cao hơn 704 mét so với mực nước biển, còn tượng Chúa ở Vũng Tàu đứng trên độ cao hơn 170 mét của núi Nhỏ. Bệ tượng ở Brazil cao 8 mét, còn bệ tượng ở Vũng Tàu chỉ cao 4 mét.
Núi Corcovado hay núi Tao Phùng, nơi Chúa Giêsu Vua giang đôi tay ôm trọn nhân loại trong tình thương cứu rỗi.Trái tim của Ngài mở ra để yêu thương mỗi người và mọi người, cánh tay của Ngài mở rộng để vươn đến mọi người. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp của người Mục Tử.
Chúa Giêsu là Vua Mục Tử Nhân Lành. Ngài tụ họp những con chiên bị phân tán, tìm con chiên lạc, băng bó chiên bị thương tích, chữa lành chiên bị đau ốm, chăn dắt chăm sóc đoàn chiên theo đường công chính (Bài đọc I). Ngài tuyên bố : “Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta”(Ga 10,10); “Ta đến để cho chiên Ta được sống và được sống dồi dào. Chính Ta là mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình vì chiên”. Vua Mục Tử thiết lập Vương Quốc Tình Thương. Vị Vua ấy đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn nghèo khổ : “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc vương quốc của Ngài là chính những hành động của tình thương. Vua Giêsu làm Thẩm phán xét xử mỗi người theo tiêu chuẩn của tình thương.
2. Vua Giêsu, vị Thẩm phán
Để diễn tả vương quyền của Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh đặc biệt. Năm A với bài Tin Mừng Matthêu (25,31-46), đề cao Vua Giêsu như vị Thẩm phán xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gioan (18,33-37), một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào Đấng được sai đến. Năm C với bài Tin Mừng Luca (23,35-43) trình bày Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Ngai vàng là thập giá, vương miện là mão gai. Vua Giêsu tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Ngài không là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta những sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài khỏi cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát con người khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của Ngài là ơn cứu độ và sự sống trong Thiên Chúa: “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Ngài đã thi hành vương quyền bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Vương quốc của Chúa Kitô Vua là vương quốc của tình yêu. Muốn vào vương quốc của Ngài, phải là người có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật sự.
3. Đã làm gì và không làm gì cho tha nhân
Thánh Matthêu tường thuật quang cảnh ngày cánh chung, khi Chúa Giêsu tái giáng và Ngài phân xử, mọi người tốt xấu, lành dữ đều có mặt và được xét xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để xét xử là tình yêu mỗi người thực hiện cho tha nhân.
Nội dung cuộc xét xử thật bất ngờ.Đấng Thẩm Phán chỉ xét hỏi người ta về tình thương. Một tình thương cụ thể được chứng tỏ bằng việc làm thiết thực đối với những con người bằng xương bằng thịt “Cho kẻ đói được ăn, cho kẻ được khát uống, viếng thăm kẻ bệnh tật và tù đày, tiếp rước khách lạ bơ vơ…”. Điều bất ngờ hơn nữa chính là lời Đức Kitô tuyên bố: “Mỗi lần các ngươi làm những điều ấy cho một kẻ bé nhỏ là các ngươi làm cho chính Ta”. Những người bị xét xử đều nhất loạt thắc mắc: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói khát, rách rưới, bệnh tật, bị cầm tù hay là khách lạ đâu?”. Mặc cho người tốt kẽ xấu thắc mắc, lời Chúa dạy thật rõ ràng: người khốn khổ bất cứ dưới hình thức nào đều là hiện thân của Chúa. Ngài tự đồng hóa mình với họ. Vậy thì rõ ràng mọi việc chúng ta làm vì tình thương đối với đồng loại đều là việc đạo đức.Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, việc làm chứ không phải lời nói hay cái gì khác quyết định chúng ta thuộc chiên hay dê.
Thánh Gioan Kim Khẩu dạy: đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ. Chúa trong nhà thờ và Chúa ngoài nhà thờ, tức là những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau. Đức Kitô hiện diện trong Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện diện thực sự trong mỗi một con người.
Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, đã sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị đeo đuổi chỉ trích, hành hạ và bị treo trên Thập giá. Ngôi Lời Thiên Chúa đã sinh ra trong hang súc vật, trốn chạy sự tàn ác và tham vọng của con người, bị chỉ trích lại trừ, bị hành hạ và chết treo trên Thập giá. Vì thế, Ngài đã kinh qua mọi khổ đau và cái chết trong thân phận con người, Ngài cảm thông với hết thảy mọi người. Chúa bảo rằng, những ai cho người đói khát một ly nước, một chén cơm là họ cho Chúa ăn uống. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo là họ đã cho Ngài mặc áo. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian là họ đã cho Chúa trọ nhà… Điều vĩ đại trong Phúc Âm về ngày Phán xét đó là giá trị những việc nhỏ bé hàng ngày của tình yêu thương. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi.
Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc công dân Nước Thiên Chúa.Tình yêu là “thẻ căn cước”của công dân Nước Trời. Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói cho bằng nhiều hành động thiết thực và sống động. Việc bác ái là chứng chỉ duy nhất để được nhận vào số những người được Chúa Cha chúc phúc.
Nếu Chúa Giêsu chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng Ngài là vua có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của Tổng thống Bush: “Show, but don’t tell!”: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!
Trong ngày sau cùng, khi Vua Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?
Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là “người khôn ngoan xây nhà trên đá”. (Mt 7,24).
Lạy Chúa Giêsu, nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều mà Chúa đề cao: mỗi lần giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác…đó là chúng con làm cho chính Chúa, xin cho chúng con luôn biết thực hành đức ái trong đời sống hàng ngày. Amen.
42.Chúa Giêsu, Vua Tình yêu--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Hôm nay Chúa nhật cuối cùng trong năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Kitô Vua. Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể, khai triển qua cuộc tử nạn, Phục sinh để rồi kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, của lịch sử nhân loại và Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta.
Chúng ta phải hiểu tước hiệu Vua Kitô như thế nào? Và việc tuyên xưng Đức Kitô là vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu?
1. Ông vua trong lịch sử loài người
Sau thế giới đại chiến lần thứ I, chế độ Vua cai trị, thường gọi là chế độ Quân chủ, không còn nữa. Chỉ còn mấy ông vua bà hoàng để bày cho đẹp, như ở Thái Lan, Anh Quốc, Nhật v.v. nhưng thực quyền của họ không có gì cả. Những người trẻ hôm nay, qua sách vở, khó hình dung rõ nét thế nào là một ông vua.
Trong lịch sử loài người có một số ông vua tài giỏi về đánh giặc cũng như về cai trị, nhưng hầu hết các ông vua, vì cha truyển con nối, nên độc tài độc đoán, không có khả năng trị quốc an dân, chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình, chẳng quan tâm đến sự lầm than đói khổ của bá tánh. Lịch sử Trung Hoa, các ông vua còn tự xưng mình là Thiên tử, là con ông Trời, bắt ai chết thì người đó phải chết, cho ai sống thì người đó được sống (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung). Các vua Lamã thì xưng mình là Thần, ngang với Thượng đế.
Nhìn chung, các vua trần gian thì ích kỷ, dâm ô. Khi họ đã nắm được ngai vàng thì coi mọi người như bầy tôi, giang sơn đất nước thì cho là tài sản riêng của mình. Vua thường nói: “Thần dân của trẫm. Giang sơn của trẫm”. Thế rồi khư khư giữ lấy. Nghi ngờ kẻ nào có ý phản loạn thì giết ngay tức khắc, không chỉ giết một người đó, mà còn tru di cả tam tộc cửu tộc nữa.
Nếu muốn đổi triều đại, vua của dòng họ này sang triều đại dòng họ khác, thì phải giành giật, phải thoán ngôi. Cứ đọc lịch sử Việt Nam thì thấy, mỗi thay đổi triều vua từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, toàn là máu và nước mắt. Đến đời Nguyễn Ánh tự xưng là Gia Long hoàng đế, làm vua từ năm 1802, cha truyền con nối kéo dài hơn 100 năm, cho đến năm 1945, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại. Vua này vì sợ Việt Minh Cộng sản giết chết nên mới thoái vị.
2. Ông vua trong Kinh Thánh
Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước Chúa Giáng sinh, dân Israel đòi có vua cai trị giống như các dân khác, Giavê Thiên Chúa (qua ngôn sứ Samuel), đã cảnh cáo dân rằng:
Ba vị vua đầu tiên của Israel là Saul, Đavid, và Salomôn.
Về Saul thì Thiên Chúa nói: “Ta hối tiếc vì đã đặt Saul làm vua, nó đã quay lưng lại Ta.” (1S 15: 10).
Về Đavid, Thiên Chúa nói: “Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua Israel... Tại sao ngươi dám khinh màng lời Đức Giavê... ngươi đã lấy gươm đâm Uria, người xứ Hitit và đoạt lấy vợ nó làm vợ ngươi.” (2S 12: 9).
Còn Salômôn, vị vua có 700 vợ và 300 hầu thiếp (1V 11: 3). Ông đã bỏ Đức Chúa Giavê để thờ tà thần của các vợ. Giavê phán với Salômôn: “Bởi ngươi đã nên thể ấy nơi ngươi... Ta sẽ giựt lấy vương quyền của ngươi.” (1V 11: 11).
Trong Tân Ước cũng nhắc đến một ông vua rất tàn ác, đó là Hêrôđê. Kinh thánh nói: “Bấy giờ Hêrôđê tức cuồng lên, sai quân giết hết cả trẻ em ở vùng Belem, từ hai tuổi trở xuống. (Mt 12: 6).
3. Đức Giêsu Kitô Vua
Giáo Hội suy tôn Đức Giêsu là Vua, không phải chỉ của thế giới này, mà của toàn vũ trụ. Ngài không bao giờ làm vua theo kiểu các vua chúa ở trần gian, cũng không bao giờ làm chủ một lãnh vực kinh tế nào. Ngài là Vua theo một nghĩa hoàn toàn khác.
Vì thế, ngày lễ Chúa Kitô Vua mang màu sắc đầy vinh quang chiến thắng, Giáo Hội lại nêu cao biến cố đau thương Chúa chịu chết treo trên thập giá.
Các sách Tin Mừng đã đặt lễ đăng quang của Chúa Giêsu trong chính cuộc tử nạn của Ngài. Khởi đầu là cuộc khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, trong đó Chúa Giêsu đã ngồi trên lưng một con lừa con. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng Ngài là Vua, nhưng Ngài là Vua không theo các cung cách của vua chúa trần gian. Tất cả bản án của Chúa Giêsu đều xoay quanh tước hiệu Vua của Ngài.
Chúa đã trả lời với tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Câu trả lời ấy cho chúng ta biết: Nước Chúa không thuộc về thế gian, có nghĩa là bất cứ nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng không thể đồng hóa với nước Chúa. Nước Chúa ở trong các tâm hồn, những tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Chúa Giêsu đem đến.
Vậy, tất cả những ai đón nhận tình yêu cứu độ đó, họ sẽ được nhận vào Nước Chúa. Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, những người chứng kiến đã có những thái độ khác nhau: có kẻ xót thương, có người lãnh đạm vô tình, có kẻ thách thức, nhục mạ, nhưng cũng có người nhận ra Chúa và tin tưởng Chúa. Đó chính là người trộm lành. Anh không dám thách thức Chúa như người trộm khác cùng bị đóng đinh với anh hay như những người vô lễ khác, nhưng anh biết tội mình và suy đoán rằng vương quyền mà Chúa liều chết vì nó phải là một vương quyền tốt đẹp vô lường nên anh kêu xin Chúa cứu vớt để được đưa vào vương quốc ấy. Đúng vậy, giữa đám đông mù quáng, ngược ngạo, ít ra cũng còn một tâm hồn ngay tình. Đó là người trộm lành trong một hoàn cảnh thật bi đát bị treo trên thập giá, anh đã biết nhận tội của mình và nhìn nhận sự vô tội của Chúa Giêsu. Giữa lúc mọi người đều bỏ rơi Chúa, đã quên hết những phép lạ, những lần đi theo Chúa lúc Ngài được tôn vinh, người trộm đã nhận ra vương quyền của Chúa và tuyên xưng đức tin của mình bằng một lời van xin đầy hy vọng sâu xa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Lời cầu nguyện khiêm hạ của anh đã mở được cửa vương quốc đó cho anh.
Hiện nay trên thế giới khoảng 2,5 tỷ trên 7 tỷ người là Kitô hữu thuộc nhiều giáo phái khác nhau (Công giáo, Tin Lành, Chính Thống…). Họ là những người theo Ngài, làm môn đệ Ngài, đồng thời nhìn nhận Ngài là lẽ sống, là gương mẫu hoàn hảo nhất cho cuộc đời mình, và coi giáo huấn của Ngài là kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Họ theo Ngài chủ yếu không phải vì giáo huấn của Ngài cao siêu, vì nhân cách của Ngài đáng phục nhất (mặc dù họ tin đích thực là như vậy). Họ theo Ngài vì họ tin Ngài là Con Thiên Chúa, là thần linh cao cả vô cùng, lại là người yêu thương họ hơn bất kỳ ai khác trên đời, yêu họ đến nỗi sẵn sàng đau khổ và chết cho họ. Nhất là Ngài là người duy nhất có thể đem lại hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu cho họ.
Thật vậy, còn gì vương giả cho bằng khi Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho những kẻ đã làm hại Ngài. Chúa Giêsu là Vua của Tình Yêu, chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố: “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.
Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy Đức Giêsu làm cái mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường của phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cữ chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành: “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.
Mỗi người tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân ta chưa, nghĩa là Ngài đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa, có lẽ rất nhiều người sẽ phải ngập ngừng, hoặc phải trả lời chưa!. Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta?
Nếu Ngài chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, mà không phải là Vua của tâm hồn ta, thì việc tuyên xưng Ngài là vua có ích lợi gì cho ta? Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi! Tôi rất thích lời của Tổng thống Bush: “Show, but don’t tell!”: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!
Trong ngày sau cùng, khi Đức Giêsu phán xét chúng ta như vị Vua của vũ trụ, Ngài chỉ xét chúng ta những điểm rất thực tế: ta đã thực hành ý muốn của Ngài như thế nào? nhất là đã yêu thương và đối xử với Ngài như thế nào qua hiện thân của Ngài là những người chung quanh ta? Ngài có phải là Vua đích thực của chính bản thân ta không?
Thiết tưởng việc sống đạo của chúng ta cần phải xây dựng trên căn bản là thực tế của đời sống, chứ không phải trên lời nói, lý thuyết, sách vở. Có như thế chúng ta mới là “người khôn ngoan xây nhà trên đá”. (Mt 7,24).
43.Đức Giêsu, Vua Niềm Tin--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Nói đến sức mạnh, chúng ta tự nhiên sẽ nghĩ đến những chàng trai võ sĩ thân hình lực lưỡng, cân đối rắn chắc,với những bắp thịt vạm vỡ, với những quả đấm thôi sơn ngàn cân. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng nghĩ đến những trận bão táp, những cơn lũ lụt phá đổ cây cối nhà cửa làng mạc, đê điều, đường sá, cầu cống. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng thường nghĩ tới những đám cháy lớn thiêu rụi cả một khu rừng, thiêu huỷ các tầng lầu,hoặc động đất san bằng nhiều thành phố, giết hại hàng triệu người trong vài giây đồng hồ. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng liên tưởng đến những cuộc chiến tranh hoặc chiến tranh thế giới giết hại bao sinh mạng, tàn phá bình địa nhiều thành phố làng mạc nhà cửa dinh thự đền đài. Nhưng có lẽ nhiều người trong chúng ta quên rằng, còn có một sức mạnh vạn năng khác, mãnh liệt hơn cả, quyết thắng tất cả nhưng lại luôn luôn ở trong tầm tay của mình. Đó chính là sức mạnh niềm tin tôn giáo. Niềm tin tôn giáo không thể nào bị bóp nghẹt do bất cứ quyền lực nào. Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể xoá được những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người, không thể nào loại bỏ được niềm tin tôn giáo.(x.nguoitinhuu.com; Lm Trần quý Thiện).
Trước toà án Philatô, Đức Giêsu đã biểu lộ sức mạnh niềm tin tôn giáo “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho Ngài” (Ga 18,11). Tin vào Sự Thật, mà “Sự thật sẽ giải thoát các con”cho nên Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”(Ga 18,37). Bởi vì “Ta là đường,là sự thật và là sự sống”.
Kết thúc năm phụng vụ, tận cùng của thời gian,Giáo hội suy tôn Đức Giêsu – Vua Vũ Trụ - Vua Niềm Tin. Đức Giêsu là vua không phải theo kiểu trần thế, cũng không theo nghĩa chính trị. Đức Giêsu là vua niềm tin, vua tình yêu.Vương quốc của Vua Giêsu là vương quốc của sự thật và “ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Nhiều lần Đức Giêsu đã khước từ làm vua theo kiểu trần thế. Vương quốc trần gian do con người thiết lập bằng sức mạnh, thường đem lại sự giàu sang và vinh quang. Đức Giêsu từ chối loại vương quốc huy hoàng do Satan đề nghị: Nếu ông quỳ gối thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông mọi vương quốc làm sản nghiệp. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân Do thái muốn tôn Đức Giêsu làm vua, nhưng Ngài trốn lên núi. Khi trả lời cho những kẻ gài bẫy: chúng tôi có phải nộp thuế cho Xêza không? Đức Giêsu đáp: của Xêza hãy trả cho Xêza, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đặc biệt trong phiên toà xét xứ, Philatô hỏi Đức Giêsu: Ông có phải là vua dân Do thái không? Đức Giêsu đồng ý nhưng xác minh: Nước tôi không thuộc về thế gian này (Ga 18,36).
Vương quốc Đức Giêsu là vương quốc sự thật thuộc thế giới niềm tin, thế giới tâm linh trong tâm hồn con người. Vương quốc đó hoàn toàn khác biệt với đế quốc của Xêza hay bất cứ đế quốc nào, chủ nghĩa nào. Nuớc của Xêza chỉ cai trị thể xác loài người, còn vương quốc Đức Giêsu chiếm trọn lòng người.Thế lực của Xêza là quân đội, khí giới, nhà tù. Sức mạnh vương quốc Đức Giêsu là niềm tin, là yêu thương, tha thứ. Dù rộng lớn, đế quốc Xêza cũng bị giới hạn, còn vương quốc Đức Giêsu vô biên, được thiết lập mọi nơi. Các triều đại phong kiến, các thể chế chính trị cũng đã và đang chấm dứt trong dòng thời gian như đế quốc của Xêza, chỉ còn vương quốc sự thật và niềm tin là tồn tại muôn đời.
Chính niềm tin tôn giáo dạy chúng ta rằng: mục đích tối thượng của các tôn giáo là hướng con người đến chân thiện mỹ.Qua không gian thời gian,trải qua bể dâu của lịch sử với những thao thức băn khoăn của kiếp người, con người luôn luôn tìm đến niềm tin tôn giáo. Con người tiếp nhận sự sống từ chính nguồn sống là Thiên Chúa như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt trời.Thiếu ánh sáng mặt trời thì không có sự sống trên trái đất. Cũng thế, không có Thiên Chúa thì không thể có sự sống.Thiên Chúa thông ban sự sống cho con người vì Thiên Chúa yêu thương con người.Thiên Chúa yêu thương mọi người ngay cả những ai chối bỏ và thù ghét Ngài.Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa.Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch, mỗi người đều là hình ảnhThiên Chúa. Chỉ xuyên qua niềm tin và tình thương con người mới đến được với Thiên Chúa. Với sức mạnh niềm tin, chúng ta khẳng định rằng: trên vạn nẻo đường của cuộc đời mỗi người, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu Thiên Chúa luôn có mặt để hướng dẫn nâng đỡ chúng ta.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội Việt Nam hôm nay phải chăng là khủng hoảng về niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống?
Trong những ngày này, bên cạnh những thông tin u ám về triển vọng kinh tế quốc gia, cũng đồng thời diễn ra một làn sóng khiến niềm tin và tính đoàn kết xã hội bị tổn thương. Chế độ trong lúc bấp bênh, với những thất bại không thể hàn gắn một sớm một chiều về kinh tế, đang nỗ lực dẹp làn sóng chỉ trích với bàn tay sắt chế áp những tiếng nói đối lập. Một vài gương mặt cũ tiếp tục bị cầm tù, một số gương mặt mới bị bổ sung vào danh sách triệt hạ. Tuy nhiên, nhân dân quá mất niềm tin, thể hiện ở chỗ đồng tiền quốc gia giờ đây như một cục than bỏng tay mà giới có tiền muốn nhanh chóng đẩy đi, để ôm vào các tài sản có tính bền vững như vàng và bất động sản. Cú sốc lãi suất, tỷ giá, giá vàng và lạm phát đang diễn ra hiện nay sẽ là một cú thôi sơn vào chính quyền hiện tại. Định mệnh chông chênh. Khi lòng tin không còn, mọi tuyên bố của quan chức không còn sức nặng. Người Việt Nam đang thực sự mất phương hướng, làn sóng rút tiền khỏi ngân hàng, đem ký gửi niềm tin vào vàng và bất động sản, đang là mối hiểm họa cận kề đẩy Việt Nam xuống lề vực thẳm. Lãi suất ngân hàng ngày hôm nay đã lên tới mức báo động 18%, khiến người ta mơ hồ hình dung tới địa ngục tài chính thời năm 2008. (x.Blog Lãng ngày 12/11/2010). Ngoài chợ các thứ thực phẩm tăng vọt, thu nhập chả tăng đã thế thực phẩm lại toàn nhiễm chất nọ, chất kia. Đau nhất là yêu quê hương, mua gì cũng nhất quyết tìm hàng Việt Nam trừ cái gì Việt Nam không làm được mới mua của nước khác sản xuất (hạn chế mua hàng Trung Quốc), nay lại biết tin hàng Việt Nam là mua của Trung Quốc rồi dán mác Việt Nam vào. (x.Blog Người Buôn Gió, 17.11.2010).
Niềm tin không có tai, có mắt, có mũi, nhưng nó lại hiển hiện trên gương mặt, hoặc hạnh phúc rạng ngời của một cá nhân, một xã hội, hoặc chỉ còn là vẻ vô cảm, thờ ơ lạnh lẽo của cá nhân ấy, xã hội ấy…Giải cứu niềm tin xã hội Việt Nam hôm hay cần mọi chính sách, chủ trương lấy lợi ích người dân làm trọng. Chỉ cần các quy chuẩn pháp luật xã hội hãy thực sự công bằng, minh bạch, để người dân từ đó điều chỉnh hành vi, cách ứng xử. Sự giải cứu đó, không mất tiền. Nhưng cần rất nhiều đến tấm lòng, tấm lòng vì dân, vì lợi ích một dân tộc dân chủ, giàu mạnh, văn minh và văn hóa. (x.Kim Dung,bvnpost on 21.10.2010).
Con người sinh ra trên cõi đời này để làm gì và để đi về đâu? Đó là những câu hỏi lớn mà ngàn đời con người không ngừng đặt ra cho mình khi đứng trước những mâu thuẫn bất trắc của cuộc sống. Nghĩ cho cùng, mỗi người chỉ tìm thấy giải đáp cho câu hỏi ấy nhờ ánh sáng sức mạnh niềm tin tôn giáo. Ánh sáng niềm tin ấy hướng dẫn con người đến yêu thương và phục vụ tha nhân. Khi con người biết sống cho người khác thì con người sẽ tìm thấy chính mình, thấy lý tưởng, thấy ý nghĩa cuộc sống.
Sống cho hạnh phúc của tha nhân, đó là sự thật mà mỗi thần dân sống trong vương quốc Vua Giêsu được mời gọi thể hiện mỗi ngày.
Mừng lễ Chúa Giêsu - Vua Vũ Trụ - Vua Niềm Tin, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tất cả con người mình, từ tư tưởng lời nói cho đến việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện công lý và tình yêu hoà bình.
44.Thần dân trung tín của Vua Tình Yêu--AM Trần Bình An
Thường thì phạm nhân không được phép treo ảnh, nhưng Hiroshi Igarashi nài xin ban quản giáo và cuối cùng được phép treo ảnh Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Một đêm nọ, một quản giáo đi tuần khu nhà tù anh ở đã yêu cầu anh: “Này, anh làm ơn lấy bức ảnh đó xuống dùm tôi. Mắt bà ấy nhìn sợ quá.” Igarashi đáp: “Anh thấy rùng rợn vì anh là người tội lỗi.”
Giờ đây Igarashi đã được tự do, anh tổ chức một nhóm ở Tokyo gọi là “Nhà Mẹ”. Nhóm tận tâm giúp những người ở tù làm lại cuộc đời và tái nhập xã hội sau khi mãn hạn tù. Nhóm lấy tên Mẹ Têrêsa và còn lấy tinh thần của thánh nhân và Kinh Thánh làm nền tảng cho các hoạt động của nhóm. Có tiền án hình sự 3 lần và gần 20 năm ngồi tù, Igarashi biết rõ thực trạng và tất cả các vấn đề trong tù. Nhiều tù nhân bị cô lập và thiếu thốn tình thương. Điều mà những người này cần là có người hỗ trợ họ về mặt tình cảm, nhưng không có ai làm điều đó cả.
Khi anh bị bắt giam lần thứ ba, gia đình anh cắt đứt mọi liên hệ với anh. Anh đã nghĩ đến chuyện tự vẫn, nhưng ngay lúc đó có một người Brazil gốc Nhật vui tính bị cảnh sát bắt giam. Người này thường xuyên cầu nguyện và nói về Kinh Thánh cho Igarashi nghe. Đó là lần đầu tiên Igarashi bắt đầu đọc Kinh Thánh. Anh ấn tượng nhất là câu: “Saolô, Saolô sao ngươi lại bắt bớ ta?” (Cv 9, 4) Đối với Igarashi, câu này nghe như thể Đức Kitô đang hỏi chính anh: “Sao con phạm tội chống Ta?”Đó là lúc anh trở lại đạo. Anh cầu nguyện hết lòng, lớn tiếng nói: “Con xin lỗi Chúa!”
Anh nhận ra khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, Ngài chết thay cho anh trên đó và anh khóc nức nở. Igarashi biết Mẹ Têrêsa cũng ở trong nhà tù, qua một quyển sách anh tình cờ đọc được. Anh lập tức tin rằng “con người này có thật” và muốn học hỏi nơi thánh nhân, mãi sau này anh mới biết ngài đã qua đời. May mắn thay, anh có cơ hội gặp được một số tu sĩ dòng Thừa sai Bác ái do ngài sáng lập.
Đức cố Hồng y Seiichi S. Hirayanagi mở khoá học giáo lý tân tòng giới thiệu đức tin Công giáo cho anh. Một luật sư Tin lành đã đứng ra bảo lãnh anh. Khi ra tù, Igarashi bắt đầu biến đức tin thành hành động thực tế bằng cách thành lập Nhà Mẹ. Đức Tổng Giám mục Takeo Okada đích thân gửi thư chúc mừng. Anh làm việc hết mình, phấn đấu noi theo con đường tình yêu của Mẹ Têrêsa. (Theo UCA News)
Đức Kitô, Vua Tình Yêu đã cảm hóa tù nhân Hiroshi Igarashi. Nhờ vậy, Mẹ Têrêsa Calcutta mới dẫn dắt anh bước theo Ơn Gọi. Tin Mừng hôm nay công bố điều kiện để được Thiên Chúa chúc phúc và được ban thưởng Nước Trời.
Xả kỷ
Tiên quyết theo lời mời gọi Tình Yêu Thiên Chúa, người Kitô hữu phải bỏ mình, thoát khỏi những ràng buộc xác thịt, đam mê, ham muốn, nếu quyết dấn thân theo Chúa, với trọn tâm tình tin, cậy, mến.”Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” (Lc 9, 23)
Không nuông chiều bản thân, không màng danh lợi phù vân, mà cần làm trọn bổn phận, trách nhiệm được Chúa trao phó. Chu toàn mọi nhiệm vụ, hay Ơn Gọi, dù chịu khó khăn, thách đố, dù bị đối xử phân biệt, bị vu oan cáo vạ, tra tấn, tù đầy, ám hại, vẫn phó thác, vững tin vào Chúa Quan Phòng.
Một khi xả kỷ, bỏ đi bản thân, thì mới có thể tha thiết gần gũi với tha nhân, để cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ. Nếu còn lấn cấn ngã chấp, cao ngạo, lục dục, tham sân si, thiếu khiêm hạ, vì còn dai dẳng vị kỷ, kiêu căng, coi thường, đố kỵ, khinh khi, ganh ghét người khác, thì làm sao có thể chân thành đến với người khốn cùng. Nếu có, chỉ là đóng kịch, giả hình, che mắt thiên hạ, hòng kiếm chút hư danh phù du.
Bác ái
Cảm nghiệm Tình Yêu vô biên, Mẹ Têrêsa Calcutta mới hiểu thấu vì sao Đức Giêsu hiện thân trong người nghèo khổ, hèn mọn:“Chúng ta phải ngạc nhiên thấy Chúa đói khát chúng ta như thế nào. Người đã hóa nên kẻ đói khổ, kẻ thiếu áo mặc, người hấp hối, để chúng ta có cơ hội cho Người ăn, cho Người mặc, phục vụ Người qua công việc chúng ta giúp đỡ người nghèo khó.”
Bác ái còn là dấu chỉ Tình Yêu, vì thế: “Đâu có tình yêu thương, ở đó có Thiên Chúa; đâu có thù ghét, ở đó có hỏa ngục.” (Đường Hy Vọng, số 749)
Buồn lắm thay, cũng phát sinh những kiểu bác ái biến thể, dị dạng, què quặt, lạm dụng, phi Kitô giáo, thậm chí phản Kitô:
Có loại bác ái ồn ào: Bác ái phóng thanh.
Có loại bác ái kể công: Bác ái ngân hàng.
Có loại bác ái nuôi người: Bác ái sở thú.
Có loại bác ái khinh người: Bác ái chủ nhân.
Có loại bác ái theo ý: Bác ái độc tài.
Có loại bác ái nhãn hiệu: Bác ái giả hiệu.
(Đường Hy Vọng, số 756)
Phục vụ
Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu phán dạy: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 14-15) Không chỉ phục vụ lẫn nhau, thân bằng quyến thuộc, Đức Giêsu còn đòi hỏi phải phục vụ những người hèn mọn, bé nhỏ, khốn cùng, khách lạ, người đau yếu, kẻ tù tội. Bởi vì những người khốn khổ đó chính là hiện thân Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô khẩn khoản Kitô hữu hãy quên mình phục vụ tha nhân. “Đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau.” (Gl 5, 13)
Phục vụ tha nhân đâu chỉ bằng vật chất, của cải, mà còn bằng tinh thần, thân thiện, sự chia sẻ, sự quan tâm, đồng cảm, đồng hành, hiệp thông cầu nguyện: “Tôi không làm việc bác ái được, vì tôi không có tiền! Chỉ có tiền mới bác ái sao? Bác ái của nụ cười, bác ái của bắt tay, bác ái của thông cảm, bác ái của thăm viếng, bác ái của cầu nguyện.” (Đường Hy Vọng, số 741).
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu như các Thánh yêu người, biết nhận ra Chúa trong mọi người, nhất là những kẻ hèn kém, khốn cùng, để chúng con có thể xả thân phục vụ Chúa mọi nơi, mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là mẫu gương mẫu bác ái, phục vụ, xin giúp chúng con biết noi theo Mẹ thực hành Lời Chúa dạy mến Chúa yêu người, để chúng con xứng đáng được nhập vào đoàn chiên bên hữu Chúa Giêsu Kitô. Amen.
45.Cha Ta chúc phúc--Lm. Vũ Đình Tường
Ngày nay nói đến vua chúa ai cũng cho là chuyện của thời đã qua. Xưa kia hình ảnh vua chúa, quan quyền cao trọng bao nhiêu ngày nay bị lơ là bấy nhiêu. Quốc gia nào còn giữ được truyền thống hình ảnh hoàng gia sống động cũng chỉ là giữ hình thức truyền thống xưa. Gọi là hình thức vì người trong hoàng tộc không hưởng đặc ân như xưa. Nếu thực tài họ cũng làm việc như những công dân khác và cùng trách nhiệm pháp lí như mọi người. Thiếu tài không thực sự lãnh đạo, cũng chẳng quyền thế. Đại đa số hình ảnh vàng son thời vua chúa ngày nay đóng khung, lộng kiến trong lâu đài bảo tàng viện.
Câu hỏi đặt ra cho các Kitô hữu ngày lễ kính Chúa Kitô vua vì thế có lỗi thời chăng? Với Kitô hữu có danh, không thực hành đời sống đạo thì đại lễ, lễ kính, lễ nhớ. Tất cả đều lỗi thời vì đối với họ tôn giáo là lỗi thời. Với Kitô hữu chân chính, sống thực hành niềm tin thì ngày lễ kính Chúa Kitô vua là một ngày hết sức đặc biệt. Đặc biệt vì nhiều lý do. Lý do quan trọng hơn cả vì Ngài là vua tình yêu. Tình yêu ban sự sống. Sự sống vĩnh cửu. Chỉ có Đấng chiến thắng sự chết mới ban sự sống vĩnh cửu. Mừng lễ Chúa Kitô vua chính là mừng lễ Ngài chiến thắng tử thần. Chiến thắng này không phải riêng cho Ngài mà cho chính chúng ta. Mừng vua chúng ta chiến thắng khải hoàn. Người hưởng thành quả của chiến thắng là chính chúng ta. Lễ mừng kính Ngài là lễ tạ ơn Ngài thắng trận thay cho chúng ta.
Lý do thứ hai để mừng kính do tiên tri Êdekia đưa ra. Đó là tạ ơn một chủ chiên hiền từ, nhân lành, đầy lòng xót thương. Lòng nhân từ của chủ chiên tỏa lan đến toàn đàn chiên, bao gồm cả chiên mạnh khoẻ đến chiên đau bệnh, chiên trong ràn và chiên ngoài ràn.
Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau, con nào mập béo, Ta sẽ chăm sóc, và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính (Ed 34,15)
Lý do thứ ba để mừng vì hãnh diện, Đức Kitô chiến thắng điều mà toàn thể nhân loại thua, sợ, cố tránh nhưng không tránh được. Điều nhân loại mong tránh thì Thiên Chúa của sự sống đè bẹp dưới chân. Hình ảnh này rất gần với hình ảnh xưa kia Đức Trinh Nữ đạp đầu kẻ thù của nhân loại là con rắn, hình ảnh của satan. Người Con duy nhất của Mẹ là Đức Kitô đặt kẻ thù dưới chân. Kẻ thù đây là tử thần. Chính Ngài đã chiến thắng sự chết. Sự chết không còn làm chủ nữa, chúng không còn tác oai, tác quái nhưng đã bị đặt vào đúng vị trí, đúng chỗ của nó.
Lý do thứ tư mừng phần thưởng tương lai của mỗi chúng ta. Phúc âm đưa ra hình thời sinh tiền sống bác ái, yêu thương; khi chết cũng sẽ được yêu thương bồi đắp. Bác ái, yêu thương diễn tả qua hành động cụ thể trong cuộc sống và được chính Chúa Cha chúc phúc.
Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta.
Hình ảnh của những con chiên đau khổ, thương tật trong sách tiên tri Êdekia giờ trở thành hình ảnh của những con người bất hạnh vì ốm đau, bệnh tật, gây nên bởi cô đơn, buồn thảm. Hình ảnh con người ốm o, gầy còm, ho sặc sụa, khát khô họng được nhắc đến như hình ảnh chiên lạc. Bàn tay nâng đỡ vỗ về của chủ chiên được trao sang bàn tay của mọi người. Những bàn tay làm công việc của bàn tay chủ chiên. Chính vì làm công việc của chủ chiên mà chủ chiên chúc phúc, đón nhận và ban thưởng. Chủ chiên chia phần gia nghiệp nước trời của mình cho những ai cùng cộng tác, lao tác, chia sẻ công việc của chủ chiên vì thợ thì đáng hưởng công. Phần thưởng thứ hai dành cho những bàn tay nâng đỡ, vỗ về chiên đau bệnh, chiên lạc đến từ Thiên Chúa Cha. Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc đến lãnh thưởng. Ân phúc Thiên Chúa ban thưởng đến từ Thiên Chúa Cha. Đây là nguyên nhân nữa để mừng kính ngày lễ Đức Kitô vua.
46.Chúa Kitô Vua--Lm. Ignatiô Trần Ngà
ĐIỀU KIỆN THIẾT YẾU ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG PHÚC THIÊN ĐÀNG
Trong lớp giáo lý nọ, giáo lý viên hỏi các học sinh:
- Ta phạm tội nào thì phải sa hỏa ngục?
Đây là một câu hỏi dễ nên có nhiều học sinh giơ tay xin đáp. Các câu đáp quy về những thứ tội sau đây:
- Tội cố ý giết người, cố tình gây thiệt hại cho người khác như trộm cắp, chiếm đoạt; cố tình phạm tội tà dâm, ngoại tình; cố ý lăng mạ làm mất danh dự người khác, vân vân…
Giáo lý viên nói:
- Tất cả các câu đáp của các em đều đúng. Bây giờ thầy hỏi tiếp:
- Có khi nào ta không phạm những thứ tội như thế, cũng không cố tình làm hại ai, không đụng chạm gì đến tài sản hay thân thể người khác… mà phải sa hỏa ngục không?
Sau một hồi cau mày suy nghĩ, các học sinh đều trả lời là không. Thế nhưng thầy lại bảo là có, khiến cả lớp ngạc nhiên pha lẫn nghi ngờ.
Thầy nói tiếp: Có những khi ta không làm tổn thương ai, không chiếm đoạt tài sản người khác, không xúc phạm đến ai… thế mà vẫn có thể bị sa hỏa ngục vì không ra tay cứu giúp những người lâm cảnh gian nan khốn khó.
Nghe thế, học sinh lại thêm nghi ngờ.
Để thuyết phục học sinh tin chắc điều này, thầy trích dẫn lời dạy của Chúa Giê-su qua hai dụ ngôn sau đây:
Thứ nhất là dụ ngôn người giàu có với La-da-rô khốn khổ trong Tin mừng Luca.
Người giàu “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy mà ăn cho đỡ đói, nhưng cũng chẳng ai cho.”
Thế rồi, cả hai người đều chết. La-da-rô thì được vào thiên đàng vinh hiển; còn lão phú hộ thì phải sa hỏa ngục” (Lc 16, 19-21).
Người giàu đã làm gì đến nỗi phải sa hỏa ngục? Ông ta không mắng chửi, không đánh đập, không xua đuổi La-da-rô… Thế thì tại sao lão lại phải sa hỏa ngục?
Lão phải sa hỏa ngục vì lão không ra tay cứu giúp La-da-rô đang đói khát trong khi lão thừa mứa thức ăn.
Thứ hai là qua dụ ngôn cuộc “Phán xét cuối cùng” được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su lên án những người không ra tay cứu giúp người cùng khổ bằng những lời lẽ hết sức nặng nề:
“Hỡi phường bị chúc dữ kia! Hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng…”
Thế là những người này hết sức bàng hoảng, sửng sốt, khiếp sợ và tự hỏi: “Mình đã làm gì nên tội mà Chúa bắt mình phải chịu hình phạt khủng khiếp đến thế? Mình không giết người, không đốt nhà, không chiếm đoạt tài sản của ai, không gian dâm, không ngoại tình, không mắng chửi hay làm mất thanh danh phẩm giá bất cứ ai… Thế thì tại sao lại phải chịu hình phạt nặng nề kinh khủng như thế?
Chúa Giê-su đáp: Các ngươi phải sa hỏa ngục “vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!”
“Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: 'Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?' Khi ấy Chúa đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: Những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta” (Mt 25, 46).
Lạy Chúa Giê-su,
Lâu nay chúng con không ngờ có một thứ tội rất nặng nề mà ai vi phạm thì phải sa hỏa ngục đau khổ muôn đời, đó là tội không biết ra tay cứu giúp những người lâm cảnh gian nan khốn khổ.
Xin cho chúng con luôn quan tâm giúp đỡ người khốn khó, biết giảm bớt những chi tiêu không cần thiết để chia sẻ cho những anh chị em nghèo thiếu chung quanh; nhờ đó, mai đây Chúa sẽ tuyên bố với chúng con rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” vì các ngươi đã ra tay cứu giúp những anh chị em đang lâm cảnh gian nan.
47.Yêu mến và phụng sự Chúa nơi tha nhân--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm nọ, có người đàn ông đem đến cho tôi một tượng chuộc tội khá lớn. Bàn tay Chúa Giêsu chịu đóng đinh bị sút ra khỏi thanh ngang của cây thánh giá. Ông ta nhờ tôi đóng lại cây đinh bị sút để tượng Chúa Giêsu chịu nạn được gắn chặt vào thập giá như trước.
Tôi hỏi ông: “Một việc đơn giản như thế, sao ông không tự làm lấy, đem đến nhờ tôi làm gì mất công.” Ông trả lời: “Tôi không dám đóng đinh Chúa, sợ xúc phạm đến Ngài.”
Vậy mà mấy tuần sau, ông nầy lại vác rựa chém người hàng xóm, may có người can ngăn kịp thời, nếu không thì ông ta đã chém chết một hiện thân sống động của Thiên Chúa.
Nhiều người cung kính cúi đầu trước tượng ảnh thánh và không bao giờ dám xúc phạm đến ảnh tượng thánh do tay người phàm làm ra, nhưng lại ngang nhiên xỉ vả, mắng chửi, đánh đập những người chung quanh là hình tượng sống động của Thiên Chúa do chính Ba Ngôi Thiên Chúa dựng nên mà không áy náy lương tâm.
Sở dĩ như thế cũng chỉ vì người ta không nhận ra những người đang sống chung quanh mình là hiện thân của Chúa Giêsu. Mà hiện thân của Chúa Giêsu thì đáng trọng hơn những bức tượng thánh bằng thạch cao, bằng gỗ đá… là biểu tượng của các thánh, do con người tạo nên.
Nói như thế không phải là xem thường ảnh tượng thánh nhưng để nhấn mạnh rằng nếu chúng ta dành cho các tượng ảnh thánh trên bàn thờ một tâm tình tôn kính đặc biệt và không bao giờ dám xúc phạm ảnh đến ảnh tượng thánh, thì chúng ta cũng phải đối xử y như thế đối với anh chị em chung quanh.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng mọi người chung quanh chúng ta, dù bần cùng cơ cực, dù đau yếu bệnh tật, dù bị tù đày hay bị ruồng bỏ… cũng đều đáng được tôn trọng, đáng được yêu thương và phục vụ vì họ là hiện thân của Chúa Cứu Thế, là chi thể của Chúa Giêsu.
Những ai cho người đói khát một bát cơm thì Chúa Giêsu nói là họ đã cho Ngài ăn, vì người đói khát đó cũng chính là Chúa; những ai cho người rách rưới một tấm áo thì Chúa Giêsu nói là họ đã cho Ngài mặc, vì người rách rưới đó cũng chính là Chúa… Như thế, Ngài dạy rằng mọi người chung quanh chúng ta là hiện thân của Ngài, làm gì cho họ là làm cho chính Chúa.
Nếu hôm nay chúng ta chửi mắng, chà đạp, gây buồn phiền đau khổ cho những người chung quanh thì đến ngày ra trước toà phán xét, Chúa Giêsu sẽ phán với chúng ta rằng: "Hỡi quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào chốn cực hình dành sẵn cho ma quỷ và các thần ác, vì xưa kia ngươi đã đánh đập, chửi mắng, xỉ nhục Ta…”
Hôm xưa, đang khi ông Sao-lê (tức là thánh Phao-lô khi chưa trở thành tông đồ của Chúa) hăm hở tìm bắt những người tin theo Chúa Giêsu tại thành Đa-mát, bỗng nhiên ông bị ngã xuống và có tiếng Chúa Giêsu (đã phục sinh) vang lên giữa thinh không: "Sao-lê, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phao-lô hết sức kinh hoàng, đáp lại: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ" (Cv 22, 6-9).
Sự kiện nầy chứng tỏ bắt bớ các ki-tô hữu là bắt bớ Chúa Giêsu vì họ là hiện thân của Chúa Giêsu.
Thánh Ca-mi-lô Len-li là đấng sáng lập “Hội Dòng Tôi Tớ các bệnh nhân”. Ngài luôn nhìn thấy Chúa Giêsu nơi các bệnh nhân, đến nỗi nhiều lần mang thức ăn cho họ, ngài nghĩ họ là Đức Ki-tô nên nài xin họ ban ơn và tha thứ tội lỗi cho mình. Ngài đứng trước mặt họ với với thái độ cung kính như thể đang ở trước nhan Chúa vậy.
Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta bí quyết để được hạnh phúc đời đời, đó là biết nhận ra Chúa nơi mỗi anh chị em đang sống chung quanh và hết lòng yêu thương phục vụ Chúa nơi những người đó.
Bài học nầy là cốt tuỷ của giáo lý công giáo, là kim chỉ nam cho đời sống đạo, là chìa khoá mở cho ta vào cửa thiên đàng.
Lạy Chúa Giêsu,
Nhờ Lời Chúa soi sáng, chúng con biết rằng yêu thương phục vụ tha nhân là con đường đưa tới hạnh phúc thiên đàng và vô cảm thờ ơ trước những đau thương của tha nhân là đường dẫn xuống hoả ngục.
Xin giúp chúng con dứt khoát từ bỏ lối sống ích kỷ và sẵn sàng yêu thương phục vụ mọi người, nhờ đó, mai đây chúng con được Chúa đón vào quê trời muôn đời vinh hiển. Amen.
48.Tha nhân là thân thể Chúa Giêsu--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Trần Ngà
Một linh mục nọ ngỏ lời với cộng đoàn phụng vụ rằng: "Khi trao Mình Thánh Chúa cho anh chị em, tôi nâng Mình Thánh Chúa lên và nói: Mình Thánh Chúa Kitô! Tất cả anh chị em đều tin thật đó là Mình Thánh Chúa và từng người đáp lại: Amen, nghĩa là mỗi người tuyên xưng đó chính là Mình Thánh Chúa thật sự và cung kính rước Người vào lòng. Thế nhưng, nếu tôi chỉ vào từng người ngồi quanh đây và nói: Đây là thân thể Chúa Giêsu thì có lẽ anh chị em không tin người đó là thân thể Chúa, không tỏ lòng tôn kính và không muốn đón rước người đó vào nhà mình, nếu không ưa thích người đó.
Ngay lúc đó, dưới hàng ghế giáo dân có tiếng xì xào. Hình như nhiều người không đồng quan điểm với Cha sở về nội dung nầy.
Sau thánh lễ hôm ấy, một thanh niên đến gặp cha sở và thưa:
- Thưa cha, trong bài giảng hôm nay, chúng con giật mình khi nghe Cha nói từng người chung quanh chúng ta đây, kể cả những người tàn tật, bần cùng, tội lỗi... đều là thân thể Chúa Giêsu.
- Thế anh không tin mọi người là thân thể Chúa Giêsu sao?
- Con tin tấm bánh thánh mà linh mục đã truyền phép và trao cho giáo dân rước lễ thật sự là Thân Thể Chúa; còn người cha, người mẹ, người anh chị em, người láng giềng... không thể là thân thể Chúa được. Cha có bằng chứng gì chứng tỏ tha nhân là thân thể Chúa Giêsu không?
- Nói có sách, mách có chứng. Bằng chứng đây (giơ cuốn Tân Ước ra), anh hãy đọc Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15).
- Thật thế ư? Thế thì Cha có biết vì sao thánh Phaolô nói bạo như thế không?
- Thánh Phaolô dạy điều nầy căn cứ vào kinh nghiệm bản thân. Hồi ấy, Phaolô chưa tin vào Chúa Giêsu, ông nhiệt thành với lề luật và hăm hở tìm bắt những người theo Chúa Giêsu. Nên nhớ là vào thời điểm đó Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời rồi.
Trên đường Damas, Phaolô bị quật ngã và có tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: "Sao-lô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9)
Thế là từ hôm ấy, Phaolô không dám bắt bớ các tín hữu nữa, vì ông biết rằng: họ là những Giêsu khác, bắt bớ họ là bắt bớ Chúa Giêsu.
Người thanh niên vẫn còn hoài nghi, anh hỏi tiếp:
- Vậy thưa cha, đó là giáo lý của thánh Phaolô. Còn về phần Chúa Giêsu, có bao giờ Người dạy như thế không?
- Có chứ! Nào, mời anh lật qua Tin Mừng Matthêu, chương 25, trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng. Đó là bài chúng ta vừa nghe đọc hôm nay đây.
Qua dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà... Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người.
- Thật thế ư? Vậy mà lâu nay con không ý thức điều đó. Và thưa cha, sách giáo lý công giáo có chỗ nào nói như thế không cha?
- Đây, giáo lý công giáo đây, anh mở ra xem, bài nói về Bí tích thánh tẩy, số 1267: "Bí tích thánh tẩy làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô".
- Thế các Đức Giáo Hoàng có dạy như thế không?
- Đây nữa (chìa sách ra), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong tâm thư gửi các gia đình có viết, anh đọc thử xem: "Thiên Chúa đã đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình. Những gì mỗi thành viên trong gia đình làm cho nhau là làm cho chính Chúa".
- Thưa Cha, khi mới bước vào gặp cha, con không tin tha nhân là thân thể Chúa Giêsu, nhưng bây giờ thì con đã tin. Nhưng xin hỏi cha, vậy con có buộc phải tôn kính tha nhân như tôn kính Chúa trong nhà thờ không?
- Trước hết, anh hãy nghe lời dạy của Mẹ Têrêxa Calcutta. Hôm ấy, có một thiếu nữ Ấn-độ đến gặp Mẹ Têrêxa Calcutta để tìm hiểu Hội Dòng của Mẹ. Trước hết, Mẹ nói với người thiếu nữ ấy: "Con hãy qua nhà hấp hối. Ở đó, con sẽ gặp nhiều người bất hạnh nghèo khổ, bệnh tật đang nằm chờ chết. Con hãy săn sóc an ủi họ".
Thiếu nữ vừa quay lưng đi thì Mẹ Têrêxa gọi giật lại: "Nầy con, khi dâng thánh lễ, con thấy linh mục trân trọng mình thánh Chúa Giêsu sau khi truyền phép thế nào, thì con cũng hãy trân trọng những con người bất hạnh ấy như thế".
Nói như thế, Mẹ Têrêxa Calcutta muốn dạy rằng: mỗi một con người dù bần cùng khốn khổ đến đâu cũng phải được tôn trọng như Mình Thánh Chúa.
- Ngoài Mẹ Têrêxa Calcutta, có vị thánh nào khác tôn trọng con người như chính thân thể Chúa Giêsu nữa không?
- Có nhiều: thánh Gioan Kim Khẩu, thánh Elisabet Hung-ga-ri, thánh Phanxicô Atxidi, vv... Có lần Phanxicô gặp một người phong hủi rất ghê tởm. Ban đầu Anh định xa lánh, nhưng sau đó, Phanxicô cảm nhận ra người phong hủi đó là một phần thân thể bị thương tích, bị lở loét của Chúa Giêsu, nên Anh đã đến chào hỏi và ôm hôn người phong hủi đó.
- Thưa cha, con thấy nhiều tín hữu rất mực tôn kính Chúa Giêsu trên bàn thờ, còn những chi thể sống động của Chúa Giêsu trong đời thường thì hình như không được ai tôn kính.
- Đúng thế! Vì vậy, thánh Gioan kim khẩu dạy chúng ta đừng phân biệt đối xử giữa Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ. Chúa Giêsu trong nhà thờ và Chúa Giêsu ngoài nhà thờ, tức là những anh chị em khác, phải được tôn trọng như nhau. Để tôi đọc cho anh nghe lời dạy của người:
"Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Kitô ư? Chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi. Đừng có thái độ nầy là trong nhà thờ thì tôn kính, cho thân thể Người mang những y phục lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải giá lạnh và trần trụi. Thân thể Chúa ở đây (trong nhà thờ) không cần y phục, nhưng cần tâm hồn trong trắng; còn thân thể Chúa ngoài kia (tức là tha nhân) thì cần được chăm lo tận tình."
- Thưa cha, dường như đối với nhiều người, việc khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến anh chị em chung quanh là chuyện nhỏ, chẳng có gì đáng quan tâm.
- Đó là một sai lầm tai hại vì đến ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ nói với những kẻ ấy rằng: "Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào chốn cực hình đời đời dành cho ma quỷ và các thần dữ, vì xưa kia, ngươi đã khinh dể, nhạo báng, xúc phạm đến ta!..."
* * *
Nội dung trên đây là giáo lý cốt tuỷ của đạo thánh Chúa. Nếu chúng ta tuân giữ được giáo huấn cốt tuỷ nầy thì đã nắm chắc được chiếc vé vào cửa thiên đàng trong tay, vì thánh Phaolô trong thư Rôma khẳng định rằng: "Ai yêu thương người là đã chu toàn lề luật" (Rm 13, 10).
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta giữ trọn giáo huấn nầy để làm cho thế giới nầy ấm lên bằng tình yêu thương nhân ái, đồng thời nhờ đó, tất cả chúng ta mai đây sẽ được Vua Giêsu mời đón vào hưởng hạnh phúc đời đời với Người trên thiên quốc.
49.Chúa Kitô, Vua tình yêu--Lm. Minh Vận, CRM
Ngày 12.10.1931 kỷ niệm tìm thấy Tân Thế Giới, tại kinh thành Rio nước Brazil, người ta tổ chức một buổi lễ thật vĩ đại và long trọng khánh thành pho tượng Chúa Kitô Vua khổng lồ: Tượng cao 30 mét, đầu dài 3 mét 75, hai tay giang ra từ phải qua trái 30 mét, dựng trên một trái núi cao 700 mét. Buổi lễ diễn ra rất tưng bừng náo nhiệt. Pho tượng sừng sững, oai nghiêm và nhân từ, tỏa ra muôn ánh hòa quang sáng ngời bởi muôn ngàn ánh điện lung linh diệu huyền, khiến du khách thập phương ngưỡng mộ, ca ngợi và lòng tràn đầy hoan hỉ tôn phụng Vương Quyền Chúa Kitô, Vua vũ trụ, Vua trên muôn Vua, Vua mọi tâm hồn.
I. NHỮNG HÌNH THỨC TÔN NHẬN CHÚA LÀ VUA
Khi thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, Giáo Hội có mục đích nói lên cho nhân loại biết Vương Quyền cao cả của Chúa Kitô; mọi loài trên trời dưới đất và trong hỏa ngục đều phải hết lòng tôn thờ, sùng mộ, phụng sự và mến yêu Chúa. Không những phải tôn nhận Chúa là Chủ Tể vạn vật, là Chúa muôn loài, là Vua vũ trụ mà còn phải tôn nhận Chúa là Vua các dân tộc, các quốc gia, mọi gia đình và mọi tâm hồn... Cũng cùng quan niệm đó, các giáo phái ngoài Công Giáo cũng đều chân nhận và suy tôn Chúa Kitô là Vua. Các dân tộc dù không tôn thờ Thiên Chúa cũng phải tôn nhận Ngài là Chủ Tể dưới hình thức này hay hình thức khác. Chúng ta thấy những hình thức tôn nhận Chúa Kitô là Vua vũ trụ, diễn ra khắp thế giới, nơi mọi quốc gia, mọi dân tộc, nhất là xã hội nơi chúng ta đang sống.
Những hình thức đó được kể tới như niên lịch Công Giáo năm 2000, đánh dấu biến cố lịch sử vô cùng quan trọng, Chúa Kitô Ngôi Lời Thiên Chúa đã giáng sinh làm người để cứu chuộc nhân loại. Rồi, toàn bộ Thánh Kinh từ Cựu Ước tới Tân Ước đã chứng minh về Ngài. Ngày nay, dù muốn hay không tất cả mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi ngôn ngữ đều phải công nhận. Khắp đó đây trên thế giới, các Thánh Đường mọc lên như nấm, rải rác khắp hang cùng ngõ hẽm, đâu đâu người ta cũng thấy Thánh Đường, nhất là nơi xứ sở chúng ta đang sống, chỗ nào cũng Church, Church, cỡ to cỡ nhỏ, ngay một ngã tư, cũng có thể thấy 3 hoặc 4 Thánh Đường. Có những Thánh Đường được kiến trúc thật nguy nga đồ sộ, tân kỳ, lộng lẫy, tốn phí những ngân khoản khổng lồ. Ngoài ra, còn có những trung tâm hành hương, tổ chức những buổi lễ thật long trọng hấp dẫn, những cuộc cung nghinh biểu dương Đức Tin thật trọng thể, những giờ đền tạ tôn thờ Thánh Thể, sùng kính Thánh Tâm Chúa thật sốt sắng tha thiết. Chưa hết, ngoài ra, còn có các buổi hội thảo thuyết trình; những trường dạy Thánh Kinh, giáo lý; các cuộc giảng thuyết trình diễn trên télévision; sách Thánh Kinh được xuất bản cỡ lớn cỡ nhỏ với đủ mọi thứ ngôn ngữ, có cả loại hình ảnh lộng lẫy màu sắc tuyệt đẹp, với số lượng vô kể, không có một thứ sách nào trên thế giới sánh kịp.
Pho tượng khổng lồ Chúa Kitô Vua với cuộc lễ linh đình trên kia; biết bao hình thức chúng ta vừa đề cập tới, phải chăng đủ chứng minh lòng tôn sùng, kính mến loài người dâng lên, để tôn nhận Vương Quyền của Chúa Kitô, suy phục quyền bính của Ngài cách xứng đáng? Nếu chỉ căn cứ ở những dấu hiệu bề ngoài đó, hoặc nếu chúng ta là những du khách từ khắp nơi tới du lịch tại Hiệp Chủng Quốc này, hẳn chúng ta tất cả đều phải tấm tắc ca ngợi dân tộc Hoa Kỳ là một dân tộc rất sùng đạo, có thể nói vượt xa hơn mọi dân tộc khác.
II. NHỮNG ĐIỀU PHẢN NGHỊCH ĐÁNG SỢ
Chính Chúa Kitô đã phải than phiền: "Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng xa cách Ta!" Chỗ khác, Chúa phán với những người Pharisiêu: "Không phải kẻ nói: Lạy Chúa! Lạy Chúa, mà được vào Nước Trời; trái lại, chỉ có kẻ tuân giữ lời Ta truyền dạy mới được vào Nước Trời!" Rồi với thiếu phụ Samaria Chúa phán: "Đã đến lúc, người ta phải thờ phượng Thiên Chúa trong chân lý, công bình và bác ái". Chúa còn xác quyết: "Kẻ yêu kính Ta hãy giữ giới luật Ta truyền dạy".
Qua các lời Chúa phán trên đây, chúng ta hãy để cho lòng lắng dịu xuống, suy tư hồi tưởng; rồi tự thâm tâm chúng ta tự trả lời câu hỏi: "Loài người nói chung và riêng bản thân chúng ta là con cái Chúa, chúng ta đã thực sự tôn nhận, suy phục và sống xứng đáng với lòng tôn sùng Chúa Kitô là Vua chúng ta chưa? Nhân loại đã sẵn sàng đón nhận và thực thi giáo huấn của Chúa chưa? Giáo huấn của Chúa đã thực sự thấm nhập vào luật lệ các quốc gia, điều khiển nền luân lý các dân tộc, chi phối các sinh hoạt xã hội, chính trị, tôn giáo của loài người chưa? Hay chỉ có những hình thức sùng đạo, mang một nhãn hiệu phô trương thương mại và kiêu căng? Nếu quả thực, không đến nỗi đáng trách, thì hỏi Chúa Kitô đã một phần nào được hài lòng với chúng ta là con cái Chúa chưa?"
Chúa Phán: "Yêu Ta hãy giữ giới luật Ta truyền dạy". Giới luật Chúa truyền dạy loài người phải tuân giữ đã được ghi trong kho tàng Thánh Kinh, qua quyền giáo huấn của Giáo Hội, hoặc âm thầm nhắn nhủ trong lương tâm chân chính của mỗi người. Chúng ta đã sẵn sàng đón nhận và ngoan ngoãn sống theo những lời Chúa giáo huấn được bày tỏ trong các nguồn mạch đó chưa?
Đây là kết quả do một cuộc phỏng vấn sau dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thăm viếng Hoa Kỳ vừa qua, sẽ cho chúng ta thấy cái nhìn trung thực về lòng sùng mộ Vương Quyền Chúa Kitô và tuân giữ giáo huấn của Ngài thế nào?
Có thể nói hết mọi người, không riêng gì người Công Giáo mà hầu hết anh em trong các giáo phái và các tôn giáo ngoài Kitô Giáo, ai ai cũng đều nhiệt tâm đón tiếp Đức Thánh Cha với niềm kính yêu, xứng với chức vị cao cả là Đấng Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian. Thế nhưng, thực sự lại có một điều rất mâu thuẫn là nhiều người bất đồng ý kiến với ngài, trong những vấn đề liên quan đến giáo lý, luân lý và truyền thống chính đáng của Giáo Hội, cũng như của các dân tộc. Những điều bất đồng ý kiến đó được xoay quanh các về các vấn đề, như luật cấm ly dị, cấm đồng tính luyến ái, cấm phá thai, cấm phụ nữ làm Linh Mục, cấm tái hôn bất hợp pháp và nhiều vấn đề khác tương tự trong lãnh vực luân lý và xã hội.
Người ta đả kích Đức Giáo Hoàng và cho ngài là người độc tài, là người thủ cựu, kỳ thị nam nữ... Căn cứ vào những bất đồng ý với các lời giáo huấn của Đức Thánh Cha và những truyền thống lành mạnh của Giáo Hội qua cuộc phỏng vấn trên đây, hoặc căn cứ vào thực trạng của đời sống xã hội, nhất là nơi dân tộc chúng ta đang sống và chịu ảnh hưởng, chúng ta phải nhận định rằng: Những hình thức tôn nhận Vương Quyền Chúa Kitô trên kia mới chỉ là cái mã tốt đẹp bên ngoài, còn phần nội tâm chính yếu thì người ta đã bỏ qua. Nhiều đạo luật của các quốc gia không những bỏ qua mà còn phản lại tinh thần Chúa, chống lại giáo huấn của Giáo Hội như: Đạo luật cho phép ly dị, cho phép phá thai, tài trợ những phí khoản khổng lồ để phá thai... Thật đúng như lời Chúa: "Không biết khi Con Người đến có còn thấy Đức Tin trên mặt đất nữa không?" (Lc 18:8)
III. CHÚNG TA LÀM GÌ CHO XỨNG HỢP
Thánh Kinh đã định nghĩa rất xác thực: "Thiên Chúa là Tình Yêu". Bản tính của Chúa là Tình Yêu. Chúa là Vua Tình Yêu, là Chúa nhưng là Chúa Hòa Bình, là Cha nhưng là Cha Nhân Từ: Chủ thuyết của Chúa là công bình, bác ái, quốc sách chinh phục các linh hồn là lòng nhân từ, là tình thương xót. Nghệ thuật quản trị của Chúa là Tình Yêu. Chúa cũng muốn nhân loại phải tôn nhận Chúa, suy phục Vương Quyền Ngài bằng tình yêu, bằng sự hiến dâng chính tình yêu, lòng yêu mến lên Ngài, như lời Ngài đã phán với Thánh Nữ Magarita Maria: "Con hãy dâng trái tim con cho Cha". Tất cả những hình thức bên ngoài để tôn vinh Chúa sẽ không có giá trị gì, nếu nhân loại không tuân giữ luật Ngài truyền, không suy phục và sống theo tinh thần Tin Mừng và giáo huấn của Ngài nơi luật của Giáo Hội, quyền giáo huấn của Đức Thánh Cha, là Đấng kế vị Thánh Phêrô và Đại Diện Chúa Kitô trên trần gian. Tất cả vũ trụ bao la, muôn loài muôn vật trên trời dưới thế đều thuộc quyền Ngài, đều do Ngài tác thành, đều ở trong quyền toàn năng bảo tồn và quan phòng an bài của Ngài... Điều Chúa khát khao là tình yêu, chúng ta chỉ có thể đáp lại tình yêu của Chúa bằng cách hiến dâng trái tim, sự thuần phục của chúng ta cho Chúa và sống theo tinh thần của Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội.
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta hãy đáp lại lòng yêu thương của Chúa bằng cách thực thi các giáo huấn của Ngài, sống theo tinh thần Ngài, để đời sống chúng ta được họa theo mẫu gương đời sống thánh thiện của Chúa, tình yêu thương, lòng nhân từ, bác ái tha thứ của Ngài.
Đồng thời, chúng ta hãy nỗ lực làm tông đồ mở rộng Vương Quốc Yêu Thương của Chúa, cổ võ tình yêu thương, lòng nhân từ, bác ái tha thứ của Ngài đến với mọi người, để mọi người biết yêu thương, nhân từ bác ái tha thứ cho nhau, hầu làm cho nhân loại được trở nên anh chị em một nhà, con một Cha Chung trên trời.
50.Lễ Kitô Vua: Dụ ngôn hay mô tả thật--Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Ngày lễ Kitô Vua, ta tưởng sẽ bắt gặp những đoạn sách thánh với đầy ắp những thuật ngữ của cung đình như Bệ Hạ, Bề tôi, Hạ thần, Triều thiên, Vương miện, thần dân, lãnh thổ, Vương Quốc … (bởi lẽ thời Cựu ước đầy dẫy các vị vua như Saule, Đavít, Salomon…). Nhưng Giáo Hội lại cho đọc trong bài I, Cựu Ước: một vị vua mục tử, tức vị vua đi chăn chiên. Trong bài đọc II, trích thư 1Cr, 15, có bóng dáng từ chiến thắng, vương quốc, nhưng lại là thắng xác chết (kẻ thù cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết) và Vương quốc trao cho Chúa Cha thì mắt trần chẳng thấy đường biên lãnh thổ. Còn trong bài Phúc Âm, Giáo Hội cho xuất hiện một vị vua thẩm phán xét xử, nhưng lại xét xử dựa trên những chuyện nhỏ mọn bình thường, ba cái lặt vặt, chứ chẳng động gì đến những chuyện lớn lao như hằng trăm ngàn tỉ (cỡ Vinashin), hoặc buôn lậu trốn thuế vỡ nợ, bể hụi vv; và một vị vua thẩm phán xét xử nhưng lại đồng hoá chính mình với kẻ ăn xin.
Câu hỏi mà chúng ta sẽ phải trả lời là: Bài Phúc Âm của Mt 25 nói về ngày phán xét chung, phân biệt 2 hạng người bên tả bên hữu, dê với chiên, đó là dụ ngôn nói bóng nói gió hay là mô tả trước ngày phán xét chung sẽ diễn ra như vậy.
Có 3 trả lời cho câu hỏi trên. Trả lời nào cũng có tên tuổi của các nhà chú giải Kinh thánh nổi tiếng cả.
1. Không phải là Dụ ngôn, nhưng là mô tả tiên tri, báo trước ngày chung thẩm: Đức Kitô Vua sẽ xét xử thần dân của muôn thiên hạ dựa trên những việc bác ái yêu thương mà họ làm cho nhau. Bởi vì cái cốt lõi của Kitô giáo, giới răn mới của Đức Kitô là Yêu thương. Mười điều răn cũng tóm về “hai này mà chớ”, trước mến Chúa, sau yêu người. Mà theo Tin Mừng Gioan, ai nói mến Chúa mà không yêu người là nói dối, vì thế Vua Kitô sẽ xét xử theo luật. Luật Tình yêu trong những việc cụ thể: cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống…
Những chi tiết này rất khớp với “thương người có 14 mối: Thương xác 7 mối”: thứ nhất cho kẻ đói ăn, (2) khát uống, (3) rách rưới ăn mặc, (4) viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, (5) cho khách đỗ nhà, (6) chuộc kẻ làm tôi, (7) chôn xác kẻ chết…
2. Chỉ là dụ ngôn
Nhưng lối giải đáp trên cũng gặp vài khó khăn lớn: Bởi nếu số phận đời đời của mình chỉ tuỳ thuộc vào những hành vi bác ái làm cho người khác mà mình làm cũng chẳng cần biết là làm cho chính Chúa, vẫn được vào hưởng Nước Trời, thì địa vị của Đức Tin nằm ở đâu. Trong khi Tin là một điểm Chúa Giêsu rất nhấn mạnh: Ai tin thì sẽ được cứu rỗi – Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta.
Nếu phán xét chỉ nhắm vào các việc bác ái, thì ta cứ hùng hục giúp người đói khát đi. Chẳng cần vào Đạo làm chi, chẳng cần đến nhà thờ làm gì, vì Chúa Kitô Vua đâu có hỏi trong ngày phán xét: người đi nhà thờ tuần mấy lần. Một năm xưng tội mấy keo?Ăn chay mỗi năm mấy bận?
Lại còn những câu nói khác cũng của Vua Kitô thẩm phán. Ai tha thứ sẽ được thứ tha (tha thứ chứ đâu phải là cho ăn cho mặc). Anh em đừng xét đoán thì sẽ không bị xét xử (không xét đoán đâu phải là cho uống cho ăn), mà vẫn được trắng án, cho qua, không xét xử.
Lại còn những tội trong tư tưởng không bị Vua Kitô Đấng thấu suốt mọi tư tưởng trong tâm hồn, không xét xử các tội đó hay sao? (Ngài nói: nhìn người nữ mà ước ao phạm tội là đã phạm tội rồi) … Tức là nếu ta cứ vung tiền ra cho kẻ đói ăn, khát uống, mà trong lòng ta chẳng thương người chút nào, thì có được xếp vào bên hữu không?
Vì thế, người ta lại coi đoạn Tin Mừng này cũng chỉ là Dụ ngôn, nhằm nói lên một khía cạnh của Nước Trời như 3 dụ ngôn mà Matthêu kể liền trước đó: Chủ nhà và quản gia tỉnh thức, 10 trinh nữ, các nén bạc.
Dụ ngôn 1 là chủ nhà và quản gia tỉnh thức, vì chủ không biết giờ nào kẻ trộm đến, còn quản gia không biết giờ chủ trở về. Phải tỉnh thức kẻo chủ sẽ ném vào nơi khóc lóc nghiến răng.
Dụ ngôn 2 là Nước Trời giống 10 Trinh nữ đi đón chàng rể, trong đó 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. 5 cô được gọi là khôn ngoan đâu có phải vì tỉnh thức, cũng ngủ cả, nhưng khôn vì có đem theo dầu. Dầu, chàng rể, đèn đều là những ẩn ý của dụ ngôn, chứ Nước Trời thật mà như vậy thì hãng dầu nhớt Castrol sẽ không còn dầu để bán, bới ai trước khi chết cũng sắm cho bằng được một can dầu lửa đốt đèn “Hoa Kỳ”!
Đến dụ ngôn 3: những nén bạc: Khi vua trở lại sẽ tính sổ: cho coi 10 thành, 5 thành, hay phải vào nơi khóc lóc. Nén bạc, 5 thành, 10 thành … đều là những ẩn ý của dụ ngôn. Câu cuối của dụ ngôn này (25, 30) khi vua nói với đầy tớ chôn nén bạc không sinh lợi: Hãy tống nó vào nơi tối tăm, ở đó chỉ toàn khóc lóc nghiến răng (câu 30). Thì câu 31 là khởi đầu bài Tin Mừng mà anh chị em nghe hôm nay: Khi Con người hiện đến trong vinh quang có thiên thần hầu cận để xét xử. Chính vì có một loạt các dụ ngôn liên tiếp nhau như vậy, mà một số các nhà chú giải coi đây cũng là một dụ ngôn chứ không phải miêu tả sự thật.
3. Dụ ngôn nghĩa rộng.
Nếu chỉ xem đoạn tả trong bài Tin Mừng hôm nay chỉ là một dụ ngôn thuần tuý, tức là một ví dụ cho dễ hiểu thì sẽ có nguy cơ xem thường các hành động yêu thương là cốt lõi của đạo Bác ái. Vì thế lời giải thứ ba cho câu hỏi: “Bài Tin Mừng này là dụ ngôn hay mô tả thật” sẽ là: Đây là Dụ ngôn theo nghĩa rộng.
- Bởi dụ ngôn có thể là lời tuyên phán long trọng: Những gì từ ngoài vào không làm cho người ta ra nhơ uế. Nhưng chính cái từ trong con người phát ra mới làm cho nhơ nhớp.
- Dụ ngôn cũng có thể là lời khuyên về cách xử thế: khi đi dự tiệc anh em đừng ngồi vào chỗ nhất.
- Dụ ngôn cũng có thể ám chỉ một hạng người nào đó. Có 2 người lên đền thờ cầu nguyện: Biệt Phái và người Thu Thuế.
- Dụ ngôn cũng có thể chỉ là một câu tục ngữ: Thầy thuốc hãy chữa lấy mình.
- Hay dụ ngôn thường là những so sánh, ví dụ, ví dầu cầu tre lắt lẻo. Nước Trời như hạt cải, như nắm men, mẻ lưới…
Vì thế dụ ngôn theo nghĩa rộng vừa là hình bóng ví von vừa là sự thật được mô tả.
Như dụ ngôn hôm nay: phân biệt Chiên và Dê là hình bóng. Xét xử về bác ái là sự thật. Nhưng cũng vì là dụ ngôn nên cũng chỉ nói lên một phần nào đó của Nước Trời của thời Cánh chung của ngày Phán xét, tức là Bác ái yêu thương cũng chỉ là một trong nhiều khía cạnh mà Vua Kitô sẽ dựa vào mà xét xử. Và có lẽ là để xét xử “muôn dân,” những người chưa biết Chúa: “Lạy Chúa có bao giờ con thấy Chúa…” Còn người Kitô hữu chúng ta, có nhiều con đường khác nữa để chúng ta có thể lọt vào của Nước Trời như can đảm tuyên xưng Ngài (10,30), thi hành ý Cha trên trời (7,21); sẵn sàng tha thứ (6,14), không đoán xét ai (7,1) v.v…
Một nét sự thật nữa trong dụ ngôn này là Vua Kitô đồng hoá mình với người mọn hèn nhất.
Mỗi lần anh em làm như thế cho kẻ bé nhỏ nhất của Ta là anh em làm cho chính Ta. Brewer Mattocks đã có một bài thơ đại ý như sau: Một cha xứ nọ muốn trèo lên tận ngọn tháp nhà thờ để gần với mây trời thì gặp được Chúa dễ hơn vì Ngài sẽ ngự đến trong mây trời. Cha xứ hi vọng giơ tay với được Lời Ngài để đem về cho Dân Chúa. Thế rồi một ngày từ tháp cao linh mục nghe tiếng Chúa. Cha xứ vội kêu lên “Lạy Chúa, Chúa ở đâu – Lạy Chúa, Chúa ở đâu” và cha xứ nghe vọng lại tiếng Chúa: “Ta ở ngay dưới kia, trong từng người Dân Ta”.
Một linh mục trông coi xứ nọ
muốn trèo lên ngọn tháp Nhà Thờ
để, càng cao dễ gặp Chúa Trời
đem Lời Người xuống cho Dân mong chờ
Một hôm nọ cha nghe tiếng Chúa,
cha vui mừng hỏi Chúa ở đâu
Lời Ngài vọng lại từ cao:
Con ơi Ta ở nơi từng người Dân Ta.
51.Hãy là môn đệ của Ta--Msgr. Edward Peter Browne--Lm. Gioan Trần Khả chuyển dịch
Sứ Giả và Bản Tin
Tuần trước ở trang đầu của hầu hết các trang báo trên thế giới và các đài truyền hình đã có hình của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Fiedel Castro, và những lời nhận xét của Fidel Castro nói là Đức Giáo Hoàng là một con người vĩ đại, một người thu hút tuyệt vời. Nhưng suốt cả ba mươi năm qua Fidel Castro đã nỗ nực đánh phá giáo hội ở Cuba. Ông đã giết các linh mục, các nam nữ tu sỹ, đã đóng cửa nhiều nhà thờ, cấm dạy giáo lý và giáo thuyết của Giáo Hội Công Giáo, dù thế ông lại cho Đức Giáo Hoàng là một người vĩ đại. Ông yêu thích sứ giả mang tin, nhưng ông lại ghét bản tin.
Vài năm về trước chúng ta có Mẹ Têrêsa thăm đất nước của chúng ta và đã nói chuyện ở vài nơi cũng có sự hiện diện của tổng thống và phó tổng thống tham dự và các vị đã tỏ ra ngưỡng mộ mẹ Têrêsa, nói mẹ là một người tuyệt vời. Nhưng cùng lúc, họ lại ủng hộ phá thai, hợp pháp hóa phá thai, cho phá thai là điều chấp nhận được, và đã ủng hộ lối sống luyến ái đồng phái tính. Thái độ của họ là: “Mẹ Têrêsa là một người vĩ đại, một người mang tin tuyệt vời, nhưng chúng tôi không thích bản tin của bà!”
Ngay trong thời của Chúa Giêsu Kitô, dân chúng cũng có thái độ suy nghĩ giống như vậy. Họ thích người mang tin, nhưng lại không thích bản tin. Họ đã đi theo và nghe Chúa Giêsu, họ đã thấy Ngài chữa lành người yếu đau, làm cho người mù sáng mắt, nuôi hàng ngàn người ăn, nhưng khi Chúa Kitô nói với họ, “Hãy tin theo ta, hãy đến đi theo làm môn đệ của ta,” thì không, họ đã không muốn tham dự tí nào cả. Hơn thế, họ đã muốn lên án giết ngài.
Nó là một điều rất được tán đồng đối với quan điểm của thế giới ngày nay cho rằng thật tuyệt diệu để yêu thích người mang tin nhưng không thèm nghe bản tin. Có nhiều người hâm mộ Thiên Chúa, hâm mộ đức Giáo Hoàng, hâm mộ mẹ Têrêsa, nhưng họ lại không muốn làm môn sinh. Họ không muốn chu toàn trách nhiệm đi theo với bản tin.
Hâm Mộ hay Môn Sinh
Như bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta, chúng ta được kêu gọi để nên môn sinh của Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải chỉ là những người hâm mộ. Chúng ta không chỉ muốn nói “đó là một ý tưởng thật hay” và rồi không chu toàn bổn phận. Chúng ta được kêu gọi trở nên các môn sinh. Chúng ta có nhiều loại, có thể nói là, tạp nhạp tín hữu Công Giáo. Có những người Công Giáo chỉ vì đã được rửa tội và không còn gì khác hơn. Ông Bà muốn bảo đảm là đứa cháu phải được rửa tội nhưng cha mẹ của con trẻ đã chẳng quan tâm đến việc nuôi nấng dạy dỗ con trong đức tin Công Giáo. Họ muốn là những người hâm mộ nhưng không phải là môn sinh. Rồi có những người Công Giáo hạng trung bình hoặc là người Công Giáo theo mùa. Họ muốn tham dự và nói, “Đúng, tôi là người Công Giáo,” nhưng họ lại không muốn tham gia tới mức độ của môn sinh. Và sau cùng là những người Công Giáo tốt, Công Giáo thực thụ, Công giáo giòng, họ không những tuyên xưng các giáo huấn của Giáo Hội, của Chúa Kitô, nhưng họ còn thực hành đức tin của mình.
Chúa nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là thật không thể cho là đủ để chỉ là những người ngưỡng mộ, chúng ta còn phải thực hành, và trở thành các môn sinh. Chúng ta được kêu gọi làm môn sinh của Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải chỉ là những người ngưỡng mộ ngoài cuộc. Phần nào đó nó như là một sự trái ngược nơi bài Tin Mừng hôm nay so với Tám Mối Phúc Thật, Bài Giảng Trên Núi, khi Chúa nói “Phúc cho những người nghèo khó, phúc cho những người đói, phúc cho những người khát, phúc cho những người nghèo khổ bần cùng.” Họ được chúc phúc bởi vì họ bỏ tất cả mọi cái ở thế gian vì nước Thiên Chúa. Và bây giờ Ngài lại nói phúc cho những người biết chia cơm sẻ nước cho người đói khát. Nhất là trong mùa lễ Tạ Ơn và Giáng Sinh, người ta tham gia vào các chương trình gói quà Giáng Sinh, gói quà Tạ Ơn, thu góp thực phẩm để giúp những người nghèo, bỏ thêm tiền vào gỉo thu để chúng ta có thể giúp nuôi những người đói, mua sắm áo quần cho người rách mướt, lo cho những người vô gia cư.
Những Người Được Chúc Phúc
Nhưng điều quan trọng hơn cả là chúng ta trở nên môn sinh của Chúa Giêsu Kitô. Bản tin được trao gởi đến cho chúng ta trong Tin Mừng không phải là cho ăn, cho áo, cho nước những người đói khát, mà là cho trọn vẹn về Tin Mừng. Chúng ta đói khát bản tin của Tin Mừng. Chúng ta đói tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta đói giáo huấn của Chúa Kitô, chúng ta khát tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mong được mặc tấm áo ân sủng của Thiên Chúa. Đây chính là cách chúng ta đi đến mức sung mãn của sự sống, bằng cách trở nên các môn sinh của Chúa Giêsu Kitô, không phải chỉ là những người ngưỡng mộ ngoài cuộc, những người hâm mộ. Chúng ta được kêu gọi hôm nay để trở nên các môn sinh, những người đi theo, thi hành và kiện toàn các giáo huấn của Chúa Kitô và của Giáo Hội và rồi chúng ta sẽ được gọi là những người được chúc phúc của Thiên Chúa Cha. Xin Thiên Chúa chúc lành cho các bạn.
52.Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Người đời chúng ta dựa vào tiêu chuẩn nào để phân biệt người tốt kẻ xấu? Khi Thiên Chúa phán xét nhân loại, Ngài có phân biệt theo kiểu của chúng ta không? Ngài có mạc khải về những tiêu chuẩn phân biệt của Ngài không?
2. Thiên Chúa phân biệt kẻ xấu với người tốt dựa trên tiêu chuẩn nào? Tại sao vậy? Phân biệt theo tiêu chuẩn ấy có hợp lý không?
3. Qua bài Tin Mừng này, bạn có rút ra được bài học gì mới cho việc nên thánh của bạn không? Quan niệm về nên thánh của bạn có gì thay đổi không?
Suy tư gợi ý:
1. Viễn cảnh cánh chung: phân biệt chiên và dê
Bài Tin Mừng cho thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng của thời gian, cũng là của trần thế này. Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ phân mọi người trên trần gian thành hai loại: một bên là những kẻ thật sự tin theo Ngài, bên kia là những kẻ không tin, hay những kẻ tự xưng là tin Ngài bằng lời nói, nhưng qua hành động lại tỏ ra không tin. Để ám chỉ hai hạng người này, bài Tin Mừng dùng hình ảnh chiên và dê, là hình ảnh mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã dùng (x. Ed 34,17-24). Vì chiên và dê là hai loài thú cùng được chăn nuôi chung trong một đồng cỏ, ở chung với nhau trong một ràn. Chỉ đến thời kỳ xén lông thì người ta mới phân rẽ chúng theo loại. Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) cũng cho thấy hai loại cây cùng sống chung với nhau - không phân biệt được - trên cùng một thửa ruộng. Cả hai cùng lớn lên bên cạnh nhau cho tời mùa gặt, chỉ tới lúc đó chúng mới bị phân rẽ: “cỏ lùng thì bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì thu vào kho lẫm” (13,30). Tương tự, chỉ tới ngày cánh chung, kẻ tin và không tin, kẻ thật sự tin và kẻ có vẻ tin mới được phân chia và tách biệt. Chúng ta hãy thử tự xét xem, vào ngày đó, mình thuộc loại nào?
2. Tiêu chuẩn để phân loại
Chỉ có Thiên Chúa, với trí tuệ sáng suốt vô cùng, nhìn thấu suốt tâm can con người, mới có thể xét từng người để xếp họ vào loại nào. Tin Mừng cho ta thấy:
- ngày ấy, toàn nhân loại chỉ được phân ra thành hai loại: chiên và dê, tượng trưng cho người hiền và người dữ, kẻ tin và không tin Thiên Chúa, không có loại thứ ba.
- ngày ấy, Thiên Chúa phán xét theo hành động chứ không theo lời nói của con người. Vấn đề là có làm hay không và làm như thế nào, chứ không phải là có nói hay không, có tuyên xưng hay không, hay nói và tuyên xưng thế nào.
- ngày ấy, Thiên Chúa chỉ phán xét và phân loại dựa theo một tiêu chuẩn duy nhất: cách mỗi người đối xử với tha nhân chung quanh mình.
Dường như không có một tiêu chuẩn nào khác: Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; thậm chí không cần biết ai đi lễ nhiều, ai đọc kinh nhiều, ai lần chuỗi nhiều, ai hành hương nhiều, ai cúng vào nhà thờ nhiều, v. v... Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, chính hành động của chúng ta - chứ không phải lời nói hay cái gì khác - quyết định chúng ta thuộc loại này hay loại kia.
3. Đó là tiêu chuẩn thực tế để phán xét ai tin và ai không tin
a) Tin vào Đức Giêsu là điều kiện để được cứu độ
Trên nguyên tắc, ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ được cứu độ (x. Cv 16,31; Rm 10,9; 10,13), và người ta được nên công chính là nhờ đức tin (x. Rm 1,17; 3,22.26.30; 9,30; 10,4) chứ không phải nhờ việc làm (x. Rm 3,28; 9,32; Gl 2,16; 3,11;). Thật vậy, người ta không trở nên công chính nhờ vào việc làm, hay nhờ việc tuân giữ nghiêm chỉnh các điều luật dạy. Thật vậy, rất nhiều người có những hành động rất tốt, rất thiện hảo, thậm chí rất vĩ đại, nhưng không phát xuất từ đức tin hay tình yêu thương, mà từ một động lực vị kỷ, nhằm lợi lộc cho mình. Nhiều nhà tỉ phú bỏ tiền ra xây bệnh viện, trường học để phục vụ người nghèo với điều kiện là bệnh viện hay trường học đó phải mang tên mình, để mình được lưu danh muôn thuở là người đạo đức, biết yêu thương người nghèo. Hành động bố thí như thế không làm cho người ấy nên công chính, vì không phát xuất từ đức tin hay tình thương.
b) Đức tin ấy phải đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm
Người ta chỉ trở nên công chính nhờ đức tin. Nhưng đức tin làm cho người ta nên công chính phải là đức tin đích thực: “Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính” (Rm 10,10). Đức tin đích thực không phải là loại “đức tin rẻ tiền”, là thứ đức tin chỉ được tuyên xung ngoài môi miệng mà không đi vào cuộc sống, không được chứng tỏ bằng việc làm hay hành động. Hàng rẻ tiền thường là hàng giả. Đức tin đích thực phải là thứ “đức tin đắt giá”, không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, mà được chứng tỏ bằng hành động, bằng những hy sinh cụ thể theo sự đòi hỏi của đức tin. Đức tin của chúng ta luôn luôn đòi hỏi một thái độ, một sự lựa chọn thích hợp. Vì không thể vừa tin, mà lại vừa có đời sống trụy lạc, hèn nhát, tham lam, ích kỷ... Thánh Gia-cô-bê xác định: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,14.17).
c) Việc làm của đức tin là việc làm gì?
Tin ở đây là tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu. Mà bản chất của Thiên Chúa chính là Tình Yêu, và Đức Giêsu chính là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa giữa nhân loại. Do đó, những ai thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu, ắt phải yêu mến Ngài và trở nên giống Ngài, nghĩa là trở nên một hiện thân của tình yêu giữa những người chung quanh, gần gũi với mình nhất, đặc biệt với những người đau khổ, túng thiếu, bị áp bức, bất công, cần lòng thương xót. Như vậy, muốn biết ai tin vào Ngài, thì cứ xem cách người ấy cư xử với những người chung quanh, những người gần gũi nhất (vợ con, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, bạn bè thân thiết...), và những người nghèo khổ cần được cứu giúp. Nếu tin Thiên Chúa đích thực, người ấy ắt sẽ phải cư xử với họ bằng tình thương, cụ thể qua sự hy sinh, chấp nhận mất mát đau khổ vì họ.
Vả lại, những người chung quanh ta, đặc biệt những người đang đau khổ cần được ta nâng đỡ, cứu giúp, chính là hiện thân của Thiên Chúa hay của Đức Giêsu bên cạnh chúng ta. Đức Giêsu xác định rõ điều ấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Vì thế, yêu Ngài thì ắt nhiên cũng phải yêu hiện thân của Ngài bên cạnh chúng ta. Do đó, tới ngày phán xét, Ngài chỉ cần dùng một tiêu chuẩn để xét xem chúng ta có tin vào Ngài không, là dựa vào cách cư xử của chúng ta với tha nhân.
Để tóm gọn lại cách nên thánh cho chúng ta, Đức Giêsu nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35). Tóm lại, yêu thương tha nhân chính là tiêu chuẩn để phân biệt giữa môn đệ đích thực của Đức Giêsu với những người khác.
Cầu nguyện
Tôi nghe Đức Giêsu nói với tôi: “Anh tin Thầy và sống đạo của Thầy thế nào, Thầy chỉ cần dựa vào cách anh đối xử với những người chung quanh anh là Thầy biết ngay. Chắc chắn anh không thể tin Thầy đích thực khi anh đối xử với những người chung quanh anh không ra gì. Họ chính là hiện thân của Thầy bên cạnh anh. Anh đối xử với họ thế nào là đối xử với chính Thầy như vậy. Anh yêu họ chính là anh yêu Thầy. Anh làm điều gì cho họ, chính là anh làm điều đó cho Thầy”.
53.Chúa Kitô Vua--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
ĐỨC TIN LÀ VIỆC QUAN TÂM THIẾT THỰC ĐỐI VỚI THA NHÂN CHỨ KHÔNG PHẢI CHỈ LÀ NIỀM TIN.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, lễ Chúa Kitô Vua. Đây là cơ hội để suy ngẫm về quá khứ và lập kế hoạch cho tương lai.
Tin Mừng hôm nay là chóp đỉnh của các chủ đề mà chúng ta đã đọc nơi Tin mừng Matthêu trong vài tháng vừa qua: hành vi đạo đức, sự phán xét cuối cùng, phần thưởng và hình phạt. Chúa Giêsu chia sẻ quan điểm về ngày phán xét chung cuộc, mô tả Ngài như một vị Vua ngồi trên ngai, nên đoạn Tin Mừng này được chọn cho ngày lễ hôm nay. Như người mục tử tách chiên khỏi dê, Chúa Giêsu cũng quy tụ con người theo cách họ đã sống.
“Chiên” là hình ảnh của những ai yêu thương và quan tâm đến tha nhân. Họ cho người đói ăn, cho kẻ khát uống, tiếp đón người lạ, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. “Dê” thì làm ngược lại, là phớt lờ những người ở bên lề xã hội và những người cần được giúp đỡ nhất. Mỗi nhóm người sẽ bị phán xét theo những gì mà họ đã và không làm, chiên thì được thừa hưởng vương quốc và sự sống đời đời, còn dê phải nhận hình phạt đời đời.
Dụ ngôn về cuộc phán xét này thường được nêu lên để nhắc nhở mọi người biết phục vụ, bênh vực những người yếu thế và tìm kiếm công lý. Nó đề ra những ưu tiên cho người tín hữu bằng cách khẳng định rằng đức tin không chỉ là sự gắn bó trung thành của một người với một số điều phải tin mà là sự quan tâm thiết thực dành cho con người trên thế giới.
Các việc làm được liệt kê ở đây bao gồm những mối thương người, gọi là thương xác 7 mối, vì nhấn mạnh đến nhu cầu thể lý nhằm cổ võ và duy trì sự sống. Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta rằng khi phục vụ tha nhân và đáp ứng nhu cầu của họ, là phục vụ chính Chúa. Hơn nữa, khi phớt lờ và đổ lỗi cho người khác, cũng như xem nhẹ nhu cầu của họ, thì chúng ta đã coi thường người khác và chính Chúa: “Khi các ngươi không làm điều đó cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, thì các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”.
Mặc dù đây là một đoạn Kinh Thánh mang tính cánh chung về thời khắc tương lai, mục đích của nó là tạo ra sự thay đổi trong hiện tại. Điểm chính yếu không phải để khẳng định Chúa Kitô Vua là vị thẩm phán vào ngày cuối cùng mà là khẳng định rằng Chúa Kitô Vua đang hiện diện giữa những người nghèo, những người nhập cư, bệnh tật và những người bị cầm tù. Phải lưu ý chứ không nên cắt giảm những ngụ ý thần học rất lớn lao của đoạn Tin mừng này. Chúa Giêsu tuyên bố rằng người có đức tin chính trực có nghĩa là hành động cho những ai đang có nhu cầu, như Chúa Kitô Vua ở với họ. Sống đức tin đòi hỏi cam kết phục vụ và bênh vực những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội, không hạ thấp nhân phẩm, gièm pha hay coi thường họ.
Khi kết thúc năm khó khăn này và chuẩn bị cho một chu kỳ phụng vụ mới, chúng ta nên suy ngẫm về những gì chúng ta đã làm và sẽ làm để sống theo lệnh truyền của Tin Mừng là yêu thương và phục vụ người khác.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/10/16/faith-active-care-others-not-just-belief
54.Vua-lòng-Tin--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Khi nói đến một vị vua chúa nào dù đã chết hay còn đang tại vị, chúng ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến giầu sang, đền đài, nghi lễ sang trọng, đền đời sống vương giả... Chúng ta thường chỉ nghĩ đến như thế thôi. Vì đã được nghe qua, hoặc đọc trong sách báo hay xem truyền hình về đời sống của họ. Nào mấy người có được cơ hội trải qua cuộc sống thực sự trong cung điện vua chúa. Và đời sống của vua chúa thường đồng nghĩa với đời sống xa dân. Thần dân có bổn phận kính trọng và nghe lời họ. Họ có quyền hành gần như tuyệt đối cai trị người dân.
Hình ảnh này về vua chúa không những chỉ đúng cho ngày xưa - cách đây chừng trên dưới nữa thế kỷ thôi như Nhật Hoàng, Nga Hoàng, vua xứ Brunei, vua xứ Thái Lan, vua xứ Chùa Tháp Campuchia... - nhưng phần nào cũng còn đúng cho các vị vua chúa trong xã hội cộng hòa dân chủ ngày hôm nay.
Người công giáo tuyên xưng: Chúng tôi cũng có một Vua, nhưng Vua của chúng tôi là Vua-lòng-tin! Vậy Vua-lòng-tin của chúng ta thì thế nào? Chúng ta có thể biết được chút nào về đời sống Vua-lòng-tin không? Vua-lòng-tin của chúng ta sống gần con người hay cũng xa dân như các bậc vua chúa khác?
Chúng ta hát ca ngợi Vua-lòng-tin như thế này: "Ôi Giêsu, Chúa Giêsu là Vua. Chúa muôn thuở là Chúa. Nhưng lòng Chúa không bến bờ, tự hiến thân nơi bàn thờ!"
Như thế danh xưng Vua-lòng-tin của chúng ta là Giêsu. Vương quốc lâu đài của Vua-lòng-tin là tâm hồn con người. Vương quốc này không có biên giới bờ cõi và cũng không bị giới hạn vào một thời điểm nào. Nó trải rộng khắp nơi vào mọi thời gian. Nơi nào có người tuyên xưng niềm tin vào ngài là Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian khỏi vòng tội lỗi, nơi đó là vương quốc của ngài.
Còn cách thế cai trị của Vua-lòng-tin không dựa trên sức mạnh quyền lực, nhưng lấy tình yêu làm nền tảng. Chính vị vua này từng khẳng định: Thầy truyền cho chúng con giới luật mới, là các con thương yêu nhau (Gioan 13,34).
Và ngày sau cùng khi mọi người ra trước Vua để trả lời về đời sống việc làm của mình, ông không căn cứ vào thành tích đã đạt được, nhưng căn cứ vào tình yêu mà phân xử: Khi các con cứu giúp một người bé nhỏ lâm cảnh khốn cùng, đói rách, chính là các con làm cho ta. (Mátthêu 25,31-46)
Vị Vua này tự nhận: "Ta là người mục đồng tốt lành" (Gioan 10,11). Lời xác quyết này muốn nói lên: Tôi quan tâm đến đời sống tâm hồn con người. Nỗi băn khoăn lo âu đè nặng tâm hồn họ, là băn khoăn của tôi. Tôi muốn giúp họ thoát khỏi gánh nặng này.
Hình ảnh vị Vua mục đồng này nói lên lối sống của ông với thần dân: sống gần dân, cho dân và vì dân, như người mục đồng luôn đi sát đoàn vật chăm sóc chúng.
Ngai vàng của Ông là thánh giá gỗ, nơi ngài bị đóng đinh xử tử. Vương miện của ngài là vòng gai người ta chụp lên đầu khi bị điệu ra pháp trường.
Vua-lòng-tin của người công giáo đã bị xử tử đóng đinh trên thập giá, bị chôn vùi sâu dưới lòng đất, nhưng ông đã được Thiên Chúa cho sống lại. Ông sống trong trong tâm hồn những người tin theo ông. Ông hiện diện nơi bàn thờ, khi những người tin theo Ông cử hành thánh lễ, cử hành các bí tích, khi họ họp nhau đọc kinh ca hát cầu nguyện nhân danh Ông.
Vua- lòng- tin của người tín hữu công giáo là Vua tình yêu.
55.Suy niệm của Lm Mark Link
“Chúng ta sẽ bị xét xử về việc chúng ta đã phục vụ Chúa Kitô như thế nào nơi kẻ bé mọn nhất hiện đang sống giữa chúng ta.”
Trong cuốn sách của mình nhan đề: The Christian Vision (Thị kiến của người Kitô hữu) John Powell có kể lại một truyền thuyết xưa kia của Ái Nhĩ Lan. Truyền thuyết này nói về thời còn các vị vua đang cai trị Ái Nhĩ Lan.
Ngày xưa, có một vị vua đương cai trị không có con nối dõi ngai báu. Vì thế, ngài truyền sứ giả ghi lên các tấm biển nơi mỗi thành phố và làng mạc trong vương quốc, để mời gọi những người đàn ông ưu tú đến cho Đức vua phỏng vấn.
Đức vua làm thế với hy vọng có thể chọn được một người kế vị trước khi Ngài chết. Hai đặc tính tiêu chuẩn đặc biệt được ngài nhấn mạnh là kẻ ấy phải có lòng mến Chúa yêu người sâu sắc. Anh thanh niên là vai chính trong câu chuyện truyền thuyết này nhận thấy mình có một trong các điều kiện đòi hỏi, vì thực sự anh ta rất mến Chúa yêu người. Anh ta cảm thấy từ thâm sâu nội tâm có tiếng thúc giục anh đi dự cuộc phỏng vấn. Nhưng anh lại quá nghèo đến mức chẳng có quần áo tươm tất để mặc đi dự phỏng vấn và cũng chẳng có tìên mua thực phẩm cho cuộc hành trình xa xôi đến cung điện đức vua. Vì thế anh thanh niên này đã cầu nguyện xin ơn soi sáng cho vấn đề. cuối cùng anh quyết định đi ăn xin quần áo và lương thực cần thiết. Khi mọi sự đã sẵn sàng anh bắt đầu lên đường.
Sau một tháng du hành, ngày nọ anh thanh niên này đã nhìn thấy cung điện đức vua. Anh ta ngồi xuống trên ngọn đồi phía xa. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn mày nghèo khổ ngồi bên vệ đường. Ông cụ chìa tay ra xin anh giúp đỡ. Giọng nói ông ta thật yếu ớt: "Tôi đói và lạnh quá, cậu có thể cho tôi cái gì mặc cho đỡ lạnh và ăn cho đỡ đói không?" anh thanh niên nhìn ông già lòng tràn đầy xúc động. Và liền cởi bộ đồ ấm áp mặc ngoài của mình đổi lấy tấm áo cũ tơi tả của ông già ăn xin, đồng thời cũng cho lão ta phần lớn lương thực dự trữ mang theo trong túi xách dành cho chuyến trở lại về nhà. Thế rồi, lòng hơi ngài ngại anh thanh niên bước tới cung điện trong bộ đồ rách nát và lương thực mang theo không đủ cho chuyến trở về. Khi anh ta đến lâu đài, đám lính gác chận anh ta lại tại cổng và dẫn anh đến khu vực dành cho du khách. Sau một thời gian chờ đợi lâu, anh ta được dẫn tới diện kiến đức vua.
Đến trước bệ rồng anh thanh niên liền gập sâu người xuống cúi chào. Khi ngước thẳng lên nhìn anh ta không thể nào tin nổi mắt mình và thốt lên: "Té ra ngài chính là ông lão ăn xin bên vệ đường!" đức vua đáp: "Đúng thế". Anh thanh niên liền hỏi: "Tại sao ngài lại làm điều ấy đối với kẻ tiện dân này?" Đức vua trả lời: "Bởi vì Trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng mến Chúa yêu người không?"
Dù đây là một câu chuyện giả tưởng, nhưng chủ điểm của nó rất là vững chắc. Đây cũng chính là chủ điểm mà các bài đọc hôm nay, đặc biệt là bài Phúc âm nêu ra. Chủ điểm ấy là:
Vào ngày cuối đời, tất cả chúng ta sẽ bị xét xử về việc chúng ta đã phục vụ Chúa Kitô Vua như thế nào nơi kẻ hèn mọn nhất trong anh chị em chúng ta. Hãy nhớ lại những lời Chúa Giêsu nói trong bài Phúc âm: "Đoạn đức vua sẽ nói “Xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã đón tiếp Ta vào nhà, Ta đau ốm bệnh hoạn các ngươi đã chăm sóc Ta"
Bây giờ đám người công chính sẽ thưa với Ngài: "Lạy Chúa có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu? Đức vua sẽ đáp lại: "Ta nói cho các ngươi hay, bất cứ khi nào các ngươi làm điều này cho một trong những anh em bé mọn nhất trong các ngươi tức là các ngươi đã làm cho chính Ta đó".
Để cụ thể hơn chủ điểm trong các lời Chúa Giêsu nói đó, một giáo sư ở Chicago đã hỏi các sinh viên của mình: "Lần mới đây nhất mà các bạn giúp đỡ kẻ túng thiếu là lúc nào?". Sau đây là các câu trả lời của ba sinh viên:
- Vào bữa thứ sáu tôi đang ở trên chiếc xe buýt đường Roosevelt thì có một ngươiì đàn ông mang lên xe một vài chiếc hộp cồng kềnh. Tôi liền nhường cho ông ta chỗ ngồi. Ông ta từ chối nhưng lại yêu cầu tôi giữ giùm ông ta vài chiếc hộp. Tôi đồng ý và ông tỏ ra rất biết ơn".
- "Hai tuần trước đây, tôi đang ngồi trên một chiếc xe buýt cạnh một bà dở hơi. Bà ta muốn kíêm người nói chuyện vì thế tôi đã cư xử tử tế với bà và lắng nghe bà nói"
- "Tôi chẳng thể nào nhớ được tôi đã có giúp đỡ ai đó vào một lúc nào không. Tôi thực sự cảm thấy xấu hổ về điều này, hẳn là đã lâu quá rồi nên tôi không thể nhớ được, có lẽ có một điều gì trục trặc nơi con người tôi, có lẽ tôi đã làm ngơ nhắm mắt trước những kẻ thiếu thốn".
Chúng ta có thể tự vấn mình về chính câu hỏi vị giáo sư đặt ra cho các sinh viên: "Lần mới đây nhất mà chúng ta giúp kẻ khốn khó là vào lúc nào?"
Chúng ta sẽ trả lời ra sao? Liệu chúng ta có sẽ trả lời giống hai sinh viên trên hay là giống anh sinh viên thứ ba là kẻ không thể nhớ nổi mình đã giúp đỡ kẻ khốn khó cách đây bao lâu?
Chẳng hạn vấn đề giúp đỡ những kẻ khác trong gia đình chúng ta. Lần mới đây nhất mà chúng ta tự nguyện giúp đỡ họ một điều gì đó, vào lúc nào?
Rồi đến láng giềng, và dân chúng trong giáo xứ này, lần mới đây nhất mà chúng ta bước tới gíup đỡ cho họ khi họ cần, là vào lúc nào?
Tại sao chúng ta không mở rộng lòng mình hơn cho những kẻ đau khổ, cô đơn, túng thiếu, bất chấp họ là ai và sống ở đâu? Kể từ hôm nay, chúng ta nên làm điều gì để thay đổi ngay lập tức sự thiếu sót ấy.
Các bài đọc hôm nay nhằm kết thúc năm phụng vụ của Giáo Hội. trong số tất cả bài đọc của năm phụng vụ này ít bài nào chứa đựng một sứ điệp quan trọng hơn sứ điệp hôm nay. Sứ điệp này sở dĩ quan trọng đến thế là vì nó liên quan đến những gì chúng ta sẽ bị xét xử vào lúc cuối cuộc đời của chúng ta. Chúng ta sẽ bị xét xử về cách thức chúng ta đã phục vụ Đức Kitô nơi kẻ hèn mọn trong chúng ta như thế nào. Tôi xin kết thúc bằng vài hàng trích dẫn từ bài thơ của Brewer Matlocks như sau:
"Có cha xứ một dòng khổ tu nọ
thường leo cao trên nóc giáo đường
hầu gần Chúa hơn để mang lời Chúa
xuống đám dân trong xứ của ngài.
Ngày nọ bỗng ngài được nghe tiếng Chúa
Khi ngài kêu từ nóc giáo đường:
Chúa ở đâu Chúa hỡi, Chúa ở đâu?
Và Chúa đã đáp lời:
Xuống đi Ta ở giữa đám dân Ta đó"
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
56.Chúa Kitô Vua--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mt 25, 31-46: Tin Mừng cho thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng của thời gian, cũng là của trần thế này...
Đức Giáo Hòang Piô XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua vào ngày 11/12/925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan của Năm Thánh 1925. Ngài thiết lập lễ này vì vào những thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết khác.
Về phía Giáo Hội, qua việc mừng kính tước hiệu là Vua của Chúa Kitô, Giáo Hội khẳng định niềm tin trước sau như một của mình là tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô trên mọi con người, mọi gia đình, mọi xã hội và trật tự nhân loại, đồng thời Giáo Hội cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Chúa đến trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
Chính vì vậy, bài Tin Mừng cho thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng của thời gian, cũng là của trần thế này. Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ phân chia mọi người trên trần gian thành hai loại: một bên là những kẻ thật sự tin theo Ngài, bên kia là những kẻ không tin, hay những kẻ tự xưng là tin Ngài bằng lời nói, nhưng qua hành động lại tỏ ra không tin.
Để ám chỉ hai loại người này, bài Tin Mừng dùng hình ảnh chiên và dê, là hình ảnh mà ngôn sứ Êdêkien đã dùng (x. Ed 34,17-24). Vì chiên và dê là hai loài thú cùng được chăn nuôi chung trong một đồng cỏ, ở chung với nhau trong một ràn. Chỉ đến thời kỳ xén lông thì người ta mới phân rẽ chúng theo loại.
Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) cũng cho thấy hai loại cây cùng sống chung với nhau - không phân biệt được - trên cùng một thửa ruộng. Cả hai cùng lớn lên bên cạnh nhau cho tời mùa gặt, chỉ tới lúc đó chúng mới được phân rẽ: «cỏ lùng thì bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì thu vào kho lẫm» (13,30).
Tương tự, chỉ tới ngày cánh chung, kẻ tin và không tin, kẻ thật sự tin và kẻ có vẻ tin mới được phân chia và tách biệt.
Chúng ta hãy thử tự xét xem, vào ngày đó, mình thuộc loại nào? Và đâu là tiêu chuẩn để Thiên Chúa phân loại?
Tin Mừng cho ta thấy:
- ngày ấy, toàn nhân loại được phân ra thành hai loại: chiên và dê, tượng trưng cho người hiền và người dữ, kẻ tin và không tin Thiên Chúa.
- ngày ấy, Thiên Chúa phán xét theo hành động chứ không theo lời nói của con người. Vấn đề là có làm hay không và làm như thế nào, chứ không phải là có nói hay không, có tuyên xưng hay không, hay nói và tuyên xưng thế nào.
- ngày ấy, Thiên Chúa chỉ phán xét và phân loại dựa theo một tiêu chuẩn duy nhất: đó là cách mỗi người đối xử với tha nhân chung quanh mình.
Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân;
không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; thậm chí không cần biết ai đi lễ nhiều, ai đọc kinh nhiều, ai lần chuỗi nhiều, ai hành hương nhiều, ai cúng vào nhà thờ nhiều...
Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, chính hành động của chúng ta - chứ không phải lời nói hay cái gì khác - quyết định chúng ta thuộc loại này hay loại kia
Truyện thánh Martinô thành Tours.
Martinô là một quân nhân Rôma và một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí , Martinô không có tiền, nhưng ông thấy người hành khất xanh xao và run rẩy vì lạnh, ông cởi chiếc áo khoác đã sờn rách và xé một nửa cho người hành khất.
Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ đang bao quanh Chúa Giêsu và Ngài đang mặc nửa chiếc áo lạnh của ông.
Một thiên sứ hỏi Chúa Giêsu: “tại sao Ngài mặc chiếc áo sờn rách đó? Ai đã cho Ngài áo đó”? Chúa Giêsu trả lời: ”Martinô, tôi tớ của Ta đã cho Ta”.
Quả thật như bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã xác quyết: Ta bảo các ngươi: “những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40) và Chúa nói tiếp: “hãy đến, hỡi những kẻ cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ, vì khi ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm, Ta bị tù đầy, các ngươi đã đến với ta”(Mt 25, 34-36).
Thật là hạnh phúc cho chúng ta, nếu được Chúa nói với chúng ta như vậy trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Amen.
57.Suy niệm của Lm Trần Khả
Bài Đọc 1: Ezekiel 34:11- 12, 15- 17
Mục tử là hình ảnh của một vị vua biết quan tâm chăn dắt dân của mình. Tiên tri Ezekiel nói Thiên Chúa sẽ là vị mục tử chăn dắt đoàn chiên của Ngài. Ngài sẽ kiểm soát đoàn chiên của Ngài; tìm đưa những con chiên bị lạc trở về. Ngài sẽ giải thoát chiên của Ngài và quy tụ chúng lại cho chúng ăn. Ngài sẽ băng bó những con chiên bị thương tích; chữa lành những con chiên ốm đau. Ngài chăm lo cho tất cả chiên yếu cũng như chiên khỏe mạnh béo tốt. Ngài dẫn dắt chúng trong sự công chính.
Bạn thuộc loại chiên nào trong đoàn chiên của Chúa? Khỏe mạnh hay yếu đau? Đi theo với đàn hay bị lạc lõng bơ vơ? Nghe theo tiếng mục tử hay nghe theo tiếng của người lạ? Bạn có trách nhiệm lãnh đạo nào không? Nếu có thì bạn đang thi hành vai trò lãnh đạo của mình như thế nào đối với những người bạn có trách nhiệm dẫn dắt?
Bài Đọc 2: 1 Cor 15:20- 26, 28
Đức Kitô được Thiên Chúa cho quyền thống trị trên mọi loài. Ngài là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Và do đó tất cả mọi người sẽ được tái sinh trong Ngài. Đây là một chân lý đã được Giáo Hội vững vàng công bố suốt hai ngàn năm nay. Ngài sẽ tiêu diệt mọi sự dữ, mọi quân thù và kẻ thù cuối cùng là sự chết cũng sẽ bị tiêu diệt. Đến ngày sau hết, sau khi đã chiến thắng mọi quân thù, Ngài sẽ dâng chiến thắng vinh quang lên Thiên Chúa Cha. Như vậy, tin theo Chúa Kitô có nghĩa là chúng ta sẽ thuộc về phe chiến thắng.
Bạn cảm thấy làm người Kitô hữu thì được những vinh dự gì lúc này và trong tương lai? Người tái sinh trong Chúa Kitô là người như thế nào?
Bài Phúc Âm: Matthêu 25:31- 46
Chúa Kitô là Vua và Ngài sẽ xét xử dân tộc các nước trong ngày sau hết. Nguyên tắc xét xử là thái độ của mỗi người đối với người nghèo, người rách rưới, người đói khát, người bệnh tật và người bị giam cầm. Đoạn Tin Mừng này không chủ trương nói lên tinh thần công bình xã hội hay cứu trợ kinh tế, nhưng điểm chính là nói lên cho chúng ta biết nguyên tắc xử lý của Thiên Chúa để quyết định ai thuộc về Thiên Đàng và ai sẽ thuộc về địa ngục. Chúa Giêsu cũng nói cho chúng ta biết là những gì chúng ta làm cho những người bé nhỏ nhất là chúng ta làm cho chính Ngài.
Ai là những người bé mọn Chúa Giêsu nói đến? Khi nào chúng ta có lòng thương họ, và khi nào thì chúng ta không có lòng thương họ? Khi nào chính chúng ta lại là những người bé mọn? Có phải chờ tới khi nào có đủ thì chúng ta mới có thể chia sẻ với những người bé mọn hay không? Có cái gì và có bao nhiêu thì được coi là có đủ để chia sẻ?
Bài Giảng Gợi Ý
Trùm Sò làm chủ hàng chục nhà hàng nhưng keo kiệt vô cùng. Một hội từ thiện nọ gởi nhân viên đến bao nhiêu lần cũng đều vô ích. Bực quá nên ngày nọ, đích thân bà chủ tịch hội đến gặp hắn:
"Chúng tôi biết ông là một trong những thương gia thành công trong thành phố này. Ông đúng là một tấm gương sáng cho những người di dân. Tuy nhiên, từ trước đến nay tôi vẫn thắc mắc tại sao ông không chia sẻ dù chỉ 1 phần triệu những cái mà ông có cho những người nghèo khó khắp mọi nơi trên đất nước này."
"Thưa bà, bà có biết là tôi còn một mẹ già yếu đau liệt lào ở Việt Nam mà không ai chăm sóc không? Thế bà có biết tôi còn một người chị ở Việt Nam vừa bị mù lại bị câm điếc đang sống quằn quại vì chứng bệnh ung thư quái ác không? Bà có biết em tôi đi vượt biên bị công an bắn què giò, bị tịch thu hết nhà cửa, bị tán gia bại sản, nay đau mai yếu vì những năm tháng tù đầy cải tạo không?"
Nghe đến đấy thì bà chủ tịch vội đứng dậy: "Chúng tôi vô cùng xin lỗi ông, chúng tôi nào có biết gia cảnh ông đau khổ đến thế. Lạy Chúa tôi, xin tha thứ cho tôi. Chúng tôi thật đã nghĩ không đúng về ông."
Trùm sò nói tiếp, "Mẹ! Mấy người đó mà tôi còn không cho một cắc huống hồ là cái hội cà chớn của các bà." (Trích trong: Truyện Cười Nhà Đạo).
Nguyên Tắc Xét Xử
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay nhắc nhở cho chúng ta biết Thiên Chúa là Mục Tử, là Vua, và là Thẩm Phán. Trong suốt chuyến hành trình của cuộc đời, Thiên Chúa là Mục Tử chăn dắt chúng ta. Ngài là Vua lãnh đạo, chiến thắng Satan, giải phóng chúng ta khỏi xiềng xích nô lệ tội lỗi và lo cho chúng ta. Sau cùng Ngài sẽ là Thẩm Phán xét xử chúng ta và mọi người thuộc mọi dân tộc. Bài Phúc Âm nói rất rõ nguyên tắc Chúa Kitô dùng để xét xử và quyết định cho ai được vào Thiên Đàng và ai phải đi xuống hỏa ngục. Người được vào Thiên Đàng là người có tấm lòng từ tâm biết để ý thăm viếng, thông cảm, chăm lo và giúp đỡ cho những ai có nhu cầu cần thiết trong cuộc sống. Những công việc từ thiện bác ái, những cử chỉ và hành động giúp đỡ cho những người anh chị em thiếu thốn chính là bảo chứng cho chúng ta biết mình có thuộc về Nước Thiên Chúa hay không.
Có khi nào chúng tôi thấy Chúa đâu….? Cả những người lành đứng bên hữu cũng như những người bị loại đứng phía bên tả đều đã hỏi Đức Giêsu Kitô Vua cùng một câu hỏi như thế. Họ đã phục vụ Chúa Kitô hay không phục vụ Ngài mà không hay biết. Đức Ktiô đã cho họ biết rằng, những việc họ đã làm hay không làm cho những người gặp nỗi khốn khó là họ đã làm hay không làm cho chính Ngài. Ngài đã nhận những người nghèo, người yếu đau, người đói khát không cơm ăn không áo mặc, người bị giam cầm là chính Ngài. Chúa Kitô vẫn còn đang bước đi trên trái đất đội lốt những người nghèo, những con người thiếu thốn, đau khổ, bất hạnh, bị xã hội lên án bỏ tù, quên lãng và bỏ rơi. Chúng ta có nhận ra Ngài không?
Những Kitô Thời Đại
Chính chúng ta là những người bé nhỏ mà Chúa Giêsu nhận là chính Ngài vì hằng ngày chúng ta cũng có nhu cầu cần đến sự giúp đỡ, cảm thông của người khác. Những ân huệ chúng ta nhận được từ người khác thuộc về cả phương diện vật chất, tình cảm cũng như tinh thần. Nhu cầu của chúng ta có thể rất quan trọng hay không mấy quan trọng.
Sự giúp đỡ của người khác dành cho chúng ta có nhiều loại như khi chúng ta cần phải hỏi đường đi trong thành phố; khi chúng ta cần một lời chỉ dẫn, một lời an ủi, một nụ cười hay một cái nhìn thông cảm của người khác. Khi chúng ta lỡ đường và ghé vào nhà một người quen và được họ tiếp đãi cho cơm ăn cho chỗ nghỉ đêm. Khi chúng ta không may bị hư xe giữa đường và được người khác dừng lại giúp đỡ. Khi chúng ta đang đứng trước quầy trả tiền mà bị thiếu một đồng hay một vài xu mà được người khác cho vay cho mượn. Khi chúng ta đang thất nghiệp mà được bạn bè giới thiệu việc làm.
Chẳng kể sự giúp đỡ và nghĩa cử tử tế của người khác dành cho chúng ta nhỏ bé hay lớn lao, chúng ta luôn luôn cảm thấy vui sướng và biết ơn về lòng tốt và sự ân cần của họ dành cho chúng ta trong lúc thiếu thốn cùng quẫn. Lúc đó chính chúng ta là những Kitô nhỏ.
Cũng có những lúc chính chúng ta lại là những người thi ân. Chắc chắn không nhiều thì ít chúng ta cũng đã và sẽ còn tiếp tục có những nghĩa cử nhân ái với người khác. Gởi đi một cánh thư chia buồn với tang quyến người quá cố, tới bệnh viện thăm người đau yếu hay đến nhà dưỡng lão an ủi người già yếu, khuyến khích một người bạn đang có tâm sự buồn nản, trao cho người hành khất một vài đồng hay mua cho họ một chiếc bánh, giúp đỡ người lâm nạn hay trong hoàn cảnh khó khăn. Dành thời giờ để tiếp một người cần đến chúng ta. Tất cả đều là những việc bác ái sẽ được Thiên Chúa nhìn nhận.
Ở mọi thời đại, trong Giáo Hội Công Giáo, và trong các xứ đạo, việc săn sóc bệnh nhân, thăm nom người đau yếu, việc giúp đỡ những người nghèo, bênh vực cho những người bị áp bức, thăm hỏi những tù nhân vẫn luôn là những công tác mục vụ được ưu tiên để ý. Nhiều anh chị em chúng ta thường xuyên giúp đỡ người nghèo bên quê nhà. Và hiện nay hàng ngàn hàng triệu đôla đang được anh chị em chúng ta đóng góp để gởi về cứu trợ nạn nhân bão lụt miền Trung. Chúng ta làm vì lòng nhân ái yêu thương, chứ không phải vì bất cứ một lý do nào khác. Người tin biết Chúa cũng làm và người không tin biết Chúa cũng làm. Tất cả đều được Chúa Kitô nhìn nhận là làm cho chính Ngài.
Tuy nhiên cũng có những lúc chúng ta thiếu thốn nhưng không được ai giúp đỡ; đau khổ mà không được ai an ủi; cô đơn mà không ai đoái hoài hỏi han; thất nghiệp mà chẳng ai thèm mướn... Và ngược lại cũng có những lần chính chúng ta vì ơ hờ hay bận rộn, vì lười biếng hay ích kỷ, chúng ta cũng đã quay đi trước những nhu cầu của người cần đến chúng ta. Hay khi một người nào đó trách mắng chúng ta là tại sao lại ích kỷ không chịu giúp đỡ họ thì chúng ta sẽ nói lại rằng, "Chẳng có luật nào bắt tôi phải cho anh hay phải giúp đỡ chị cả." Đúng thế! Chẳng có công an hay cảnh sát nào có quyền bắt chúng ta vì chúng ta đã không làm việc bác ái giúp đỡ người khác. Chẳng ai có quyền bắt lỗi chúng ta nếu chúng ta không giúp đỡ hay không làm việc từ thiện bác ái. Chỉ duy có Chúa Kitô mới có quyền trách và lên án chúng ta. Luật bác ái và thương yêu tha nhân là luật của Chính Chúa Kitô. Và Ngài dùng đó làm nguyên tắc để xét xử. Chỉ có Chúa Kitô mới làm chúng ta cảm thấy có lỗi khi nghe Ngài nói, "khi Ta đói ngươi đã không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống. Ta là khách lạ các ngươi chẳng tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc. Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!"
Kitô giáo nhấn mạnh đến tinh thần yêu thương và xây dựng kiến tạo một xã hội yêu thương. Chúa Kitô nhắc cho chúng ta biết rằng đến cuối đời chúng ta sẽ bị xét xử trên căn bản lòng bác ái và những nghĩa cử yêu thương chăm sóc ân cần chúng ta thực hiện đối với những người bé mọn có nhu cầu cần trong cuộc sống. Sự hiện diện của Chúa Kitô được chứng thực khi chúng ta biết đưa tay ra để cứu giúp và ân cần chăm sóc chia sẻ với những người anh chị em thiếu thốn. Chúa Kitô quả quyết là điều gì chúng ta làm cho những người anh chị em này là chúng ta làm cho chính Ngài.
Chia Sẻ Suy Tư
Bạn tôi vừa mới về thăm Việt Nam và kể lại cho tôi một câu chuyện làm tôi nhói tim và ứa nước mắt. Một tối ở Sài Gòn, Thanh bạn tôi và vợ đi ăn tối. Trong bữa ăn, Thanh không thể nào không để ý đến một bé gái độ mười tuổi đang lẩn quẩn phía ngoài cửa tiệm ăn. Bé gái bế trên tay một em nhỏ chừng hơn hai tuổi và bên cạnh là đứa em trai khoảng năm, sáu tuổi nhưng vóc dáng lớn gần bằng chị. Em bé cứ nhìn chằm chặp vào những đĩa đồ ăn của gia đình Thanh và ngượng ngùng quay đi chỗ khác khi bắt gặp ánh mắt nhìn của Thanh.
Bé gái kéo sát các em mình lại, bối rối và sợ hãi. Ngoài trời, mưa bắt đầu rơi. Những hạt mưa làm quần áo và tóc em ướt rối bù trông bẩn thỉu. Trong những cố gắng tuyệt vọng, em bé ráng giữ cho em mình khỏi ướt. Lạnh lẩy bẩy và đói. Thanh và vợ mời các em vào và gọi thức ăn cho các em. Trong nỗi rụt rè và ánh mắt biết ơn, bé gái từng chút, từng chút đút cho các em ăn. Đến phiên em, em ăn hết phần còn thừa của các em và để dành nguyên phần ăn của mình.
Vừa khó hiểu, vừa tò mò, Thanh hỏi em sao không ăn phần ăn của mình khi rõ ràng là em vẫn còn đói lắm. Em bé mười tuổi nhìn Thanh, nước mắt chảy dài trên đôi má nhỏ. Em van xin Thanh cho em được đem phần ăn còn nguyên vẹn của mình về cho mẹ đang bị ốm ở nhà.
Tôi có một cháu gái mười hai tuổi và hai cháu trai - Vân, Vinh và Minh. Đêm qua cả nhà ghé McDonalds ăn tối. Vân hình như không đói và không tha thiết chuyện ăn uống. Có lẽ nó đang nóng lòng về nhà nói chuyện điện thoại với bạn mình. Tôi nhìn con gái mình và hình ảnh bé gái mười tuổi trên đường phố Sài Gòn tràn ngập về trong trí óc tôi.
Con gái tôi nào biết tại sao cha mình lại tự nhiên im lặng. Con gái tôi đâu biết cha mình đang cầu nguyện. Cầu nguyện những tốt lành cho gia đình trong mùa lễ Tạ Ơn sắp đến. Cầu nguyện tha thiết để an lành và may mắn đến với em bé mười tuổi trên đường phố Sài Gòn và người mẹ đau ốm của em.
Bạn ơi, Mẹ Việt Nam đang ốm nặng. Cơn bão kinh hoàng nhất thế kỷ đã đổ xuống trên mảnh đất miền Trung vốn nghèo nàn tội nghiệp. Cả triệu đồng bào thân yêu ở quê nhà đang đau khổ. Bạn ơi, hãy như bé gái mười tuổi trên đường phố Sài Gòn, tất cả chúng ta phải trở thành những đứa con ăn mày để có thể cứu giúp cho Mẹ Việt Nam đang ốm đau, đói lạnh. Hãy làm và nhớ gởi một lời cầu nguyện đến cho em bé Việt Nam mười tuổi trên đường phố Sài Gòn. Và muôn triệu em bé Việt Nam khốn cùng khác (Trích ‘Người Tín Hữu’).
58.Chú giải của Fiches Dominicales.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một bức hoạ cho người ta xem thấy chung cuộc...
"Khi nào thì điều đó sẽ xảy đến?”. Các môn đệ đã lo lắng hỏi Đức Giêsu như vậy, khi Người loan báo cho các ông về việc Đền Thờ Jérusalem bị tàn phá. Chúa không trả lời như các ông trông đợi, trái lại trong bài giảng nói về ngày tận thế, và xuyên qua năm dụ ngôn, Chúa đã dạy các môn đệ phải chuẩn bị mình thế nào cho Biến Cố đó, nghĩa là phải chủ động tỉnh thức, phải làm cho những nén bạc đã trao, sinh lời.
Phần kết thúc bài giảng cuối cùng này của Đức Giêsu, kết tinh tất cả mọi lời nói và việc làm của Người, thâu tóm tất cả Phúc của Chúa, một cảnh tượng vĩ đại mang tính khải huyền, riêng của Phúc Âm thánh Matthêu làm nên dư âm của phần kết thúc bài giảng đầu tiên, Bài giảng trên núi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 25,31-33), đối thoại với những “kẻ được chúc phúc” (câu 34-40), đối thoại với những quân “bị nguyền rủa” (câu 41-45), thi hành bản án (c.46).
- Phần nhập đề gợi ra quang cảnh một cuộc tập hợp vĩ đại của toàn thể nhân loại quanh Đấng sẽ “ngự lên ngai vinh hiển của Người":
+ Đấng ấy được trình bày ở đây như “Con Người”, nhân vật huyền bí của các sách Khải Huyền Do Thái ấy (như trong Daniel 7) ngự đến thi hành việc phán xét “các dân thiên hạ”, một đặc quyền thuộc về Thiên Chúa. + Nhưng cũng như “Mục tử” đã được Ezéchiel loan báo (bài đọc một Người đến thi hành việc phân lựa: “Người sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê: chiên thì đặt bên phải, dê thì đặt bên trái”).
“Ở nước Palestine người ta chăn chiên chung với dê; nhưng đến chiều, người chăn tách chiên ra để ở một nơi kín đáo hơn”, Cl. Tassin giải thích, nhưng vội thêm một cách hóm hỉnh: “Bên phải” và “bên trái” trong thời Cổ đại, không có mang chút âm hưởng chính trị nào đâu; Nhưng theo óc hơi mê tín, người ta cho là những từ đó chỉ số phận tốt, xấu của con người” ("Phúc Âm thánh Matthêu”, NXB Centurion, trang 264).
+ Đức Giêsu còn được trình bày như “Đức Vua” xét xử công minh, đang nói về “Cha mình” và mọi người bị phán xét thì thưa với Người là “Lạy Chúa”, tước hiệu mà phụng vụ và giảng thuyết buổi sơ khai vốn gán cho Đức Kitô vinh hiển khi Người phải trở lại trong ngày tận thế.
2....Và hé cho thấy tính cách nghiêm trọng của sự việc đang diễn ra trong lúc này:
- Cuộc đối thoại với những kẻ “được chúc phúc” cho ta được nghe án quyết phù hợp với những lý lẽ đã nêu ra, đồng thời cho thấy phản ứng của những người trong cuộc.
+ Tiên vàn là án quyết: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dành sẵn cho các ngươi, từ thuở tạo thành trời đất”, và lý lẽ đưa ra dưới hình thức một bảng liệt kê dài những hành động bác ái mà coi như họ đã thực hành đối với Đức Vua: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn vv...”.
Cl. Tassin nhận xét: “Lòng đạo đức của người Do Thái cũng có những bảng liệt kê tương tự tương đối dài (cf. Tobia 1,16-20), tuy nhiên lại không đề cập tới việc thăm viếng tù nhân: hành vi bác ái này chắc hẳn đã được áp đặt khi cuộc bách hại đã tống giam nhiều người thân của họ. Ta nên ghi nhận rằng những người Do Thái đạo đức vốn coi những hành vi bác ái này như một việc noi gương bắt chước thật đáng khen: ta phải cho kẻ đói ăn, bởi vì Chúa đồng hoá mình với người đói, Chúa đứng về phía người bất hạnh; không liên đới với con người bất hạnh là đi ngược với quyền lợi của Chúa. Ý tưởng này bén rễ sâu xa trong Kinh Thánh (cf. Is 58,6-7) và đã đưa đến lời chú giải cao đẹp này: “Nếu ngươi đã nuôi nấng những người nghèo khổ, thì Ta sẽ kể như ngươi đã làm việc ấy cho chính Ta vậy” (O.C. trang 265).
+ Những người công chính ngạc nhiên: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng tôi đã thấy Chúa...?”. Thế rồi họ ngỡ ngàng khám phá ra điều gì là chủ chốt trong sinh hoạt đời thường của những con người nam cũng như nữ: Đức Vua vốn đồng hoá mình với hết mọi người trong cảnh khốn cùng, họ đã phục vụ chính Người trong những con người khốn khổ ấy: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
- Cuộc đối thoại với những quân bị nguyền rủa diễn lại cùng một khuôn khổ: án quyết với những lý lẽ nêu ra, phản ứng ngạc nhiên của những người liên hệ: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát...?”. Rồi họ cũng sẽ hay biết - nhưng muộn quá rồi! - rằng khi bỏ mặc anh em họ trong cảnh khốn cùng, là họ đã bỏ mặc chính Đức Vua vậy: “Mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”.
- Thi hành án diễn ra tức thì, đã được tường thuật một cách giản dị: “Thế là bọn này sẽ phải ra đi mà vào chốn cực hình muôn kiếp, còn những người công chính sẽ được lên hưởng phúc trường sinh”.
J.Potin kết luận: “Tính cách mới mẻ của giáo huấn của Đức Giêsu thật rõ như ban ngày. Giáo huấn ấy được nhấn mạnh ở vẻ ngỡ ngàng của những kẻ khám phá ra được từ đàng sau những dáng vẻ bề ngoài, sự thật về con người mà vì đó họ được hạnh phúc hay bất hạnh; ấy là: con người có tước vị làm anh em với Đức Giêsu, không phải tước vị làm anh em với Con Người trong vinh quang, mà đúng hơn là với Đấng sẽ đích thực trở nên anh em của người nghèo bằng đau khổ và nhục nhã trên thập giá. Từ nay con người không thể dựa vào những thực hành điều Luật dạy và tôn giáo để làm bình phong che chắn mình. Chỉ điều răn mới về tình yêu thương con người mới đáng kể thôi.
Như thế Đức Giêsu làm nổi bật điều mà người cho là bản chất của Lề Luật và sách Các Ngôn sứ ấy là lòng yêu thương. Kẻ nghèo được coi như đủ tư cách để được Thiên Chúa và Con của Người quý mến. Từ nay mọi điều răn khác đều phải được đánh ghía theo thước đo này. Đạo Do Thái nhờ được Đức Giêsu mang đến cho ánh sáng này mà được canh tân. Nhưng Đức Giêsu lấy uy quyền và tương lai của Người để bảo đảm cho giáo huấn này: Thiên Chúa muốn hướng dẫn toàn thể nhân loại trên con đường này, chứ không phải chỉ một mình dân Do Thái mà thôi. Con người muốn tập hợp người người mọi thời, mọi nơi để quy về giới răn duy nhất này. Hết thảy đều sẽ bị xét xử theo tình yêu của họ đối với người nghèo” ("Jésus, l'historie vraie”, NXB Centurion, trang 403-404).
Mối tình liên đới với hết mọi người khốn khổ này mà Chúa vừa minh hoạ để kết thúc bài giảng cuối cùng của Người, có một phạm vi vô hạn và bắt nguồn từ Thiên Chúa, thì giờ đây chính Người sống tình liên đới ấy đến mức độ tận cùng. Chương 26 là chương tiếp theo bài giảng cuối cùng ấy đưa ta trình thuật về cuộc Khổ nạn.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Một cảnh nhấn mạnh phạm vi giá trị cách ta cư xử ở đời này” (Giám mục L.Daloz, trong “Le Règne des cieux s'est approché”, Desclée du Brouwer, trang 343-344).
Đức Giêsu không mô tả cảnh này để ta lo sợ hướng nhìn về ngày chung thẩm mà buông lơi những phận vụ hiện tại của ta; trái lại điểm có ý nhấn mạnh ở đây chính là cách ta cư xử ở đời này có một tầm kích vĩnh cửu. Tính vĩnh cửu làm cho thời gian có giá trị, định hướng hoạt động của ta và cho hoạt động ấy có ý nghĩa. Ai tin vào trời thì càng phải định tâm làm cho trần gian này trở thành nơi chan hoà tình huynh đệ, một miền đất của Tương Lai! Không phải đến ngày tận thế người ấy mới gặp gỡ Con Người.
Đến ngày tận thế, người ấy sẽ được thấy Người tỏ tường, vì Con Người sẽ tỏ mình ra rõ ràng. Nhưng chính Người lúc này vẫn đang cận kề ta trong những người anh em bé mọn nhất. Điều có lẽ làm ta ngạc nhiên nhất, chính là mọi người cùng có chung một sự vô tri, những người đã thực hành lòng thương xót cũng như những người đã trốn tránh - Ai nấy sẽ bỡ ngỡ: Những người trước thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn?”. Những kẻ đã không tiếp rước Người cũng nói như vậy: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù mà không phục vụ Chúa đâu?”. Mọi manh tâm phục con người vì Chúa, chứ không vì chính họ đều bị Chúa phơi bày.
Thực vậy người và Chúa không tách biệt nhau: “Quả thực, Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Điều đó mời gọi ta nhận biết rõ tình huynh đệ liên kết những kẻ bé nhỏ này với Đức Giêsu, và mời gọi ta phục vụ họ tốt hơn. Điều đó cũng có nghĩa là ta sẽ gặp những bất ngờ, hay đúng hơn mối quan hệ của ta với Đức Giêsu thường diễn ra ở nơi ta vốn không trông đợi Người.
Tiên vàn ta đừng tìm cách nhận ra Đức Giêsu trong dung mạo của người ta, trước khi ta phục vụ họ: ta thường sẽ phải thất vọng thôi. Chỉ cần phục vụ họ một cách đơn sơ, yêu mến họ một cách cụ thể, bằng hành động và cho không. Rồi đây chính Người sẽ nói cho ta biết rằng Người đã ở gần ta ngay lúc ta không nghĩ đến Người: “Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước, hoặc trần truồng mà cho mặc?”. Chúng con đâu có biết... Vậy thì ta đừng tìm kiếm để biết bây giờ, hãy hành động, hãy yêu mến bằng sự thật! Ở đâu người ta sống tình yêu chân thật với nhau, thì Thiên Chúa làm người sẽ nhìn nhận họ là người của mình: “Các ngươi đã làm cho chính Ta vậy...”.
2. “Một bức tranh chiếu vào hiện tại, ánh sáng thực của đức tin và sự minh mẫn” (H.Vulliez, trong “Thiên Chúa thật gần”, Desclée de Brouwer, trang 175).
Đức Giêsu đã đặt bức tranh này dưới mắt các môn đệ để chiếu vào hiện tại ánh sáng thực của đức tin và sự minh mẫn. Sự chia sẻ không phải chỉ được quyết định thực hiện vào thời buổi cuối cùng, nhưng là bây giờ, ở đây và lúc này (hic et nunc). Đây không phải là một quyết định có tính cách hình thức, nhưng là một quyết định đưa đến sự thay đổi đời sống trong xã hội.
Vào thời Matthêu viết Tin Mừng của ngài, các Kitô hữu nồng nhiệt chờ đợi ngày Chúa trở lại đến nỗi họ quên cả đời sống hiện tại. Nhắc nhớ họ về đời sống hiện thực là điều quan trọng. Hơn nữa, không phải sự thực hành các mối phúc là điều quyết định phần rỗi đời đời trước cả tế lễ và cầu nguyện đó sao? Ngay cả những người ngoại giáo cũng được cứu độ nhờ thực hiện các mối phúc này. “Anh em đợi chờ Chúa, vua vinh quang, nhưng Ngài đang ở đây! Không phải nơi người nghèo như người ta nói. Nhưng trong sự chia sẻ với họ”.
Thiên Chúa hiện diện qua sự chia sẻ cơm bánh. Đó là vinh quang của vương triều Thiên Chúa. Đức Giêsu không chói ngời vinh quang trong cung điện hay trên ngai vàng, nhưng ở tất cả những nơi có tình liên đới nhân loại. Thiên Chúa tình yêu có thể có mặt ở khoảng trống vắng chia cách con người và các dân tộc chăng? Ngài hiện diện ở trong sự hiện diện của người này cho người kia. Đó là “sự hiện diện trong chia sẻ”.
59.Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
PHÁN XÉT CÙNG TẬN
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Như người chăn chiên tách chiên ra khỏi dê”. Nói cho đúng, đây là chiên và "dê con"; ở Palestine, việc chăn chung chiên với dê con là chuyện thường. Nhưng chiều đến, người ta phải lựa chúng ra, vì dê con cần được sưởi ấm suốt đêm. Vì chiên có giá trị hơn dê nên ta hiểu tại sao, trong dụ ngôn, chúng được đứng bên hữu Đấng Thẩm phán cánh chung (bên hữu là chỗ danh dự).
"Vua": các chữ này (đây quy chiếu về Chúa Giêsu (x 2, 2; 21. 3; 27, 11; 27, 29. 37. 42).
"Hãy lĩnh lấy làm cơ nghiệp Nước đã dọn cho các ngươi": x.hai mối phúc thật đầu tiên: Vì Nước Trời là của họ" (5, 3) và họ sẽ được đất làm cơ nghiệp" (5, 4).
"Vì xưa Ta đói...Ta khát... ": Phù hợp với óc tả thực không thay đổi của Mt, các nỗi thống khổ nhân thế được gợi lên ở đây: mình trần thân trụi, lưu đày biệt xứ (nghĩa là không có quyền lợi và sự chở che), bắt bớ giam cầm, đói khát yếu đau, xảy ra rất thường; ta đang ở trong cùng một bầu khí như trong Tám mối phúc thật và Diễn từ trên núi. Các kẻ khốn khổ này là những người, khách quan mà nói, cần được cứu giúp, dù theo chủ quan họ thế nào chăng nữa. Bản răn không bảo những người khách lạ, đói khát, tù đày đó là Kitô hữu hay là thừa sai. Con Người liên đới với mọi nỗi khổ của nhân loại trong tất cả chiều rộng và chiều sâu của nó.
"Lạy Chúa, có bao giờ chúng tôi thấy Ngài đói...": Bản văn không cố ý bảo các người công chính ấy (những kẻ trung thành và tỉnh thức của các dụ ngôn trước) quên điều họ đã làm, nhưng là: họ không biết rằng mình đã làm cho chính Con Người trong bản thân của những kẻ khốn khổ. Ý nghĩa trọn vẹn của các hành vi họ khi được mặc khải cho họ vào giờ chót; điều này phù hợp với toàn bộ luân lý của Mt (x."Cha ngươi, Đấng thấu suốt nơi kín ẩn, sẽ hoàn trả lại cho ngươi"-6,4). Hãy ghi nhận là động từ làm thường xuất hiện trong các câu đây (4 lần trong cc. 40- 45); thế mà trong tiếng Aram, Chúa Giêsu chỉ có thể dùng động từ "abad" vừa có nghĩa làm vừa có nghĩa phục vụ.
"Hãy xéo đi... mà vào lửa đời đời": Như trong suốt các chương 24-25, việc kết án các bất công, nghĩa là kết án những kẻ đã chẳng thi thố lòng nhân lừ, thật vô cùng khủng khiếp. Trong lúc trong sách Khải huyền Do thái, chính lương dân hoặc địch thù của Israel, hoặc các người Do thái bất trung (xét theo quan điểm của nhóm Essêni hay Biệt phái) sẽ bị vị thẩm phán của những ngày cuối cùng đè bẹp, thì ở đây là những kẻ đã chẳng cứu giúp anh em của Con Người. Không một bản văn Tân ước nào diễn tả rõ ràng như ở đây ý tưởng "tránh phục vụ” (“các ngươi đã không làm") cũng lỗi nặng nề như phạm tội ác; sau này, học thuyết của thánh Gioan sẽ dạy rằng không yêu thương tức là giận ghét vậy (1 Ga).
KẾT LUẬN
Người công chính rốt cục là những kẻ đã chu toàn Luật Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã diễn tả trong giới răn trọng nhất. Một lần nữa Người đồng hóa tình yêu tha nhân với tình yêu Thiên hùa. Cái mặc tính cách "thiện hảo" cho các công việc con người làm đối với anh em mình chính là chúng đã được làm cho Chúa Kitô.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Thế là chúng ta đã đến Chúa nhật cuối cùng của Năm phụng vụ. Giáo Hội, kẻ đã đưa ta vào trong mọi mầu nhiệm của Chúa. Hôm nay muốn thu tóm tát cả sứ điệp đã được nghe trong suốt năm rồi bằng cách lập ra cho ta lễ Chúa Kitô-Vua vũ trụ.
Ta nói vậy là vì dựa vào các bài đọc hôm nay trong đó Chúa Giêsu lần lượt được giới thiệu như là Vua-mục tử săn sóc chiên mình, Vua-chiến thắng đánh bại các quyền lực chống đối và làm ta thông hiệp vào cuộc Người thắng trận, Vua-Thẩm phán phân biệt những kẻ đã biết chấp nhận quyền bá chủ của Người, Vua-tôi tớ giáo quyền thống trị lại cho Chúa Cha. Thật khó mà tóm kết trong vài câu một hình ảnh vừa đa dạng vừa đầy đủ về Chúa như thế.
"Các dân thiên hạ được thâu họp lại trước mặt Người thảy": Đây là một cuộc phán xét phổ quát. Tất cả mọi người đều có liên hệ. Dầu họ thuộc tôn giáo, chủng tộc hay nền văn hóa nào, Chúa Kitô-vua cũng triệu tập tất cả họ lại trong cuộc gặp gỡ tối hậu ấy. Điều lạ lùng là hết thảy những kẻ Chúa Kitô-vua sắp xét xử, đều không biết rằng họ đã phục vụ Người hay bỏ rơi Người. Còn đối với các tín hữu, Tin Mừng đưa ra nhiều tiêu chuẩn xét xử bổ sung khác, mặc khải các yêu sách chính xác khác; điều này thật dễ hiểu vì họ đã biết Chúa Kitô, Đấng đã nhờ Thánh Thần mà tự mặc khải cho họ. Họ đã phải can đảm tuyên xưng Người (10, 32), đã phải thi hành thánh ý Cha thiên quốc (7,1), đã phải tỏ ra lòng nhân ái (5,7), đã phải luôn sẵn sàng thứ tha (6,14)... Ta biết các tín hữu bị xét xử như thế đã nhận nhiều ánh sáng hơn các kẻ khác, vì họ đã được tiền định biết Chúa Kitô từ lúc còn ở dương trần. Thành thử thật dễ hiểu khi người ta đòi hỏi ở họ nhiều hơn. Nhưng cái “nhiều hơn" này vẫn luôn đứng trong đường hướng tình yêu như đối với các lương dân đã không được nhiều ánh sáng ngần ấy. Chỉ khác điểm này là các Kitô hữu, vì đã biết rõ các yêu sách tình yêu hơn, vì đã biết rằng Chúa Giêsu tự đồng hóa với tất cả các kẻ "bé mọn" của thế gian, nên sẽ khó lòng chữa mình hơn lương dân được.
2. Trang Tin Mừng hôm nay chỉ nói đến các việc phục vụ thuộc bình diện vật chất phải thi hành đối với các kẻ "bé mọn” của thế gian nầy. Nhưng đó chỉ là những ví dụ, bảng kê khai các việc lành phúc đức không chỉ từng ấy. Chúa Giêsu chỉ gợi lên những việc rõ ràng nhất. Nhưng Người cũng đã rất có thể đề cập đến việc giáo dục những kẻ dốt nát, phấn khích người suy nhược, bầu bạn với những ai đơn côi, cảm thông vơi các gia đình tang thế, tươi cười với người quạu cọ… Khi vừa đáp ứng nhu cầu của tha nhân, là ta làm được một điều gì đó cho các anh em của con người là ta làm cho chính bản thân Chúa Giêsu. Chính các dấu tích tình yêu đó một ngày kia sẽ lầm ta xứng đáng nghe bảo: hãy đến, hỡi những người được Cha Ta chúc phúc...".
60.Chú giải của Noel Quesson
Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người.
Trong bài giảng lớn cuối cùng này của Đức Giêsu, người thợ mộc hèn mọn Nadarét sau cùng biểu lộ ý thức phi thường mà Người có về vai trò của mình. Ơ đây, chúng ta có sự khẳng định mạnh mẽ nhất về thiên tính của Đức Giêsu theo nghĩa chặt chẽ. Trong vài ngày nữa, Người sẽ bước vào cuộc khổ nạn (Mt 26,1-5) và trở thành "ông vua" bị nhạo báng, bị đội mão gai, bị giết chết như một người nô lệ tầm thường. Nhưng Người biết mình là ai. Một ngày kia Người sẽ đến trong vinh quang để phán xét thế gian, là đặc quyền mà Cựu ước dành cho Giavê. Ở đây Đức Giêsu lấy lại tước hiệu Con Người mà Người đã sử dụng nhiều lần trong bài giảng về thời Thế Mạt (Cánh chung): Mt 24,3.27.30.37.39.44. Kể từ ngôn sứ Đanien (7,13), Con Người là nhân vật mầu nhiệm, có nguồn gốc từ trời, mà sách Khải Huyền Do Thái (Đặc biệt là sách Hê-nóc) mô tả như vị Thẩm Phán của thời Thế Mạt.
Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.
Thỉnh thoảng chúng ta nên nghĩ đến "Ngày" này. Tôi sẽ được đưa về với ngày đó rất nhanh. Lúc đó mọi sự vật trần gian sẽ có một tỉ lệ mới: Lạy Chúa, xin Chúa ngay từ bây giờ giúp con phán đoán mọi sự việc theo quan điểm vĩnh cửu, để phân biệt cái gì là không đáng kể với cái gì là quan trọng. “Các dân thiên hạ..". Tôi cũng thế, tôi sẽ có mặt ở đó. Một đám đông to lớn chờ phán xét. Cũng có mặt ở đó tất cả những người mà tôi yêu thích, tất cả những người mà tôi biết, tất cả những người mà tôi có trách nhiệm.
Nhưng cũng có mặt mọi người khác: Do Thái và không Do Thái, Kitô hữu và không phải Kitô hữu, tín hữu và không tín hữu, Hồi giáo, Ấn giáo, người theo thuyết vật linh… những nhà thần bí suốt đời sống trong sự cầu nguyện, và những người vô thẩm mà cả đời không bao giờ cầu nguyện... tất cả đều đứng trước mặt Đức Giêsu! Người là vị Vua Mục tử, tước hiệu mà văn chương của các ngôn sứ cũng đã dùng để nói về Gia-vê (Ed 34,11-22).
Bấy giờ Đức vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng:"Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho cắc ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”.
Trong vài ngày nữa, Đức vua này, Con Thiên Chúa sẽ bị đóng đinh. Tuy nhiên Người ý thức được "ý định của Thiên Chúa từ thuở tạo thiên, lập địa!". Người nói Thiên Chúa đã tạo ra con người… để một ngày ban cho con người Nước của Người làm gia nghiệp. Nhưng sự phán xét dựa trên tiêu chuẩn nào? Trên quy tắc nào sự sàng lọc được thực hiện?
Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu, các người đã thăm nom, Ta ngồi tù, các người đã đến thăm.
Vậy chúng ta được phán xét dựa trên và chỉ dựa trên tình yêu. Và dựa trên một tình yêu rất đơn giản: cho ăn, cho uống, tiếp đón, cho mặc, thăm viếng, săn sóc. Như thế, những cử chỉ yêu thương khiêm hạ và chân thật có một giá trị vô cùng, một giá trị vĩnh cửu. Vả lại danh sách những hành động yêu thương mà Đức Giêsu kể ra không hạn chế. Đó chỉ là những gương mà chúng ta có thể kéo dài ra tùy theo cuộc sống của mỗi người.
Con tôi khóc ban đêm, và tôi thức dậy để dỗ dành âu yếm nó. Bà mẹ già của tôi không thể ngồi dậy, và tôi đã đỡ bà ra khỏi giường để cho bà ngồi vào ghế bành. Những người láng giềng của chúng tôi thiếu thốn tình bạn họ cần và chúng tôi đem tình bạn đến với họ. Trong giáo xứ, linh mục cần các bậc phụ huynh phụ trách việc dạy giáo lý và tôi đã chấp nhận trách nhiệm này và nó chiếm khá nhiều thời gian của tôi. Các đồng nghiệp của tôi cần được bảo vệ và tôi đã lãnh trách nhiệm về cộng đoàn và chính sách.
Thế giới thứ ba yêu cầu chúng ta giúp đỡ để phát triển, và tôi đã tham dự vào chiến dịch thế giới chống nghèo đói…Người phối ngẫu, con cái tôi, bạn bè tôi... đang cần những cử chỉ yêu thương của tôi... Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng:
"Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp đón hoặc trân truồng là cho mặc. Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?"
Sự ngạc nhiên của những người "được cứu” là một trong những yếu tố gây kinh ngạc trong cảnh này. Theo Đức Giêsu không một ai trong số những người được Chúa Cha chúc phúc có vẻ nhận biết đích xác điều gì đã được diễn ra trong đời sống hàng ngày của họ: ý nghĩa sau cùng của các hành động họ làm chỉ được tiết lộ vào giờ sau hết.
Như thế, cuộc phán xét sau cùng này mà chúng ta tưởng tượng trong tương lai, còn rất xa trong thời gian, thực ra lại là một biến cố thường xuyên: Chính HÔM NAY là ngày phán xét? Thiên Chúa sẽ không cần phán xét con người, mà con người ta phán xét mình trong suốt cuộc đời.
Thiên Chúa chỉ cần tiết lộ điều đã được "che giấu” trong mỗi ngày mà họ đã sống. Đời sống vĩnh cửu đã được bắt đầu. Vậy điều gì đã được "che giấu” và không được nhận thức?
Để đáp lại Đức vua sẽ bảo họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
Điều được "tiết lộ vì thế chính là sự hiển diện khó tin được của Đức Giêsu! Khi toàn bộ lịch sử nhân loại sẽ hoàn tất, và để tóm thu toàn bộ lịch sử ấy, Đức Giêsu chỉ có thể nói về Người, như thể trong vô số người đàn ông và đàn bà, chỉ mình Người đã hiện hữu, bằng sự hiện diện vô số và ẩn giấu. 'Ta đói …Ta khát… Ta ngồi tù… Ta là khách lạ.. Ta đau ốm...". Như thế, cuộc quang lâm sau cùng, sáng chói trong vinh quang của Đức Giêsu từ trên các đám mây sẽ là bằng chứng cho một "sự đến" khác, bí mật và ẩn giấu nhưng thường xuyên, và xảy ra qua những hành động yêu thương. Một cách rõ ràng và hiển nhiên sự hiện diện huy hoàng của Đức Giêsu trong ngày Thế Mạt sẽ nói rằng Người không ngừng đến và không ngừng hiện diện trong mỗi người anh em đang cần đến chúng ta.
Lạy Chúa, xin giữ cho chúng con luôn canh thức cho đến giờ Chúa sẽ hiện ra.
Rồi Đức vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó".
Lạy Đức Giêsu, Đấng mạc khải tình yêu của Chúa Cha, chính Chúa đã tuyên bố những lời đáng sợ như thế. Con lắng nghe và không thể trốn tránh trách nhiệm đã gạt bỏ những gì gây phiền nhiễu cho con trong Tin Mừng. Thật vậy Tin Mừng không phải là một thuyết duy tâm mơ hồ và nặng tình cảm, đó là lời kêu gọi của một yêu sách cực độ. Từ chối yêu thương... không giống như yêu thương? Không - tình yêu không thể có chỗ của nó bên cạnh Thiên Chúa là tình yêu. Chúng ta nhận thấy có một khía cạnh có tầm quan trọng tột bậc: Chúa Cha đã chuẩn bị thiên đàng cho người từ thuở tạo thiên lập địa... còn hỏa ngục không được chuẩn bị cho con người nhưng cho sa tan và các sứ thần của nó. Ơ đây chúng ta gặp lại nhân vật hắc ám mà ngay từ lúc đầu đã được giới thiệu như kẻ thù của Đức Giêsu (Mt 4,1), kẻ đã gieo cỏ lùng vào cánh đồng lúa mì (Mt 13,39), kẻ mà Đức Giêsu đã nhiều lần đi đầu để tiêu diệt (Mt 9,34; 12,24; 8,31; 15,22; 17,18). Tín điều về hỏa ngục không do Giáo Hội bày đặt ra. Chúng ta nghe từ chính miệng Đức Giêsu: “Quân bị nguyền rủa, đi đi cho khuất mắt Ta…”
Tín điều về Hỏa ngục có nghĩa như sau: Thiên Chúa có đủ tình yêu cao cả để cho tạo vặt được tự do với sự tự do chân thật, kể cả tự do nói "không" với Thiên Chúa. Dĩ nhiên Thiên Chúa không muốn có Hỏa ngục. Và sự hiện diện dù của chỉ một người bị sa Hỏa ngục đối với chúng ta cũng là một cớ vấp ngã, đối với Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa. Giữa Hỏa ngục “có thể" và Hỏa ngục thực, Thiên Chúa can thiệp với tất cả năng lực của Tình Yêu Của Người: chính ở chỗ đó, thập giá của Đức Giêsu được dựng lên Thiên Chúa đã làm tất cả để không một ai phải vào chỗ đó nội các tạo vật dứt khoát nói "không" với Thiên Chúa. "Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ". "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người' tội lỗi" (Mt 9,13). "Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi" (Rm 5,9). "Thiên Chúa muốn mọi người được cứu (1Tm 2,4). Hỏa ngục vì là sự khước từ tuyệt đối Tình yêu nên lúc nào cũng chỉ hiện hữu từ một phía... phía của người đã tạo ra hỏa ngục cho chính mình. Nhưng chính Thiên Chúa không thể có bất cứ sự cộng tác nào trong sự lệch lạc ấy. Chừng nào còn có dù chỉ một con người ở trong sự khước từ ấy thì có thể nói Thiên Chúa còn thấy mình bị đóng dấu sắt nung đỏ bởii sự từ chối ấy xúc phạm đến tình yêu vô hạn của Người và người ta đoán rằng dấu ấn này đã mang hình thể của thập giá?
Vì xưa Ta đói, các Ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom". Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ đâu?": Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các người không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy". Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.
Cả hai cảnh phán xét hoàn toàn giống nhau và đối nhau: điều mà những người này đã làm, những người khác bỏ không làm. Mọi con người dù là Kitô hữu hay không, dù biết hay không biết Đức Giêsu sẽ bị xét đoán trên cùng một tiêu chuẩn: không phải số lời cầu nguyện đã đọc, những hành động thờ phụng đã hoàn tất …những tình yêu cụ thể mà người ấy sẽ biểu lộ cho các anh em mình. Không làm điều xấu chưa đủ. Còn phải làm điều tốt. Mỗi con người ngay từ HÔM NAY được phán xét bằng điều tốt lành mà người ấy làm cho những người cần đến người ấy. Vậy ngày hôm nay, ai đang chờ đợi tôi một điều gì?
61.Chúa sẽ luận xét chúng ta về điểm nào?--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Chúa Giêsu dựng nên một cảnh đầy hình ảnh để nói cho biết nguyên tắc phân xử khi đến ngày cuối cùng. Qua đó Ngài muốn dạy chúng ta ngày nay phải sống theo nguyên tắc nào. Các yếu tố Ngài dùng để dựng cảnh để minh giải cho giáo huấn đều quen thuộc với người nghe Ngài nói. Nhiều truyện ký Do thái thuộc loại văn gọi là khải huyền trước Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh ít nhiều kinh khủng về ngày tận cùng lịch sử. Chúa Giêsu lấy lại một số không quá đáng và Ngài nhấn mạnh đến điểm Ngài cho là tối quan trọng: các cử chỉ yêu thương đối với người nghèo và người hèn mọn là những kẻ Ngài tự đồng hóa. Cá nhân Ngài không cần ai giúp của ăn, nơi ở, áo mặc, nhưng Ngài muốn được chúng ta phục vụ trong con người những kẻ Ngài tuyên bố là anh em ưu ái của Ngài. Nên lưu ý khi mô tả hình ảnh vị vua ngự trên ngai tòa vinh hiển, Chúa gợi ra quyền hành quân vương và thẩm phán của Ngài nghĩa là quyền quản lãnh toàn thể nhân loại. Một vài điểm để suy gẫm rút ra từ bài học này:
1) Các người lành trả lời: Lạy Chúa, có khi nào chúng tôi thấy Chúa đói khát… Như thế các người lành có hành động yêu thương đối với người nghèo túng cũng không biết rõ tất cả tầm mức các việc mình làm. Có khi nào người ta thấu suốt ý nghĩa một hành vi yêu thương chân chính? Thiên Chúa ẩn mình giữa người ta có thể khiến chúng ta kinh ngạc, nhưng phải chăng chính việc ấy giúp Ngài đến rất gần với chúng ta? Chúng ta không thể nào chịu nổi nếu Ngài tỏ mình trong thực tại quyền năng của Ngài. Ngài để cho chúng ta giao thiệp được nơi đặc điểm thâm sâu nhất mà cũng phù hợp với chúng ta; Ngài là tình yêu hiến tặng cho khả năng yêu thương của chúng ta. Để chúng ta có thể yêu thương Ngài cách rất thiết thực và luôn vừa tầm chúng ta. Ngài tự đồng hóa với người sống bên cạnh mà chúng ta gặp gỡ và có thể đón tiếp vào trong lòng; Ngài tự đồng hóa các đặc biệt với người khốn khổ mà chúng ta có thể và phải giúp đỡ về mặt thể xác lẫn tinh thần. Người Kitô hữu hãy nhờ lại hai lời Chúa dạy. Lời thứ nhất: sẽ luôn còn có người nghèo ở giữa các người. Lời thứ hai: Ta ở với các ngươi cho đến tận thế. Có thể nói Chúa ở voới các môn đệ cho đến tận thế trong con người những kẻ nghèo khổ. Ngày nay chúng ta có thực sự xác tín có những người túng thiếu, trong họ, Chúa chờ đợi tình yêu thương của chúng ta hay không? Đặt mình ở mức độ bản thể thần linh Chúa Giêsu đã phán: Cha với Ta là một. Chúa Cha lại là tình yêu. Tình yêu ấy, khi xuống mức độ nhân tính đã khiến Chúa Giêsu nói: người nghèo với Ta là một. Điều này đo lường tầm quan trọng các hành vị chúng ta đối với người nghèo.
2) Các kẻ bị chúc dữ sẽ nói như người lành: Lạy Chúa, có khi nào chúng tôi thấy Chúa đói khát… Các kẻ bị loại bỏ, các kẻ cứng lòng, các kẻ buông tuồng, ích kỷ cũng không nhận rõ tất cả tầm mức thái độ của mình. Có những trường hợp bỏ qua không hành động cho người nghèo khổ tương đương với việc ấn họ sâu thêm vào cảnh khốn cùng. Hình phạt đáng sợ của thái độ ấy ở chỗ tương đương với việc hất hủi Thiên Chúa. Thế mà nếu Thiên Chúa là tình yêu trọn vẹn, Ngài cũng là công lý hoàn toàn. Công lý ấy tỏ ra ở chỗ Ngài không ép buộc những ai khước từ Ngài. Sự cùng khổ và cô đơn của người đã khước từ Thiên Chúa là một đau đớn vô cùng khổ sở hơn mọi đau đớn trần gian này. Người Kitô hữu được mời gọi phải coi trọng hết sức trách nhiệm của mình đối với những người nhỏ bé, yếu đuối, khốn khổ, để khỏi bị tách biệt xa Thiên Chúa. Để kết thúc nên lưu ý một chi tiết: Chúa phán: mỗi một lần các người làm điều ấy… Trong ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng (tiếng aram) động từ “làm” ở đây bao gồm ý nghĩa “phục vụ”. Người ta liên tưởng đến lời Chúa Giêsu: Ta đến để phục vụ. Trước mặt Thiên Chúa có ai nghèo hèn và cực khổ hơn những người tội lỗi là chúng ta tất cả? Chúa Giêsu đã đặt mình phục vụ chúng ta, mưu cầu ơn cứu độ, hạnh phúc và hân hoan cho chúng ta. phúc cho chúng ta nếu bắt tay làm, nghĩa là hành động phục vụ cho sự cứu rỗi và hạnh phúc của những người nghèo nhất trong anh em chúng ta.
62.Vua tình yêu--Trầm Thiên Thu
Xã hội trần gian được phân chia thành năm châu lục, mỗi châu lục gồm nhiều quốc gia. Mỗi quốc gia có một vị đứng đầu với quyền tối thượng, gọi là nguyên thủ quốc gia. Tùy thời mà người ta gọi vị đó bằng các danh từ khác nhau: Chúa Thượng, Hoàng Thượng, Hoàng Đế, Vua, Nữ Hoàng, Quốc Vương, Quốc Trưởng, Tổng Thống,... Các nước cộng sản gọi vị đó là Chủ Tịch Nước. Riêng Công giáo gọi vị đó là Giáo hoàng.
Quan nhất thời, dân vạn đại. Nguyên thủ quốc gia cũng chỉ tạm thời chứ không vĩnh viễn, kể cả quyền lực, chỉ có Thiên Chúa là vĩnh viễn, thường tồn, bất biến, và có quyền tối thượng, kể cả “quyền ném vào hoả ngục” (Lc 12:5). Khi bị thế lực trần gian áp chế, Chúa Giêsu vẫn thẳng thắn nói với Philatô là người có toàn quyền trong tay: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19:11).
Trong Hán tự, chữ 王 [wáng] là vương (vua). Ba “gạch ngang” tượng trưng cho Thiên – Nhân – Địa, và được nối kết bằng một “gạch đứng”, ý nói “vua là người nối kết trời, đất và con người”. Hán tự thâm thúy quá!
Vua trần gian còn như vậy, huống chi Vua Kitô. Vâng, Chúa Giêsu là Đệ Nhất Thiên Vương, Vua các vua và Chúa các chúa, thế nhưng Ngài lại hạ mình đến tận cùng vì yêu thương các thần dân. Thật lạ, vì Ngài là Vua-đa-không, hoàn toàn trái ngược với các vua chúa trần gian: KHÔNG ngai, KHÔNG đăng quang, KHÔNG vương miện, KHÔNG vương trượng, KHÔNG long bào, KHÔNG quần thần, KHÔNG dinh thự, KHÔNG văn phòng làm việc, KHÔNG nghi thức, KHÔNG thiết triều,... Thậm chí Ngài còn SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Tại sao vậy? Chính Chúa Giêsu đã xác định với Tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36). Tuy nhiên, Ngài lại có quyền tối thượng: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử. Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người” (Ga 5:22, 26-27).
VUA NHÂN LÀNH
Vua chúa trần gian là Thiên Tử, là Con Trời, hét ra lửa, có quyền sinh sát trong tay: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Khủng khiếp quá! Còn Chúa Giêsu khác hẳn, khi Philatô hỏi Ngài có phải là vua không, Ngài trả lời: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Vua Giêsu luôn chạnh lòng thương, luôn động lòng trắc ẩn, giàu lòng thương xót, đến thế gian để cứu những gì đã mất, và Ngài đưa ra lời khuyên: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Là Thiên Vương nhưng Vua Kitô Giêsu lại là Vua Nhân Lành, là Mục Tử Nhân Hậu, là Người Cha từ tâm, là Quan Tòa nhân ái.
Quả thật, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: “Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt” (Ed 34:11-12). Khi chúng ta tưởng mình cô đơn thì Ngài đang ở bên chúng ta. Khi cuộc đời chúng ta êm trôi, Ngài đồng hành với chúng ta; khi cuộc đời chúng ta như lâm vào ngõ cụt, Ngài không chỉ đồng hành mà Ngài còn vác chúng ta trên vai để chúng ta được an toàn. Thực sự là vậy, nhưng vì phàm nhân yếu đuối, thế nên chúng ta đã từng có những lúc bị dao động, chao đảo!
Thiên Chúa đã nói rất rạch ròi: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, Đức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê” (Ed 34:15-17). Ngài không “bỏ qua” bất cứ ai, người nào càng bất hạnh càng được Ngài thương xót nhiều. Thật vậy, Ngài không so đo hơn thua, chấp nhận bỏ lại 99 con chiên béo tốt để rong ruổi tìm cho được MỘT con chiên xấu xí, ốm yếu, hôi tanh (x. Mt 18:12-14; Lc 15:4-7).
Trong số các vua chúa trần gian, có mấy người đích thân vi hành để biết dân tình ra sao? Mấy ai được như Hoàng đế Khang Hi (Kangxi, 1654-1722) đời nhà Thanh của Trung Hoa? Ông là vị vua thật tốt lành, thương dân suốt hơn 60 năm trị quốc. Có bao giờ Tổng thống đến khu dân cư nghèo để thấy sinh hoạt cực khổ của người dân? Đến nơi nào thì chỉ ở “trung tâm” rồi tiệc tùng, và nghe “báo cáo”, liệu có bao nhiêu phần trăm trung thực? Bởi vậy, người dân mới thở dài rồi nói: “Ôi dào! Làm láo, báo cáo hay!”.
Ở cấp thấp hơn cũng chẳng khá hơn, tỉnh trưởng hoặc quận trưởng, trong số đó có bao nhiêu người thật lòng muốn biết nỗi niềm của người dân? Rồi giám mục hoặc linh mục, trong số đó có bao nhiêu người tận tình đến thăm giáo dân để hiểu được nỗi lòng của họ, cả đời thường lẫn tâm linh? Có chức nên có quyền, đủ lý lẽ biện hộ, khó mà thản nhiên trả lời ngay. ĐGH Phanxicô cũng thường thẳng thắn dám nói tới những điều “nhạy bén” tương tự như vậy, chắc hẳn nhiều người cũng cảm thấy “dị ứng” lắm!
Thật ấn tượng với Đức cố Giám mục Jean Cassaigne (1895-1973), gọi thân thương là Cha Sanh, nhà truyền giáo của dân tộc Kơ Ho, chết vì lây bệnh cùi tại Trại Phong Di Linh, được mệnh danh là Tông Đồ Người Cùi. Khi còn là Giám mục GP Saigon, ngài thường dùng chiếc xe vespa cọc cạch đi thăm dân chúng vùng Chợ Lớn. Một người Pháp mà quên mình, dấn thân và hòa nhập với người Việt Nam, đặc biệt là những người dân tộc và các bệnh nhân phong cùi. Không yêu thương làm sao sống được vậy? Đó là phong cách của thánh nhân!
Biết nhiều, khổ nhiều; thấy nhiều, chán nhiều, nghe nhiều, “nóng gáy” nhiều. Làm ngơ thì người ta nói mình “sợ”, nói ra thì người ta “không ưa”. Thẳng thắn sẽ “va chạm”, chỉ khổ mình, nhưng không thể làm ngơ, ai nhát đảm thì dễ “vào hùa” lắm. May mà có Chúa là Bến Yêu Thương cho chúng ta trú ẩn. Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ cảm nghiệm tâm linh: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-3). Ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ trải nghiệm đức tin tuyệt vời như vậy!
Đức tin phải được tôi luyện trong nhiều nỗi gian truân hoặc đoạn trường thì mới có thể dần dần trở nên “tinh ròng”, và lúc đó chúng ta mới có thể xác tín: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa” (Tv 23:4-5). Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ thêm: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:6). Hạnh phúc quá! Nhưng hạnh phúc đó không thể cứ sống tà tà mà có được. Vâng, Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13), Ngài không bao giờ “chợp mắt ngủ quên” hoặc nỡ lòng để mặc chúng ta lâm vào ngõ cụt. Tại sao? Vì bản chất của Ngài là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), mà tình yêu là bất tử.
VUA HẰNG SINH
Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Đệ Nhất Hàn Vương: SINH nơi hang động, SỐNG ở ngoài đường, rồi CHẾT trên đồi hoang. Ngài là Vua mà cuộc sống như vậy, làm sao chúng ta có thể sống khác?
Chúa Giêsu là Vua của người sống chứ không là Vua của kẻ chết. Thật vậy, dù Ngài bị người ta ghen ghét “tới bến” và đã giết Ngài chết thê thảm, nhưng Ngài đã từ cõi chết sống lại, cai trị cả Tử thần (x. 1 Cr 15:25), và trở thành Vua Hằng Sinh. Thánh Phaolô nói chi tiết: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:20-24).
Chúa Giêsu đã đau khổ tột cùng nên Ngài có toàn quyền. Thánh Phaolô cho biết: “Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Mà khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô” (1 Cr 15:25-27). Đức Kitô là chính Chúa Con, Ngôi Hai Thiên Chúa, mà Chúa Cha với Chúa Con chỉ là MỘT mà thôi: “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15:28).
Thời quân chủ, vua cho sống thì được sống, vua bảo chết thì phải chết, không muốn cũng phải tuân lệnh. Cái chết đó được coi là trung thành. Có những trung thần đã dám xin được chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Người ta không được phép nhìn mặt vua và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, phải đọc “trại” đi (trường – tràng, sinh – sanh,...), thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua: “Muôn tâu bệ hạ” – tức là tâu cái bệ rồng của vua ngồi mà thôi. Ui da! Cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng với Vua Giêsu, không sợ “phạm húy”, cứ thưa thẳng: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con! Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài”.
Chúa Giêsu là Vua nhưng Ngài không hề được tiền hô hậu ủng, không hề xa giá, chỉ một lần duy nhất được tung hô vạn tuế khi Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem trước dịp Lễ Quá Hải (Vượt Qua), thế nhưng chỉ vài ngày sau là họ lật mặt nhanh hơn trở bàn tay: “Đóng đinh nó vào Thập Giá” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:6; Ga 19:15). Lạy Chúa tôi! Chúng ta cũng chẳng hơn gì đâu!
Suốt những năm hoạt động mục vụ, hàng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi nẻo đường, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của những người cùng đinh nhất, đặc biệt là Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã thực hiện đúng như lời Ngài nói: “Ai làm lớn phải phục vụ” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45). Ngài không cậy quyền, không ỷ thế, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, ngôn hành luôn song song, thậm chí Ngài còn làm nhiều hơn nói. Ngài không chỉ là Vua Nhân Lành, Vua Hằng Sinh, Vua Tình Yêu, Vua Lòng Thương Xót, mà Ngài còn là Vua Công Bình. Vô cùng may mắn khi chúng ta là thần dân của Vị Vua này!
VUA CÔNG BÌNH
Phụng vụ lễ Chúa Kitô Vua năm A dùng trình thuật Mt 25:31-46 nói về ngày Chúa quang lâm xét xử nhân loại. Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế, dễ hiểu và gần gũi: Chiên và Dê. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “dễ thương”; dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt”. Chiên là người lành, dê là kẻ dữ.
Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha và chịu chết để cứu độ nhân loại, thế nên Ngài có quyền phân xử, nhưng hoàn toàn công minh chính trực. Khi Ngài đến thế gian lần thứ hai có các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han” (Mt 25:34-37).
Họ ngạc nhiên họ chưa một lần thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, là khách lạ mà tiếp rước, trần truồng mà cho mặc, đau yếu hoặc ngồi tù mà thăm viếng giúp đợ. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:41).
Rồi Đức Vua nói với những người ở bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-44).
Họ cũng ngạc nhiên và phân bua, nhưng Ngài nói thẳng: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:46). Hết cách phân minh, họ đành lủi thủi ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Đó là công bình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt. Có điều lạ là không thấy Chúa đề cập tội này hay tội nọ, Ngài chỉ thẩm vấn HAI điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời (Mt 25:14-30), và thực hành đức ái (Mt 25:31-46).
Ngài không thiên vị ai, không thể lấy cớ mình là “ông này” hoặc “bà nọ” để mong được “ưu tiên”. Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính”, thích đùa dai. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi hằng năm có nhiều vụ “thiên tai” nhưng người ta vẫn “bình chân như vại”, thích những “sự lạ” chứ không muốn hiểu “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị. Thiên tai hay nhân tai? Việt Nam cũng không ngoài danh sách. Cứng lòng hay tự mãn?
Nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều Chúa Giêsu đề cao: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ, yêu thương, chia sẻ, thiện cảm, vui cười, nói dễ nghe, cư xử tốt, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là tha nhân, là bất kỳ ai, dù không quen biết, thậm chí là kẻ thù. Thật tuyệt vời với cách suy luận của đại văn hào Victor Hugo: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay”.
Lòng thương xót cũng chính là tình yêu thương, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1), Ngài không phạt nhãn tiền vì Ngài nhẫn nại chờ đợi chúng ta sám hối, đợi chúng ta tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài, điển hình là đến với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Không được tha thứ là tại chúng ta quá cố chấp mà thôi! Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến quyền lợi, không mấy ai nói đến bổn phận”. Thật vậy, chúng ta van xin Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta đủ điều, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né “cái khó” càng nhiều càng tốt. Vậy là chúng ta không công bằng với Chúa đấy!
Lạy Thiên Vương Giêsu Kitô, xin thương tha thứ, nâng đỡ, che chở, độ trì, soi sáng và hướng dẫn chúng con trong Cung Đường Tình Yêu cao cả và tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngài là Đấng Cứu Độ hằng sinh, đồng hiển trị cùng Thiên Chúa Chúa, hiệp nhất với Thiên Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
63.Vua lòng thương xót--Trầm Thiên Thu
Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ được Giáo hội mừng kính tước hiệu Chúa Kitô Vua – Vua các vua và Chúa các chúa.
Vua Lòng Thương Xót
Thời quân chủ, vua là người có quyền tối thượng: Quân xử, thần bất tử, bất trung. Không muốn cũng phải tuân lệnh, dù phải chết. Và người ta hiểu trung thần là dám chết để minh chứng lòng trung thành với vua. Với vua, người ta không được phép nhìn mặt và phải tránh những chữ có “liên quan” nhà vua, thậm chí muốn tâu bẩm cũng không được tâu thẳng với vua: “Muôn tâu bệ hạ” – tức là tâu cái bệ rồng của vua ngồi. Như vậy, cái ghế vua ngồi còn đáng giá hơn thần dân. Nhưng khi Philatô hỏi Chúa Giêsu có phải là vua hay không, Ngài đã trả lời ngay: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36), và Ngài cho phép chúng ta “phạm húy”, dùng ngay tên Ngài mà không cần tránh né: “Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Ngài”.
Chúa Giêsu là Thiên Vương, là Vua vũ trụ, nhưng cũng là “vua nghèo” nhất. Tại sao? Một vị Thiên hoàng mà sinh ra ở nơi bần cùng nhất là một hang chiên lừa hôi tanh. Chắc hẳn không ai nghèo bằng Ngài.
Không chỉ vậy, Ngài còn là vị vua không tiền hô hậu ủng, không xa giá, chỉ một lần duy nhất Ngài cưỡi lừa vào thành Giêrusalem. Còn ngoài ra, suốt 3 năm hoạt động mục vụ, hàng ngày Ngài đích thân rong ruổi khắp mọi đường xa, đến tận các hang cùng ngõ hẻm để giáo huấn và chia sẻ nỗi đau khổ của mọi người cùng đinh nhất, Ngài luôn tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền của bất kỳ ai. Là vua, trong tay đầy quyền lực, nhưng Ngài đã làm gương đúng như lời Ngài dạy: “Ai làm lớn phải phục vụ” (Mt 20:24-28; Mc 10:40-45). Ngài không cậy quyền, ỷ thế, không có ngai vàng, nói và làm gì cũng dựa trên nền tảng yêu thương, luôn ngôn hành song song. Quả thật, Ngài là Vua Lòng Thương Xót. Bạn đã may mắn thấy vị nguyên thủ quốc gia nào hoặc chủ chăn nào thực hiện như “vua nghèo” Giêsu chưa? Nếu bạn đã thấy, bạn thật hạnh phúc!
Vua Công Bình
Phụng vụ lễ Chúa Kitô Vua năm A dùng đoạn Phúc âm Mt 25:31-46 nói về ngày Chúa quang lâm xét xử nhân loài. Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế, dễ hiểu và gần gũi: Chiên và Dê. Chiên là loài động vật hiền, mỗi lần bị xén lông rất đau nhưng nó không hề kêu hoặc phản ứng và có hình dáng “dễ thương”; dê là loài động vật có thể phản ứng dữ dội và có hình dáng “không bắt mắt”. Chiên là biểu tượng của người lành, dê là biểu tượng của người dữ.
Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha và chịu chết để cứu độ nhân loại, thế nên Ngài có quyền phân xử công minh. Ngài đến trong vinh quang, có các thiên sứ theo hầu, và Ngài sẽ ngự trên ngai vinh hiển. Ngài tập hợp các dân thiên hạ trước mặt Ngài, rồi Ngài sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Ngài cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Thiên Vương Giêsu ôn tồn nói với những người ở bên phải: “Nào những người được Cha Tôi chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho quý vị ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã cho ăn; Tôi khát, quý vị đã cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã cho mặc; Tôi đau yếu, quý vị đã thăm viếng; Tôi ngồi tù, quý vị đã đến hỏi han” (Mt 25:34-37).
Bấy giờ những người công chính ngạc nhiên và khiêm nhường thân thưa: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?” (Mt 25:38-40). Chúa Giêsu xác định: “Mỗi lần quý vị làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Tôi, là quý vị đã làm cho chính Tôi vậy” (Mt 25:41).
Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi cho khuất mắt Tôi mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Tôi đói, quý vị đã không cho ăn; Tôi khát, quý vị đã không cho uống; Tôi là khách lạ, quý vị đã không tiếp rước; Tôi trần truồng, quý vị đã không cho mặc; Tôi đau yếu và ngồi tù, quý vị đã chẳng thăm viếng” (Mt 25:42-44).
Bấy giờ những người ấy cũng sẽ phân bua là không hề thấy Chúa đói, khát, là khách lạ, trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà họ lại đành lòng không phục vụ Chúa (Mt 25:45). Nhưng Ngài xác định: “Mỗi lần quý vị không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là quý vị đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:46). Họ “bó tay”, không tự biện hộ được gì, “mắt chữ O và miệng chữ A”, đành cúi đầu ra đi để chịu cực hình muôn kiếp. Còn những người công chính thì vui sướng bước vào sự sống muôn đời. Mỗi người “xứng đáng” với cách sống của mình: Tốt được thưởng, xấu bị phạt.
Chúa không hỏi gì về những tội này hay tội kia, mà Chúa thẩm vấn 2 điều: Sử dụng vốn sống thế nào để sinh lời (Mt 25:14-30), và thực hành đức ái (Mt 25:31-46).
Ngài hoàn toàn công minh và chính trực, không thiên vị ai – chứ đừng nghĩ mình là “ông này, bà nọ” mà được “ưu tiên”. Vả lại Chúa đã nhiều lần cảnh báo, chứ Ngài không hề hứng chí làm sảng mà không báo trước. Có lẽ chúng ta nghe nhiều hóa nhàm tai, rồi cứ tưởng Chúa “vui tính”, thích đùa dai. Nước đến chân nhảy cũng không kịp. Số phận thành Sôđôma và Gômôra bị thiêu rụi đã quá hiển nhiên, rồi mới đây, ngày 11-3-2011, Sóng thần đã là “điểm đen” gây kinh hoàng ở Nhật Bản, và hiện nay Thái Lan cũng đang “nhức đầu” vì lụt lội. Có bao nhiêu người coi những dạng như vậy là “triệu chứng” của một căn bệnh trầm kha bất trị? Thiên tai hay nhân tai?
Nhìn thấy Chúa trong người khác là điều không dễ, nhưng đó là điều kiện “ắt có và đủ”, vì Chúa Giêsu đã xác định: Mỗi lần chúng ta giúp đỡ người khác – dù chỉ một chén nước lã, yêu thương người khác, có ánh mắt thiện cảm với người khác, vui cười với người người khác, nói dễ nghe với người khác, cư xử tốt với người khác, chia sẻ vui buồn với người khác, cầu nguyện cho người khác,… đó là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Người khác là bất kỳ ai, dù không quen biết, ngay cả chính kẻ thù. Ngay cả đại văn hào Victor Hugo cũng đã quả quyết: “Ai cho kẻ khốn cùng là đã cho Thượng đế vay”. Nếu không làm được vậy thì chúng ta không thể tự biện hộ, vì Chúa đã “ghi âm” và “ghi hình” ngay lúc chúng ta hành xử – và “thước phim” đó sẽ trình chiếu lại khi chúng ta trình diện Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là Vua Lòng Thương Xót vì Ngài đã yêu thương chúng ta đến giọt máu cuối cùng, giọt nước cuối cùng, và hơi thở cuối cùng. Ngài luôn nhẫn nại chờ đợi chúng ta đến với Lòng Thương Xót vô biên và sâu thẳm của Ngài – tức là đến với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Ngài vẫn từng giây phút âm thầm mỏi mòn chờ đợi chúng ta hồi tâm, Ngài không hề muốn phạt ai, chỉ tại chúng ta quá cố chấp!
Alfred Mortier nói: “Mọi người đều nói đến quyền lợi, không mấy ai nói đến bổn phận”. Chúng ta cũng vậy, chúng ta van nài Chúa ban “miễn phí” cho chúng ta điều này hoặc điều nọ, càng nhiều càng tốt, nhưng lại không muốn hy sinh, chỉ muốn tránh né bổn phận càng nhiều càng tốt. Thật là phi lý!
Điều Chúa yêu cầu rất đơn giản nhưng rất quan trọng và hoàn toàn có lợi cho chính chúng ta: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng toàn thiện” (Mt 5:48) và “hãy có lòng nhân từ như Cha là Đấng nhân từ” (Lc 6:36).
Lạy Thiên Vương Giêsu Kitô, xin thương xót mà gia ân cho chúng con – những thần dân vô dụng của Ngài. Nhưng chúng con luôn vững tin Ngài đang ở với chúng con, Ngài không để chúng con cô đơn (x. Ga 8:29), vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 136). Xin che chở, phù trợ và hướng dẫn chúng con dù “mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7). Chúng con cầu xin nhân danh Thiên Vương Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
64.Chẳng còn gì để nói!--Nguyễn Thế Bài
Cụm từ nầy có hai ý nghĩa rất rõ ràng: những gì cần nói, cần làm thì đã nói và đã làm rồi, nay chỉ còn chờ phán quyết, chứ không còn thay đổi gì được nữa, dù là một chấm một phẩy; thứ đến, sự lì lợm đến lúc nầy vẫn chẳng thay đổi, chứng tỏ sự trơ tráo tột cùng, trong ngôn ngữ bình dân ngày nay gọi là “hết thuốc”, còn trong Anh ngữ thì người ta vắn gọn hơn: “no comment!”. Cả hai ý nghĩa của câu nói nầy thể hiện chính xác và rõ ràng trong bài Tin Mừng phụng vụ ngày hôm nay: Ngày Phán Xét Chung.
Theo định nghĩa của từ điển, “trơ tráo” là trơ lì, ngang ngược, không hề biết hổ thẹn. Ví dụ: đã phạm lỗi mà còn trơ tráo cãi lại. Những người bê trọn nhiều trang sách của người khác vào tác phẩm của mình, những người lấy nguyên cả nhạc và thậm chí cả nhạc và lời của người khác, ghi tên mình là tác giả, và cho ra CD, DVD với tên tuổi của mình. Tất nhiên cũng bỏ túi toàn bộ tìên thu được. Khi bị phát hiện, lại một mực cho mình là tác giả. “Trơ tráo” đến gây buồn nôn, ấy là trường hợp tay khủng bố đặt bom giết hàng mấy trăm nhân mạng ở Bali: khi bị bắt, khi ra toà, khi nhận án tử, y đều giữ nụ cười bệnh hoạn, khoái trá và tỏ thái độ không hề hối tiếc. “Trơ tráo” còn phải kể đến một ví dụ mới đây của vị quan chức nhà nước trong vụ sữa có mélamine: hôm trước tuyên bố không hề nhập sữa nước ngoài, hôm sau khi bị đưa ra bằng chứng đã cho nhập số lượng rất lớn, thì mặt mày tỉnh rụi nói là …quên. ”Trơ tráo” cũng để chỉ những quyết định, những hành vi ngang nhiên và trắng trợn của những người không còn sỉ diện, “chịu đấm ăn xôi”, coi luật pháp như trò đùa, muốn cho người vô tội trở thành phạm nhân không khó và làm cho những tội phạm tham ô sa đoạ và bị kết án (dù án phạt vốn đã rất “tượng trưng) trở thành vô tội (xem báo Dân Trí 28.03.2008) dễ “như trở bàn tay. “Trơ tráo” còn là “ném đá dấu tay”, xúi giục và lợi dụng những bọn côn đồ, say sưa, nghiện ngập để phá rối, bôi nhọ danh dự hoặc gây thiệt hại cho người khác, tập thể hoặc cá nhân. Nó nguy hiểm và bào mòn niềm tin của những người dân lương thiện, vì các hành vi trơ tráo như thế được dàn cảnh, chỉ đạo và bao che từ cấp cao nhất xuống đến cấp thấp nhất. Thái độ trơ tráo ấy, hôm nay chúng ta gặp lại nơi những người bị xếp vào “đám dê ở bên trái”. Thái độ câng câng và câu đáp trả trơ tráo chỉ có thể tóm gọn trong câu: chẳng còn gì để nói! May thay có một tiêu chuẩn để nhận diện và đáng giá những hạng người nầy: tất cả những kẻ trơ tráo đều là ngừơi xấu và bất lương!
Cảnh tượng Ngày Phán Xét thật đáng kinh ngạc: thứ nhất vì một sự kiện vô cùng trọng đại, liên quan đến sự sống cũng như cái chết muôn đời, phúc vinh hoặc khổ hình muôn kiếp, lại chỉ diễn ra chóng vánh; thứ đến, cuộc sống con người ở thế trần, dù ngắn ngủi đấn đâu, cũng đầy dẫy những lỗi lầm, sa phạm. Kẻ độc ác, tà dâm, vô thần còn bao nhiêu tội, mà chỉ cần nêu ra một trong các tội ấy, cũng đủ để họ “tâm phục khẩu phục” nhận những hình phạt trầm luân muôn đời. Vậy mà “Đấng Xét Xử rất nghiêm nhặt” (x. Dies irae, dies illa, thánh lễ an táng) dường như chẳng đoái hoài, mà chỉ đưa ra một tội duy nhất: đối xử ích kỷ và thiếu tình người với tha nhân! Lý do để những thứ lơ là, sai sót, khinh mạn trong hành xử với những người nghèo đói, cô thân có thế, bị bỏ rơi coi thường “biến” thành tội chịu án phạt ngàn thu, lại hoàn toàn trái với mọi dự đoán, mọi “lô-gic”, khiến cho cả người lành lẫn kẻ dữ đều không kịp trở tay. Không có bộ luật tố tụng nào trên trần gian - kể cả Bộ Giáo Luật nghiêm khắc tỉ mỉ - minh nhiên kết án những “tội” nầy. Những quốc gia giàu có lợi dụng các nước nghèo để tuồn bán vũ khí, kích động chiến tranh đẫm máu và vô nhân đạo khắp nơi, những kẻ ích kỷ, theo chủ nghĩa hưởng thụ và ăn chơi xa xỉ trác táng mà không đếm xỉa hoàn cảnh nghèo đói bệnh tật khốn cùng và bất công của anh em đồng loại còn không bị định tội, thì những thiếu sót “nhỏ như con thỏ” được nêu ra để luận phạt với bản án chung thân trong Ngày Phán Xét Chung liệu có quá bất công chăng? Giả sử luật pháp thế tục của các quốc gia – hay là một điều khoản nào trong Bộ Giáo Luật - có khung hình phạt, dù là án treo rất nhẹ, đối với “tội” xa xỉ của các diễn viên, của các siêu sao bóng đá, của các tay tài phiệt, của những quan chức tham nhũng, v…v…, thì hẳn cuộc diện hôm nay - Ngày Phán Xét Chung – đã khác hẳn, không trớ trêu và dở khóc dở cười cho cả người lành lẫn kẻ dữ. Hôm nay, trong ngày Phán Xét Chung, Chúa Thẩm Phán thực hiện điều Ngừơi đã nói: “một chấm một phẩy cũng không bỏ qua” (Mt 5,18); hơn thế nữa, lại sùng “cái chấm cái phẩy bị bỏ qua” để luận tội! Nét khôi hài trong Ngày Phán Xét Chung là cả kẻ được thưởng lẫn người bị phạt đều…chối các hành vi của mình. Nhưng cũng “trơ tráo” thay những kẻ bị luận phạt: chúng đã nghe những gì Đấng Xét Xử nói trước đó với “cánh chiên cừu bên tay hữu”, mà vẫn không thể liên kết các sự kiện đơn giản như thế, để rồi vẫn cứ gân cổ cãi cối cãi chày! Nơi đây, lúc nầy, chẳng còn gì để nói!
Tri nhân tri kỷ, không phải để bách chiến bách thắng, mà để thấy rằng trong cuộc sống làm con cái Chúa, xét ra và so ra, chúng ta cũng “trơ tráo” không kém - nếu không muốn nói là vượt hơn và vượt xa - những người bị xếp vào “cánh dê bên trái” trong Ngày Phán Xét Chung. Hay là chúng ta phủ nhận Tứ Chung, coi đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ là lời hù doạ kiểu Ông Ba Bị? Chúng ta nói nhiều, rất nhiều, quá nhiều, về bác ái, yêu người, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Không ít tín hữu Công giáo mỉa mai “sư sãi và mục sư Tin Lành thích làm việc từ thiện để lên ti-vi”. Người Công giáo không theo thói giả hình và hám danh ấy! Người Công gíao không hám danh. Người Công giáo - nhiều lắm – chẳng làm gì cho những đối tượng mà Chúa Thẩm Phán nêu ra trong Ngày Phán Xét Chung. Cũng sẽ ”chẳng còn gì để nói”, vì trong một đời người tín hữu Công giáo, ít nhất cũng cả trăm lần nghe, đọc, được giảng dạy, khuyên giục thực hành nội dung bài Tin Mừng hôm nay. ”Giật mình mình lại thương mình xót xa" (Kiều, Nguyễn Du). Chỉ còn lại “xót xa”: Chúa xót xa thay cho chúng ta, cây vả không sinh hoa trái mà Chúa năn nỉ Chúa Cha gia hạn cho Ngừơi chăm sóc! Những người lành xót xa thay cho chúng ta! Biết bao tín hữu suy gẫm, tìm kiếm, giảng dạy những điều cao siêu trên trời, bay bỗng trên không trung, ở “ngoài hành tinh”, mà bỏ qua, mà bỏ quên – vô tình thì ít, mà chủ yếu là coi nhẹ - những điều đơn sơ, dễ thấy, dễ gặp và dễ làm nhất: sống tình người và tình con Chúa với những người bất hạnh.
Lạy Chúa Giêsu, nếu được cho phép, thì con sẽ xin gọi tất cả 26 quyển Tân Ước là “lý thuyết” và quyển thứ 27 - Thư Thánh Giacôbê Tông Đồ - là tóm lược và là “kim chỉ nam thực hành Lời Chúa”: Chúa Thẩm Phán dùng đề cương “kim chỉ nam” nầy để phán xét! Viễn cảnh Ngày Phán Xét Chung đáng hãi hùng và không ai thoát được là thế, hóa ra lại quá đơn giản và dễ thưc hành. Vì quá đơn giản, mà với nhiều người, nó đã thành cái bẫy chết người. Sẽ chẳng còn gì để nói, chẳng còn lý do gì để tự biện hộ và chẳng còn ai xót thương chúng con lúc bấy giờ nữa, vì chúng con đã chẳng hề biết xót thương ai!
65.Những gì ta làm cho anh chị em là làm cho chính Chúa--Lm. Trần Đình Nhi
Dùng dụ ngôn để diễn tả thái độ sẵn sàng của ta cho ngày phán xét, Chúa Giêsu đưa ta đến với khung cảnh ngày ấy diễn ra như thế nào. Người vẫn dùng dụ ngôn để nói lên một cách sống động cảnh phán xét, với cung cách uy nghi và lời lẽ tuyên án đanh thép của vị thẩm phán chí công là Con Người. Ta có cảm tưởng đây không còn là một dụ ngôn nữa, nhưng là một biến cố thực mà Chúa Giêsu cho ta thấy rõ trước khi mọi người phải có mặt tại đó và không thể tránh thoát. Phụng vụ Lời Chúa đã lấy bài Tin Mừng nói về cuộc phán xét chung làm đề tài suy niệm về vương quyền của Chúa Giêsu. Nếu hiểu theo cách khai triển của Tin Mừng Mát-thêu muốn trình bày Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Em-ma-nu-en), ta sẽ dễ dàng hiểu được những lời phán xét của Vua Giêsu, Thiên Chúa làm người sống giữa nhân loại cũng như mối quan hệ giữa ta với Thiên Chúa và với nhau.
a) Tiêu chuẩn để tuyên án: Những gì ta làm cho anh chị em là làm cho chính Chúa
Điểm đặc biệt trong cuộc phán xét là thái độ sững sờ ngạc nhiên của những người bị phán xét. Cả người lành lẫn kẻ dữ đều có cùng một phản ứng khi nghe Chúa tuyên án: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói, khát, trần truồng, đau yếu... đâu!” Nghĩa là người ta chỉ nhìn thấy anh chị em là anh chị em, chứ không nhìn thấy hình ảnh của Chúa trong anh chị em. Cái nhìn ấy rất quan trọng, vì nó có thể xác định ý nghĩa của việc ta làm. Nếu ta chỉ nhìn thấy anh chị em là anh chị em, hay nói khác đi, là những con người đói khát, trần truồng, đau yếu..., thì ta sẽ coi họ là những người cần được ta ban phát và họ phải chịu ơn ta. Nhưng nếu ta nhận ra được Chúa ở trong họ, thì họ không chỉ đơn thuần là những con người khốn khổ cần sự giúp đỡ của ta, mà là những người ta cần phải phục vụ như ta phục vụ chính Chúa.
Như thế, Chúa đã đồng hóa Người với mọi người trên thế giới và ta hiểu được ý nghĩa đích thực của mầu nhiệm Nhập Thể: Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1:14). Thiên Chúa chia sẻ với nhân loại mọi sự, Người muốn trở nên hoàn toàn giống như ta, ngoại trừ tội lỗi. Với thân phận làm Người, Vua Giêsu đã đến chia sẻ với anh chị em mình, nhìn anh chị em mình không phải như những kẻ cần được Người ban phát điều này điều kia, nhưng là những anh chị em đồng thừa kế với Người và Người có nhiệm vụ phải phục vụ họ. “Con Người không đến để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45). Chính sự chia sẻ này sẽ trở thành tiêu chuẩn Chúa dùng để tuyên án người lành kẻ dữ: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm (không làm) như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm (không làm) cho chính Ta vậy”.
b) Những điều để ta bị Chúa phán xét
Thật bất ngờ là khi nghe những điều Đức Vua tuyên án, ta không thấy đó là những điều lớn lao, mà là những điều thường nhật, lúc nào cũng gặp thấy trong cuộc sống hằng ngày của ta. Trong cuộc sống, thiếu gì những dịp ta gặp những người sống trong cảnh đói khát, đau yếu, tù đày, khách lạ... Không chỉ là những hoàn cảnh thể chất mà thôi, nhưng cũng là những hoàn cảnh tinh thần và tâm lý nữa. Người ta không chỉ đói khát cơm gạo nước uống, nhưng còn đói khát tình thương. Không chỉ đau yếu bệnh tật thể xác, nhưng còn mang bệnh hoạn tâm lý, tinh thần sa sút. Không chỉ bị giam cầm trong lao tù, nhưng còn bị giam hãm trong cô đơn, lẻ loi, kỳ thị. Không chỉ thiếu áo mặc bên ngoài, nhưng còn thiếu được kính trọng, bị tước đoạt nhân phẩm nhân quyền. Những người trong hoàn cảnh ấy ta có thể gặp hằng ngày. Nhưng ta không chỉ gặp thôi, mà còn phải ý thức sẽ làm gì trước những hoàn cảnh ấy. Ngày xưa Chúa Giêsu không ngoảnh mặt làm ngơ trước những hoàn cảnh ấy. Chúa đã làm hết sức để cứu vớt và xoa dịu khổ đau của con người. Tin Mừng Mác-cô viết về “một ngày của Chúa Giêsu tại Ca-phác-na-um” (Mc 1:21-45) cho ta biết Chúa thật bận rộn vì người khác. Người giảng dạy, khu trừ ma quỷ, chữa lành cho bà mẹ vợ ông Phê-rô. Sau đó, Người lại “chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ...” Đang khi di chuyển sang thành khác, Chúa còn chữa lành kẻ bị phong hủi đến xin Người.
Chúa luôn đáp lại nhu cầu của bất cứ ai khốn khổ và đến với Người. Người chẳng từ chối hay xua đuổi ai. Chỉ có một lần Người tỏ vẻ ngần ngại và “làm khó dễ” khi người đàn bà Ca-na-an đến xin Người trừ quỷ cho con gái bà (Mt 15:21-28). Nhưng Người cố ý làm như vậy để bà có dịp biểu lộ lòng tin mạnh mẽ của bà. Động lực khiến Người muốn đến với mọi người là vì “Người chạnh lòng thương”.
Nếu ta thiếu động lực cốt yếu “chạnh lòng thương” ấy, ta sẽ dễ dàng dửng dưng trước những đau khổ và khó khăn của anh chị em. Ta sẽ nhìn họ thuần túy như những con người chứ không phải là hình ảnh của Thiên Chúa. Ta sẽ nhắm con mắt thiêng liêng lại và tự bào chữa: Tôi có bao giờ thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống... đâu! Hoặc ta sẽ đưa ra những lý lẽ để từ chối giúp đỡ anh chị em. Thí dụ: thằng đó vào tù là đáng đời, vì ai bảo dính vào xì ke ma túy; hoặc: người khỏe mạnh thế kia mà không chịu đi làm, lại đi ăn xin...
c) Những điều ấy ta đã làm hay đã không làm?
Khi ta đứng trước mặt Đức Vua phán xét, Người không hỏi ta tại sao đã không làm những điều ấy cho anh chị em, nhưng Người chỉ xác định ta đã làm hay đã không làm những điều ấy, rồi căn cứ vào đó mà tuyên án ta. Nếu ta làm tức là ta đã theo gương Người, dấn thân trong Vương Quốc của Người. Như thế, câu truyện về phán xét đặt ta trong sự lựa chọn dứt khoát: theo Vua Giêsu để phục vụ tha nhân như Người đã phục vụ, hoặc theo lối sống ích kỷ của người đời không cần biết đến ai?
Vương Quốc của Vua Giêsu không phải là vương quốc ở đời này, nhưng là của tâm hồn, của tình yêu. Tình yêu là dấu hiệu để người ta nhận ra ta là môn đệ của Chúa Giêsu, là công dân của Triều Đại Thiên Chúa. Ta trở thành “khí cụ bình an” của Chúa để làm cho Vương Quốc của Người luôn được hiển trị.
Kết thúc một năm Phụng vụ không phải là chấm dứt, nhưng là một khởi đầu. Ta đã nhận biết Chúa Giêsu là Vua. Ta theo Người để đi chinh phục tất cả thế giới về cho Thiên Chúa. Ta được trang bị bằng một lối sống mới của Chúa Kitô Vua. Giờ đây ta hãy lên đường đến với anh chị em và nhận ra dung mạo của Chúa nơi anh chị em. Rồi ta sẽ đáp lại tất cả những gì anh chị em ta cần ta giúp đỡ. Đó là mệnh lệnh của Đức Vua, vì: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi có tập nhìn thấy hình ảnh Chúa trong anh chị em không? Tôi phải làm thế nào để nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi anh chị em? Bắt đầu tập tìm thấy Chúa nơi chính mình trước, để dễ dàng thấy Chúa nơi người khác?
Từ trước tới nay, tôi có hình ảnh nào về Vương Quốc của Chúa? Là Giáo Hội? Là lối sống và ảnh hưởng của Chúa Kitô mà tôi phải phản ánh? Là nối tiếp sự hiện diện của Chúa Kitô ở trần gian khi tôi bắt chước sống như Người?
Tôi có chương trình sống như thế nào sau khi nghe lời hiệu triệu của Vua Giêsu: “Mỗi lần anh em làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta vậy”?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,
làm chân tay cho những người què cụt,
làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
làm lỗ tai cho những người bị điếc,
làm miệng lưỡi cho người không nói được,
làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa,
để đem cơm cho người đói đang chờ,
và đem nước cho người họng đang khô,
đem thuốc thang cho người đang đau ốm,
đem áo quần cho người đang trần trụi,
đem mền đắp cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng,
thắp đèn soi cho ai bước trong đêm,
đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh,
truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi,
nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp,
đem tự do cho những kiếp đọa đầy.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con vào thôn xóm,
đem an hòa cho những ai bất thuận,
đem thanh bình cho kẻ sống âu lo,
đem ủi an cho người đang sầu khổ,
đem niềm vui cho những ai bất hạnh,
đem vận may cho người gặp rủi ro.
Lạy Chúa, xin cứ đặt con như một sự tình cờ,
đem may mắn cho những ai gặp được,
giữa đường đời khi lỡ bước bơ vơ,
cứ cho con đừng bao giờ khiếp sợ:
giữa biển đời mang con tim núi lửa
với đôi tay êm ái của mẹ hiền.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả
cho mọi người được hạnh phúc yên vui;
còn phần con xin gởi hết nơi Ngài
là Thiên Chúa, Tình Yêu và Lẽ Sống.
Ngài cho con tất cả niềm hy vọng
để tin yêu và vui sống trọn đời.” - NCĐ
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 118)
66.Chúa Giêsu, Vua Tình Yêu--An Phong
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật về cuộc phán xử cuối cùng. Như người chủ chăn phân tách chiên khỏi dê thế nào, thì Con Người cũng sẽ phân tách người lành khỏi kẻ ác như thế; tùy theo những công việc bé nhỏ mà họ đã làm cho một trong những người bé nhỏ nhất.
- Dường như chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất để phán xử, đó là "mến Chúa, yêu người"; hay nói cách khác, mến Chúa qua yêu người và yêu người tức là mến Chúa. Kitô giáo vốn là một "đạo yêu nhau"; con người bị (được) phán xử theo tình yêu.
- Dường như những thiếu xót vì thờ ơ với việc nhà thờ nhà thánh, vì mê tín dị đoan, vì mê đắm điều phàm tục… xem ra còn nhẹ tội hơn là không giúp đỡ một người anh em bé nhỏ. Thiên Chúa nghiêm khắc với những ai không có lòng trắc ẩn.
- Dường như trong ngày lễ Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, bài Tin mừng về ngày phán xử cuối cùng được đọc lên như là một nhắc nhở: "Thiên Chúa là Vua Tình yêu, vinh quang của Ngài là con người được sống và sống hạnh phúc" (thánh Irênê). Có lẽ Ngài không cần "nhang khói" tế tự, Ngài cần một tấm lòng. Bởi lẽ "Thiên Chúa tìm kiếm vinh quang không phải cho chính mình mà là cho chúng ta" (thánh Tôma Aquinô). Một vị Thiên Chúa tình yêu, đầy lòng trắc ẩn, hẳn sẽ vui lòng khi nhận ra lễ dâng là tấm lòng vị tha, bác ái.
- Nhưng, "nói bác ái" thì dễ, mà "thực hành bác ái" lại chẳng dễ chút nào; chẳng hạn:
* Cho một người nghèo năm ba ngàn đồng còn dễ hơn là cho một nụ cười trong bất cứ tình huống nào lại không dễ;
* Ra tay bảo vệ một người cô thế cô thân, đang bị ức hiếp (một hành vi anh hùng!), điều đó xem ra dễ hơn phải chịu đựng sự quấy rầy khó chịu của người khác.
* Một việc bác ái chẳng gây tổn hại gì quyền lợi của ta, ta làm được. Nhưng nếu việc bác ái đụng chạm đến "cái dạ dày của ta", ta sẽ phải ngần ngại đắn đo.
* Khi ta gặp khó khăn, ta dễ cảm thấy "quyền được hưởng bác ái". Khi người khác gặp khó khăn, ta không dễ cảm thấy "nghĩa vụ thi hành bác ái".
Lạy Chúa,
xin cho chúng con biết bước theo Vua Tình Yêu:
để, mỗi ngày một chút,
chúng con biết thi hành những điều bé nhỏ
cho những người bé nhỏ.
67.Chiên hay dê, người lành kẻ dữ--Đam. Nguyễn Đức Phú
Phụng vụ Chúa Nhật tuần cuối năm phụng vụ đề cập đến ngày cánh chung. Đức Giêsu lại đến trong thế gian để xét xử thế gian, để phân biệt người lành kẻ dữ. Người lành thì được Thiên Chúa cho hưởng sự sống vinh quang với Người, kẻ dữ thì chịu án phạt trần luân. Tuy bài tin mừng chỉ nói đến việc chăm sóc những kẻ hèn mọn: cho họ ăn, uống, mặc, thăm viếng khi tù đày, … nhưng đó lại là một lối nói đại ý để ám chỉ chung hết tất cả những việc làm đạo đức mà con người cần phải thực hiện cho nhau và những việc làm nào không nên làm. Những việc làm đạo đức như một chất liệu để xây đắp vững chắc cho ngôi nhà vĩnh cửu trong một vương quốc mà những người muốn được bước chân vào vương quốc đó phải dày công thực hiện. Thiên Chúa không chấp nhận cho những kẻ dữ tồn tại trong vương quốc của Người (c 41).
Qua bài Tin Mừng này, xin chia sẻ những ý tưởng sau:
1. Vua như mục tử săn sóc đoàn chiên mình.
Đức Giêsu được tôn vinh là Vua. Nhưng là vị vua không giống như bao vị vua chúa trần gian, dùng sức mạnh và quyền lực của mình để thống trị thần dân. Tước vị vua nơi đức Giêsu được ví như một người đứng đầu để dẫn dắt thần dân của mình. Cai trị thần dân không dùng đến sức mạnh hay quyền lực từ bản thân mình, nhưng là uy lực của tình yêu. Người mục tử hiểu đoàn chiên mình thế nào, biết đoàn chiên mình đang cần những gì, và sẵn sàng làm bất cứ thứ gì để lo cho đoàn chiên của mình dù phải hy sinh tính mạng khi gặp sói dữ, thì nơi đức Giêsu cũng thể hiện chính những điều đó. Và, chỉ có uy lực của tình yêu mới có thể khiến cho người mục tử dám hy sinh cả đến tính mạng của mình để bảo vệ, tìm sự an lành cho đàn chiên.
Nói cách khác, Đức Giêsu là vua vũ trụ nhưng là vị vua cai trị thần dân bằng sức mạnh của tình yêu. Bởi thế, trong vương quốc của Người, khi tình yêu được thăng hoa thì không có chỗ cho những bất công và hận thù. Chỉ có tình yêu mới có thể dẫn đưa dân đến nơi an bình. Chỉ có tình yêu mới nói lên rằng “nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi.”
2. Vua như vị thẩm phán xét xử công minh.
Đức Giêsu được tôn vinh là vua. Một vị vua của sự công minh chính trực, phân minh rõ ràng điều tốt và điều xấu, người lành kẻ dữ. Chiên và dê được phân tách để được lãnh thưởng và chịu án phạt. Người ngự đến trong vinh quang không phải là để ban ân sủng hay để cứu chuộc loài người, nhưng là một sự ngự đến để xét xử trần gian. Đối với những ai siêng năng làm việc và làm việc tốt, điều đó ắt sẽ được trọng thưởng. Đối với những kẻ ích kỷ, chỉ biết sống cho mình, nghĩ đến mình nhiều hơn kẻ khác, sẽ bị luận phạt một cách công minh.
Vua chúa trần gian xét xử theo quyền lực của mình, phân minh công trạng theo sự phán đoán của cá nhân, hoặc phán xét theo lối người thân nhẹ tội và được tha, kẻ ngoại bang nặng tội và chịu án phạt. Sự phán xét của Thiên Chúa không dựa trên những yếu tố đó. Người phán xét dựa trên giá trị lương tâm của mỗi con người. Người ta có thể lừa dối được nhiều người chung quanh, nhưng không ai có thể lừa dối được lương tâm của mình. Trong cuộc phán xét đó, sẽ không có chỗ cho những lời biện hộ gian dối, sẽ không tồn tại cho những lời biện hộ thiếu sự công bằng. Sự tố cáo nơi lương tâm mỗi con người trước nhan Thiên Chúa sẽ là những yếu tố chính để đức Vua, Thiên Chúa hiển trị, xét sử công minh.
Vào cuối năm phụng vụ, Giáo Hội muốn chúng ta nhìn lại cuộc sống của mỗi người để cải thiện. Cải thiện để trở nên tốt hơn, xứng đáng hơn để lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa đã hứa ban cho mỗi người chúng ta. Cải thiện cuộc sống mình để bình an trong cuộc phán xét của Thiên Chúa và cải thiện của sống để xứng đáng là thần dân sống trong nước Chúa.
68.Nước của Đức Giêsu ở chốn nào?--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
Ngày nay trên thế giới, rất ít nước còn chế độ quân chủ, vì thế, chỉ còn đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Ấy vậy mà đạo Công Giáo hằng năm lại mừng lễ Chúa Kitô là Vua Vũ Trụ vào Chúa Nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ! Tại sao vậy? Và, Đức Giêsu làm Vua như thế nào? Chúng ta có thuộc về dân trong đất nước của Ngài không?
1. Vị Vua lạ lùng
Mỗi khi mừng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về Đức Giêsu như là điểm quy chiếu, như cái tâm trong vòng tròn; như cùng đích của con người. Bởi vì Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa. Ngài là khởi đầu và cùng đích, là Anpha và Ômêga. Là Chủ Vũ Trụ; là Vua các vua, Chúa các chúa. Ngài làm Vua trong sự toàn thiện, hoàn mỹ.
Tuy nhiên, khi nói đến Đức Giêsu là Vua, chúng ta thấy Ngài là một vị Vua không như các vua chúa trần gian! Ngài là Vua, nhưng là một vị lạ lùng!
Lạ lùng lúc sinh ra trong cảnh nghèo nàn. Rong ruổi bôn ba khắp ngả đường. Đến nỗi: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20). Không thành quách, cung điện ngọc ngà.
Khi tổ chức vương triều thì lại không binh lính, cũng chẳng có kẻ hầu người hạ, lại càng không dùng vũ khí, sử dụng quyền lực, binh đao.
Ngược lại, cung điện lại được đặt trong lòng mỗi con dân. Thành quách là sự liên đới. Lãnh đạo bằng tình yêu và tha thứ. Luôn phục vụ người khác thay vì được người khác phục vụ mình.
Nhưng có lẽ điều làm cho người ta chú ý nhất đến Vị Vua hy hữu có một không hai này chính là: khi được mọi người tôn vinh làm vua thì không muốn, nên tìm cách trốn tránh. Đến khi mọi người thù ghét, bôi nhọ, bêu dếu, chẳng ai bênh vực, đỡ nâng và không ai muốn trao Vương Quốc cho mình thì lại khẳng khái tuyên bố mình là Vua và đến thế gian này chỉ vì một mục đích là làm chứng cho sự thật (x. Ga 18, 36).
Tuy nhiên, ngược đời ở chỗ: Nước của Vị Vua ấy lại “không bao giờ cùng” “vô biên cương”, “không ranh giới” và “không thuộc thế gian này”.
Trong nước ấy, chỉ có sự thật, công lý, bình an và tình yêu ngự trị. Thần dân là tất cả những ai thuộc về đặc tính trên (x. Ga 18, 36).
Tất cả những điều lạ lùng đó, Đức Giêsu muốn mặc khải cho chúng ta biết: Ngài là Vua sự thật; đồng thời, Ngài mời gọi chúng ta đứng về phía sự thật để được gia nhập đoàn dân của những người yêu mến công lý.
2. Vua Sự Thật
Sự thật mà Đức Giêsu mang đến và mời gọi là gì? Thưa, đó là: mặc khải cho nhân loại biết sự thật, một sự thật được xây dựng trên tình yêu. Vì thế, Ngài đã chấp nhận đánh đổi ngay cả mạng sống của mình để biểu hiện tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.
Thật vậy: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Khi Ngài đến, Ngài đã yêu thương họ đến cùng và chấp nhận đánh đổi chính cái chết trên thập giá để làm chứng cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi, nghèo khó, bị áp bức, bóc lột... Vì tình yêu không giới hạn và vô biên, nên Đức Giêsu đã gọi những người đó là bạn hữu và chấp nhận chết cho bạn hữu của mình được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,7-10; 15, 9-15). Quả thật: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13)
Sự thật ấy nhằm diễn tả đặc tính của tình yêu trong một Vương Quốc khác chứ không phải nơi trần gian.
Điều này đã được Đức Giêsu nói trước quan toàn quyền Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Dothái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này" (Ga 18, 36).
Vì thế, vinh hoa, phú quý, sung túc, sang giàu, quyền lực và ngay cả sự sống trần gian này chẳng đáng gì đối với sự sống vĩnh cửu trong Nước của Chúa.
Và, như một sự tất yếu, muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Trong thời đại hôm nay, việc sống chứng nhân cho sự thật không phải là chuyện dễ! Lại càng khó hơn nữa khi trong một xã hội tình yêu luôn bị đánh cắp, nghi ngờ và bị lợi dụng!
Bởi vì: người ngay thẳng, trung thực thì thường thua thiệt, và bị coi là ngu dốt, còn kẻ gian dối lại được coi là khôn ngoan... Sống man trá mà thành công thì được tưởng thưởng, còn vì sự thật mà bị thất bại thì bị khiển trách...
Đứng trước một xã hội như thế, hẳn sống đời chứng nhân cho Chúa quả là khó! Tuy nhiên, dù khó, chúng ta vẫn phải thi hành vì đây là hành vi mang tính quyết định thuộc về hay khước từ... Khi sống vì chân lý, ấy là lúc chúng ta chấp nhận lội ngược dòng để làm chứng cho sự thật và tình yêu của Thiên Chúa trong bối cảnh hiện nay.
Thật vậy, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người được trở thành thần dân của Đức Giêsu và trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, đồng thời được mời gọi sống đặc tính của Nước ấy trong cuộc sống đời thường của mình. Vì thế, hẳn chúng ta phải mặc lấy Ngài và những tâm tình của Ngài như: từ bi, nhân hậu, hiền lành, nhẫn nại, bao dung, chết đi cho tính xác thịt, ý riêng và ra khỏi chính mình, từ bỏ tính kiêu ngạo, hóng hách để cúi xuống rửa chân cho cả kẻ thù. Sẵn sàng yêu thương, làm phúc cho kẻ đói ăn, khát uống. Nâng đỡ những người thấp cổ bé họng, chân yếu tay mềm, nhân phẩm bị trà đạp...
Quyết tâm đứng lên để bảo vệ những người không có tiếng nói... Chấp nhận vì sự thật mà bị bách hại, vu khống đủ điều xấu xa.
Nếu thế gian chống đối lại sự thật, vì sự thật làm cho họ thua thiệt, thì chúng ta, không bao giờ được thỏa hiệp với bất công dù dưới bất kỳ hình thức hay nhãn giới nào...
Khi làm chứng cho Đức Giêsu trong sự thật như thế, hẳn chúng ta sẽ không thể thoát được số phận phải chết như Thầy của mình, tuy nhiên: "... can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16,33). Thật thế, chỉ trong sự thật, chúng ta mới được vào Nước Trời và được Đức Giêsu tuyên bố nhận chúng ta trước mặt Chúa Cha và Triều Thần Thiên Quốc: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta" (Mt 25, 34-37).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Vua Vũ Trụ, xin cho con được yêu mến và ham thích đường lối sự thật và tình yêu của Chúa, đồng thời biết chia cơm sẻ bánh cho người nghèo khổ.
Ước gì khi làm những điều đó trong lòng mến, chúng con sẽ được vào Vương Quốc của Vua tình yêu và sự thật để được sống đời đời. Amen.
69.Lễ Chúa Kitô Vua--Để suy tôn vương quyền của Chúa Giêsu--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Vào ngày tận thế, sau khi các thiên thần tập họp mọi người đã chết được sống lại, Vua Giêsu sẽ ngự đến lần thứ hai trong uy quyền và vinh quang. Người sẽ trở thành thẩm phán để phán xét chung mọi người (31), dựa trên cách họ đã ứng xử với Người đang hiện thân nơi những người nghèo đói, bệnh tật và đau khổ cả về thể xác cũng như tâm hồn (40.45).
CHÚ THÍCH:
- C 31: + Khi Con Người đến trong vinh quang của Người: Đức Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian 2 lần: Lần thứ nhất cách đây hơn 2000 năm tại nước Do thái để thiết lập Nước Trời. Người mở ra con đường lên trời là đường mến Chúa yêu người (x Mc 8,34). Người truyền cho các môn đệ loan báo Tin Mừng khắp thế gian. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh ở trần gian và là Thiên Đàng đời sau. Người cũng hứa sẽ đến lần thứ hai để làm Vua Thẩm Phán (x Mt 16,27), thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ (x Mt 25,31-32).
- C 32-33: + Người sẽ tách biệt họ với nhau như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái: Bấy giờ Đức Giêsu như người Mục Tử sẽ phân chia muôn dân thành hai lọai người là “chiên và dê”. Chiên và dê là hai lòai vật giống nhau. Nhưng đặc tính của con chiên là hiền lành, còn đặc tính của con dê là hay phá phách chuồng trại. Về amawtj kinh tế, chiên có giá trị hơn dê nhờ có bộ lông dầy được thợ cắt xén từng thời kỳ. Lông chiên được dùng làm len, được đan thành áo ấm.
- C 34: + Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha ta chúc phúc…: Những người được xếp bên phải là những tín hữu sống theo “Tám Mối Phúc thật” (x. Mt 5,1-12), thực hành bác ái phục vụ Chúa hiện thân trong những người đau khổ bất hạnh (x Mt 25,35-36). Còn những người bên trái tượng trưng những kẻ vô tín, thể hiện qua thái độ làm ngơ trước những người đau khổ bất hạnh của tha nhân (x Mt 25,41-45).
CÂU HỎI: 1) Theo Tân Ước, Đức Giêsu đến trần gian mấy lần? Mục đích đến mỗi lần là gì? 2) Trong ngày tận thế khi đến lần thứ hai, Đức Giêsu sẽ phân chia lòai người thành hai lọai là những lọai nào? Số phận những người loại “chiên” khác với những kẻ loại “dê” thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi đã không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,45).
2. CÂU CHUYỆN: 1) Nếu tôi biết là Ngài…
Nen-Sân Mên-Đơ-La (Nelson Mandela) là Tổng thông da đen đầu tiên tại một đất nước nổi tiếng về tệ nạn “phân biệt chủng tộc” là Nam Phi. Khi còn là một thanh niên, Men-đơ-la đã là lãnh tụ của đảng có tên “Quốc hội Châu Phi” (ANC) đã bị nhà cầm quyền cấm họat động. Vì đang ở trong thời kỳ đấu tranh giành quyền lực với đảng cầm quyền, nên NEN-SÂN buộc phải cải trang để hoạt động bằng cách ăn mặc và hóa trang thành nhiều người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Ông tin rằng khi hóa trang như thế, người ta sẽ không nhận ra ông, để ông có thể đi nhiều nơi trong nước.
Lần kia, khi đi dự một cuộc họp kín tại một vùng quê nghèo là Gio-Han-Nét-Bớc (Johannesberg), do một linh mục sắp xếp để Nen-Sân nói chuyện về cách mạng với một số thanh niên Công giáo. Khi ông đến nơi, người phụ nữ giữ cửa thấy cách ăn mặc lôi thôi đã không nhận ra và từ chối mở cửa với lý do: “Ở đây không có chỗ cho lọai người như ông”. Nói xong chị ta đóng sầm cửa lại trước mặt ông. Nhưng sau khi được biết người mới đến kia là ai, chị ta đã vội quay lại nói với ông: ”Xin lỗi ngài về sự thất kính của tôi khi nãy, vì tôi đã không nhận ra ngài. Nếu như tôi biết đó là ngài, thì tôi đã mở rộng cửa ra đón và phục vụ ngài chu đáo rồi”.
Tuy nhiên, dù ông đã cố giả dạng trở thành nhiều người khác, nhưng vẫn có người nhận ra ông. Một hôm, khi ông giả dạng làm một người tài xế ở Gio-han-nét-bớc dừng xe đón khách ở một góc phố, ông mặc áo khoác bụi bặm và đội một chiếc mũ nhàu nát, thì bỗng thấy một viên cảnh sát xuất hiện. Ông nhìn quanh để tìm cách thoát thân. Nhưng rất may khi viên cảnh sát kia lại mỉm cười và lén đưa tay lên chào theo kiểu ANC, rồi bước theo một hướng khác. Những chuyện như vậy xảy ra nhiều lần, và Nen-Sân cũng tạm yên tâm vì biết rằng có nhiều người Châu Phi đang ủng hộ con đường đấu tranh chống tệ nạn phân biệt chủng tộc của ông. Cuối cùng sau khi bị bắt ở tù nhiều năm, Mên-Đơ-La đã được trả tự do và đã chiến thắng trong một cuộc bầu cử công bằng để trở thành vị Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng đang ẩn mình dưới nhiều hạng người đau khổ bất hạnh. Vậy bạn có nhận ra Chúa và ân cần phục vụ Người cách chu đáo không?
2) Suy tôn vương quyền của Chúa Giêsu:
Giữa công trường Thánh Phêrô ở La Mã có một ngọn tháp cao chót vót mang một cây Thánh giá vươn lên giữa trời xanh. Ngọn tháp có từ đời Hoàng đế Ca-li-gu-la, được đưa về dựng giữa công trường năm 1586. Trên ngọn tháp có khắc ba câu như sau:
Christus vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus regnat: Chúa Kitô hiển trị.
Christus imperat: Chúa Kitô thống quản.
Ngày nay, trong Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, Hội thánh tôn vinh Chúa Giêsu Con Thiên Chúa chính là Vua của toàn thể vũ trụ. Người cũng là Vua lòng của mỗi tín hữu chúng ta.
3. SUY NIỆM:
Hôm nay là Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Hội thánh mừng lề Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ để nhắc nhở cho mọi người hãy suy tôn, phục vụ và đi theo Người, đồng thời phải chuẩn bị đón Chúa sẽ đến trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm phán xét xử kẻ sống và kẻ chết. Đức Giáo hòang Piô XI đã thiết lập lễ Kitô Vua vào ngày 11.12.1925 trong bầu khí tạ ơn và hân hoan mừng Năm thánh 1925. Sở dĩ Đức Thánh Cha thiết lập lễ này vì vào thập niên đầu thế kỷ 20, thế giới phải đối diện với trào lưu tục hóa và các chủ thuyết vô thần. Về phía Giáo hội, qua việc mừng kính tước hiệu Vua của Chúa Giêsu, Hội thánh tuyên xưng vương quyền của Người trên mọi người, mọi gia đình, mọi xã hội và dân tộc trên thế giới.
1) Đức Giêsu là Vua:
- Sau phép lạ bánh ra nhiều, dân chúng phấn khởi muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua Thiên Sai. Nhưng Người đã lẩn tránh vì Người không đến để làm ông vua thế tục như dân Do thái đang mong đợi. Người chỉ nhận mình là Vua khi đứng trước toà án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô. Ông ta hỏi Đức Giêsu: “Ông là vua dân Do thái sao?” Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này” Ông Phi-la-tô liền hỏi: Vậy ông là vua sao?” Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,33-36).
- Ngoài ra, Phi-la-tô khi tuyên án tử hình thập giá cho Đức Giêsu, ông còn truyền viết tấm bảng gắn phía trên đầu Người hàng chữ I.N.R.I. viết tắt của câu tiếng La tinh nghĩa là “Giêsu Na-da-rét Vua dân Do thái”. Qua đó ông ta công nhận Đức Giêsu là Vua, mà ngai vàng của Người là cây thập giá. Từ trên cao, Người giang hai tay ra như để ôm lấy dân Người. Người công bố quyết định miễn xá tội cho các tù nhân qua lời cầu xin với Chúa Cha: ”Lạy Cha, xin tha cho họ, Vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đức Giêsu đã tha thứ cho người gian phi có lòng sám hối: “Tôi bảo thật anh: hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).
2) Vương quốc của Vua Giêsu:
- Vương quốc của Đức Giêsu thiêng liêng:
Nghĩa là không thuộc về thế gian vì không có lãnh thổ, không có quân đội, không biên giới và tồn tại mãi mãi như trong kinh tin kính: ”Nuớc Người sẽ không bao giờ cùng”.
- Vương quốc ấy là Hội Thánh hôm nay và Thiên Đáng mai sau:
Mỗi tín hữu chúng ta có bổn phận gia nhập làm thần dân của Vương quốc Nước Trời và có bổn phận làm cho Vương quốc ấy ngày một lan rộng, như kinh Lạy Cha: “Chúng con nguyên Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”.
- Bổn phận của các tín hữu:
Mỗi người phải làm thế nào để mời Chúa Giêsu đến làm chủ tâm hồn mình, bằng việc năng cầu nguyện với Chúa, tham gia sinh hoạt trong các hội đoàn công giáo tiên hành, để nhờ suy niệm Lời Chúa, cầu nguyện xin ơn Thánh Thần giúp thánh hóa bản thân, tích cực góp phần cải thiện môi trường xã hội mình đang sống và thực hành các công tác tông đồ bác ái, để Vương quyền của Chúa Giêsu cũng được nhiều người tin nhận.
3) Đức Giêsu là Vua Mục Tử:
- Đức Giêsu là Vua Mục Tử nhưng không giống như các ông vua trần gian, mà là ông Vua Mục tử nhân lành như sấm ngôn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trên đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất Ta sẽ đi tìm, con nào đi lạc Ta sẽ đưa về. Con nào bị thương Ta sẽ băng bó, Con nào bệnh tật Ta sẽ làm cho mạnh. Con nào béo mập, con nào khỏe mạnh. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm, con nào đi lạc Ta sẽ đưa về, con nào mạnh con nào béo mập Ta se canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16).
- Đức Giêsu là Vua Thiên Sai: Người tuy là Thiên Chúa, nhưng đã khiên hạ vâng phục ý Chúa Cha để sẵn sàng hiến thân chịu chết trên cây thập giá hầu cứu chuộc muôn dân, đưa họ về làm con Thiên Chúa trong nước Trời hằng sống. Thánh Phao-lô đã ca tụng Đức Giêsu Vua như sau: ” Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đát, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,10-12).
- Vương quốc là Vương quốc tình thương: Đặc điểm của công dân trong nước Trời là đón nhận mọi hạng người, đặc biệt là những người nghèo đói, bất hạnh, bệnh tật, tội lỗi... Chính Đức Kitô Vua Mục tử, cũng tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn này và mời gọi các thần dân của Người phải thể hiện đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mến như sau:”Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Tiêu chuẩn để xác định một người thuộc Vương quốc của Người là những hành động yêu thương khiêm nhường phục vụ như: quan tâm để chía sẻ tinh thần vật chất, thăm viếng để an ủi và chia sẻ với những người nghèo hèn và bị bỏ rơi.
4) Chuẩn bị đón Chúa đến thế nào?
- Sẵn sàng đón Chúa đến cách bất ngờ:
Mối ngày luôn ý thức Chúa sẽ đến với mỗi người chúng ta vào giờ chết cách bất ngờ. Do đó chúng ta cần ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa đến như người đầy tớ canh thức chờ chủ đi ăn cưới về lúc đêm khuya. Cần chuẩn bị cây đèn đức tin chứa sẵn dầu ân sủng nhờ việc năng cầu nguyện suy niệm Lời Chúa và lãnh nhận các phép bí tích như xưng tội và rước lễ mỗi ngày. Nhờ đó chúng ta sẽ có một cái nhìn đức tin để thấy Chúa Giêsu đang hiện thân nơi những người đau khổ bất hạnh, rồi tận tình phục vụ họ như phục vụ chính Chúa Giêsu.
- Sống yêu thương noi gương Mẹ Têrêsa:
Khi còn sống, nữ tu Têrêsa Can-quýt-ta (Therese Cancutta) rất tâm đắc với đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay về việc Chúa Giêsu sẽ đến làm Vua Thẩm Phán để ban thưởng kẻ lành và phạt kẻ gian ác. Mẹ luôn bị những người đau khổ và bất hạnh lôi cuốn sự quan tâm. Dưới mắt mẹ Têrêsa, những người này không những đáng thương, mà còn là hiện thân của Đức Giêsu đang chịu đau khổ và bị bỏ rơi trên cây thập giá. Nơi mẹ, tình yêu Đức Giêsu và tình thương đối với những người bất hạnh luôn hòa quyện vào nhau. Càng yêu Chúa nhiều bao nhiêu thì mẹ lại càng yêu thương các người bệnh tật và đau khổ bấy nhiêu. Mẹ thường khuyên các chị em nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái như sau: “Chị em cần tập nhìn thấy Đức Giêsu trong mỗi con người bất hạnh mà chị em đang phục vụ, dù họ có đáng kinh tởm đến đâu đi nữa”.
4. THẢO LUẬN: Một giáo sư đại học ở Chi-ca-gô Hoa Kỳ đã đặt cho các sinh viên câu hỏi sau đây: “Bạn hãy cho biết: Gần đây nhất, bạn đã giúp đỡ cụ thể cho một người nào đang cần trợ giúp không?” Đây là một câu hỏi quan trọng mà mỗi buổi tối chúng ta cần phải tự hỏi mình, rồi ăn năn sám hối và quyết tâm sống tình bác ái yêu thương là điều kiện để sau này chúng ta sẽ được hạnh phúc đời đời trong Nước Chúa.
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ. Nếu Chúa thật sự là Vua của hơn một tỉ người Công giáo, thì thế giới chúng con đang sống đã biến thành thiên đàng từ lâu rồi. Chúng con chưa làm dậy men cho khối bột xã hội không phải vì số lượng men còn ít, cho bằng vì men Tin Yêu nơi chúng con đã bị quá “đát”, bị chai lì và mất phẩm chất rồi. Chúng con phải gánh chịu trách nhiệm về tình trạng sự dữ đang tràn lan khắp nơi, mà trong đó một phần là do lỗi của chúng con. Chúng con chỉ biết khoanh tay kêu cầu cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không tích cực làm cho Nước ấy sớm hình thành và phát triển từ nơi bản thân ra đến môi trường sống chung quanh.
- Lạy Chúa. Nhiều lần con đã tự biện hộ về những thiếu sót bổn phận khi nói rằng: “Lực bất tòng tâm: Làm sao tôi có thể vào trong tù để thăm nuôi tù nhân? Làm sao tôi dám chứa chấp những khách lỡ đường không giấy tờ tùy thân vào ở trọ trong nhà? Tôi lấy đâu ra tiền để có thể chăm sóc những bệnh nhân bị AIDS hay phong cùi? …” Lạy Chúa, nếu con cứ lý luận như thế thì chắc con sẽ không làm gì hết. Nhưng có biết bao công việc đang trong tầm tay của chúng con như: giúp đỡ tiền bạc cho một người cơ nhỡ, làm biển báo nguy bị sụt cống trên đường, giới thiệu Chúa cho một người lương đang tìm kiếm Chúa… Và còn biết bao những việc khác tương tự... Xin cho con biết luôn quan tâm tới người bên cạnh, và sẵn sàng chia sẻ tình thương với họ, hầu xứng đáng trở nên môn đệ thực sự của Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
70.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Chúa nhật 34 là Chúa nhật lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, đồng thời cũng là Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng Vụ. Giáo hội hướng chúng ta về ngày chung cuộc của con người và toàn thể vũ trụ. Đó chính là ngày Tận thế. Trong ngày đó, mỗi người sẽ phải đối diện với cuộc phán xét chung do chính Vua Giêsu làm Thẩm Phán.
Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Mathêu cho chúng ta thấy quang cảnh của ngày phán xét chung đó. Đức Giêsu sẽ ngự đến trong vinh quang và chung quanh Người có các Thiên thần hậu cận. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải, còn dê ở bên trái: chiên là những người lành thì được thưởng trên Thiên đàng, còn dê là kẻ dữ sẽ bị phạt xuống Hỏa ngục (x. Mt 25,31).
Để đón chờ ngày Tận thế, ngày vị Thẩm Phán Giêsu ngự đến, chúng ta cần phải xác tín và thực hành những điều sau đây:
Thứ nhất, chúng ta luôn phải xác tín rằng có ngày Tận thế: Vấn đề này chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Đức Giêsu cũng nói về ngày Tận thế rằng: “Và cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong ngày của Con Người cũng sẽ xảy ra như vậy.” (Lc 17,26). Người cũng nói với các Tông đồ: Thầy đi để dọn chỗ cho anh em và Thầy lại đến để đem anh em về với Thầy (x. Ga 14, 2-3). Tin mừng Thánh Mathêu hôm nay cũng cho biết: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.”(Mt 25,31). Như vậy, có ngày Tận Thế, nhưng ngày đó đến lúc nào thì chúng ta không biết được. Chúng ta cần phải xác tín như vậy.
Thứ hai, vào ngày Tận thế, Đức Giêsu là vị Thẩm Phán sẽ xét xử toàn thể nhân loại: Thánh Phaolô khẳng định: “Tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng, trước tòa Đức Ki-tô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác” (2 Cr 5:10). Về vấn đề này, Đức Giêsu cũng đã nói rõ ràng qua dụ ngôn những nén bạc (x. Mt 25,14-30). Qua dụ ngôn này, ông chủ chính là Đức Giêsu. Cuộc hành trình ông chủ đi xa chỉ việc Người về với Chúa Cha. Các đầy tớ là những người tin vào Đức Giêsu. Những nén bạc được trao cho các đầy tớ là những khả năng Chúa ban. Những nén bạc được các đầy tớ sinh lãi là những việc tốt chúng ta đã làm khi tận dụng các khả năng của mình. Sự trở về của ông chủ là việc Đức Giê-su trở lại trong ngày Tận thế. Khi đó, ông chủ tức là Đức Giêsu sẽ phán xét con người tùy theo công nghiệp của họ. Đầy tớ thứ nhất và thứ hai là hiện thân của những người được thưởng. Còn đầy tớ thứ ba là hiện thân của những người bị phạt. Như vậy, mỗi người chúng ta luôn phải nhớ rằng, vào ngày Tận thế, Đức Giêsu là vị Thẩm Phán sẽ xét xử chúng ta theo nguyên tắc: “Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng”: Có công thì được thưởng, có tội thì bị phạt. Nhờ đó, chúng ta luôn cố gắng làm lành lánh dữ.
Thứ ba, tiêu chuẩn để được thưởng và lý do bị phạt là luật bác ái: Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đồng hòa Người với những kẻ bé mọn. Nên những ai giúp đỡ những kẻ bé mọn là giúp đỡ chính Người. Vì thế, Người nói với những kẻ lành rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta.” (Mt 25,34-36.40). Ngược lại, Người nói với những kẻ dữ rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!… Mỗi lần các ngươi đã không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.”(Mt 25,41-43.45). Tóm lại, tiêu chuẩn để Đức Giêsu phán xét là luật bác ái yêu thương.
Thứ tư, chúng ta phải làm gì để đón chờ ngày Tận thế? Có ngày Tận Thế và ngày đó đến một cách bất ngờ như kẻ trộm (x. 2 Pr 3,10). Vì thế, chúng ta phải siêng năng làm việc để sinh lãi những vốn liếng Chúa trao như người đầy tớ thứ nhất và thứ hai trong dụ ngôn những nén bạc (x. Mt 25,14-30). Chúng ta phải có thái độ như người đầy tớ tỉnh thức đợi chủ đi ăn cưới về hay như chủ nhà tỉnh thức để canh chừng kẻ trộm (x. Lc 12, 35-40). Chúng ta phải chuẩn bị dầu đèn đầy đủ như năm cô trinh nữ khôn ngoan (x. Mt 25,1-13). Đặc biệt, mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực thi bác ái yêu thương, vì đó là tiêu chuẩn để chúng ta được vào Thiên đàng. Trong bài giảng “ngày quốc tế người nghèo lần thứ nhất” tại Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng định rằng: “Người nghèo là thông hành vào cửa Thiên đàng của chúng ta.” Và Ngài nhắn nhủ mọi người: “Thiên Chúa ban cho chúng ta các nén bạc, các khả năng, cần phải tận dụng và phát triển để mưu ích cho tha nhân, nhất là cho người nghèo… Yêu thương người nghèo như thế có nghĩa là chiến đấu chống lại mọi thứ nghèo đói tinh thần cũng như vật chất.”
Lạy Chúa Giêsu là Vua Tình Thương, xin cho mỗi người chúng con luôn biết sống đức ái trong cuộc sống hằng ngày để mai sau chúng con có được giấy thông hành vào nước Thiên đàng với Chúa. Amen.
71.Chúa Giêsu, Vua Tình Yêu--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Tuần lễ cấp cao APEC 2017 diễn ra tại Đà Nẵng từ ngày 6 đến 11/11/2017, có các nhà lãnh đạo cấp cao của 21 nền kinh tế thành viên, trong đó có tổng thống Mỹ, Nga, chủ tịch Trung Quốc… và các quan chức khác trong và ngoài nước đến tham dự. Vì thế, để đảm bảo an ninh cho sự kiện quan trọng này, hơn 500 lính cứu hỏa, 800 cảnh sát giao thông và 1.500 cảnh sát cơ động, đặc nhiệm làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh tại Đà Nẵng. Học sinh, sinh viên nhiều trường ở Đà Nẵng cũng được nghỉ hai ngày 10 và 11/11 nhằm đảm bảo an ninh cho các nguyên thủ quốc gia đến. Ngoài ra, khi các nguyên thủ các nước đến, họ đem theo rất nhiều kẻ hầu người hạ, lính đặc nhiệm, lính mật vụ, chó nghiệp vụ, chuyên cơ, các loại vũ khí tối tân, các siêu xe dàn “khủng”, hạng siêu sang với những chức năng đặc biệt, chống đạn, chốn vũ khí sinh học, chống ám sát... hầu bảo vệ tuyết đối an toàn cho “các vua, chúa” trần gian của họ.
Hôm nay, Tuần lễ cuối cùng của Năm Phụng vụ, cùng với Giáo Hội Mẹ, chúng ta mừng kính trọng thể Lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ. Nhưng các Bài Lời Chúa mô tả vị Vua Giêsu mà chúng ta tôn thờ không phải như các vị vua, chúa, Tổng thống, chủ tịch một nước có nhiều lính tráng, vũ khí tối tân, các phương tiện chống đạn hiện đại hay sang trọng bậc nhất nhằm phục vụ và bảo vệ an toàn cho Vua Giêsu, nhưng quanh Ngài chỉ là các Tông đồ chài lưới và dân nghèo. Ngài đơn sơ, hiền lành, yêu thương phục vụ và sẵn sàng hiến mạng đề cứu độ tất cả mọi thần dân của Ngài. Cho nên, Ngài cai quản, chăm sóc và gìn giữ thần dân của mình không bằng binh hùng, tướng mạnh, không bằng vũ lực hay bạo lực mà bằng một Trái Tim Nhân Ái, bằng sự hiến thân, phục vụ và cho đi. Thần dân của Vua Giêsu Kitô bao gồm tất cả nhân loại, không phân biệt tuổi tác, giới tính, ngôn ngữ, màu da, chủng tộc. Vương Quốc của Ngài không biên giới. Tình Yêu của Vua Giêsu dành cho thần dân qua việc Ngài hiến giá máu của Ngài để nên của lễ đền tội, Ngài hiến chính thịt máu của Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn và thân xác chúng ta mọi ngày và mọi thời. Vì vậy, đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, của lịch sử nhân loại và Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Vì chưng, chỉ có Chúa Giêsu là Đấng trung gian duy nhất giao hòa giữa trời với đất. Ngài đã nhập thể để rao truyền Tin Mừng cứu độ và là Đấng cứu độ duy nhất. Ngài mở lối dẫn chúng ta vào hưởng niềm vui hạnh phúc trong Nước Chúa.
Thử hỏi Nước Chúa là nước nào, ở đâu? Thưa, Sách Tin Mừng kể rằng khi Đức Giêsu bị điệu ra trước tổng trấn Phi-la-tô, Ông Phi-la-tô hỏi Người: "Ông có phải là vua dân Do-thái không?" Ông đã làm gì?" Đức Giê-su trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi" (Ga 18,33.36). Chúa Giêsu nói Nước Chúa không thuộc về thế gian, có nghĩa là bất cứ nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng không thể đồng hóa với Nước Chúa. Nước Chúa ở trong các tâm hồn, những tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Chúa Giêsu. Cho nên, muốn lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta phải ở trong Chúa và dõi theo đường lối của Ngài. Đường lối của Chúa là đường lối yêu thương phục vụ mọi người. Cụ thể, Lời Chúa trong bài đọc 1, Ngôn sứ Êdêkien nói ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng sẽ chăm sóc chiên của Chúa. Chúa sẽ kéo chúng khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Con nào bị mất, Chúa sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Chúa sẽ đưa về; con nào bị thương, Chúa sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Chúa sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Chúa sẽ canh chừng. Thế rồi, khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, là Vua Giêsu, Ngài đã chăm sóc thần dân của Ngài như Chúa Cha bằng việc sinh ra ngoài đồng, ăn đon đả, ở ngoài đường và chết ngoài đồi vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta. Qủa thế, Vua Giêsu đến trần gian, Ngài không ở trong cung điện hay toà nhà nguy nga lộng lẫy có kể hầu người hạ, có các phương tiện tối tân bảo vệ, nhưng Ngài sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo, Ngài đến với dân chúng để rao giảng Tin Mừng cứu độ, Ngài đến với người nghèo khổ để an ủi họ, cho kẻ đói ăn, chữa lành các bệnh tật, đến với những người tội lỗi kêu gọi họ ăn năn, chăm sóc cô nhi quả phụ, tha tội cho tội nhân, cho kẻ chết sống lại và chính Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại để cho muôn người được sống và sống dồi dào. Cho nên, Chúa Giêsu trong Tin Mừng, Ngài khẳng định rằng con đường yêu thương là con đường tuyệt hảo dẫn vào Nước Trời. Chiên và dê, thiên đàng và hỏa ngục là hình ảnh tượng trưng người tốt kẻ xấu. Và tiêu chí duy nhất để Chúa phán xét và thưởng phạt đó là những việc làm bác ái với tha nhân, nhất là những người nghèo của Chúa. Cho nên, trong bài giảng thánh lễ Ngày quốc tế người nghèo lần thứ nhất, cử hành này Chúa Nhật 19-21 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định: “Trước con mắt trần gian người nghèo ít có giá trị, nhưng họ lại là những người mở ra cho chúng ta con đường về trời, họ là thông hành vào thiên đàng của chúng ta…. Thiên Chúa ban cho chúng ta các nén bạc, các khả năng, cần phải tận dụng và phát triển để mứu ích cho tha nhân, nhất là cho người nghèo… Yêu thương người nghèo như thế có nghĩa là chiến đấu chống lại mọi thứ nghèo đói tinh thần cũng như vật chất”.
Mừng lễ Chúa Ki-tô Vua hôm nay, trước tiên chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi và cho ta trở thành thần dân của Vua Giêsu Kitô, chúng ta cũng cảm tạ Thiên Chúa đã tuôn đổ muôn phúc lành xuống trên chúng ta, trên gia đình, cộng đoàn và Giáo Hội trong suốt một năm phụng vụ; đồng thời, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những thiếu xót trong bổn phận của một công dân trong Vương Quốc của Ngài; đặc biệt là những bổn phận của mình đối với gia đình, đối với giáo xứ, Giáo hội và xã hội bằng những việc hy sinh bác ái, bằng những đóng góp tài năng –công sức của mình. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết sống xứng đáng là thần dân của Chúa như lòng Chúa ước mong bằng việc nỗ lực từng ngày để nên trọn lành nhờ làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong Đức Kitô bằng việc: yêu thương thay cho ghen ghét, tha thứ thay cho hận thù, hy sinh thay cho ích kỷ, hiệp nhất thay cho chia rẽ…Đồng thời hãy luôn biết rộng mở trái tim và đôi tay yêu thương nhân ái bằng việc đến thăm viếng, an ủi, sẻ chia tinh thần cũng như vật chất để đỡ nâng những người nghèo khổ đang ở bên ta ngõ hầu trong ngày sau hết, Vua Giêsu cũng sẽ nói với chúng ta rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han". Với niềm tin ấy, chúng ta cùng nhau tuyên xưng Đức Tin.
72.Kitô Vua
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta nhận thấy Đức Kitô chính là vị Vua sẽ đến để xét xử chúng ta. Đồng thời số phận đời đời của chúng ta hoàn toàn tuỳ thuộc vào thái độ cư xử đối với những kẻ hèn mọn, đói khát, đau yếu và tù tội: Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thuở đời đời. Hơn thế nữa, Ngài đã đồng hoá mình với những kẻ bất hạnh ấy, bởi vì mỗi khi chúng ta thực hiện một hành động bác ái giúp đỡ họ là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy.
Mặc dù là một vị Vua nhân từ đầy lòng thương xót, nhưng Ngài cũng đã lên án phạt những kẻ ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình mà thôi, dầu họ chẳng bao giờ cướp của giết người. Bởi vì khinh dể những kẻ hèn mọn là khinh dể chính Chúa. Quên lãng những kẻ hèn mọn là quên lãng chính Chúa. Đức Kitô Vua, hằng ngày vẫn đi trước mặt chúng ta, hằng ngày vẫn sống giữa chúng ta nơi những anh em nghèo túng và khổ đau.
Thật là bất hạnh nếu như chúng ta đã không nhận ra Ngài, cũng như đã không giúp đỡ Ngài. Bởi vì trong ngày sau hết chúng ta sẽ bị Chúa chúc dữ: Hỡi những kẻ bị nguyền rủa, hãy đi cho khuất mặt Ta, để vào lửa đời đời đã được sắm sẵn cho ma quỷ, vì khi Ta đói các ngươi đã không cho ăn. Khi Ta khát các ngươi đã không cho uống, khi Ta trần trụi, các ngươi đã không cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã không thăm viếng. Liệu lúc bấy giờ chúng ta có thể khiếu nại rằng chúng ta chẳng hề hay biết?
Chính vì thế, chúng ta đừng đóng chặt cửa con tim và cõi lòng của chúng ta. Bởi vì một sự mù loà và chai cứng như thế chỉ dẫn tới những hậu quả thảm khốc cho số phận đời đời mà thôi. Chúa Giêsu đã kết thúc câu chuyện bằng một lời lẽ rõ ràng và minh bạch: Kẻ dữ sẽ phải lãnh nhận hình phạt đời đời, còn người lành sẽ có được sự sống vĩnh cửu.
Vấn đề chính yếu của chúng ta đó là phải cố gắng thực hiện những yêu cầu, những đòi hỏi của Chúa Giêsu luôn luôn muốn cho chúng ta được mọi sự tốt lành. Ngài sẵn sàng giơ tay trợ giúp, nhưng liệu chúng ta có nắm lấy bàn tay trợ giúp của Ngài hay không thì đó là bổn phận, là công việc của mỗi người chúng ta.
73.Phán xét
Đoạn Tin Mừng hôm nay đặt chúng ta vào trong quang cảnh hùng vĩ của cuộc phán xét chung. Ở đó, Đức Kitô giữ vai trò xét xử bá nhân bá tánh. Vậy thì sẽ phải xét xử ra làm sao? Hơn nữa, mỗi người có những hoàn cảnh, những nhiệm vụ, những khả năng riêng, do đó quả cân nào sẽ phân định tội trạng và công phúc?
Thế nhưng, đối với Chúa Giêsu mọi sự xem ra lại đơn giản. Muôn dân thiên hạ cuối cùng được phân chia thành hai loại được đặt ở bên phải và bên trái của Ngài. Tiêu chuẩn để phân biệt cũng rất đơn giản: Đã làm gì cho những kẻ bé mọn. Đối xử với những kẻ bé mọn, đói khát, trần truồng, tù tội, đau yếu là đối xử với chính Chúa vậy.
Sự phân xử của Chúa Giêsu trong ngày phán xét làm cho cả người lành lẫn kẻ dữ phải ngạc nhiên sửng sốt. Mọi sự sẽ dễ dàng hơn nếu như mỗi người trong cuộc đời của mình đã có lần được gặp Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt, với một bảng tên rõ ràng và một lý lịch minh mạch. Biết bao nhiêu người đã xả thân để giải phóng thánh địa chỉ vì đó là nơi đã ghi dấu tích sự hiện diện của Chúa, huồng hồ là gặp Chúa đói khát, trần truồng, đau yếu và tù tội. Ai có thể lại làm ngơ.
Nhưng cái làm cho chúng ta lúng túng đó là Chúa Giêsu đã đồng hoá mình với mỗi người trong anh em chúng ta, với những con người chúng ta gặp trong cuộc sống thường ngày tại khu phố, tại trường học, trên đồng ruộng, nơi công sở, ngoài chợ ngoài đường và nhất là với những kẻ làm chúng ta khó chịu vì cái nghèo nàn, thô kệch và quấy rầy của họ. Mọi người đều ngạc nhiên.
Nhưng Đức Kitô trong cương vị Đấng xét xử, đã tuyên bố: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất là các ngươi đã làm cho chính ta. Và những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất là các ngươi đã không làm cho chính Ta. Thế là đã rõ. Đức Kitô xét xử theo tình yêu chúng ta đã có hay không có đối với anh em đồng loại, nhất là đối với những người hèn mọn về chức tước, danh vọng và của cải. Vương quốc của Đức Kitô chính là vương quốc của tình yêu. Giáo Hội tôn vinh Đức Kitô là Vua, nhưng Ngài không muốn ngự trên ngai vàng để mọi người bái phục, nhưng Ngài đã đến phục vụ những kẻ hèn và đồng hoá mình với họ.
74.Lễ Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Chúa là người nghèo đói
Nhà danh họa Michel Ange có vẽ bức tranh "Ngày phán xét" trên trần nhà nguyện Sixtine. Bức tranh mô tả cảnh thiên đàng và hỏa ngục hai bên, Chúa Giêsu là vị thẩm phán. Bên trái Chúa là những kẻ dữ, thân hình tiều tụy, mặt mũi ủ dột. Bên phải Chúa là những người lành, thân thể rạng rỡ, gương mặt vui tươi...
Thiên Đàng thuộc về những người ở bên phải Chúa Giêsu là Vua thẩm phán, được Chúa mời gọi: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dành sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã viếng thăm. Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù mà viếng thăm đâu? Để đáp lại, Đức Vua sẽ bảo họ rằng: Ta bảo thật các người: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính ta vậy."
Và hỏa ngục thuộc những kẻ đứng bên trái Chúa là Vua thẩm xét. Người quở trách họ: " Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã không thăm nom. Bấy giờ, những người ấy cũng sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hoặc ngồi tù mà không phục vụ Chúa đâu? Bấy giờ, Người sẽ đáp lại họ rằng: Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính ta vậy." (Mt. 25,34-46)
Không cần phải đợi đến ngày chung thẩm mới có thiên đàng hỏa ngục. Thiên đàng và hỏa ngục đang xảy ra giữa chúng ta ở đây, trong lúc này: có thiên đàng khi chúng ta biết chia sẻ với đồng loại; có hỏa ngục khi chúng ta đóng cửa lòng mình trước đau khổ của tha nhân.
Như thế, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mở rộng cửa lòng, mở rộng bàn tay ra thương giúp anh chị em chúng ta, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh, để được Chúa là Vua thẩm xét chúng ta khen thưởng chúng ta. (Theo "Công Giáo và dân tộc", số đặc biệt Giáng Sinh năm 1998-1999).
2. Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói?
Năm 1980 ở thành phố Paris (nước Pháp), có một linh mục ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa một nhà cha sở xin được trọ qua đêm. Cha sở tiếp khách rất thờ ơ, rồi chỉ cho linh mục đó lên gác xếp nhà xứ... Linh mục đó tên là Gioan Bosco, từ Turin, nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây trường giáo dục các thiếu niên.
Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn phong Gioan Bosco lên bậc hiển thánh. Khi nghe tin đó, cha sở đó nói:
- Phải chi lúc đó tôi biết ông ấy là Gioan Bosco, tôi đâu có để ngài ở trên gác xếp ấy, trái lại tôi đã dành phòng khách sang trọng nhất cho Ngài.
Chúng ta không bao giờ biết rõ những kẻ chúng ta gặp là những người như thế nào. Nhưng điều này không quan trọng. Điều quan trọng đối với những kẻ có đức tin là chính Chúa hiện thân trong những người ấy. Chúng ta thương giúp họ là thương giúp chính Chúa, và chúng ta sẽ được Chúa trọng thưởng.
"Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi, không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc.
Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu tình yêu, là dửng dưng với người bên cạnh" (Trích "Sợi chỉ đỏ").
3. Là Vua tình yêu
"Khi đến nơi gọi là "Đồi Sọ", quân lính đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải một tên bên trái... Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn". Lính tráng cũng chế diễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là Vua dân Do Thái, hãy cứu lấy mình đi." Phía trên đầu Người có bản án viết: "Đây là vua dân Do Thái" (Lc. 23,33-38).
Chúa Giêsu là Vua không những vì Người đã sinh ra làm người thuộc dòng dõi vua Đavít, mà vì Người là Con Thiên Chúa. Người không thiết lập Vương Quốc của Người như một vương quốc trần gian bằng sức mạnh bạo lực, mà bằng cái chết của Người trên thập giá, để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người.
Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan này cho khắc trên thập giá Chúa Giêsu dòng chữ: "Đây là Vua dân Do Thái". Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu đó để nhắc nhở con người. Chúa Giêsu Kitô là Vua tình yêu, vì Người đã thực hiện một việc cao cả tuyệt vời: hy sinh mạng sống mình vì yêu thương nhân loại và để cứu rỗi con người.
Chúa Giêsu là Vua tình yêu. Người đã chứng tỏ tình yêu tuyệt đỉnh của Người bằng cái chết trên thập giá. Người là Vua tình thương nêu gương cho chúng ta sống yêu thương như Người. Đó là sứ điệp cao trọng hơn mọi sứ điệp mà Người mời gọi chúng ta thực hiện qua Tin Mừng hôm nay. Ai thực hiện sứ điệp yêu thương của Người, Người sẽ khen thưởng. Trái lại kẻ nào ích kỷ chỉ sống cho mình mà không biết yêu thương giúp đỡ người khác, nhất là những người nghèo đói đau khổ thì bị "Người đuổi đi khuất mắt Người mà vào lửa đời đời" (Mt. 25,41)
Như thế Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ: vào ngày chung thẩm mỗi người chúng ta sẽ bị xét xử về việc chúng ta đã phục vụ Chúa Kitô Vua thế nào, qua "những em bé nhỏ nhất", nghèo khổ, bất hạnh nhất. Không phải đợi đến ngày tận thế, mà ngay hôm nay chúng ta phải làm thế nào để được Vua Giêsu phán bảo chúng ta: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi" (Mt. 25,34). (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập II).
4. Vua phục vụ
Vua Bađa mời quan đại thần vào và bảo:
- Nay trẫm đã già yếu sắp chết rồi, khanh hãy giúp trẫm tìm người kế vị, vì trẫm không có con trai như khanh đã biết.
Quan đại thần đề nghị:
- Xin vua hãy chọn một trong hai quan hầu cận vua làm người nối nghiệp.
Vua bằng lòng cho gọi hai quan cạnh thần đến nhưng vua không biết chọn người nào. Ông muốn thử xem trong hai quan đó xứng đáng kế vị mình, nên hỏi người bên phải:
- Này quan Kaisô, nếu được làm vua thì quan sẽ cai trị dân như thế nào?
- Thưởng phạt công minh, buộc dân phải nghe theo tôi.
Quay sang quan cạnh thần bên trái, vua hỏi:
- Tâu bệ hạ, nếu tôi được làm vua, tôi sẽ cai trị bằng mệnh lệnh rõ ràng, - Phần quan Cassô, nếu được làm vua, quan sẽ làm thế nào?
- Tâu bệ hạ, hạ thần vẫn tiếp tục làm như hạ thần đã làm, là làm người hầu hạ giúp đỡ mọi người.
Vua hỏi tiếp:
- Như thế nghĩa là gì?
- Tâu bệ hạ, chỉ có một sự khác biệt giữa vua và dân là chiếc ngai vàng, Vua đích thực phải là người phục vụ.
Thế là quan Cassô được chọn làm vua kế nghiệp vua Bađa.
"Vua đích thực phải là kẻ phục vụ". Như thế chỉ có một người xứng đáng nhất để chúng ta tuyên vương là Chúa Giêsu Kitô. Người đã tuyên bố: "Thầy đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc mọi người".
Người con dạy các môn đệ: "Vua chúa và thủ lãnh thế gian thì bắt kẻ khác hầu hạ và phục vụ mình. Phần các con không phải thế. Ai trong các con muốn làm lớn, phải làm đầy tớ hầu hạ mọi người".
Chúa Giêsu không bao giờ nói mà không làm. Trong bữa ăn cuối cùng với các tông đồ, Người đã hành động như người tôi tớ khi rửa chân cho các ông. Qua cử chỉ đó, Người cũng báo trước cái chết của Người trên thập giá. Cái chết đó thể hiện đến tột cùng tinh thần phục vụ vì yêu thương nhân loại của Người. Và cũng trong cái chết đó, Người thể hiện trọn vẹn Vương Quyền của Người. Mão gai mà các lý hình đội lên đầu Người vô tình đã nói lên tất cả ý nghĩa vương tính của Người. Chúa Giêsu là vua phục vụ và phục vụ cho đến chết vì thương loài người và để cứu rỗi con người.
Mỗi Kitô hữu được mời gọi tuyên xưng vương quyền của Chúa Giêsu bằng cuộc sống phục vụ, yêu thương và quên mình đối với đồng bào đồng loại, và yêu thương phục vụ đồng loại là yêu thương phục vụ chính Người, vì Người đồng hóa với con người, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu thuật lại quang cảnh ngày phán xét chung. Khi Vua Giêsu tái giáng, Người phân xử và thưởng phạt mọi người theo những gì chúng ta đã hy sinh phục vụ anh chị em chúng ta. Người đồng hóa với tất cả những ai đang sống giữa chúng ta. Khi chúng ta chia cơm sẻ áo cho người anh chị em nghèo khổ xung quanh chúng ta là chúng ta làm cho chính Vua Giêsu của chúng ta. Trái lại, khi chúng ta chối từ và quay lưng lại trước nỗi khổ đau bất hạnh tinh thần hay thể xác của đồng bào đồng loại chúng ta là chúng ta khước từ Chúa Giêsu, Vua vũ trụ.
Mừng kính Chúa Giêsu là vua hôm nay, chúng ta khấn xin Người đổ tràn đầy tình yêu xuống tâm hồn chúng ta, cho chúng ta bừng cháy lửa yêu mến và phục vụ theo gương Người hằng ngày, cho đến ngày Người trở lại thẩm xét chúng ta, để ngày đó Người sẽ nói với chúng ta: "Này những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi" (Mt. 25,34). (Theo "Lẽ Sống").
5. Cha đến với con ba lần
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Hội Thánh long trọng mừng kính Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ, là Vua muôn loài; đặc biệt loài người chúng ta. Lời Chúa trong ngày lễ kính Chúa Kitô Vua hôm nay nói gì với chúng ta?
Bài đọc thứ nhất và thứ hai mô tả dung mạo của Vua vũ trụ là Đấng chăm sóc chúng ta như mục tử chăn dắt và chăm sóc đoàn chiên và từng con chiên. Người hy sinh chính mình Người trên thập giá để cứu rỗi chúng ta, cho chúng ta sống lại hưởng vinh quang với Người. Người quy tụ chúng ta trong vương quốc của Người.
Bài Tin Mừng hôm nay nhìn lại thái độ của chúng ta trong vương quốc là Hội Thánh của Người. Chỉ có một thái độ xứng đáng làm công dân trong Nước Người là yêu thương phục vụ như Người; và yêu thương phục vụ nhau là yêu thương phục vụ Người.
"Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em nhỏ bé nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính ta" (Mt. 25,40)
Có thể nhiều lần chúng ta đã bỏ qua những dịp may để chúng ta yêu thương phục vụ Vua Giêsu của chúng ta, như câu chuyện của cô Maria sau đây:
Cô được Chúa hứa đến thăm trong ngày. Cô vui mừng chuẩn bị và náo nức ngồi chờ. Bỗng có tiếng gõ cửa, cô vội chạy ra mở: nhưng đó là một người ăn mày. Cô đóng cửa lại ngồi chờ. Đến trưa lại có tiếng gõ cửa, cô chạy nhanh ra mở, thì lại là một cụ già ăn mặc rách rưới!... Mãi đến chiều tối mới có tiếng gõ cửa. Cô tin chắc lần này Chúa đến thật, nên càng chạy nhanh ra mở cửa, nhưng cũng không phải Chúa mà là một bà lão đói khát, xin cơm ăn nước uống. Cô nổi giận đuổi bà đi...
Cô buồn phiền mệt mỏi quá nên thiếp ngủ... Trong giấc mơ, cô thấy Chúa đến. Cô liền trách:
- Sao Chúa không đến như đã hứa với con?
- Cha đã đến với con ba lần, nhưng đều bị con đuổi đi.
Ước gì chúng ta không bỏ mất những dịp may như cô Maria trên đây. Chúng ta còn có rất nhiều dịp may như thế trong đời sống chúng ta, từ nay cho đến ngày Vua Giêsu trở lại phán xét chúng ta.
(Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập III).
Ông Hoàng Hạnh Phúc
Oscar Wilde đã viết một câu chuyện rất đẹp, tựa đề là The Happy Prince, như sau:
Một Ông Hoàng kia sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.
Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc.
- Tại sao ông khóc? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!
- Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không?
- Không được, tôi phải bay đi Ai Cập.
- Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.
- Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?
- Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con bà bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.
Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.
Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.
Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.
(Sợi Chỉ Đỏ)
75.Đức Kitô Vua.
Đức Kitô có phải là Vua không? Chắc chắn Đức Kitô không phải là một thủ lãnh của một đảng phái đối lập, cũng chẳng phải là một vị vua chúa như người đời vẫn quan niệm. Suốt cuộc sống công khai, Ngài không bao giờ chấp nhận tước hiệu Messia, tước hiệu là vua theo mơ ước của dân chúng. Vì mơ ước của họ pha trộn quá nhiều những yếu tố trần tục, quá nhiều những tham vọng chính trị. Thực vậy, sứ mệnh của Ngài không như sứ mệnh của quận vương Hêrôđê, quyền bính của Ngài không như quyền bính của hoàng đế Lamã hay như bất kỳ một vị vua chúa nào trên trần gian.
Sứ mệnh của Ngài thuộc một lãnh vực khác. Chính vì thế mà chúng ta thấy nhiều lần Ngài đã từ chối cái cách tôn phong Ngài lên làm vua của dân chúng. Sau phép lạ bánh hoá nhiều dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã lẩn trốn. Nhưng cũng có lần Ngài sẵn sàng biểu dương trước công chúng, khi Ngài hiên ngang tiến vào Giêrusalem, xuất hiện với những phương tiện khiêm tốn, phù hợp với lời tiên báo của Giacaria. Ngài để cho dân chúng tung hô như là vua Israel. Trong phiên toà dân sự tại dinh Philatô, đề tài xét xử chính là vương quyền của Ngài. Khi Philatô hỏi: Ông có phải là vua dân Do Thái không? Chúa Giêsu không phủ nhận tước hiệu ấy, nhưng Ngài đã minh xác rằng: Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này.
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Vua mọi dân tộc, là Vua trên muôn vua, thế nhưng Ngài lại là một vị Vua bị đóng đinh, hoàn toàn bị tước lột khỏi những quyền lực trần thế. Đức Kitô đã lên ngôi bằng con đường của thập giá, của tình yêu. Kẻ thù duy nhất của Ngài là vương quốc của Satan, của thù hận, của chia rẽ và của tội lỗi.
Các ngai vàng, các vương miện, các triều thiên và áo cẩm bào chỉ là những đồ trang sức tạm bợ chóng qua, chúng ta không được phép hiểu vương quyền của Đức Kitô qua những hình ảnh đó. Chính Ngài cũng đã tự tách mình ra khỏi các thủ lãnh của trần gian như lời Ngài đã phán: Vua chúa các nước thì cai trị ân, và những kẻ làm lớn thì lấy quyền mà áp chế dân. Đức Kitô không phải là một thủ lãnh áp chế, trái lại cai trị theo Ngài có nghĩa là lột sạch mọi tự cao, hào nhoáng và vênh vang, cai trị đối với Ngài chính là phục vụ.
Đức Kitô phục vụ chúng ta và Ngài phục vụ một cách khiêm tốn, thận trọng và kín đáo. Ngài đã phục vụ đến độ hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Sự tự hạ của Ngài đi đến chỗ đồng hoá với những kẻ bé mọn và thấp kém nhất. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự dấn thân để phục vụ và giúp đỡ những kẻ bé mọn thấp kém chung quanh chúng ta hay chưa?
76.Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ
Hôm nay, Chúa nhật 34 thường niên, Chúa nhật kết thúc năm năm Phụng Vụ. Hội Thánh tôn kính vương quyền của Chúa Giêsu nhằm nói lên cùng đích của Phụng Vụ, là làm cho loài người được tôn vinh một khi họ được thông dự vào vương quyền của Đức Kitô Giêsu Tình Yêu.
Chúa Giêsu Kitô là Vua, Vua Tình Yêu. Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Ngài là Vua công bình và đầy yêu thương. Vương quốc của Ngài là vương quốc của tình yêu. Dân của Ngài phải là những người biết sống yêu thương. Lẽ đương nhiên, muốn vào Vương quốc của Ngài, phải là người biết sống yêu thương, yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em thật sự. Vì thế “chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu mến”. Yêu mến cụ thể là phục vụ Chúa Kitô Vua trong tha nhân, những người đang sống chung quanh chúng ta, đang cần chúng ta giúp đỡ, đặc biệt là những người “nghèo khó, bé nhỏ”.
Trong dụ ngôn cuộc phán xét chung, Thánh Matthêu tường thuật lại quang cảnh ngày cánh chung, khi Vua Giêsu tái lâm và Ngài phân xử mọi người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hảo hay ác độc, đều có mặt và phân xử rõ ràng. Tiêu chuẩn để mà phân xử, tách ra là những gì chúng ta thực hiện cho tha nhân. Chúa Giêsu Kitô, Vua tình yêu, Ngài đồng hóa với những ai đang sống chung quanh và giữa chúng ta khi chúng ta chia sẻ tình thương, cơm áo cho người đói khổ trần truồng, khi thăm viếng người bị bệnh hoặc bị tù đày: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Ta khát, các ngươi đã cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta đau yếu, các ngươi đã chăm sóc…”. Vì thế, khi chúng ta làm cho họ là chúng ta đang làm cho Chúa: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm chính cho Ta vậy”. Thiên Chúa yêu thương và công bình sẽ dựa vào những hành động và thái độ ứng xử của chúng ta đối với tha nhân để mà xét xử.
Khi đó, chúng ta thấy: Đức Vua đã làm cho những người lành đứng bên phải, cũng như những kẻ dữ đứng bên trái, đều phải chưng hửng. Người bên phải rất sửng sốt khi thấy Vua Giêsu kể những việc tốt họ đã làm cho những người bất hạnh trong cảnh đói khát, rách rưới, tù đày, như là những việc giúp đỡ họ dành cho chính bản thân Đức Vua. Còn người bên trái cũng hết sức ngỡ ngàng khi thấy Đức Vua đồng hoá bản thân Ngài với những người mà họ đã coi thường, nên đã không cho họ cơm ăn, áo mặc, nhà ở…Họ không ngờ rằng mỗi lần họ tiếp đón hay hất hủi những người cần đến họ giúp đỡ là họ đã tiếp đón hay hất hủi chính Chúa Giêsu!
Ngược lại, khi chúng ta từ chối lẫn nhau và quay lưng trước những bất hạnh tinh thần và thể xác của anh em đồng loại thì cũng là lúc chúng ta rời xa Chúa Giêsu, rời xa Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã âm thầm đi vào giữa đám đông nhân loại mà không ai biết. Chúng ta dễ dàng gặp Chúa lúc chúng ta không ngờ. Nếu chúng ta nhận được rằng Thiên Chúa không phải là Vua thống trị nhưng là Vua phục vụ, thì chúng ta không thể không nhận ra Ngài nơi những người bé mọn nhất. Chúng ta sẽ không còn thắc mắc như người lành hay kẻ dữ trong ngày phán xét cuối cùng: “Thưa Ngài, có khi nào chúng tôi thấy Ngài đói, Ngài khát, Ngài rách rưới… đâu?”. Bởi vì Thiên Chúa đã đi vào từng môi trường. Chúa đi vào con người. Chúa đi vào hoàn cảnh. Vua Giêsu khẳng định với chúng ta rằng Thiên Chúa tự đồng hoá với khuôn mặt của hàng triệu, triệu con người trên thế giới đang ê chề trong cảnh thiếu ăn, nghèo đói, thất nghiệp hay những công việc nô lệ, vô nhân đạo, đang bị kẻ mạnh áp bức hay người quyền thế bóc lột.
Mừng lễ Chúa Kitô là Vua hôm nay, chúng ta xác tín rằng: Chúa Kitô là Vua. Vương quốc của ngài là vương quốc của tình yêu. Ai sống trong tình yêu thì thuộc về Chúa Kitô và là công dân của Nước Thiên Chúa. Tình yêu, nói được là như “ chứng minh nhân dân” của Nước Thiên Chúa. Chắc hẳn, Tình yêu không đòi hỏi nhiều lời nói hơn bằng nhiều hành động thiết thực, sống động, cụ thể là chia sẻ chính những lo lắng khó khăn, khốn khổ cùng cực của đồng bào trong hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống. Hãy phục vụ những Vua Kitô ấy để vào ngày cuối cùng Vua Kitô sẽ mời gọi chúng ta “ hãy đến, hỡi những người cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc đã dành sẵn cho anh em từ thưở đời đời”. Thiết lập Nước Thiên Chúa trong thế giới này là một ưu tiên trước hết của những người theo Chúa Kitô. Chúng ta được gọi để công bố Nước Chúa trong hòa bình, công lý và yêu thương. Tác giả sách Khải Huyền diễn tả: "Tôi thấy trời mới đất mới. Trời cũ đất cũ đã qua đi... Tôi thấy thành thánh Giêrusalem mới xinh đẹp như cô dâu trang điểm ra gặp chú rể. Tôi nghe tiếng nói lớn: "Đây là nơi Thiên Chúa ở với con cái loài người. Họ là dân của Chúa và Chúa là Chúa của họ. Chúa sẽ ở với họ." Đây không phải chỉ là một thành phố mới nhưng là một bầu khí mới. Hãy yêu thương và chia sẻ cho kẻ khác như Chúa yêu chúng ta và chúng ta sẽ trở nên toàn vẹn như Chúa muốn cho mỗi người chúng ta.
Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa cho một năm Phụng Vụ đã qua, một năm chúng ta nhận lãnh rất nhiều, nhiều ân sủng của Thiên Chúa qua các Bí Tích, qua Thánh Lễ mỗi ngày, qua các biến cố trong cuộc sống, qua các mối tương quan chúng ta có lẫn nhau. Chúng ta cũng xin Thiên Chúa là Cha tha thứ cho chúng ta, vì những tội lỗi mà chúng ta xúc phạm đến tình yêu của Chúa và những tổn thương gây ra cho anh em mình, nhất là những người ta gặp gỡ mỗi ngày. Sau đó chúng ta có một quyết tâm mới cho những ngày tháng hồng ân của Năm Mới mà chúng ta chuẩn bị đi vào.
Lạy Chúa Kitô là Vua của Tình Yêu, xin giúp chúng con biết sống yêu thương như Chúa để chúng con sẽ được dự phần trong Vương quốc tình yêu của Ngài. Amen.
77.Giờ thưởng phạt
Thế giới loài người có khởi đầu và có kết thúc. Chúa Giêsu đã báo trước sẽ có ngày tận cùng thời gian, đó là lúc người lành, kẻ dữ biết rõ số phận của mình. Trong ngày cuối cùng đó, Đức Giêsu chịu đóng đinh sẽ hiện đến trong uy nghi vinh hiển, là Vua xét xử thế gian. Lúc đó, tôi sẽ đứng trong nhóm nào, bên phải hay bên trái của Chúa? Tôi phải làm sao để được Chúa Cha phúc, được Chúa Giêsu tha thứ mọi lỗi lầm dương thế và cho nhập vào hàng ngũ các thánh.
Xưa kia khi Chúa Giêsu xuống trần, Ngài không dùng quyền để xử án thế gian nhưng để tỏ lòng thương xót với những người tội lỗi và cứu độ họ (x. Ga 3,17), nhưng đến ngày phán xét, Chúa Giêsu sẽ ngự đến trong uy nghi sáng láng và thưởng phạt công minh. Hiện nay, Ngài tự đồng hoá mình với những kẻ bé mọn để chúng ta có cơ hội phụng sự Ngài nơi đồng loại. Khi chúng ta tiếp nhận những kẻ bé mọn vì danh Chúa tức là đón nhận Chúa và mai sau Ngài sẽ ban thưởng cho chúng ta. Những kẻ đáng thương là đối tượng tình thương của Chúa. Vì vậy, khi ta giúp đỡ những kẻ đáng thương là chúng ta thể hiện tình thương của Chúa đối với con người. Ngược lại, những kẻ dữ vì không thi hành việc bác ái cụ thể đối với những người đáng thương nên đã cản trở tình thương yêu của Chúa đối với con người và vì vậy là một trọng tội đáng vào lửa muôn đời.
Trong ngày phán xét, những người đã thông phần đau khổ vì Đức Giêsu, đã làm chứng cho chân lý và sống vì hạnh phúc của tha nhân sẽ được vinh thắng, được ở cùng với Vua Giêsu rất đáng mến và hưởng vinh phúc với Ngài. Những kẻ dữ, không biết xót thương ai nên phải bị trầm luân khốn khổ, phải lui ra khỏi mặt Chúa đời đời! Đó là hình phạt lớn nhất cho họ.
Hiện nay, sự dữ còn đang hoành hành trong thế giới, cỏ lùng còn lẫn lộn với lúa, người ác sống chung với người lành và còn coi thường việc thưởng phạt, nhưng đến ngày tận thế, họ sẽ biết rõ quyền năng và sự công thẳng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, đối với người lành, Chúa sẽ đối xử nhân từ và cho vào hưởng hạnh phúc đời đời.
Chúng ta biết mình sẽ có ngày ra trước toà Chúa. Vậy, chúng ta hãy lo làm tròn bổn phận của mình, làm nhiều việc lành và dâng những hy sinh hàng ngày cho Chúa để được chúa xót thương. Số phận của chúng ta không phải được quyết định vào ngày tận thế nhưng tuỳ thuộc vào thái độ sống của chúng ta ngay từ hôm nay trong cuộc đời dương thế. Xưa ta cho kẻ đói thì nay Chúa cũng cho chúng ta được no nê, xưa ta tốt bụng với anh em thì nay Chúa cũng sẽ tỏ lòng nhân hậu với chúng ta. Chúng ta đong đấu nào cho anh em thì Chúa cũng sẽ đong lại bằng đấu ấy cho chúng ta mà đong dư tràn nữa. (x. Mt 7,2)
Vào ngày phán xét, Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta về đời sống đạo (x. Ga 18, 37), về lòng hối cải (x. Mt 12, 41), về việc đón tiếp các đại diện của Chúa (x. Mt 10, 41). Những việc bác ái hy sinh vì Chúa là những hoa trái của đời sống Tin Cậy Mến, là những của lễ đẹp lòng Chúa hơn hết. Do đó, ngay từ bây giờ, chúng ta hãy chỉnh đốn lại cách đối xử của ta đối với tha nhân, nhất là những kẻ đang cần ta giúp đỡ vật chất cũng như tinh thần, mỗi người chúng ta hãy sống thật đúng với lời Chúa dạy, lo làm các việc lành phúc đức và trung thành giữ giới răn Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa. Chúa rất muốn chúng con hạnh phúc nên đã đến cứu chuộc chúng con. Chúa đã tự đồng hoá mình với những kẻ bé mọn và muốn chúng con yêu thương Chúa qua những người nghèo hèn khốn khổ. Chúng con sẽ cố gắng lo giúp đỡ những người bé mọn, tích cực cộng tác với xã hội trong việc giúp đỡ tha nhân nhất là những người trong hoàn cảnh khổ đau, thiếu thốn để xã hội ngày càng tốt đẹp và mọi người nhận ra Chúa đang hiện diện đặc biệt nơi các môn đệ của Người.
78.Sống với mọi người
Chúa nhật cuối cùng cùng của năm phụng vụ, cũng chính là Chúa Nhật nói đến ngày Chúa đến trong vinh quang, nói đến ngày phán xét. Ngày đó sẽ được hiển hiện rõ người tốt hay xấu, lành hay dữ, thiện hay ác một cách rõ ràng. Tiêu chuẩn để phân xử là tất cả những gì chúng ta đã thực hiện cho những anh chị em hằng ngày chúng ta gặp gỡ. Vậy chúng ta đã làm gì và chúng ta đã sống thế nào?
Có thể chúng ta là những người bé nhỏ mà Chúa Giêsu nhận đó là chính Ngài, vì hằng ngày chúng ta cũng có nhu cầu cần đến sự giúp đỡ, sự cảm thông của người khác. Những sự trợ giúp mà chúng ta nhận được từ người khác thuộc cả về phương diện vật chất, tình cảm cũng như tinh thần. Những nhu cầu đó đôi khi cũng rất quan trọng, vì nó giúp chúng ta được vui sống.
Rồi sự giúp đỡ của người khác dành cho chúng ta cũng có nhiều loại như khi chúng ta cần phải hỏi đường đi trong một nơi mà chúng ta chưa quen biết; khi chúng ta cần một lời chỉ dẫn, một lời an ủi, một nụ cười hay một cái nhìn thông cảm của người khác. Khi chúng ta lỡ đường và ghé vào nhà một người quen và được họ tiếp đãi cho cơm ăn cho chỗ nghỉ đêm. Khi chúng ta không may bị hư xe giữa đường và được người khác dừng lại giúp đỡ. Khi chúng ta đang đứng trước quầy trả tiền mà bị thiếu một vài ngàn và được người khác cho mượn. Khi chúng ta đang thất nghiệp mà được bạn bè giới thiệu việc làm…. Những cơ hội đó chính là những niềm vui cho cuộc sống.
Rồi cũng có những lúc chính chúng ta lại là những người làm ơn. Chắc chắn không nhiều thì ít chúng ta cũng đã có và sẽ còn tiếp tục có những nghĩa cử nhân ái với người khác. Đi đến hoặc gởi đi một cánh thư chia buồn với tang quyến của người quá cố, tới bệnh viện thăm người đau yếu hay đến nhà dưỡng lão an ủi những người già yếu, khuyến khích một người bạn đang có tâm sự buồn, trao cho người ăn xin một vài ngàn hay mua cho họ một chiếc bánh, một ly nước, giúp đỡ người lâm nạn trong hoàn cảnh khó khăn. Dành thời giờ để tiếp một người cần đến chúng ta. Tất cả những việc đó đều là những việc bác ái sẽ được Thiên Chúa nhìn nhận.
Trong thực tế có rất nhiều sự hy sinh, co nhiều cử chỉ cao thượng như việc săn sóc bệnh nhân, thăm nom người đau yếu, việc giúp đỡ những người nghèo, bênh vực cho những người bị áp bức, chia sẻ cho những ai đang gặp những hoàn cảnh khó khăn, thăm hỏi những tù nhân …việc làm đó của chúng ta được Chúa nhìn nhận là làm cho chính Ngài, như trong bài Phúc âm hôm nay có nói tới.
Ngược lại, cũng không ít lần chúng ta dửng dưng thờ ờ, để đến nỗi Chúa đã phải trách: "khi Ta đói ngươi đã không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống. Ta là khách lạ các ngươi chẳng tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc. Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta đâu." Đó chính là lời cảnh tỉnh với những ai còn đang vô tình, vô tâm để họ biết đem tình yêu và lòng bác ái đến với mọi người.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống theo lời kinh hòa bình mà mỗi ngày giáo phận chúng con vẫn luôn hát vang: “biết đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem niềm vui đến chốn u sầu”. Amen.
79.Cuộc sống của chúng ta tuỳ thuộc vào Mt 25,40
Đây là một bài học khác về cái nhìn của Thiên Chúa trên cuộc sống của chúng ta. Ngài sẽ phán xét chúng ta như thế nào? Câu trả lời chứa đựng trong bản văn chính yếu này. Đây là tổng kết cuối cùng của tất cả mọi cuộc sống: ngày phán xét chung. Thiên Chúa sẽ xoay sở như thế nào trước công việc vĩ đại này? Ngài sẽ dùng máy vi tính phân tích các sử thi, các bi kịch, các tiểu thuyết cuộc đời cho đến vô tận hay sao? Ngài sẽ tổ chức những vụ kiện ngắn để cân nhắc lợi hại hay chăng? Đó không phải là điều Chúa Giêsu nói với chúng ta. Chúng ta có nguy cơ bối rối vì sự chọn lọc ngắn ngủi, sự nhanh chóng của các mục xét xử và sự đơn giản của câu: “Ta đói, ngươi đã cho Ta ăn, hãy vào hưởng sự vui vẻ”.
Chúng ta hãy đánh giá đúng hoàn cảnh: đây là lời răn dạy cuối cùng của Chúa Giêsu và nỗ lực tối hậu của Ngài để đặt chúng ta trước điều cốt yếu. Biết bao lần Ngài nhấn mạnh đến nguy cơ chúng ta trở thành kẻ ngập ngừng: chúng ta tưởng tượng ra những điều tốt đẹp chúng ta sẽ làm... thế rồi chúng ta lại không làm.
Ngài biết chúng ta có khuynh hướng thoát ra khỏi những bó buộc cụ thể của tình yêu bằng những xung khắc dài và những mơ mộng: “Chỉ cần yêu thương... Sống yêu thương... Làm thế nào gặp Chúa nơi anh em chúng ta... Làm thế nào thấy Chúa Kitô nơi người nghèo nhất...”. Tốt, rất tốt. Nhưng sẽ đến một ngày nào đó bị tước mất những lời nói chúng ta sẽ trần truồng trước những hành vi của chúng ta. Bạn có hành động khi một người hay tập thể cần đến bạn? Đó là sự chọn lựa những người được chúc phúc và những kẻ bị nguyền rủa. Đó là sức nặng thực sự của cuộc sống của một con người và việc phán xét xem người đó có đáng sống đời đời hay không.
- Ngươi, ngươi hăng hái lao vào giúp đỡ khi có dịp: hãy đi vào Nước Trời... Ngươi, ngươi tránh né biết bao việc phải làm: hãy đi xa khỏi Ta.
- Nhưng lạy Chúa, con đã thực sự muốn gặp Ngài, sống với Ngài, sống vì Ngài.
- Ngươi đã làm gì cho anh em ngươi?
- Con thề với Chúa nếu con đã biết rằng...
- Ngươi đã làm gì?
Mỗi lần chúng ta nghĩ về việc gặp Chúa Giêsu, một cú bấm máy sẽ phải làm bừng sáng trước mắt chúng ta, như một tấm áp phích sáng chói, câu Matthêu 25, 40 mà cuộc sống chúng ta noi theo: “Mỗi lần ngươi làm điều tốt cho một trong những người bé mọn nhất trong số các anh em của Ta thì chính là ngươi đã làm cho Ta vậy”.
Điều vĩ đại trong việc gợi ra ngày Phán xét phải làm cho chúng ta hiểu giá trị của cử chỉ nhỏ nhặt nhất của tình yêu thương. Cuối cùng, có một điều quan trọng đó là điều chúng ta thực sự làm để cứu giúp một hoàn cảnh nguy khốn. Danh sách những việc được Chúa Giêsu lấy lại không ngừng kéo dài ra: “Ta mù chữ và ngươi đã dạy Ta học... Ta bị tàn tật và ngươi, một kiến trúc sư, đã nghĩ đến việc xây dựng những căn hộ có thể đến ở được... Ta là một kẻ tị nạn và ngươi đã đón tiếp Ta”.
Duy chỉ trên những con đường này người ta mới gặp Chúa Kitô Vua. Nước Trời của Ngài là một thế giới gồm những ngừơi cần được giúp đỡ và những người sẵn lòng giúp đỡ. Mỗi lần chúng ta giúp đỡ tức là chúng ta chọn Chúa Giêsu làm Vua của chúng ta.
80.Để được yêu hơn
“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40)
“Sẽ có phán xét chung vào ngày Chúa Kitô trở lại trong vinh quang. Lúc ấy, tất cả mọi người sẽ trình diện trước tòa Chúa Kitô để trả lẽ vể các hành vi của mình” (Giáo lý Hội thánh công giáo). Điều xác tín này chắc chắn là không sai lầm. Mặc dù, đó là ngày nào thì không ai được biết nhưng điều gì sẽ xảy ra trong ngày đó thì đã được nói quá rõ ràng. Đức Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang của Người “khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu…” (Mt 25,31). Người sẽ ngồi trên ngai của Người và theo lẽ chính trực mà xét xử, mà “tách chiên ra khỏi dê”. Ngày ấy Thiên Chúa không hỏi Ta có bao nhiêu hecta đất, giữ chức vụ gì trong xã hội, nói được mấy thứ tiếng hay học hàm, học vị thế nào. Nhưng điều Ngài đặt nặng nhất là “món nợ yêu thương”, là anh đã làm được gì cho đồng loại của mình.
Như Thiên chúa yêu thương. Đức Giêsu cũng muốn con người hãy yêu thương nhau. Trong đó đối tượng được chú ý đặc biệt là những “kẻ bé mọn” tức là những ai xét thấy là cần phải được nâng đỡ trên mọi lãnh vực. Ở đây cụ thể có sáu loại việc: đói cho ăn, khát cho uống; lỡ đường cho nương trọ; trần truồng cho mặc, bệnh tật thì thăm viếng, tù đày thì ủi an. Tất nhiên còn nhiều điều khác nữa. Kể cả là sự giúp đỡ về tinh thần, bảo vệ công lý, xây dựng hoà bình… Thiên Chúa muốn chúng ta thương yêu người khác rồi chính Ngài lại là người đứng ra trả ơn cho chung ta. Đây mới chính là điều không ai ngờ tới. Thật vậy, khi làm điều thiện tức là chúng ta không những làm theo lời dạy của Chúa mà còn diễn tả cách sống động tình thương của Thiên Chúa tại trần gian này. Tuy nhiên, không phải Thiên Chúa ham danh lợi, muốn được mọi người biết đến lòng quảng đại của mình. Thiên Chúa không như con ngươì, và Ngài cũng chẳng cần phải muốn thế để làm gì. Điều quan trọng là Ngài muốn con người biết yêu thương, biết chia sẻ cho nhau, nâng đỡ nhau trên cuộc đời vốn đã quá khó nhọc nầy. Và yêu thương chính là tiếng nói mạnh mẽ nhất của người con biết nghe lời, “yêu thương là chu toàn lề luật” (Ga13,35). Mặc khác, trong trách nhiệm liên đới, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, chúng ta đâu thể dửng dưng trước nỗi thống khổ của đồng loại.
Có lẽ bạn không phủ nhận rằng, bạn cũng có nhu cầu được yêu thương. Vậy nếu bạn thực hành việc yêu thương với người khác cũng là hợp lý thôi. “muốn ăn phải gắp cho người” mà. Kẻ dữ làm sao biết yêu thương và khi hành động thiếu bác ái là ta không muốn yêu thương nơi chính bản thân mình. Như vậy, nếu có phải chịu hình phạt trong lửa hoả ngục cũng không là điều ngạc nhiên.
Hơn nữa, đây còn là chuyện làm cho chính Chúa. Làm cho con người mà Thiên Chúa trả công thì còn mong ước gì hơn.
Muôn thuở Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta bất luận chúng ta tốt xấu. Tuy vậy, một khi chúng ta làm theo lời dạy của Chúa, chúng ta sẽ được Thiên Chúa yêu thương nhiều hơn. Vậy, có lý do gì để bạn khước từ tình thương và hạnh phúc đã dành sẵn cho người biết lắng nghe và thực hành lời Chúa?
“Phần gia nghiệp” chỉ dành cho những ai biết sống tinh thần Phúc Âm.
81.Vua phục vụ
Trên đời này, người ta muốn làm vua, làm lớn, là để lo cho bản thân mình, được vinh thân phì da, để ở trên đầu trên cổ mọi nguời. Nói là phục vụ cho dân, thương dân như con đỏ, tất cả chỉ là những từ hoa mỹ, rổng tuếch, cùng lắm chỉ theo nghĩa tương đối mà thôi… Nhìn các ông vua trong chính quyền VN hôm nay, ta cũng đủ biết, họ chỉ lo cho cái ghế của họ, lo tham nhũng móc ngoặc, để lợi cho mình và gia đình trước đã. Còn dân chúng hả, may nhờ rủi chịu, lỡ nghèo ăn cắp ăn trộm con gà con vịt, phải tù rục xương, ráng chịu lấy!!!
Có một vị Vua kinh thánh nói đến, khác lạ hơn các loại vua nêu trên: Vua hòa bình – vua Tình Thương – Vua công lý – Vua của những người nghèo. Các danh xưng đó không phải chỉ là sáo ngữ, mà là sự thật. Chính vị Vua đó đã nói: “Ta đến là để phục vụ, không phải để được phục vụ, và làm giá cứu chuộc cho nhiều người. - Ai yêu sự thật sẽ đến cùng Ta.” Bao thế kỷ qua, có bao nhiêu người theo chân vị Vua đó... Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ; Hội thánh dành để kính Chúa Giêsu là Vua, có ý dâng lên Người tất cả công trình cứu chuộc và tuyên xưng Người là đầu và cũng là cuối cùng của thời gian. Bài Tin mừng hôm nay vừa là một bài miêu tả, vừa nặng phần dụ ngôn, nên không thể nào hiểu được nó chỉ là một bài luân lý suông, mà còn là còn những qui tắc sống con người phải tuân theo để được hạnh phúc…. Đây là khung cảnh ngày cuối cùng của vũ trụ, nơi đây người ta phải tính sổ trước mặt Thiên Chúa mọi việc mình đã làm cho tha nhân, lại được coi là làm cho Thiên Chúa…
Như trên đã nói, bài Tin mừng hôm nay vừa là một bài miêu tả, cảnh ngày phán xét cuối cùng của vũ trụ, vừa là một dụ ngôn. Chúa Giêsu, Vua cao cả ngự trên ngai vinh hiển có các thiên sứ hầu cận, Người tách biệt kẻ lành người dữ, như tách biệt chiên với dê. Lúc đó người chúc phúc cho người lành vì họ đã làm mọi điều tốt lành cho Thiên Chúa. Khi đó, người lành nói: có khi nào con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống.v.v.. Vua Giêsu mới trả lời:Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta. Rồi Đức Vua quay sang kẻ dử … cũng nói như thế…
b/. Bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay muốn dạy chúng ta điều gì? Chúa nói: “Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta.” Vua Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, đã chúc phúc cho những người lành, và đã mời họ vào Nước Trời, vì khi còn sống, họ quan tâm giúp đỡ kẻ nghèo khó, cơ nhỡ. Hóa ra Chúa quan tâm đến kẻ nghèo, người thấp bé, và Chúa nói: ai giúp đỡ họ, yêu thương họ chính là giúp đỡ, yêu thương chính Chúa.
Xã hội càng văn minh, càng có nhiều người nghèo đói. Chúng ta thử nhìn ngay xã hội VN chúng ta hiện nay. Hàng ngày báo đài ra rả nói, nào đất nước đang phát triển, vùn vụt đi lên, nào hàng năm bước phát triển kinh tế là bao nhiêu phần trăm đó, thu nhập bình quân đầu người là 700 USD = 14.500.000 $VN. Ta thử nhìn coi: VN hiện nay có trên 80 triệu dân; nhưng nông dân đã chiếm ít nữa là 80%. 10% là nông dân giàu, có của ăn của để, còn lại gần 70% nông dân nghèo ở nông thôn, có cơm ăn hàng ngày, dù chưa đói, nhưng… ta có dám nói họ là giàu không? Cần phải xây nhà để ở, hoặc mua chiếc xe Honda để đi, hoặc cưới vợ cho con, đó là cả chuyện nan giải, nhiều lúc phải đi vay nóng vay lạnh…Vậy mà nói dân giàu, đang phát triển? Vậy mà nói vua quan thương con như trứng mỏng…
Chúa Giêsu, Vua của tình thương; Nước của Người là Nước của tình thương, vì thế mọi việc đều xét định dưới ánh sáng của tình thương. Chúa nói: mọi việc bác ái chúng ta làm cho bất cứ ai, cũng là làm cho Chúa. Chỉ có một mình Vua Giêsu mới đồng hóa mình với thần dân Người, chỉ một mình Người mới hết mình lo cho nhân loại, Người sẵn sàng chết cho họ nữa…vì “Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta.” Đáng khâm phục thay…Vua Giêsu!!!
Câu chuyện: Đức Cha Gioan Cassaigne, làm TGM Saigòn từ 1940 đến 1955. Khi còn là linh mục, ngài rất quan tâm lo cho anh em Thượng K’Hor bị cùi, tại trại cùi Di Linh nhiều năm. Sau khi làm GM Saigon 15 năm, ngài đã về sống chung cùng anh em cùi Di Linh, và ngài đã ở đó 18 năm. Chính Đức Cha vì yêu thương chăm sóc anh em cùi K’Hor, mà ngài mắc phải bệnh cùi như họ và qua đời. Ngài được chôn cất tại đây giữa những người cùi, mà ngài gọi họ là anh em. Một tấm gương cao cả của lòng yêu thương như Chúa Giêsu nói: Điều gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta vậy. Gương của Cha Damien (và nhiều nguời khác), sống giữa những người cùi, rồi cùng chết với họ, đã là những tấm gương sáng ngời sẵn sàng thực hành Lời Chúa nói hôm nay…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Đón nhận Chúa và phục vụ Chúa không khó, nhưng giúp đở người khác vì danh Chúa, nhất là giúp người mà ta không thích, thật là chuyện vô vàn khó khăn. Bài TM hôm nay Chúa nói:“Điều gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta.” Ta có sẵn sàng thực hiện lời Chúa không?
82.Vua vĩnh cửu
Đức Kitô là Con Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vì thế, Ngài không phải chỉ là vua vũ trụ, mà còn là vua của thời gian, vua vĩnh cửu.
Thực vậy, trời và đất đều thuộc về Ngài. Thời gan và vĩnh cửu cũng thuộc về Ngài. Mọi sự được dựng nên vì Ngài và cho Ngài. Trên mặt đất này, không một ai được gọi là vua vĩnh cửu và cũng không một người nào được gọi là vua vũ trụ. Bởi vì quyền hành của họ chỉ ảnh hưởng tới một phần đất nhỏ vé và trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nào đó mà thôi.
Người ta kể lại hoàng đế Alexandre đã khóc khi nhìn lên bầu trời đầy trăng sao. Ông tức giận và buồn phiền, chỉ vỉ đã không cai trị được khoảng không trung bao la ấy. Ông chiếm cứ các lãnh thổ và mở rộng bờ cõi tới tận Ấn Độ. Người ta tôn kính ông như một vị thần. Nhà hiền triết Kallisthène đã bị chém đầu chỉ vì không chấp nhận điều đó. Nhưng Alexandre vẫn không phải là một vị vua vĩnh cửu bởi vì ông đã chết và chỉ sống được có ba mươi ba năm.
Hoàng đế Napoléon với những chiến thắng làm rung chuyển cả Âu Châu cũng không thoát khỏi số phận bẽ bàng của cái chết.
Tất cả chúng ta đều là con cái của thời gian. Có sáng chói. Thì cũng chỉ trong một khoảng khắc, sau đó cũng sẽ tàn lụi, rồi bị chìm vào đêm tối của quên lãng. Chỉ mình Đức Kitô mới cai trị đời đời. Chỉ mình Ngài mới là vua vĩnh cửu. Ngài là Alpha và Oméga. Là khởi đầu và kết thúc. Ngài đã có trước thời gian và sẽ còn tồn tại không bao giờ ngừng. Ngài cai trị trên mọi biển khơi và vương quốc của Ngài trải dài đến vô cùng.
Chateaubriand, một thi sĩ nổi tiếng người Pháp, đã kêu lên:
- Ôi lạy Chúa, trên trần gian các dân tộc xâu xé, các vua chúa sụp đổ, chỉ có mình Ngài mới trường tồn bất biến. Không một thế lực nào có thể lật đổ ngai tòa của Ngài.
Vậy chúng ta phải làm gì để tung hô vương quyền của Chúa?
Chúng ta có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách quì gối, làm dấu thánh giá hay chắp tay nguyện cầu? Tốt lắm, bởi vì đó là bổn phận của chúng ta như lời sách Khải Huyền đã viết:
- Con Chiên bị sát tế xứng đáng lãnh nhận quyền năng, khôn ngoan, sức mạnh, vinh dụ và chiếng thắng.
Chúng ta cũng có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương. Một con sâu làm rầu nồi canh. Một người lính hèn nhát sẽ làm cho cả đoàn quân phải tủi hổ. Một Kitô hữu xấu sẽ làm cho cả khuôn mặt Giáo Hội bị hoen ố. Vì thế, đừng lăn xả vào đống bùn nhơ tội lỗi, trái lại hãy thực sự là người môn đệ của Đức Kitô trong ngày Chúa Nhật cũng như trong ngày thường, trong đời sống riêng tư cũng như trong sinh hoạt xã hội.
Chúng ta còn có thể chúc tụng Vua chúng ta bằng cách rao giảng Phúc âm, làm việc tông đồ, và nhất là bằng cách can đảm làm chứng cho đức tin. Thực vậy, giữ đức tin mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống đức tin và phải chiến đấu cho đức tin, như lời Ngài đã nói:
- Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.
Khi một vị tướng đi duyệt đoàn quân của mình, chúng ta sẽ thấy cái quang cảnh ấy thật long trọng và hoành tráng: nào đồng phục, nào dàn chào, nào kèn trống với những lễ nghi quân cách…
Trong ngày sau hết, Vua Kitô cũng sẽ đến. Ngài nhìn xem tất cả chúng ta đi qua trước tôn nhan Ngài: già cũng như trẻ, tu sĩ cũng như giáo dân. Ngài sẽ tra hỏi mỗi người chúng ta về lòng trung thành, về tình yêu và cuộc sống của chúng ta đối với Ngài.
Vì thế, hãy tuân giữ những điều Ngài truyền dạy và nhất là thực hiện những hành động bác ái yêu thương, để chúng ta sẽ không bị Ngài loại trừ, trái lại sẽ được Ngài đón nhận vào vương quốc vĩnh cửu của Ngài.
83.Phán xét
Vào ngày cuối cùng Chúa Giêsu sẽ hiện đến, uy quyền như một vị vua để phán xét tất cả chúng ta. Thế nhưng, đâu là nội dung của cuộc xét xử ấy?
Nội dung của cuộc xét xử ấy thật là bất ngờ. Ngài không xét hỏi về những việc mà người ta có thể đang chờ đợi, chẳng hạn như: có đạo hay không? Có siêng năng đọc kinh xem lễ, có ăn chay hãm mình hay không? Nhưng Ngài chỉ xét hỏi người ta về tình thương. Không phải tình thương chung chung, hay là tình thương trong ý tưởng, trong mơ ước, nhưng là một tình thương cụ thể được chứng tỏ bằng những việc làm thiết thực đối với những con người bằng xương bằng thịt. Cho kẻ đói được ăn, cho kẻ được khát uống, viếng thăm kẻ bệnh tật và tù đày, tiếp rước khách lạ bơ vơ.
Nhưng điều bất ngờ hơn nữa chính là lời Đức Kitô tuyên bố:
- Mỗi lần các ngươi làm những điều ấy cho một kẻ khốn khổ là các ngươi làm cho Ta.
Những người bị xét xử đều nhất loạt thắc mắc, người tốt cũng như kẻ xấu:
- Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói khát, rách rưới, bệnh tật, bị cầm tù hay là khách lạ đâu?
Nhưng mặc cho người ta thắc mắc, lời Chúa dạy thật rõ ràng: người khốn khổ bất cứ dưới hình thức nào đều là hiện thân của Chúa. Ngài tự đồng hóa mình với họ. Vậy thì rõ ràng mọi việc chúng ta làm vì tình thương đối với đồng loại đều là việc đạo đức hết.
Không phải chỉ có Kitô giáo mới dạy phải yêu người. Những điều đặc sắc trong Kitô giáo là gắn liền lòng thương người vào lòng mến Chúa, coi đó là nhiệm vụ tiêu biểu của người có đạo, tức là mặc cho tình thương người một tính cách tôn giáo và có giá trị cao cả nhất.
Tai hại thay nhiều người chúng ta lại không sống như thế. Nhiều lúc chúng ta chỉ lo qui hướng về Chúa mà quên đi người anh em. Chúng ta chỉ lo sống đạo trong nhà thờ mà không sống đạo giữa lòng cuộc đời. Trong nhà thờ chúng ta sốt sắng đọc kinh, nhưng ngoài xã hội chúng ta lại chửi bới, bất công và ghen ghét nhau ra trò.
Tại Đại hội Thánh Thể năm 1982 ở Lộ Đức, Đức cha Camara đã kể lại một câu chuyện như sau:
Có một số nông dân đến gặp tôi. Họ kể lại rằng một tên ăn trộm đã đột nhập vào nhà thờ, cậy cửa nhà tạm và lấy Mình Thánh mang đi. Hôm sau, họ đã tìm thấy bánh thánh nằm vương vãi trong bùn nhơ. Nói tới đây họ đã bật khóc. Rồi họ xin tôi dâng một lễ tạ ơn.
Dĩ nhiên là tôi vui lòng dâng lễ và trong buổi lễ tôi đã nói với họ đại khái như sau:
- Chúng ta thật mù quáng biết bao. Chúng ta đã sững sờ khi thấy bánh thánh nằm giữa bùn nhơ, nhưng đó lại là một hiện tượng xảy ra hằng ngày. Chúng ta gặp thấy Đức Kitô mỗi ngày trong những căn nhà ổ chuột. Đức Kitô hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng hiện diện thực sự trong nỗi cùng khổ của con người.
Rõ ràng việc bác ái là thành tích duy nhất được kể đến trong ngày phán xét. Việc bác ái là chúng chỉ duy nhất để được nhận vào số những người được Chúa Cha chúc phúc. Làm việc tôn giáo mà thiếu tình bác ái thì cũng không được Chúa thừa nhận. Đức Kitô vua tình yêu. Vương quốc của Ngài là vương quốc tình yêu. Vì thế, chỉ có một cách để thực sự thuộc về Ngài là yêu thương.
Chúng ta thích mang nhãn hiệu. Nhưng chỉ có một nhãn hiệu đáng kể, đó là lòng bác ái, đó là tình yêu thương. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng bác ái yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi.
84.Chúng ta là một phần của phong trào lớn lao
Ngày đầu tiên của tháng 9 năm 1939, Hitle đã xâm chiếm Ba Lan và đặt một khởi đầu thúc đẩy chiến tranh thế giới lần thứ hai. Bây giờ chúng ta nhận biết rằng hành động xâm lược thô bạo này là hành động của một kẻ ngông cuồng, nhưng vào lúc đó ông ta đã thuyết phục được nhiều người trong quốc gia của mình, là ông ta sẽ dẫn họ đến sự vĩ đại.
Những bản năng ghê gớm này ngự trị trong trái tim con người. Một trong những bản năng đó sinh ra khát vọng là trở nên phần tử của một hội đoàn lớn lao nào đó, hay có liên quan đến một phong trào nào có thể thay đổi được lịch sử, hay trở thành bất tử thông qua việc chia sẻ một hệ thống kinh doanh lớn lao tầm cỡ thế giới.
Xuyên qua lịch sử của những người vô lương tâm, những người đã sử dụng những bản năng mạnh mẽ này. Adolf Hitler là gương đầu tiên của cái tôi kỳ quặc đã chiếm hữu những gì mà hôm nay được gọi là “thần thánh”, nó có thể thay đổi quốc gia như một chiếc đũa thần trong tay của ông. Từ sự nhận biết trong quá khứ chúng ta phải ngạc nhiên về con người có trách nhiệm và lý trí đã dễ dàng bị lừa bịp, cho nên chúng ta nhận ra rằng sự đói khát đam mê của chúng ta là muốn trở nên một điều gì đó. Bởi vì Hitler đã hiểu đam mê này. Hitler đã đặt căn bản cho những bài hùng biện trên nguyên tắc là nếu nói dối anh hãy nói dối cho đủ mạnh để mọi người tin vào sự nói dối ấy. Quả thật, ông ta đã đòi hỏi dân tộc của mình hãy đứng về phía ông ta để mục đích một nòi giống hùng mạnh có thể đạt được sự hoàn hảo.
Tội lớn nhất của Hitler không phải là hành động dã man khủng khiếp, hành động đó đã mang đến sự hành hình hàng triệu người qua những trại tập trung. Cũng không phải là sự kiện ông ta đã biến thời cuộc thành thế chiến thứ hai, mà tội lớn nhất của ông ta là tội phạm thánh, quả thật ông ta đã ước ao đặt ngai cuả mình trong quả tim con người, một chỗ mà chỉ thuộc về Đức Kitô. Hiler và những kẻ vô lương tâm giống như ông ta thì còn xấu hơn những tiên tri giả nữa. Họ là những kẻ báng bổ phạm thánh hiện diện đứng trước nơi thánh.
Đức Kitô là Vua của chúng ta đã ngự trị trên mọi tạo vật. Chỉ một mình Ngài xứng đáng để lãnh nhận ngai báu trong trái tim của chúng ta. Dù Ngài là quyền năng, Ngài không chiến thắng trên trái tim của mình và trái tim của chúng ta bằng sức mạnh của sự chinh phục.
Đúng hơn, Ngài mời gọi chúng ta trở thành dân của vương quốc đời đời và hoàn vũ của Người. Ngài không áp đặt trên bản năng của chúng ta sẽ trở nên những thành phần lớn lao; Ngài đã làm viên mãn bản năng của chúng ta.
Vương quốc của Ngài là vương quốc không có sự giả trá, lường gạt hay bởi sự phá huỷ, là vương quốc của chân lý và là sự sống. Đó là một vương quốc, không phải của sự xấu và sự lường gạt, nhưng là của sự thánh thiện và ân sủng. Đó là một vương quốc không phải của sự độc tài, chiếm hữu, oán ghét, cưỡng bức, nhưng của sự công chính tình yêu và bình an. Như là một phần tử của Giáo Hội, chúng ta được mời gọi để trở nên một bí tích cho vương quốc này, một dấu hiệu cho thế giới về những gì mà vương quốc thật sự của Thiên Chúa làm.
Vương quốc này đã hiện diện và sẽ ngự đến. Nó hiện diện ở giữa chúng ta trong những hình thức bất toàn, nhưng trong cách chúng ta sống như là những tín hữu sẽ giúp mang đời sống đó đến sự hoàn hảo khi Chúa Kitô đến một lần nữa trong vinh quang.
Chúng ta không cần trở thành một dân tộc quan trọng, cuộc sống của họ sẽ hấp thụ một lối sống đẹp, trong một đời sống tầm thường hay công việc tầm thường dẫn tới việc không thể tránh được là một cái chết vô nghĩa. Đời sống thì không ngớ ngẩn. Đời sống là một sự thông dự vào một phong trào lớn lao trong lịch sử như là một tín hữu trung thành theo Đức Kitô là Vua.
Những nài xin trung thành với Đức Kitô Vua.
Chúa nhật này là một thời gian thích hợp để nài xin sự trung thành với Đức Kitô. Theo mẩu lời kinh được đề nghị sau đây là nền tảng trong lời nguyện đầu lễ trong kinh nguyện Thánh Thể ngày lễ trọng này. Hoặc có thể được dùng trong thánh lễ khi mọi người lập lại những dòng nài xin này sau vị linh mục hoặc thừa tác viên khác.
Chúng con xin trung thành với Đức Kitô Vua.
Chúng con ao ước và âu yếm vũ trụ của Người.
Chúng con nhận biết vương quốc của Ngài là một vương quốc sự thật và sự sống, Của sự thánh thiện và ân sủng.
Chúng con cũng ước ao làm những gì chúng con có thể,
Để qua lời cầu nguyện và hành động có thể mang thế giới này về với vương quốc của Người,
Một vương quốc của bình an, công bình và tình yêu.
85.Lễ Chúa Kitô Vua
"Hoàng tử và người hành khất" là câu chuyện của Mark Twain về hai em bé sống cách đây 300 năm ở nước Anh. Hai em bé không chỉ là bạn tốt của nhau, mà chúng còn giống nhau như như anh em sinh đôi. Một em là Edward, hoàng tử xứ Wales, em kia là Tom Canty, một chú bé nghèo khổ.
Một ngày kia, thật là trò vui, hai em quyết định chuyển địa vị, chúng thay đổi quần áo. Edward mặc quần áo rách tả tơi của đứa trẻ nghèo khổ và đi lang thang khắp các khu nhà ổ chuột ở London, sát cánh với những người hành khất và thấp kém.
Sau một thời gian hai chú bé mệt mỏi vì trò chơi của chúng. Trong bộ quần áo rách rưới, Edward cố gắng nói cho người cảnh sát biết rằng chú là hoàng tử. Nhưng chú bị tống giam. Ngay khi Tom sắp sửa được phong vương, Edward tỏ lộ và thuyết phục các viên chức chú là hoàng tử thật. Do kết quả kinh nghiệm của mình, Edward trở thành một nhà lãnh đạo công minh và nhân ái.
Tình cảnh giữa Chúa Kitô và chúng ta cũng có cái gì giống như thế. Chúa Kitô là hoàng tử, Con thật của Thiên Chúa. Ngài đã chuyển địa vị với chúng ta, những kẻ nghèo khó. Ngài mang lấy thể xác nghèo hèn chúng ta. Rồi Chúa Kitô làm cho mỗi chúng ta thành hoàng tử bằng cách mặc cho chúng ta áo ân sủng của Ngài, chia sẻ chính sự sống thần linh của Ngài cho chúng ta.
Là Thiên Chúa, Chúa Giêsu biết những thống khổ của loài người. Nhờ trở thành con người, Ngài thực sự chịu đau khổ như mọi người phải chịu. Như hoàng tử trong câu chuyện, Chúa Giêsu học biết yêu thương những người nghèo khổ, Chúa Giêsu học biết yêu thương những người thiếu thốn mọi sự.
Bạn đừng ngạc nhiên vì Chúa Kitô, Vua của chúng ta, đặt để thử thách này cho được vào nhà vĩnh cửu của Ngài: Bạn có giúp đỡ những người thiếu thốn không? Tin Mừng hôm nay là một trong những truyện quan trọng nhất của Chúa Kitô - Tin Mừng cho những người giúp đỡ những ai thiếu thốn, tin buồn cho những ít hay không chú ý đến những nhu cầu của người khác.
Hôm nay bạn hãy xét mình đi. Bạn có bao giờ cung cấp của ăn cho người túng đói không? Có lẽ bạn chưa bao giờ gặp mầu nhiệm chết đói. Tuy thế ai cũng biết có hàng triệu người đang phải chịu cảnh đói. Bạn có giúp đỡ gì qua các cơ quan từ thiện không? Có khi nào bạn thăm viếng tù nhân không? Không phải chỉ là những người ở sau hàng giậu sắt, nhưng còn là những người ở sau hàng giậu cô đơn, dốt nát, sầu khổ.
Bạn đã làm gì cho những người chết đói về tinh thần, bệnh tật về tinh thần, xa lạ về tinh thần, bị giam hãm về tinh thần? Nếu bạn mới chỉ làm ít hay chưa làm gì, thì bạn hãy nghe lệnh truyền "Khởi hành".
Tin Mừng còn đi xa hơn, những gì bạn làm cho người túng thiếu là bạn làm cho chính Chúa Kitô. Hãy lưu ý: "Ta đói... khát... ốm đau... là khách lạ". Những gì các con làm hay không làm, là các con đã làm hay không làm cho chính Ta. Chúa Kitô tự đồng hóa với những người túng thiếu, Vua chúng ta đói, Vua chúng ta khát, Vua chúng ta là khách lạ, Vua chúng ta trần trụi, Vua chúng ta yếu đau. Vua chúng ta bị cầm tù.
Phải, chúng ta phụng sự và tôn thờ Chúa Giêsu Kiô Vua chúng ta trên bàn thờ này, nhưng chúng ta cũng phải phụng sự và tôn thờ Ngài trong những người túng thiếu của Ngài. Rồi Ngài sẽ gọi chúng ta vào buổi tận cùng. "Hãy đến".
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
86.Lễ Chúa Kitô Vua.
Chúng ta hãy tưởng tượng giả sử ngày hôm nay có một người khách lạ nào đó chưa bao giờ nghe đến Kitô giáo là gì, và người đó đang ở giữa chúng ta, cùng tham dự Thánh lễ Chúa Nhật hôm nay với chúng ta, khi nghe chúng ta tung hô "Chúa Giêsu là Vua vũ trụ". Ngỡ ngàng, người đó hỏi chúng ta: "Quí vị có một vị Vua à? Ngài ở đâu? Làm sao có thể gặp Ngài được?". Lúc đó có lẽ đức tin sẽ soi sáng giúp chúng ta tìm ra những câu trả lời thật hay, thật ý nghĩa. Nào là Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha kể từ khi Ngài từ cõi chết sống lại. Nào là Ngài đang hiện diện với cộng đoàn các tín hữu. Nào là Ngài là Vua của vũ trụ, vì Ngài đã tạo dựng vũ trụ này cho con người.
Đó là những câu trả lời đúng nhưng chưa đủ, vì chưa trả lời câu hỏi: "Làm sao để gặp được Ngài?. Trong đời sống cụ thể của chúng ta, Chúa Giêsu đang ngự trị ở đâu? Lúc nào và thế nào? Ngài hiện diện ở bất cứ nơi nào của một con người, bất luận nam hay nữ, màu da hay sắc tộc hoặc ngôn ngữ nào. Bởi thật, tất cả những ai đang khao khát muốn tìm gặp được Ngài và muốn yêu mến Ngài, chúng ta phải cố gắng thực hành đức bác ái huynh đệ đối với những người anh chị em ấy.
Với niềm tin đích thực của người Kitô hữu, chúng ta tin rằng Chúa Kitô Vua vũ trụ đang hiện diện và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống, nhưng Ngài đang bị xã hội ruồng bỏ và quên lãng. Sự hiện diện của Chúa Kitô luôn ở bên những người nghèo khổ, rách rưới bị mọi người bỏ rơi. Ngài hiện diện nơi những ngươi bệnh hoạn tật nguyền đang mất hết ý vị của đời sống mà hằng ngày phải chết dần, chết mòn bởi sự cô đơn buồn tủi. Ngài hiện diện nơi những người bị bạc đãi và bị hiểu tầm, vì là nạn nhân của tranh giành ganh tị, chỉ vì khác ý thức hệ, đang lủi thủi chịu số phận hẩm hiu mà không biết than thở cùng ai. Ngài hiện diện nơi những trẻ em bạc phúc bị ruồng rẫy, lầm lạc, đang tìm kiếm một cách vô vọng một chút lương tâm, một chút yêu thương của người khác để lớn lên và phát triển.
Thật vậy, nước Ngài sẽ bao trùm cả nhân loại, vương quốc của Ngài sẽ rạng rỡ huy hoàng khi người khó nghèo được chia cơm sẻ áo, khi con tim người bệnh hoạn tật nguyền buồn đau khổ sầu được an ủi nâng đỡ, khi nhân loại mở rộng vòng tay đón nhận những đứa trẻ chưa bao giờ được yêu thương. Nước Ngài sẽ đến khi công bình và bác ái ngự trị, cho nên vương quốc của Ngài là vương quốc của "Tình Yêu". Tình yêu đó được thể hiện qua từng hành động, từng lời nói của Đức Giêsu Kitô, Vị Vua Chí Tôn Chí Thánh.
Khi đọc Tin Mừng của Ngài, chúng ta chỉ thấy sứ điệp của Ngài là sứ điệp "Yêu Thương", một vị Vua luôn chăm sóc và dạy dỗ thần dân con đường hạnh phúc thật, để cùng nhau sống yêu thương hạnh phúc ở đời này như là một tiền nghiệm của hạnh phúc trường sinh đời sau, nơi nước tình yêu không bao giờ tắt.
Là con dân của nước Thiên Chúa, nước của tình yêu, chúng ta hãy cùng nhau làm tròn bổn phận công dân của mình là góp phần xây dựng cho tình yêu được ngự trị lên mặt đất này. Nếu tôi yêu mến Chúa, tôi không thể nào ngồi yên để hưởng tiện nghi trong đời sống của tôi, trong lúc bao nhiêu người lầm than cực khổ xung quanh tôi đang cần đến tình yêu thương chia sẻ. Tôi biết rằng, tôi không thể làm được gì thêm cho Chúa cả, vì Người là Đấng trọn tốt trọn lành. Nhưng tôi là thần dân trong nước của Chúa, tôi không mang lại cho anh chị em của tôi một cái gì và đó chính là điều tôi bị xét đoán. Sự xét đoán ấy là xét đoán về tình yêu đối với đồng loại.
Vì thế, nếu tôi chỉ biết thu mình trong cái vỏ ốc ích kỷ, tôi cũng sẽ nghe Chúa tuyên phán với tôi rằng: "Ta đói các ngươi không cho ăn, Ta khát các ngươi không cho uống. Ta rách rưới các người không cho áo mặc. Ta không có nơi cư ngụ, các ngươi không cho nơi nương tựa. Ta là người nghèo khó vô sản, ngươi đã không thiết tập lại công bình". Rồi còn bao nhiêu án nữa sẽ tuôn xuống trên con người không biết thương xót.
Yêu ai thì giống người ấy. Tôi không thể yêu Thiên Chúa là Vua Tình Yêu, khi tôi không giống Người là Đấng hay thương xót. Tình yêu của con người đối với Thiên Chúa là chiêm niệm và cầu nguyện, nhưng đối với tha nhân là linh hoạt và hay phân phát. Cho nên khi đã nhận Đức Giêsu Kitô là Vua chúng ta phải cố gắng sống xứng đáng là công dân của nước Người, nước của tình yêu.
87.Chúa Giêsu là vua
Vào năm 1925, Đức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập lễ Đức Kitô vua, mục đích là để xác định vai trò và chỗ đứng đặc biệt của Chúa Giêsu trong đời sống riêng tư của mỗi người, cũng như trong sinh hoạt của cộng đồng Giáo hội. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về tước hiệu cao cả này.
Trước hết là trong Cựu Ước.
Với những thánh vịnh, vua Đavít đã cho chúng ta thấy Đức Kitô chính là vua, một vị vua hòa bình sẽ đến để cai trị trong yêu thương:
- Ta sẽ đặt một vị vua ở Sion, trên núi thánh của Ta.
Trong khi đó, tiên tri Isaia lại giới thiệu với chúng ta một vị vua đầy quyền năng:
- Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ phụ Ngài, Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Ngài sẽ không bao giờ cùng.
Tiếp đến là trong Tân Ước.
Qua Tin Mừng, chúng ta thấy được nơi Đức Kitô hình ảnh ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài là một vị vua vinh hiển, điều khiển cả vũ trụ. Và trong ngày sau hết, Ngài sẽ đến trên mây trời để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Chính Đức Kitô, trong những giây phút cuối cùng, đối diện với cái chết, Ngài vẫn xác quyết trước mặt Philạô:
- Phải, tôi là vua.
Chính vì thế, bản án của Ngài đã được ghi:
- Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái.
Thế nhưng, tước hiệu Kitô vua nổi bật hơn cả trong bầu khí phụng vụ. Đúng thế, chúng ta có thể nói: Tất cả niên lịch phụng vụ đều xoay quanh chủ đề này.
Thực vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta mong đợi một vị vua sẽ đến. Với lễ Giáng sinh, chúng ta không chỉ mừng kính một hài nhi bé nhỏ nơi máng cỏ Bêlem, mà còn mừng kính một vị vua hòa bình. Nhất là với lễ Hiển linh, chúng ta nhìn thấy vị vua ấy xuất hiện và tỏ lộ vinh quang cho muôn dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ Phương Đông. Và chúng ta có thể tóm kết tinh thần của mùa giáng sinh, đó là Đức Kitô đến để thiết lập một vương quốc của ánh sáng và tình thương.
Bước vào mùa phục sinh, Giáo hội không phải chỉ dừng lại ở những đau khổ của Đức Kitô, nhưng qua những đau khổ ấy, Giáo hội còn nhìn thấy cả chiến thắng vinh quang của Ngài. Trong ngày lễ lá, chúng ta tưởng nhớ biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, một cách long trọng như một vị vua và chúng ta không ngừng tung hô:
- Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô Chúa trên các tầng trời.
Tiếp đến, ngày thứ sáu tuần thánh, ngày u buồn nhất của năm phụng vụ, chúng ta thấy Giáo hội đã nhìn thập giá như ngai tòa, như lá cờ của một vị vua đang tiến lên, như bước khởi đầu cho vương quốc của Chúa, như lời Ngài đã phán:
- Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.
Rồi trong ngày lễ Phục sinh và lên trời, chúng ta mừng kính cuộc khải hoàn của Đức Kitô, để rồi từ đó Ngài vĩnh viễn thiết lập vương quốc và trở thành vua của cả vũ trụ.
Tóm lại, niên lịch phụng vụ luôn nhìn ngắm Đức Kitô như một vị vua. Đó cũng là điều mà toàn thể thế giới Công giáo ngày hôm nay tuyên xưng.
Thế nhưng tuyên xưng mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống điều chúng ta đã tuyên xưng, nghĩa là, chúng ta phải trung thành với Chúa bằng cách khử trừ tội lỗi, bằng sống một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó góp phần làm cho vương quốc của Đức Kitô được mở rộng trên trần gian này.
88.Tình yêu
Vào khoảng giữa thế kỷ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Côcadơ ở phía nam nước Nga, được cai trị bởi một ông vua Hồi giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực, ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng, hối lộ. Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó thì tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng hay hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng. Điều không may xảy ra cho ông, người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông, sự kiện này làm cho ông đau khổ khó nghĩ. Không có luật trừ hay châm chước nào đối với sắc lệnh mà ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua ngồi yên trong phòng để suy nghĩ, sang ngày thứ tư, ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai người lính trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo luật định. Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa quất xuống trên người mẹ ông, thì nhà vua liền chạy đến bên cạnh bà, ông mở trói cho bà, rồi ra lệnh cho hai người lính trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc đánh roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua, với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng và nói: “Bây giờ thì các ngươi có thể ra về, luật đã được thi hành, máu của vua các ngươi đã chảy ra để đền bù cho tội ác này”. Kể từ ngày đó, trong đất nước, người ta không còn bao giờ nghe đến nói tội tham nhũng hay hối lộ nữa.
Hình ảnh của ông vua trên đây có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào điều mà Giáo Hội gọi là mầu nhiệm nhập thể cứu độ. Chúa Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa hoá thân làm người để cứu độ con người. Cũng như ông vua Hồi giáo trên đã chịu đòn thay cho mẹ và diệt trừ tham nhũng, hối lộ khỏi đất nước, Thiên Chúa đã mang lấy thân phận con người, trải qua tất cả những cảnh huống của con người, kể cả cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ con người.
Nói rõ hơn, Thiên Chúa yêu thương con người. Tình yêu ấy không phải là một lý thuyết trừu tượng nhưng đã trở nên hữu hình, và loài người có thể cảm nghiệm được qua con người và cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là chính tình yêu của Thiên Chúa giữa người trần, có nghĩa là vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho chúng ta. Ngài dùng con Ngài để thực hiện ý định yêu thương của Ngài, như thánh Gioan đã viết: “Cứ dấu này chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, là Ngài đã sai con một xuống trần để cứu chuộc chúng ta”. Chúa Giêsu đã đến, Ngài đã giảng dạy và cuối cùng, Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá. Thập giá là đỉnh cao cuộc đời Chúa Giêsu và cũng là đỉnh cao tình yêu của Thiên Chúa, như Chúa đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn là hiến mạng sống vì người mình yêu”.
Nếu Thiên Chúa là tình yêu và yêu thương là chính bản tính của Ngài, thì đạo của Ngài hẳn phải là đạo yêu thương. Vì thế, Chúa dạy chúng ta phải sống yêu thương và Chúa coi những việc chúng ta làm cho người khác là chúng ta làm cho chính Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay đã thuật lại. Rồi trước khi chấm dứt cuộc đời rao giảng Tin Mừng ở trần gian, Chúa còn quả quyết: “Tôi bảo thật, những gì anh em làm cho một trong những người bé nhỏ của tôi, là anh em đã làm cho chính tôi”. Như vậy, Chúa Giêsu tiếp tục nhập thể nơi người anh chị em, và Ngài tiếp tục nơi chính mỗi người Kitô hôm nay. Ngài cần đến đôi tay chúng ta để phục vụ. Ngài cần đến môi miệng chúng ta để nói lên lời an ủi khuyến khích. Ngài cần đến trí hiểu và con tim chúng ta để sống tình liên đới yêu thương. Ngài cần đến đôi chân chúng ta để đến với mọi người.
89.Tình thương
Cách đây ít lâu, một người lính Mỹ đang ngồi trên xe buýt ở Thụy Điển nói chuyện với một người đàn ông ngồi bên cạnh rằng, “Nước Mỹ là một quốc gia dân chủ nhất trên thế giới. Những người công dân bình thường có thể đi tới toà Bạch Ốc để gặp tổng thống và thảo luận công việc”. Người đàn ông bên cạnh trả lời, “Điều đó đâu có đáng là gì. Ở Thuỵ Điển, nhà vua và dân chúng cùng đi với nhau trên cùng một chiếc xe buýt kìa”. Khi người đàn ông vừa nói chuyện đó bước xuống khỏi xe buýt, người lính Mỹ đã được các hành khách khác còn lại trên xe nói cho biết người ấy chính là vua Gustav Adolf VI.
Trong bài Phúc âm hôm nay nói về “Dụ ngôn cuộc phán xét chung” nói lên những điều nghịch thường của đức tin Kitô giáo. Ngày nay nói đến sự cai trị, người ta nghĩ đến sức mạnh của vũ trụ, quyền lực, kinh tế, tiền bạc, quảng cáo, thị trường… Chúa Giêsu nói đến sự cai trị bằng tình yêu, phục vụ và trách nhiệm. Chúa Giêsu là Đức Vua. Người đến không phải để được phục vụ, nhưng phục vụ, và hy sinh mạng sống của Người làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Vương quốc của Người gồm những người cùng cực, nghèo khổ, đói khát, trần truồng, bị bỏ rơi và tù tội. Những ai săn sóc, phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của họ thì thuộc về vương quốc của Người.
Ngược lại, chúng ta sẽ bị phạt “nếu chúng ta bỏ qua không đáp ứng những nhu cầu nghiêm trọng của những người nghèo khó và của những kẻ bé mọn, anh chị em của Ngài”. “Thiên Chúa chúc phúc cho những ai giúp đỡ những người nghèo và Ngài lên án những kẻ ngoảnh mặt đi”. Trong cuốn sách “One Heart Fullof Love”, Mẹ Têrêsa Calcutta cũng đã cảnh giác:
“Đức Kitô đã lấy sự trao ban trọn vẹn toàn thân mình làm điều kiện để có sự sống. Người sẽ phán xét chúng ta khi giờ chết đến. Chúng ta sẽ được xét đoán trên những gì đã làm cho người nghèo khổ, trên thái độ chúng ta đối với họ. Người nói với chúng ta: “Ta đói nhưng các ngươi đã không cho Ta ăn. Ta đói bánh, đói sự công bằng, đói nhân phẩm con người, nhưng các ngươi đã bỏ mặc Ta! Ta trần truồng và bị tước hết mọi điều cần thiết, Ta bị sự công bằng chối từ, và ngay cả điều đơn giản nhất được nhìn nhận rằng Ta cũng giống như các ngươi, được cùng một Thiên Chúa tình yêu tạo dựng nên để yêu thương và được yêu thương, ngay chính điều đơn giản đó, Ta cũng bị khước từ. Các ngươi đã để mặc Ta chết, mặc Ta cô đơn và bị xua đuổi. Ta đã bị quẳng ra đầu đường xó chợ, không một ai đoái hoài, không một ai thương xót và chôn vùi trong quên lãng”.
Một người thanh niên tên là Michael Christensen đã trải qua một thời gian phục vụ chung với Mẹ Têrêsa trong những xóm dân nghèo ở Calcutta. Trong cuốn sách của anh tựa đề là “City Streets, City People”, anh mô tả về một gánh nặng đau đớn không thể tưởng tượng nổi mà Mẹ Têrêsa đã phải chứng kiến mỗi ngày:
Anh kể lại rằng một ngày nọ Mẹ Têrêsa đã cứu được một em bé bị bỏ rơi dưới cống rãnh. Cánh tay và bàn chân của em đã bị lũ chuột rúc rỉa mất gần hết. Vào cuối ngày hôm đó, Mẹ Têrêsa hỏi Michael Christensen rằng anh đã trông thấy Chúa Giêsu chưa. Christensen vẫn còn đang tập trung vào những hình ảnh kinh hoàng xẩy ra chung quanh, đã chấp nhận rằng anh không thấy Chúa Giêsu ở đâu cả. Mẹ Têrêsa đã dùng những lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong chương 25 của thánh Matthêu về việc săn sóc những người nghèo đói, yếu đuối để giải thích cho anh. Và sau cùng Mẹ chỉ nói rất đơn giản rằng, “Con đã làm cho chính Ta”. Mẹ Têrêsa đã nhìn thấy Chúa Giêsu chung quanh Mẹ mỗi ngày.
90.Tình thương
“Dụ ngôn cuộc phán xét chung” cũng trình bày một bối cảnh người mục tử tách rời chiên ra khỏi dê. Đây là điểm sẽ tạo nên ngạc nhiên. Ai là chiên? Ai là dê? Đã có những người không nhận ra rằng họ đang phục vụ cho Chúa Kitô khi họ cho những người đói khát ăn uống, cho kẻ mình trần mặc, đón tiếp khách lỡ đường, viếng thăm người đau ốm, tù đày. Và cũng có những người đã không nhận ra rằng họ đã thực sự chểnh mảng, không săn sóc Đức Kitô, khi họ làm ngơ trước những nhu cầu của những người nghèo khổ.
Ngày 12 tháng 4 năm 1961, phi hành gia Yuri Gagarin của Nga Sô, người đầu tiên bay vào không gian du hành xung quanh quỹ đạo của trái đất, tuyên bố khi trở về rằng đã không nhìn thấy Thiên Chúa ở bất cứ nơi nào trong cuộc hành trình vào không gian bao la của mình. Nghe được lời phát biểu của ông, một linh mục người Nga đã bình luận rằng: “Nếu bạn chưa nhìn thấy Thiên Chúa trên trái đất, bạn sẽ không bao giờ nhìn thấy Ngài ở trên các tầng trời được”. Thật đáng thương cho Yuri, vào năm 1968 ông đã bị tử nạn trong một tai nạn máy bay khi làm huấn luyện viên phản lực cơ MIG.
Làm thế nào để tìm thấy Thiên Chúa trên trái đất? Chúa Giêsu trả lời: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù các ngươi đã đến thăm”. “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
Văn sĩ Kitô giáo, C.S. Lewis, người đã chết vào cùng ngày với tổng thống John F. Kennedy bị ám sát, đã đưa ra nhận xét này. “Khi chúng ta đi lên trời, sẽ có ba điều ngạc nhiên: Trước hết, chúng ta sẽ ngạc nhiên bởi những người chúng ta gặp thấy ở đó, chắc chắn rằng nhiều người chúng ta không mong muốn nhìn thấy họ. Ngạc nhiên thứ hai là chúng ta sẽ kinh ngạc vì những người vắng mặt – những người chúng ta đã nghĩ rằng phải ở trên thiên đàng, nhưng lại không có mặt. Ngạc nhiên thứ ba, dĩ nhiên, sẽ là vì chúng ta có mặt ở đó.
Phúc âm nói rất rõ, người được cứu và người không được cứu, chiên và dê sẽ bị phân chia ra bởi tiêu chuẩn căn bản dựa trên những việc làm bác ái yêu thương, chứ không phải dựa vào danh giá, chức vụ và địa vị xã hội. Và đây chính là điều làm cho nhiều người phải ngạc nhiên.
Một văn sĩ Kitô giáo khác, Frederick Buechner đã diễn tả cùng một tư tưởng này như sau: “Nhiều người vô thần là một người có lòng tin mà không biết. Ngược lại, nhiều người có lòng tin lại là một người vô thần mà không hay biết. Bạn có thể thành thật tin tưởng rằng không có Thiên Chúa nhưng lại sống như thể có một Đấng Tối Cao. Ngược lại bạn cũng có thể thành thật tin tưởng rằng có một Thiên Chúa nhưng lại sống như thể không có gì”.
Chưa bao giờ sự chênh lệch giữa những người giàu có và những người nghèo khổ lại càng ngày càng tách biệt như ngày nay. Người Mỹ chiếm tỷ lệ 4/o dân số thế giới, nhưng đã tiêu thụ đến 40/o số dầu hỏa của nhân loại. Họ nắm trong tay 80/o của cải của thế giới. Tài tử Jack Nicholson chỉ nói mấy câu tếu táo trong phim Batman đã lãnh được 10 triệu đôla. Nhà võ sĩ quền Anh hạng nặng Buster Douglas xuất hiện trên võ đài 7 phút để bị thua trận đổi lấy 24 triệu đôla. Tài tử Bill Cosby với lợi tức cả trăm triệu đôla hàng năm nếu di chuyển đến sống ở một quốc gia nhỏ bé nào đó, có thể làm cho lợi tức của toàn thể quốc gia đó tăng lên gấp đôi. Ca sĩ Michael Jackson đã thương lượng với nhà xuất bản để ra một CD với hợp đồng đòi hỏi tăng từ 18 triệu tới 25 triệu đôla. Tất cả các cầu thủ thể thao về bóng rổ, baseball và football, đều là các triệu phú! Michael Jordan ký hợp đồng 37 triệu đôla một năm…
Trong khi đó theo báo cáo của hội nghị quốc tế về tình trạng của các trẻ em trên thế giới. Mỗi năm, có khoảng 14 triệu trẻ em chết oan uổng vì đói ăn, suy dinh dưỡng, và thiếu sự săn sóc về thuốc men. Bà Oprah Winfrey trên show truyền hình đã đề nghị rằng chỉ cần mỗi người Mỹ bỏ ra 19 xu một tuần, chưa tới 10 đôla một năm, có thể cứu vớt được 14 triệu sinh mạng trẻ em dễ dàng. Có người đề nghị rằng chỉ cần cắt giảm 10/o ngân sách quốc phòng của Mỹ cũng có thể cứu sống được 14 triệu sinh mạng hàng năm.
Đối diện với tình trạng khủng hoảng của thế giới hiện nay, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi mọi người hãy dấn thân xây dựng một nền văn minh mới:
“Chính ngài nói với bạn “Hãy chỗi dậy! Hãy chỗi dậy!” Ngài yêu cầu bạn từ bỏ các ngẫu tượng của thế giới và chọn Ngài là tình yêu, thứ tình yêu mang lại một ý nghĩa hoàn toàn cho cuộc sống của bạn và kêu mời bạn hướng về tuổi xuân cũng như về mùa xuân, vui vẻ sống mùa xuân trong việc trao tặng, trao tặng chính mình, trao tặng Chúa Kitô, trao tặng Ngài cho mỗi một người chúng ta, và sau đó trao tặng chúng ta cho Ngài, trao tặng chúng ta cho tha nhân cũng như trao tặng chúng ta cho Ngài qua tha nhân. Đó là viễn ảnh của việc xây dựng một nền văn minh khác, một nền văn minh mới: nền văn minh tình thương.
Thật vậy, Giáo Hội xét như hiền thê của Chúa Giêsu, tiếp nối công việc mục vụ của Người, Giáo Hội luôn dứt khoát chọn lựa đứng về phía những người nghèo và những kẻ bị bỏ rơi. Giáo Hội đã không ngừng lên tiếng, kêu gọi và đấu tranh chống lại sự nghèo đói, bất công xã hội dưới mọi hình thức, nghèo về vật chất, tinh thần, và đặc biệt nghèo tình thương yêu.
Trong cuộc cách mạng Pháp vào năm 1789 đã xảy ra một câu chuyện về một bà mẹ đi lang thang trong rừng ba ngày với hai người con, họ không có gì ăn, phải ăn rễ và lá cây rừng để sống. Vào ngày thứ ba, bà mẹ nghe thấy tiếng của những người lính đang tiến đến gần, bà vội lôi kéo hai người con chui vào một bụi rậm ẩn trốn. Viên trung sĩ chỉ huy đám lính đi lục soát các bụi rậm đã nhìn thấy người mẹ đói khổ và hai đứa con thì chạnh lòng thương bèn đem cho họ một ổ bánh mì. Bà mẹ cầm ngay lấy nó, bẻ ra làm hai miếng, và cho mỗi người con một nửa. “Bà mẹ chẳng giữ miếng nào cho bà ấy cả”, viên trung sĩ nói. “Bà ấy không đói sao?” một người lính hỏi. “Không phải vậy, vì bà ấy là mẹ”, viên trung sĩ trả lời. Đứng trước nhu cầu của thế giới hiện nay, Mẹ Giáo Hội nhận thấy cần phải đáp lại bằng một nền văn minh của tình thương, qua lời nhắn nhủ của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tình thương đó dựa trên tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Vua của lòng thương xót, là nền tảng cho tất cả các giá trị phổ quát mà con người đang đi tìm kiếm.
91.Làm sao tự định giá
Khi Albert Einstein thường đi nhiều nơi nói về thuyết Tương Đối. Ông thường có người lái xe cho ông. Một hôm, đang trên đường, anh tài xế nói: "Thưa tiến sĩ Einstein, tôi nghe ngài giảng bài này cả chục lần, tôi thuộc lòng rồi và tôi bảo đảm tự tôi có thể giảng cũng được." Einstein trả lời: "Được lắm, tôi cho anh có cơ hội. Những người tại đại học này chưa gặp mặt tôi. Khi đến đó, tôi sẽ đội mũ tài xế và anh sẽ giới thiệu tôi là tài xế của anh rồi anh bắt đầu giảng." Mọi việc xảy ra y như họ dự tính và anh kia giảng bài một cách trơn tru. Đến khi một giáo sư đứng lên hỏi một vấn đề liên quan đến công thức toán, anh ta nhanh trí trả lời: "Câu giải đáp của vấn đề đó quá đơn giản. Tôi không ngờ giáo sư lại hỏi tôi. Để thấy vấn đề đơn giản thế nào, tôi sẽ để tài xế của tôi trả lời."
Làm thế nào để nên trọn lành? Làm thế nào để biết chính mình và mình phải làm cái gì? Làm thế nào hiểu rõ được mình thực đáng giá và thực có mục đích? Câu trả lời thật đơn giản và chúng ta nghe Chúa Giêsu trả lời: "Hãy đến, các con được Cha chúc phúc, hưởng phúc thiên đàng Cha đã sắm sẵn từ tạo thiên lập địa" (Mt 25,34). Họ đã học được bí quyết trở nên hoàn hảo. Chúa Giêsu nói tiếp về đức tính thương người, tế nhị của họ: "Các ngươi đã cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ yếu đau, tù đầy, an ủi người cô đơn..."
Chúng ta có tin lời Chúa Giêsu không? Chúng ta có chấp nhận quan điểm của Chúa Giêsu về Nước Thiên Chúa không? Chúng ta có chấp nhận khi Ngài nói đến điều để thuộc về hay không thuộc về Nước Thiên Chúa, đó là "cùng với người khác" (together) không? Theo Chúa Giêsu, để thuộc về Nước Thiên Chúa, để nên hoàn hảo, chúng ta phải đối xử tử tế với mọi người, hành động tử tế xuất phát từ lòng yêu thương quan tâm đến sự cần thiết của người khác.
Đạt được tự tin, tự trọng cao, tâm trí bình an, có cảm nghĩ mình giá trị, mình có mục đích cho cuộc sống, mình ổn định, đó là điều mọi người mong muốn. Đúng vậy, chúng ta đều muốn trở nên hoàn hảo, nhưng làm thế nào để được như vậy. Thời nay người ta viết không biết bao nhiêu sách chỉ dẫn làm thế nào gỡ rối chính mình và làm thế nào ráp nối lại chính mình. Các sách tâm lý phổ thông nhiều vô kể và nó có thể giúp được một số người nhưng đối với số đông thì nó gây rối thêm. Khi hiểu được các điều mà các nhà chuyên môn đề nghị để giải quyết vấn đề thì các điều đó nhấn mạnh rằng: "Để được thành toàn trong cuộc sống, người ta cần để ý đến nhau, cần hiểu nhau hơn. Chúng ta không thể nên viên mãn lẻ loi."
Lời Chúa Giêsu trong Phúc Âm hôm nay nói lên một cách đơn thành rằng nên hoàn hảo là tuyệt đối chấp nhận tiêu chuẩn Chúa đề ra là quan tâm đến người khác: "cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, thăm tù nhân và kẻ ốm đau."
Nước Thiên Chúa không nên coi là một viễn tượng không đạt được hay một ước mong không thực tế. Hiện thực hoá Nước Thiên Chúa tùy thuộc mỗi người chúng ta. Nước Thiên Chúa hiện hữu và phát triển ngay trong đời sống của mọi người chúng ta trên trần gian. Mỗi người chúng ta có trong mình một tình yêu được thừa hưởng vì là con cái Thiên Chúa: "Sẽ không còn sự chết, không còn buồn đau, không còn nước mắt, không còn than khóc hay đau đớn. Thế giới cũ đã qua đi." Những điều đem lại lộn xộn và phá hủy nhân loại là do con người. Trách nhiệm của chúng ta, những người theo Chúa Kitô, là bắt đầu thay đổi cái thế giới cũ đó, là bắt đầu sống một đời sống mới trong tình yêu, và đó là Nước Thiên Chúa ngay giữa chúng ta.
Thiết lập Nước Thiên Chúa trong thế giới này là một ưu tiên trước hết của những người theo Chúa Kitô. Chúng ta được gọi để công bố Nước Chúa trong hòa bình, công lý và yêu thương. Tác giả sách Khải Huyền diễn tả: "Tôi thấy trời mới đất mới. Trời cũ đất cũ đã qua đi... Tôi thấy thành thánh Giêrusalem mới xinh đẹp như cô dâu trang điểm ra gặp chú rể. Tôi nghe tiếng nói lớn: "Đây là nơi Thiên Chúa ở với con cái loài người. Họ là dân của Chúa và Chúa là Chúa của họ. Chúa sẽ ở với họ." Đây không phải chỉ là một thành phố mới nhưng là một bầu khí mới.
Làm thế nào hiểu rõ được mình thực đáng giá và thực có mục đích? Câu trả lời được tìm thấy trong lời Chúa Giêsu: "Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống..." Hãy yêu kẻ khác như Chúa yêu chúng ta và chúng ta sẽ trở nên toàn vẹn như Chúa muốn cho mỗi người chúng ta.
92.Vua tình yêu--Huệ Minh
Kính thưa Cộng Đoàn,
Chúng ta đã sống qua cái thời quân chủ rồi, không ai còn thấy cái hình ảnh nhà vua nữa! Có chăng thì thấy nhà vua qua phim ảnh, qua sách báo thôi. Nhưng mà đúng là làm vua kinh khủng quá!
Người ta nói rằng làm quan thì cả họ được nhờ, còn làm vua thì không biết làm sao nữa! Làm vua thì có quyền ghê lắm!
Và chúng ta thấy nhà vua thì dân chúng không ai được gặp mặt, không ai được nhìn thấy mặt. Chúng ta xem phim mà mỗi lần mà ta thấy, nhà vua đi vi hành thì thôi chứ. Người ta nói rằng: “Hoàng thượng giá lâm” là coi như xong rồi đó! Người ta phải rạp mặt xuống dưới đất, người ta không dám nhìn lên, chẳng may mà người nào liều mạng mà nhìn vua, thì coi như bị chu di tam tộc.
Quyền lực của ông vua ghê lắm, trong một đất nước mà đứng đầu mà! quân chủ, coi như ông vua cầm quyền sinh tử dân của mình.
Ông ta có quyền “năm thê bảy thiếp”, ông ta đủ thứ quyền trong tay ông ta cả: - Ông ta muốn người này sống, là người này sống. Ông ta muốn người kia chết, là người kia chết. Ra cái quyền lực của ông vua nó cay nghiệt, và đó là hình ảnh của vị vua trần gian .
Ngày hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng, không phải mừng Vua của trần gian mà là Vua của Vũ trụ. Vị Vua này mang tên là Giêsu.
Vương quốc của Ngài vượt ra khỏi cái trần gian này, qua khỏi cái không gian và thời gian, bởi vì Ngài hằng có và Ngài đời đời! Vương quốc của Vua Giêsu là như thế!
Và cái câu chuyện Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy rất là vui! Có một nhà chú giải cho cái câu chuyện này là: “dụ ngôn về những nỗi ngạc nhiên”.
Chứ mà tiêu chuẩn người ta đánh giá là quần thần của nhà vua là những người phải làm lợi cho nhà vua, những người mang lại những điều lợi lộc cho nhà vua.
Thế nhưng mà, đặc biệt về vị Vua Giêsu ở đây, chúng ta thấy tiêu chuẩn mà đánh giá về “quần thần của Ngài, hay là những người trong Vương Quốc” của Ngài là gì?
“Là những gì mà ngươi làm cho chính anh em đồng loại, và đặc biệt làm cho những người bé mọn.”
Và Chúng ta không thấy một vị vua nào như Vua Giêsu:
Đã từ trời cao xuống, đã xuống đồng hoá với con người; đã sống với con người, ngoại trừ tội lỗi.
Chỉ vì tình yêu và với tình yêu, Vua Giêsu đã đến trong cuộc đời này và Ngài ôm chầm tất cả con người tội lỗi, con người nghèo, những con người bệnh tật.
Ngài đến không phải để tìm hạnh phúc cho gia đình mình, cho bản thân mình, cho triều đại của mình. Nhưng ngài đã tìm hạnh phúc, đã mang lại hạnh phúc cho những con người nghèo, những con người đau khổ.
Tiêu chuẩn đánh giá của Vua Kitô là như thế đó!
Và điều ngỡ ngàn thứ hai là trong vương quốc của Ngài, không phải là vương quốc bị giới hạn bởi bởi vật chất, bởi biên giới, của địa lý.
Và đặc biệt rằng triều đại của Ngài không phải như triều đại của các vua trần gian.
Các vua trần gian thì có triều đại , có vương quốc, có vương quyền đó! Nhưng mà đến lúc nào đó nằm xuống xuôi tay, tất cả đều để lại con số 0.
Còn Vua Giêsu là Vua vĩnh viễn, và Vua mãi mãi , Vua muôn đời. Và điều mà Vua hỏi mỗi người chúng ta rằng:
- Ngày xưa Ta đói, các ngươi có cho ăn hay không?
Và những người đạo đức thì nói ngay:
- Lạy Chúa, có bao giờ con thấy Chúa đói đâu, mà cho ăn! Thấy Chúa khát đâu, mà cho uống! Có bao giờ con thấy Chúa tù đày đâu, mà đi thăm! Có bao giờ con thấy Chúa trần truồng đâu, mà cho Chúa mặc!
Biên giới của Vua Giêsu đó là biên giới của tình yêu, ta khám phá ra khuôn mặt của CHÚA Giêsu Kitô làm vua.
Và ta nhìn lại cuộc đời của mỗi người Kitô hữu là những người sống trong Vương Quốc của Chúa Giêsu đó. Nó cũng có một cái gì đó nó phảng phất hình ảnh của vị vua .
Ngày xưa, khi mà chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta được mặc áo trắng, trao nến sáng, được Xức dầu . Và khi trở thành người Kitô Hữu, chúng ta được chia sẻ chức năng làm tư tế, làm tiên tri, làm vương đế, làm vua. Và mọi người đều được làm vua: làm vua của tình yêu, vua của vị tha.
Và mỗi người chúng ta được mời gọi, chúng ta họa lại hình ảnh của vua trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, trong khuôn mặt của chúng ta, trong cung cách sống của chúng ta.
Linh mục phải sống trong cái chức năng là người phục vụ, phục vụ cộng đoàn, phục vụ con chiên, phục vụ những người tín hữu mà Chúa trao phó.
Còn anh chị em trong đời sống hôn nhân gia đình. Anh chị em được mời gọi phục vụ chính gia đình của mình.
Và khi đặt vấn đề này mọi người nói:
À chuyện nhỏ, gia đình con thì đâu có gì vất vả, đâu có gì khó khăn đâu? Con vẫn lo cho vợ con, cho gia đình con đó chứ!
Nhưng mà ngày hôm nay, một cái thực tế đau lòng: Chúng ta nhìn lại nhiều gia đình đổ vỡ. Dẫu rằng giàu có lắm!
Có một cái câu chuyện: Thằng bé nó hỏi: Bố ơi bố, bố đi làm một tiếng được bao nhiêu tiền?
Bố mới nói rằng là bố đi làm một tiếng được 100.000 đ.
Cái thằng bé nó mới đưa ra 50.000đ.
Bố ơi con để dành được 50.000 đ. Bố cho con nữa giờ bố ở cạnh con.
Khi đó người bố mới sáng mắt ra rằng: Chỉ vì ham đi kiếm tiền thôi! Cắm đầu, cắm cổ mà không có thời gian dành cho gia đình đặc biệt dành cho con của mình! nên đứa trẻ nó phải nói lên như vậy.
Ngày hôm nay nhiều gia đình đổ vỡ. Bởi vì người ta không còn quan tâm đến nhau nữa! Người ta không còn yêu thương nhau nữa!
Những lời hứa hẹn ngày đám cưới , những lời hứa hẹn khi người ta tỏ tình đó đã trở thành mây khói rồi!
Người ta không cần lo lắng cho nhau người ta không còn tìm nhau nữa! Và người ta không còn tôn trọng cha mẹ người ta! người ta không có tôn trọng cái Bữa Cơm Gia Đình.
Có những người chỉ biết đi kiếm tiền về quăng cho con cái và con cái sử dụng những đồng tiền đó một cách vô tội: Cờ bạc, rượu chè, trai gái . Và khi chợt giật mình ra thì thấy rằng gia đình mình đã đổ vỡ rồi.
Và rồi, học để làm gì? Bố mẹ quăng tiền là đi mua được bằng Cấp! Học để làm gì? Ra trường vẫn thất nghiệp.
Và trong một cái xã hội giằng co như thế! Chúng ta lại là những người Kitô Hữu chúng ta được mời gọi sống lo lắng cho gia đình chúng ta. Chúng ta lo lắng cho những người con của chúng ta.
Ngày hôm nay, báo chí phản ánh một cái phần nào xã hội. Khi chúng ta nhìn thấy nhiều gia đình có tiền người ta tưởng rằng, người ta đi tìm tiền và người ta giao cho con người ta thế là người ta xong bổn phận. Nhưng đáng tiếc thay, khi có tiền rồi, thì quay lại: nhà tan, cửa nát.
Và khi chúng ta nhìn lại điều đó và chúng ta duyệt lại cái đời sống Kitô hữu của chúng ta . Chúng ta sống cái chức năng vua trong gia đình của chúng ta không đơn giản.
Đặc biệt Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2, Ngài chọn đúng cái bài Tin Mừng ngày hôm nay để mà mời gọi người ta, sống cái đời sống gia đình . Ngài lấy cái dụ ngôn ngày hôm nay, để ngài chất vấn về đời sống gia đình.
Khi mà ngày Cánh Chung , Chúa sẽ hỏi chúng ta rằng:
- Ngày xưa, là một người vợ: Ta không còn nhan sắc nữa ngươi có còn yêu thương Ta hay không?
- Ngày xưa, Ta là một thai nhi trong dạ mẹ , ngươi cố gắng giữ lại dù khi mà cuộc sống của ngươi lầm than!
- Ngày xưa, Ta vất vả trong gia đình, mà ngươi có cố gắng thương yêu ta hay không?
Đó là điều quan trọng mà Chúa mời gọi, Chúa hỏi chúng ta. Chứ Chúa không hỏi chúng ta là:
Xây bao nhiêu cái nhà lầu? Xây bao nhiêu cái biệt thự? Làm được cái điều này điều kia?
Học được bao nhiêu cái bằng cấp? Đỗ đạt trường này, trường kia. Làm ông này, bà nọ.
Chúa không hỏi chúng ta đâu!
Chúa hỏi chúng ta là lòng mến, lòng yêu thương, lòng bác ái và sự phục vụ và nhất là phục vụ những người nghèo.
Và những người nghèo đó ở đâu?
Ở ngay trong chính gia đình chúng ta. Nơi những người thân của chúng ta. Nơi người mẹ già đang lớn tuổi, cho ăn rồi mà bảo chưa được ăn. Ở nơi người bố già tính lẩm cà, lẩm cẩm một tí xíu bởi vì quên trước quên sau. Nơi những cái con người khuyết tật, nơi những con người kém may mắn hơn chúng ta, ngay trong gia đình chúng ta.
Nhiều khi chúng ta lo đi đâu đâu làm việc bác ái ở đâu đâu đó! mà ngay trong gia đình chúng ta những người nghèo đầy đó! Nhưng mà chúng ta không quan tâm, chúng ta không để ý! Và chúng ta chết, chúng ta sẽ được Chúa chất vấn!
Chúng ta được ở bên trái, hoặc ở bên phải đó là cách trả lời, cách sống của mỗi người chúng ta: “ Khi xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta mình trần, các ngươi cho mặc hay không?
Vị Vua Giêsu là Vua Tình Yêu không tìm gì cho chính mình cả, mà mang lợi ích cho người khác, hy sinh chính mình, mạng sống mình, hy sinh cả cuộc đời của mình. Để mang niềm vui, mang sự sống cho người khác.
Chúng ta là những người mang tên Giêsu, mang tên người Kitô hữu trong cuộc đời chúng ta, nhưng liệu rằng chúng ta có sống giống như Giêsu đã sống! Chúng ta có sống đúng với con đường yêu thương, phục vụ mà Giêsu đã sống hay không.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để dẫu rằng cuộc đời chúng ta vẫn còn đó những thăng trầm, những vất vả, những yếu đuối.
Xin Chúa thêm ơn để chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu , một vị Vua Tình Yêu. Để chúng ta: ngày mỗi ngày, chấm mỗi chấm cái tình yêu đó.
Để khi chúng ta nhắm mắt lìa đời, chúng ta có một chỗ trong lòng của vương quốc Tình Yêu mang tên Giêsu. Và nơi đó chúng ta sẽ gặp lại anh chị em đồng loại chúng ta. Amen.
25/11 Chúa Giêsu xác định rõ ràng về sự sống lại
- Viết bởi Lc 20, 27-40
Chúa Giêsu xác định rõ ràng về sự sống lại.
Thứ Bảy tuần 33 thường niên.
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống".
Lời Chúa: Lc 20, 27-40
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?"
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa".
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: "Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm". Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đời này, đời sau
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết.
Một triết gia Ðức bảo con người sinh ra để chết.
Cái chết là số phận của mỗi người,
nhưng nói chung ai cũng muốn sống.
Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi.
Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng.
Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp.
Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống.
Chính cuộc đời duy nhất này
định đoạt số phận vĩnh cửu của ta.
Không có một cơ hội thứ hai để làm lại.
Chính vì thế phải sống hết mình cho đời này
để đáng hưởng hạnh phúc đời sau.
Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm.
Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục.
Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe.
Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau.
Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất,
và sống như thể chỉ có đời này.
Ðời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.
Người thuộc phái Xađốc tin rằng sau cái chết
linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ.
Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống.
Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng
đời sau là sự kéo dài của đời này.
Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc.
Ðức Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau.
Ðời sau khác hẳn đời này.
Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi,
nhưng sống như các thiên thần,
nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.
Ðời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết.
Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh.
Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác.
Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian,
nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu
để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.
Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,
chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau.
Cái chết dạy tôi biết cách sống.
Ðời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo,
và những nỗi khổ đau do mê lầm.
Tôi đang đi về đời sau
để gặp Ðấng mà tôi đã tin yêu suốt đời.
Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội.
Chúng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa,
và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi ra thăm nghĩa địa,
khi vào viếng phòng hài cốt,
con hiểu rằng mình phải có lòng tin lớn lao
mới dám nghĩ một ngày nào đó
những thân xác hư hoại này sẽ sống lại.
Con người trở về bụi tro,
nhưng bụi tro sẽ trở lại làm người,
vì con người sinh ra là để bất tử như Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
trần gian này quá đẹp
khiến con mải mê, quên mình là lữ khách;
thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong con.
Con loay hoay vun vén cho đời sống cá nhân,
như thể con sẽ sống mãi trên mặt đất.
Xin khơi dậy nơi con
niềm khát khao những điều cao cả.
Xin đừng để con
mãn nguyện với những cái tầm thường.
Ước gì Chúa cho con nếm chút vị ngọt ngào của trời cao,
khi con quên mình
để sống cho anh em trên mặt đất. Amen.
Suy niệm 2: Đời này – đời sau – đời đời
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người thật hạn hẹp. Chỉ biết nơi mình ở. Trong một thời gian và một không gian giới hạn. Ngay điều ta biết cũng không trọn vẹn. Ngay trong bản thân vẫn còn nhiều điều ta chưa hiểu. Ví dụ ruột thừa để làm gì. Vì thế nói về đời sau lại càng nông cạn. Phái Xa-đốc đưa ra vấn nạn tưởng là ghê gớm. Nhưng họ chỉ là những kẻ ếch ngồi đáy giếng. Hôm nay Chúa mở ra cho họ một chân trời mênh mông của đời sau. Của Nước Trời. Đời sau là đời đời. Nước Trời là vĩnh cửu. Thiên Chúa là vô thuỷ vô chung. Và con người có đời sống khác đời sống thân xác chóng qua đời này. “Những người sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”.
Nếu hiểu được đời sau. Nếu biết giới hạn của đời này. Người ta sẽ sống khác. Như vua An-ti-ô-khô. Một đời tung hoành ngang dọc. Tự tung tự tác. Giết người không gớm tay. Xúc phạm cả Thiên Chúa. Coi mình là Thiên Chúa. Bắt mọi người thờ lạy. Chiếm đoạt đồ thờ phượng để sử dụng riêng tư. Nhưng đến cuối đời. Sức lực tàn tạ. Thất bại ê chề. Vua mới hối hận. Biết đời sống có hạn. Biết thế giới này mau qua. Mơ hồ nhìn thấy một chút phán xét đời sau. Bấy giờ vua mới hoảng sợ. Ân hận thì đã muộn: “Tôi tự nhủ: Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ sở như thế này? Trước kia, khi đang cầm quyền, tôi hạnh phúc và được yêu mến biết bao!...Hồi tưởng lại những hành vi tàn bạo đó, tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn” (năm lẻ).
Hiểu biết chân lý về cuộc đời, những người tôi tớ của Chúa chuyên tâm sống theo luật Chúa. Và mạnh dạn làm chứng cho Chúa. Như Mô-sê và Ê-li-a. Thế lực trần gian có vẻ thắng thế. Các ngài bị tiêu diệt. Chịu nhục nhã. “Thi hài của các ngài sẽ nằm ở quảng trường của thành phố vĩ đại; thành phố ấy mang tên tượng trưng là Xơ-đôm và Ai –cập, ở chính nơi Chúa của các ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá”. Nhưng chỉ một thời gian sau. Ngày cùng tận của thế giới này. Sẽ khởi đầu thế giới khác. Các ngài sẽ sống lại. Sẽ được Chúa thưởng công vinh quang trên trời. “Rồi các ngài nghe một tiếng lớn từ trời bảo: ‘Hãy lên đây!’ Và các ngài lên trời trong đám mây, trước mắt thù địch của các ngài”(năm chẵn).
Đời này chóng qua. Rồi sẽ tới đời sau. Ở đời sau phúc hay hoạ sẽ là đời đời. Xin cho con hiểu chân lý này. Để biết chuẩn bị cho đời sau. Để được sống đời đời. Và biết rao truyền chân lý này. Đó chính là góp phần xây dựng thế giới.
Suy niệm 3: Có sự sống lại
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Sự sống, thân xác và tất cả những gì con người có được, đều là những món quà Thiên Chúa ban tặng, do đó, phải được bảo toàn và trân trọng. Chính cung cách sống và hành xử của con người trong cuộc sống hiện tại định đoạt số phận tương lai của họ: được cứu độ hay bị trầm luân đời đời. Bởi vì cuộc sống của con người không kết thúc với cái chết của thân xác trên trần gian này; sau khi chết, thân xác và linh hồn con người mới bắt đầu cuộc sống tràn đầy hạnh phúc, một cuộc sống phục sinh, một cuộc sống hoàn toàn biến đổi.
Ðó cũng là sự thật Chúa Giêsu khẳng định khi trả lời cho một số người thuộc nhóm Sađốc, như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay.
Vào thời Chúa Giêsu, giới lãnh đạo Do thái chia thành nhiều nhóm khác nhau. Liên quan đến sự sống lại, số người thuộc nhóm Biệt phái thì tin rằng cuộc sống sau khi chết cũng giống như cuộc sống trước đó trên trần gian này, nghĩa là con người cũng ăn uống, buôn bán, sống đời vợ chồng, nhưng chỉ có sung sướng mà thôi; tuy nhiên, một số khác thì tin rằng cuộc sống sau cái chết là cuộc sống hoàn toàn biến đổi. Còn nhóm Sađốc thì không tin vào cuộc sống đời sau: đối với họ, chết là hết; họ dựa trên luật Do thái buộc người em phải lấy chị dâu để đảm bảo cho anh mình có con nối dõi tông đường, nếu người anh chết mà chưa có con. Họ đặt ra trường hợp bảy anh em nhà kia cùng lấy một người đàn bà và hỏi Chúa Giêsu: khi sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai? Chúa Giêsu khẳng định cuộc sống phục sinh hoàn toàn được biến đổi và không giống cuộc sống trên trần gian này như một số người Biệt phái tưởng nghĩ; do đó, mọi tương quan giữa con người với nhau cũng sẽ được biến đổi và tan hòa trong tương quan tình yêu thương của Thiên Chúa, cũng như mang sắc thái và chiều kích của tình yêu ấy, vì thế, mọi cách diễn tả và biểu lộ trong các liên hệ cuộc sống trần gian khi đó không còn ý nghĩa nữa.
Chúa Giêsu quả quyết có sự sống lại, nhưng Ngài không giải thích sự việc sẽ xẩy ra thế nào và khi nào sẽ xẩy ra biến cố sống lại, vì điều đó không quan trọng cho ơn cứu rỗi. Chẳng những có lời quả quyết của Chúa, chúng ta còn có một sự kiện cụ thể khác, đó là sự phục sinh của Chúa Kitô, đó là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con người về sự chết, về sự sống lại và sự sống đời đời.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm tin vào sự sống lại và kiên trì hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau.
Suy niệm 4: Chân lý của đời sống đức tin
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Vào cuối kinh Tin Kính, những đồ đệ của Chúa Giêsu tuyên xưng: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen".
Sự sống lại và sự sống đời đời là chân lý quan trọng cho đời sống đức tin. Nếu không có sự sống lại và sự sống đời đời thì đức tin của chúng ta còn có ý nghĩa gì nữa, và công việc nhập thể cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, không còn ý nghĩa nữa. Ðây là chân lý quan trọng nhưng khó tin và có thể có trường hợp xảy ra như đã xảy ra vào thời Chúa Giêsu, và cả những kẻ có niềm tin cũng bị vấp phạm không tin vào sự thật này nữa bởi vì nó không thể nào giải thích cặn kẽ được. Bởi lý trí con người lập luận theo đường lối tự nhiên, con người có thể chất vấn Thiên Chúa như những người Sađốc ngày xưa đã chất vấn Chúa Giêsu.
Có thể nói chúng ta cám ơn những người Sađốc vì nhờ vào vấn nạn của họ, mà chúng ta có được lời xác định rõ ràng của Chúa Giêsu về sự sống lại. Những người theo phái Sađốc là những kẻ thuộc hàng quí tộc và tư tế. Danh gọi Sađốc phát sinh từ tên riêng của vị thượng tế trong đền thờ thời vua Salômôn. Bộ luật duy nhất mà những người thuộc phái Sađốc chấp nhận là bộ Tora của Môisen, được ghi lại trong năm cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh mà thôi. Trong bộ Ngũ Thư thời Môisen, sự thật về sự sống lại và về sự sống đời đời chưa được mạc khải rõ ràng. Mãi về sau, tức là vào thời của Maccabê và tiên tri Daniel, tức khoảng thứ kỷ thứ 2 trước Chúa giáng sinh, thì sự thật về sự sống lại mới được quả quyết rõ ràng. Một đàng thì chưa được mạc khải rõ ràng, và đàng khác lại có luật nối dòng của Môisen cho trường hợp cưới vợ của anh khi anh mình chết đi mà không có con, nên chúng ta không lạ gì khi thấy các nhà thông luật, trưởng giả và tư tế không tin có sự sống lại, đã dùng luật Môisen chống lại sự sống lại. Trong dòng lịch sử cũng không thiếu những người chối bỏ chân lý về sự sống lại. Vào thời đại của chúng ta hiện nay cũng vậy, cũng có những triết gia và đôi khi tệ hơn nữa, những thần học gia lại tuyên bố không tin hay ít ra là nghi ngờ sự thật về sự sống lại.
Trên bình diện này, mọi lý luận chỉ dựa trên công sức trí khôn con người, thì không thể nào dẫn dắt đến sự nhìn nhận niềm tin vào sự sống lại. Chúa Giêsu đã quả quyết mạnh mẽ về sự thật có sự sống lại, nhưng Ngài không giải thích cho biết sự việc sẽ xảy ra như thế nào và cũng không nói về thời gian khi nào sẽ xảy ra biến cố sống lại. Có thể là hai câu hỏi: như thế nào và vào lúc nào, là hai điều không quan trọng cho ơn cứu rỗi, nên Chúa Giêsu đã không giải thích, không mạc khải gì thêm. Không phải chỉ có lời quả quyết suông của Chúa Giêsu mà thôi, nhưng chúng ta còn có sự kiện cụ thể khác nữa, đó là chính sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Chúa Kitô Phúc sinh là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con người về cái chết, về sự sống lại và sự sống đời đời.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm tin này.
Suy niệm 5: Kiếm cớ gây chuyện
Đức Giêsu đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa vì là con cái sự sống lại.” (Lc. 20, 34-36)
Những thượng tế, luật sĩ và các thủ lãnh dân chúng tìm cách tiêu diệt Đức Giêsu. Trước tiên, họ phải làm Người mất tín nhiệm trước mặt dân chúng. Vì Đức Giêsu hay dậy dỗ trong đền thờ, đây là dịp thuận tiện để họ đặt hàng chuỗi câu hỏi nóng bỏng để Người trả lời đưa đến chỗ gây chia rẽ thính giả và làm Người mất tín nhiệm.
Câu hỏi cạm bẫy
Phái Sa-đu-sê đại diện giai cấp quý tộc và chính trị, họ xa cách dân chúng và chỉ dựa vào Ngũ kinh. Họ không tin sự sống lại do sách Đa-ni-en đề xướng ra. Cuộc tranh luận về vấn đề này khá gay gắt. Ba mươi năm sau Đức Giêsu, thánh Phao-lô đã dùng vấn đề sống lại làm tấm bình phong gây hỏa mù giữa biệt phái và Sa-đu-sê.
Đức Giêsu dạy về nước trời và sự khẩn thiết phải ăn năn trở về để được sống đời đời. Giáo huấn này mất giá trị nếu người ta chết là hết. Sa-đu-sê đặt vấn nạn có ý chế nhạo kẻ tin vào sự sống lại và họ hy vọng đánh bại giáo huấn của Đức Giêsu.
Đó chỉ là trái pháo tịt ngòi
Đức Giêsu luôn luôn từ chối lối trả lời theo khôn ngoan thế gian, nhưng Người đứng trên bình diện khác để trả lời. Câu chuyện của Sa-đu-sê đặt ra là giả tưởng, không có thật. Sự sống đời sau khi sống lại không như nhiều người Do thái tưởng là sự nối tiếp sự sống đời này. Nhưng, “những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ gả chồng, quả thật họ không thể chết nữa, vì họ được giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa”.
Đức Giêsu còn trưng dẫn sách Ngũ kinh như ông Mô-sê đã gọi: “Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-sa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp, Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống”. Thiên Chúa là sự sống, Ngài ban và duy trì sự sống, ngay cả sau khi chết.
Kết luận thật rõ ràng để xác nhận có sự sống lại, vì ngay từ đầu cuộc sống công khai, Đức Giêsu đã lập đi lập lại: “Hãy trở về với Thiên Chúa và hãy ăn năn sám hối để Ngài ban cho anh em sự sống đời đời”.
RC
Suy niệm 6: Sống trinh khiết
Xem lại CN 25 TN C
Trong Tin Mừng, chúng ta thường thấy nhắc đến một số nhóm luôn đứng lên để chống đối Đức Giêsu, trong đó có nhóm Sađốc.
Hôm nay, chính nhóm Sađốc này đã đứng lên để bàn mưu tính kế nhằm hãm hại Đức Giêsu. Cái bẫy mà họ đưa ra chính là câu chuyện liên quan đến sự sống lại.
Vấn nạn mà họ đặt ra cho Đức Giêsu và yêu cầu Ngài trả lời là: theo luật Môsê, nếu người anh lấy vợ, khi chết đi mà chưa có con, thì người em phải lấy vợ của anh mình để có con nối dòng.
Vậy cả 7 anh em một nhà kia lấy vợ, nhưng khi chưa có con thì họ đã chết, sau cùng người đàn bà kia cũng chết.
Vấn đề đặt ra là: khi sống lại, người đàn bà kia sẽ là vợ của người nào trong 7 anh em đó?
Một câu hỏi xem ra hóc búa, hòng hy vọng Đức Giêsu sẽ bị mắc hợm. Tuy nhiên, Ngài đã trả lời rất thâm thúy rằng: “Con cái đời này thì dựng vợ gả chồng, còn những ai được xét là xứng đáng dự phần vào đời sau và được sống lại từ cõi chết thì sẽ không còn dựng vợ gả chồng nữa”.
Qua câu trả lời này, Đức Giêsu không những đã phá vỡ mưu đồ ác nhân của nhóm Sađốc, mà còn mặc khải cho họ một sứ điệp quan trọng trong cuộc sống mai hậu nữa, đó là: khi còn sống trên trần gian, thì chuyện lấy vợ gả chồng có mục đích lưu truyền nòi giống theo lệnh truyền của Chúa: “Hãy sinh sản đầy mặt đất”. Duy trì nòi giống là vì con người sẽ phải chết, nên cần phải có con nối dõi tông đường.
Nhưng cuộc sống trên Thiên Quốc mai hậu thì hoàn toàn khác, họ sẽ tồn tại mãi mãi trong sự sống muôn đời. Họ không cần phải đặt vấn đề duy trì nòi giống nữa, vì thế, họ không cần phải lấy vợ, gả chồng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức rằng: cuộc sống trên trần gian này chỉ là tạm bợ mà thôi. Cuộc sống trên Thiên Quốc mai ngày mới là vĩnh viễn. Vì thế, trong cuộc hiện nay, hãy chu toàn bổn phận của mình cách chính đáng. Tuy nhiên, cần phải hướng lòng về quê thật chính là Thiên Đàng, nơi đó là nơi tràn đấy ánh sáng và bình an.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con ý thức rằng: quê hương chúng con ở trên trời. Vì thế, chúng con cần phải biết sống xứng đáng là con cái Chúa, để sau này được chung hưởng hạnh phúc Thiên Quốc với các thánh trên trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Niềm hy vọng cuộc sống mai sau
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Cuộc sống mai hậu mở ra cho con người một khung trời mới: con người sẽ chan hòa trong một tình yêu thiêng liêng siêu việt, vượt lên trên giới hạn của mọi thứ tình trần thế.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã làm người và đã có những mối giây thân tình của loài người: tình gia đình, tình thầy trò, tình bằng hữu, tình quê hương… Những dịu ngọt của tình yêu thế trần là điều tốt đẹp. Tuy thế, Chúa cũng đã thấy giới hạn của nó: đã có những người đồng hương đòi ném đá Chúa, đã có Giuđa bán Chúa ba mươi đồng bạc. Chúa muốn thăng hoa những mối tình loài người để con người đạt tới niềm vui trọn vẹn. Chúa dạy con cách mặc cho tình yêu nhân loại một chiếc áo siêu nhiên: đó là mến thương nhau vì Chúa.
Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay mở ra cho con niềm hy vọng cuộc sống mai sau. Hôm nay, con đang vui với bao tình cảm trên đời để có được một hạnh phúc tương đối, nhưng mai sau nơi Thiên quốc, con sẽ đạt tới hạnh phúc vững bền trọn vẹn trong mối tình thiêng liêng trường cửu. Nơi cuộc sống mai sau, các giới hạn cha con, vợ chồng, bạn bè thân thích… đều được phá vỡ để con được thưởng nếm tình yêu Chúa và tình bác ái đại đồng.
Lạy Chúa, trong cuộc sống hôm nay, xin Chúa giúp con vì Chúa mà thương cha mẹ, vì Chúa mà thương con cái, vì Chúa mà vợ chồng thương nhau, vì Chúa mà thương cả người xa lạ, thậm chí vì Chúa mà thương cả kẻ thù. Con cố gắng sống như vậy để tập sống cảnh thiên đàng trong tình yêu thương chan hòa. Amen.
Ghi nhớ: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống”.
Suy niệm 8: Kẻ chết sống lại
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nhóm luật sĩ và biệt phái tin có sự sống lại, còn nhóm Sađốc thì không. Mặc dầu nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như ở đời này. Nhưng Đức Giêsu đã mạc khải cho họ có sự sống lại và cách thức sống cuộc sống đời sau. Ngài cho thấy cuộc sống ấy không còn giống như ở đời này, không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian. Trái lại, cuộc sống của người công chính khi phục sinh sẽ được thần thiêng hóa như đời sống của các thiên thần.
2. Hôm nay, nhóm Sađốc đã đứng lên để bàn mưu tính kế nhằm hại Đức Giêsu. Cái bẫy mà họ đưa ra chính là câu chuyện liên quan đến sự sống lại. Vấn nạn mà họ đặt ra cho Đức Giêsu và yêu cầu Ngài trả lời: theo luật Maisen, nếu người anh lấy vợ, khi chết đi mà chưa có con, thì người em phải lấy vợ của anh mình để có con nối dõi. Vậy cả 7 anh em nhà kia lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết, sau cùng người đàn bà kia cũng chết. Vấn đề đặt ra là: khi sống lại, người đàn bà kia sẽ là vợ của người nào trong 7 anh em đó?
3. Để trả lời cho họ, Đức Giêsu trưng dẫn sách Ngũ Kinh như ông Maisen đã gọi: “Đức Chúa là Thên Chúa của tổ phụ Abraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaác và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống”. Thiên Chúa là sự sống. Ngài ban và duy trì sự sống ngay cả sau khi chết.
Đức Giêsu luôn luôn từ chối trả lời theo khôn ngoan thế gian, nhưng người đứng trên phương diện khác để trả lời. Câu chuyện của Sađốc đặt ra là giả tưởng, không có thật. Sự sống đời sau khi sống lại không như nhiều người Do thái tưởng là sự nối tiếp sự sống đời này. Nhưng, “những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau” và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ gả chồng, quả thật họ không thể chết nữa, vì họ được sống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa.
4. Đức Giêsu còn trả lời thêm cho biết trật tự, cách tổ chức, cách thế hiện hữu của cuộc sống mai hậu không giống như cuộc sống đời này. Không thể lấy kinh nghiệm hiện hữu của cuộc sống này để áp dụng vào việc suy đoán cách hiện hữu của cuộc sống mai hậu. Đời này có lấy vợ gả chồng chỉ là chuyện sinh, lão, bệnh, tử, nên cần phải có người giúp đỡ, phục vụ và nối dõi. Khi con người đã trở thành bất tử, họ không còn sống phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa, vì thế, họ cũng không cần phải cưới vợ gả chồng. Họ sẽ bước vào cuộc sống thần thiêng như các thiên thần, cuộc sống của họ lúc này là trường sinh bất tử, sung mãn, trọn vẹn và tồn tại muôn đời với Đấng Hằng Hữu. Công việc của họ chính là ca ngợi Chúa trong vinh quang Nước Trời như các thiên thần, được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa (Hiền Lâm).
5. Nói chung, trên mọi bình diện, mọi lý luận chỉ dựa trên công sức trí khôn con người, thì không thể nào dẫn dắt đến sự nhìn nhận niềm tin vào sự sống lại. Đức Giêsu đã quả quyết mạnh mẽ vì sự thật có sự sống lại, nhưng Chúa không giải thích cho biết sự việc sẽ xẩy ra như thế nào và cũng không nói về thời gian khi nào sẽ xẩy ra biến cố sống lại. Có thể là hai câu hỏi như thế nào và vào lúc nào là hai điều không quan trong cho ơn cứu rỗi, nên Đức Giêsu đã không giải thích, không mạc khải gì thêm. Không phải chỉ có lời quả quyết suông của Chúa mà thôi, nhưng chúng ta còn có sự kiện cụ thể khác nữa, đó là chính sự sống lại của Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô Phục sinh là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con người về cái chết, về sự sống lại và sự sống đời đời (R. Veritas).
6. Tất cả cuộc sống chúng ta đều xây dựng trên niềm tin vào sự sống lại của Đức Giêsu và sự sống mai hậu. Tất cả những nỗ lực xây dựng công bằng bác ái của chúng ta chỉ có ý nghĩa là bởi vì chúng ta tin vào cuộc sống vĩnh cửu và sự sống lại.
7. Truyện: Kinh nghiệm cận tử.
Mấy năm gần đây, một số bác sĩ Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).
Suy niệm 9: Tin vào cuộc sống đời sau
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Mặc dù nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như đời này.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu vừa xác nhận có cuộc sống đời sau, vừa cho biết ý nghĩa của cuộc sống ấy:
- Đời sau người ta sẽ bất tử, do đó không cần lưu truyền nói giống, cho nên cũng không cần cưới vợ lấy chồng.
- Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Chúa, như các thiên thần vậy.
B.... nẩy mầm.
1. Linh mục, Tu sĩ là dấu chỉ và chứng nhân cho cuộc sống đời sau, một cuộc sống “như các thiên thần” không bận tâm chi đến việc vợ chồng, chỉ chuyên tâm phụng sự Chúa.
2. Trở nên chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa qua nếp sống vợ chồng (như cha mẹ chúng ta) không phải là chuyện dễ. Nhưng muốn là dấu chỉ và chứng nhân cho cuộc sống đời sau, sống “như các thiên thần”, cũng rất khó khăn; rất cần ân huệ của Chúa. - Muốn đi đến nếp sống yêu thương với một con tim trọn vẹn không chia sẻ dành cho Chúa, ta cần được chuẩn bị để đạt được sự trưởng thành tâm cảm (maturité affective). Dần dần tập làm chủ được 4 trình độ của tâm cảm: - cảm xúc - tình cảm - tình yêu - đam mê.
3. Ta đọc lại lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II:
- Trong thông điệp Redemptor Hominis số 10: ‘ Con người không thể sống khi thiếu vắng tình yêu. Họ sẽ không thể hiểu họ là gì, và sẽ cảm thấy cuộc đời họ là vô nghĩa: nếu họ không đón nhận mặc khải tình yêu, không gặp gỡ tình yêu, không cảm nghiệm tình yêu, không đồng hoá với tình yêu, không mạnh dạn tham dự vào tình yêu.’
- Trong Tông Huấn Pastores Dabo vobis (Đào tạo Lm) số 44: “Tình yêu ở đây là tình yêu bao quát toàn diện cá vị con người với mọi chiều kích và mọi thành phần: vật lý, tâm lý và tinh thần; một tình yêu được diễn đạt nơi “ý nghĩa hôn nhân” của thân thể con người, nhờ đó mà con người tự hiến cho kẻ khác và đón nhận họ. Việc giáo dục giới tính đúng nghĩa cần phải hướng đến nhận thức và thực hiện chân lý đó về tình yêu nơi con người.”
4. Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).
5. “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài tất cả đều đang sống” (Lc 20,38)
Trong một lần trao đổi với chị bạn cùng lớp, chị cho rằng tuy không có đạo song cũng không hoàn toàn phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng có điều, nhìn vào cuộc chiến tàn khốc ở Ruanđa giữa bộ tộc Hutu và Tutsi, đều là những người công giáo với nhau mà giết nhau cách dễ dàng, hoặc như gia đình hàng xóm nhà chị, lễ lạy kinh hạt mỗi ngày nhưng hết “nội chiến” đến “ngoại chiến”. Chị không khỏi tự hỏi: niềm tin kitô giáo có còn khả năng thăng tiến con người như những gì giáo lý dạy không?
Như thế, dẫu tôi tin có Thiên Chúa nhưng lại không sống yêu thương thì cũng có nghĩa là tôi đang “khai tử” cho Thiên Chúa rồi.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, xin ban cho con sự sống của Ngài, sống vì yêu và sống cho tình yêu. (Hosanna)
Suy niệm 10: Ý nghĩa của cuộc sống đời sau
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Mặc dù nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng, sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như đời này.
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu vừa xác nhận có cuộc sống đời sau, vừa cho biết ý nghĩa của cuộc sống ấy:
- Đời sau người ta sẽ bất tử, do đó không cần lưu truyền nòi giống, cho nên cũng không cần cưới vợ lấy chồng.
- Hạnh phúc duy nhất, cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Chúa, như các thiên thần vậy.
Cuộc sống đời sau đối với Chúa không phải chỉ là sự tiếp nối đời này ở mức cao hơn. Con người sẽ vẫn là chính mình, có thể nhận biết nhau, nhưng sẽ không có sự chết nữa, vì vậy nên không cần có sự cưới gả hay sinh con. Kitô hữu chỉ giống các thiên thần chứ không trở thành các thiên thần. Trong Kinh Thánh các thiên sứ xuất hiện như con người, nhưng họ ở thể Thần Linh và không có bản năng giới tính. Về mặt này, chúng ta sẽ giống họ, không cưới gả và sinh con trong cuộc sống mai sau. Về vấn đề này, Thiên Chúa hoàn toàn có quyền làm như thế. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không đủ quyền năng để khiến kẻ chết sống lại và ban cho họ một thân thể mới phù hợp với môi trường mới sao ? Nếu hôm nay Ngài có thể ban cho mọi tạo vật hình dạng khác nhau, vậy thì tại sao Ngài lại không thể ban cho con người thân thể mới khi họ sống lại ? (1Cr 15,35-44).
Chúa Giêsu còn vượt quá lý lẽ con người khi nhắc họ nhớ lại lời Thiên Chúa, đặc biệt là sự kiện xảy đến với Môisen (Xh 3,1-22). Môisen đã gọi Thiên Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp. Gọi như thế có nghĩa Môisen tin rằng, ba vị thánh tổ này đang sống. Nếu họ đang sống, thì hẳn họ phải ở thể phi vật chất vì họ đã chết trước đó. Và như thế rõ ràng là phải có một thế giới Thần Linh, nếu không thì Môisen, đã chẳng viết những lời như thế.
Thiên Chúa là Chúa của con người toàn vẹn - tâm thần, linh hồn và thân thể. Vì Ngài đã dựng nên con người như thế. Ngài không chỉ cứu linh hồn chúng ta rồi bỏ mặc phần còn lại muốn ra sao thì ra. Bản chất vốn có trong sự sáng tạo của Ngài là quan tâm đến mọi mặt của con người. Vì vậy, Ngài không để chúng ta phải “hồn lìa khỏi xác” mãi mãi, nhưng sẽ ban cho chúng ta một thân thể vinh hiển thích hợp với sự hoàn mỹ ở Thiên Đàng.
Một vấn đề khác, đó là mối liên hệ giữa Thiên Chúa với ba vị thánh tổ này. Ngài hứa ban cho họ và con cháu họ những phước hạnh trên đất, nhưng Ngài không thể làm trọn lời hứa nếu dân Ngài chỉ muốn sống đời đời như những linh hồn không có xác. Chúa Giêsu đã xác nhận những điều mà người Sađuxê chối bỏ: những điều đó là sự tồn tại của các thiên sứ, sự thực hữu của đời sống sau khi chết, sự sống lại ở đời sau. Ngài xác nhận điều này dựa trên sách của Môisen. Dĩ nhiên, Ngài có thể dẫn chứng nhiều đoạn Kinh Thánh khác nói về sự sống lại ở đời sau, nhưng Ngài đã giải đáp cho những kẻ chống nghịch Ngài dựa ngay trên chính những lý lẽ họ đã đưa ra.
2. Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí như sau:
- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).
Xin được kết thúc bằng lời tâm sự của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII vể cuộc sống mai sau:
“Tám mươi tuổi đã qua nhắc nhủ tôi cũng như anh và bà con chúng ta nhớ: Điều quan hệ hơn hết là lúc nào cũng phải sẵn sàng để ra đi một cách bất ngờ, bởi vì việc tối hệ là bảo đảm đời sống vĩnh cửu trên Thiên Đàng, bằng cách phó thác mình nơi lòng nhân hậu Chúa. Tôi khiêm nhường van xin Chúa tha thứ mọi lỗi lầm và thiếu sót của tôi. Tôi dâng lên Người cái tài sản ít oi mà nhờ ơn Người tôi chiếm hữu, hầu van xin Người tiếp đón tôi như một người cha nhân lành hiền hậu, để tôi được kết đoàn với các thánh trong hạnh phúc trường sinh”.
24/11 Làm chứng cho Chúa
- Viết bởi Mt 10, 17-22
Làm chứng cho Chúa.
Thứ Sáu tuần 33 thường niên.
Thánh Anrê Dũng-Lạc, linh mục và các bạn Tử Đạo tại Việt Nam.
Lễ TRỌNG. Bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam.
24/11/1960: NGÀY THÀNH LẬP GIÁO PHẬN LONG XUYÊN.
"Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết".
Lời Chúa: Mt 10, 17-22
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ.
Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì.
Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.
Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
1. Không thuộc về thế gian--‘Manna’
2. Anh em làm chứng cho Thầy--‘Manna’
3. Để làm chứng cho vua quan--‘Manna’
4. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
5. Sống chứng nhân tin mừng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
6. Con đường hạt lúa-- Ga 12, 20-32--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
7. Chứng nhân tình yêu--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
8. Sống vì đạo--TGM. Ngô Quang Kiệt
9. Tuyên xưng, sống và làm chứng cho đức tin--TGM. Giuse Nguyễn Năng
10. Nếu hạt lúa miến chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt--Ga 12, 24-26--GM. Giuse Võ Đức Minh
11. Bài giảng của GM Giuse Vũ Văn Thiên--Missouri 2014
12. Bài giảng của GM Vinhsơn Nguyễn Văn Long Sydney
13. Bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2--Mt 25,14-30
14. Những đấng bậc anh hùng--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
15. Suy niệm của Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm SJ.
16. Chứng nhân anh dũng--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
17. Sống đạo tốt--Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
18. Sống đạo tốt--Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
19. Giữ Đạo ngày hôm nay quá “Phẻ”--Lm Giuse Trương Đình Hiền
20. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
21. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
22. Tử vì Đạo ngày hôm nay--AM Trần Bình An
23. Đừng sợ--Lm. Nguyễn Minh Hùng
24. Vinh danh các thánh Tử Đạo--Ga 17, 11b-19--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
25. Bách hại vì sống công chính--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
26. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc--Mt 10,17-22
27. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam - Lc 9,23-26--Lm Trầm Phúc
28. Vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
29. Tri ân và mừng kính các Thánh Tổ Tiên--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
30. Tử Đạo - Người làm chứng--Mt 10,17-22--Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên
31. Lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm Nguyễn Ngọc Long
32. Trung thành với đức tin--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
33. Dùng thời gian để yêu thương--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
34. Hạt lúa gieo vào lòng đất – Ga. 12, 24-26--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm Ignatiô Trần Ngà
35. Can đảm nói không với tội lỗi--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm Ignatiô Trần Ngà
36. Can đảm nói không với tội lỗi--Lm. Trần Ngà
37. Chịu khổ nạn với Chúa Giêsu - Lc 9, 23-26--Lm. Ignatiô Trần Ngà
38. "Thà chết vinh còn hơn sống nhục"--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
39. Sống chứng nhân--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
40. Tử đạo hôm nay--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
41. "Đây Bài Ca Ngàn Trùng"--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
42. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Nguyễn Văn Thuyết
43. Phải tôn kính Các Thánh Tử Đạo thế nào?--Lm Ignatio Nguyễn Ngọc Rao
44. Một lần thay cho tất cả --‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
45. Người chứng thứ nhất--Ga 12,24-26--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
46. Các thánh Tử Đạo Việt Nam--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
47. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng – Mt 10,17-22--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
48. Những tấm gương đức tin--Lm. Vũ Xuân Hạnh
49. Những tên lý hình thời đại--Pm. Cao Huy Hoàng
50. Tỉnh thức trước cơn bách đạo mới--Pm. Cao Huy Hoàng
51. Tử đạo trong thế kỷ 21--Jos. Vinc. Ngọc Biển
52. Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.
53. Kiên cường làm chứng nhân Nước Trời--Mt 10, 17-22 --Lm Augustine SJ.
54. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
55. Mến Thánh Giá Chúa trong đời--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
56. Tử đạo trong thời đại mới--Lm. John Nguyễn Tươi
57. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Alfonso
58. Những anh hùng đất Việt--Mt 10, 17 - 22
59. Chết trong tình yêu Thiên Chúa--Mt 10, 17 - 22
60. Sống và sống dồi dào--Mt 10, 17 - 22
61. Bách hại
62. Bách hại
63. Thập giá
64. Kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương
65. Sống chứng nhân
66. Truyền đạo
67. Chứng nhân
68. Những vị anh hùng âm thầm – Lc 9,22-26
69. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Mt 10, 17-22
70. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
71. Các thánh Tử Đạo Việt Nam
72. Sống Lời Chúa- Tử Đạo
73. Làm Chứng
74. Tử Đạo hay Sống Đạo?
75. Sống đạo và chết vì đạo
76. Tử đạo, một chọn lựa của lòng tin
77. Chứng nhân
78. Các thánh Tử Đạo Việt Nam
79. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
80. Niềm Tin
81. Các thánh Tử Đạo Việt Nam
82. Tử Đạo Việt Nam
83. Tử Đạo Việt Nam
84. Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi
85. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
86. Bách hại
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
1.Không thuộc về thế gian--‘Manna’
Suy Niệm
"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua,
lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước.
Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô."
Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy
khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn,
cho phụ trách ngành dệt trong cả nước.
Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.
Ông không thấy có gì xung khắc
giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt,
bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.
Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản.
Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc,
hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm
trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy
soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.
Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ.
"Như Cha đã sai Con đến trong thế gian,
Con cũng sai họ đến trong thế gian" (Ga 17,18).
Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết.
Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân...
Ngài đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu
vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ,
và là nơi họ trở thành người Kitô hữu trọn vẹn.
"Họ không thuộc về thế gian,
cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian,
nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.
Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội,
nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn trọng.
Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình
và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.
Họ là nhúm men vùi trong đống bột.
Men không được tách khỏi bột,
và men cũng không được biến chất thành bột.
Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây.
Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh,
thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử Đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời bách hại.
Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm chứng khác.
Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình
để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái...
Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.
Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất mát,
khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
2.Anh em làm chứng cho Thầy--‘Manna’
Suy Niệm
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988,
có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.
Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo,
bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.
"Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con.
Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý,
sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ."
Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn.
Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861,
quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà.
Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi.
Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo,
bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.
Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam,
đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu,
bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng:
"Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy,
mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình,
người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam
là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.
Thiên Chúa đã làm điều phi thường
nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối.
Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng phải bó tay
trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ,
bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình.
Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án,
vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin,
dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,
không đòi hy sinh mạng sống,
nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa,
trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình,
đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.
Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc
vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp
mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin
được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo,
và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy
cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi...)
Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
3.Để làm chứng cho vua quan--‘Manna’
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm
sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay:
bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan,
bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết.
Tất cả những gì các ngài phải chịu
đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi.
"Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em"
để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa
được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Đạo là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững:
Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ,
nên các ngài không bước qua thánh giá.
Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng:
"Không có tình yêu nào lớn hơn
tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu" (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt:
có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu,
cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu.
Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi,
vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá.
Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn.
Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt,
mất tất cả và mất chính mạng sống.
Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá,
nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích.
Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận.
Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân:
Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt.
Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá
để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Đình Hy,
nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn.
Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi?
Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.
Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng.
Quyết định không bước qua thánh giá
là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện,
của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo,
của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm,
của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá,
dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ.
Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá,
bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy
tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin
mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
4.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm
Khi một người biết mình sắp lìa đời,
người ấy thường nghĩ đến những người thân yêu phải xa cách.
Đức Giêsu cũng vậy.
Trong lời cầu nguyện với Cha trước giờ ra đi,
Ngài đã nói nhiều với Cha về các môn đệ (Ga 17,9-19).
Đây là những kẻ mà Ngài yêu đến tột cùng và kỳ cùng (Ga 13,1).
Sắp đến giờ chia tay, Thầy trò mỗi người một ngả.
Thầy thì bỏ thế gian mà “đến cùng Cha” (Ga 17,11.13).
Trò thì vẫn còn ở trong thế gian, bị thế gian thù ghét (Ga 17,11.14).
Đức Giêsu biết rõ sức mạnh của thế gian, của bóng tối,
sức mạnh mà Ngài sắp phải đối đầu.
và các môn đệ cũng sẽ phải đối diện, khi không có Ngài ở bên.
Đức Giêsu chia sẻ với Cha nỗi lo của mình về các môn đệ.
Khi còn ở với họ, Ngài đã gìn giữ họ, đã canh giữ (Ga 17,12).
Giờ đây, Ngài nài xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần (Ga 17,11b.15).
Ngài lo cho họ trong cuộc chiến với tên thủ lãnh thế gian (Ga 16,11),
dù Ngài từng nói với họ: “Thầy đã thắng thế gian !” (Ga 16,33).
Đức Giêsu biết đàn chiên rồi sẽ bị tấn công, bị cướp bóc.
Nhưng nhiệm vụ của Cha và Con là bảo vệ,
để không ai cướp được chiên khỏi tay mình (Ga 10,28-29).
Nếu các môn đệ bị thế gian thù ghét, đó đâu phải là chuyện lạ,
vì nó đã thù ghét Thầy trước rồi (Ga 15,18.24).
Bị thế gian khai trừ, chống đối, bị ngược đãi, và bị giết:
đó là thân phận của người môn đệ (Ga 15,20-21; 16,1-2; 17,14).
Đó là thân phận của người không “thuộc về thế gian.”
Thế gian ghét những ai không thuộc về nó.
Người môn đệ được Thầy Giêsu chọn ra khỏi thế gian (Ga 15,19),
rồi lại được Thầy sai vào trong thế gian (Ga 17,18).
Đức Giêsu không xin Cha đem họ ra khỏi thế gian (Ga 17,15),
chỉ mong họ ở trong thế gian mà không thuộc về nó (Ga 17,14.16),
nhưng thuộc trọn về Cha và về Con (Ga 17,6.10).
Nhờ sống giữa thế gian, họ mới làm cho thế gian tin
và nhận biết rằng chính Cha đã sai Con (Ga 17,21.23).
Những lời Đức Giêsu cầu xin với Cha đã ứng nghiệm
nơi cuộc sống và cái chết của các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam.
Chẳng ai biết được chính xác số kitô hữu
đã chịu đau khổ và chịu chết trên mảnh đất quê hương này.
Họ gồm cả nam nữ, trẻ già, linh mục, giám mục và giáo dân,
là lính hay quan, là người Việt hay nhà truyền giáo ngoại quốc.
Họ chết vì đủ kiểu tra tấn, xử trảm, xử giảo, hay chết rũ tù.
Trước khi đón nhận cái chết, họ đã chọn Đức Giêsu là Chúa.
Chọn lựa này khiến họ không thể đưa chân bước qua thập tự,
dù bước qua là thoát gông cùm, được chức quyền, bổng lộc.
Rõ ràng họ không chọn thuộc về thế gian,
không lung lay trước những mời mọc và hứa hẹn của nó.
“Vì danh Thầy” họ chịu những gì Thầy đã chịu (Ga 15,20).
Chúa Cha và Chúa Con đã gìn giữ và che chở họ,
không phải để họ tránh khỏi cái chết thảm khốc,
nhưng để họ can đảm đón nhận cái chết với nhiều tình yêu.
Nhờ ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng được mọi nỗi sợ.
Họ thường tiến ra pháp trường với sự đĩnh đạc an vui.
Vui vì biết cái chết chóng qua sẽ đưa họ ở bên Thầy mãi mãi.
Lúc nào chúng ta cũng phải sống trong thế gian.
Thế gian của các vị tử đạo là thế gian thời phong kiến.
Thế gian hôm nay có nhiều quyến rũ hơn, ru ngủ hơn.
Không có bách hại gay go, nhưng có nhiều cám dỗ ngọt ngào.
Lắm khi chúng ta bước qua thập giá mà không hay.
Xin Cha làm chúng ta nên thánh trong thế gian này (Ga 17,17),
để sau khi sống cuộc vượt qua của riêng mình,
ta được cùng ở với Chúa Giêsu trong nhà Cha (Ga 17,24).
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con
giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa.
5.Sống chứng nhân tin mừng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.
Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
6.Con đường hạt lúa-- Ga 12, 20-32--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.
Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?
2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam.
3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?
7.Chứng nhân tình yêu--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt nam.
Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh tử đạo Việt nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hi sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm 8:35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15:13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hi sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý hình.
Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hi vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy các thánh tử đạo Việt nam, xin chúc lành cho quê hương và Giáo hội Việt nam. Amen
8.Sống vì đạo--TGM. Ngô Quang Kiệt
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hy sinh mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quý hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quý. Nhưng còn những thứ cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quý. Nhưng có những giá trị còn cao quý hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quý. Nhưng linh hồn còn cao quý hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quý hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quý. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cuộc sống đời này là quý. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta. người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh. Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt Nam đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia tài cao quý nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn. Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực.
Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?
2- Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu chết không?
3- Thời nay không còn cấm đạo, không còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không?
9.Tuyên xưng, sống và làm chứng cho đức tin--TGM. Giuse Nguyễn Năng
1. Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.
Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.
Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.
Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.
Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.
Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.
Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu diệt Hội Thánh. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
2. Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.
Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?
Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”
Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”.
Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”. Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.
Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.
3. Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.
Trước hết, đời sống đức tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.
Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy... đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.
Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo”.
Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ haicủa ngài làcô Anna Năm xác nhận:“Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: "Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho".Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi: "Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ".”
Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng yêu thương.
Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: "Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện", nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.
Điều quan trọng trong đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.
Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.
Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.
Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳngghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quantrị nước cho yên càng ngày càng thịnh”.
4. Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu này.
Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.
Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé”.
Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”
Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.
Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.
Ngày nay, tuy không còn phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa.
Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12)? Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.
10.Nếu hạt lúa miến chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt--Ga 12, 24-26--GM. Giuse Võ Đức Minh
- Kn 3, 1-9: Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.
- 2 Cr 4, 7-15: Chúng tôi luôn mang trong thân xác mình sự chết của Đức Kitô.
- Ga 12, 24-26: Nếu hạt lúa miến chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt.
Kính thưa Cộng đoàn phụng vụ,
Bài Phúc Âm của lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay (Ga 12, 24-26), tập trung vào biểu tượng hạt lúa miến, được hiểu là biểu tượng của chính Chúa Kitô, từ đó ý nghĩa toả lan sang các Kitô hữu, đặc biệt các Kitô hữu chết vì đạo đã được Giáo Hội tôn phong Hiển Thánh hoặc Chân Phước để nêu gương cho mọi thành phần Dân Chúa đang tiếp tục cuộc hành trình đức Tin giữa dòng đời.
“Nếu hạt lúa miến không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ”. Câu này chứa đựng một chân lý thật sâu sắc, đó là: ý nghĩa và giá trị của hạt lúa miến hệ tại cuộc hiện hữu của nó cho kẻ khác, để phục vụ kẻ khác. Nếu không như thế, nó sẽ “trơ trọi một mình’’. “Trơ trọi một mình” là đặc điểm của cuộc hiện hữu vị kỷ, ích kỷ, và vì thế không có ích cho kẻ khác. Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: hạt lúa miến chỉ đạt được phẩm giá cao quý của nó, khi chấp nhận từ bỏ chính mình, để phục vụ sự sống và sự tăng trưởng của mọi người.
“Nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt ”: Chắc hẳn trong đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu nghĩ tới kinh nghiệm trồng trọt của nhà nông: hạt-lúa-giống gieo vào lòng đất phải mục nát, phải thối rữa, phải chết đi, tức là phải chấp nhận mất căn tính hạt lúa, nhìn ở bình diện hiện tượng, để nẩy thành cái mầm, rồi lớn lên thành cây lúa chính, từ đó nẩy sinh thêm nhiều cây lúa phụ, tất cả cùng mang nhiều bông hạt. Chỉ một hạt lúa chết đi, mà sinh ra hằng trăm hạt lúa mới. Đó là sự gia tăng về số lượng. Đến lượt những hạt lúa mới phát sinh từ cái chết của hạt-lúa-giống, cũng chấp nhận bị nghiền nát, nghĩa là chấp nhận mất căn tính hạt lúa, để trở thành tinh bột, hoà mình với nước, với men, nhờ đó dậy men lên, rồi trải qua thử thách của lửa để trở thành tấm bánh thơm ngon và giàu chất dinh dưỡng cho con người. Đó là sự gia tăng về chất lượng. Đối với hạt lúa miến, một cách nào đó, chết đi là tự hạ, tự huỷ ra không; còn gia tăng số luợng và chất lượng là siêu thăng bản chất của hiện hữu. Vì thế, cái chết của hạt lúa miến được Chúa Giêsu chọn làm biểu tượng cho sự tự hạ, tự huỷ của Người như bước chuẩn bị cần thiết cho việc Thiên Chúa siêu thăng và tôn vinh Người qua mầu nhiệm Phục Sinh. Như vậy, Tự hạ và Siêu thăng qua sự Chết và sự Phục sinh, đó là như một quy luật chi phối định mệnh của Hạt Lúa Miến. Mặt khác, vì là một biểu tượng minh hoạ cách sâu sắc ơn gọi của Vua Kitô và của các Kitô hữu, nên Hạt Lúa Miến cũng là một huyền nhiệm.
“Máu các Vị Tử Đạo là hạt giống từ đó nẩy sinh nhiều tín hữu Kitô”.
Câu nói lừng danh này của Tertulianô có giá trị trước tiên đối với dòng Máu của Vua Giêsu, Vị Tử Đạo vĩ đại, đã đổ ra trên Thánh Giá. Máu các Kitô hữu Tử đạo cũng có được khả năng sinh sản thiêng liêng ấy, là vì các ngài đã được nuôi dưỡng bằng Máu-Thánh-Thể của Vua Giêsu chịu đóng đinh. Ngoài ra chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc sống và cái chết của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, khi chúng ta suy gẫm về các hành động và lời nói của các ngài dưới ánh sáng Lời Chúa.
Trước tiên, tử đạo có nghĩa là làm chứng, làm chứng bằng cách chấp nhận chết hoặc đổ máu mình ra để khẳng định niềm tin vào Thiên Chúa,tiếp nối hành động của chính Vua Giêsu trên Thánh Giá. Cái chết để làm chứng triệt để như thế đuợc đồng hoá với “của lễ toàn thiêu” như Sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 nói với chúng ta (x. Kn 3, 6). Theo tác giả Thư Do Thái, khi Đức Kitô đổ máu mình ra trên Thánh Giá, là lúc Người “tự hiến tế làm lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ Thần Khí vĩnh cửu thúc đẩy” (Dt 9, 14). Vậy thì, hành động của các Thánh Tử Đạo chấp nhận chết vì đức tin cũng được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần và nhờ đó các ngài trở thành “của lễ toàn thiêu”, và “của lễ thiêng liêng” (x. Rm 12, 2; 1 Pr 2, 5) được Thiên Chúa ưng nhận. Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan, Linh mục Tử đạo, cầu nguyện trước khi bị hành hình cùng một lúc với hai Thầy Kẻ Giảng như sau: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời đất, chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài” [1]. Vâng, hành động của các Thánh Tử Đạo tế hiến mạng sống mình làm của lễ toàn thiêu và của lễ thiêng liêng, được tô điểm thêm bởi Hy tế ngợi khen (x. Dt 13, 15; Hs 14, 3…). Cái chết lành thánh của các ngài, cũng giống như cái chết cứu độ của Chúa Giêsu, diễn ra trong tâm tình cầu nguyện sâu lắng.
Thánh Tử Đạo Carolô CORNAY Tân, một Linh mục Thừa sai Pháp, trả lời vị quan toà thẩm vấn mình rằng: “Chúng tôi chỉ chuyên lo giảng đạo, khuyên người ta ăn ngay ở lành, dạy con cái thờ cha kính mẹ, kêu gọi thần dân vâng phục vua quan, tôi đâu có thể đi ngược lại giáo huấn của mình mà chống nhà vua được?”[2]. Câu nói sau đây của Thánh Linh mục Tử Đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh thật hết sức ý nghĩa: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tuỳ ý, nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được”[3].
Bài học thứ hai là thái độ kiên định trong sứ vụ làm chứng cho sự thật. Đây là nét nổi bật nhất của Vua Giêsu Tử Đạo và của tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật này, là: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để phàm ai tin vào Con của Người thì khỏi phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Chính Chúa Giêsu ý thức mình là quà tặng của Chúa Cha. Người đến thế gian, “để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Người trở thành Con Đường cứu độ, dẫn tới Sự Sống đời đời và vì thế Người là hiện thân của Sự Thật, nghĩa là của ý muốn cứu độ thế gian của Thiên Chúa Cha. Sự Thật ấy là nội dung chính yếu của Tin Mừng. Về phần mình, các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhất quyết không bước qua hoặc dẫm lên Thánh Giá, biểu tượng của Đạo Giêsu, mà vua quan phong kiến xưa gọi là “tả đạo Gia-tô”; các ngài chấp nhận bị giết để làm chứng trước mặt mọi người rằng Đạo Gia-tô, Đạo Giêsu là Đạo Thật, là Con Đường đích thực dẫn vào Sự Sống bất diệt. Dầu thế gian đón nhận hay khước từ, thì mọi Kitô hữu hôm nay vẫn phải dùng lời nói và cả cuộc sống của mình làm chứng cho Sự Thật đó, theo gương Chúa Giêsu và các Chứng Nhân đức tin anh dũng.
Bài học thứ ba là lòng bác ái không bờ bến đối với mọi người, kể cả những người giết hại mình. Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nêu gương một cách cụ thể: không những Người dạy các môn đệ phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi” mình (x. Mt 5, 44), mà chính Người, khi bị treo trên Thánh Giá, đã cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết hại Người (x. Lc 23, 34). Thánh Emmanuen Lê Văn Phụng, trùm trưởng của họ đạo Đầu Nước, Cù Lao giêng, đã nói lời trăng trối với con trai của mình tại pháp trường: “Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố cáo cha nhé” [4]. Có thể nói: tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam khi bị thẩm vấn, cầm tù và hành quyết, không hề nói một lời trách móc, mỉa mai hay nguyền rủa những kẻ làm hại mình. Càng suy gẫm về những lời đối đáp của các ngài với vua quan bách hại các ngài, hay những lời các ngài tâm sự với người thân của mình, chúng ta mới thấy được điều kỳ diệu của Đạo Tình Thương: Tình thương mạnh hơn sự chết; Tình thương chiến thắng hận thù.
Kính thưa cộng đoàn,
Trong ngày kỷ niệm đúng 50 năm truớc, tức vào ngày 24-11-1960, Đức Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo Phẩm Công Giáo tại Việt Nam. Với tâm tình tri ân, chúng ta hãy “Tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hồng ân này đã được rất đông các Vị Tử Đạo đón nhận cách quảng đại, sống và làm chứng; các ngài là những người muốn loan báo chân lý và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa” [5].
Ngoài ra, chúng ta chân thành xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta biết dùng ân huệ của Năm Thánh hồng phúc này và dùng việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài để kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày của chúng ta [6].
Nguyên xin Đức Mẹ La Vang, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, để cùng với Con yêu dấu của Mẹ và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta đi vào huyền nhiệm Hạt Lúa Miến: chết đi mới sinh nhiều bông hạt, làm nên nhiều tấm bánh, bẻ ra, chia sẻ cho đồng bào của chúng ta được sống và sống dồi dào. Chúng ta chia sẻ sự sống với đồng bào, không chỉ bằng bánh vật chất, mà bằng cả bánh nhân văn và văn hoá, nhất là bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể; có tất cả các thứ bánh đó thì mới thực sự có sự phát triển toàn diện của mỗi người và mọi dân tộc; và có chia sẻ những tấm bánh đó cho mọi người, nhất là người nghèo và người bị gạt ra lề xã hội, mới thực sự tạo được sự HIỆP THÔNG toàn diện và sâu sắc trong Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên Bí Tích, nghĩa là “dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau” [7]. Theo nghĩa đó, “xây dựng sự HIỆP THÔNG trong Giáo Hội là chìa khóa của SỨ VỤ” [8] làm chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. AMEN.
------------
[1] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca 2.
[2] Xem Kinh Sách ngày 24/11, điệp ca 1.
[3] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca của Thánh ca Tin Mừng.
[4] Xem Tài Liệu Làm Việc của Đại Hội Dân Chúa, cước chú 109.
[5] Xem Huấn từ ĐTC Beneđictô XVI ngỏ với HĐGMVN ngày 27-06-2009.
[6] Xem Thư ĐTC Beneđictô XVI gửi ĐC Chủ Tịch HĐGMVN dịp lễ khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện 24-11-2009.
[7] Xem TLLV, chương II.
[8] Xem Sứ điệp Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2010 của ĐTC Beneđictô XVI.
11.Bài giảng của GM Giuse Vũ Văn Thiên--Missouri 2014
Kính thưa cộng đoàn,
Ngày 19-6-1988 đã in một nét son trong lịch sử Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. 117 thánh tử đạo là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại. Đây là một biến cố quan trọng đối với Dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam vốn đã tự hào về một truyền thống kiên cường trong việc dựng nước và giữ nước, nay càng tự hào hơn vì có những bậc tiền nhân anh hùng kiên vững trong Đức tin. Quê hương Việt Nam đã xinh đẹp, nay còn xinh đẹp hơn nhờ được tô điểm bằng Đức tin Công giáo.
Tại Quảng trường Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma hôm đó, trước hàng triệu tín hữu, trong số đó có những tín hữu Việt Nam, Vị Cha chung của Giáo Hội Công giáo hoàn vũ đã nhân danh Chúa Ba Ngôi long trọng tuyên bố: kể từ nay, 117 vị Tử đạo Việt Nam được kể vào hàng các thánh và được tôn kính trong toàn thể Giáo Hội. Để bày tỏ tình thương hiền phụ đối với các tín hữu Việt Nam, vị Thánh Giáo Hoàng đã ngỏ lời với con cháu các thánh Tử đạo bằng ngôn ngữ của họ. Đây là lần đầu tiên tiếng Việt thân thương của chúng ta được phát âm và xướng lên bởi một vị Giáo Hoàng: “Chào anh chị em Việt Nam thân mến. Cha gửi lời chào chúng con từ bốn phương trời tuốn về La Mã, vui vẻ hiên ngang mừng các thánh Tử đạo của Giáo Hội chúng con hôm nay. Xin Chúa chúc lành cho chúng con, và Cha cầu chúc cho chúng con sống xứng đáng là con cháu các vị anh hùng”.
Đã 26 năm từ sự kiện phong thánh, những lời của vị Cha Chung ngỏ lời với con dân Việt vẫn còn vang vọng đâu đây trong tâm khảm của các tín hữu Việt Nam đang sống trong nước cũng như ở hải ngoại. Bởi lẽ, qua những lời đơn sơ ấy, vị Thánh Giáo Hoàng muốn mời gọi chúng ta tưởng nhớ về một quá khứ đau thương hào hùng của Giáo Hội Công giáo Việt Nam, đồng thời khuyên chúng ta học nơi các ngài bài học sống Đức tin trong cuộc sống hiện tại hôm nay.
- Thứ nhất, hồi tưởng về quá khứ. Giáo Hội công giáo Việt Nam đã trải qua những thử thách đau thương khốc liệt, giống như cộng đoàn tín hữu tiên khởi tại Rôma ở thế ký thứ hai. Hơn một trăm ngàn người Việt Nam đã phải hy sinh mạng sống chỉ vì một lý do là họ tin vào Chúa. Họ phải chịu biết bao đau khổ và nhục hình: phân biệt đối xử, phát vãng lưu đày và tử hình. Có thể thế hệ hôm nay sẽ đặt câu hỏi: các Thánh Tử đạo Việt Nam là những ai? Thưa họ là những giám mục, linh mục, tu sĩ chủng sinh; họ là những người cha, người mẹ, những người con trong gia đình; họ là những người học hành uyên bác nhưng phần lớn trong số họ là những người bình dân; đa phần trong số họ là những người chân lấm tay bùn, vất vả quanh năm với con trâu, cái cày. Trong số họ cũng có 21 vị là người ngoại quốc. Các ngài đến từ những đất nước văn minh và đã chọn Việt Nam là quê hương thứ hai của mình. Các Thánh Tử đạo Việt Nam, không phân biệt Tây hay Ta, nam hay nữ, giàu hay nghèo, trí thức hay bình dân. Tất cả đều yêu mến Chúa, yêu quê hương Việt Nam và yêu Giáo Hội Việt Nam đến mức sẵn sàng đổ máu đào để làm chứng cho tình yêu ấy. Vì thành kiến và thù ghét, người ta đã nghĩ ra biết bao hình khổ ghê rợn hầu làm họ chối bỏ Đức tin, nhưng các ngài vẫn can đảm kiên trung trước lời đe dọa của những nhà cầm quyền. Chủng sinh 18 tuổi, Tôma Trần Văn Thiện, đã nói với quan: “Đạo dạy tôi thờ Thiên Chúa là đạo thật, tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đạo“. Thấy Tôma Thiện là một chàng trai trẻ có khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, quan muốn nhận làm con rể mình, và sẽ đứng ra lo liệu cưới xin. Nhưng ngài đã từ chối: “Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng đến quyền chức trần thế”. Thánh Tôma đã thấu hiểu lời Đức Kitô trong Tin mừng Luca: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?”. Sách viết về cuộc đời của các Thánh Tử đạo còn kể lại biết bao chứng tá anh hùng của các ngài. Các ngài không sợ hình phạt, chỉ sợ mất nghĩa cùng Chúa. Đi ra pháp trường mà các ngài vui vẻ như đi dự hội. Với các thánh Phạm Khắc Khoan, Nguyễn Văn Hiếu và Đinh Văn Thanh, các ngài đã chia bè và hát kinh Tạ Ơn “TE DEUM” bằng tiếng Latinh ngay trong nhà giam. Rồi khi ra pháp trường để chịu tử hình, các ngài lại hát bài ca “Alleluia” như trong đêm vọng Phục Sinh. Chỉ có một Đức tin kiên trung và lòng phó thác trọn vẹn mới có thể đem lại cho các ngài nghị lực và niềm vui như vậy.
Sống đạo đức thánh thiện và trung thành với Đức tin, các ngài còn là những người sống bác ái với mọi người. Lịch sử các Thánh Tử đạo còn ghi lại thánh y sĩ Phan Đắc Hòa. Ngài đã sẵn sàng chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, sẵn lòng cứu giúp những người túng thiếu. Hay thánh Martinô Thọ, Ngài thường trồng vườn dâu để có thêm thu nhập giúp người nghèo. Cụ trùm Đích thì thường xuyên góp nhặt tiền bạc để đi thăm viếng trại cùi và nuôi nấng những người dịch tả trong vùng. Còn với quan Hồ Đình Hy, ngài luôn giúp đỡ những người bơ vơ, mồ côi ngay ở trong nhà, và khi họ qua đời thì lo an táng đàng hoàng như một người bình thường.
- Ôn lại quá khứ, chúng ta là những tín hữu Công giáo Việt Nam học những bài học cụ thể cho cuộc sống hôm nay. Quả vậy, lòng tự hào về các bậc Tiền Nhân không phải chỉ được ghi lại trong những pho sách sử mà thôi. Chúng ta ôn lại truyền thống hào hùng được ghi dấu và thấm đẫm máu đào, không giống như chỉ ôn lại một sự kiện lịch sử xa vời, dù rất đẹp nhưng khô cứng và vô hồn. Chúng ta tự hào về các Thánh Tử Đạo cũng không giống như kiểu lấy công phúc của các ngài để làm vinh dự cho chúng ta. Việc ôn lại chứng tá của các Thánh Tử đạo nhắc nhớ mỗi người dân Việt, nhất là những tín hữu Công giáo Việt Nam, dù sống trên miền đất nào, cũng cố gắng noi theo lòng đạo đức của các ngài, gìn giữ Đức tin kiên trung vào Chúa, yêu mến Giáo Hội và sống Đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Cuộc sống và chứng từ của các anh hùng Tử đạo cần phải được kể lại cho mọi thế hệ người Công giáo Việt Nam. Cùng với lòng tự hào là tâm tình tri ân cảm mến và thiện chí noi gương các ngài để sống Đức tin. Thời tử đạo dẫn đến máu chảy đầu rơi ngày nay không còn nữa, nhưng những ai muốn trung thành với Chúa thời nào cũng phải cân nhắc khôn ngoan để chọn lựa Chúa hay chọn lựa thế gian; chọn lựa hạnh phúc và niềm vui vĩnh cửu hay chọn lựa vinh quang nhất thời; chọn lựa đường đi trong ánh sáng hay cuộc sống trong bóng đêm. Môi trường nào cũng vậy, ta luôn phải chọn lựa. Hoàn cảnh nào cũng thế, ta phải sống khôn ngoan. Cuộc chọn lựa này nhiều khi làm chúng ta phải vượt lên những ràng buộc khắt khe và có khi phải vượt lên chính mình với trái tim rướm máu. Nếu những cuộc cấm cách tàn khốc đã lùi vào dĩ vãng thì người tín hữu hôm nay lại phải đối diện với những thử thách của thời hiện đại. Quả vậy, biết bao trào lưu và lối sống mượn chiêu bài tự do để đi ngược với giáo huấn của Tin Mừng, coi thường hoặc lãng quên những thực hành đạo đức, tôn vinh kỹ thuật một cách quá đáng và lãng quên Thiên Chúa là Cội nguồn mọi sự. Sáng suốt và khôn ngoan để trung thành với Chúa trong cuộc sống hôm nay, đó là một cuộc tử đạo trường kỳ, dai dẳng suốt cuộc đời.
Ơn gọi tử đạo gắn liền với những ai tin vào Chúa Giêsu và muốn làm môn đệ Người. Nếu chúng ta được sống trong một xã hội dân chủ, an bình, thì đó đây trên thế giới, vẫn còn những nhà truyền giáo bị hành hung và sát hại, vẫn có những ngôi thánh đường Công giáo bị tàn phá, vẫn còn những tín hữu không dám công khai tuyên xưng Đức tin, vẫn còn những người vì hai chữ Công giáo mà bị phân biệt đối xử. Đây cũng là những cuộc bách hại mang hình thức mới của thời đại và những tín hữu này đang sống từng ngày chứng tá của mình một cách anh hùng.
Kính thưa Cộng đoàn,
Ngày Thánh Mẫu được tổ chức hàng năm tại Missouri đã trở thành điểm hẹn thân thương cho người Việt Nam đang sống tại Hoa Kỳ cũng như tại nhiều nước trên thế giới. Chúng ta về đây để gặp gỡ nhau, để chia sẻ những vui buồn và nâng đỡ nhau trong cuộc sống. Chính Đức Mẹ Maria đã quy tụ chúng ta nơi đây. Mẹ là điểm nối kết giữa những con Dân Việt đang sống xa quê. Về với Mẹ, chúng ta được Mẹ vỗ về ủi an. Về với Mẹ, chúng ta có dịp kể lể tâm sự với Mẹ những băn khoăn trăn trở của cuộc sống trần gian. Về với Mẹ, chúng ta cũng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Mẹ chiếu tỏa qua các nhân đức và sự trung thành can đảm của Mẹ. Trong Thánh lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng nhìn lên Mẹ và ca tụng Mẹ là Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo. Vâng, dưới chân thập giá, Mẹ đứng đó, trong suy niệm và thinh lặng, đau khổ kết hợp với của lễ của Con mình là Đức Giêsu chịu treo trên thập giá. Mẹ là Đấng Đồng Công cứu chuộc. Mẹ chia sẻ đau đớn và hiệp thông với Chúa Giêsu. Mẹ cũng dâng chính bản thân mình làm của lễ lên Chúa Cha. Mẹ xứng đáng được mang ngành thiên tuế của các vị Tử Đạo. Về bên Mẹ trong Ngày Thánh Mẫu này, chúng ta xin Mẹ cho chúng ta được lòng cậy trông, chí can đảm và lòng tín thác nơi Chúa trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Đây bài ca ngàn trùng dâng về Thiên Chúa, bài ca thắm nhuộm máu hồng. Nhìn Chúa đẫm máu trên đồi cao, từng đoàn người anh dũng tiến lên pháp trường. Một bài ca đẫm máu đào. Một bài ca hào hùng bất tận. Bài ca ấy, chính là cuộc đời của các thánh Tử đạo Việt Nam. Chúng ta, nhưng tín hữu Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đang là những người nối tiếp bài ca đã được các ngài xướng lên, để làm vang mãi lời ca tôn vinh Chúa, ca ngợi vẻ đẹp của Giáo Hội và Quê Hương Việt Nam thân thương.
“Cha cầu chúc cho chúng con sống xứng đáng là con cháu các vị anh hùng” - lời chúc thiêng liêng của vị Thánh Giáo Hoàng luôn luôn là một lời mời gọi và là một thông điệp được gửi đến cho mỗi người chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho chúng con. Xin Mẹ luôn gìn giữ che chở chúng con. Xin các Thánh Tử đạo Việt Nam cầu bầu cho chúng con. Amen.
12.Bài giảng của GM Vinhsơn Nguyễn Văn Long Sydney
Kính thưa quý cha, tu sĩ nam nữ và quý Ông Bà, Anh Chị Em,
Hôm nay tôi rất vui mừng được đến đây dâng đại lễ mừng các Thánh Tử Đạo Việt Nam cùng với các linh mục tu sĩ và đông đảo cộng đoàn Dân Chúa tại Tổng Giáo Phận Sydney. Tôi thiết nghĩ rằng, không có Thánh Lễ nào trong phụng vụ hằng năm nói lên niềm tin của người Việt Nam Công Giáo cho bằng Thánh Lễ ngày hôm nay. Qủa thế, các Thánh Tử Đạo Việt Nam chính là biểu lộ những gì đặc thù nhất và tinh túy nhất của truyền thống đức tin Công Giáo của chúng ta. Hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì những gì Ngài đã thực hiện qua những con người yếu hèn; hôm nay chúng ta hãnh diện vì được tiếp nối truyền thống hào hùng và hôm nay chúng ta noi gương các ngài cùng quyết tâm trung thành với sứ mạng được trao phó.
Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam của chúng ta cũng là bằng chứng hùng hồn của sức mạnh của Thiên Chúa qua sự yếu đuối của con người. Trải qua chiều dài nhiều thế kỷ, từ khi hạt giống đức tin được gieo vào lòng đất Việt, Giáo Hội đã trải qua bao gian nan thử thách. Nhưng gông cùm, bách bớ tù đầy và ngay cả sự chết đã không ngăn cản, không sờn lòng các vị tiền nhân anh dũng. Các Ngài đã không sợ những người chỉ làm hại thân xác mà không lay chuyển tâm hồn, như lời chúa phán trong bài Phúc Âm hôm nay. Các Ngài như vàng được thử trong lửa và như của lễ toàn thiêu được Chúa chấp nhận. Nơi các Ngài, tình yêu của Chúa Kitô đã chiến thắng tất cả những thế lực của sự dữ:
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. không có gì tách đuợc chúng ta ra khỏi tình yêu củ#a Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.
Thưa quý Ông Bà, Anh Chị Em,
Lòng anh dũng can trường của các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã và đang thôi thúc các thế hệ nối tiếp. Chúng ta có thể hãnh diện tuyên xưng không chỉ 117 vị đã được Giáo Hội hoàn vũ liệt kê vào danh sách chính thức. Thật thế, đã có hàng trăm ngàn các vị đã hy sinh mạng sống mình vì Phúc Âm và những hạt giống đức tin đó đang sinh hoa kết trái trong lòng đất Việt thân yêu, nơi các Ngài nằm xuống. Những trang sử oai hùng của chúng ta không chỉ được viết trong qúa khứ, khi bắt bớ, tù đày và gông cùm không làm cha ông chúng ta chùn bước.Trong tinh thần đức tin bất diệt, các thế hệ nối tiếp cũng đang viết lên một trang sử mới, trong muôn vàn thử thách đắng cay.
Trong suốt gần 70 năm dưới chế độ Cộng Sản, Giáo Hội Việt Nam đã không bị thuần phục và trở thành công cụ của một chế độ, bất chấp bạo lực mưu mô và sách lược của nhà cầm quyền vô thần. Hơn thế nữa, những biến cố gần đây tại Thái Hà, Toà khâm Sứ, Cồn Dầu, Con Cuông và nhiều nơi khác ở Việt Nam đã nói lên ý chí kiên cường cho công lý và trìều đại chính trực.
Trong một xã hội bị bóng đêm của độc tài, của bất công và của dối trá thống trị, ngọn lửa Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống được các bậc tiền nhân anh dũng và các thế hệ nối tiếp thắp lên và làm ánh sáng hy vọng, không chỉ cho nguời Công Giáo mà cho cả quê hương dân tộc.
Kính thưa quý Ông Bà, Anh Chị Em,
Hôm nay cũng là ngày mà người Việt Nam Công Giáo ly hương xác tín lại sứ mạng của chúng ta trước gia tài thiêng liêng của các Thánh Tử Đạo. Tôi thâm tín rằng, sự kiện chúng ta hiện diện nơi đây cũng như trên khặp thế giới là do sự quan phòng của Thiên Chúa. Mà sự an bài nhiệm mầu này không phải chỉ dành riêng cho chúng ta, mà còn cho cả giáo hội và cho quê hương chúng ta nữa. Như người dân Do Thái lưu đầy năm xưa, chúng ta được đến xứ lạ không phải để tha phương cầu thực mà để làm chứng nhân của tự do, sứ gỉa của tin mừng và là hạt nhân cho tiến trình công lý hóa và phục hưng cho quê hương và giáo hội quê mẹ.
Chúng ta cảm tạ Chúa là sau hơn 30 năm định cư, người Việt Công Giáo đã và đang có những đóng góp tích cực về mọi khía cạnh của giáo hội: về ơn gọi tu sĩ linh mục, về sinh hoạt đoàn thể, mục vụ giáo xứ và ngay cả về tài chánh. Nhưng chúng ta không thể dừng lại ở con số hay những tiêu chuẩn bề ngoài. Cách đây ít lâu tôi có đi kinh lý tại Brisbane vì những khó khăn cộng đòan trên đó gặp phải. Vì những vấn đề trong các cộng đòan tại Úc, tôi tự hỏi: Phải chăng chúng ta cần đề cao cảnh giác hơn về các khuynh hướng gây chia rẽ rạn nứt trong cộng đoàn? Phải chăng chúng ta cần sống đạo có chiều sâu hơn, nhất là sự tha thứ, bao dung, đại đồng? Phải chăng chúng ta cần áp dụng triệt để hơn tinh thần phục vụ trong khiêm tốn, quảng đại, hiến thân? Đây là những điều mà không phải giáo dân mà cả các anh em linh mục tu sĩ chúng tôi cần xét mình và hành động. Nếu chúng ta tự hào là con cháu của các Thánh Tử Đạo, chúng ta phải chứng tỏ bằng hoa trái của đời sống người tín hữu đích thực.
Hôm nay, mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta cùng cảm tạ Chúa vì gia tài đức tin cao qúi mà các Ngài đã để lại cho chúng ta. Xin Thiên Chúa qua sự bầu cử của các Ngài, giúp chúng ta làm chứng nhân sống động của đức tin và của các gía trị cao qúi mà chúng ta đã sẵn sàng trao đổi mạng sống trong hành trình tìm tự do năm xưa. Thời Cựu Ước, Người Do Thái lưu đày tại Babylon đã trở nên hạt nhân của công cuộc tái thiết đất nước của họ. Thời nay, người Việt ly hương chúng ta cũng không thể quên nguồn gốc và nhất là không thể vô cảm trước bao thống khổ của đồng bào trong nước. Chính tình yêu đối với Thiên Chúa và nhiệt tâm cho Vương Quốc của Ngài đòi hỏi thôi thúc chúng ta trong cuộc chiến cho công lý và sự thật, ánh sáng và sự sống – cuộc chiến mà chính Đức Kitô đã tranh đấu và khải hoàn qua sự chết và phục sinh của Ngài. Chúng ta cùng hiệp thông với giáo hội quê nhà và mọi người thiện tâm để hướng tới một tương lai tươi sáng, một hình ảnh của vương quốc Thiên Chúa trên đất Việt thân yêu.
Hôm nay cũng là ngày Lễ Vọng Chúa Kitô Vua, là ngày nhắc nhở chúng ta về Đấng là khởi điểm và là cùng đích của lịch sử. Mặc dù trong thế giới, trong xã hội, hay trong quê hương còn có qúa nhiều tàn dư của sự dữ, chúng ta tin tưởng vào sự tất thắng của vương quốc Thiên Chúa. Cùng Đức Kitô Đấng đã chế ngự tử thần và sự dữ, cùng với Mẹ Lavang, các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta hãy vững tiến về tương lai tươi sáng trong tin yêu hy vọng. Với các Ngài, chúng ta hát câu “người đi trong đau thương sẽ về giữa vui cười, người gieo trong lệ sầu sẽ gặt trong mùa xuân tươi”. Amen.
13.Bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2--Mt 25,14-30
Suy niệm.
Trong cộng đồng rộng lớn của Giáo Hội, tôi xin chào thăm đặc biệt anh em Việt kiều quí mến đến đây từ mọi phương trời từ Châu Mỹ và Châu Á, từ Úc Châu và tất cả các nước Âu Châu. Tôi biết anh em đến đây vì muốn tôn kính các vị Tử Đạo của anh em, nhưng cũng muốn tái tạo chung quanh các vị Tử Đạo tình huynh đệ, tình thân hữu, tình yêu thương vốn đầy tràn trong tâm hồn anh em, bởi vì tất cả anh em đều có cùng một tổ quốc quê hương. Khi gợi lại những kỷ niệm của anh em, tức là anh em hướng về quê hương với lòng yêu và lòng thương nhớ, với một ước muốn sống giây phút hiệp thông đầy hy vọng giữa cuộc sống ở hải ngoại này. Khi cùng với anh em tuyên xưng Chúa Kitô chịu đóng đinh, tất cả chúng tôi hôm nay đều muốn cảm tạ Thiên Chúa vì những chứng tá đặc biệt mà các thánh Tử Đạo này là những người con đông đúc của Việt Nam, hay là những vị thừa sai đã có những truyền thống Đức tin vào Chúa Kitô một cách sâu xa. Truyền thống của anh em nhắc nhở chúng tôi trong lịch sử Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam từ lúc khởi đầu còn bao la và phức tạp hơn nữa. Từ năm 1533, tức là từ khi cuộc rao giảng Tin mừng Kitô bắt đầu từ Đông Nam á, Giáo Hội Việt Nam trong ba thế kỷ đầu đã phải chịu những cuộc bách hại nặng nề nối tiếp nhau, với một vài giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo Hội Tây phương đã phải chịu trong ba thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn tín hữu Kitô chịu Tử Đạo và đã có rất nhiều người chết trên rừng núi, trong những vùng rừng thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đầy tới. Làm sao có thể gợi hết các vị Tử Đạo ra đây được, và cho dù chỉ được giới hạn vào những vị Tử Đạo được tôn phong hiển thánh hôm nay, chúng ta cũng chỉ có thể dừng lại nơi một vài con số trong những vị Tử Đạo của họ. Thực vậy, có tất cả 117 vị thánh Tử Đạo, gồm 8 giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân, trong số này có một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con. Chỉ cần nhắc lại đây một, hai khuôn mặt như cha Vicente Dòng Đaminh chịu tử đạo năm 1773, đó là vị đầu tiên trong 96 vị Tử Đạo Việt Nam. Rồi có một linh mục khác là cha Anrê Dũng Lạc, cha mẹ của ngài vốn là những người ngoại đạo và nghèo túng. Từ thuở nhỏ ngài được ký thác cho một thầy giảng và sau trở thành linh mục vào năm 1823, rồi làm cha sở và làm nhà truyền giáo ở nhiều nơi khác nhau tại Việt Nam. Hơn một lần ngài đã được cứu thoát khỏi tù ngục nhờ giáo dân quảng đại nộp tiền chuộc. Ngài nhiệt tình ao ước được chịu phúc Tử Đạo, ngài thường nói những người chết vì Đức tin thì được lên trời, thế mà ta cứ tiếp tục trốn tránh, chi phí tiền bạc để tránh thoát những kẻ bách hại, ta hãy để mình bị bắt và chịu chết thì hơn. Nhờ lòng nhiệt thành và ơn Chúa nâng đỡ như thế ngài đã chịu tử đạo, bị chém đầu tại Hà Nội ngày 21.12.1839. Như vậy hôm nay chúng ta có trước mắt các thánh Tử Đạo Việt Nam là những người theo Chúa Thánh Vịnh đa noi ve cac ngai như sau: "Những ai gieo trong nước mat se gat trong hoan ca, ho đi va khoc nức nở gieo hat giong nhưng trở ve ca hat, tay mang bo lua trĩu hat”: Dưới anh sang cua những lời huyền nhiệm này, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa đích thực của chứng tá lịch sử của các vị Tử Đạo trong Giáo Hội Việt Nam đã thực hiện với nước mắt. Họ đã gieo vãi hạt giống Tin mừng và ơn thánh, từ đó đã nảy sinh dồi dào hồng ân Đức tin "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất và không nát đi thì không sinh hoa trái, trái lại nếu nó chết đi thì sẽ mang lại nhiều hoa trái (Jn 12,24-25). Trong thực tế khi gieo trong nước mắt, các vị Tử Đạo Việt Nam đã khởi sự công cuộc đối thoại sâu xa và có tính cách giải phóng đối với dân tộc và văn hoá quốc gia Việt Nam, họ rao giảng trước mặt mọi người tính cách chân thực và phổ quát niềm tin vào Thiên Chúa. Và hơn nữa, các vị đề ra các giá trị và các bổn phận đặc biệt thích hợp với nền văn hóa tôn giáo của tất cả miền Viễn Đông. Dưới sự hướng dẫn của cuốn giáo lý đầu tiên, các vị Tử Đạo đã làm chứng rằng "Cần phải thờ lạy Thiên Chúa, Chúa Tể duy nhất, một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tác tạo nên đất trời”. Đứng trước sự cưỡng bách của nhà cầm quyền trong việc hành đạo, họ đã xác quyết quyền tự do tín ngưỡng và đã can đảm mạnh mẽ khẳng định trong đạo Kitô là điều duy nhất mà họ không thể từ bỏ được, vì họ không thể bất tuân lệnh vị Chúa Tể Tối Cao là Thiên Chúa. Ngoài ra các vị đã tỏ ý muốn trung thành với các nhà cầm quyền của đất nước, không vi phạm những gì là chính đáng và ngay thẳng, các vị cũng đã dạy phải tôn kính tổ tiên, các tập tục của quê hương mình dưới ánh sáng mầu nhiệm Phục sinh. Với các vị Tử Đạo của mình và nhờ những chứng tá của các vị, Giáo Hội Việt Nam tuyên tín ý chí và quyết tâm không loại bỏ truyền thống văn hóa và các luật thể chế của đất nước. Trái lại, Giáo Hội đã tuyên bố và chứng tỏ rằng mình muốn nhập thể vào truyền thống, văn hoá đó bằng cách trung thành góp phần vào việc xây dựng tổ quốc một cách đích thực.
14.Những đấng bậc anh hùng--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
Dân tộc Việt Nam đáng tự hào vì có những người con anh dũng, kiên cường, trung thành sống tin yêu cho dù phải chết. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Hôm nay khi nhìn lên các bậc cha ông, chúng ta cúi đầu tạ ơn Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi quê hương đất nước Việt Nam, và xin sẵn sàng nhận lãnh sứ mạng Thiên Chúa trao ban, làm chứng nhân cho Ngài giữa thế giới hôm nay.
1. Kiên trung bất khuất
Người Việt Nam chúng ta rất giầu tình cảm gia đình. Có người con nào không muốn được sống để phụng dưỡng cha mẹ trong lúc tuổi già? Có người cha người mẹ nào không thương con, không muốn sống để nuôi dưỡng và giáo dục con thơ? Nếu mình chết, ai lo lắng săn sóc cho cha mẹ già yếu? Ai lo cho vợ dại cho con thơ? Ai mà không muốn sống? Ai mà không sợ chết? Ấy thế mà bao nhiêu những bậc cha anh chúng ta đã cam chịu chấp nhận cái chết, chấp nhận xa cha già mẹ yếu, chấp nhận vĩnh viễn lìa vợ dại con thơ, thậm chí chấp nhận cả cái chết đau đớn “tùng xẻo” cũng như cái chết lần mòn trong tù, vì kiên trung với Chúa, vì biết rằng Thiên Chúa sẽ lo lắng cho những người thân yêu của mình, vì biết Thiên Chúa phải được chọn trên tất cả.
Cha ông chúng ta quả là những người tuyệt vời, anh dũng kiên cường, chiến thắng tất cả. Không gì có thể thắng được cha ông chúng ta, cho dù được dụ dỗ bằng tiền của, bị đe dọa với mọi cực hình. Qua các bậc cha anh kiên cường bất khuất, chúng ta nhận ra rằng, chính Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi các bậc cha anh Việt Nam chúng ta. Chính Thiên Chúa đã làm các ngài thành những người tuyệt vời, thành những anh hùng, thành những người tín trung với Ngài cho dù phải chết. Thiên Chúa tỏ quyền năng và sự khôn ngoan của Ngài nơi những người ít học và mong manh mỏng dòn.
Tạ ơn Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời. Tạ ơn Thiên Chúa đã làm những bậc cha anh Việt Nam chúng ta là những người tuyệt vời. Tạ ơn Thiên Chúa đã yêu thương cha ông chúng ta, đã yêu thương dân tộc Việt Nam. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam là lịch sử tình yêu của Thiên Chúa đối với dân tộc chúng ta. Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam cũng phải là lễ tạ ơn Thiên Chúa Tuyệt Vời.
2. Thật sự tự do
“Được làm vua, thua làm giặc”. Ngày xưa những người muốn chống lại một triều đại đã biết, và đã dám làm dám chịu. Tuy vậy, nơi những người chấp nhận cái chết vì tình yêu đối với Thiên Chúa, thì chính khi thua lại là thắng. Người ta tưởng giết được họ là chiến thắng, nhưng thực tế lại ngược lại: chính vì không thắng được họ, nên đã phải giết họ. Dưới khía cạnh này, kẻ dùng bạo lực lại là người yếu, người giết người khác lại là người thua. Những người tưởng rằng giết được người khác thì thắng, nhưng thật ra chính vì thua nên mới phải giết họ. Không dụ dỗ được, không đe dọa làm họ khiếp sợ và làm theo ý của những người có quyền thế, nên phải giết họ. Những người bị giết lại là người mạnh, lại là người bất khả chiến bại.
“Tự do” thuộc về người chiến thắng. Vua là người chiến thắng. Những bậc cha anh chúng ta đã bị giết nhưng các ngài là những anh hùng bất khuất; người ta đã giết các ngài vì người ta không thể thắng các ngài. Cha anh chúng ta đã tự do với tất cả, đã thắng sự sợ hãi, đã tự do không để bị quyến rũ bởi bạc tiền chức quyền. Các ngài đã chiến thắng để thành người tự do; tự do với cả sự hận thù để yêu mến Thiên Chúa và yêu cả những người đã giết các ngài.
Chính Thiên Chúa làm các ngài tự do. Thiên Chúa đã yêu thương cha anh chúng ta, đã làm các ngài yêu Thiên Chúa đến độ dám vì Ngài mà đánh đổi tất cả, đã tin tưởng phó thác tất cả cho Thiên Chúa ngay cả cha già mẹ yếu, ngay cả vợ dại con thơ, ngay cả tương lai đời mình và tất cả những người mình thương yêu nhất. Thiên Chúa sẽ lo cho những người mình yêu thương, vì Thiên Chúa yêu thương mình, vì Thiên Chúa yêu thương những người đó hơn mình yêu thương họ. Thiên Chúa là Đấng đã làm các bậc anh hùng cha ông chúng ta tin và phó thác tất cả cho Ngài.
3. Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm những điều tuyệt vời nơi con người hôm nay
Đức Yêsu trên thập giá cũng đã phó thác tất cả cho Thiên Chúa, phó thác người mẹ thân yêu cho Thiên Chúa và cho người môn đệ hiện ở đó, phó thác cả chương trình của Ngài về nhóm 12; bởi vì khi Ngài sắp chết các tông đồ vẫn còn rất “đời”, vẫn còn tìm cách để được ngồi bên phải bên trái khi Thầy được vinh quang, vẫn còn tranh luận xem ai là người lớn nhất. Đức Yêsu đã phó thác tất cả cho Thiên Chúa, và chính Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu vượt quá sức con người có thể ngờ tới: đó là phục sinh Đức Yêsu từ cõi chết; cũng chính Thiên Chúa ban Thánh Thần để biến đổi các tông đồ trở thành những người can đảm, quảng đại, và hiên ngang rao giảng Tin Mừng Đức Yêsu Phục Sinh. Chính khi con người bất lực và phó thác cho Thiên Chúa, thì Ngài sẽ làm tất cả.
Qua những con người yếu đuối mỏng dòn Thiên Chúa đã làm cho thế gian thấy sức mạnh vô cùng của Thiên Chúa. Cái chết của những anh hùng tử đạo hôm nay cho thấy thế gian và thế lực của sự dữ đã thất bại, và Thiên Chúa vẫn tiếp tục toàn thắng trên ma quỷ và sự dữ. Thiên Chúa đã chiến thắng ma quỷ và sự dữ trên quê hương Việt Nam qua bao anh hùng tử đạo trên đất nước thân yêu của chúng ta.
Hôm nay nhìn lên các bậc tiền bối anh dũng, người Việt Nam chúng ta lại đang được Thiên Chúa mời gọi: hãy trở nên con cháu đích thực của những bậc anh hùng, hãy theo gương các bậc cha anh: phó thác tất cả cho Thiên Chúa Tình Yêu, chính Ngài sẽ lo lắng tất cả cho chúng ta. Hãy sống tốt giây phút hiện tại, và đừng sợ gì cả. Thiên Chúa sẽ làm tất cả cho chúng ta. Thiên Chúa đã và đang chiến thắng thế gian này, qua cha ông chúng ta trong quá khứ, và Ngài đang muốn chiến thắng thế gian qua mỗi người chúng ta hôm nay nơi môi trường chúng ta đang sống.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tự hào là người Việt Nam không? Nếu có ai tự ti mặc cảm vì là người Việt Nam, bạn nói gì với họ?
2. Bạn có một tâm tình gì đặc biệt trong ngày lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam không? Xin bạn chia sẻ.
3. Bạn biết gì về các thánh tử đạo Việt Nam? Xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam mà bạn thích nhất.
15.Suy niệm của Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm SJ.
Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các thánh tử đạo là những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời sống trong sáng đáng quý như châu ngọc
Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người thân.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.
Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức Giêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Giêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.
“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?
2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!
16.Chứng nhân anh dũng--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
I. LỄ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.
Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo Việt nam long trọng mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt nam, một ngày lễ đem lại niềm vui và một hào khí thúc đẩy người tín hữu Việt nam theo gương các thánh mà làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của chân phước Anrê Phú yên vào năm 1544. Từ đây Giáo hội Việt nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.
Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy xem một số hình phạt man rợ và bất công đó:
- Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.
- Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.
- Thiêu sinh: bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.
- Xử trảm: bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.
- Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.
- Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.
Cũng nên biết qua về kế họach PHÂN SÁP của vua Tự Đức, một kế họach quá sâu độc !
Nhưng cũng để cho chúng ta biết rằng trong mọi biến cố lúc nào cũng có bàn tay quan phòng của Chúa, sự khôn ngoan của lòai người chỉ là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa.
Kế họach Phân Sáp được Vua Tự Đức cho thi hành vào năm 1851 và 1856.
Do sự thi hành kế họach Phân Sáp này mà gần 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 15 Linh mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì Đạo.
Kế họach phân sáp gồm bốn mặt:
- Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.
- Mặt thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.
- Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà Nước.
- Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công gíao thì phải để cho gia đình người lương nuôi.
Đây là một kế họach rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Giáo hội Việt nam tận gốc rễ. Nhưng bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng: các triều đại nhà Nguyễn không còn nữa, mà Giáo hội Việt nam, hiện nay, vẫn còn lớn mạnh và phát triển không ngừng (Theo Internet).
Có nhiều lý do dẫn đến cảnh bách hại: vì ghen tương đố kỵ, hiểu lầm hay do những nguyên nhân chính trị. Trong vòng 300 năm, Hội thánh Việt nam đã dâng cho Chúa một số chứng nhân anh dũng, đã nhận lấy cái chết để làm chứng và tỏ lòng trung thành với Chúa Kitô. Con số thực sự của các tử đạo tại Việt nam cũng không có được thống kê chính xác, chỉ biết rằng con số này rất đông, từ 100.000 đến 130.000 người. Các tử đạo tại Việt nam cũng rất đa dạng, gồm đủ mọi thành phần trong dân Chúa và ngành nghề xã hội: các Giám mục, Linh mục, Linh mục thừa sai Pháp và Tây ban nha, bên cạnh các Linh mục là chủng sinh, thầy giảng và giáo dân, có những cụ già và thanh niên, binh lính, thầy thuốc, quan chức....
Giáo hội Việt nam tuy còn non nớt, còn đang trên đà truyền giáo, nhưng ngày 19.06.1988 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 chứng nhân anh dũng và đưa vào niên lịch chung để mừng kính trong toàn thể Giáo hội vào ngày 24 tháng 11 hằng năm , cũng là ngày kỷ niệm thành lập hàng giáo phẩm tại Việt nam vào năm 1960.
II. Ý NGHĨA VIỆC TỬ ĐẠO.
Xưa nay có lẽ chúng ta đã quen đi với cách thức phân biệt các thánh tử đạo với các thánh giáo phụ, hiển tu, đồng trinh vv... Nhưng chúng ta quên rằng thánh nào cũng là thánh, và thánh nhân Kitô giáo nào cũng trước tiên phải là chứng nhân của Tin mừng, hay nói cách khác, chứng nhân của Chúa Kitô, chỉ khác nhau cách thức làm chứng mà thôi.
Sự thực là buổi sơ khai của Giáo hội công giáo trước tiên những tín hữu chết vì đạo được tôn vinh là thánh và Giáo hội dùng một từ Hy lạp là Martus, Marturos (rồi La tinh Martyr, Martyris và từ Pháp là Martyr) để chỉ những tín hữu được tôn vinh này. Martus, Martyr có nghĩa là người chứng, người làm chứng. Vì vậy, đối với Giáo hội công giáo, thì từ Martyr này nguyên thủy được áp dụng cho tất cả các thánh, do đó mà sổ các thánh được gọi là Martyrologie.
Vậy thì vị tử đạo, trước tiên phải là chứng nhân của Chúa Kitô, như mọi chứng nhân khác, trên bình diện đời sống. Cái chết “vì đạo” của người tử đạo chỉ là một cách thức làm chứng mà thôi, chứ không phải làm thay đổi bản chất người chứng của Chúa Kitô.
(Lm Thiện Cẩm, Cg và Dt, Giáng sinh 1997, tr 310-311)
Nếu tử đạo do tiếng Martyr là nhân chứng thì ngay cộng đồng Do thái đã có những vị tử đạo, nhất là thời Maccabê. Sách Maccabê, đặc biệt bài đọc I hôm nay, đã kể lại nhiều vị anh hùng can trường làm chứng cho đức tin mặc dù phải chịu nhiều cực hình và có khi phải chết. Còn cách xử dụng thông thường của Cựu truyền Công giáo thì danh từ Tử đạo áp dụng cho nhân chứng nào đã lấy máu mình, đã hiến mạng sống mình để trung thành làm chứng cho sứ mạng, cho chân lý.
Theo nghĩa này thì Đức Kitô chính là một vị tử đạo đích thực. Và chỉ duy có Ngài mới xứng đáng danh hiệu đáng kính này. Trong cuộc sống của Ngài tại trần thế và nhất là trong cái chết đẫm máu của Ngài trên thập giá, Ngài đã làm chứng hùng hồn về lòng trung thành của Ngài đối với sứ mạng Cha Ngài giao phó. Ngài không những đã biết trước cái chết mà Ngài còn tự ý chấp nhận như một tác động tôn kính hoàn hảo nhất mà Ngài đã thực hiện để tôn kính Cha Ngài. Và khi Ngài bị kết án, Ngài đã tuyên bố:”Ta đến trong trần gian này để làm chứng cho sự thật”. Như thế chúng ta đủ hiểu cuộc sống Ngài tại thế và cái chết của Ngài chính là những tác động mang ý nghĩa tử đạo: đó là hiến mạng sống để trung thành làm chứng cho sứ mạng Cha Ngài trao phó và làm chứng cho sự thật.
Kinh nghiệm cho biết Giáo hội của Chúa bao giờ cũng được khai sinh và phát triển bằng đau khổ và tử đạo. Thật vậy, chính Chúa Kitô là vị tử đạo đầu tiên, đã khai sinh Giáo hội bằng cái chết đau thương trên thập giá. Chúa phán:”Khi nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự về với Ta”(Ga 12,22). Từ ngày đó, Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô cũng phải đổ máu làm chứng về Chúa để mọi người được ơn cứu chuộc. Giáo hội sơ khai đã có cuộc tử đạo của thánh Stêphanô. Giáo hội Roma với bao thánh tử đạo dưới thời hoàng đế Néron nay vẫn còn di tích lưu truyền.
Hoàng đế Julius, người ngược đãi Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4, đã phải thốt lên:”Các ngươi đắp xác của nhiều người mới chết lên một cái xác đã chết (Chúa Giêsu), các ngươi làm đầy thế giới này bằng quan tài và mồ mả”.
Cuối cùng, nhiều Giáo hội đã được dựng lên trên mồ của các thánh Tử đạo, đền thờ thánh Phêrô ở Vatican là một thí dụ, và các nghĩa địa đã biến thành các thành phố bởi vì “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertullianô).
Tại sao người ta dám tử đạo, dám làm chứng cho Tin mừng, dám làm chứng cho Chúa? Thưa vì người ta qúi sự sống đời đời. Người ta cho phần rỗi linh hồn là quí hoá và không gì có thể đổi lấy được vì:”Được lợi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì” (Mc 8,36).
Truyện: Xin mua được một linh hồn.
Thế kỷ 19, khi cơn cấm đạo nổi mạnh trên tỉnh Thanh hoá, một hôm, người ta dẫn đến trước mặt quan án một thiếu niên 17 tuổi – tên là MỚI – Thấy mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quan động lòng thương.
- MỚI - quan nói – con cứ đạp thánh giá đi, rồi ta sẽ ban thưởng một nén bạc.
- Bẩm quan lớn, một nén bạc chưa là gì.
- Được, ta sẽ ban một nén vàng. Con hãy đạp Thánh giá đi.
- Ồ, bẩm quan lớn, một nén vàng cũng vẫn còn ít quá.
- Sao? quan sửng sốt, quát: Thế còn chưa đủ ư? Vậy mày muốn bao nhiêu?
- Bẩm, nếu quan lớn muốn tôi đạp Thánh giá, thì xin quan lớn hãy cho tôi cái gì có thể mua được một linh hồn khác đã...
Và người thiếu niên bình tĩnh bước vào pháp trường, vẻ anh dũng tươi cười.
III. VIỆC TỬ ĐẠO NGÀY NAY.
1. Theo công đồng Vatican II.
Trong hiến chế Lumen gentium, công đồng chỉ dùng chữ Tử đạo 6 lần và theo một ý nghĩa riêng biệt, với chiều kích rộng lớn phổ quát, tuy vẫn qui chiếu vào ý niệm tử đạo có từ trước. Theo công đồng, “Tử đạo là được đồng hoá với Thầy mình, sẵn sàng chết để cứu độ trần gian, và cũng như Thầy, đổ máu đào ra để làm chứng cho việc đó. Hội thánh coi tử đạo là ơn cao cả, là bằng chứng tột đỉnh về đức tin. Chẳng mấy ai được phúc này, nhưng ai ai cũng phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt thế gian, và theo Người trên con đuờng thập giá, giữa những cơn bắt bớ thường xẩy ra cho Hột thánh” (LG. số 42).
Một số nhà thần học ngày nay cũng có những suy nghĩ và gợi ý như cha Karl Rahner trong cuốn Excursus sur le martyr:
”Tử đạo đơn thuần là cái chết của người Kitô hữu. Tử đạo là một phần cốt yếu của Hội thánh. Thật ra, Hội thánh không nguyên làm chứng cho Đức Kitô bị đóng đinh mà còn làm chứng cho Lời mình sống thành hiện thực nữa. Hội thánh sống cái chết của Chúa Kitô trong hết mọi người, mang thập giá của Đức Kitô ở giữa bóng tối của thế gian và mang dấu thánh của Đức Kitô, những dấu ấn bí ẩn trong đời thường mỗi ngày. Hội thánh phải là dấu hiệu thiêng thánh về thực tại thầm kín này, trong thế giới ngày nay. Hội thánh ở trong tình trạng tử đạo. Ở đây, Hội thánh tự tạo cho mình một hình thức rõ ràng nhất, trong sáng nhất, một mạc khải tồn tại cho đến cùng”.
Cha Urs von Balthasar, nhà thần học, cũng nói giống như vậy, khi nhấn mạnh rằng tình trạng bách hại là tình trạng thông thường của Hội thánh trong thế gian và tử đạo là trạng thái bình thường của lời chứng Kiyô giáo.
Etienne Barbarin cũng theo một dòng tư tưởng, khi trình bầy việc tử đạo là cách thế thực hiện hoàn hảo nhất lời chứng, vì cái chết tuy được chuẩn bị bằng cả đời sống, nhưng đã bắt đầu và thực hiện trong mỗi lựa chọn hằng ngày.
2. Tư tưởng chung thời nay.
Nếu như các nhà thần học nói:”Hội thánh luôn ở trong tình trạng tử đạo”. Ta phải hiểu như thế nào? Phải chăng Hội thánh lúc nào cũng phải chịu bắt bớ, bị đoạ đầy? Chắc không phải thế. Cần phải hiểu chữ “Tử đạo” theo nghĩa rộng hơn.
Ta đặt câu hỏi: bậc đồng trinh và đời đan tu có thể thay thế cho tử đạo không?
Ngay từ xưa, người ta đã tìm những cách thế biểu hiện việc tử đạo. Những cách thế này xoay quanh những việc đời có thể diễn tả sự hy sinh chính mình, và đức tin hoàn hảo, do đấy có thể được coi như một sự sửa soạn chịu tử đạo hay có liên quan đến tử đạo. Vì thế bậc đồng trinh và đời đan tu vẫn được coi là những con đường gần nhất với tử đạo. Các trinh nữ và các đan nữ xuất hiện vào thời cấm đạo hồi xưa, dưới mắt mọi người, vẫn là những vị kế thừa các anh hùng tử đạo.
Từ đó nảy sinh ra ba mẫu tử đạo:
* Tử đạo đỏ: là đổ máu ra chịu chết vì Chúa.
* Tử đạo trắng: sống đời hãm mình trinh tiết.
* Tử đạo xanh: chịu đọa đầy, để làm chứng cho đạo ở một nơi không phải là quê hương xứ sở mình.
Chính thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói thẳng thắn rằng:”Tôi cảm thấy tôi có ơn gọi làm chiến binh, tông đồ, tiến sĩ và tử đạo. Tử đạo là giấc mơ trong tuổi trẻ của tôi. Và giấc mơ ấy đã trở thành mãnh liệt, khi tôi ở trong bốn bức tường của Nhà Kín. Nhưng tôi cảm thấy rằng giấc mơ đó là một sự điên rồ và vì thế tôi đã hiểu tình yêu qui tụ mọi ơn gọi của tôi. Vâng, cuối cùng tôi đã khám phá ra ơn gọi của tôi: ơn gọi của tôi là yêu mến” (Tự thuật).
Mọi người đều qúi trọng sự sống, dù chỉ là cuộc sống vắn vỏi phù du. Các tử đạo không những coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, mà còn lấy cái chết như ngưỡng cửa phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh hằng. Các ngài cho ta cái cảm giác như là các ngài “chạm vào cõi vô hình”. Các ngài đã thể hiện và chứng minh câu nói của Chúa:”Ai bám vào sự sống đời này, sẽ mất cuộc sống mai sau...”(x. Mc 8,35). Và như thánh Phaolô nói:”Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực luôn vui vẻ” (2Cr 6,9-10).
Truyện: chết theo lệnh vua.
Trên bước đường viễn chinh, đại đế Alexandre đã cho quân vây hãm kinh đô của một vương quốc vùng Tiểu Á. Thay vì cho quân tấn công hạ thành, đại đế Alexandre đã thúc ngựa đến ngay trước cổng thành và đòi gặp mặt vua đối phương.
Nhà vua leo lên lũy thành, nhìn xuống đòan quân đang vây hãm và hỏi Alexandre:
- Nhà ngươi muốn gì?
- Ta muốn nhà vua đầu hàng.
- Đầu hàng? Tường ta cao, hào ta sâu, quân ta đông hơn, tại sao ta lại phải đầu hàng nhà ngươi?
- Nhà ngươi hãy xem cho rõ.
Thế rồi Alexandre ra lệnh binh sĩ dàn trận. Thay vì tấn công hạ thành, ông ra lệnh cho họ tiến bước về hướng vực thẳm ngòai thành.
Tò mò, quân sĩ trong thành cũng leo cả lên tường thành để xem cuộc “diễn binh” của Alexandre.
Đòan quân của Alexandre cứ từ từ tiến bước đến bờ vực thẳm. Hiên ngang, anh dũng, họ tiến tới bờ vực thẳm. Một người bước vào khỏang không, rơi xuống vực thẳm, thịt nát xương tan. Người thứ hai vẫn can đảm tiếp bước, rơi xuống vực sâu, chết theo. Từng người, từng người theo nhau đi vào cái chết một cách bình thản, anh hùng. Sau cái chết anh hùng của binh sĩ thứ mười, Alexandre hạ lệnh dừng bước.
Sững sờ kinh ngạc trước tinh thần của binh sĩ Alexandre, lòng trung tín họ dành cho Alexandre, biết coi nhẹ cái chết tựa lông hồng, nhà vua và tòan quân trong thành mở cửa qui hàng.
Chúng ta cũng đang thừa hưởng chiến công của những người lính anh hùng như thế của Đức Kitô, Vua vũ trụ. Chính các thánh Tử đạo Việt nam đã góp phần xây dựng Giáo hội Việt nam bằng lòng trung tín các Ngài đã dành cho Chúa Kitô, bằng gương anh dũng xem nhẹ cái chết dâng hiến mạng sống mình cho Chúa? Và chúng ta sẽ phải sống thế nào để theo gương các ngài?
Là con cháu các Thánh Tử đạo Việt nam, chúng ta hôm nay cũng phải đương đầu với những khó khăn thử thách, có lẽ không đồng loại với những khó khăn thử thách của các Ngài, bởi vì ngày nay hầu như chẳng còn ai cấm đạo theo lối vua chúa quan quyền nước ta thời trước. Trong thế giới chúng ta ngày nay, không chỉ có Kitô giáo, mà hầu hết các tôn giáo khác, kể cả những người không tín ngưỡng cũng đang phải đối diện với một thứ “Tôn giáo kinh tế”, trong đó người ta thờ thần Mammon, Thần Tài. Nhiều người chỉ biết cắm đầu chạy theo tiền tài, không còn biết ý nghĩa của cuộc sống nữa. Họ chỉ biết vùi đầu trong những thú vui thấp hèn, chỉ biết sống để hưởng thụ, sống vội sống vàng để rồi ngày mai chết sẽ ra cõi tha ma.
Lễ kính các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay khiến chúng ta kính phục các thánh vì các Ngài đã mởi trí mở lòng cho ta để chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả.
Năm 1980 tại câu lạc bộ của những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một cuộc nói chuyện và người được mời nói chuyện là một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên ăn nói cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác.
Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giầu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau:”Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận:”Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”.
Không biết cử toạ của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các Ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các Ngài thì dám bỏ tất cả những gì qúi nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
Giáo hội Việt nam là một gia sản quí báu mà cha ông đã để lại cho chúng ta bằng giá máu của các ngài, để ngày nay chúng ta có ba Giáo tỉnh gồm 25 giáo phận , với hàng giáo phẩm được thiết lập chính thức vào năm 1960 để coi sóc gần 7 triệu tín hữu. Chúng ta phải bảo vệ và xây dựng di sản ấy như các em thiếu nhi thường hát khi sinh họat:
Cái nhà là nhà của ta,
Ông cố ông cha lập ra
Cháu con ta gìn giữ lấy
Muôn năm với nước non nhà.
Nếu chúng ta biết bảo vệ và xây dựng Giáo hội Việt nam cho tốt thì chúng ta được các ngài khen là:”Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ”(Tục ngữ). Nếu chúng ta không cố gắng và làm phát huy ra vẻ đẹp mà cha ông chúng ta đã xây dựng bằng xương máu thì các ngài sẽ phải phàn nàn về thế hệ con cháu:”Đời cha vo tròn, đời con bóp méo”(Tục ngữ)
Ngày lễ các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua “tử đạo đỏ” thì chúng ta có thể chấp nhận “tử đạo trắng hoặc xanh”.
Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay:”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc 9,23). Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói của thánh nữ Têrêsa Hài đồng: “Ơn gọi tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.
17.Sống đạo tốt--Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Có lẽ chúng ta đều thuộc lòng hay ít nhất cũng đã nghe nói nhiều lần một câu nói nổi tiếng của Tetulianô: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống tốt sinh ra người Công giáo”. Nếu vậy chúng ta cứ xin Chúa làm cho nhiều quyền lực thế gian ra tay bắt bớ đạo, thẳng tay cấm cách đạo, hầu tạo điều kiện cho có nhiều vị tử đạo, và hy vọng khi máu tử đạo tăng lên thì số hạt giống đức tin càng tăng lên, sinh ra nhiều người Công giáo và mở rộng cánh đồng đức tin.
Chúng ta nói như vậy là để nói mà thôi, chứ chẳng ai trong chúng ta lại xin Chúa điều đó, vì lời xin như vậy không hợp lý. Chúng ta phải nhìn nhận rằng: thực đúng là máu các thánh tử đạo có khả năng làm hạt giống sinh ra người tín hữu. Nhưng theo Kinh Thánh, thực chất làm cho một người, một việc trở thành hạt giống đức tin, đó là Lời Chúa và những kẻ sống lời Chúa, vâng theo lời Chúa như Chúa đã phán: “Lời Ta là lời ban sự sống”. Nếu máu các thánh tử đạo có hạt giống tốt sinh ra người Công giáo, thì chính vì những giọt máu ấy đã đổ ra do những người sống lời Chúa. Lời Chúa mới là hạt giống tốt sinh ra người Công giáo.
Ngoài ra, việc bách hại đạo Chúa là một việc xấu, mà việc xấu thì chẳng bao giờ Chúa khuyến khích, và cầu xin như thế cũng chẳng đẹp ý Chúa. Nếu chúng ta nhận định như thế thì chúng ta sẽ thấy rằng: trong ngày lễ kính các thánh tử đạo Việt Nam, ngoài việc chúng ta phải cảm tạ Chúa, vì đã ban ơn tử đạo cho các bậc tổ tiên của chúng ta và ban các thánh Việt Nam cho Giáo Hội chúng ta, chúng ta còn cần phải xin Chúa, vì công nghiệp các thánh ban cho chúng ta, cho mọi người Công giáo chúng ta, cho Giáo Hội Việt Nam chúng ta, biết cách nào thích hợp nhất, có hiệu quả nhất, để diễn tả đức tin, để truyền bá đức tin trong thời buổi hôm nay.
Bởi vì mỗi thời có cách diễn tả đức tin và truyền bá đức tin theo thời của nó. Nội dung đức tin trước sau vẫn là một nhưng cách diễn tả đức tin, cách truyền bá đức tin, phải thay đổi tùy nơi, tùy thời, hợp với tâm lý của con người, hợp với trình độ tiến hoá của từng nơi. Có nơi, nhất là những nơi bị bách hại, thì cách tốt nhất để diễn tả đức tin và truyền bá đức tin là chấp nhận đổ máu mình ra, chết cho đức tin. Có nơi, có thời không bị bách hại, có nhiều tự do, thì cách tốt nhất để diễn tả đức tin, để truyền bá đức tin là sống đạo cho tốt. Mình sống đạo cho tốt, con cái mình sẽ bắt chước. Mình sống đạo cho tốt, người ngoại giáo thấy sẽ có cảm tình với đạo.
Thế nào là sống đạo tốt? Đó là thực thi bác ái. Đức ái là điều kiện căn bản của giáo lý Phúc âm. Chúa Giêsu đã nói: “Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất, đó là yêu thương kẻ khác như chính mình”. Chúng ta ai cũng yêu mình, ai cũng muốn điều hay, điều tốt cho mình, ai cũng thích được người khác thông cảm, dễ dãi, nhân từ với mình. Chúng ta yêu mình như thế, nên Chúa bảo chúng ta hãy yêu thương người khác như vậy. Nhưng thực tế ít người thực hành đúng như vậy. Yêu mình hơn người thì có, yêu người như mình thì ít, và yêu người thua mình thì nhiều. Như thế là chúng ta chưa sống đạo tốt rồi, và chưa sống đạo tốt thì cũng là chưa diễn tả đức tin và truyền bá đức tin. Tóm lại, để sống đạo tốt trong thời buổi này, mỗi người chúng ta cần phải có chất lượng. Chất lượng đó là bác ái đối với tha nhân.
Đây là cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo, đây cũng là cách tốt nhất để sống đạo và truyền đạo. Chung quanh chúng ta, những đồng bào không Công giáo cũng đã quan tâm rất nhiều đến sự bác ái yêu thương đối với nhau và đối với kẻ khác: những việc làm xoá đói giảm nghèo, những ngôi nhà tình nghĩa, những lớp học tình thương, những chia sẻ cho những anh em bị bão lụt, những người bệnh tật, neo đơn… Chúng ta có quan tâm đến những việc đó hay những việc tương tự khác không? Chúng ta cũng nên tự hỏi: cách sống đạo của chúng ta có thực sự tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin không? Ngoài việc tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin trong những nghi lễ của chúng ta, trong nhà thờ của chúng ta, chúng ta còn phải tuyên xưng bằng những việc từ thiện bác ái, bằng cách sống chân thành, cởi mở, yêu thương với những người chung quanh nữa. Nói tóm lại, chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng sự chúng ta sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái yêu thương, để chúng ta thêm tình mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền vững và một cách quảng đại, bởi vì chỉ có tình yêu là cách sống đạo tốt nhất và làm chứng cho Chúa, cho đạo hữu hiệu nhất.
18.Sống đạo tốt--Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Có lẽ chúng ta đều thuộc lòng hay ít nhất cũng đã nghe nói nhiều lần một câu nói nổi tiếng của Tetulianô: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống tốt sinh ra người Công giáo”. Nếu vậy chúng ta cứ xin Chúa làm cho nhiều quyền lực thế gian ra tay bắt bớ đạo, thẳng tay cấm cách đạo, hầu tạo điều kiện cho có nhiều vị tử đạo, và hy vọng khi máu tử đạo tăng lên thì số hạt giống đức tin càng tăng lên, sinh ra nhiều người Công giáo và mở rộng cánh đồng đức tin.
Chúng ta nói như vậy là để nói mà thôi, chứ chẳng ai trong chúng ta lại xin Chúa điều đó, vì lời xin như vậy không hợp lý. Chúng ta phải nhìn nhận rằng: thực đúng là máu các thánh tử đạo có khả năng làm hạt giống sinh ra người tín hữu. Nhưng theo Kinh Thánh, thực chất làm cho một người, một việc trở thành hạt giống đức tin, đó là Lời Chúa và những kẻ sống lời Chúa, vâng theo lời Chúa như Chúa đã phán: “Lời Ta là lời ban sự sống”. Nếu máu các thánh tử đạo có hạt giống tốt sinh ra người Công giáo, thì chính vì những giọt máu ấy đã đổ ra do những người sống lời Chúa. Lời Chúa mới là hạt giống tốt sinh ra người Công giáo.
Ngoài ra, việc bách hại đạo Chúa là một việc xấu, mà việc xấu thì chẳng bao giờ Chúa khuyến khích, và cầu xin như thế cũng chẳng đẹp ý Chúa. Nếu chúng ta nhận định như thế thì chúng ta sẽ thấy rằng: trong ngày lễ kính các thánh tử đạo Việt Nam, ngoài việc chúng ta phải cảm tạ Chúa, vì đã ban ơn tử đạo cho các bậc tổ tiên của chúng ta và ban các thánh Việt Nam cho Giáo Hội chúng ta, chúng ta còn cần phải xin Chúa, vì công nghiệp các thánh ban cho chúng ta, cho mọi người Công giáo chúng ta, cho Giáo Hội Việt Nam chúng ta, biết cách nào thích hợp nhất, có hiệu quả nhất, để diễn tả đức tin, để truyền bá đức tin trong thời buổi hôm nay.
Bởi vì mỗi thời có cách diễn tả đức tin và truyền bá đức tin theo thời của nó. Nội dung đức tin trước sau vẫn là một nhưng cách diễn tả đức tin, cách truyền bá đức tin, phải thay đổi tùy nơi, tùy thời, hợp với tâm lý của con người, hợp với trình độ tiến hoá của từng nơi. Có nơi, nhất là những nơi bị bách hại, thì cách tốt nhất để diễn tả đức tin và truyền bá đức tin là chấp nhận đổ máu mình ra, chết cho đức tin. Có nơi, có thời không bị bách hại, có nhiều tự do, thì cách tốt nhất để diễn tả đức tin, để truyền bá đức tin là sống đạo cho tốt. Mình sống đạo cho tốt, con cái mình sẽ bắt chước. Mình sống đạo cho tốt, người ngoại giáo thấy sẽ có cảm tình với đạo.
Thế nào là sống đạo tốt? Đó là thực thi bác ái. Đức ái là điều kiện căn bản của giáo lý Phúc âm. Chúa Giêsu đã nói: “Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất, đó là yêu thương kẻ khác như chính mình”. Chúng ta ai cũng yêu mình, ai cũng muốn điều hay, điều tốt cho mình, ai cũng thích được người khác thông cảm, dễ dãi, nhân từ với mình. Chúng ta yêu mình như thế, nên Chúa bảo chúng ta hãy yêu thương người khác như vậy. Nhưng thực tế ít người thực hành đúng như vậy. Yêu mình hơn người thì có, yêu người như mình thì ít, và yêu người thua mình thì nhiều. Như thế là chúng ta chưa sống đạo tốt rồi, và chưa sống đạo tốt thì cũng là chưa diễn tả đức tin và truyền bá đức tin. Tóm lại, để sống đạo tốt trong thời buổi này, mỗi người chúng ta cần phải có chất lượng. Chất lượng đó là bác ái đối với tha nhân.
Đây là cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo, đây cũng là cách tốt nhất để sống đạo và truyền đạo. Chung quanh chúng ta, những đồng bào không Công giáo cũng đã quan tâm rất nhiều đến sự bác ái yêu thương đối với nhau và đối với kẻ khác: những việc làm xoá đói giảm nghèo, những ngôi nhà tình nghĩa, những lớp học tình thương, những chia sẻ cho những anh em bị bão lụt, những người bệnh tật, neo đơn… Chúng ta có quan tâm đến những việc đó hay những việc tương tự khác không? Chúng ta cũng nên tự hỏi: cách sống đạo của chúng ta có thực sự tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin không? Ngoài việc tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin trong những nghi lễ của chúng ta, trong nhà thờ của chúng ta, chúng ta còn phải tuyên xưng bằng những việc từ thiện bác ái, bằng cách sống chân thành, cởi mở, yêu thương với những người chung quanh nữa. Nói tóm lại, chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng sự chúng ta sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái yêu thương, để chúng ta thêm tình mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền vững và một cách quảng đại, bởi vì chỉ có tình yêu là cách sống đạo tốt nhất và làm chứng cho Chúa, cho đạo hữu hiệu nhất.
19.Giữ Đạo ngày hôm nay quá “Phẻ”--Lm Giuse Trương Đình Hiền
Dưới ánh sáng của Lời Chúa, và qua chứng từ cuộc sống thánh thiện của bao vị thánh nhân trong suốt gần 2000 năm lịch sử lử hành của Giáo Hội, chúng ta có thể khẳng quyết rằng: cuộc hành trình nên thánh của mọi người đều phải đi qua con đường “tử đạo”, con đường mà trích sách Khải huyền đã định nghĩa là: “từ đau khổ lớn lao mà đến và đã giặt áo mình trong Máu Con Chiên”; cũng là con đường mà Sách Khôn Ngoan hôm nay nói tới: “Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu” (BĐ1); và cũng chính là con đường yêu thương đến độ như thư gởi giáo đoàn Rôma trong Bài đọc 2 hôm nay nhắc đến: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh”.
Và như thế, chúng ta cũng có thể nói được rằng: Tử Đạo chính là thái độ, là hành vi, là cung cách ứng xử của những ai quyết chọn Đức Kitô và bước theo Ngài cách quyết liệt như chính Đức Kitô tuyên bố trong trích đoạn Tin Mừng Luca: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27)
Và điều đó đã được cụ thể hoá nơi chứng từ cuộc sống và cuộc tử đạo của 117 Chứng Nhân anh hùng tử đạo Việt nam mà chúng ta có thể đọc thấy qua một số chứng từ cụ thể:
- Thánh Phêrô Cao đã tâm nguyện: “Xin cho con chịu đau khổ vì danh Đức Kitô, được đón nhận ngành lá tử đạo về tới bến thiên đàng”
- Thánh Phêrô Quí với những dòng thơ gởi cho mẹ hiền:
“Dù trăng trói, gông cùm tù rạc
Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề
Miễn vui lòng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử”
- Thánh Phaolô Tịnh can đảm thưa với quan án: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tùy ý. Nhưng linh hồn là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được”
- Thánh Phaolô Khoan đã hát lên lời nguyện hiến tế cuộc đời: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời đất, chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài”
- Thánh Anrê Kim Thông: “Thà tôi bị lưu đày và phải chết vì Chúa, chứ tôi không chối đạo”…
Tất cả những lời chứng can đảm và trung thành với tình yêu Chúa Kitô đó không bao giờ là một sự “bột phát hờn căm khi chạm phải bước đường cùng” như tiếng hô của một Nguyễn Văn Trỗi, trước khi bị xử bắn: “đã đảo đế quốc Mỹ...”, hay là tiếng kêu thất vọng oán thán rũa đời, cất lên khi đã đến gần cửa chết như lời chửi đổng mang chất thơ của thi sĩ Cao Bá Quát:
Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời
Khi tìm về lịch sử của các vị Chứng Nhân Tử Đạo Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng: Họ khác nhau về giới lớp, về thân phận xã hội, về trình độ tri thức, về chức vụ giữa cộng đoàn...nhưng họ đều giống nhau: thuộc trọn về Chúa Kitô và coi cái chết nhẹ như lông hồng, bởi chưng họ đều xác tín về cuộc phục sinh vinh thắng ở bên kia ngưỡng cửa sự chết như chứng từ sau đây:
Thầy Mậu đại diện cho anh em nói với quan: "Thưa quan, chúng tôi mong ước tìm về bên Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy". Ông Án Khảm vui vẻ nói với mọi người: "Cha con chúng tôi hôm nay vào nước Thiên Đàng đây". Linh mục Hạnh cũng tươi tĩnh đi chào mọi người: "Anh em ở lại nhé! Chúng tôi đi về Thiên Đàng đây". Ông Cỏn thấy người anh em sụi sùi nước mắt, ông nói: "Sao anh lại khóc, lẽ ra phải mừng cho tôi chứ?".
Vâng, Tử đạo là thế đó. Chứng Nhân là thế đó. Tình yêu đến cùng dành cho Đức Kitô là thế đó. Và dĩ nhiên, sự thánh thiện Kitô giáo là thế đó.
Trông người lại nghĩ đến ta. Ngày nay, chuyện “Bách Hại” tàn khốc như một pháp lệnh, một chủ trương công khai của thời Tự Đức Minh Mạng đã qua rồi. Những gông cùm, trăng trói, lửa đốt, voi dày; những tùng xẻo bá đao, treo cổ, đâm chém, lưu đày biệt xứ, phân sáp, giam cầm…cũng không còn thể hiện đường hoàng như án phạt đứng đắn dành cho những ai xưng mình là Kitô hữu, là thuộc trọn về Giáo Hội… Mà đâu đâu, trên đất nước chúng ta cũng thấy đông vui lễ lạc, các nhà thờ luôn chật kín giáo dân trong những ngày Chúa Nhật-lễ trọng. Trong khi đó, hiến pháp của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt nam lại rành rành điều khoản “tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng” của đồng bào…
Và như thế, giữ đạo ngày hôm nay quá “phẻ”.
Vì có ai, có thế lực nào bắt buộc tôi đạp lên Thánh Giá Đức Kitô đâu?
Vì có chính quyền nào ra sắc lệnh buộc tôi phải bỏ đạo Chúa Kitô đâu?
Vì có chủ trương nào áp lực tôi khước từ những giá trị của Phúc Âm, những lời dạy của Kinh Thánh, những tín điều của Giáo Hội đâu?...
Xin đừng vội chủ quan. Có thể chúng ta đang bị ru ngủ trước cái vẻ hào nhoáng của lễ lạc bên ngoài, của những ngôi nhà thờ to lớn, của những Trung Tâm Mục vụ tiện nghi... mà chúng ta không nhận ra một cuộc “Bách Hại Mới” đầy nguy hiểm và độc địa đang tác động, đang gặm nhắm niềm tin của Dân Chúa Việt Nam hôm nay.
Đó là cuộc bách hại của sự ham mê tiền bạc và sự giàu sang.
Đó là cuộc bách hại của sự kiếm tìm hưởng thụ tiện nghi và sung sướng vật chất.
Đó là cuộc bách hại của sự lười biếng làm việc lành phúc đức và hy sinh hãm mình.
Đó là cuộc bách hại của sự hèn nhát tuyên xưng đức tin và thể hiện vai trò ngôn sứ.
Đó là sự bách hại của nảo trạng chủ nghĩa cá nhân và tự do phóng túng.
Đó là sự bách hại của những thoả hiệp đen tối với các thế lực chính trị và đương quyền để mong sống an nhàn thư thái.
Đó là sự bách hại của chủ trương tương đối hoá các nghiêm lệnh luân lý ngàn đời của Thiên Chúa và Giáo Hội trong các lãnh vưc hôn nhân-gia đình hay công bằng xã hội…
Đứng trước những cuộc “bách hại mới” đó, phải chăng rất nhiều người trong chúng ta đã “chối đạo”, đã “đạp lên thánh giá Chúa Kitô”, đã “vứt bỏ Tin Mừng”… bằng cách:
- Khi chúng ta sống ích kỷ nhỏ nhen không bao giờ biết cho đi và phục vụ.
- Khi chúng ta tìm kiếm bạc tiền và chức quyền danh vọng bằng mọi thủ đoạn bất lương.
- Khi chúng ta yếu nhược trước những bất công và lãnh đạm thờ ơ trước những khổ đau nghèo đói của anh chị em đồng loại.
- Khi chúng ta vứt bỏ lời thề ước của hôn nhân để tự do luyến ái ngoại tình.
- Khi những người mẹ giết con bằng hành vi phá thai, nạo thai.
- Khi những thanh niên nam nữ Công Giáo vứt bỏ các nguyên tắc luân lý của hôn nhân, tính dục, vứt bỏ đức trong sạch, nết na, để yêu cuồng sống vội, đam mê buông thả.
- Khi chúng ta coi trọng những cuộc nhậu nhẹt say sưa, những mánh mung lợi nhuận hơn là những cuộc họp mừng Chúa Nhật.
- Khi chúng ta chia rẽ, hận thù và phá đỗ mối giây hiệp nhất, hiệp thông trong cộng đoàn.
- Khi chúng ta hèn nhát tìm kiếm sự thoả hiệp và đầu hàng với các thế lực độc tài, đen tối vì không dám đứng lên tranh đấu cho sự thật, tự do, lẽ công bằng và những quyền căn bản của con người…
Trong tinh thần của Năm Thánh Giáo Hội Việt Nam khi “nhìn lại quá khứ để tạ ơn Chúa và lắng nghe bài học lịch sử…tri ân các bậc tiền nhân, các ân nhân và chứng nhân đã gieo vãi và vun trồng hạt giống đức tin trên quê hương đất nước nầy, đồng thời ý thức giá trị cao quý của hồng ân đức tin để sống và làm chứng cho Tin Mừng, tích cực xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô trong môi trường Chúa sai chúng ta đến…”. (Thư HĐGMVN gởi cộng đồng Dân Chúa công bố Năm Thánh), thì việc mừng kính các Thánh Tử Đạo hôm nay phải là một lời đoan hứa mới, một quyết tâm mới trước Anh Linh Tiên Tổ: quyết tâm thành một Kitô hữu sẵn sàng thuộc về Đức Kitô và Tin Mừng trên mọi nẽo đường cuộc sống; một kitô hữu can đảm thực thi những lời dạy Phúc Âm, những việc đạo đức hằng ngày, những bổn phận trong gia đình, những ứng xử khoan dung, yêu thương và tha thứ, như quyết tâm đơn sơ, chân chất của người nông dân Nam Bộ, thánh Tử đạo Phaolô Hạnh: “Làm Kitô Hữu cho đến chết”. Amen.
20.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Là con cháu của các Thánh Tử vì Đạo nước Việt Nam, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng được vinh dự, tự hào về tổ tiên ông bà của mình. Nếu chúng ta được hỏi hay phải minh chứng về các Thánh Tử Đạo, đặc biệt cho những lương dân; chúng ta có mạnh dạn, tự tin để trả lời cho họ? Hơn thế nữa, chúng ta có đang sống đúng với căn tính là con cháu của các Ngài hay không? Nhiều câu hỏi được đặt ra, để mỗi người chúng ta có cơ hội cùng lắng đọng-suy tư. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ai? Tại sao hôm nay chúng ta lại được mừng kính các Ngài cách trọng thể? Điểm son nổi bật nhất của các Thánh Tử Đạo Việt Nam là gì? Chúng ta đã và phải sống thế nào để có thể chuyển tải và nêu cao những sứ điệp, gương mẫu hào hùng của các Thánh cho mọi người?
Hôm nay, Giáo hội địa phương tại Việt Nam được đặc ân để mừng kính những người con ưu tú của mình, là các Thánh Tử vì Đạo nước Việt Nam, là tổ tiên ông bà chúng ta, là những nhân chứng của Đức tin, nhân chứng cho Chúa và Tin mừng cứu độ. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đã soi sáng, hướng dẫn và giúp cho chúng ta không những biết rõ về các Thánh mà còn giúp chúng ta cách sống chứng tá như các Ngài đã sống.
Tin mừng theo Thánh Matthêu đã cho chúng ta câu trả lời rất mạnh mẽ của Chúa Giêsu về các Thánh tử đạo. “Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết.” Tất cả các Ngài vì danh Chúa, vì Tin mừng, vì sống chứng tá cho niềm tin của mình mà được vinh phúc tử vì đạo, được phúc lãnh nhận ơn cứu rỗi mà Thiên Chúa đã hứa ban. “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”. Nhưng tại sao khi tin theo Chúa, sống cho Chúa và niềm tin, thì lại bị mọi người ghen ghét, bị bắt hại và ngay cả phải hy sinh cả mạng sống? Chứng tá mà Thánh Matthêu Nguyễn Văn Phượng, Trùm họ Sáo Bùn để lại: Khi bị bắt giam, tù đày, Ngài đã khuyên nhủ các con: “Dù sự gì xảy đến hay cha phải tử hình, đó là điều cha hằng mong ước, được tử đạo đổ máu ra vì Chúa Giêsu Kitô. Chúng con hãy cầu nguyện cho cha, hãy yêu mến nhau. Dù gặp sự dữ thế nào chúng con đừng yếu lòng chối Chúa.”
Thánh Phêrô hơn bất cứ ai khác, Ngài đã sống và cảm nghiệm điều mà Ngài tin nhận, nên Ngài đã nâng đỡ khích lệ các tín hữu khi họ phải vì danh Chúa và Tin mừng mà phải chịu đau khổ, cực hình. “Nếu anh em bị sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, thì phúc cho anh em, vì Thánh Thần Chúa sẽ ngự trên anh em.” (1 Pr 4, 14) Được làm chứng và được chết để minh chứng cho Chúa là một ơn phúc không phải ai cũng có vinh phúc này. Điểm son nổi bật của các Thánh Tử vì Đạo nước Việt Nam đó chính là: tin, chấp nhận và sống trọn vẹn cho Thánh giá cứu độ mà Thiên Chúa ban qua Chúa Giêsu và Hội Thánh. “Chết vì Thánh Giá” là điều mà nhiều người và các cấp chính quyền thời bấy giờ không thể hiểu, nên họ đã cho rằng, điều này quá điên khùng, khờ dại, vì theo “Tả Đạo” như vậy. Chắc hẳn các Thánh hơn ai hết đã ý thức và hiểu rõ về “cái giá phải trả” khi tin theo làm con cái Thiên Chúa. Nhưng tại sao các Ngài vẫn hiên ngang, can đảm để sống và tuyên xưng cách hào hùng về niềm tin của mình, hơn thế nữa các Ngài còn hân hoan vui sướng khi được sống và minh chứng cách trọn vẹn cho niềm tin đó. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Côrintô cũng đã khẳng định: “Thập Giá chính là sức mạnh của Thiên Chúa ban cho chúng ta". Từ Thánh Giá Chúa, sức mạnh của tình yêu, sự tha thứ và ơn cứu độ được trao ban và lan tỏa, nhờ đó những ai khiêm tốn, mở lòng đón nhận với lòng tin yêu, thì sẽ được ơn Chúa giúp sức, nâng đỡ; chính sức mạnh của Chúa đã hoạt động và bổ sức cho các Ngài. Thánh Anê Lê Thị Thành, dù đòn roi hay cực hình vẫn không hề lay chuyển được, thì quân lính vừa đánh vừa dùng vũ lực mà lôi bà qua Thánh Giá. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá.”
Như vậy, với con đường, cách sống và mẫu gương chứng tá mà các Thánh tử vì đạo đã để lại chính là sự khôn ngoan tuyệt vời. Khôn ngoan khi đón nhận niềm tin và ơn thánh Chúa ban, khôn ngoan khi biết sử dụng những kho tàng ơn phúc đó để sinh hoa kết trái. Qua những khó khăn, gian khổ, cực hình và cả sự hiến thân của các Ngài, không có cái gì đã ra vô ích hay khờ dại hết. Điều này sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 đã minh chứng cho chúng ta biết “Chúa đã chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu”. Với hy lễ được tiến dâng, Chúa không những đón nhận và ban ơn cứu rỗi cho các Ngài, mà Chúa còn thương cho các Ngài được thông phần cộng tác vào trong chương trình cứu độ của Chúa. Chính vì lẽ đó mà Tertuliano đã khẳng định: “Máu các vị tử đạo là hạt giống sinh nhiều giáo hữu.” Thánh Anê Thành khi ở trong ngục tù, cô Lucia Nụ, con gái đến thăm Mẹ, thấy y phục mẹ loang lỗ máu, cô khóc nức nở vì thương mẹ; bà đã an ủi, khích lệ con bằng những lời tràn trề lạc quan “Con đừng khóc nữa, mẹ được mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc? Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con, coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng.”
Nguyện xin Chúa, qua những hy lễ tuyệt hảo được tiến dâng, những chứng tá đức tin tuyệt vời và những gương mẫu sống đạo kiên trung của các Thánh tử đạo, chuyển cầu cùng Chúa mà ban ơn cho chúng con. Để trong mọi hoàn cảnh sống, chúng con luôn khiêm tốn, mở lòng tin nhận Chúa cùng với các ơn phúc Chúa ban. Hầu chúng con xứng đáng được gọi là con cháu của các vị thánh tử đạo Việt Nam hào hùng. Xin cho chúng con với những hy sinh, cố gắng nỗ lực mỗi ngày, luôn sống chứng tá đức tin qua những việc lành, bác ái, dấn thân để danh thánh Chúa và danh hào hùng của các Thánh tử vì đạo được tôn vinh. Amen.
21.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Vào ngày lễ mừng kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa ca ngợi cuộc sống chứng tá của những người công chính bị bách hại và những ân phúc mà họ được hưởng trước thánh nhan Thiên Chúa.
Kn 3: 1-9
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Các thánh tử đạo là những người công chính đã được Thiên Chúa tôi luyện như vàng trong lò lửa và “thấy họ xứng đáng với Ngài”. Họ là những người làm chứng cho lòng tin ở Chúa. Lòng tin ấy sẽ “rực sáng như tia lửa bén nhanh giữa rừng sậy” như cách diễn tả của Chúa Giê-su: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12: 49).
1Cr 1: 17-25
Giáo Hội Việt Nam hôm nay hân hoan mừng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Trong hàng ngũ các ngài, ngoài các vị là giám mục, linh mục, đa số là giáo dân. Các ngài không phải là những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng các ngài là những chứng nhân cho “Đức Ki-tô bị đóng đinh vào Thập Giá”. Vì thế, Thiên Chúa đã chọn các ngài, những người mà thế gian coi như điên rồ, được hưởng phúc trên Nước Trời.
Mt 10: 17-25
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã lần lượt bị điệu đến quan quyền để làm chứng cho đức tin. Thánh I-nê-đê, một phụ nữ quê mùa. Thánh Tô-ma Thiện, chủng sinh mới 16 tuổi. Nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài đối diện với vua quan, đã dạy các ngài phải nói gì, và cuối cùng các ngài đã bền vững trong lòng tin vào Chúa, nên gương sáng cho cháu con hôm nay. Quả thật, như lời của thánh Âu-gút-ti-nô: “Trên mảnh đất đã gieo nhiều hạt giống đẫm máu, mảnh đất đó càng phát sinh nhiều vị tử đạo, và rồi hạt giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng của Giáo Hội. Các thánh tử đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Kitô hơn là lúc còn bình sinh. Ngày nay các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn đang giảng thuyết. Miệng lưỡi tuy im bặt, nhưng bao nhiêu sự việc còn vang dội sâu xa” (Trích từ tập san “Công Giáo và Dân Tộc”, Năm Phụng Vụ 93).
BÀI ĐỌC I (Kn 3: 1-9)
Những khẳng định của sách Khôn Ngoan là một khúc quanh quan trọng, kết thúc thời gian dài các nhà tư tưởng Do thái do dự về số phận của những người công chính ở bên kia nấm mồ.
Trước đó, vấn đề thưởng phạt thường được nêu lên suốt nhiều thế kỷ mà không có giải pháp thỏa đáng nào. Trong lịch sử dài này, tư tưởng chiếm ưu thế đó là “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặp bảo” ngay trong cuộc đời tại thế. Những người công chính vui hưởng những hoa quả công đức của mình như phúc, lộc, thọ, trong khi bọn ác nhân không sớm thì muộn sẽ phải đón nhận những tai ương hoạn nạn: lưới trời lồng lộng, không ai có thể thoát được. Trái lại, niềm tin vào cuộc sống mai hậu thì quá bi quan: tất cả mọi người, công chính hay gian ác, khi từ giả cõi đời này đều cùng chung một số phận, bị giam cầm trong cõi Âm Ty, ở đó không còn gì ngoài bóng tối âm u.
Nhưng kinh nghiệm thường ngày: “những đều trông thấy mà đau đớn lòng”, cực lực phản bác viễn cảnh thưởng phạt ngay từ cuộc đời trần thế này. Sách Gióp (khoảng thế kỷ thứ 6-5 tCn) xao xuyến nêu lên vấn đề họa vô đơn chí giáng xuống trên người công chính. Thật ra, các ngôn sứ đã tuyên xưng rằng số phận của người công chính khác với kẻ gian ác ở bên kia nấm mồ. Các Thánh Vịnh công bố rằng người công chính sẽ được hưởng phúc vinh hiển trước Thánh Nhan Chúa muôn đời (Tv 16; 17; 49; 73). Tiếp đó, niềm tin vào sự sống lại của những vong nhân vào ngày phán xét bắt đầu lộ diện. Vào thời An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê bách hại dân Do thái thật khủng khiếp, những người tử vì đạo tuyên xưng niềm tin của mình vào một cuộc sống bên kia cái chết (2Mcb 7: 1-38).
Tác giả sách Khôn Ngoan còn triển khai xa hơn nữa. Ông thấy niềm tin vào sự bất tử linh hồn của người Hy lạp củng cố niềm hy vọng vào sự sống lại mai hậu vẫn còn tiềm ẩn hay rụt rè của người Do thái. Nhưng ông cũng nhận ra rằng tư tường Hy lạp này không hoàn toàn tương xứng với tư tưởng Kinh Thánh. Quả thật, người Hy lạp đề cao linh hồn đến mức xem thường thân xác như một thứ hình hài tạm bợ, đáng khinh bỉ, mãi mãi sẽ bị vứt bỏ sau khi chết.
1. Quan niệm sai lầm về con người
Trước hết, tác giả bài bác quan niệm duy vật về con người: sinh ra là một sự ngẫu nhiên, sống chỉ là cho qua ngày đoạn tháng; khi hơi thở biến mất, cuộc sống tan biến như sương khói; tư tưởng như ngọn lửa bên trong vụt tắt, thân xác chỉ còn tro bụi. Theo quan niệm duy vật này, không có chỗ nào dành cho Đấng Tạo Hóa và Quan Phòng của Ngài.
Tác giả viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên ở A-lê-xan-ri-a cho đồng bào của mình, họ đang bị nền văn hóa ngoại giáo chung quanh hấp dẫn lôi cuốn. Số lượng người bội giáo (tác giả gọi “quân vô đạo”) đáng lo ngại. Theo tác giả, uy thế của triết học và của các tôn giáo khác, dù hệ thống học thuyết có mê hoặc lòng người đến đâu đi nữa, cũng không thể nào biết được sự hiện hữu của một Thiên Chúa hữu vị, Đấng có một kế hoạch riêng biệt cho con người và là một Thiên Chúa tình yêu. Đối lập với quan niệm vô tri và duy vật này, tác giả trình bày quan niệm đích thật về con người mà Thiên Chúa đã mặc khải.
2. Quan niệm đích thật về con người (3: 1-6)
Ở trung tâm lập luận của mình, tác giả sách Khôn Ngoan trình bày điều cốt yếu nhất liên quan đến con người được Thiên Chúa sáng tạo nên “trường tồn bất diệt” dựa trên sách Sáng Thế (1: 27):
“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người
cho họ được trường tồn bất diệt.
Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (2: 23).
Từ đó, tác giả sách Khôn Ngoan khai triển những viễn cảnh vinh quang đang chờ đợi những người đức hạnh vẹn toàn, sống một đời thánh thiện:
“Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa;
và chẳng cự hình nào động tới được nữa.
Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi;
khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc.
Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt,
nhưng thực ra họ đang hưởng an bình.
Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt,
nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử” (3: 1-4).
Tất cả những khai triển này mang đậm nét Kinh Thánh, đặc biệt được gợi hứng từ các chương đầu tiên của sách Sáng Thế, không liên hệ gì đến triết thuyết nhị nguyên của Hy-lạp. Lập luận chủ yếu của tác giả căn cứ trên Mặc Khải. “Linh hồn” mà tác giả nói đến ở đây không là linh hồn bất diệt trong thân xác hư hoại, nhưng là “sinh khí của Thiên Chúa” (St 2: 7).
Từ nay, vấn đề về sự chết và đau khổ được soi sáng. Cái chết không còn là án phạt nữa nhưng là ngưỡng cửa bước vào cõi trường sinh bất tử. Đau khổ là một sự thử thách nhằm tôi luyện các tôi trung của Thiên Chúa để cuộc đời của họ trở thành “của lễ toàn thiêu”:
“Sau khi chịu sửa dạy đôi chút,
họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao.
Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ
và thấy họ xứng đáng với Người
Người đã tinh luyện họ
như người ta luyện vàng trong lò lửa
và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu” (3: 5-6).
3. Vinh quang chung cuộc (3: 7-8)
Ở đây, tác giả mô tả vinh quang mà người công chính được hưởng vào ngày cánh chung:
“Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm,
họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (3: 7)
“Thiên Chúa viếng thăm” là diễn ngữ Kinh Thánh, tức là một sự can thiệp chứa chan ân tình của Thiên Chúa như lời di chúc của tổ phụ Giu-se cho các anh em mình: “Thế nào Thiên Chúa cũng viếng thăm anh em” (St 50: 24), nghĩa là Ngài sẽ ban cho anh em muôn vàn ân phúc của Ngài.
Tác giả sách Khôn Ngoan nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra vào thời cánh chung, vào lúc đó, những người công chính sẽ rực sáng vinh quang, Thiên Chúa sẽ đặt họ “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, nghĩa là đức hạnh của người công chính sẽ chiến thắng trên sự ác tâm quỷ quyệt của quân vô đạo:
“Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước.
Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (3: 8).
Chính trong chiều hướng này mà thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao?” (1Cr 6: 2) và tác giả sách Khải Huyền viết: “Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân” (Kh 2: 26). Đức Giê-su sẽ sử dụng kiểu nói tương tự để xác định vị thế của các môn đệ Ngài trong vương quốc Nước Trời: “Khi Con Người ngự tòa vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Mt 19: 28).
4. Thiên Chúa là tình yêu, ân phúc và từ tâm (3: 9)
Niềm hy vọng lớn lao này căn cứ trên tình yêu, ân phúc và từ tâm của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu, ân phúc và từ tâm này mà những người công chính sống:
“Những ai trông cậy vào Chúa sẽ am tường sự thật;
những ai trung thành, sẽ được Chúa yêu thương
và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc,
và thương xót những ai được Người tuyển chọn” (3: 9).
Lời kết thúc của Bài Đọc I này được viết cách Tin Mừng đến một thế kỷ, loan báo sứ điệp rất gần với sứ điệp Tin Mừng. Có một sự duy nhất của Mặc Khải Cựu và Tân Ước.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 17-25)
Bài Đọc II, trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô, được cấu trúc rất chặt chẽ. Tuy nhiên, cần phải đặt nó vào trong văn mạch để hiểu rõ hơn tư tưởng của thánh nhân. Xin nhắc lại cách ngắn gọn: cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ nhau về các vị rao giảng của họ, gây nên các bè phái ở giữa họ. Cực lực chống lại việc chia năm xẻ bảy này, thánh Phao-lô lớn tiếng chỉ trích cách hành xử này không phù hợp với tinh thần Tin Mừng.
1. Sự khôn ngoan của thế gian (1: 17-21)
Đáp lại những kẻ tự phụ cho mình là “thông thái”, thánh Phao-lô nhắc nhớ rằng thánh nhân đã rao giảng cho họ không bằng lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá trái với những điềm thiêng dấu lạ người Do thái mong đợi và sự khôn ngoan người Hy lạp tìm kiếm.
Người Do thái chờ đợi một Đấng Mê-si-a thực hiện những điềm thiêng dấu lạ, một Đấng Mê-si-a quyền năng và chiến thắng. Người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, tức là một cuộc sống quân bình, mực thước và điều độ, không có nó không một xã hội nào có thể bền vững được; đó là điều mà tất cả hệ thống triết học đề cao. Hai quan niệm, Do thái và Hy lạp, rất khác biệt nhau, nhưng không có quan niệm nào phù hợp với hình ảnh Thập Giá.
Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh Phao-lô đã gặp phải hai chướng ngại này. Biết bao người Do thái đã không thể chấp nhận Đấng Mê-si-a chịu khổ hình trên thập giá. Ở An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, Thê-xa-lô-ni-ca và nơi khác, thánh Phao-lô đã bị những người Do thái này khai trừ và bách hại.
Còn đối với người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, thánh Phao-lô đã chạm trán với họ ở A-thê-na. Thánh nhân đã cố thuyết phục họ nhưng vô ích. Họ mong chờ những diễn từ lời hay ý đẹp, trong khi thánh nhân rao giảng một Đấng chịu đóng đinh trên thập giá. Quả thật, bản văn cho thấy rằng việc rao giảng Thập Giá khó thuyết phục con người. Đối với người Hy lạp, ưu phẩm hàng đầu của một vị thần chính là Mỹ, vì thế Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng con người không thể nào được sánh ví với hình ảnh của một thần linh.
2. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1: 22-25)
Thập Giá không là một diễn từ lời hay ý đẹp, nhưng là một sự kiện, một sự kiện khác thường, ở đó ẩn dấu sự khôn ngoan của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những kỳ vọng của con người.
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô đưa ra một trong những bài học lớn lao đó là: “dạy mầu nhiệm đau khổ như một yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Chung chung, thần học của thánh Phao-lô không bao giờ tách rời biến cố Tử Nạn với mầu nhiệm Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là trường hợp ngoại lệ và có chủ đích. Đối mặt với sự tự mãn của con người, thánh nhân nhấn mạnh một hình ảnh độc nhất: “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”.
TIN MỪNG (Mt 10: 17-25)
Đoạn Tin Mừng hôm nay, trích từ diễn từ về sứ vụ sai đi của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mát-thêu (Mt 10: 5-42), có thể được phân chia như sau: cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-20), cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22), thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại (10: 23) và kết luận (10: 24-25).
1. Cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-21)
Khi căn dặn các môn đệ: “Hãy coi chừng người đời”, Đức Giê-su không khuyên họ trốn tránh “người đời”, nhưng trong những cuộc giao tiếp với người đời, họ nên giữ mình khỏi mọi ảo tưởng. Các môn đệ đừng quên rằng Thầy của họ đã bị những người đời này tìm cách khai trừ, loại bỏ. Ở đây, “người đời” này không ai khác là người Do thái: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đường và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ” (10: 17).
Tuy nhiên, câu 18 cho thấy bối cảnh của cuộc bách hại có thể vừa ở trong xứ Pa-lét-tin nhưng cũng vừa ở ngoài xứ Pa-lét-tin. Trong xứ Pa-lét-tin, họ có thể bị bắt và bị điệu ra trước vua chúa (dòng dõi Hê-rô-đê) quan quyền (chính quyền chiếm đóng Rô-ma) hoặc ngoài xứ Pa-lét-tin, trước các giới cầm quyền dân ngoại. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, các Ki-tô hữu đừng quên rằng những cách hành xử đầy bạo lực này có một ý nghĩa, đó là dịp là cơ hội làm chứng cho Đức Ki-tô và Nước Trời. Lời chứng này nêu bật tính chất vừa công khai vừa chính trị. Các vua chúa và dân chúng có dịp nghe nói về Đức Giê-su và Nước Trời.
Câu 19-20 là lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Trong giờ đó, họ không cần phải lo nghĩ phải nói gì, vì Thiên Chúa sẽ ban cho họ Thánh Thần để trợ giúp họ như Thiên Chúa đã hứa với ông Mô-sê: “Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói gì” (Xh 4: 12). Câu 20: “Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”, mới nhìn thoáng qua, khiến cho nghĩ đến ơn phù trợ này loại bỏ sự dự phần của chứng nhân. Nhưng không phải như thế, trái lại hai cụm từ “chính anh em” và “trong anh em” nhấn mạnh rằng ân huệ này được ban cho các chứng nhân không như những khí cụ thụ động nhưng ở trong họ và bởi chính họ nữa.
2. Cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22)
Đối xứng với đoạn văn 10: 17-20 ở trên, đoạn văn 10: 21-22 bao gồm một lời cảnh báo về cuộc bách hại và một lời hứa. Câu 21 cảnh báo rằng ngay cả những người thân thuộc trong gia đình cũng sẽ tố cáo họ vì họ dám chấp nhận cái chết vì tin vào Đức Giê-su. Còn câu 22 đề cập đến việc họ sẽ bị mọi người thù ghét vì Ngài, nhưng hứa rằng những ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ.
3. Thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại (10: 23)
Người Ki-tô hữu không phải đưa thân mình ra cho những kẻ bách hại mình, nhưng “khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn chạy sang thành khác”, bởi vì nếu thành này xua đuổi họ thì có thành khác để loan báo Tin Mừng. Như vậy, sứ mạng loan báo Tin Mừng là bổn phận phải chu toàn cho đến cùng. Huấn thị này gợi nhớ cuộc bách hại giáng xuống trên cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem sau cuộc tử đạo của thánh Tê-pha-nô. Sách Công Vụ ghi nhận rằng những người này phải tản mác khắp nơi, đi đến đâu họ loan báo Tin Mừng đến đó (Cv 8: 4).
4. Kết luận (10: 24-25)
Các môn đệ của Đức Giê-su không mong đợi một vận mệnh nào khác ngoài vận mệnh của Thầy mình, Đấng bị khinh bỉ, bị ruồng bỏ, bị khai trừ và cuối cùng bị kết án tử trên thập giá. Thầy và trò, chủ và tớ được đặt vào trong cùng một thân phận: “Trò được như Thầy, tớ được như chủ”. Tuy nhiên, diễn ngữ này không giới thiệu một sự so sánh, nhưng căn nguyên khác nhau giữa Thầy và trò. Nếu cả hai đều chia sẻ cùng một vận mệnh: đau khổ, bị bách hại và bị án tử, điều đó không muốn nói rằng Thầy khai mở cho người môn đệ sống lại cuộc mạo hiểm mà chính Thầy đã kinh qua. Cả hai giống nhau trong những diễn biến bên ngoài nhưng lại khác nhau trong ý nghĩa và tầm mức. Đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ của Đấng ở nơi Ngài Nước Trời đã đến (x. 10: 7) trong khi đau khổ của người môn đệ là đau khổ của một chứng nhân về Nước Trời này (x. 10: 18).
22.Tử vì Đạo ngày hôm nay--AM Trần Bình An
Vào ngày 26 tháng 7 năm 1644, Thầy Andrê Phú Yên chịu tử vì đạo, đã làm phấn khởi những tín hữu sốt sắng ở Qui Nhơn. Ông Trùm An tôn Ngữ vội vàng lên gặp Cha Đắc Lộ, để hỏi xem phải có thái độ nào trong hoàn cảnh tương tự. Cha khuyên ông trở về khích lệ giáo dân sẵn sàng và can đảm trong cuộc chiến cam go của đức tin. Mấy ngày sau, quan trấn thủ sai quan án đến ra lệnh tập trung tất cả những người có đạo. Nội trong một ngày có 700 người trình diện. Thay vì làm cho dân chúng khiếp sợ, chính quan và lính thấy đám đông thì bối rối, chỉ chọn lấy 36 người trói lại, để giải về cho ông nghè Bộ. Ông nghè liền hạch hỏi: “Các ngươi muốn gì?” Tất cả thưa lại: “Chúng tôi muốn chết, để được sống đời đời, như lời Chúa Giêsu đã hứa cho những ai tin vào Ngài. Được chết vì Ngài là một vinh dự!”
Trong số 36 người có một ông nhà giầu. Khi ra trước sân phủ, quá sợ hãi, nên ông đã chối đạo. Nhưng sự hèn nhát của ông không làm nao núng 35 người còn lại. Quan trấn không dám vượt quá thẩm quyền, nên nói sẽ chọn ra 6 người, sẽ đánh đòn trước mặt những người khác để làm gương, nhưng không liệt kê những ai. Tối hôm đó, mọi người xưng tội, rước lễ, và ai cũng tranh cho được lọt vào tốp 6 người. Kẻ thì nói mình là tín hữu lâu đời, người khác lại nói mình không quan trọng cho đạo, nên sẵn sàng chịu chết. Trong số đó, có hai cha con cũng tranh nhau. Người cha nói rất tiếc phải tranh với con, để không thua lòng can đảm của con, mặc dù sức khỏe đã yếu kém. Người con thưa lại rằng, mình không quan trọng và không phải lo cho gia đình như cha. Quan án được lệnh đến nhà giam chọn 6 người, trong đó đứng đầu là Ông Trùm Antôn Ngữ. Tất cả 6 người bị đóng gông, mà Cha Đắc Lộ hay gọi là Thánh giá của người Nam Việt, hiên ngang theo lính ra phủ đường, 29 người được tự do cũng theo ra. Những người được chọn vui vẻ hớn hở, vì biết rằng mình sẽ được chết vì Đức Kitô. Nhưng tới phủ đường, quan chỉ ra lệnh đánh đòn mỗi người ít roi. Bản án qúa nhẹ làm họ sửng sốt. Lính lại đánh có 4, 5 roi nhẹ, càng làm họ càng tiếc, mất cơ hội chịu khổ vì Chúa. Cả 6 người được thả về, liền tìm đến Cha Đắc Lộ phàn nàn, Cha đã khuyên họ rằng, lòng ước muốn chịu chết vì Chúa cũng rất đáng kể, và đây mới chỉ là thử thách đầu tiên, tập luyện cho những cuộc thử thách lớn sau này, mà họ sẽ có dịp minh chứng lòng trung thành trọn vẹn. (Lm Vũ Thành, Dòng Máu Anh Hùng)
Nhân dịp tiên báo cuộc khổ nạn của Người sắp đến, Đức Giêsu phán dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12, 24) Nay nhiều hạt khác sinh ra tới khoảng 7 triệu. Không có thống kê chính xác về số lượng người Công Giáo bị bách hại từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Nhưng trong 400 năm hiện diện tại Việt Nam, đạo Công giáo đã chịu sát hại ròng rã suốt 300 năm, hàng chục vạn tín hữu đã chịu hy sinh. Giáo Hội dùng từ Hy lạp là Martus, Marturos, tiếng La tinh là Martyr, Martyris, tiếng Anh và Pháp đều là Martyr, để chỉ những tín hữu được vinh phúc Tử Vì Đạo. Martus theo nguyên nghĩa tiếng Hy Lạp là người chứng, người làm chứng, chứng nhân.
Hôm nay, ngoài những đất nước độc tài chuyên chế, thì chẳng còn cảnh thảm sát cấm đạo tàn khốc như xưa. Tuy nhiên, người Kitô hữu chân thành thực hành Lời Chúa, vẫn phải chịu bách hại bằng những hình thức tinh vi và đau đớn không kém, tuy chẳng phải máu chảy đầu rơi. Do vậy, tín hữu Kitô làm chứng nhân vẫn đang chịu tử vì đạo, chịu chết đi tính xác thịt, chết đi thói hư thế gian và chết đi những cám dỗ ma quỷ.
Chết đi tính xác thịt
Nhu cầu tự nhiên của con người sẽ trở nên bất tận, bao lâu còn cung phụng cho thân xác mau hư mòn theo năm tháng. Từ cái ăn, cái mặc cho đến tiện nghi sinh hoạt sẽ chẳng bao giờ là đủ thỏa mãn, nếu cứ mãi o bế, chiều chuộng ngũ quan, khao khát, đòi hỏi vất chất, phương tiện đầy đủ hơn, tốt hơn, đẹp hơn, nhiều hơn, mới hơn, tinh vi hơn, sang trọng hơn. Vậy nếu biết dừng lại, từ bỏ đi những ham muốn bản năng là chịu chết đi tính xác thịt. Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát, vì bị những ham muốn lừa dối.“(Ep 4, 22)
Chết đi thói thế gian
Can đảm lội ngược dòng đời, Kitô hữu cũng được chịu phúc tử vì đạo, vì dám chống lại văn minh sự chết, chống lại khuynh hướng vô thần, mà gieo vãi văn minh tình thương đến mọi người, mọi nơi. Mặc cho thiên hạ tôn thờ bái vật, bò vàng, mê đắm hưởng lạc, ăn gian nói dối, lừa đảo kiếm chác, mặc cho thiên hạ đề cao và tôn thờ cá nhân chủ nghĩa. Thánh Giacôbê đã khuyên nhủ trong “Thư Chung” với toàn thể Kitô hữu: “Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha là…giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.” (Gc 1, 27)
Chết đi cám dỗ
Cái bả của cải, giàu sang, phú quý, quyền năng luôn là những cám dỗ day dứt, tiềm tàng, ẩn giấu, sâu kín, triền miên, trong lòng dạ mỗi người. “Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn, độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh hủy diệt tiêu vong.“ (1Tm 6, 9)
Nhưng cám dỗ nặng nề, kín đáo và dai dẳng nhất vẫn là vị kỷ, kiêu ngạo, tự cao tự đại, với Thiên Chúa và tha nhân. Cho nên điều kiện tiên quyết theo Chúa, vẫn là phải từ bỏ bản thân, xóa bỏ bản ngã, cái tôi ích kỷ trước mắt mọi người, như Đức Giêsu đã chân tình mời gọi: ”Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo.” (Lc 9, 23)
Chư hiển thánh Tử Vì Đạo đã toàn tâm, toàn ý, vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa nhiệm mầu, mà từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống, để sẵn sàng vác thập gía, chịu đủ khổ hình, roi vọt, tù đầy, lăng mạ, cuối cùng chịu chết đau đớn, được vinh hạnh thông phần vào cuộc tử nạn của Đức Kitô.
“Chúa Giêsu đến đâu cũng có một số người sống chết cho Ngài, và cũng có một số người quyết giết chết Ngài. Sao con muốn mọi người yêu con? Sao con nao núng khi có người ghét con?” (Đườg Hy Vọng, số 692)
Lạy Chúa Giêsu, kính xin Người luôn ban Chúa Thánh Thần soi sáng chúng con ý thức thân phận thấp hèn, bé mọn trước Thiên Chúa và tha nhân, để chúng con sẵn sàng chết đi mọi thói hư, nếp xấu, mọi cám dỗ phù phiếm, từ bỏ bản thân, chấp nhận gánh vác bổn phận, trách nhiệm nặng nề hằng ngày mà hoàn toàn theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn dạy dỗ, nhắc nhở chúng con noi gương Mẹ, sống khiêm nhường, bác ái, yêu Chúa và yêu người, luôn sẵn sàng chịu chết đi, để làm chứng nhân cho Đức Kitô. Amen.
23.Đừng sợ--Lm. Nguyễn Minh Hùng
Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Nếu có ai giết được linh hồn thì Đấng đó phải là Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ làm như vậy. Người chỉ cứu rỗi chứ không bao giờ hành hạ con người. Chỉ có con người mới tàn sát nhau thôi. Mà con người dẫu có hành hạ nhau dã man cách mấy, vẫn chỉ là hành hạ nhau trên thân xác. Lời Chúa dạy Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn, trở thành lời an ủi, động viên niềm tin, niềm hy vọng của ta vào Chúa Giêsu: Người là Thiên Chúa mà con người còn không tha, thì huống hồ là con người với nhau.
Người Do thái nghĩ rằng, khi giết Chúa Giêsu, họ đã khử trừ được một thứ tôn giáo mới. Và do cái chết thê thảm đó, sẽ làm cho các môn đệ thoái chí, buộc lòng phải giải táng. Nhưng họ lầm. Họ lầm vì họ không biết rằng, họ chỉ có thể giết được thân xác của Giêsu, chứ không giết được linh hồn Người. Họ lầm vì họ chỉ có thể giết được thân xác Giêu, nhưng chính Thiên Chúa nơi con người Giêsu ấy, làm sao giết được! Họ lầm vì họ không ngờ rằng cái thân xác mà họ treo trên cây thập giá đó đã sống lại chỉ trong một thời gian ngắn: trên dưới 50 tiếng đồng hồ. Bởi vì loài người không thể giết Thiên Chúa, nên Kitô giáo vẫn tồn tại, đạo Chúa Kitô vẫn không ngừng phát triễn.
Các thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy. Một lòng trung kiên kính thờ Thiên Chúa. Sợ Thiên Chúa chứ không sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Trước mặt vua quan, các ngài đã khẳng khái tuyên xưng đức tin của mình, sẵn sàng dâng hiến mạng sống của mình. Mỗi người chỉ có một thân xác, một hơi thở, một mạng sống, mất đi là không còn có mặt trong cuộc đời nữa. Các thánh tử đạo biết rõ điều đó, nhưng vì đức tin: tin vào Chúa Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, các thánh không sợ chết, quyết tâm dâng hiến mạng sống để tôn thờ Chúa đến cùng.
Còn vua quan, cũng giống những nhười Do thái trước kia: tưởng giết Chúa Giêsu là xong chuyện. Vua quan tưởng rằng bách hại và giết chết người có đạo là xóa được một tôn giáo mới, nhưng họ cũng lầm y như những người Do thái vậy: chỉ giết được thân xác chứ không giết được linh hồn người có đạo. chỉ giết được người có đạo chứ không thể giết chính Thiên Chúa của người có đạo. Các vua, các quan càng ra sức bách hại và cấm đạo triệt để bao nhiêu, thì trong hoàn cảnh trốn tránh hết sức khó khăn, đức tin của người tín hữu càng mạnh mẽ, càng kiên vững bấy nhiêu. Gần 3 thế kỷ bắt đạo, có lúc gay gắt, có lúc nới lỏng, thì 3 thế kỷ hãi hùng mà chính nggười Việt Nam sát hại nhau đó, đã giết chết khoản 150 ngàn người Việt Nam Công Giáo. Điều đó chứng tỏ trong khó khăn, đức tin không lùi bước mà sẵn sàng đương đầu với khó khăn đó. Con số 118 vị tử đạo được tuyên phong trên bàn thờ chỉ là một phần nhỏ, chỉ là con số tượng trưng. Ba thế kỷ bắt đạo, đạo Công Giáo không mất mà vẫn tồn tại, và đang phát triển. Cho nên Lời Chúa: Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn đúng vô cùng.
Mừng lễ Các Thánh Tử Đạo hôm nay, bạn và tôi tự hào vì mình là con cháu các thánh, các thánh là tổ tiên của mình. Tự hào là con cháu các thánh, bạn cũng như tôi càng phải sống đức tin trung kiên như lời Chúa dạy: Anh em đừng sợ. Cái đừng sợ của chúng ta hôm nay đó là ý thức đức tin từ những việc làm hết sức nhỏ nhặt hằng ngày. Ví dụ làm dấu Thánh Giá trang nghiêm. Tôi thử hỏi một điều để mọi người suy nghĩ: mỗi khi vào tiệm ăn, mình có dám tuyên xưng đức tin bằng dấu thánh giá trước khi bưng một tô phỡ hay cầm một dĩa cơm không? Từ những việc xem ra rất nhỏ nhặt ấy lại là hành động tuyên xưng đức tin rất quí giá! Tại sao có những việc lớn lao ta lại làm được, còn những việc rất nhỏ bé như thế lại không thể được? Bao hàm trong cái không thể đó, là sự sợ hãi: sợ người ta thấy, người ta biết mình có đạo, sợ người ta cười Những cái sợ không đáng sợ lại là thực tế của người Công Giáo hôm nay. Ngày xưa tuyên xưng đức tin như thế, các thánh đã trả bằng giá máu, nhưng các ngài vẫn kiên tâm, không sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Ngày nay có ai giết ta đâu tại sao ta lại không giữ nổi những điều căn bản nhất mà cha ông đã làm? Tôi xin gởi lại câu hỏi này để đánh động lương tâm chúng ta.
24.Vinh danh các thánh Tử Đạo--Ga 17, 11b-19--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Tin Mừng đến với dân tộc Việt nam trên 400 năm, thì hết 300 năm, Giáo Hội Việt Nam thấm đẫm dòng máu các anh hùng tử đạo. Giai đoạn bách hại nặng nề nhất là vào thế kỷ 19, trong các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngã cho dân tộc Việt Nam: những người Việt Nam tàn nhẫn sát hại nhau. Chính những đồng bào Việt Nam chung cội, chung nguồn lẽ ra phải yêu thương nhau, lại quay mũi kiếm giết nhau hàng loạt.
Thật vinh phúc cho Giáo Hội Việt Nam, một Giáo Hội còn non trẻ, nhưng lại căng tràn sức sống, đạp trên đầu sóng ngọn gió, vượt thắng mọi thử thách, mọi đau đớn, mà cho đến nay, dẫu đã qua đúng một thế kỷ, thời gian đủ bình tĩnh để suy niệm, sao vẫn còn nghe hãi hùng, vẫn còn nghe nhức nhối tâm can, làm lặng đi mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi thanh âm.
Những người con đất Việt tưởng như gục ngã không thể gượng dậy nổi dưới bàn tay tàn bạo của làn kiếm, mã tấu, gông cùm, tù đày, lửa nung, bá đao, tùng xẻo, xiết cổ, chém bay đầu..., lại là sức mạnh ngàn đời của một đức tin không gì lay chuyển nổi. Bởi thân xác các thánh Tử đạo dù bị giết, nhưng đức tin của các ngài thì không ai giết được.
Một Giáo Hội còn non trẻ đến thế, lại có sức chịu đựng sự giày xéo quá sức tưởng tượng của người đời. Giờ nhìn lại sự nhiệm mầu của sức chịu đựng, ta chỉ còn có thể bật thốt lên như thánh nữ Têrêsa: "Tất cả là hồng ân". Hồng ân nhận được không chỉ là một quà tặng, nhưng còn là một quà tặng vinh dự, một quà tặng của niềm kiêu hãnh thánh thiện.
Hồng phúc tử đạo không chỉ là một hành động dâng hiến tận cùng mà còn là một dâng hiến vinh thắng tận cùng. Đó không là một vinh phúc lớn lao lắm hay sao! Một vinh phúc lớn lao mà một Giáo Hội còn non trẻ như Giáo Hội Việt Nam lại có thể cùng Giáo Hội hoàn vũ đã qua mấy ngàn năm, vẽ thêm vào đó một đường lịch sử của đức tin không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ dừng lại.
Các thánh Tử đạo đã viết sử bằng máu của mình. Còn chính Thiên Chúa, Người cũng đã làm cho Giáo Hội Việt Nam được khai sinh, lớn lên và phát triển nhờ dòng máu các Thánh.
Nếu cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngã cho dân tộc Việt Nam, thì đối với đức tin, đó lại là một trang sử hùng tráng cho Giáo Hội Việt Nam nói riêng và Giáo Hội hoàn vũ nói chung: Bởi những người con đất Việt càng yêu mến quê hương, yêu mến bản thân mình, luyến tiếc cuộc đời, luyến nhớ người thân... và điều đặc biệt: yêu mến các vua quan là những người bên trên mình, thì càng yêu mến đức tin khôn cùng. Chính cái chết của các thánh Tử đạo là một lời nói xác quyết và chung quyết cho mọi lời tuyên xưng đức tin rằng: Không có bất cứ cái gì có thể ngang bằng đức tin...
Hiểu rất rõ Chúa Giêsu, Đấng mà mình tôn thờ vượt trên tất cả, dẫu là chính bản thân các vua quan hay lệnh truyền của các vua quan đi nữa, không có gì sánh ví được với Đức Chúa mà lẽ ra các vua quan cũng phải tôn thờ, các thánh Tử đạo đã chối từ một cuộc sống dễ dãi.
Hiểu rất rõ Chúa Giêsu, Đấng mà mình tôn thờ là Đức Chúa của mình, vì thế, dẫu chỉ là hai que củi vắt chéo trên mặt đất, bình thường chỉ là hai que củi không hơn, không kém, nhưng để biểu lộ đức tin, thì bất cứ một bàn chân giẫm đạp nào, bất cứ lời lụy mạ nào, hay bất cứ một hành động nào đối lại đức tin khi đứng trước hai que củi ấy, tất cả đều là sự chà đạp đức tin, chà đạp Giáo Hội, chà đạp chính Đấng mà mình tôn thờ.
Ngược lại, bất cứ một hành động hay một lời nói nào để tuyên xưng đức tin mà phải tôn trọng hai que củi hình chữ thập ấy, điều đó không còn đơn thuần là hai que củi hình chữ thập nữa, nhưng là hình tượng Thánh Giá, hình tượng của lòng tin, hình tượng của một tâm hồn quả cảm quyết một lòng tôn thờ Đức Chúa của mình!
Hiểu rất rõ điều đó, cho nên dù chỉ là đối điện với hai que củi vắt chéo hình chữ thập, các thánh Tử đạo không chỉ đứng trước hai que củi, nhưng là đối diện với nỗi giằng co mạnh bạo, đối diện với sự chọn lựa không khoan nhượng, nhưng dứt khoát: đức tin hay cuộc sống trần thế.
Cái giá phải trả cho sự chọn lựa đứng về phía đức tin là bị tước đoạt tất cả những gì đang có trong cuộc trần. Bị tước đoạt cả sự sống, cả đến giọt máu sau cùng.
Máu các thánh Tử đạo Việt Nam đã dệt đỏ thắm dòng lịch sử Giáo Hội Việt Nam, vì thế, các thánh Tử đạo mãi mãi vẫn xứng đáng sống trong lòng Giáo Hội và nơi từng người tín hữu Việt Nam.
Vượt trên tất cả mọi tấm gương, vượt trên tất cả mọi bài học, máu các Thánh phải là chính cuộc sống của những người Việt Nam Công Giáo hôm nay, khi làm người Việt Nam giữa dân tộc mình, và làm người giữa đời.
25.Bách hại vì sống công chính--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Một trong các bài Tin Mừng được chọn đọc trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo là phần đầu của bài giảng trên núi mà chúng ta quen gọi là ‘Tám Mối Phúc’. Mối phúc cuối cùng trong danh sách là: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ’. Trong sách Tin Mừng Lu-ca chương 06, dầu chỉ đề cập tới có 04 mối phúc, nhưng mối phúc sau chót cũng vẫn nói tới cùng một điều này là “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như người xấu xa. Ngày đó anh em hãy vui mừng nhảy múa vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” (Lc 6,22) Phải chăng đó là lý do tại sao các Kitô hữu từ thời xa xưa đã dành cho các vị anh hùng tử đạo một sự mừng kính đặc biệt trân trọng. Họ gán cho các ngài danh hiệu cao quý là Chứng Nhân Tin Mừng (Martyr). Ngày nay trong tư cách con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo, chúng ta muốn thực sự tìm hiểu các vị tử đạo nói chung, và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nói riêng, đã là chứng nhân Tin Mừng như thế nào? Khi tiến ra pháp trường để bị trảm quyết, các ngài đã thật sự trung kiên bảo vệ điều gì? Và ở điểm nào các ngài thực sự liên quan tới người Công Giáo Việt Nam chúng ta đang sống trong xã hội hôm nay?
Trong tiếng Việt, chữ ‘đạo’ thường được chúng ta sử dụng để nói tới một đạo giáo, một tôn giáo, như Đạo Phật, Đạo Hồi, Đạo Lão, Đạo Ông Bà, Đạo Thiên Chúa… Thế nhưng theo nguyên ngữ hán-nôm, ‘đạo’ là con đường, là lẽ sống, là học thuyết… dẫn tới mục đích tối hậu của cuộc sống, chẳng hạn đạo Khổng, đạo hiếu, đạo làm người. Đức Giêsu đã tự giới thiếu mình “là đường, là sự thật và là sự sống”. Và nếu nói theo từ vựng hán nôm Ngài sẽ phải tuyên bố mình là ‘đạo, chân, sinh’. Vậy thì, trong cả phúc âm Mát-thêu lẫn Lu-ca, khi đề cập tới mối phúc chót này, Đức Giêsu chắc chắn không hề có ý muốn tuyên bố ‘phúc thay’ những ai dám chết cho một đạo giáo hay tôn giáo, nhất là hiểu dưới khía cạnh cơ cấu tổ chức của tôn giáo đó. Điều mà Đức Giêsu muốn biểu dương là tất cả mọi hình thức ‘bị bách hại’, ‘bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như người xấu xa…’ đều là ‘phúc’ vì một yếu tố duy nhất, đó là ‘vì sống công chính’, hay rõ hơn: ‘vì Con Người’.
Tới đây tôi gợi nhớ lại tư tưởng bài suy niệm về đoạn Tin Mừng Lc 18, 9-14 của Chúa Nhật XXX thường niên năm C: ‘Đối với Đức Giêsu, ai mới là công chính?’ Nếu đã có một nền công chính của Cựu Ước tóm gọn trong luật Mô-sê để bẩy anh em nhà Ma-ca-bê, vị bô lão Ê-lê-a-da, và Gio-an Tiền Hô, vì trung thành với nó, đã buộc phải gánh lấy cái chết… và ‘các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế’, thì riêng với Kitô hữu sẽ có một thứ công chính mới được chính Đức Giêsu công bố. Nói đúng ra chính Người là hiện thân của nền công chính đó, sự công chính của Thiên Chúa từ nhân, công chính của tình yêu tha thứ và cứu độ; ‘Vì Con Người’, Người đã khảng định. Ai đón nhận và sống Tin Mừng này để rồi ‘bị bách hại’, hay chịu thua thiệt dưới bất cứ hình thức nào, đều là những người được Đức Giêsu biểu dương. Còn nếu có ai đó bị giết chết vì nền công chính mới này thì phải được chính Đức Kitô và toàn Nhiệm Thể Ngài tuyên dương, phong thánh. Chính vì thế mà Giáo Hội, ngay từ thời sơ khai và qua mọi thời đại, đã có thói quen phong thánh cho các vị anh hùng ‘tử vì đạo’. Giáo Hội luôn muốn tuyên bố rằng các anh chị em tín hữu này là chứng nhân cho Tin Mừng tình yêu vì đã dám chấp nhận thua thiệt lớn hơn hết là mất cả mạng sống mình. Với việc phong thánh như thế Giáo Hội đồng thời cũng muốn khảng định bất cứ thua thiệt nào các Kitô hữu phải hứng chịu trong cuộc sống thường ngày vì ‘sống công chính mới’ đều có giá trị vô song.
Suy nghĩ như thế tôi mới thấy có một liên hệ mật thiết giữa các chứng nhân ‘tử vì đạo’ với mỗi Kitô hữu chúng ta. Các ngài không phải là những trường hợp biệt lệ để các tín hữu có ‘may mắn’ được sống trong thời đại an bình nhìn vào mà thán phục mà ca ngợi, với mơ ước rằng: nếu chẳng may lâm vào cơn cấm cách, mình cũng sẽ trung thành. Đức Giêsu đã chẳng gọi tất cả mọi Kitô hữu là ‘ánh sáng’, là ‘muối men’ của trần gian, là chứng nhân Tin Mừng là gì? Chứng nhân tích cực rao giảng Tin Mừng thì ít, nhưng chứng nhân vì buộc phải chấp nhận các thua thiệt, khó khăn vì nền công chính Tin Mừng trong đời sống thường ngày thì nhiều. Vì thế thật là chí lý: các ‘Thánh Tử Đạo’ được coi như tấm gương, như cột sống của Kitô hữu qua mọi thời đại, thời buổi bị bắt bớ thử thách cũng như khi được sống an bình sung túc.
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì Giáo Hội Việt Nam đã có hàng trăm ngàn các chứng nhân Tin Mừng như thế, trong số đó 117 vị đã được toàn Nhiệm Thể Đức Kitô phong thánh. Vấn đề được đặt ra là: phải chăng các ngài đơn thuần chỉ tạo nên nơi chúng ta một niềm kiêu hãnh mang tính lịch sử, hay đã trở thành cột sống, thành cơ bắp thúc đẩy chúng ta sống công chính Tin Mừng cách cụ thể trong đời sống thường ngày? Thua thiệt vì Tin Mừng thì thời đại nào cũng có, kể cả trong các xã hội được coi là phồn vinh dễ dãi và tự do. Thế thì các ‘Thánh Tử Đạo Việt Nam’ đã đóng góp được gì cho người Công Giáo Việt Nam chúng ta trong xã hội được cho là ‘dễ dãi hơn’ hôm nay? Phải chăng chỉ là một khích lệ trung kiên nào đó sẵn sàng chiến đấu chống lại mọi thế lực thù nghịch khi cần, hay để kiên trì ‘sống công chính’ khi ‘bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như người xấu xa…’ ngay trong xã hội hôm nay? Ngày mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay sẽ không mấy ý nghĩa nếu mỗi người không tìm ra được câu trả lời cho vấn nạn này.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài đã chịu bách hại vì dám chấp nhận ‘sống công chính’ tới độ anh hùng. Nếu Hội Thánh đã tuyên phong cái chết của các ngài thì đồng thời cũng tuyên phong vô vàn những tủi hổ, thiệt thòi của biết bao tín hữu anh hùng vô danh khác. Tất cả các điều này không nằm ngoài mục đích thôi thúc mỗi người Công Giáo Việt Nam chúng con sẵn sàng hơn trong việc cùng với Đức Kitô thập giá tha thứ và yêu thương trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống đời thường, ngay trong lòng xã hội hôm nay. Xin các ngài tiếp tục trở nên chứng nhân Tin Mừng cho chúng con về một tình yêu tha thứ tuyệt đối. Amen.
26.Suy niệm của Lm. Trầm Phúc--Mt 10,17-22
Giáo Hội Việt Nam vui mừng tôn vinh các thánh anh hùng tử đạo của mình. 117 vị được tôn phong hiển thánh, trong số đó có 8 Giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân, trong đó có một thánh nữ là thánh A-nê Lê Thị Thành (Bà thánh Đê). 117 vị được tôn phong hiển thánh, nhưng còn một số đông đảo bị giết tập thể, bị thiêu sống trong nhà thờ, chết rũ trong rừng sâu… không tìm được di tích.
Chúng ta vui mừng nhắc đến các thánh Tử đạo Việt Nam, xem như những vị anh hùng đã chiến thắng mọi cực hình để trung thành với Chúa, là những tấm gương sáng chói để chúng ta noi theo.
Chắc chúng ta không có vinh dự chịu chết vì Chúa như các thánh, nhưng mỗi người chúng ta, không trừ ai, đều được gọi để “sống cho Chúa và chết cho Chúa” như thánh Phao-lô đã nói. Nghĩa là chúng ta được mời gọi tử đạo một cách nào đó.
Ai đã mang trên mình dấu thánh giá, đều phải chịu đóng đinh thôi. Đó là ơn gọi của Kitô hữu.
Các thánh tử đạo đã sống thực tế những gì Chúa Giêsu đã báo trước:
“Người ta sẽ lôi chúng con đến trước mặt vua chúa quan quyền… vì Thầy”.
Tại sao như thế?
Chúng ta đâu làm hại ai. Chúng ta vẫn sống như mọi người, cũng cực nhọc như mọi người. Chúng ta đâu cướp phá của ai sao lại bị lôi ra tòa? sao lại bị giết chết như những tội phạm?
Tại sao?
Có một bàn tay vô hình. Có một sự cạnh tranh, thù hằn trong bóng tối: Satan. Satan mang lấy hình một thần tượng…, đòi quyền bá chủ… và không thể chấp nhận chúng ta… vì chúng ta không thuộc về nó.
Satan nấp sau bức màn chính trị, tôn giáo…Satan dùng mọi phương tiện, tìm hết mọi cách để tiêu diệt chúng ta. Khổ hình là phương tiện sơ đẳng nhất.
Satan hôm nay tinh vi hơn. Nó dùng những phương tiện luật pháp, truyền thông xã hội, khai thác và thổi phồng những lỗi lầm của những người yếu đuối. Nhục mạ Giáo Hội bằng mọi cách.
Thời cha ông chúng ta, Satan chỉ bách hại một số người trong một vùng nào đó, hôm nay cuộc bách hại lan tràn trong khắp Giáo Hội toàn cầu. Hôm nay không có nơi nào không có bách hại. Hôm nay người ta lôi ra tòa, không phải một vài người, mà cả Giáo Hội. Tòa án hôm nay không phải là tòa án vua quan mà là tòa án của dư luận, tòa án của thế giới. Đây chính là thứ tòa án nguy hại nhất. Giáo Hội chịu bách hại hằng ngày trên báo chí, trên truyền hình, trên internet… Và không chỉ là người ngoài, người thờ ngẫu tượng, cuộc bách hại nằm ngay trong gia đình, trong lòng Giáo Hội. Con cái Giáo Hội đứng lên giết hại Giáo Hội, cũng bằng mọi phương tiện. Chúa Giêsu đã báo trước:
“Anh sẽ nộp em…Cha sẽ nộp con…”
Cuộc bách hại xảy ra ngay trong gia đình chúng ta, ngay giữa lòng Giáo Hội. Đây mới thực sự là đau đớn!
Nhưng chúng ta bị lôi ra hành hạ. Để làm gì?
“Để làm chứng”.
Chúa Giêsu đang cần những nhân chứng kiên tâm, đáng tin trước làn sóng nhục mạ, bôi nhọ…
Ngài đòi hỏi, không phải những giọt máu vật chất, nhưng là những giọt máu tinh thần, cần những con người dám sống cho sự thật, cho bác ái…bất chấp mọi chống đối.
Tất cả Kitô hữu đều phải “đưa má cho người ta vả”… Chấp nhận bị loại trừ, bị tước đoạt mọi sự… như thư gởi cho giáo đoàn Do thái đã nói…
Nhìn về các thánh tử đạo, chúng ta phải kính phục lòng can đảm, sức chịu đựng của các ngài. Đúng! Các ngài đã chấp nhận mọi khổ hình, tù ngục, đọa đày, lâu ngày lâu tháng. Nếu người ta giết các ngài ngay sau khi bị bắt, cái chết như thế cũng không khó gì. Nhưng các ngài phải chịu tù ngục, bị hành hạ, đánh đập dã man lâu ngày mà vẫn không nao núng. Trong số các ngài, có những người còn vợ, còn con. Ai không thương vợ con, nhưng các ngài đã chọn Chúa trên hết, đã yêu mến Chúa đến cùng.
Sự anh hùng của các ngài được thử thách qua thời gian, qua bao nhiêu khốn khổ. Sức mạnh nào đã nâng đỡ các ngài, giúp các ngài thắng mọi đau đớn cực hình?
Sức mạnh nào có thể giúp chúng ta thắng những cơn bách hại hôm nay?
Chúa Giêsu đã cho chúng ta một bảo đảm: “Chúng con đừng sợ. Chúng con đừng lo phải đối đáp cách nào. Chính trong giờ đó (hôm nay), Thiên Chúa sẽ cho chúng con biết phải nói gì”. Chính Thần Khí của Cha trên trời là bảo đảm cho chúng ta.
Hơn nữa, chúng ta có một thứ vũ khí mà Satan không thể thắng được đó là BÁC ÁI. Đó là tiếng nói của Thần Khí Tình Yêu trong chúng ta. “Chúng con sẽ bị mọi người thù ghét”.
Chúng con sẽ đáp trả bằng bác ái. Thầy Chí Thánh của chúng ta đã thắng thế gian nhờ cái chết yêu thương của Ngài: “Họ sẽ nhìn Đấng họ đâm thâu”.
Không vũ khí nào có thể chống lại bác ái. Hận thù có thể mạnh như vũ bão, nhưng hận thù không thể tồn tại. Hận thù sẽ bị tiêu diệt trong biển lửa bác ái.
Những người bách hại Giáo Hội thi nhau nằm xuống, biến tan. Chúa Giêsu vẫn còn… Đâu rồi những người đã dìm Giáo Hội trong biển máu? Họ đã đi xa, chỉ còn một nắm xương khô…
Chúa Kitô vẫn sống. Ngài sống trong mỗi Kitô hữu. Cho đến tận thế, Kitô hữu phải là những người nối dài cuộc sống của Chúa Kitô trong trần gian, nối dài cuộc thương khó của Ngài, “phải làm trọn những gì còn thiếu trong cuộc tử nạn của Chúa Kitô cho Hội Thánh Ngài”. “Trò không hơn Thầy, được như Thầy là quí lắm rồi”. Chúng ta có được như Thầy chưa?
Những người bách hại chúng ta, ý thức hay không ý thức, đều trông chờ nơi chúng ta, vì họ đang khao khát sự thật, khao khát tình yêu. Trong thế giới hận thù và gian ác không có chỗ cho tình yêu và sự thật, công bằng và tự do. Họ không thương nhau, họ bóc lột lẫn nhau, nô lệ hóa những người yếu kém. Họ tự trói buộc họ trong gông cùm xiềng xích của tham vọng… Họ đang cần tự do…
Chúng ta có thể đem lại cho họ những gì họ cần không? Chúng ta dám là những chứng nhân đích thực, đáng tin không? Cuộc sống chúng ta có đủ điều kiện để làm bằng chứng cho một Thiên Chúa Tình Yêu không?
Rất nhiều người trong chúng ta chỉ sống bằng ước mơ, bằng những khẩu hiệu thật đẹp, nhưng trống rỗng vì không có việc làm cụ thể. Chúa Giêsu không là “một người mơ mộng hiền lành” như ông Renan, một người nghịch đạo đã nói. Ngài đúng là chứng nhân Mẫu cho chúng ta. Ngài bị bách hại ngay từ khi mới sinh cho đến chết. Ngài trông chờ nơi chúng ta bước theo Ngài trên con đường hi sinh khổ giá. Chúng ta được như Thầy chưa? Chúng ta không thể, nhưng chúng ta còn thời gian để tiếp tục…
Nơi bàn tiệc thân yêu này, Chúa Giêsu vẫn có mặt. Ngài là của ăn cho chúng ta. Ngài nhờ tấm bánh nhỏ này để sống trong chúng ta, giúp chúng ta bước tới mỗi ngày trong nhiệm vụ chứng nhân âm thầm của Ngài. Xin các thánh Tử Đạo Việt Nam đồng hành với chúng ta trong nhiệm vụ cao đẹp này.
27.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam - Lc 9,23-26--Lm Trầm Phúc
Hôm nay Giáo hội Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo tại Việt Nam, 117 vị đã được Giáo hội tuyên phong hiển thánh, nghĩa là nhìn nhận nhân đức anh hùng của các ngài, và xem các ngài như những gương sáng cho chúng ta là con cháu các ngài. Các ngài đã can đảm hy sinh mạng sống trong khổ hình vì yêu mến Chúa, trung thành đến cùng.
Mừng các thánh phải chăng là nhắc nhớ một kỷ niệm, tôn vinh lòng can đảm của các ngài? Nếu thế thì cũng không khác gì người đời tưởng niệm những vị anh hùng đã hy sinh cho đất nước.
Chúng ta mừng các thánh không chỉ là nhắc nhớ những người đã chết mà là nhắc đến những người đang sống. Người đời không biết điều đó. Chúng ta tin rằng các ngài đã chết, nhưng hiện nay các ngài vẫn sống trong Chúa. Mối liên hệ của chúng ta với các ngài là một mối liên hệ sống động, thân thương, chứ không chỉ là kỷ niệm.
Khi còn sống ở trần gian, các ngài cũng yếu đuối như chúng ta, cũng mang nặng kiếp người như chúng ta, “vác thập giá mỗi ngày để theo Chúa” như chúng ta, nhưng hôm nay, các ngài đã đạt đến vinh quang thiên quốc đang đứng trước ngai tòa Con Chiên, tay cầm nhành thiên tuế. Các ngài đã liều mất mạng sống vì Chúa.
Nếu chúng ta ở trong tình trạng của các ngài, liệu chúng ta có dám hi sinh tất cả như các ngài không?
Chịu bách hại gần như là thân phận của những người theo Chúa kể cả chúng ta. Đi vào lịch sử của dân Do Thái là dân Chúa, chúng ta thấy rằng dân này đã bước đi giữa những cơn bách hại liên tục. Họ bị bách hại ở Ai Cập và sau này họ vẫn bị bách hại một cách dã man, nhất là trong thời Maccabê mà chúng ta đã nghe tường thuật một ví dụ trong bài đọc sách Maccabê.
Những người theo Chúa cũng bị bách hại. Vua Đavit cũng bị vua Saun bách hại. Các tiên tri đều qua những cơn bách hại dai dẳng. Và sau cùng là Chúa Giêsu bị bách hại ngay khi mới sinh, và suốt đời Ngài luôn bị săn đuổi cho đến khi chết trên thập giá. Ngài chính là vị tử đạo cao cả nhất trong các vị tử đạo, là vị tử đạo thần linh. Và chính Ngài cũng đã nói: “Nếu họ đã ghét Thầy thì họ cũng sẽ ghét anh em”.
Các Tông đồ cũng chịu chung một số phận là trở thành những con chiên bị đem đến lò sát sinh. Và qua nhiều thế kỷ, Giáo hội tiên khởi cũng trải qua những cơn bách hại đẫm máu. Hiện nay, Giáo hội luôn bị bách hại khắp nơi trên thế giới. Nhiều nơi, những cuộc bách hại trở nên khốc liệt, tinh vi và dã man chưa từng thấy.
Những cuộc bách hại mang nhiều hình thức, lúc công khai, đẫm máu, lúc âm thầm, nham hiểm, nhưng luôn là những cố gắng để tiêu diệt Giáo hội. Chúa Giêsu đã tiên báo điều này và luôn khuyến khích chúng ta bền tâm chịu đựng: “Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính… Hãy vui mừng vì phần thưởng của các ngươi sẽ trọng đại ở trên trời”.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu chịu bách hại, nhưng Ngài luôn bình thản chịu đựng “con chiên hiền lành bị đem đi đến lò sát sinh mà không hở môi. Ngài lại xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Các thánh tử đạo cũng luôn bình thản chấp nhận mọi khổ hình không nao núng, không hận thù, luôn kiên nhẫn và can đảm, nhiều vị còn tỏ ra vui mừng, điều làm cho mọi người phải ngạc nhiên. Họ đi ra pháp trường như đi vào một lễ hội. Tại sao?
Chỉ vì họ chứng tỏ lòng tin và tình yêu của họ đối với Đấng đã yêu thương và đã chết cho họ. Vì họ biết rằng chết đối với họ là một vinh dự, một chiến thắng như Thầy chí thánh đã chiến thắng thế gian bằng cái chết đau thương. Họ biết rằng, đây là một bằng chứng tình yêu mà họ thể hiện trong chính sự yếu hèn của họ. “Không có tình yêu nào trọng đại cho bằng dám chết cho bạn hữu”. Vì yêu, họ bỏ mình, vác thập giá theo Thầy của họ. Đối với các ngài, tình yêu là chóp đỉnh của cuộc sống. Như thánh Phaolô, không gì có thể làm cho họ nao núng, không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô, dù khổ đau, gươm giáo…” “Tôi luôn vui mừng trong những gian lao khổ cực tôi chịu vì Chúa”.
Ông Tertulianô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống gieo người tín hữu”. Các thánh tử đạo tại Việt Nam chính là mầm giống hôm nay đã sinh hoa kết quả. Giữa mọi khó khăn, người tín hữu vẫn trung thành giữ vững đức tin, vẫn kiên trì sống yêu thương không hận thù, vẫn cố gắng đem đến cho xã hội mình sống “một nền văn minh của tình thương”, như thánh Gioan -Phaolô đã nói.
Hôm nay, chúng ta vẫn luôn đương đầu với những khó khăn để sống đức tin, để trung thành với Chúa. Đó là cuộc tử đạo liên lỉ của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người…” Cuộc tử đạo của chúng ta không đổ máu, nhưng cũng không kém cam go. Cuộc tử đạo của chúng ta cũng như các ngài là một cái chết hằng ngày trong tin yêu. “Bỏ mình vác thập giá và theo Ngài”. Tử đạo theo nguyên ngữ Hy Lạp là làm chứng. Đời sống của mỗi người chúng ta phải là một bằng chứng cho sự thánh thiện và tình yêu của Thiên Chúa giữa thế gian. Người tín hữu, dù ở đâu, mọi thời, mọi lúc phải là bằng chứng cho Chúa của mình bằng một đời sống ngay chính và yêu thương. Các thánh tử đạo đã được vinh dự đổ máu vì Chúa, chúng ta không được vinh dự đó, nhưng cuộc sống chính là môi trường để chúng ta chứng tỏ tình yêu của chúng ta đối với Chúa Giêsu. Sống tốt trong một thế giới đầy gian ác và thù hận không là một việc dễ dàng. Từ chối tội lỗi, từ chối tất cả những gì làm nhơ nhuốc lương tâm cũng là một điều không mấy người làm được. Đó là cuộc tử đạo của chúng ta hôm nay.
Chúa Giêsu, vị tử đạo thần linh của chúng ta biết chúng ta phải cực khổ như thế nào để trung thành với Ngài. Ngài không bỏ rơi chúng ta trong sự yếu hèn của chúng ta. Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài đã dùng tấm bánh tình yêu là chính thân thể Ngài để làm của ăn nuôi dưỡng chúng ta trên con đường về quê thật, củng cố niềm tin của chúng ta, giúp chúng ta biết yêu thương một cách vẹn toàn hơn. “Không có Thầy, anh em không thể làm việc gì”. Chúng ta cần được nuôi dưỡng bằng tấm bánh Tình Yêu để sống trong tình yêu, gắn bó với Ngài đến cùng. Hãy ăn lấy Ngài để cho Ngài tiếp nối công trình cứu chuộc của Ngài trong mỗi người chúng ta, cho đến tận thế.
28.Vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật ngày 19/6/1988, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nâng 117 vị chân phước tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh. Dịp khai mạc Năm Thánh 2010, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong sứ điệp gửi các Giám mục Việt Nam có viết: “Việc cử hành Năm Thánh trùng với ngày lễ kính 117 vị thánh Tử đạo hiển vinh của đất nước Đức Cha. Việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài sẽ giúp toàn thể dân Chúa tại Viêt Nam kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày” (Trích Sứ điệp gửi các Giám mục Việt Nam dịp Năm Thánh 2010). Thư của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám Mục Hà Nội, nguyên Chủ tịch HĐGMVN gửi cộng đoàn Dân Chúa nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày tôn phong 117 Hiển Thánh Tử đạo Việt Nam có đoạn: “Đây là cơ hội giúp Dân Chúa Củng cố đức Tin qua đức Cậy nhờ đức Ái (số 1); Giúp cho Giáo hội Việt Nam sống chan hòa trong tình hiệp thông và hiệp nhất (số 2); Thúc đẩy chúng ta hăng say hơn trong sứ vụ loan báo Tin Mừng (số 3); là dịp để cháu con noi gương các Ngài sống xứng đáng những người con thảo của Cha trên Trời (số 4)”.
Những gợi ý sống trên làm chúng ta nhớ lại bài giảng của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ngày 19/6/1988 như sau: “Tôi biết rằng anh em đang ôm nặng ước nguyện tôn vinh các vị Tử Đạo đồng hương, nhưng trong thâm tâm còn tự cảm thấy nhu cầu đứng chung quanh các thánh, để xe kết tình huynh đệ kết nghĩa, mến thương …”.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, khởi đi từ những bước chân thừa sai của các nhà truyền giáo. Sử liệu ghi lại sự đặt chân của giáo sĩ Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt, tiếp theo là Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques v.v. Ba trăm năm loan báo Tin Mừng, một trang sử truyền giáo hào hùng, nhưng đầy đau thương và đẫm nước mắt. Từng ngàn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc! Tuy nhiên, một trang sử mới đã mở ra nhờ sự hy sinh tuyệt vời của các thừa sai, cũng như hàng hàng lớp lớp người vì tử đạo đã nằm xuống với muôn cực hình cay đắng, khốn khổ. Dòng máu của các ngài đã đổ ra, tuôn trào, tưới gội Hội Thánh Việt Nam, làm cho Hội Thánh lớn lên và phát triển, không ngừng sinh hoa kết quả tươi tốt, đúng như lời Tertullien đã viết: “Máu tử đạo là hạt giống trổ sinh người tín hữu”.
Hôm nay đây, chúng ta hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các ngài, trong hân hoan và hãnh diện. Chúng ta tôn vinh, tri ân các ngài và cùng nhau hô vang: Vạn vạn tuế Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế Các Thánh Tử Đạo anh hùng.
Làm sao kể lại cho hết tất cả 117 vị Tử Đạo, 1 vị á thánh, trong số đó có 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo Dân, một phụ nữ, Thánh Anê Lê Thị Thành, mẹ sáu người con. Còn có biết bao nhiêu vị cũng đã “tử vì Đạo” mà chưa được tuyên phong, cũng được mừng kính. Các ngài thuộc đủ mọi thành phần, tuổi tác, hoàn cảnh sống: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số những nhà truyền giáo “ngoại quốc” Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt nam truyền Đạo và chết vì Đạo.
Thánh Vinh Sơn Liêm, Dòng Đaminh là người Việt Nam tử đạo đầu tiên năm 1733. Rồi tới Cha thánh Anrê Trần An Dũng Lạc bị trảm quyết năm 1838. Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như: gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu lên rốn rồi cho bấc vào đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v. Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu, bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống. Bị xử lăng trì, phân thây ra từng mảnh hay là xử bá đao là những hình phạt man rợ và hiểm độc nhất. Tổng số 79 vị bị chặt đầu. 18 vị bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
Lời Chúa trích sách Khôn Ngoan: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài” (Kn 3, 1). Quả quyết như trên có vẻ là không chính xác với thực tế lịch sử: thực ra đau khổ đã va chạm thân xác các ngài đến ghê sợ như: tùng xẻo, lăng trì, chặt đầu. Tuy nhiên, tác giả Kinh Thánh tiếp tục quảng diễn tư tưởng: “Đối với mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thực ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng cậy trông của các nài cũng không chết” (Kn 3, 2-4).
Đúng là: “Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời” (Thánh Phêrô Truật); “Thân xác tôi ở trong tay quan… nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được” (Thánh Phaolô Tịnh)
Các ngài là chứng nhân cho Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết. Thay vì hình khổ ngắn ngủi, các ngài được nhiều ơn vĩ đại, “vì Thiên Chúa đã luyện lọc các ngài và thấy các ngài xứng đáng, Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trên lửa và đã chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu” (Kn 3, 5- 6). Trong Chúa Kitô các ngài được Thiên Chúa cứu rỗi.
Chúng ta, dòng giống các vị tử Đạo. Hôm nay, hãy nghe hết lời sách Khôn Ngoan: “Trong ngày phán xét, người công chính sẽ chói sáng và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau”. (Kn 3, 7) Những tia sáng, những ánh đèn phản chiếu nguồn quang minh rữc rỡ. Và đây là câu sau cùng trong sách Khôn Ngoan: “Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài đến muôn đời” (Kn 3, 17).
Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam giúp chúng con biết chân thành chọn lựa đi theo Chúa, trung thành làm chứng cho đức tin và nhiệt thành yêu mến Giáo hội bằng tinh thần cộng tác, hiệp thông và đồng trách nhiệm trong sứ mạng loan báo Tin Mừng trên quê hương, đất nước chúng con. Amen.
29.Tri ân và mừng kính các Thánh Tổ Tiên--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hàng năm cứ đến ngày này, những người con dân Việt từ khắp muôn phương cùng với Giáo hội hoàn vũ hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Trong hân hoan vui sướng và hãnh diện, chúng ta tôn vinh, tri ân các ngài đồng thời hô vang: “Vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng”.
Hôm nay chúng ta cùng nhau hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các ngài. Nói là đặc biệt về các ngài, nên chúng ta tạm đặt ra mấy câu hỏi cho là cơ bản, để nhờ đó chúng ta lần lượt đưa ra những gì đã hiểu biết về các ngài, mặc dù đây chỉ là những điều nhiều người đã biết.
Trước hết chúng ta cần xác nhận:
Hỏi: Các ngài là ai vậy?
Thưa: Các ngài là Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, chết vì Đạo tại Việt Nam. Ở đây, từ ngữ Đạo được hiểu theo nghĩa chặt: Đạo Công Giáo Lamã, mà ai cũng biết rõ. Ngày nay thì Đạo Công Giáo Lamã hiện diện khắp nơi.
Hỏi: Các ngài là bao nhiêu?
Con số các ngài chính thức là 117 vị thánh và 1 á thánh. Đó là những vị đã được Tòa Thánh tuyên phong rõ ràng ngày 19.6.1988. Thế nhưng, đối với chúng ta hiểu, còn có biết bao nhiêu vị cũng đã “tử vì Đạo” tại Việt Nam mà chưa được tuyên phong. Dù vậy, các vị cũng phải được Giáo hội Việt Nam mừng kính. Thời gian bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, có khoảng 400.000 người bị lưu đầy và phát lưu. 130.000 người đã chết vì đạo.
Hỏi: Các ngài thuộc những thành phần nào?
Các ngài đã là các Kitô hữu thuộc đủ mọi thành phần, cấp bậc trong Giáo hội Công Giáo. Có 8 vị Giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân (gồm 1 chủng sinh, 16 giáo lý viên, 10 vị dòng ba Đa Minh và 1 phụ nữ)... thuộc đủ mọi tuổi tác, hoàn cảnh sống: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số nhà truyền giáo (ngoại quốc) như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý... đã đến Việt Nam truyền Đạo và chết vì Đạo. Nói chung, cũng nhờ các vị truyền giáo này mà nhiều người Việt Nam biết Đạo, theo Đạo, sống Đạo và chết vì Đạo nữa, lại được nhập đoàn Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nammà chúng ta đang kính nhớ.
Nói tóm lại, đây là những chứng nhân của Thiên Chúa, đã anh dũng hy sinh cả mạng sống tại Việt Nam để thi hành sứ vụ Thiên Chúa trao.
Nói mạnh hơn: các ngài là những tổ tiên anh dũng của chúng ta. Dĩ nhiên phải quả quyết: chính nhờ các ngài mà có chúng ta và ngày nay chúng ta luôn rất hãnh diện tuyên nhận các ngài là tổ tiên trước mặt cả thế giới.
Hôm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các ngài như hướng về tổ tiên yêu quý.Ðọc lại tiểu sử các ngài, ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các ngài. Vì trung thành với Chúa, các ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì Đức tin.
Có những vị như thánh Hồ Đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan án Phạm Trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất Đức tin. Vì Chúa, các ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê Thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Ðức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đức tin chân chính.
Hỏi: Tại sao các ngài chết vì đạo?
Thưa: Giết thì chết chứ còn sao nữa. Đây phải được coi là cơ bản của vấn đề. Kể ra, nếu nhìn bên ngoài thôi thì đã có câu trả lời rồi: chết vì Đạo mà ! Lúc đó một số các vua chúa ghét Đạo và cấm Đạo nên họ giết những người có Đạo mà không chịu bỏ Đạo. Bị họ giết thì chết, dù là người Việt hay ngoại quốc...thế nhưng, nhận xét cho đàng hoàng thì vấn đề chết vì Đạo ở đây có ý nghĩa rất phong phú. Có thể nói tóm gọn bằng 2 từ Tin Yêu. Nhưng hai từ này bao gồm ý nghĩa rất cao siêu mà Kitô Giáo gọi là “Thần Đức”: Đức Tin kéo theo Đức Cậy và Đức Mến. Ba nhân đức siêu việt hơn các nhân đức khác mà ta phải quả quyết: chỉ “người có Đạo” mới có.
Hỏi: Các ngài đã chết tử Đạo như thế nào?
Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:
- Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói.
- Bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v.
- Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu,bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống.
- Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì, tức là phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
Theo loại hình phạt 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất. 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị lăng trì - tức là phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và. 1 bị bá đao.
Là người Công Giáo Việt Nam, chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Kính lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, làm sao chúng con có thể có được cái chết cao đẹp như các ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm Đạo, bắt Đạo, giết người có Đạo như thời vua quan ngày xưa nữa, nên chúng con không còn hy vọng chết vì Đạo. Xin cho chúng con biết học đòi, bắt chước các ngài trung thành với Đức tin và sống đạo cho đến trọn đời. Amen.
30.Tử Đạo - Người làm chứng--Mt 10,17-22--Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên
Thật là lạ lùng khi mà các bài đọc trong Thánh lễ mừng các Thánh Tử Đạo hôm nay lại chỉ toàn nói đến niềm vui. Đặc biệt là lời đáp trong Thánh Vịnh hôm nay: “Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan”. Vậy đâu là lý do để Giáo Hội chọn những bài đọc này?
Nếu cứ theo cách nghĩ của người đời thì làm sao có thể ca lên lời Thánh Vịnh nói trên, khi mà trong suốt gần 300 năm (261) bị bách hại, người Công Giáo Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu gian nan thử thách: nào là gông cùm, tù tội, nào là đòn vọt, xích xiềng... Với 6 triều vua cùng 53 sắc dụ cấm đạo đã cướp đi mạng sống của trên 130 ngàn người Công Giáo. Họ đã anh dũng ngã xuống để bảo vệ niềm tin của mình.
Có lẽ, không chỉ giáo đoàn Việt Nam, mà trong suốt dọc dài của lịch sử Giáo Hội, người tín hữu Chúa Kitô dường như đều gắn liền với những cuộc bách hại. Trong thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu cũng bị bách hại dữ dội, thế nhưng các ngài vẫn không hề nao núng. Sách Công vụ Tông Đồ thuật lại rằng, mặc dù bị đánh đập, hành hạ, nhưng khi các Tông đồ ra khỏi hội đường của người Dothái thì “lòng đầy hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu Kitô”.
Cũng vậy, các thánh TĐVN – cha ông chúng ta – đã cảm thấy hãnh diện vì được chịu khổ nhục vì đạo Chúa. Không những thế, các ngài còn đón nhận những hình khổ cũng như cái chết một cách vui mừng, mà không một chút nao núng, như trường hợp của Thánh Phêrô Đoàn Công Quý: "Dù trăng trói, gông cùm tù rạc, Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề. Miễn vui lòng cam chịu một bề. Cho trọn đạo trung thần hiếu tử."; hay trường hợp của Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc: "Đông qua tiết lại thời xuân tới. Khổ tạm mai sau hưởng phúc an. Làm kẻ anh hùng chi quản khó. Nguyện xin cùng gặp chốn thanh nhàn."
***
Đã có một thời, thậm chí ngay cả ngày hôm nay, nhiều người không cùng niềm tin với chúng ta vẫn còn tỏ ra dè dặt về danh xưng “Tử Đạo”. Có lẽ vì hai chữ “Tử Đạo” dễ khiến người ta liên tưởng đến những cuộc thánh chiến hay những cuộc đánh bom tự sát chăng?
Nhưng đối với trường hợp của các thánh TĐVN thì không như vậy. Mặc dù các ngài ở những bậc sống khác nhau, xuất thân từ những môi trường không giống nhau: có vị là Giám mục, có vị là linh mục, rồi thầy giảng, trùm trưởng, giáo dân; thậm chí có vị còn nắm giữ những trọng trách trong triều đình như Thánh Micae Hồ Đình Hy. Tuy nhiên, các ngài đều có một điểm chung đó là tình mến Chúa thiết tha và lòng yêu mến quê hương nồng nàn. Cái chết của các ngài không hề mang màu sắc của sự thù hận, nhưng phát xuất từ một niềm tin, như lời Thánh Micae Hồ Đình Hy: "Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô."
Nguyên ngữ của chữ Tử Đạo (Martyr) có nghĩa là “Người làm chứng”. Ngày hôm nay, có lẽ không còn những cuộc bách hại đẫm máu, những tra tấn, gông cùm, tù tội…, hoặc ít ra là không gắt gao như thời của các Thánh Tử Đạo - cha ông chúng ta. Tuy nhiên, người tín hữu sống đạo hôm nay, vẫn phải đối mặt với muôn vàn thử thách.
Văn hóa thực dụng và lối sống hưởng thụ thời nay, một cách nào đó, đã và đang cản trở chúng ta thực thi các đòi hỏi của Tin Mừng. Giữa thế giới văn minh, tiện nghi, việc đạo được nhiều thuận lợi, biết đâu, có khi chúng ta lại dễ dàng chối bỏ niềm tin của mình? Đó là khi chúng ta sống ích kỷ, chỉ chăm lo đến ốc đảo của riêng mình; đó là khi chúng ta bỏ qua lời thề ước của hôn nhân để ngoại tình; đó là khi những người mẹ giết con bằng hành vi phá thai; đó là khi những người trẻ sống một cách buông thả; đó là khi chúng ta coi trọng những cuộc nhậu nhẹt say sưa hơn là các giờ kinh lễ; đó là khi chúng ta chia rẽ, hận thù và phá vỡ mối giây hiệp nhất trong cộng đoàn...
Làm sao để chúng ta có thể vẫn ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, là điều không hề đơn giản. Chúa muốn chúng ta là nắm men vùi trong đống bột. Men không được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất thành bột. Bởi vì nếu như thế, men sẽ trở nên vô ích. Cũng như muối mà mất đi chất mặn thì chỉ còn cách đổ ra đường để cho người ta chà đạp lên…
***
Sẽ khó có thể nói được rằng Tử đạo ở thời nào hay nơi nào khó hơn. Bởi vì, mỗi thời, mỗi nơi, đều có những khó khăn thử thách riêng. Các vị Tử đạo cha ông chúng ta, đã phải hứng chịu những bách hại, đặc biệt là những gian khổ về mặt thể lý, như đòn vọt, gông cùm, tù tội… còn chúng ta ngày hôm nay, mặc dù không chịu những thử thách tương tự, thế nhưng để giữ đạo và sống đạo cho đúng với ơn gọi làm người Kitô hữu của mình, chúng ta đã phải tử đạo mỗi ngày, mà người ta vẫn gọi là “những người tử đạo trắng”.
Người Kitô hữu sống đạo hôm nay được kể như người đang “lội ngược dòng đời”. Đang khi thế gian chạy theo tiền bạc và hưởng thụ, tìm mọi cách để vun vén cho bản thân, chúng ta lại được mời gọi sống cho tha nhân, và mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Đang khi cuộc sống hôm nay đầy dẫy những lọc lừa, gian dối, chúng ta lại được mời gọi sống ngay thẳng và làm chứng cho sự thật. Đang khi thế gian coi nhẹ phẩm giá con người, chúng ta được mời gọi tôn trọng sự sống và bảo vệ những mầm sống đó ngay từ những giây phút đầu tiên trong thai bào. Đang khi mối quan hệ gia đình, sự thủy chung trong đời sống vợ chồng ngày một trở nên lỏng lẻo, chúng ta lại được gọi mời sống trung thành với nhau cho đến chết… Và mỗi lần sống như thế, là mỗi lần chúng ta tử đạo.
Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, mỗi người chúng ta đều được mời gọi trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô qua đời sống yêu thương phục vụ. Nhờ đó, Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô sẽ được lan tỏa đến tận cùng trái đất.
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời! Chúa đã hy sinh mạng sống mình vì lòng yêu mến Chúa Cha và yêu thương loài người chúng con. Xin hãy dạy chúng con biết đáp đền tình yêu lớn lao ấy bằng chính cuộc sống chứng tá của chúng con. Xin cho chúng con giữ được vị mặn của muối, và độ nồng của men, để đem đến cho cuộc đời này một sức sống mới. Amen.
31.Lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm Nguyễn Ngọc Long
(Đn 12,1-3; Dt 10,11-14.18; Lc 9, 23 – 26)
Các con thiếu nhi thương mến!
Hôm nay cùng với Giáo hội khắp nơi trên thế giới, giáo xứ chúng ta hân hoan mừng kính trọng thể lễ Các Thánh tử đạo Việt Nam. Bổn mạng của Hội Thánh Việt Nam và cũng là lễ bổn mạng xứ đoàn Các Thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta.
Nhìn lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, từ năm 1580 và kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, nghĩa là cách chúng ta một thế kỷ và kéo dài gần ba thế kỷ. Thời gian dài 300 năm bị bách hại đã có trên 130.000 người tử vì đạo. Trong đó, có 117 vị đã được tôn phong hiển thánh mà chúng ta cùng toàn thể Giáo hội hoàn vũ mừng kính hôm nay. Đoàn các thánh vinh hiển đó gồm mọi cấp bậc trong Giáo Hội: từ các Giám mục, linh mục đến các thầy giảng, nữ tu, giáo dân… Họ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội: từ những thương gia, nông dân, thợ thuyền, lý trưởng, cai tổng, binh lính..
Các thánh đã chịu những cực hình khủng khiếp mà chính quyền thời đó đã hành hạ và tiêu diệt những người tin theo Chúa bằng nhiều cách man rợ như:
– Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng.
– Lăng trì: bị chặt chân tay trước khi bị chém đầu.
– Thiêu sinh: bị thiêu sống.
– Xử trảm: bị chém đầu.
– Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết.
– Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù.
Các con thương,
Các Thánh tử đạo Việt Nam là những chứng nhân anh dũng đã sống và làm chứng cho Tin mừng, để hạt giống Đức tin được nảy mầm và trổ sinh nhiều bông hạt. Giáo phụ Tertuliano đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống nẩy sinh các tín hữu”.
Lịch sử hai ngàn năm qua đã chứng minh sự chân thực của lời nói đó ở nhiều nơi, rõ ràng nhất là trên đất nước Việt Nam này; từ khi có số tín hữu khiêm tốn ban đầu, hiện nay đã lên tới 7 triệu người Công giáo.
Mảnh đất quê hương Mỹ Tho của chúng ta cũng tự hào vì đã được thấm gội dòng máu anh hùng của cha thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu. Cha đã anh dũng đổ máu đào để hôm nay chúng ta là con cháu cũng được đồng hành với Ngài trên hành trình về quê trời vĩnh cửu.
Các con thương mến!
Nhìn lại lịch sử cuộc bách đạo đã qua, vào năm 1860 dưới thời Tự Đức, nhà vua đã ban hành chiếu chỉ bắt bớ, giam cầm nhiều tín hữu Công giáo. Lúc bấy giờ, cha Phêrô Lựu đang coi sóc các giáo họ Ba Giồng, Mỹ Tho, Sa Đéc… Vì thương đoàn giáo dân, Ngài thường cải trang vào nhà giam thăm viếng, an ủi họ, ban cho họ lương thực Thánh thể và bình an của Chúa.
Một ngày kia, quan coi ngục phát hiện Ngài là linh mục và ra lệnh tống giam Cha. Tại nhà lao Mỹ Tho, Cha đã vui lòng chịu mọi cực hình để cùng chia sẻ với bổn đạo. Khi các quan buộc Cha xuất giáo, Ngài đã tuyên xưng niềm tin của mình bằng câu nói nổi tiếng: “Đạo đã thấm nhập vào xương vào tủy của tôi rồi, tôi làm sao bỏ được, vả lại, một người giáo dân bình thường, một thầy giảng bình thường còn không có quyền bỏ đạo, huống gì tôi đây là linh mục…”.
Ngày 07.04.1861, quân lính dẫn Cha ra khỏi thành phố Mỹ Tho khoảng chừng 1 cây số và chém đầu Cha ngay bên vệ đường, tại kinh Bảo Định ngày nay.
Là con dân đất Việt, chúng ta tự hào được mang trong mình dòng máu hào hùng của các chứng nhân niềm tin anh dũng này. Trong niềm tin của chúng ta hôm nay, có vết tích dòng máu thắm đỏ của các thánh tử đạo tưới gội và nuôi dưỡng.
Ước chi mỗi ngày sống, chúng con biết trở thành nhân chứng sống động về niềm tin ở mọi lúc mọi nơi: bằng chính những hành động tích cực, những tấm lòng nhân ái bao la và khát khao muốn phục vụ mọi người.
Các ngài là những mẫu gương sống động cho đời sống đức Tin, nhờ lời các thánh chuyển cầu, xin Chúa nâng đỡ con thuyền giáo hội Việt Nam vượt qua sóng gió, nhất là những khi gặp thử thách, gian truân.
Xin cho mọi thành phần trong xứ đoàn các Thánh tử đạo Việt Nam của giáo xứ chúng con luôn trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành, để một ngày kia trên thiên quốc, chúng con được hợp tiếng với các Ngài ca tụng tạ ơn Chúa muôn đời vinh hiển.
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, Lạy Cha Thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu! Xin cầu cho chúng con.
Thực hành:
1. Năng đọc lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam và hạnh các thánh tử đạo.
2. Cầu nguyện cho nhiều người biết giữ trọn niềm tin của mình.
Tâm niệm: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Đi tìm kho báu: Mời các con cùng suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau:
1. Giáo hội Việt Nam của chúng ta, ngoài 117 Thánh tử đạo còn có một Á thánh tên là gì?
2. Các thánh tử đạo đã để lại cho các con bài học nào?
3. Các con có nhớ tên 117 thánh tử đạo không? Hãy kể tiểu sử của một vị thánh tử đạo mà con biết?
32.Trung thành với đức tin--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19.6.1988 tại Rôma, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.Đây là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại.
Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn 100 ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong đó, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân. Đó là chưa kể con số rất đông các tín hữu bị chết mất tích trong các đợt bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn tránh vào những nơi hẻo lánh.Đó là chưa kể rất nhiều tín hữu phải chết do cuộc Phân Sáp 400 ngàn người Công Giáo dưới triều Vua Tự Đức.Đó còn là chưa kể con số hơn mười mấy vạn người Công Giáo bị chết khi có Phong trào Văn Thân nổi lên tàn sát người Công Giáo...Như thế, con số Tử Đạo phải tính lên đến 300 ngàn người trong vòng 300 năm. Nếu tính theo tỷ lệ, 100 năm thì có 100 ngàn Vị Tử Đạo. Và theo tỷ lệ này, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đồng, cứ một ngày, có hơn hai Vị Tử Đạo!
Đọc lại hạnh các Thánh Tử Đạo Việt Nam, tôi nhận thấy, các ngài can đảm phi thường, vì yêu mến Chúa Kitô nên coi nhẹ mọi cực hình đau đớn, một lòng trung thành giữ vững đức tin. Dòng máu tử đạo ấy đã trở thành những hạt giống Tin mừng, đem lại cho Giáo Hội Việt Nam những mùa gặt bội thu.
1. Trung thành với đức tin.
Đối với các Thánh Tử Đạo, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Các ngài đã trung thành giữ vững đức tin trước mọi thử thách gian lao. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Xin kể ra đây một vài chứng từ về lòng trung thành (x.Thiên Hùng Sử).
- Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 đứa con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên Đàng”. Lời sau cùng của bà là: “Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”
- Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.
- Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.
- Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giàu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng vẫn luôn bình tĩnh vui tươi. Ngài nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.
- Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt ngài bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.
- Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.
- Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.
- Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.
- Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.
2. Can đảm phi thường.
Vì đức tin, các ngài đã phải chịu đủ mọi thứ cực hình dã man. Bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng,bị chặt đầu, bị thắt cổ, bị thiêu sống, bị phân thây ra từng mảnh… Có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
- Lòng lang dạ sói của con người nghĩ ra mọi thứ hình phạt tàn ác, thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử ngài. Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt. Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích".
- Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
- Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
-Sáng ngày 5.6.1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ngài cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ngài.
- Sau ba tháng tù tại Bình Định, ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh ăn năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
3. Coi thường sự đau đớn.
Là con người, ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ai mà không tham sống sợ chết! Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng vượt những khổ hình dã man. Lòng yêu mến Chúa đã giúp các ngài vượt thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình. Vì thế các ngài xem nhẹ khổ hình, vui mừng và hãnh diện vì được chết cho đức tin.
- Trước khi bị chém, Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ hay:“Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời”.
- Năm vị: Đaminh Nhi, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, còn bốn vị đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.
- Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao:“Thằng theo tà đạo, đứa ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”.
- Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28.11.1835. Sáng hôm đó, ngài gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc mẹ mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết.”. Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ của Anrê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ bị xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù, con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con”. Khi được con cho biết là không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn: “Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.”. Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, bà nhận lấy kỷ vật đó và chưa cho là đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp con trai cho bà. Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại: “Ôi con trai yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”. Rồi bà đem về an táng trong nhà.
Các Thánh Tử Đạo coi thường đau đớn với lòng can đảm lạ lùng là vì các ngài trung thành với đức tin. Do đó, các ngài vui mừng được chết vì Chúa Kitô. Các ngài đã chết dưới ngọn đao phủ là chết cho Chúa Kitô như chính Chúa Kitô đã chết cho các ngài. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang vì đã đáng được chịu đau khổ cho Chúa Kitô. Các ngài chẳng màng chi đến việc nhân loại trao tặng huy chương, huân chương, chiến công. Các ngài chết tử đạo là chết vì Chúa Kitô, đơn thuần và tinh khiết, trong sáng và huyền diệu, can trường và khiêm nhu (x. Thiên Hùng Sử, trang 4). Chết vì Chúa Kitô là niềm hạnh phúc “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,10-12; x.Lc 6,22). Chính trong ánh sáng của Chúa Kitô, Vị Tử Đạo tiên khởi mà chúng ta có thể nói về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam bằng câu Phúc âm: “Đầy tớ không lớn hơn chủ” (Ga 15,20); “Nếu chúng đã bách hại Thầy, chúng sẽ bách hại các con...Đây Thầy sai các con như con chiên đi vào giữa sói rừng… Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con nơi toà án. Khi họ bắt bớ, các con đừng lo phải nói thế nào, vì không phải các con, nhưng Thánh Linh của Thầy sẽ nói trong các con… Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ.” (Mt 10,16-25). Các Thánh Tử Đạo không tìm đến cái chết mà chỉ trung thành với đức tin cho dù phải chịu muôn vàn gian truân đau đớn. Các ngài tìm cách nên giống đời sống của Thầy Giêsu, nhất là giống cử chỉ yêu thương tột cùng đã đưa Thầy đến cái chết.
Chân dung Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được tô điểm bằng muôn ngàn vạn nét. Nét căn bản nhất chính là Niềm Tin Phục Sinh. Tin vào Chúa Kitô đã chết và đã sống lại nên các ngài đã chấp nhận tất cả mọi cực hình, vượt thắng mọi truân chuyên. Yêu mến Chúa Kitô và bước theo Người nên các ngài luôn sống niềm tín thác, lạc quan. Trong nhà tù vẫn cầu nguyện và hát thánh ca, thánh vịnh. Ra pháp trường vẫn cầu nguyện và hát khúc khải hoàn Alleluia, luôn hướng về trời cao với niềm Hy Vọng Phục Sinh và cất cao hát mãi cho đến khi đầu rơi khỏi cổ. Cái chết chẳng có giá trị gì, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Sự sống đó chính là tình yêu với tất cả những gì cao thượng và chân thật. Tình yêu đó bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Chết là mất tất cả, nhưng 117 hiến tế tình yêu cũng là 117 chứng từ niềm tin của những con người xác tín rằng: chết vì Đức Kitô, chết đi là sống lại trong cuộc sống muôn đời; chết là chiến thắng; chết là để đi về sự sống vĩnh cửu; chết là cánh cửa im lìm được mở ra để về với Đấng là Sự Sống vĩnh hằng.
4. Kế thừa dòng máu hào hùng để tiếp nối sứ vụ loan Tin mừng.
Hạt giống Tin Mừng Đức Giêsu Kitô đã đến với quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ.Trước đó cả ngàn năm đã có ba tôn giáo lớn là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và Tín Ngưỡng dân gian ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Phong tục tập quán, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, đã được nhào luyện bởi tất cả những mầm sống cũng như giới hạn các tín ngưỡng đó.
Trên nền tảng một đời sống tâm linh phong phú mà Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và nhất là Đạo Ông Bà đã xây dựng từ hơn một ngàn năm, hạt giống Tin Mừng đã nẩy mầm và trổ sinh nhiều hoa trái. Tinh thần hiếu khách, lòng bao dung làm cho người Việt Nam sẵn sàng tiếp xúc với những người tỏ ra có thiện cảm với mình, cho dù họ từ xa đến. Với những đức tính như lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, kính trên nhường dưới trong gia đình, với một tâm hồn yêu thích tĩnh mịch và chiêm niệm, người Việt Nam là một mãnh đất tốt để đón nhận những giá trị thiêng liêng hàm chứa trong Tin Mừng.
Nhờ các nhà truyền giáo, từ các thế hệ tiền nhân, người Việt đã nhận lãnh nhiều điều tốt lành: những thường thức về vệ sinh, khoa học, những hiểu biết mới, những đồ vật quý hiếm cũng như những trợ giúp vật chất dù rất khiêm tốn, những nhân vật thánh thiêng đầy nhân ái... khiến họ, nhất là những người thuộc lớp bình dân, sẵn sàng đón nhận giáo lý mà những người tốt lành như vậy mang đến cho họ. Nhờ đó, những tập tục phi lý và phi nhân (bùa mê, sát tế) như một gánh nặng đè lên cuộc đời của họ nay được cởi bỏ. Khi đã tìm gặp một vị thần đầy yêu thương, họ liền cảm thấy được giải thoát và tin theo.
Rao giảng Tin Mừng cho họ cần gắn liền với phát triển cuộc sống, quan tâm săn sóc sức khỏe, nâng cao văn hóa giáo dục. Người Kitô hữu sống giữa lòng đời và chia sẽ đời sống của anh chị em chung quanh mình. Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng. (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. (x. Ga 15,13).
Các Thánh Tử Đạo là những chứng nhân can trường dám chết cho niềm tin, sống cho tình yêu, và loan báo chân lý Tin Mừng. Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát thiệt thòi. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin.
Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng bằng cái chết. Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay. Làm chứng chính là “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”... như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng. Sống đạo như thế, chúng ta góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã can đảm phi thường làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
33.Dùng thời gian để yêu thương--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
1. Thiên Chúa là thời gian
Thiên Chúa là Alpha và Omega, là Khởi Nguyên và là Tận Cùng. Điều ấy có thể diễn tả cách khác: Thiên Chúa là thời gian. Thiên Chúa là thời gian trong ý nghĩa Ngài là chủ thời gian. Thiên Chúa hiện hữu không phải trong thời gian mà là siêu thời gian vì “ngàn năm đối với Chúa như một ngày”.
Chỉ còn 2 tuần lễ nữa là kết thúc thời gian Năm Phụng Vụ để rồi khởi đầu một chu kỳ Năm Phụng Vụ mới. Các bài đọc của các tuần Chúa Nhật này đều nói về việc trở lại của Chúa Giêsu trong ngày quang lâm. Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái tạo.
Ngay từ ban đầu khi loài người sa ngã, Thiên Chúa đã muốn cứu chuộc loài. Ngài đã can thiệp nhiều lần vào lịch sử bằng những biến cố kỳ diệu, độc đáo được ghi trong Thánh Kinh. Thiên Chúa dùng lịch sử làm phương thế cứu chuộc, biến lịch sử loài người thành một Lịch Sử Thánh, một Lịch Sử Cứu Rỗi.
Lịch Sử Cứu Rỗi gồm ba giai đoạn chính. Cựu Ước chuẩn bị Ơn Cứu Rỗi. Tân Ước thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thời Giáo Hội nối dài và phân phát Ơn Cứu Rỗi. Sau ngày Quang Lâm của Chúa Kitô, lịch sử sẽ được hoàn tất trong vinh quang Nước Trời.
Đức Giêsu là trung tâm của Lịch Sử Cứu Rỗi. Nơi Người, Ơn Cứu Rỗi không còn là lời hứa mà đã trở thành hiện thực. Đức Giêsu còn là tận đích của Lịch Sử Cứu Rỗi, vì tất cả lịch sử quy hướng về Người. Đức Giêsu là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại. Trong Người loài người đạt tới sự sống viên mãn.
Như vậy có hai lịch sử song hành: lịch sử trần thế và Lịch Sử Cứu Rỗi.
Lịch sử trần thế là lịch sử các dân tộc, các triều đại, các nền văn minh với các định chế xã hội, các biến cố chính trị, các tiến bộ kỹ thuật. Đây là mặt nổi có thể quan sát được.
Lịch Sử Cứu Rỗi là lịch sử sinh hoạt siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần. Lịch sử này đang khai diễn âm thầm dưới chiều sâu trong các tâm hồn theo nhịp của ân sủng. Đây là mặt chìm mà chỉ có Đức Tin mới nhận ra. Như vậy Đức Tin giúp chúng ta nhận ra có một Lịch Sử Thánh xuyên qua lịch sử trần thế, bao trùm và thấm nhập lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có một ý nghĩa. Từ đỉnh cao của vĩnh cửu, Thiên Chúa đang từng bước hướng dẫn loài người đến Ơn Cứu Rỗi chung cuộc.
Khi lịch sử chấm dứt là lúc Đức Giêsu trở lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ để mọi người và mọi sự được hoàn tất trong Người.
Ngày Đức Giêsu trở lại, ngày quang lâm, tái lâm được gọi bằng nhiều tên: Ngày cuối cùng (Ga 6, 39; 11, 24; 12, 48), Ngày của Chúa (1 Cr 3, 13; 5, 5), Ngày Chúa đến (1 Cr 1, 8), Ngày của Đức Kitô (Pr 1, 10; 2, 16), Ngày viếng thăm (1 Pr 2, 12), Ngày xét xử (1 Ga 4, 17). Chính Đức Giêsu đã nhiều lần nói đến Ngày Tái Lâm này (Mt 24, 30; 25, 31; 26, 64; Mc 8, 38; 14, 62; Lc 17, 24; Ga 6, 39-40).
Không ai biết Ngày Quang Lâm bao giờ sẽ đến, kể cả Đức Giêsu về mặt nhân tính (Mt 24, 36). Ngày đó đến bất ngờ "như kẻ trộm trong đêm tối" (1 Tx 5, 1-3). Theo nhiều dụ ngôn, Chúa đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể nhân loại. (Mt 24, 37; 37, 44; Mc 13, 33-37; Lc 17, 22-37; 21, 35).
Ngày tận cùng của thời gian, Đức Giêsu tái lâm biểu dương quyền năng và vinh quang của Người. Sẽ có một cuộc phán xét chung. Rất nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng theo Thánh Mátthêu ám chỉ ngày phán xét chung này: cỏ lùng trong ruộng lúa (Mt 13, 37-43), phân loại cá sau mẻ lưới (Mt 15, 39-49), chủ đòi gia nhân tính sổ (Mt 18, 23-35), thợ làm vườn nho cuối ngày trả công (Mt 20, 1-16), mười trinh nữ đi dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13). Ngày ấy các dân thiên hạ được thâu họp lại trước mặt Người hết thảy. Tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo... đều được triệu tập trước mặt Người. Lúc ấy Người sẽ phân biệt kẻ lành kẻ dữ. Cuộc phán xét của Thiên Chúa sẽ không diễn ra theo cách thức của các tòa án trần gian: tố cáo, biện minh, đối chiếu, bằng chứng... Nhưng đây là một sự soi sáng từ bên trong. Trong ánh sáng của Thiên Chúa mỗi người sẽ thấy rõ những giá trị các hành vi của mình, cách mình đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân.
2. Thiên Chúa là Tình Yêu
Thiên Chúa là Alpha và Omega. Thánh Gioan còn định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4, 16). Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình yêu. Như thế thời gian và tình yêu song hành là một.
Tôi sống trong Thiên Chúa là sống để yêu và sống trong thời gian là yêu để sống. Thời gian không có tình yêu sẽ trở thành lạnh lùng buồn tẻ. Tình yêu ý nghĩa hóa và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó những người đang yêu là những người đang sống trong thời gian với đầy ắp niếm vui hạnh phúc. Những người biết yêu là biết nhìn thời gian như vàng ngọc. Ai sống trong Thiên Chúa là người phải biết yêu quí thời gian Chúa ban.
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay mời mời chúng ta suy niệm về giá trị của thời gian và lao động.
Sách Châm Ngôn mô tả người đàn bà lý tưởng. Bà ăn ở được lòng chồng con, xây dựng gia đình bằng đôi tay cần mẫn, tháo vát và chăm chỉ.
Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Thêxalônica đã đề cập đến giá trị của thời giờ. Trong giáo đoàn có người lo sợ là ngày tận thế sắp đến, họ sợ hãi đến độ không muốn làm gì cả. Thánh nhân đã cảnh tỉnh: Hãy làm việc, đừng ngũ mê. Hãy biết trân trọng thời gian Chúa ban.
Với bài phúc âm, Chúa Giêsu nói đến giá trị của thời giờ, công việc và tài năng. Thiên Chúa khi ban sự sống thì đồng thời cũng ban phương tiện sinh sống như thời giờ, tài năng, như "nén bạc Chúa trao".
Thiên Chúa ban tài năng thì chúng ta có trách nhiệm phải biết dùng tài năng ấy để sinh lợi cho mình và cho người khác. Kẻ lười biếng sẽ được gọi là tôi tớ bất hảo; còn người tôi tớ chăm chỉ làm việc, sinh lợi các nén bạc thì được gọi là lương hảo. Tiêu chuẩn căn bản mà Chúa xét xử đó là tình yêu. Dấu chỉ chúng ta yêu mến Chúa đó là tình yêu chúng ta thực thi đối với anh chị em mình.
3. Dùng thời gian để yêu thương
Thiên Chúa là thời gian và là tình yêu. Chúng ta quý trọng thời gian, dùng thời gian để làm việc trong tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Ai yêu thương là kẻ được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa.
Thời gian quý giá như vàng ngọc. Bởi vậy:
Dùng thời gian để suy nghĩ, đó là nguồn sức mạnh.
Dùng thời gian để đọc, đó là nền tảng sự khôn ngoan.
Dùng thời gian để tìm hiểu, đó là cơ hội để giúp người khác.
Dùng thời gian để cười, đó là âm nhạc của tâm hồn.
Dùng thời gian để ước mơ, đó là kiến tạo những gì thuộc về tương lai
Dùng thời gian để thinh lặng, đó là cơ hội để gặp Chúa.
Dùng thời gian để yêu và được yêu, đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa.
Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là sức mạnh vĩ đại nhất trên trái đất này.
Giá trị đời người không được tính bằng thời gian ngắn hay dài, nhưng ở chỗ mình đã sử dụng nén bạc thời gian, sức khỏe, trí tuệ Chúa ban để phục vụ cuộc sống ra sao. Giá trị ở chỗ mình đã sử dụng thời gian như thế nào, có sinh nhiều ích lợi cho mình, cho tha nhân và cho thế giới hay không.Thời gian qua đi thật mau và chẳng chờ đợi ai. Sống có ý nghĩa là làm cho thời gian hiện tại trở thành yêu thương.
Nguyện xin Thiên Chúa là Chúa của Thời Gian, là Vua của Tình Yêu giúp chúng con biết dùng thời gian để dấn thân phục vụ trong tình yêu. Amen.
34.Hạt lúa gieo vào lòng đất – Ga. 12, 24-26--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo mạn: “Thật đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại phải ngụp lặn trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì … Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ. Thật bất hạnh thay cho các anh!…”
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan. Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa sum suê. Rồi không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng. Khách qua đường tấm tắc ngợi khen.
Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý báu. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu ưu ái dạy chúng ta bài học đó: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một chân lý tuyệt vời.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta biết một bài học hay rồi để đó. Ngài muốn bài học ấy được đem ra áp dụng để đời sống chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Ngài dạy tiếp: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”
Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn chúng ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Ngài muốn chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp trong bùn, để nhờ đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Ngài để cho người ta nghiền tán, vùi lấp Ngài, huỷ diệt Ngài. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu, tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất… nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Ngài đạt tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái chết, Ngài tiến vào cõi sống; qua thập giá Ngài đi đến vinh quang và hiển trị đời đời!
Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Đức Kitô… Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị diệt vong… nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin ngày càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho lý tưởng tông đồ. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như “Hạt-Lúa-Giêsu”, như “hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo”, bằng lòng chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng... Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa Giêsu như lời Ngài phán: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy”… để rồi “Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.”
35.Can đảm nói không với tội lỗi--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm Ignatiô Trần Ngà
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
36.Can đảm nói không với tội lỗi--Lm. Trần Ngà
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
37.Chịu khổ nạn với Chúa Giêsu - Lc 9, 23-26--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa Giê-su là Thiên Chúa Ngôi Hai đầy quyền năng phép tắc đã xuống thế làm người và thiết lập Hội thánh để mang lại ơn cứu độ cho muôn dân.
Lẽ ra, để có thể lôi kéo được nhiều người gia nhập Hội thánh của mình, Chúa Giê-su hứa ban cho người ta nhiều phúc lộc. Ngài có thể kêu gọi: Ai theo tôi sẽ được quyền cao chức trọng; ai theo tôi sẽ được giàu sang phú quý, ai theo tôi sẽ được an vui hạnh phúc suốt đời…
Với quyền lực vô cùng lớn lao, Ngài có thể ban cho những kẻ theo Ngài bất cứ điều gì họ muốn. Thế là muôn dân muôn nước tìm đến thờ lạy Ngài, chúc tụng Ngài và Hội thánh sẽ lan rộng khắp nơi trong một thời gian ngắn…
Thế mà, thay vì hứa ban cho những ai theo Ngài nhiều lợi lộc trần gian, Chúa Giê-su kêu gọi “Ai muốn theo tôi thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Lc 9, 23).
“Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14,27).
Thế rồi đúng như lời Chúa nói, các tín hữu Chúa đã bị bách hại suốt hai ngàn năm qua, cũng như đang bị bách hại hôm nay tại nhiều nơi trên thế giới và sẽ còn bị bách hại mãi cho tới ngày tận thế. Máu của các ngài vẫn tiếp tục đổ, khổ hình đủ loại đang giáng xuống trên các ngài. Thống khổ biết bao!
Và ngay cả chính Chúa Giê-su, là đầu của Hội thánh, hôm nay cũng đang bị sỉ nhục khắp nơi. Người ta dùng phim ảnh, sách báo và những lời thô bỉ để sỉ nhục, phỉ báng Ngài. Các thánh giá trên các giáo đường thờ kính Ngài đang bị giật đổ xuống, tượng ảnh của Ngài ở nhiều nơi cũng đang bị chặt đầu, chặt tay… Thế mà Ngài vẫn im lìm gánh chịu!
Tại sao Chúa cứ tiếp tục chịu khổ nạn như thế? Tại sao các tín hữu là những chi thể của Ngài phải chịu bách hại đau thương như thế? Tại sao các thánh tử đạo tại Việt Nam là phần thân thể Ngài phải chịu vô vàn đau thương như thế?
Thưa là để đền tội cho loài người. Loài người phạm tội thì theo luật họ phải bị khổ hình và phải trầm luân đời đời trong hỏa ngục. Luật Chúa đã quy định như thế, không thể xóa bỏ được.
Nhưng nếu để cho người tội lỗi phải chịu khổ hình và phải đau khổ đời đời trong hỏa ngục, thì Thiên Chúa đau lòng không chịu nổi; vì thế Chúa Giê-su và những chi thể của Ngài chấp nhận chịu khổ nạn thay, chịu chết thay, để nhờ Ngài chịu khổ nạn mà muôn người được ơn tha thứ; nhờ Ngài chịu chết mà muôn người được thoát khỏi cảnh trầm luân đời đời trong hỏa ngục.
Hôm xưa, cách đây 2.000 năm, Chúa Giê-su trực tiếp chịu khổ nạn cùng với Mẹ Maria và một ít môn đệ và nay, Chúa Giê-su tiếp tục chịu khổ nạn cùng với chúng ta, với các thánh tử đạo… là những chi thể trong thân mình Ngài, để tiếp tục đền tội cho muôn người tội lỗi.
Như thế, cái giá mà Chúa Giê-su và các thánh tử đạo phải trả để đền thay tội lỗi loài người, để cứu họ khỏi sa hỏa ngục, lớn lao không thể nào tả xiết!
Lạy Chúa Giêsu,
Hôm nay, Chúa không mời gọi chúng con chịu tù đày, xiềng xích, giam cầm, tù ngục… hay phải ra pháp trường đổ máu đào để góp phần với Chúa đền tội cho muôn người tội lỗi, thì xin cho chúng con vui lòng chịu đựng gian lao, đau khổ, cực nhọc hằng ngày để hiệp thông vào cuộc khổ nạn của Chúa hầu mang lại ơn tha thứ cho các linh hồn. Amen.
38."Thà chết vinh còn hơn sống nhục"--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Từ ngày tổ tông loài người thoả hiệp với ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy thường dùng chiêu thức này để kiếm thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong vườn địa đàng nó đã nói cùng Adam - Eva: "cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa". Ông bà đã ăn. Ông bà đã bắt tay cùng sa tan để chống lại Thiên Chúa. Con cháu Adam từ đời này đến đời nọ vẫn còn vô số người vì sự an nhàn bản thân, vì mong tìm kiếm lợi lộc, tìm hư danh trần thế, họ vẫn bằng lòng quay lưng lại với Thiên Chúa để làm tôi cho ma qủy, để tận hưởng khoái lạc mau qua trần gian.
Và cũng từ ngày Con Thiên Chúa từ chối thoả hiệp với sa tan, các môn đệ của Chúa trải qua bao thời đại vẫn còn đó những tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ chối thoả hiệp với sa tan. Họ thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần gian, nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không thể vì ham sống sợ chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội sống đời đời để đổi lấy cuộc sống lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử hình để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy". Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: "Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin Đức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng".
Đọc lại tiểu sử các thánh tử đạo Việt nam chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Tại Hà Tĩnh, các quan cho gọi những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ hình chữ thập xuống đất rồi bảo họ: "Chúng tôi chẳng muốn bắt ép quí vị điều gì trái nghịch với đạo. Chúng tôi biết đây không phải là thánh giá mà quí vị tôn thờ. Vậy hãy bước qua để chúng tôi có thể trình lại với vua là chúng tôi đã thi hành lệnh, nếu không chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua". Riêng tại Nghệ An, ông quan tỉnh đã nói với người công giáo: "Các ông thật dại dột để mình phải khổ sở. Làm sao chống lại được với lệnh vua? Đạo ở trong lòng chứ đâu có ở bên ngoài. Tạm chối đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại. Hãy xem thánh Phêrô đã chối đạo ba lần mà vẫn còn được cất nhắc lên cao".
Song le, có nhiều phản ứng khác nhau.Có kẻ giả vờ bước qua để sống an nhàn. Có kẻ đã thản nhiên bước qua vì gia đình và dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó nhiều người không chịu bước qua dù chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm thời bỏ đạo rồi khi sóng gió đi qua lại quay lại với Thiên Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi khốn khó để nói lên lòng trung thành với đức tin vào Chúa.
Riêng cha Anrê Dũng lạc, dù rằng quan quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc Ngài nhưng ngài vẫn cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên nhủ cha rằng: "Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại". Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì xin anh em đừng chuộc tôi nữa".
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin, nhưng liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả hiệp trần gian để trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vẫn còn đó những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã chẳng giữ đạo hay theo đạo một cách hời hợt. Có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng mắt mặt với bà con xóm làng còn hơn là mất túi ba gang mà "quạ đen ban tặng". Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ giáo hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.
39.Sống chứng nhân--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
"Tin đạo chứ không tin người có đạo". Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng "đạo tại tâm" nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Ky-tô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Ky-tô. Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: "Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông". Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: "Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng".
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án "tin đạo chứ không tin người có đạo", vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.
40.Tử đạo hôm nay--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người đều có quyền được đối xử bình đẳng như nhau. Không phân biệt chủng tộc, không được kỳ thị tôn giáo dưới bất cứ hình thức nào. Nếu thể chế chính trị hay tổ chức nào cố tình kỳ thị tôn giáo hay chủng tộc đều là nhà độc tài đáng sợ của nhân loại. Nhất là tôn giáo cần phải được tôn trọng. Đây là đời sống tâm linh hoàn toàn là sự tự nguyện chứ không phải ép buộc hay đe dọa dưới bất kỳ phương tiện nào. Thế nhưng, dầu đang sống ở thế kỷ 21 vẫn còn đó sự bách hại và cưỡng bức từ nhóm ISIS Hồi giáo quá khích. Họ đã và đang ép buộc, cưỡng bức, giết hại những người Công Giáo, cũng như các tôn giáo khác tại Iraq. Họ buộc các tín hữu ky-tô giáo phải bỏ đạo mà quy phục đạo Hồi nếu không phải rời quê hương ra đi hoặc phải chết dã man...
Trong mấy tháng qua những hình ảnh đau xót vô cùng của sự "ác độc dã man" đã cho chúng ta thấy rằng: Một cháu bé gái Công Giáo mới 2 tuổi mà chúng cũng không tha. Chúng lôi em ra chặt đầu trước mặt mẹ và những người thân của cháu, gần bên cạnh một thánh đường và bắt mọi người Kitô giáo phải đổi sang Hồi giáo, nếu không số phận cũng sẽ là như em bé gái này tất cả!.
Phiến quân ISIS Hồi giáo còn công bố một clip đã đập nát tượng Đức Mẹ trong một Thánh đường bị phá hủy tan hoang. Tượng chúa Giêsu thì bị chúng chặt đầu nằm trên nền nhà thờ.
Ước tính cho rằng, có khoảng 200.000 Kitô hữu sống trong khu vực Ninive. Những người Kitô Giáo đã bị sát hại chưa thể kiểm chứng chính xác được. Người ta chỉ có thể phỏng đoán căn cứ theo sự mất tích là 10.000 - 50.000 (từ mười ngàn đến năm mươi ngàn người)
Nhân quyền ở đâu? Sự liên đới của Liên Hiệp Quốc ở đâu? Tại sao lại để sự dữ tung hoành ngay trong thời đại tưởng chừng như nhờ văn minh con người đang xích lại gần nhau hơn? Hiểu hết, thấy hết những khốn khổ của người Công giáo ở Irak, ở Syria,... sao không thấy các nước can thiệp mạnh mẽ hơn để đẩy lùi sự dữ cho anh em của mình.
Ngượi dòng lịch sử Việt Nam, cha ông của chúng ta cũng từng là nạn nhân của sự kỳ thị tôn giáo và chủng tộc. Chỉ vì là người Công Giáo mà bị kết tội chết, có khi nhẹ hơn là khắc lên trên trán hai chữ “tà đạo”...
Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, người Công Giáo bị coi là Tà đạo còn lại là “Lương dân”. Thật đắng lòng khi gọi người khác tôn giáo là lương dân còn mình thì bị tước khỏi danh hiệu ấy! Quyền được tôn trọng bị khước từ. Quyền tự do bị chối từ. Các tín hữu Việt Nam cũng từng trải qua những ngày tháng khắc nghiệt để giữ vững lòng tin. Một là bước qua Thập Giá để về nhà, hai là chịu án phạt của cái chết vô cùng dã man với các hình phạt: Bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, bị chặt đầu, bị thắt cổ, bị thiêu sống, bị phân thây ra từng mảnh… Có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
Thật hạnh phúc cho Giáo hội Việt Nam vì trong số 300 ngàn vị tử đạo đã có đến 117 vị đã được Giáo hội tôn phong Hiển Thánh. Một con số cho thấy đời sống đức tin tuyệt vời của cha ông chúng ta. Các ngài đã nên thánh trong chính đời sống thường ngày của mình. Các ngài giữ đạo mến thương để mọi người ngoại đạo đều yêu mến kính trọng đời sống đức tin của các ngài. Và cái chết tử đạo chỉ là một đỉnh cao cho đời sống trung thành với đức tin của mình mà thôi! Tử đạo là nét son trổi vượt cho một đời sống son sắt trung kiên với Tin mừng. Tử đạo chỉ có giá trị từ đời sống hằng ngày biết mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình.
Hôm nay mừng các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta tạ ơn Chúa đã cho quê hương chúng ta có nhiều mẫu gương tuyệt vời về đời sống đức tin, về lòng mến Chúa yêu người. Chúng ta tạ ơn Chúa vì nhờ những gương sáng tuyệt vời ấy đã giúp Giáo Hội Việt Nam vượt qua những phong ba để trưởng thành và thăng tiến. Tạ ơn Chúa, tạ ơn các tiền nhân cũng là dịp để nhắc nhở chúng ta phải duy trì tinh thần sống đạo mến Chúa yêu người như cha ông chúng ta. Mừng kính các ngài không chỉ để ca tụng các ngài, mà quan yếu là dịp học hỏi gương sống đạo của cha ông để sống cho thời đại hôm nay. Một thời đại rất khoa học nên việc bách hại cũng rất tinh vi. Một thời đại rất văn minh nhưng lại quá nhiều lo sợ, bất an bởi an ninh, bởi nhiều cám dỗ, bởi đời sống thác loạn của môi trường.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam giúp cho chúng con là con cháu được trung kiên giữ vững đức tin. Dẫu xã hội có nhiều cám dỗ, cạm bẫy, xin cho chúng con đừng vì danh lợi thú mà xa rời Chúa, xa rời Giáo hội. Xin Chúa giúp chúng con can trường giữ đạo trong mọi thử thách như cha ông chúng con xưa. Amen.
41."Đây Bài Ca Ngàn Trùng"--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Mt 10, 17-22)
Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Một bầu khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng: "Đây bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng. Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu".
Vâng, cuộc đời các thánh tử đạo là một bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi bình an, khi gian nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài ca ngợi Chúa trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì tin mừng. Các ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của lời ca ngợi là bài ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến thắng gian nan, cùm gông, tù đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả tính mạng để tôn vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các ngài vẫn trung kiên tin thờ Thiên Chúa.
Cuộc đời các ngài là một bài ca, thế nên các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì chưng các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để trang tin mừng yêu thương của Chúa trong cuộc sống của mình.
Các ngài dám nói lời tha thứ ngay trong những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.
Các ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng nở rộ ngay trong đau đớn của cực hình.
Các ngài dám đi ngược lại với thế gian, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người. Như bà thánh Đê là mẹ của sáu người con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng đều nói rằng: "Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối sớm kinh nguyện...".
Đẹp trong cả những gian nan khi bị người đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng cho lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết các ngài vẫn cảm phục yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ".
Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói lời yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: "Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình ". Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông từng nói với gia đình: "Bà và các con không đồng ý cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ ". Vì ông nói: "Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng".
Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử đạo là dám chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn những đòi hỏi của luật yêu thương.
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, xin cho chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca ngợi Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người. Ca ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.
42.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Nguyễn Văn Thuyết
Sự hiện diện của chúng ta trước bàn thờ các thánh tử đạo tại Việt Nam hôm nay nói lên lòng hiếu kính của con cháu đối với tổ tiên, nén hương trầm chúng ta dâng lên biểu lộ lòng hiếu thảo đối với các bậc tiền nhân. Và đây cũng là lúc thuận tiện để chúng ta suy ngắm hình ảnh, đời sống và đức hy sinh của các ngài cho niềm tin.
Trước hết chúng ta thành khẩn cúi đầu tạ ơn Thiên Chúa Cửu Trùng đã ghé mắt đến dân tộc Việt bé nhỏ mà ban cho được ơn đón nhận hạt giống Đức tin.
Chúng ta không quên tri ân các vị thừa sai, mà trong số đó có những vị đã được phong thánh. Họ là ai? Về thân nhân gốc gác? Là những người phương tây, chẳng phải dốt nát hay hám lợi, hay thất nghiệp thất tình để chọn đời truyền giáo mà cái chết đã được tuyên trước và bản án treo lơ lửng trên đầu họ. Một ông tây mắt xanh mũi lõ, ngôn ngữ bất đồng, thủy thổ không hợp, nơi lưu ngụ là một chiếc thuyền gỗ lênh đênh.
Đặc biệt chúng ta nhớ đến các vị tử đao tại Việt Nam. Tại quê hương, cơn bách hại đến sớm, nghĩ tưởng hạt giống đức tin bị chết ngạt dưới những áp bức và giết chóc; nhưng không, những con người Việt tuy bé nhỏ về thân xác, niềm tin còn mới mẻ nhưng đã kịp cắm sâu đức tin đời mình dưới chân thập giá, trái tim đã kịp nóng để đối diện cơn hồng thủy của sự khước từ và loại bỏ. Như vậy, từ các ngài, quê hương chúng ta có thể ví được như một mảnh đất màu mỡ chỉ đợi hạt giống đức tin chạm đến thì vươn vai lớn lên. Minh chứng lòng tin bằng máu tử đạo của các ngài chính là hoa quả sau hơn hai thế kỷ kể từ việc khởi đầu của giáo sĩ I-ni-khu năm 1533.
Thành phần tử đạo ngoài giám mục, linh mục là những người chuyên lo về tôn giáo, còn có các giáo dân như quan trường (T.Hy), quan án (T. Khảm), chính tổng, lý trưởng.
Những cám dỗ sống bình yên đã không thay thế được chọn lựa chịu bắt bớ, gông cùm vì đức tin của các ngài như thánh tử đạo Gioan Đạt, Annê Lê thị Thành…
Những cám dỗ sống trong ân huệ này khác đã không thể thay thế được chọn lựa chịu sống thiếu thốn khi bị giam cầm vì đức tin như thánh tử đạo Garelin Kính khi gửi thư về nhà người viết: những thiếu thốn, những cực nhọc đủ thứ đến với chúng tôi, nhưng tôi dám khẳng định rằng: tôi được hạnh phúc trong túp lều tranh của tôi hơn vua nước Pháp trong hoàng cung của ngài; hay như thánh chủng sinh Tôma Trần văn Thiện được hứa tặng cho cả cô gái con quan huyện….
Những cám dỗ sống tự do không thể thay thế được chọn lựa chịu giam trong ngục thất vì đức tin như thánh Cuenot Thể viết: dù chỉ còn một giáo sĩ chẳng làm được gì ngoài việc đọc kinh thần vụ, thì nguyên sự hiện diện của vị đó cũng đủ nâng đỡ niềm tin và sinh hoạt cho các tín hữu rồi…
Và cám dỗ sự sống đời này không thể thay thế được chọn lựa chết vì niềm tin như thánh Hồ Đình Hy: Tôi cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Ky Tô; hay như thầy giảng Nguyễn Cầm, khi được nói nhắm mắt bước đại qua Thập giá thầy đáp: “thưa quan, mắt thì nhắm được chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm”.
Vậy đó, mỗi cuộc đời tử đạo là một cuộc tự hiến. Cuộc đời các chứng nhân đức tin chịu đốt cháy trong lao khổ, trong nhục hình, và cả cái chết đều như một hiến tế dâng lên Thiên Chúa, sẽ trở nên hạt giống trổ sinh các Kytô hữu cho ngàn muôn thế hệ. Hơn nữa, việc chọn chết đi cho đức tin của các vị tử đạo không phải là khơi lên máu nóng tìm đến cái chết vì cái chết nguyên nó chẳng có giá trị gì hết, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Vì thế khi chọn lựa mãnh liệt và dứt khoát trong mầu nhiệm tự hủy và hiến tế chính là các ngài chọn lựa sự sống muôn đời bất diệt.
Hạt giống đức tin mà ngày nào các vị tử đạo chịu chôn vùi trong lòng đất quê hương, thì ngày nay chính chúng ta cũng đang được mời gọi chăm bón và vun tưới trong một cơn bão miên trường, ngày một khốc liệt. Có khác chăng là được khoác bằng những chiếc áo hình thức khác nhau mà thôi.
Ngày hôm nay, không gì có thể ngăn trở chúng ta hiến tế. Các thánh tử đạo tại Việt Nam được hồng phúc hiến tế sự sống một lần làm hy lễ. Còn chúng ta cứ phải hiến tế đời mình mỗi ngày và mọi ngày khi chúng ta sống đời nhân chứng đức tin. Khi mà chúng ta thiêu hủy đời mình như ngọn nến; đốt hết những nhát đảm, những yếu đuối, những toan tính thiệt hơn và những khô cằn nội tâm. Can đảm làm chứng cho chân lý và Tin Mừng.
Chúng ta nguyện xin các thánh tử đạo tại Việt Nam nguyện cầu cùng Chúa cho quê hương và con người Việt Nam để dòng máu các ngài đã đổ xuống, đã tưới gội, đã kiến tạo và đã đặt nền móng cho tòa nhà Giáo Hội tại quê hương tiếp tục lớn lên, trổ sinh ngàn vạn hoa trái mới để ánh sang đức tin sẽ là bình minh, một bình minh chiếu rọi rạng ngời trên đất Việt cho đến thời viên mãn, ngày chúng ta đoàn tụ với cha anh chúng ta trên cõi bất diệt.
43.Phải tôn kính Các Thánh Tử Đạo thế nào?--Lm Ignatio Nguyễn Ngọc Rao
Hôm nay chúng ta hân hoan mừng đại lễ Các Thánh tử đạo Việt Nam. Giáo Hội chúng ta hãnh diện vì có các thánh, nhưng lễ này cũng là một dịp để chúng ta tự hỏi: chúng ta đã tôn sùng các thánh đúng mức chưa?
1. Chúng ta hãnh diện vì có các thánh
Người Việt Nam hãnh diện về các anh hùng dân tộc. Giáo Hội Việt Nam chúng ta cũng có đủ lý do để hãnh diện với Giáo Hội toàn cầu, vì tuy đức tin mới có mặt trên đất nước này được 500 năm (so với 2000 năm lịch sử Giáo Hội thì không có là bao), nhưng chúng ta đã đóng góp cho Giáo Hội được 117 vị thánh, một con số khá cao sánh với các giáo Hội kỳ cựu hơn. Nhưng chúng ta không phải chỉ có 117 vị đã được phong thánh, mà còn có hàng ngàn, hàng vạn tín hữu Việt Nam khác đã anh dũng hy sinh mạng sống vì đức tin, người thì bị chém đầu, bị phân thây, bị thắt cổ, bị voi giày, người thì bị thiêu sống, bị chết trong tù hay trong nơi đày ải chỗ rừng thiêng nước độc. Hiện nay chúng ta chỉ còn biết tên tuổi của chừng mấy ngàn vị có hồ sơ phong thánh tại Rôma. Nhưng tổng số là bao nhiêu, không ai biết. Có người đã ước lượng con số khoảng 100.000 người tín hữu Việt Nam đã chết vì đức tin.
Dù sao chúng ta có thể hãnh diện vì là con cháu các vị tử đạo, vì dòng máu anh hùng của các ngài vẫn chảy trong mạch máu chúng ta. Chúng ta vui mừng vì các ngài đã chấp nhận nên như hạt lúa phải mục nát đi, để trổ sinh mùa màng tươi tốt mà chúng ta đang đuợc hưởng. Vâng, chính nhờ công đức các ngài mà chúng ta có ngày nay.
2. Chúng ta đã tôn sùng các thánh đúng mức chưa?
Hãnh diện về các vị tử đạo, nhưng chúng ta phải tự hỏi: chúng ta đã tôn sùng các vị cho đúng mức chưa? Hay chúng ta chỉ phấn khởi về việc phong thánh, rồi để đấy? Chúng ta chỉ mừng lễ Các Thánh Tử đạo một năm một lần, rồi chẳng nói gì đến nữa?
Muốn tôn sùng Các Thánh Tử Dạo Viêt Nam cho xứng đáng, chúng ta phải:
* học hỏi về các ngài;
* năng cầu nguyện với các ngài;
* nhất là noi gương các ngài.
a) Học hỏi về các ngài:
Các cụ ta xưa có câu: “Vô tri bất mộ”, không biết thì không mộ mến, muốn mộ mến thì phải biết đã. Ngày nay có lẽ chỉ có giáo dân ở những nơi là quê hương các thánh hoặc còn giữ hài cốt các ngài mới còn biết tên tuổi các thánh. Còn thì đại đa số những người khác hỏi rằng có thể kể ra tên được mấy vị? Mà có lẽ hầu hết chúng ta cũng không biết được đích xác những thánh tử đạo nào đã sinh ra, đã sống, đã làm việc hay đã chết trong giáo phận nhà. Thật là điều đáng tiếc!
Vì thế chúng ta cần phải học hỏi thêm về đời sống và cái chết anh dũng của các thánh tử đạo, nhất là của những vị gần với chúng ta hơn. Rồi chúng còn phải dạy cho con cháu biết nữa. Như vậy chúng ta sẽ mộ mến các ngài hơn, đồng thời sẽ lấy làm hạnh phúc vì được sống trên quê hương các thánh.
b) Cầu nguyện với các ngài:
Giáo Hội dạy rằng: các thánh ở trên trời hằng cầu thay nguyện giúp chúng ta trước toà Chúa. Chúng ta hay cầu xin thánh Antôn, thánh Vincentê, thánh Martinô v.v…. nhưng chúng ta có nhớ cầu xin các thánh tử đạo của chúng ta không? Các ngài đẹp lòng Chúa, ở gần Chúa hơn, nên có thể nói là có thần thế trước mặt Chúa. Các ngài lại là đồng bào, đồng hương, thậm chí là bậc cha ông chúng ta, lẽ nào các ngài bỏ rơi chúng ta? chắc chắn các ngài sẵn sàng cầu cùng Chúa cho chúng ta.
Vì thế chúng ta nên nhớ đến Các thánh Tử Đạo Việt Nam và cầu nguyện với các ngài mỗi ngày. Nhất là khi gặp gian nan thử thách, chúng ta hảy chạy đến với các ngài, thì Chúa sẽ vì các ngài mà ban cho chúng ta được can đảm thắng vượt thử thách, được bền lòng giữ đức tin và sốn đức tin cho đến cùng.
c) Noi gương các thánh:
Sau cùng, lòng sùng kính các vị tử đạo phải thúc đẩy chúng ta noi gương các ngài. Các vị tử đạo ngày xưa, có một số là giám mục. Linh mục. Tu sĩ, thầy giảng, còn phần lớn là giáo dân bình thường, cũng có gia đình như ai khác. Các vị là thầy đồ, thầy lang, làm quan, làm lính, làm thợ, làm nội trợ, làm nghề buôn bán. Nghề nông v.v…
Mức hiểu biết về đạo chắc cũng không được sâu lắm, vì thời đó các linh mục phải trốn tránh, ít khi gặp, còn sách đạo cũng thiếu thốn, lại viết bằng chữ hán chữ nôm, ít người đọc được. Nhưng các vị có lòng thành, hiểu được bao nhiêu thì cố gằng thực hành hết điều mình hiểu. Cậy vào ơn Chúa giúp, các ngài đã chấp nhận môi thiệt thòi để trung thành với Chúa. Các ngài đã đặt Chúa lên trên tất cả, trên của cải, gia đình, danh giá, hạnh phúc trần gian, trên cả tự do và chính mạng sống nữa.
Đó là gương sáng các ngài để lại cho chúng ta. Chúng ta có noi theo thì mới xứng đáng là con cháu các ngài. Hay là chúng ta còn ngại vất vả, hy sinh vì Chúa, còn để cho cái gì khác (như của cải, danh giá, thú vui) lôi cuốn, mà sẵn sàng bỏ Chúa?
Hôm nay, khi mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban ơn cho các ngài được can đảm đến cùng, chúng ta hãnh diện vì là con cháu các ngài, và ý thức rằng, muốn sùng kính các ngài cho xứng đáng và thiết thực, chúng ta còn phải tìm hiểu thêm về các ngài để dạy cho con cháu biết, phải năng cầu nguyện với các ngài và nhất là phải ra sức noi gương các ngài mà chu toàn các bổn phận và trung thành với Chúa trọn đời.
Giờ đây chúng ta tiếp tục cử hành thánh lễ. Cùng với Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta cũng dâng lên Chúa Cha máu các thánh tử đạo đã đổ ra, hoà với những mồ hôi, nước mắt của chúng ta, và xin Chúa Cha chấp nhận tất cả làm của lễ đẹp lòng Người.
44.Một lần thay cho tất cả --‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Đức Giám mục đang kiểm tra một nhóm dự tòng để quyết định xem họ có đủ điều kiện lãnh phép Rửa tội không. Ngài hỏi họ:
- Bằng dấu hiệu nào người ta nhận ra anh chị em là người Công giáo?
Không có ai trả lời. Rõ ràng câu hỏi này làm mọi người bất ngờ. Đức Giám mục nhắc lại câu hỏi. Vẫn lặng thinh. Ngài lập lại câu hỏi một lần nữa, và ngài vẽ một hình Thánh giá để gợi ý cho những người dự tòng biết cách trả lời.
Thình lình, một người trong họ lên tiếng:
- Thưa Đức cha, dấu hiệu đó là tình yêu!
Đức Giám mục giật bắn mình. Suýt chút nữa ngài đã nói “sai”. Rất may là ngài đã kịp nén lại, không bật ra thành lời.
***
Chính bằng dấu hiệu của tình yêu mà người ta nhận ra chúng ta là người Công giáo. Chính vì Tình yêu mà các Thánh Tử Đạo Việt Nam dám hy sinh máu đào để minh chứng cho lòng trung kiên với Thiên Chúa. Các ngài đã lấy cái chết để bày tỏ một tình yêu sắt son với Thầy Giêsu. Đúng như lời người đã nói: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Nếu Con Thiên Chúa đã vui lòng chịu đòn vọt đau đớn và chết một cách nhục nhã trên thập giá vì yêu nhân loại tội lỗi, thì các thánh Tử Đạo Việt Nam cũng can đảm chịu mọi nhục hình, tra tấn dã man cho đến chết, để đền đáp lại Tình yêu bao la hải hà mà Thầy Giêsu đã tự hiến cho các ngài. Ai cũng muốn sống: sống đẹp, sống lâu, sống sung mãn, không ai muốn chết bao giờ. Nhưng một khi tình yêu dành cho Thiên Chúa đã dâng cao đến tuyệt đỉnh, thì các ngài coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Các ngài sẵn sàng hiến dâng mạng sống để mình chứng cho một Tình yêu cao cả, một “tình yêu mạnh hơn sự chết”.
Để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên thập giá, các Thánh Tử Đạo Việt Nam vô cùng tôn kính thánh giá Chúa. Không một khổ hình nào, không một cám dỗ nào, cho dù là cái chết cũng không thể di chuyển đôi chân các ngài tự ý bước qua thánh giá. Đứng trước thánh giá là một thách thức nặng nề, một áp lực kinh hoàng đè nặng trên tâm trí các ngài. Hoặc là bước qua để được sống với gia đình, an nhàn sung sướng, có khi còn được cho thêm bổng lộc. Hoặc là không bước qua để rồi phải chịu dí sắt nung đỏ lên mặt hai chữ “tả đạo”, phải chịu tù đày, đòn vọt, nhục hình, tùng xửo cho đến chết, chết một cách đau đớn, quằn quại, cho đến khi kiệt lực, rã rời, ngất lịm đi.
Quả thật, đứng trước thánh giá, sự chọn lựa không phải dễ dàng. Nếu không có một niềm tin sắt đá, một tình yêu sắt son, một lòng đạo sâu xa, một đời nội tâm sâu sắc, thì không ai có thể vượt qua được thử thách này. Đức Giêsu đã nói với thánh Phaolô: “Ơn của Thầy đh cho con” (2Cr 12,9).
Thật vậy, các ngài đã phải cầu nguyện hàng bao đêm trong chốn lao tù; các ngài đã phải xin ơn trợ giúp thật nhiều để lướt thắng sợ hãi, đớn đau, cực hình, các ngài đã phải đối mặt với cuộc chiến nội tâm gay gắt, để đi tới quyết định một lần thay cho suốt cả đời. Đó là “không” bước qua thánh giá có nghĩa là quết định chọn lấy án tử hình. Chọn lấy án tử hình là chọn lấy cái chết. Nhưng chết đau đớn cách nào, kéo dài trong bao lâu thì còn tùy quan quân lý hình.
Hôm nay, người tín hữu vẫn đứng trước những chọn lựa ấy. Chọn thánh giá Chúa hay chọn những dễ dãi, an nhàn, sung sướng. Chọn yêu mến Chúa hay chọn đời sống ích kỷ của riêng mình. Chọn phục vụ an hem hay là chọn hưởng thụ, khoái lạc. Người ta không thể chọn Chúa khi người ta còn đầy ứ “cái tôi” của mình! Chúng ta không thể chịu tử vì đạo khi tình yêu dành cho Chúa quá ít! Chúng ta không thể chứng minh niềm tin khi tình yêu dành cho anh em chỉ là con số không!
Với bao cực hình mà các Thánh Tử đạo Việt nam đã phải trải qua, cho chúng ta đứng trước một Giáo Hội tràn đầy sức sống, với một tình yêu diệu kỳ. Để noi gương anh dũng của các ngài, người tín hữu chúng ta hãy tập sống tử đao, bằng cách âm thầm vui chịu những đớn đau thử thách từng ngày. Nếu đã có tình yêu quằn quại trên thập giá, thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng phục sinh.
***
Lạy Chúa, chúng con hãnh diện là con cháu các Thánh tử đạo Việt Nam.
Xin cho chúng con biết noi gương các vị tiền nhân anh dũng, can đảm là chứng nhân cho Chúa trong đời sống đức tin bằng cách chu toàn các giới răn Chúa.
Xin cho chúng con biết nhiệt hành làm chứng cho Tình yêu bằng một đời sống quảng đại, hiến thân và phục vụ anh em.
Xin cho máu các Thánh Tử đạo Việt Nam thắm đượm trên quê hương chúng con, để cánh đồng truyền giáo Việt Nam sớm gặt hái được mùa lúa bội thu. Amen.
45.Người chứng thứ nhất--Ga 12,24-26--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo “Người chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành hình tàn bạo, dã man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, – thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).
Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.
Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy trước.
Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Thưa anh chị em,
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường vị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.
46.Các thánh Tử Đạo Việt Nam--‘Sống Tin Mừng’--Radio Veritas Asia
"Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng".
Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người chiến thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên Trời mà thánh nhân được Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau:
"Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu tới? Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại họa, đã giặt áo họ trong Máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng trước tòa Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong Đền Thờ. Đấng ngự trên tòa sẽ chở che và phù trợ họ, họ sẽ không còn phải khát nữa, không còn bị mặt trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa tòa sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa họ đến suối nước thiêng liêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ".
Qua ngày lễ Kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn thể anh chị em Công Giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng trước Ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam, có cả con cháu dòng giống lạc hồng, các ngài đã trải qua những cơn thử thách gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về với Thiên Chúa.
Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm ba mươi bảy linh mục, mười sáu thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo dân Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài chia sẻ hôm nay.
Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay, các thánh Tử Đạo là những công dân hiền hòa, sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng Đế, không phò vua bách hại, nhưng một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như câu: "Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay".
Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu bật, là những thành tích vẻ vang để chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử Đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội, là lòng tôn kính của các ngài đối với thập giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam, chết tang thương, chết treo trên thập tự để minh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại, vì thế không một khổ hình nào có thể di chuyển đôi chân của các ngài tự ý bước qua thập giá. Không bước qua thập giá để không chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử Đạo Việt Nam đã nêu gương yêu mến thập giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài.
Cùng với anh chị em công giáo khắp năm châu Mừng Kính Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa ý thức rằng, cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những dòng chữ đầu trong các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu mời và thách đố. Hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng để chúng ta cùng nhau viết lên thành tích của lòng trung thành và can đảm sống đạo, sống cuộc sống chứng nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể, để tha thứ, hòa giải và chung tay xây dựng đất nước cũng như chứng nhân cho ý nghĩa thập giá qua nếp sống hằng ngày của mình, mỗi người trong địa vị, mỗi người trong môi trường sống của mình.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương đất nước được quốc thái dân an, xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành. Amen.
47.Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng – Mt 10,17-22--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi đối diện với những bách hại này. "Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì". Sự bách hại là số phận không thể tránh được của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người đồ đệ của Chúa phơi bày những tật xấu của thế gian.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như sau:
"Nếu thế gian ghét các con, các con nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các con. Nếu các con thuộc về thế gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng vì các con không thuộc về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các con ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy bảo: "Tôi tớ không trọng hơn chủ". Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ bắt bớ các con".
Người đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình như là yếu đuối, không sức mạnh để tự mình chống lại những bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng vào Chúa, sống gắn bó với Người.
Phúc Âm theo thánh Mátthêu đã được viết ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con người trước những khó khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa cần sẵn sàng cho mọi nghịch cảnh xảy ra.
Trong đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi "đừng sợ" đến ba lần:
- "Các con đừng sợ những kẻ vu oan vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật luôn là sự thật".
Trung thành với sự thật đôi khi làm ta phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả bằng chính mạng sống mình.
- Lần thứ hai Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm hại thân xác, làm thiệt thòi cho phần vật chất, nhưng không thể nào giết được linh hồn".
Lý do sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm mà Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích thực về con người, bao gồm thể xác và linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần của con người sẽ không hề hấn gì nếu người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.
- Lần thứ ba Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì huống hồ là con người cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa chăm sóc cho hay sao".
Đó là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
"Ai nhìn nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở trên trời". Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên ngày xưa, những vẫn luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm nay. Đừng sợ gian nan thử thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô qua mọi thời đại.
Lạy Chúa,
Xin giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn để đón nhận Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh cho chúng con. Xin vì công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trở thành những chứng nhân trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
48.Những tấm gương đức tin--Lm. Vũ Xuân Hạnh
Đọc lại lịch sử buổi đầu của Giáo Hội Việt Nam, tôi thấy rất giống bối cảnh lịch sử của Hội Thánh tiên khởi thuở ban đầu. Ngày ấy, Hội Thánh tiên khởi còn rất mới mẽ, rất non nớt. Sau khi Chúa Giêsu về trời (khoảng đầu thập niên 30) các thánh tông đồ và các Kitô hữu đầu tiên vâng lệnh Chúa lên đường tiếp nối sứ mạng của Chúa. Vì thế lúc ấy, Tin Mừng chỉ mới ở giai đoạn khởi đầu. Do đó, Đức tin của các Kitô hữu cũng vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu, thì năm 64, Hội Thánh đã bị bách hại dữ dội. Thế nhưng, càng bị bách hại, càng nếm trải đau khổ và sự chết bao nhiêu, đức tin ấy càng cho thấy nó có một sức mạnh lạ lùng bấy nhiêu. Và sự khẳng định đức tin, bằng những dòng máu đỏ thắm, nơi chính các Kitô hữu càng rực sáng, rất đáng quý trọng. Có đọc lại lịch sử, và có cảm nhận hết những thương đau mà các Kitô hữu đầu tiên phải chịu đựng, ta mới thấy hết sức mạnh không thể lay chuyển của đức tin ấy. Một dức tin dù rất mới mẽ, nhưng lại kiên trung đến thế, đó mới chính là phép lại phi thường.
Chẳng hạn cuộc bắt bớ của hoàng đế Neron, một bạo vương khét tiếng độc ác, đã giết vợ, mẹ và con mình. Để giập tắt dư luận lúc đó đang đổ thừa cho hoàng đế đốt thành Rôma, ông đã đổ lỗi cho các Kitô hữu. Ông ra lệnh bắt bớ khắp thành. Các Kitô hữu phải chịu vô vàn những hình phạt tinh vi. Đó là những gì rùng rợn và nhục nhã nhất chụp xuống trên Giáo Hội nhỏ bé này. Giết người bằng mã tấu, bằng gươm, bằng những hình khổ dã man như: đâm, chém, phanh thây, treo thập giá… vẫn chưa lấy làm đủ, ông còn tạo ra những trò tiêu khiển như lột trần họ ra rồi bỏ vào hầm thú dữ đói để nhìn ngắm cảnh tượng thú dữ rượt đuổi, còn họ thì chạy vòng khắp hang cùng với sự hoảng loạng, sợ hãi và la hét rợn trời cho đến khi thú dữ nhai sạch xác họ. Có khi ông cho họ mặc da thú vật để cho chó cắn xé. Hoặc ông buộc chặt cả một tập thể vào các thập giá, tẩm dầu, để đêm đến đốt lên cháy sáng như những ngọn đuốc… Sự độc ác của ông lớn đến nỗi, dù bị vu oan là đã đốt thành Rôma, một tội ác nặng nề, nhưng dần dần người ta nhận ra việc khử trừ các Kitô hữu không phải vì lợi ích của đất nước, mà chỉ vì sự độc ác của một con người.
Chính trong thời hoàng đế Neron, năm 64, thánh Phêrô và năm 67, thánh Phaolô bị giết. Tất cả cùng chịu đóng đinh thập giá.
Và những cuộc bắt bớ trên đất Việt cũng gần giống như thế. Nhiều vị Thánh Tử đạo Việt Nam bị hiểu lầm, thậm chí bị vu oan. Chẳng hạn trường hợp thánh Phaolô Hạnh. Sống ở Chợ Quán, Sài Gòn và làm nghề buôn bán, thánh nhân là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới gian hồ. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: Họ tố cáo Phaolô Hạnh ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hòa ngày 28. 5. 1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đan tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5. 6. 1840, thánh Luca Loan bị chém đầu.
Các thánh Tử đạo Việt Nam, cách chung, tuy được đối xử tôn trọng hơn và cũng không bị hành hình để làm trò tiêu khiển như các thánh Tử đạo của Giáo Hội tiên khởi. Nhưng các hình phạt mà các thánh Tử đạo Việt nam phải chịu, vẫn là những hình phạt dã man, rất đáng sợ, rất đớn đau, và đáng thương tâm vô cùng. Vì muốn các ngài phải bỏ đạo, vua chúa, quan quyền đã ra lệnh đánh đập, không phải một lần, nhưng nhiều lần đến nỗi rách cả da thịt, ứa đầy máu, có lúc tưởng đã chết dưới những làn roi của những con người không một chút lương tâm. Có khi những vết thương do bị đánh đòn còn chưa kịp lành, các thánh Tử đạo Việt Nam đã bị lôi ra tiếp tục tra tấn. Các vết thương cùng những trận đòn tàn nhẫn ấy càng nhân lên sự đau đớn gấp bội. Đến lúc kết thúc cuộc đời, có khi vì tuổi già, sức yếu; hoặc không thể chịu nỗi cảnh áp bức của nhà tù, một số vị đã chết rũ tù. Đa số các thánh Tử đạo Việt Nam bị xử trảm (chém đầu). Có trường hợp, vì lý hình run tay, nên chém rất nhiều nhát, đầu mới lìa cổ. Một số thánh Tử đạo khác bị thiêu sống (hình phạt thiêu sinh). Số khác bị xử giảo (dùng dây xiết cổ cho đến chết). Nhiều vị Tử đạo khác nữa bị xử lăng trì (phanh thây ra làm nhiều mảnh). Ví dụ thánh Augustinô Phan Viết Huy và thánh Nicôlas Bùi Đức Thể, trong ngày xử án, thống đốc Trịnh Quang Khanh và lý hình mang hai vị anh hùng đức tin ra cửa biển Thuận An. Trên một chiếc thuyền, họ đã trói cả hai vào cột chèo, thay vì chặt làm đôi (chặt ngang lưng), lý hình chặt đầu trước, sau đó chẻ thân thể làm bốn và quăng xuống biển làm mồi cho cá.
Một bản án lăng trì khác dành cho thánh Sampedro Xuyên, một Giám mục thừa sai đến từ Tây Ban Nha, thật kinh hoàng. Ngày 28. 7. 1858, sau khi đến pháp trường Bảy Mẫu, lý hình xô Đức cha Xuyên nằm sấp trên chiếu có phủ vải sẵn, trói chân tay thật căng vào bốn cọc ở bốn phía, thêm hai cọc ở dưới nách để nạn nhân khỏi cựa quậy. Năm lý hình cầm rìu, lần lượt thi hành nhiệm vụ. Họ chặt từng chân, từng cánh tay rồi mới chặt đầu. Máu tuôn lai láng đọng thành vũng.
Trong số các vị hiển thánh và chân phước được Giáo Hội tuyên phong, có một trường hợp bị xử vô cùng thương tâm. Thánh Marchand Du, linh mục thừa sai người Pháp, phải thụ án bá đao (xẻo đủ một trăm miếng thịt). Ngày 30. 11. 1835, cha được đưa ra pháp trường. Người ta cột chặt thân thể cha vào cọc và nhét đá vào miệng để cha không kêu la vì đau đớn. Dân chúng, những người xem xử án, bị đuổi lùi ra cách 30 thước. Sau một hồi trống hiệu, lý hình lột da trán cha Du, lật xuống để che mắt, rồi cắt từng mảnh thịt bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đớn đau, vị anh hùng đức tin của chúng ta giẫy giụa quằng quại, ngước mắt lên trời cao rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa đời. Nhưng lý hình vẫn tàn nhẫn tiếp tục xẻo đủ 100 miếng thịt như đã định. Cuối cùng, lý hình chặt đầu cha, rồi chẻ thân mình làm bốn và ném xuống biển, mất xác. Còn đầu của cha được đưa đi bêu ở nhiều nơi, rồi trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và đem rắc xuống biển.
Đã nói đến các thánh Tử đạo, không thể nào ta không nhắc đến đức tin mà các vị ấy đã tuyên xưng bằng chính máu đào và bằng chính sự sống của mình. Một đức tin quá kiên trung, quá lạ thường mà mãi mãi người đời sau vẫn cứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi chiêm ngưỡng các thánh Tử đạo Việt Nam. Bởi mấy trăm năm, dòng lịch sử của Giáo Hội Việt Nam đã cho ta cảm nhận trọn vẹn một chân lý thật lớn lao: Chính bàn tay Thiên Chúa đã hiện diện để nâng đỡ và lèo lái lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Thật giống trường hợp các thánh Tử đạo tiên khởi, Tin Mừng chỉ mới đến với quê hương Việt nam khoảng nửa sau thế kỷ XVI, nghĩa là đức tin vừa chớm nỡ, vậy mà ngay sau đó, đã bị bắt bớ, bách hại. Những cuộc bách hại có lúc rất căng thẳng, có lúc nhẹ nhàng hơn theo từng giai đoạn, nhưng như thế cũng đủ để làm cho tinh thần đức tin bị lung lạc, suy yếu. Vậy mà điều đó đã không xảy ra. Càng ra sức bắt đạo bao nhiêu, càng có nhiều người anh dũng chết cho đức tin bấy nhiêu. Vua quan, một mặt ra sức bắt đạo dữ dội, mặt khác ra sức ngăn chặn sự phát triển của đạo, thì lại vô tình làm cho đức tin càng được dồn nén, càng được nung nấu, càng được khẳng định, nếu có dịp sẽ cháy bùng lên, và nhanh chóng lang tỏa mãnh liệt hơn bất cứ lúc nào.
Các thánh Tử đạo không phải là những người quá khích tự đi tìm cái chết vì đạo, mặc dù điều đó có thể xảy ra. Các thánh càng không quá khích đến độ tự đi tìm cái chết để như một cách trả thù, một phương thế ngạo ngễ vua chúa. Trước sau như một, các ngài vẫn yêu mến quê hương, vẫn tỏ lòng tùng phục và kính trọng các cấp chính quyền. Không bao giờ các thánh Tử đạo quyên cầu nguyện cho vua quan. Dường như đối với các thánh, phải tìm mọi cách để các cấp chính quyền từ vua, quan, đến quân gặp được chân lý của Tin Mừng. Không quá khích đã vậy, ngược lại các Kitô hữu còn có thể chạy trốn cuộc bách hại. Nghĩa là các ngài vẫn tìm mọi cách để cố giữ gìn mạng sống của mình. Nhưng khi bị bắt, các ngài làm chứng tới cùng, theo Chúa Giêsu cho tới khổ nạn và chết. Như vậy, các thánh Tử đạo là những người khôn ngoan, tỉnh táo, vẫn rất yêu quý mạng sống của mình. Chấp nhận chết là vì hết cách, là bước cuối cùng, chỉ vì lòng yêu mến Chúa và muốn bảo toàn đức tin mà thôi. Từ thái độ sống đến cái chết của các thánh Tử đạo nói riêng, và của các Kitô hữu nói chung, chứng minh cho mọi người thấy rằng, chỉ có Thiên Chúa là trên hết, là cao cả, là tuyệt đối, vượt trên tất cả mọi sự quý giá. Dẫu là sự sống, điều mà mỗi người chỉ có một duy nhất mà thôi, mất là hết, mất là chấm dứt sự hiện diện đời đời, vẫn không thể sánh bằng Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội, là tất cả của vũ trụ. Từ sự hiểu biết về chân lý cao cả ấy, các thánh Tử đạo có một thái độ chọn lựa dứt khoát: Tin nơi Thiên Chúa đến cùng, dù phải hiến dâng cả mạng sống của mình.
Không biết bạn có nhớ bài giảng của Đức Thánh Cha trong thánh lễ phong thánh cho các thánh Tử đạo Việt Nam ngày 19. 6. 1988? Đức Thánh Cha nói rằng: “Máu các Tử đạo là nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu của Chúa Kitô” (số 6).
Đúng như lời Đức Thánh Cha, Giáo Hội Việt Nam thật hạnh phúc vì được thừa hưởng một kho tàng quý giá vô cùng. Kho tàng ấy không phải trả giá bằng tiền của, nhưng đáng giá máu của hàng trăm ngàn người Công giáo Việt Nam: KHO TÀNG ĐỨC TIN. Một kho tàng lớn lao, quý báu vô ngần và vững chãi như núi đá ngay từ những ngày đầu tiên, đã qua suốt bốn trăm năm và còn tiếp tục mãi về sau, chắc chắn sẽ không dễ gì mai một, càng không dễ gì lay chuyển. Bởi thế sự khôn ngoan của loài người là hãy nhìn vào tấm bia vàng đã sống hàng trăm năm ấy mà tiếp tục vung bồi, tiến tục dựng xây chứ đừng có thái độ thù nghịch, đừng có ác cảm.
Và chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, hãy noi gương cha ông của mình mà sống đức tin và làm chứng cho đức tin ấy một cách ngoan cường trong cuộc đời hôm nay, để “đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai”. Và hôm nay, mừng lễ các thánh Tử đạo Việt Nam, nêu cao bài học mà các ngài để lại, không phải là khơi lên máu nóng tìm đến cái chết, mà chính là sống hiến thân từng giây phút của đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân. Bởi thế, sống ơn Tử đạo hôm nay là biết chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng cho đức tin bằng sự hy sinh trong bổn phận, trong từng lời kinh nguyện, trong tất cả nếp nghĩ, nếp sống. Chính khi hiến thân sống ơn Tử đạo như thế, là lúc ta làm được điều mà các thánh Việt Nam đã làm: yêu quê hương, xây dựng quê hương, nhưng cũng biết mình là con cái của Cha trên trời. Bởi một lẽ không thể sai sót được: ĐỨC TIN LÀ MỘT NỀN TẢNG VỮNG CHẮC: “Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu của Chúa Kitô”.
49.Những tên lý hình thời đại--Pm. Cao Huy Hoàng
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta không chỉ tự hào về đức tin kiên cường của Cha ông chúng ta, không chỉ tự hào sống trong đất nước của các thánh tử đạo, không chỉ hãnh diện vì được là con cháu của các Thánh Tử Đạo, không chỉ tri ân những giọt máu trổ sinh mầm sống mới Đức Tin nơi chúng ta, mà thiết thực hơn, chúng ta cần noi gương các Ngài: tử đạo hằng ngày.
Nếu thời Cha ông ta đã sống trong một thời kỳ bách đạo cách tàn bạo, từ việc cấm cản, khủng bố đến việc bắt bớ, bỏ tù tra tấn dã man, cho đến những án tử hình ghê rợn nhất: xử giảo, lăng trì, bá đao, thiêu sống, xử trảm, rũ tù…thì thời chúng ta, những tên lý hình thời đại với cách bức bách còn kinh khủng hơn: làm cho con người không còn yêu mến Chúa Giêsu và Thập giá của Ngài.
Những tên lý hình thời đại: Ngoài ta
Những người chủ trương không có Thiên Chúa đang cầm quyền sinh tử nơi đất nước của các Thánh Tử đạo, đưa Giáo Hội Việt Nam vào một thách đố mới, vào cuộc tử đạo mới: Truyền giáo cho người không tin có Thiên Chúa hay là để cho người không tin có Thiên Chúa truyền chủ thuyết của họ?
Tư tưởng “Tôn giáo là liều thuốc phiện” vẫn đã thấm trong máu thịt của họ và đã chỉ đạo cả cuộc đời họ, cả việc họ làm, đến nỗi khi con người gần đất xa trời, chờ phút “qui tiên” cũng chẳng chấp nhận một cõi nào linh thánh. Một cuộc đời bồng bềnh theo năm tháng lơ lững không định hướng, vì chỉ tin được cái hiện hữu của thân xác mà không tin có linh hồn bất tử. Một cuộc đời không có chuẩn mực Chân, Thiện, Mỹ, nào hơn là theo cái chuẩn mực mà mình tự đặt định. Đạo đức xã hội là làm sao đem lại lợi ích trần thế nhiều nhất cho xã hội mà chính mình là trước tiên!
Họ không đặt Thánh Giá trước mặt chúng ta, và yêu cầu chúng ta bước qua, nhưng họ đã gieo vào lòng tín hữu bề bộn những chủ thuyết vật chất, và cuộc tử đạo mới, tử đạo hằng ngày, đã bắt đầu bằng việc không đồng thuận với những chủ trương không Thiên Chúa:
- Các em học sinh ở nhà trường phải tử đạo khi không chấp nhận bài học nguồn gốc con người bởi khỉ, bài học không có Chúa nào tạo hóa tác sinh…
- Các em thanh niên vào đời phải tử đạo khi không theo cách sống thử tự nhiên được xã hội mặc nhiên cổ xúy, để giữ vững đức khiết tịnh vì biết rằng: sống thử - sinh con thật - giết người thật.
- Các gia đình công giáo phải tử đạo khi lao vào cuộc sống kinh tế. Biết rằng có thực mới vực được đạo, và để ổn định phát triển kinh tế, phải giảm sinh, nhưng cương quyết không giảm sinh theo kế hoạch không tự nhiên – vì chẳng khác nào giết con người từ trong trứng nước, và tự tẩy chay nhân phẩm quí giá của mình.
- Giá trị hôn nhân đặt trên căn bản là kinh tế, là của cải vật chất, là hưởng thụ…tạo điều kiện cho trào lưu ly thân ly dị cách dễ dàng, và tạo nên một sự hỗn độn về đời sống các gia đình không đáng có: chồng trước, vợ sau, con chung, con riêng, con bỏ, con nuôi… hỗn độn…. Biết như thế, các gia đình công giáo phải tử đạo khi không bị cuốn vào trào lưu tục hóa giá trị hôn nhân.
- Khi có của ăn của để, thì việc hành đạo hầu như không cần thiết hơn việc giải trí tiêu khiển, và việc giữ lễ Chúa nhật có thể trở thành việc chiếu lệ, nhưng người công giáo đã tử đạo khi vẫn một lòng yêu mến Chúa Giêsu, khao khát kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc tham dự Thánh lễ và việc rước lễ hằng ngày.
- Người ta muốn giam các tín hữu trong trại giam mới là chính cái biệt thự sang trọng, hay ít là căn phòng đầy đủ tiện nghi vật chất thơm phức nệm êm chăn ấm máy lạnh máy nóng …để mà hưởng thụ cuộc đời nầy, mà quên đi cái đời sau ảo tưởng… nhưng không, họ đã lầm, khi các tín hữu Việt Nam vẫn quí mến một cuộc vượt qua, và sẵn sàng cho cuộc vượt qua của chính mình…..
- Giữa những suy đồi, các tông đồ của Chúa không đành lòng bó tay, nhưng tích cực gia tăng đời sống đạo đức gương mẫu, đời sống cầu nguyện, có sáng kiến phong phú để khắc phục, chận đứng, những trào lưu suy đồi của những tên lý hình thời đại làm tha hóa các phần tử trong giáo hội. Họ thiết thực trở nên những con người hướng dẫn thời đại đi vào đúng đường lối của Chúa. Họ thực sự đang ôm lấy Thánh Giá Chúa Giêsu với lòng quí mến thiết tha nhất. Họ đang tử đạo trên đất nước của các Thánh Tử đạo, cùng với đoàn chiên tử đạo..
Chúng ta tin rằng các Thánh Tử Đạo Việt nam vẫn luôn phù hộ, tiếp sức cho các tín hữu Việt Nam chiến đấu trong cuộc bức bách mới của những tên lý hình thời đại mới đầy mưu ma chước quỉ của Satan luôn chủ trương chống lại Thiên Chúa.
Tên lý hình thời đại: Trong ta
Truyện rất ngắn “Lòi Cái Tôi Ra” của tác giả Anh-em-của-mọi-người, viết:
- Thưa cha khi chủng viện xây xong, người ta chặt cây cho lòi nhà ra nên chủng sinh phải chịu nắng nóng mấy năm nay. Bây giờ giáo xứ xây xong nhà gíao lý, lại chặt cây cho nhà giáo lý lòi ra làm thiếu nhi phải chịu nắng nóng!
- Không phải lòi nhà ra đâu mà lòi cái tôi ra đấy! Để lòi cái tôi ra nguời ta dám chặt bất cứ thứ gì kể cả cây thập giá nữa chứ cây xanh, bóng mát cho giáo dân là cái gì … “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10)
Chiến đấu với những tên lý hình thời đại ngoài ta có thể không khó khăn lắm, nhưng chiến đấu và chiến thắng với tên lý hình trong ta, có vẻ không dễ dàng tí nào!
Phải khiêm tốn mà nhận ra rằng, có nhiều người, trong đó có thể có tôi, có bạn, đã không bước qua thập giá, nhưng đã chặt và quăng cây thánh giá đi rồi. Khi đã chặt và quăng đi, thì còn đâu mà bước qua! Khi đề cao cái tôi một cách quá đáng, người ta chối bỏ Đức Giêsu Kitô và khổ đau của Ngài một cách không thương tiếc, và cũng không hay biết!
Sự nhàn hạ, thanh thản, phương tiện tiện nghi, hưởng thụ… đã “lấn sân” tâm linh, tạo cho người ta cái hạnh phúc thật êm dịu, không còn cảm giác khổ đau của cây thập giá nữa. Và vì thế, khó mà chấp nhận sự khốn khó gian nan. Sướng quen rồi. Đây mới thực sự là trại giam mới, trại giam của của danh vọng, của quyền lực, của sự an thân an vị an nhàn và … rồi an nghĩ trong trại giam ấy.
Bỗng dưng, chính ta, đã trở nên những tên lý hình thời đại. Ta xử trảm chính ta và xử trảm mọi người khi cách sống “không Kitô”, “không Thập Giá” trở thành gương xấu cứ lan nhanh lan nhanh đến nhiều người.
Vâng, không ai bắt ta làm nô lệ, chỉ vì ta bằng lòng để mất tự do. Không ai làm ta mất tự do, chỉ vì ta bằng lòng làm nô lệ! Nô lệ cho chính cái tôi của mình.
Yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá Chúa Giêsu
Thiết tưởng lòng yêu mến Chúa Giêsu và thập giá của Ngài, sẽ giúp tôi, giúp bạn vượt qua những cuộc bức bách ngoài ta, trong ta, sẽ giúp chúng ta vượt qua, giúp chúng ta được hồng phúc tử đạo hằng ngày, với Chúa.
Xin chia sẻ một phần câu chuyện về Thánh Tử Đạo Anrê Nguyễn Kim Thông (Anrê Năm Thuông) lý trưởng, thầy giảng; sanh 1790 tại Gò Thị, Bình Định; chết 15 tháng Bẩy, 1855, tại Mỹ Tho. Ngài chết rũ tù vì kiệt sức và đói khát trên đường di tán tại Mỹ-Tho
“Bị điệu ra trước tòa quan tỉnh tra vấn về các điều tố cáo. Ông Trùm khiêm tốn, bình tĩnh ung dung trả lời bằng lời lẽ đanh thép: “Trong nhà tôi không có đạo trưởng. Còn việc tậu thuyền, mãi mã, sắm ghe, tích trữ lương thực, tôi chẳng hề có, xin quan cho đi khám xét. Tôi chỉ chuyên cần lo việc nông gia. Tôi không biết Tây Dương, không đem đường chỉ nẻo cho họ. Tôi cũng chẳng hề đi đâu mà mở đường sơn thủy, vận lương, chuyển binh cho giặc”. Không tìm ra chứng cớ về các điều cáo giác trên, bọn quan lại bèn truyền cho Ông Trùm “quá khóa”, tức là bước qua Thánh Giá, thì sẽ được tha về. Ông nhất quyết không tuân.
Quan bảo: “Kín đáo đạp lên thập giá đi, rồi về xưng tội”.
Ông Trùm đáp: “Thạch tín là thuốc độc, uống vô là chết, nhưng cũng có thuốc giải. Thế nhưng có ai liều mình uống thạch tín bao giờ? Việc xúc phạm Thánh Giá cũng vậy”.
(http://www.vncatholic.org/thanhtudaovn/070.htm)
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và yêu mến Thập Giá của Ngài, để được hồng phúc tử đạo với Chúa mỗi phút giây trong cuộc đời chúng con. A men.
50.Tỉnh thức trước cơn bách đạo mới--Pm. Cao Huy Hoàng
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một tiêu biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền lợi thuộc phạm vi trần thế.
Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập giá mình”: chấp nhận tất cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa. Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và đức cậy trông mạnh mẽ.
Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ… nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của cộng đoàn.
Ở đấng bậc nào trong giáo hội, trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất là vác đi trong cuộc đời.
Ngày xưa những khổ hình có thể nói là kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá. Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm tin và tình yêu.
Chúng ta không thấy mình đang bước qua thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến của tình yêu chúng ta là chính chúng ta.
Quả thật, chúng ta đang không làm chứng cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới.
Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới.
Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ.
Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau… để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào, không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người công giáo.
Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là một bức họa không hơn.
- Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy việc đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi.
- Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng.
- Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống như khỉ và chết như con khỉ - cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa.
- Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.
- Không cần thiết phải cấm các em học giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ.
- Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt bắt đầu từ những vị thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt Nam. Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá Đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là những chứng nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết không Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần” (Lc 9,26)
Mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước qua Thập Giá” và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, giáo hội lữ hành, và đặc biệt giáo hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần từ bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.
51.Tử đạo trong thế kỷ 21--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Hôm nay, chúng ta hân hoan mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Các ngài là cha ông, tổ tiên của chúng ta.
Khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta được mời gọi noi gương các ngài để can đảm sống chứng nhân đức tin giữa lòng đời trong bối cảnh hôm nay.
Như vậy, cùng một lời mời gọi nên thánh, chung một lý tưởng hoàn thiện, nhưng mỗi thời đại, chúng ta được thúc đẩy thể hiện niềm tin của mình bằng một cung cách khác.
Nhưng trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu các thánh tử đạo Việt Nam đã sống đời chứng nhân như thế nào?
1. Đời sống chứng nhân nơi các thánh tử đạo Việt Nam
Mỗi lần nhắc đến các thánh tử đạo Việt Nam, ấy là mỗi lần chúng ta nhắc đến tấm gương anh dũng, can đảm, kiên trì, trung thành vì đức tin; tính trung thực, lòng yêu mến quê hương, tính liên đới, tấm lòng bác ái, vị tha nơi các ngài. Nhất là tấm gương anh dũng hy sinh chấp nhận cả cái chết để bảo vệ niềm tin vào Đức Kitô.
Điểm nổi bật nơi các thánh tử đạo là: các ngài không chấp nhận bất cứ hình thức nào theo kiểu: thuốc đắng bọc đường để bỏ Chúa. Khi dụ dỗ không được, vua quan thường hay tức giận và vu khống đủ điều xấu xa cho các ngài.
Một trong những tội mà các vua quan thời bấy giờ thường hay gán cho các ngài cũng rất giống tội danh mà các nhà lãnh đạo Dothái đã kết án Đức Giêsu, đó là tội chống chính quyền, sách động dân chúng, phản lại dân tộc. Khi bị ghép cho tội tầy trời như thế, thì chỉ còn nước chết và chết mà thôi!!!
Tuy nhiên, đây là một sự hồ đồ, ngộ nhận nơi vua quan, vì thế các ngài đã không chấp nhận và lại là dịp để chứng tỏ lòng yêu nước cũng như trách nhiệm xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp hơn. Điều này đã được thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: "Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng".
Các ngài đã phân biệt được đâu là ranh giới của lãnh vực này. Thánh binh sĩ Trần Văn Trung đã chấp nhận cái chết để nói cho vua quan biết lập trường của người Công Giáo: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ". Thua keo này họ bày keo khác, sự gán ghép với ý đồ thâm độc cho rằng tổ tiên chúng ta là những người theo đạo Tây, nên đây là tà đạo! Thánh linh mục niên trưởng Vũ Bá Loan đã khẳng khái tuyên bố: "Tôi chẳng theo đạo của nước nào cả, tôi chỉ thờ Chúa Trời Đất, Chúa của muôn dân thôi".
Khi nói về mẫu gương nổi bật nơi các ngài, chúng ta không thể quên được lòng trung thực được thể hiện qua cung cách lựa chọn của các thánh.
Các ngài đã noi gương Đức Giêsu, Thầy Chí Thánh của mình, yêu thương thật lòng không giả dối, ngụy biện... Chính thánh quan Hồ Đình Hy đã nói: "Đừng làm việc thiện cách máy móc qua lần chiếu lệ, mà phải làm với thiện ý". Khi nói về tình yêu thương, sự bao dung, tha thứ, thánh Cai Tả nói: "Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình".
Khi được các quan tinh vi gợi ý giả vờ bước qua Thánh Giá để có cớ mà tha cho tội chết. Đây là một cám dỗ khá xảo quyệt và hấp dẫn, có vẻ được lợi cả hai, đời này và đời sau. Nhưng cha ông chúng ta đã không bị vướng vào cạm bẫy này, nên khi bị dụ dỗ và khuyên dụ nhắm mắt bước qua Thánh Giá, thày giảng Nguyễn Cần nói: "Thưa quan, mắt thì nhắm được, chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm".
Nói chung, gương mẫu của các thánh tử đạo Việt Nam là rất nhiều, tuy nhiên, hôm nay, chúng ta chỉ đưa ra hai đặc tính nơi các ngài là:
- Không chấp nhận sự vu khống cho rằng người Công Giáo là người phản quốc, chống lại dân tộc. Cần phân biệt được đâu là người yêu nước thực sự, đâu là kẻ giả hình...
- Không chấp nhận sống hai mặt, hai lòng, giả dối để được lợi cho phần xác mà mất linh hồn.
Thiết nghĩ, hai đặc tính trên chính là sức hút và khơi nguồn cảm hứng cho mỗi chúng ta nên thánh trong thời đại hôm nay.
2. Tử đạo trong thế kỷ 21
Ngày nay, cảnh tượng kinh hoàng như thời các thánh tử đạo của chúng ta phải chịu như máu đổ, đầu rơi; đòn roi tra tấn; hay nhục hình ghê rợn..., không còn diễn ra trên diện rộng nữa, có chăng chỉ là những nơi xa xôi hẻo lánh, hay những người nắm chính quyền thiếu hiểu biết, ấu trĩ, bảo thủ hoặc ngu dốt, nên mới gây ra những hậu quả đáng tiếc, tạo nên sự mâu thuẫn giữa luật và người thi hành luật! Hay khi thi hành đã hành pháp sai mục đích chủ trương chính sách của dân tộc, hoặc đôi khi biết sai nhưng vẫn cứ nhắm mắt thi hành chỉ vì muốn trục lợi cá nhân... dung dưỡng cái bụng của mình mà làm cho cái đầu bị ngắn trí và trái tim bị teo lại nên không còn biết đúng - sai. Những người như vậy, họ thuộc hạng người bị mù lương tâm!
Còn trên bình diện thế giới, hình khổ theo kiểu cổ điển mà các chính quyền đưa ra để đàn áp những người Công Giáo cũng không thể diễn ra, bởi vì: hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Có chăng, chỉ có phiến quân nhà nước Hồi Giáo (IS) cực đoan mà thôi!
Vì thế, khi nói đến tử đạo ngày nay, vẫn khái niệm duy nhất là chết vì bảo vệ đức tin. Tuy nhiên, cần mở rộng lối suy nghĩ để hiểu khái niệm này cách rộng rãi hơn, phù hợp với môi trường cũng như thách đố của chúng ta hiện nay.
Người chứng nhân của thời đại hôm nay chính là dám chấp nhận ngược dòng để sống căn tính, cốt lõi của Tin Mừng, đó là: chấp nhận đứng về phía người thấp cổ bé họng, những người không có tiếng nói, những người cô thế, cô thân, bị loại ra bên lề nhằm bênh vực và lên tiếng thay cho họ khi quyền chính đáng của họ bị cướp đoạt. Khi đứng về phía họ như vậy, chúng ta sẵn sàng bảo vệ công lý, chống lại bất công.
Tử đạo ngày nay còn là lựa chọn và khước từ trước những cám dỗ, lôi cuốn, hấp dẫn để trục lợi cá nhân, an thân, ăn trên ngồi trước, ham quyền cố vị..., hay chạy đua những dục vọng, dâm ô, khát vọng bất chính, sống trác táng, phóng đãng... Khi khước từ những thứ đó, chúng ta được mời gọi để sống một cuộc sống công minh chính đại, sống tinh thần phục vụ vô vị lợi theo lời mời gọi của Chúa và Tin Mừng của Ngài.
Trong thời đại này, một hiện tượng cũng khá phổ biến đang lưu hành trong xã hội và nó chi phối sự lựa chọn của rất nhiều người, làm cho chúng ta đáng quan ngại, đó là: sự dửng dưng, vô cảm trước nỗi đói khổ, hoạn nạn của anh chị em. Bên cạnh đó, lập trường sống theo kiểu hạt nhân, đèn ai nấy rạng, nên không cần quan tâm đến nhau cũng là điều đáng để chúng ta suy nghĩ!
Giữa một xã hội như thế, người Kitô hữu được mời gọi sống tinh thần nghèo khó, liên đới, trách nhiệm, loại bỏ những thứ như: hưởng thụ, khoái lạc, quyền lực, vụ lợi hay những thái độ dửng dưng, vô cảm... để chấp nhận nghịch lý của Tin Mừng khi lội ngược dòng với những hấp dẫn bất chính của con người và xã hội thời nay nhằm truyền tải cho xã hội và con người hôm nay một thông điệp rằng:
Đạo Công Giáo là Đạo Yêu Thương. Yêu con người và yêu dân tộc. Sẵn sàng đóng góp và xây dựng tổ quốc này ngày càng tốt đẹp hơn, nhân bản hơn, yêu thương, liên đới, cảm thông với nhau hơn. Tuy nhiên, khi thấy cảnh trái luân thường đạo lý, người nghèo bị áp bức, bóc lột... sự thật bị bóp méo... thì chúng ta không thể an thân, bình chân như vại. Ngược lại, bằng khả năng, cách thế của mình, chúng ta phải lên tiếng trong sự ôn hòa, yêu thương và trách nhiệm, để làm cho cuộc sống này tràn đầy tình thương và nhân ái hơn.
Khi sống chứng nhân như thế, hẳn chúng ta đã làm cho khái niệm tử đạo ngày nay được phong phú hơn, rộng rãi hơn và thiết thực hơn. Tuy nhiên, đây cũng là một thách đố mang tính trường kỳ nói lên tính tử đạo liên lỷ ngang qua những lựa chọn mà chúng ta phải đối diện hằng ngày.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam các thánh Tử đạo là mẫu gương cho chúng con noi theo. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu mà ban cho chúng con ơn trung thành, can đảm để sống chứng nhân cho Chúa trong thời đại hôm nay. Amen.
52.Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.
Mt 10,17-22
Làm chứng cho đức tin
Đoạn Tin Mừng Mt 10,17-22 mà chúng ta vừa nghe rất phù hợp với hoàn cảnh của các thánh tử đạo Việt Nam. Các ngài đều đã trải qua kinh nghiệm bị bắt, bị nộp, bị hạch hỏi trước quan quyền và vua chúa, bị tra tấn, đánh đòn, bị ghét bỏ và cuối cùng là bị giết. Tất cả những đau đớn đó, các ngài đều chịu vì Đức Giêsu Kitô (c.18), vì Danh của Ngài (c.22).
Thử thách quan trọng nhất mà các ngài phải trải qua, đó là bước hay không bước qua thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống ở đời này, được trả lại tất cả những gì đã mất, được tặng thêm bao phú quí vinh hoa. Không bước qua là chấp nhận tù đày, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một quyết định là mọi chuyện sẽ thay đổi. Chỉ cần một bước chân…
Đã có người bước qua, và đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Âu tinh Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đa minh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: "Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển." Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của tôi. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: "Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được." Thánh Tê ô phanô Ven nói: "Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!"
Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ, điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu qua mọi thời đại.
Không bước qua thánh giá là làm chứng về niềm tin vào Đức Kitô. Dù chỉ là hai cây gỗ xếp chéo nhau, nhưng đó vẫn là một biểu tượng cho Thày chí thánh, Đấng đã chịu chết trên thánh giá. Các vị tử đạo đã không bước qua thánh giá, vì họ tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng các ngài không phải chỉ là những chứng nhân đức tin, mà còn là chứng nhân đức mến. Đức Giêsu không phải chỉ là Đấng các ngài tin, mà còn là Đấng các ngài yêu bằng một tình yêu lớn nhất: "Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Cuối cùng các vị tử đạo còn là những chứng nhân cho một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống đời sau. Cái chết khủng khiếp đang chờ họ, nhưng họ như nhìn thấy thế giới ở đằng sau cái chết tạm thời. Họ thấy thiên đàng, thấy sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường tồn. Chính vì thế cái chết tử đạo không bao giờ mang nét bi đát của sự tuyệt vọng. Trái lại, nó ẩn chứa một sự bình an, vui tươi của người được hạnh phúc gặp Đấng mình mới tin mà chưa giáp mặt. Trước khi đưa đầu cho lý hình, thánh Micae Hồ Đình Hy, một vị quan to của triều đình, đã thong thả rửa chân tay, rồi ngồi xếp bằng trên chiếu, bình tĩnh hút hết một điếu thuốc. Sau đó ông đứng lên thật bình thản sửa soạn lại đầu tóc, y phục cho chỉnh tề, rồi sốt sắng quỳ xuống cầu nguyện… Chính cách chết của các vị tử đạo nói với chúng ta nhiều điều. Nó vén mở cho chúng ta thấy đời sống thiêng liêng sâu xa của các ngài, đời sống tin - cậy - mến ở mức độ trổi vượt.
Có những thời điểm quan trọng trong đời vị tử đạo: lúc quyết định không bước qua thánh giá, lúc nghe bản án tử của mình hay lúc gươm kề cổ. Trong những lúc ấy chúng ta thường thấy các ngài can đảm, vững vàng, kiên quyết. Nhưng chúng ta có khi không thấy hết được những cuộc chiến nội tâm, những giằng co đau đớn diễn ra trước đó trong ngục thất. Chính Đức Giêsu cũng đã nếm trải kinh nghiệm này trong Vườn Dầu, khi Ngài đứng trước cái chết gần kề. Thời gian từ khi bị bắt đến khi bị tra hỏi, và bắt bước qua thánh giá, là thời gian lòng tin - cậy - mến chín mùi và trưởng thành. Những đau đớn do tra tấn, những lời mời mọc khéo léo, những đêm tối của đức tin, những khao khát muốn kéo dài cuộc sống: tất cả đều góp phần thanh luyện con người vị tử đạo. Đời sống cầu nguyện trong ngục thất, việc xưng tội rước lễ, lời cầu nguyện và sự nâng đỡ tinh thần của những người bên ngoài, đã giúp cho các vị chứng nhân dần dần dứt khoát trong lựa chọn của mình. Họ trở nên bình tâm, chẳng còn muốn điều gì ngoài Chúa, chẳng còn sợ những gì đe doạ mình. Ơn Chúa thấm vào con người vị tử đạo đến độ họ được mang một sức mạnh kỳ diệu từ trên. Nhờ ơn Chúa, một tạo vật nhỏ bé, yếu đuối, đã làm được điều phi thường này, đó là đặt Chúa lên trên mạng sống của mình, yêu Chúa trên hết mọi sự.
Làm chứng cho tình yêu
Khi nói đến các thánh tử đạo, chúng ta thường nghĩ đến những người chết vì tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Giêsu. Đó là trường hợp của 117 vị thánh tử đạo tại Việt Nam. Nhưng Hội thánh Công Giáo cũng coi thánh Gioan Tẩy Giả và thánh nữ Gôretti là các vị tử đạo, dù hai vị này chết vì dám nói lên một sự thật hay vì muốn bảo vệ nhân đức trinh khiết. Như thế khái niệm về tử đạo cần được hiểu rộng rãi hơn nữa. Vị tử đạo là người chết vì Đạo, chết vì muốn sống theo con Đường Tin Mừng của Chúa Giêsu, sống cho chân lý Phúc Âm. Trường hợp của cha Mác-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê là một thí dụ mới mẻ. Khi phong chân phước cho cha Kôn-bê vào năm 1971, Đức Phaolô VI không coi ngài là vị tử đạo, chỉ coi ngài là một người chịu đau khổ vì đức tin thôi (confessor). Nhưng khi phong thánh cho ngài vào năm 1982, Đức Gioan Phaolô II đã coi ngài là vị tử đạo (martyr). Chúng ta ai cũng biết cha Kôn-bê đã bị quân Đức bắt giam trong trại tập trung, và ở đây ngài đã tự nguyện chết thay cho một người tù khác có gia đình. Trong bài giảng lễ phong thánh cho cha Kôn-bê, Đức Thánh Cha đã nói như sau: "Cái chết được ngài hồn nhiên đón nhận vì yêu người đồng loại, cái chết ấy lại không làm trọn những lời của Đức Kitô sao? Cái chết ấy lại không làm cho cha Kôn-bê đặc biệt giống Đức Kitô sao, Đức Kitô là mẫu mực của mọi vị tử đạo, là Đấng hiến mạng sống mình cho anh em?"
Các vị tử đạo là những chứng nhân dám chết cho niềm tin, cho tình yêu, cho chân lý của Tin Mừng. Có thể chúng ta không được ơn tử đạo, nhưng chắc chắn chúng ta phải trở nên chứng nhân cho Chúa (Lc 24,48). Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát, thiệt thòi, bị coi rẻ. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin. Mỗi thời đại nhạy cảm với một lối làm chứng. Lối làm chứng của cha Kôn-bê, của mẹ Têrêsa ở Calcutta, của cộng đoàn Taizé bên Pháp, rất hấp dẫn con người hôm nay. Cần tìm được những lối sống Tin Mừng phù hợp khiến người ta dễ tin có Chúa, có linh hồn, có đời sau. Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi vật chất và không cần đến Thiên Chúa, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi sống một đời sống đơn sơ, chia sẻ và phục vụ trong vui tươi? Khi con người hôm nay như bị cuốn vào cơn lốc hưởng thụ, khoái lạc, quyền lực, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi làm chứng bằng thái độ thanh thoát, trong sáng và vô cầu?
Làm chứng cho Chúa bao giờ cũng là lội ngược dòng với thế gian. Nếu không gắn bó với Chúa, chúng ta không có can đảm làm chứng cho Ngài. Các thánh tử đạo tổ tiên chúng ta đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong thời đất nước chuyển mình theo kịp thế giới. Thời nào, người Kitô hữu cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của một tình yêu hiến thân, một sự từ bỏ tận căn, một sự khiêm hạ đến cùng. Chúng ta có bước qua thánh giá không?
Một số câu hỏi gợi ý
1. Nếu các Kitô hữu sống đúng theo Lời Chúa dạy, thì xã hội sẽ trở nên tốt hơn nhiều. Bạn thấy đất nước Việt Nam chờ đợi gì nơi người Kitô hữu Việt Nam? Chúng ta có thể đóng góp gì để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn?
2. Theo ý bạn, sống yêu thương, tha thứ, phục vụ, có phải là cách làm chứng hiệu quả cho Đức Kitô trên quê hương Việt Nam không?
53.Kiên cường làm chứng nhân Nước Trời--Mt 10, 17-22 --Lm Augustine SJ.
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam, chúng ta mừng kính tất cả những chứng nhân anh dũng hy sinh mạng sống mình vì Chúa Kitô và đã để lại cho người Việt Nam chúng ta món quà quí báu nhất là ơn Ðức Tin.
Nổi nang nhất trong số các vị này là 117 vị đã được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolo II tôn vinh năm 1988, để cả thế giới Công Giáo toàn cầu cùng mừng kính. Nhưng còn có hàng trăm ngàn các vị tử đạo mà cái chết anh dũng vì lòng mến Chúa, dọc qua ba thế kỷ, chỉ một mình Thiên Chúa biết. Trong số đó, người thì bị đâm, kẻ bị chém, người bị buông sông, kẻ bị bỏ đói, kẻ chết rũ tù... Thật là đủ trăm ngàn cách để tham dự vào cuộc hiến tế của chính Chúa Giêsu, vị tử đạo đầu tiên, đã hy sinh mạng sống mình trên cây thập giá vì sự sống của mọi người. Tất cả các vị anh hùng tử đạo ấy đều cách này hay cách khác, đón nhận cho mình mối phúc thật như chính Chúa Giêsu khẳng định là "vì Thầy mà anh em bị người ta sỉ vả bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em cũng vui mừng hớn hở vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thực lớn lao." (Mt 5,11-12)
Bài Tin Mừng trong Thánh Lễ kính các thánh tử đạo hôm nay cũng dẫn tới phúc thật đó với lời Ðức Giêsu dạy các môn đệ rằng "Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi." (Mt 10,24-25 tiếp theo bài Tin Mừng hôm nay) Nhưng quan trọng nhất trong bài Tin Mừng hôm nay là việc Ðức Giêsu cam kết có Chúa Thánh Thần hoạt động nơi các môn đệ để họ làm chứng về Ðức Giêsu giữa thế giới họ đang sống, cả trong bối cảnh gay cấn đòi họ phải hy sinh tính mạng cũng như bối cảnh thường ngày nơi đó các vị tử đạo nêu gương sáng cho chúng ta về yêu thương như Ðức Giêsu đã yêu thương.
Ðức Giêsu nói với các môn đệ: "Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì; Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em." (Mt 10,19-20).
Thử hỏi điều Ðức Giêsu đoan chắc đó có thực sự xảy ra không? Ta có thấy, trong thực tế, có những trường hợp minh chứng về điều đó chăng?
Ngài cho miệng trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen (Tv 8,2-3)
Hãy coi trường hợp một vị tử đạo tự nguyện chết vì Chúa ngày 6 tháng 2, 1665: cô là con ông Phêrô Kỳ tử đạo ngày 27 tháng 1, 1665. Cô được cha Fuciti Dòng Tên dạy giáo lý và rửa tội cho tại Huế khoảng năm 1660-1663, với tên thánh là Lucia. Từ Huế cô Lucia đi bộ tới Quảng Nam để tuyên xưng đức tin. Cô đã cẩn thận tìm đến với cha Fuciti khi ấy đang ở Hội An, để xưng tội và bàn hỏi. Cô thú thực với cha ý định nộp mình cho trấn thủ Quảng Nam dinh, để chết thay cho nhiều người đã chối bỏ Chúa. Cha Fuciti cắt nghĩa cho Lucia thấy không nên làm như vậy, vì chỉ khi người ta bắt cô, khi ấy cô mới có bổn phận phải công khai tuyên xưng đức tin. Nhưng Lucia nằng nặc đòi cha Fuciti đồng ý với cô, nên cha Fuciti cũng chịu thua.
Thế là tại dinh quan Quảng Nam, người ta thấy cô bé Lucia mới 13 tuổi, xông vào và nói lên ý muốn của mình là muốn chết thay cho những người đã hèn nhát chối đạo Ðức Chúa Trời. Quan ra lệnh truyền đuổi "cô bé" đó ra ngoài. Nhưng Lucia cưỡng lại lệnh quan, cô lớn tiếng nói cho mọi người biết mình là người chỉ biết tôn thờ một Ðức Chúa Trời, Ðấng tạo thành trời đất muôn vật.
Khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan (Tv 8,2-3)
Thế là quan nổi nóng truyền thi hành án tử cho "con bé" theo lối "tiền trảm hậu tấu", nghĩa là hành quyết rồi sau đó mới tâu để nhà Chúa Nguyễn được biết.
Lucia được toại nguyện. Cô đi ra pháp trường như người đi lễ hội. Chính cô chạy lại trước con voi to lớn và voi đó đã tung xác cô lên nhiều lần cho tới khi vị tử đạo tắt thở (x. Ðỗ Quang Chính, SJ, Sống Trong Xã Hội Con Rồng Cháu Tiên 1615-1773, bản thảo để xin phép, trang 260-261).
Gần hai thế kỷ sau cuộc tử đạo lạ lùng nói trên, là cuộc tử đạo của cậu bé 12 tuổi tên là Văn, diễn ra tại tỉnh Hưng Yên, như hậu quả của chiếu chỉ "phân sáp" do vua Tự Ðức công bố ngày 5 tháng 8, 1861.
Cậu bé Văn này thuộc một gia đình giáo dân làng Tiêu Chu, tỉnh Hưng Yên. Gia đình cậu bị phân tán làm hai: Hai con lớn đi một ngả, hai con nhỏ tuổi 10 và 12 đi ngả khác với bố. Bố cậu Văn đã bị xử tử vì không chịu xuất giáo. Em cậu là Thuần 10 tuổi được tha về. Còn cậu Văn 12 tuổi quan bắt mang gông và làm cỏ ngoài phố. Mấy ngày sau, hai anh lên tỉnh gặp em đang chơi vui vẻ với các trẻ khác liền hỏi "Sao em còn ở đây? Các anh đã tưởng em lên thiên đàng với bố rồi." Cậu bé trả lời cách hồn nhiên rằng: "Em ước ao được như vậy lắm, song quan không cho em vào số các người bị xử tử vì còn bé quá." Hai anh liền nói tiếp: "Thế thì em đi trình với quan rằng em đủ tuổi để chết vì đạo rồi." Cậu Văn nghe hai anh đi trình quan. Quan vừa xấu hổ vừa tức giận, liền ra lệnh chém đầu cậu bé ngay hôm đó. (x. Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam, quyển hai, trang 424).
Quả thật, cuộc tử đạo như vừa kể, khiến ta nghĩ tới lời Thánh Vịnh gia nói:
Uy phong Ngài vượt quá trời cao
Ngài cho miệng con thơ trẻ nhỏ
Cất tiếng ngợi khen đối lại địch thù
Khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan (Tv 8,2-3)
Tử đạo là lời tuyên xưng đức tin cách hùng hồn nhất. Riêng với những trường hợp vừa kể xem ra lời Ðức Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay rõ ràng được thực hiện là "không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em" (Mt 10,20).
Thần Khí mà Chúa Giêsu nói ở đây chính là Chúa Thánh Thần, Ðấng được ban cho mọi Kitô hữu để nhờ Ngài, họ có khả năng sống sự sống của chính Chúa Kitô. Và đặc sắc của sự sống này là yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương anh em mình (x. 1Ga 4,21).
Cho nên nơi các thánh tử đạo ta học được không những bài học về mến Chúa tột đỉnh, mà còn học được nơi các ngài về lòng yêu người thiết tha.
- Một người nghiện thuốc phiện ngã bệnh trầm trọng được giới thiệu đến với quan Thái bộc Hồ Ðình Hy. Bệnh nhân liền được quan thu xếp cho ở căn lều phía sau nhà. Mỗi ngày trước khi đi nhiệm sở và khi về, quan Thái bộc đều ghé thăm bệnh nhân và săn sóc chu đáo. Sau 15 ngày bệnh nhân đó qua đời, quan Thái bộc đã tổ chức lễ an táng cho người quá cố như đối với gia nhân của mình vậy. Quả thật qua việc bác ái này, ta học được nơi thánh tử đạo Hồ Ðình Hy (1808-1857) gương bác ái không máy móc và chiếu lệ.
- "Xin Cha ẩn dưới rãnh này, Ðức Chúa Trời gìn giữ, bằng không cha và con đều bị bắt." Ðó là lời bà Anê Lê Thị Thành nói với cha Lý khi cha bị quân lính lùng bắt. Quả thật, cả hai đều bị bắt ngày hôm đó. Riêng bà Anê Lê Thị Thành (1781-1841) đã được phúc tử đạo và là người phụ nữ duy nhất trong số 117 vị tử đạo mà Ðức Gioan Phaolô II tôn vinh năm 1988.
- Hôm ấy cha Gioan Ðạt vừa dâng lễ an táng tại tư gia xong, thì quân lính ập tới, cha Ðạt chưa kịp thu dọn đồ lễ. Giáo dân liền chỉ lối để cha thoát thân, nhưng cha tự nguyện trình diện và nói với giáo dân: "Vẫn biết tôi có thể trốn thoát, nhưng như thế anh chị em sẽ khổ nhiều." Quân lính trói cha lại, rồi đánh đập tàn nhẫn, khiến giáo hữu bị xúc động, muốn giải vây cho cha. Cha Ðạt can ngăn họ và nói: "Cứ để tôi vâng theo thánh ý Chúa, anh chị em ở lại bình yên, kiên trung giữ đạo, và nhớ cầu nguyện cho tôi được vững vàng đến cùng."
Trong tù, ông Thiềng là viên cai ngục đã tỏ lòng đặc biệt quí mến cha Ðạt. Ông nói với cha: "Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị kết án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí mến cụ."
"Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho các thánh tử đạo chịu khổ hình vì Chúa Kitô. Xin cũng giúp chúng con là kẻ yếu hèn, biết sống kiên cường để làm chứng cho Chúa như các ngài đã vì Chúa mà sẵn sàng hy sinh tính mạng."
54.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Khi mời gọi mọi người đi theo mình, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ai muốn theo Thầy thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”(x. Mc 8,34). Khi huấn dụ cho các Tông đồ, Đức Giêsu báo cho họ biết trước: “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét...” (x. Mt 10,22). Khi sai các Tông đồ đi rao giảng, Đức Giêsu cũng nói: “Thầy sai các con đi như đàn chiên đi giữa bầy sói”(x. Mt 10,16).
Như vậy, bách hại luôn gắn liền với các Kitô hữu, họ phải chịu muôn vàn hình khổ mà người đời có thể nghĩ ra, nhưng qua cái chết của họ nói lên cho thế giới nhiều điều. Đó là ba điểm chúng ta cùng nhau suy niệm trong ngày lễ hôm nay.
1. Bách hại luôn gắn liền với các Kitô hữu
Thật vậy, bách hại luôn gắn liền với đời sống của môn đệ Đức Giêsu và cuộc sống của Giáo hội mà Ngài sáng lập. Lịch sử Giáo hội qua mọi thời đại đã chứng minh cho chúng ta thấy điều đó. Sau cái chết của Đức Giêsu, các môn đệ và vô số những người đi theo Ngài lần lượt bị giết hại. Thánh Stêphanô được xem là vị tử đạo tiên khởi. Rồi đến các thánh Tông đồ. Cứ thế, Giáo hội Rôma bị bách hại liên tiếp suốt 300 năm. Từ đó tới nay, nơi này hay nơi khác, không có thời gian nào mà Giáo hội không bị bách hại. Theo báo cáo của tổ chức “Open Doors”, trong năm 2013, trên thế giới có 2 123 vụ giết chết “tử vì đạo” (Nguồn: Reuters). Riêng tại Việt Nam chúng ta, Giáo hội cũng bị bách hại trong suốt gần 300 năm đầu, từ khi đón nhận Tin mừng. Bách hại khốc liệt nhất là thời kỳ của các vua nhà Nguyễn: Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức. Có khoảng 150 ngàn người chết tử vì đạo. Trong số đó, có 117 vị đã được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong Hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988 và một vị được phong Chân phước đó là thầy giảng Anrê Phú Yên.
Hiện tại, mặc dầu không có sắc chỉ cấm đạo một cách minh nhiên, nhưng Giáo hội Việt Nam vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc giữ đạo, sống đạo và truyền đạo.
2. Những hình khổ các Kitô hữu phải chịu?
Người ta có thể nghĩ ra muôn vàn hình khổ để bắt các vị Tử đạo phải chịu. Cụ thể, các Kitô hữu ở Rôma phải chịu các hình khổ như: Cho thú dữ phanh thây, chà đạp, xé xác, hoặc tẩm dầu đốt cháy như những ngọn đuốc trong đêm tối hay đóng đinh vào thập tự…Còn ở Việt Nam, hình khổ mà các vị Tử đạo phải chịu là: Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng; Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu; Thiêu sinh: bị thiêu sống; Xử trảm: bị chém đầu; Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết; Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù.
Mặt khác, người kitô hữu phải chịu muôn vàn hình khổ khác do kế hoạch Phân Sáp của Vua Tự Đức vào năm 1851 và 1856. Đây là một kế hoạch rất thâm độc: Thứ nhất, không cho người công giáo sống trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương; thứ hai, một người công giáo bị năm người bên lương canh giữ cẩn mật; thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người lương sử dụng và nộp thuế cho nhà nước; thứ tư, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công giáo thì phải để cho gia đình người lương nuôi. Theo các sử liệu ghi chép lại, với kế hoạch Phân Sáp, có khoảng 400 000 kitô hữu phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50 000 – 60 000 tín hữu phải chết nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2 000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 Linh mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì Đạo.
Ngoài ra, phải kể đến những cuộc thảm sát người Kitô hữu do phong trào Văn Thân ở thế ký 19 gây ra: tổng cộng số giáo dân bị giết khoảng 40 000 người, 30 linh mục Việt Nam, 20 thừa sai và hàng ngàn họ đạo bị thiêu hủy. (Nguồn các dự liệu: Internet)
3. Cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên điều gì?
Thứ nhất, cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên niềm tin mãnh liệt của cha ông chúng ta đối với đạo Chúa. Thật vậy, cha ông chúng ta đã được đón nhận đức tin vào Chúa. Đức tin đó đã được đâm rễ sâu vào tâm hồn của các Ngài một cách chắc chắn đến nỗi không có gì có thể tách rời được. Đúng như lời Thánh Phaolô khẳng định: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8,38,39). Bằng chứng cụ thể: Tại công trường Đông Hới, quan tra vấn Cha Khoa nhiều lần, khuyên dụ Cha bỏ đạo, quan còn ra lệnh đánh Cha 76 roi để uy hiếp tinh thần và dùng nhiều mưu kế và khổ hình để lung lạc đức tin của Cha Khoa, nhưng Ngài nhất quyết đi trọn con đường khổ giá, giữ vững đức tin. Các quan đành thua cuộc và quyết định lên án xử giảo cha.
Thứ hai, cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên lòng trung thành với Thiên Chúa: Các Thánh Tử Đạo không chỉ trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc mà còn trung thành với Giáo Hội và nhất là với Thiên Chúa. Thánh Micae Hồ Đình Hy thưa với vua rằng: “Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô”. Thánh Phêrô Quí khẳng định: “Dù trăng trói, gông cùm, tù rạc; chén ngục hình xiềng toả chi nề; miễn vui lòng cam chịu một bề; cho trọn đạo trung thần hiếu tử”.
Thứ ba, cái chết của các Thánh Tử Đạo nói lên đức hy sinh can đảm phi thường: Con người ai mà không tham sống sợ chết, ai mà không sợ đau khổ, nhất là những đau khổ man rợ như: voi dày, thiêu sinh, trảm quyết, lăng trì, bá đao…Vậy mà, nhờ ơn Chúa trợ giúp, các Thánh Tử Đạo đã hy sinh, can đảm lướt thắng tất cả những khổ hình để giữ vững đức tin, giữ vững lập trường: “Thà chết chứ không chịu bỏ đạo, bỏ Chúa”. Thánh Anrê Thông xác quyết: “thà tôi bị lưu đày và chịu chết vì Chúa; Chứ tôi không chối đạo”. Thánh Laurenxô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân đã trả lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh Giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn sàng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”. Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, khẳng định: “Tôi là một kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.
Tóm lại, cái chết của các Thánh Tử Đạo cho chúng ta thấy niềm tin mãnh liệt vào Đạo, lòng trung thành sắt son với Chúa và sự hy sinh can đảm phi thường trước muôn vàn hình khổ của cha ông chúng ta. Vì thế, cái chết của các ngài như những hạt giống tốt được Thiên Chúa gieo vào lòng đất và trổ sinh nhiều bông hạt. Đúng như câu nói bất hủ của giáo phụ Tertulien: “máu các Thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các Kitô hữu”. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã nói: Sỡ dĩ Giáo Hội đã phát triển mạnh là nhờ “thời gian gieo giống của các Đấng tử đạo và gia sản sự thánh thiện của các thế hệ Kitô hữu đầu tiên”. Nói cách khác, chính hành vi làm chứng đạo bằng cái chết của vô vàn tiền nhân đã xây dựng nên Giáo Hội.
Năm 2018, chúng ta sẽ kỷ niệm 30 năm Toà Thánh nâng 117 vị Tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh. Vậy, “chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội những chứng nhân anh dũng, dám sống mầu nhiệm hạt lúa được gieo vào lòng đất, chấp nhận chết đi để mang lại nhiều hoa trái (x. Ga 12,23-25)”. Đồng thời, “kỷ niệm biến cố phong Thánh Tử Đạo là dịp để chúng ta ôn lại đời sống chứng nhân của các ngài, noi gương các ngài, sống tinh thần Phúc Âm trong mọi hoàn cảnh, cộng tác phần mình xây dựng một Giáo Hội vững mạnh và một xã hội công bằng và nhân ái.” (x. Thư chung HĐGM Việt Nam 2017, số 5).
Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Amen.
55.Mến Thánh Giá Chúa trong đời--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Ngày 09/11/2011, Quốc hội Mỹ đã thông qua luật vẫn giữ nguyên dòng chữ IN GOD WE TRUST (chúng tôi tin vào Thiên Chúa) trên những tờ tiền đô của Mỹ và cho treo thánh giá ở tất cả các văn phòng công sở, trường học trở lại… Tại sao trước đây lại bỏ việc treo Thánh giá ở những nơi này? Sao bây giờ lại cho treo, đảng Dân chủ cho rằng Thánh giá là biểu tượng tình yêu cao quý nhất và cũng là nguồn mạch mọi ơn mà chúng ta cần có nhất là trong thời gian này vì nước Mỹ đang rơi vào khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất từ trước đến nay (2011). Qủa thế, Thiên Chúa luôn ban ơn cho con người qua Thánh giá Chúa Giêsu cho muôn ngàn thế hệ con người Mỹ, người Mỹ đã xác tín điều đó qua dòng chữ “IN GOD WE TRUST” trên tờ tiền của mình kể từ khi chúng ra đời cho đến hôm nay, chúng không chỉ có mặt trên Nước Mỹ mà còn khắp cả thế giới. Cho nên, trong bài diễn văn nhậm chức, Tổng Thống Abama nói rằng: “Mỗi một người Mỹ sinh ra trong bất cứ hoàn cảnh nào đều có cơ hội thành công như bất cứ ai khác bởi vì họ có tự do, bình đẳng, tình yêu không chỉ trong mắt Thiên Chúa mà còn trong mắt của chính chúng ta. Cầu xin Thiên Chúa phù hộ và mong Người mãi mãi phù hộ cho chúng ta”. Còn Tổng tổng Donal Trump trong lễ nhậm chức nói rằng: “Bất cứ người Mỹ nào sinh ra đều nhìn lên một bầu trời đêm, mang trong mình những giấc mơ giống nhau và cùng được trao hơi thở sự sống bởi cùng một Đấng Tạo hóa Toàn năng. Cảm ơn, Thiên Chúa phù hộ chúng ta và nước Mỹ chúng ta”.
Đâu phải Thánh giá là nguồn mạch ơn cứu rỗi bây giờ nên bây giờ đảng Dân chủ Mỹ công nhận? Nguồn ơn cứu rỗi có từ khi Chúa Giêsu chết trên thánh giá và sống lại hiển vinh. Thánh Giá là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người khi Chúa Giêsu, Con của Ngài chịu chết trên đó. Cho nên, Thánh Giá không chỉ là huy hiệu của người tín hữu, là dấu chỉ của người thuộc về Chúa Kitô; nhưng trên hết, Thánh Giá là hiện thân ơn cứu độ, là phương thế Thiên Chúa ban muôn ơn cho con người qua muôn thế hệ. Chính nhờ Thánh Giá và ngang qua Thánh Giá, Chúa Giêsu đã bước vào cõi chết để đưa con người trở về cuộc sống. Chính nhờ Thánh Giá và ngang qua Thánh Giá Chúa Giêsu đã hiến mình làm của lễ đền tội cho nhân loại, làm cho con người được hòa với Thiên Chúa và với nhau. Chính nhờ Thánh Giá và ngang qua Thánh Giá Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn, máu Chúa đổ ra như nguồn mạch ban ban phát mọi ơn lành. Vì lẽ đó, vượt qua thời gian và không gian, Thánh Giá luôn luôn là dấu hiệu bất khả phân ly đối với người tín hữu, Thánh Giá luôn luôn là biểu hiệu cho đức tin, là niềm vinh dự của những người thuộc về Chúa Kitô vì chưng Thanh giá là nguồn mạch sức sống cho chúng ta ngay đời này và đời sau. Cho nên, Chúa Giêsu hôm nay khẳng định rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?”
Vì vậy, các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã khước từ xúc phạm bước qua hay đạp lên Thánh giá dù phải chịu những cực hình dã mang, kinh tởm nhất. Ví dụ, Thánh Anrê Kim Thông dù chịu tử đạo là chết rũ tù tại Mỹ tho, Ngài vẫn can trường nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Còn Thánh Stêphanô Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập giá, nay tôi lại đạp lên Thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hóa đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Ngài bị xử trảm (chém đầu) 1861 dưới thời Vua Tự Đức. Rồi Thánh Giuse Phạm Tòng Tả cũng vậy cho dù bị xử giảo (treo cổ) quyết không bước qua thánh giá. Kinh khủng hơn nữa là thánh Nicôla Bùi Ðức Thể, là Giáo dân dù bị xử lăng trì (tùng xẻo, bá đao) dưới đời vua Minh Mạng, quyết không đạp lên thánh giá.
Lúc đối diện với Thánh Giá, chính là lúc các Thánh tử đạo Việt nam đặt mình trước làn ranh của sự sống và sự chết, giữa tin và không tin, giữa vinh quang thế trần và vinh quang thiên quốc, giữa hạnh phúc tạm bợ đời này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Thế nhưng, các Ngài vẫn chọn Chúa làm gia nghiệp nên tín trung với Chúa, yêu Chúa và mến Thánh giá Chúa cho đến giây phút cuối cùng giữa trăm ngàn khổ cực thân xác. Vì chưng, Thánh Giá luôn là niềm vinh dự và là nguồn sức mạnh ban muôn ơn cho các Ngài trong cuộc sống. Vì thế dù mỗi vị thánh một hoàn cảnh, mỗi vị thánh một cực hình, nhưng Thánh Giá đã trở nên mẫu số chung cho các Ngài, trở thành niềm hy vọng bất diệt, nguồn sức mạnh và nguồn sức sống cho các Ngài để rồi sẵn sàng tử đạo đổ máu mình ra làm chứng cho Chúa và Tin Mừng của Ngài: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào thầy dù có chết cũng sẽ sống, và bất cứ ai sống và tin vào thầy, người đó sẽ không bao giờ chết” (Ga 11,25).
Lòng yêu mến Thánh Giá của Thánh tử đạo Việt nam đã làm nên bản trường ca hào hung xuyên suốt dòng lịch sử của Hội Thánh Việt Nam. Cái chết vì yêu mến Chúa Giêsu, yêu mến thánh giá của các Ngài đã trở thành bài ca khải hoàn, bài ca chiến thắng, bài ca ngàn trùng diễn tả lòng tín trung sắt son của các Thánh Tử Đạo. Các Ngài đã ngã xuống để muôn ngàn người hiên ngang đứng lên trong tình yêu và sự thật. Thân xác các Ngài vùi sâu trong lòng đất nhưng máu các Ngài đổ ra để bao người qua bao thế thế được sinh ra và lớn lên trong tình yêu Thiên Chúa.
Mừng kính các Thánh tử đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta có thể khẳng định rằng các Ngài chính là những con người luôn thiết tha say mê mến thập giá Chúa Giêsu, qua việc các Ngài luôn sẵn sàng vác Thánh Giá trong bậc sống của mình để làm chứng cho Chúa Giêsu và cho Tin Mừng. Với các ngài: mến Thánh Giá là yêu mến con đường Chúa Giesu đã đi. Mến Thánh Giá là yêu mến chính Đấng chịu treo trên thập giá. Mến Thánh Giá chính là trở nên người môn đệ tín trung của Chúa. Và Mến Thánh Giá được thể hiện cách cụ thể qua việc từ bỏ ý riêng, bước vào con đường hẹp, sống theo ý Chúa trong hoàn cảnh của bậc sống mình.
Cuộc sống của chúng ta hôm nay, không thiếu gì thập giá: thập giá trong công ăn việc làm, thập giá trong bậc sống vợ chồng, con cái, thập giá tuổi già, thập giá của bệnh tật… nhưng người môn đệ của Chúa Giêsu không có con đường nào khác ngoài con đường yêu mến và vác lấy thập giá đời mình theo Chúa: từ bỏ tội lỗi, hy sinh, đồng lao cộng khổ với tha nhân, với chính mình và với Chúa trong mọi hoàn cảnh để vui lòng chấp nhận tất cả trong mọi thử thách ấy và nói như Lời Chúa trong bài đọc 2 rằng chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Cho nên, vì mến Thánh giá Chúa, chúng ta đừng vì tham lam tiền bạc, ham mê tính xác thịt mà chà đạp hay bước qua Thánh giá: phạm tội hay bỏ Chúa, bỏ tha nhân mà uổng giá máu Chúa đổ ra để tất cả mọi người được nên thánh và cứu độ.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay và nhờ lời cầu nguyện của các Thánh Tử Đạo Việt nam, xin Chúa cho chúng ta luôn can trường bước theo Chúa Giêsu trên con đường Thập Giá để làm chứng cho Chúa, cho sự thật, cho Tin Mừng. Đồng thời biết yêu mến Thánh giá trong cuộc đời mình bằng việc bình an đón nhận những nghịch cảnh, những trái ý…và như thế, Lời Chúa trong bài đọc một nói với chúng ta rằng phúc cho chúng ta là những người trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn”. Với niềm tin đó, chúng ta cùng nhau tuyên xứng đức tin.
56.Tử đạo trong thời đại mới--Lm. John Nguyễn Tươi
Hằng năm, chúng ta mừng lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúng ta hãnh diện và tự hào về những gì cha ông chúng ta đã sống và hành đạo. Và đây cũng là dịp nhắc nhớ chúng ta về sự hy sinh, đau khổ của các ngài phải chịu đựng đau đớn bởi gông cùm, xiền xích, gươm giáo, đầu rơi, máu chảy. Chết cho niềm tin, các ngài trở thành tấm gương sáng cho chúng ta về đời sống đức tin hôm nay.Tuy nhiên, với trong bối cảnh xã hội ở thế kỷ 21, chúng ta ít được chứng kiến với những cuộc bắt đạo hay cuộc hành hình tàn bạo như ngày xưa, nhưng không có nghĩa là chúng ta không có những con người và những vị anh hùng tử đạo. Việc cấm bắt đạo có thể dưới những hình thức khác nhau. Sự tự do tín ngưỡng vẫn còn bị đàn áp và khống chế, người Ki-tô hữu đang phải chịu áp bức và đau khổ bởi cơ chế xã hội và con người.
Ngày nay, khái niệm tử đạo được hiểu rộng hơn. Tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, cho con người, nhất là những người nghèo khổ đang bị áp bức. Họ chết vì chính Đạo. Chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu, sống cho chân lý Phúc Âm. Cha Maximilianô Kolbê, ngài đã tự nguyện chết thay cho một người bạn tù đã có gia đình trong trại tập trung thời Đức Quốc xã. Vào năm 1971, Đức Phaolô VI không coi cha là vị tử đạo, chỉ coi Cha là một người chịu đau khổ vì đức tin. Nhưng, khi cha được phong thánh vào năm 1982, thì Đức Gioan Phaolô II đã coi ngài là một vị tử đạo. Trong bài giảng phong thánh cho cha Kolbê, Đức Thánh Cha nói: “Cha đã đón nhận cái chêt vì yêu người đồng loại, cái chết ấy lại không làm cho cha Kolbê giống Đức Kitô sao?. Đức Kitô là mẫu mực của mọi vị tử đạo, là Đấng hiến mạng sống mình cho anh em.”
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức Thánh Cha kêu gọi các Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này có những người tử đạo âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các tu sỹ nam nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (TMA. 37).
Các vua quan Việt Nam ngày xưa đã dùng Thập giá làm phương tiện, để thách đố niềm tin của các vị tử đạo. Họ gọi đó là “Quá Khóa” dùng Thập giá để vạch ranh giới giữa cái sống và cái chết: bước qua hay không bước qua Thập giá. Bước qua là được tiếp tục sống, được trả lại tự do với tất cả những gì họ đã mất, được tặng thêm bao phú quý vinh hoa. Nếu không bước qua là phải chấp nhận tù đày và mất chính mạng sống. Chỉ cần một quyết định là mọi chuyện sẽ thay đổi. Chỉ cần một bước chân là cuộc sống trở nên được an toàn bảo đảm. Có người đã bước qua thập giá, nhưng có nhiều người không bước qua. Có người được khiêng qua Thập giá nhưng họ đã co chân lên, như Thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua Thập giá, nhưng sau đó họ lại hối hận, đó là trường hợp của ba vị thánh Augustino Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể và Đaminh Đinh Đạt…
Vua Quan đã bày ra trước mặt các ông 10 cây vàng, một tượng Chúa Chịu Nạn và một thanh gươm, rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển”. Đúng vậy, đây là một chọn lựa rất khó khăn giưa cái sống và cái chết. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của người Ki-tô hữu sống đức tin. Như Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Thánh Stêphanô Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo Thập giá, nay tôi lại đạp lên Thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hóa đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”
Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua Thánh giá, để quan có cớ mà tha cho, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể chà đạp Đấng mà tôi tôn thờ không? Đứng trước Thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hòa hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ. Điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu sống trong thời đại này.
Các Thánh Tử đạo là những chứng nhân cho niềm tin và hy vọng mãnh liệt vào sự sống đời sau. Cái chết thật đau đớn và khủng khiếp, nhưng các ngài nhìn thấy thế giới mới ở đàng sau cái chết. Các ngài nhìn thấy thiên đàng là nơi sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu. Chính vì thế, tử vì đạo thì không bao giờ là bi đát hay tuyệt vọng. Trái lại, cái chết trong đức tin là sự bình an, vui tươi và hạnh phúc các ngài được gặp Thiên Chúa.
Các Thánh Tử đạo là những chứng nhân dám sống và chết cho niềm tin, cho tình yêu, cho chân lý của Tin Mừng. Tuy, chúng ta không được ơn tử đạo giống như các ngài, nhưng chúng ta cũng chết đi cái tôi ích kỷ hẹp hòi thì chúng ta mới trở nên chứng nhân cho Chúa. Đó là thánh giá hằng trong cuộc sống đời thường khi ta bị coi thường, phỉ báng, kết án, ganh ghét v.v. Làm chứng cho Tin mừng thì trả giá bằng sự hy sinh, chịu đựng, khiêm tốn, chúng ta đón nhận sự đau khổ như là một hình thức tử nạn để chết đi mỗi ngày bởi tội của mình. Khi trả giá cho sự đau khổ càng cao thì lời chứng Tin Mừng càng có giá trị và đáng tin cậy.
Mỗi thời đại có cách làm chứng khác nhau. Chúng ta có thể học được từ các tấm gương cho Tin Mừng của Chúa Ki-tô, như cha Kolbê, Mẹ Têrêsa Calcutta, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II là chứng nhân sống động cho chúng ta trong thời đại hôm nay. Hơn nữa, chúng ta cần tìm ra cho mình con đường sống sao cho phù hợp với giá trị Tin Mừng. Ngày nay, với tiện nghi của cải vật chất đang lôi cuốn chúng ta vào cơn xoáy thị trường với hưởng thụ, tiền bạc, khoái lạc và quyền lực., cho nên, ý nghĩa sự tử đạo và làm chứng cho Tin Mừng càng trở nên mờ nhạt.
Là con cháu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta hãy tự hào và tiếp nối truyền thống con người Việt, sống và gìn giữ đạo nơi cha ông chúng ta đã sống và làm chứng đức tin cho chúng ta, thì ngày hôm nay chúng ta hãy noi gương các ngài làm chứng Tin Mừng trong môi trường chúng ta đang sống. Thánh giá của Chúa Giê-su là dấu hiệu của một tình yêu dâng hiến và lòng khiêm hạ tận cùng.
Nguyện xin Chúa, Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam ban phúc lành cho mọi người chúng con sống chứng nhân Tin Mừng trong đời sống thường ngày. Amen.
1. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Mt 10: 17-22: Giáo Hội thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống.
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19/6/1988 tại Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 vị tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ. Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công Giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của mình.
Trong hơn 100.000 vị tử đạo, có 58 Giám Mục và Linh Mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Ý, 15 Linh Mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ Tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo Dân.
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã bị bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.
- Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình: bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc.
Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bịnh và bị dã thú ăn thịt… nhưng với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man, cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ.
Quả thật trên đây là những tấm gương anh hùng của các thánh tử đạo Việt Nam. Tuy nhiên chúng ta luôn phải nhớ rằng tử đạo là một ơn đặc biệt Chúa ban cho một số người, nhưng bổn phận làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho một ai. Đã là Kitô hữu, chúng ta phải có bổn phận làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Làm chứng một cách âm thầm nhưng không kém phần anh hùng như trường hợp của một giáo lý viên sau đây:
Vào năm 1934, cha Alexis đến truyền giáo tại vùng Đông Bắc Lybia. Nơi đây, cha được một sự cộng tác rất nhiệt thành của một giáo lý viên tên là Joan Cardina. Cardina được gởi tới một làng ngoại giáo. Ban đầu anh bị dân làng chống đối, nhất là các thầy phù thủy hầu như lúc nào cũng như muốn tìm cách giết anh cho bằng được. Cuối cùng anh bị dân làng trục xuất, thế là anh phải cất một cái chòi ở ven làng. Những người có thiện cảm nhất với anh cũng không ai dám ghé thăm. Thế nhưng anh vẫn can đảm tự mình làm lụng vất vả, kiên trì cầu nguyện, đồng thời sẵn sàng chia sẻ phần thu họach ít ỏi với những người nghèo đói, cứu giúp họ thóat khỏi những cơn bệnh nguy tử bằng một vài lọai cây thuốc trong rừng. Có lần, một ông già làng đến gặp anh và nói: "tại ao anh không chịu đi nơi khác, anh coi đấy, chẳng ai ưa anh, cũng chẳng ai muốn nghe cái thứ tôn giáo của anh”.
Cardina ôn tồn trả lời: "Thiên Chúa đã sai tôi đến đây, Ngài đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc mọi người chúng ta, vì thế tôi cũng sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để các ông nhận biết Ngài. Tôi sẽ không rời bỏ nơi này bao lâu chưa có ai trở thành người Kitô hữu”. Thế rồi dân làng đành cho anh ở lì. Mấy năm sau, Cardina bị bệnh sốt ác tính và anh đã qua đời tại đây. Sau khi anh qua đời, dân làng cảm phục trước sự kiên trì của anh, đã tự ý đi tìm chỗ học đạo. Thế là một số giáo lý viên được gởi đến và chỉ sau một thời gian ngắn cả làng đều theo đạo.
Giáo Hội thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả nhưng khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị thánh Tử Đạo Việt Nam và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta. Amen.
57.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Lm. Alfonso
Mt 10: 17-22: Giáo Hội thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống.
Suy niệm
Chúa nhật ngày 19/6/1988, tại Rôma, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ II đã cử hành Thánh lễ tuyên phong 117 vị Tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh. Từ ngày ấy, Giáo hội hoàn vũ cử hành lễ kính nhớ các ngài vào ngày 24/11 hàng năm. Riêng Giáo hội Việt Nam còn cử hành lễ kính trọng thể vào Chúa nhật giữa tháng 11, trước lễ Chúa Kitô Vua. Con số được tuyên phong gồm 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo dân. Trong đó, họ là những người thuộc các quốc gia khác nhau phục vụ trên quê hương đất Việt gồm 11 vị gốc Tây Ban Nha: 6 giám mục và 5 linh mục dòng Đa Minh, 10 vị gốc Pháp: 2 giám mục và 8 linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris, 96 vị người Việt: 37 linh mục và 59 giáo dân - trong đó có 14 thầy giảng, 1 chủng sinh và một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành. Các thánh chịu tử vì đạo dưới thời chúa Trịnh Doanh có 2 vị, thời chúa Trịnh Sâm có 2 vị, thời của vua Cảnh Thịnh 2 vị, thời vua Minh Mạng có 58 vị, thời vua Thiệu Trị (có 3 vị, thời vua Tự Đức có 50 vị.
Sách Khâm Định Việt Sử ghi lại trong vòng 300 năm, hạt giống Tin Mừng được gieo vào lòng đất Việt đã âm thầm mọc lên và sinh hoa kết trái. Kể từ khi có sự đặt chân của cha thừa sai Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt, tại làng Ninh Cường và Trà Lũ, tiếp theo là cha Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques v.v. với dòng thời gian, công cuộc loan báo Tin Mừng đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo đầu tiên của Chân phước Anrê Phú Yên. Ngài sinh năm 1625, được chính cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) rửa tội năm 15 tuổi, cùng lúc với bà mẹ góa và các anh chị, và chịu tử đạo vào năm 1544. chịu ảnh hưởng từ các cuộc bách hại, một trang sử truyền giáo hào hùng, nhưng cũng đầy đau thương và đẫm nước mắt của 400,000 tín hữu chịu lưu lạc, hay bỏ mạng nơi rừng thiêng nước độc nhất là với phong trào Cần Vương Văn Thân nổi lên phò vua tàn sát người Công Giáo mà họ lấy danh nghĩ là diệt “Tả đạo”.
Có nhiều lý do đẫn đến cảnh bách hại: vì ghen tương đố kỵ, hiểu lầm hay do những nguyên nhân chính trị đã khiến Hội thánh Việt Nam dâng cho Chúa không những 117 mà tới 130,000 chứng nhân anh dũng, đã nhận lấy cái chết để làm chứng và tỏ lòng trung thành với Chúa Kitô. Các vị tử đạo tại Việt Nam rất đa dạng, gồm đủ mọi thành phần trong dân Chúa và ngành nghề xã hội: các Giám mục, Linh mục, Linh mục thừa sai Pháp và Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia,, các chủng sinh, thầy giảng, các nữ tu và giáo dân, có những cụ già và thanh niên, người làm nông đến chài lưới, từ thương lái đến lương y; từ học sinh đến thầy đồ; từ lý trưởng, cai tổng, binh lính đến quan văn, quan võ; từ giáo dân, ông trùm, ông quản…
Các ngài chịu nhiều bách hại với mọi hình phạt dã man mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được để khủng bố tinh thần các chứng nhân của Chúa Kitô. Hình phạt nhẹ thì bị gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, bị lưu đày, phát lưu và phân sáp. Quyết liệt hơn thì bị voi giầy, trảm quyết tức là bị chặt đầu, cho chết rũ từ, bị xử giảo tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống. Trong đó, vô cùng man rợ và hiểm độc đến lạnh xương sống khi kể ra như bị xử lăng trì (chặt chân tay trước khi chém đầu), phân thây ra từng mảnh hay là tùng xẻo (một tiếng trống là xẻo miếng thịt), xử bá đao (bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng.)
Cũng nên biết qua về kế hoạch Phân sáp của vua Tự Đức, một kế hoạch quá sâu độc, gồm bốn mặt:
- Người công giáo phải đến ở trong các làng bên lương.
- Mỗi người Công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.
- Các làng Công giáo bị phá huỷ, của cải ruộng đất của người Công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà nước.
- Không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, con cái của người công giáo thì phải để cho gia đình người lương nuôi.
Với kế hoạch phân sáp của vua Tự Đức, 100 làng công giáo thành bình địa, 2,000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 115 Linh mục Việt Nam và 10 giáo sĩ ngoại quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2,000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác,100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì đạo.
Dẫu vậy, các tín hữu Tử đạo Việt Nam đã anh dũng chịu đựng vì Chúa, luôn có bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa. Tất cả đều mang trong mình một niềm tin son sắt, một tình yêu nồng cháy, một tinh thần can đảm quật cường, sẵn sàng chịu muôn ngàn thử thách vì danh thánh Chúa Kitô vì các ngài tin tưởng như Lời Chúa trích sách Khôn Ngoan: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài” (Kn 3,1).
Các thánh tử đạo Việt Nam không phải những vị anh hùng theo kiểu người đời: Can đảm chết để bảo vệ một chủ nghĩa chính đáng hoặc không chính đáng nào đó, hoặc vì muốn được nổi danh mặc dù phải can đảm đương đầu với một cái chết tàn bạo hay ôm bom tự sát, liệt sỹ cho Tổ quốc. Không, các thánh tử đạo của Kitô giáo trao ban sự sống của các ngài vì tình yêu làm chứng cho đức tin. Các ngài là những người mà chúng ta hát lên bài: “Đây bài ca ngàn trùng dâng về Thiên Chúa, bài ca thắm đượm máu hồng, từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con là con cháu luôn nhớ đến cha ông đã sẵn sàng lấy máu đào minh chứng cho đức tin can trường vào Ngài, để ngày nay, chúng con cũng dám sống đức tin ấy và vun tưới để cây đức tin ấy được triển nở trong lòng Giáo hội, nơi gia đình khu xóm, và để chúng con luôn ca tụng Chúa không ngừng. Amen.
58.Những anh hùng đất Việt--Mt 10, 17 - 22
Mang kiếp sống con người, được sinh ra trên trần gian thì cũng sẽ có ngày từ giã trần gian. Chúng ta từng chứng kiến nhiều cái chết: có những cái chết hết sức thương tâm, có những cái chết mà dường như người chết không hay biết gì, không có được một sự chuẩn bị nào hết. Có những cái chết mà đương sự lo sợ, cố tìm mọi cách để nó đừng đến nhưng không được, có những cái chết hết sức bình thản ung dung, cũng có những cái chết mang lợi ích cho biết bao nhiêu người, vì cái chết làm cho nhiều người sống xứng đáng hơn, mạnh mẽ hơn.
Ngày hôm nay, Giáo hội Việt mừng những cái chết của những người đã từ giã trần gian nầy, mừng những cái chết hào hùng, đã để lại cho biết bao người tấm gương anh hùng trong đời sống, những người này dám dùng cái chết của mình để làm cho mình và nhiều người được sống, họ dám hiên ngang từ bỏ những gì không cần thiết nên giờ đây họ được sống mạnh mẽ cùng với hạnh phúc Thiên Đàng.
Họ là ai mà họ can đảm thế?
Họ là ai mà họ anh hùng thế?
Họ là ai mà họ được hưởng hạnh phúc như thế?
Thưa họ là những con người như bao nhiêu người khác. Họ cũng là những người Việt Nam, cũng có một mái ấm gia đình, cũng biết yêu thương và tràn đầy những ước mơ cho cuộc sống. Nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa: "Ai lo bảo vệ mạng sống mình thì sẽ mất", "ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Ta".
Các ngài đã lắng nghe lời Chúa, không phải chỉ nghe mà thôi, nhưng nghe mà còn sống, còn hành động. Các ngài đã anh dũng sống lời Chúa, khi các ngài dám chọn con đường chết. Những ước mơ của các ngài không là gì khi các ngài nhìn thấy được hạnh phúc đời đời. Tình yêu thương nơi trần thế giờ đây không chỉ đơn thuần là của trần thế, nhưng đã được thăng hoa, được nâng lên để trở thành bất diệt. Mái ấm gia đình mà các ngài đang sống làm sao có thể so sánh được với gia đình vĩnh cửu mà các ngài đang sống trên Thiên Đàng, nên mạng sống của các ngài cũng đã hoà nhập vào sự sống bất diệt.
Các ngài dám bước di trên con đường thập giá, dám hy sinh mạng sống, các ngài đã để lại cho con cháu, cho chúng ta gương anh hùng, để lại con đường sống, con đường theo Chúa.
Chúng ta là con cháu các ngài, nhưng giờ này cuộc sống của chúng ta có là cuộc sống anh hùng mà các ngài đã nêu gương và để lại cho chúng ta, hay chúng ta vẫn sống bình thản, như không hay biết gì về sự hy sinh của các ngài. Lời Chúa mà các ngài đã thực hiện, chúng ta cũng đã nghe, đã biết, nhưng không thể thi hành được như các ngài. Chúng ta còn quá nhiều ước mơ chưa thực hiện được, nên đang tìm mọi cách để thực hiện cho được những gì là ước mơ, không cần biết nó có chính đáng hay không. Chúng ta sợ mất đi những gì mình có, nên cố gắng bảo vệ nó. Chúng ta bảo vệ những gì mà một ngày nào đó nó cũng sẽ phản bội và từ bỏ, khi chúng ta bước vào sự chết. Chúng ta đang cố lừa dối mình, không nói đến cái chết, để không chuẩn bị gì hết, cố bám lấy điều mà chúng ta gọi là sự sống và cố gắng một cách vô vọng. Như thế chúng ta đang run sợ trước cái chết vì không biết chuẩn bị, cũng không biết mình đi đâu. Chúng ta cũng đang bị bất ngờ trước cái chết vì đang tìm sự sống cho chính mình, sự sống của trần gian này.
Nếu chúng nhìn thấy được gương anh hùng mà các thánh tử đạo đã thực hiện, nếu chúng ta nhận ra được tình yêu thương mà các ngài đã cảm nhận và đã sống, nếu chúng ta nhận ra được con đường mà các ngài đã đi, để biết noi gương các ngài thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta can đảm chu toàn những gì mà mình phải làm trong trách nhiệm với tất cả ý thức, đó là một hình thức tử đạo, không phải một lần, nhưng từng giây từng phút của cuộc đời. Nếu trước những gian khó mà không lùi bước, sẵn sàng thực hiện thánh ý Chúa, để biết yêu thương giúp đở người khác khi cần thiết. Đó là chúng ta đang đi trên con đường can đảm mà các ngài đã đi.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa và xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cho chúng ta được ơn can đảm, biết chu toàn bổn phận trong đời sống hằng ngày và biết yêu thương giúp đỡ mọi người,để sống xứng đáng là con cháu của các Ngài.
59.Chết trong tình yêu Thiên Chúa--Mt 10, 17 - 22
Người ta thường hay nói: "Hổ chết để da người chết để tiếng", muốn ám chỉ đến một cái chết có ý nghĩa, một cái chết hiển vinh, một cái chết biết lựa chọn. Nhưng trong thực tế chính vì bản thân và sự ích kỷ, con người chỉ muốn có một cuộc sống yên ổn, cho dù đó là sống nhục phải luồn cúi, miễn sao cuộc sống họ được an nhàn êm ấm, chẳng ai muốn gặp phải những tan tác đau thương. Vì thế lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải từ bỏ mình, vác thập giá, hy sinh mạng sống. Hay nói đúng hơn là biết chết đi để được sống. Thật là điều mà đa số những người trong chúg ta khó mà chấp nhận được. Nhưng với niềm tin và tình yêu. Chúng ta vẫn tin rằng nếu biết chết với Đức Kitô thì mình cũng được sống lai với Người. Đó chính là điều Ngài muốn và muốn chúng ta:
1. Chết bằng cách từ bỏ.
Hàng rào ngăn cản chúng ta đến với Chúa chíh là danh - lợi - thú, không phải bất cứ ai cũng có thể rũ bỏ được, vì nó như một loại ký sinh luôn bám vào cuộc sống ta, và ngày ngày sẽ lớn mãi nếu ta không bài trừ. Do dó, con người luôn phải chiến đấu mãi và phải biết lựa chọn cho mình. Vì khi bám víu vào điều gì thì cũng bị tan biến theo điều đó. Nếu bám víu vào cái bất toàn, ngày ngày chỉ biết lao đầu vào cuộc sống hơn thua, bon chen, gom góp cuộc sống cho mình...kết cuộc mình cũng đi vào hư vong.
Chúng ta nên biết cuộc sống mỗi người ở trần gian này chỉ là "phù vân", như hoa huệ ngoài đồng sớm nở tối tàn rồi cũng qua đi. Nếu thật sự là người khôn ngoan thì không ai muốn bám víu vào của cải tạm bợ để làm gia nghiệp đời đời mà phải biết từ bỏ. Không phải ngày hôm nay chúng ta mới biết cách lựa chọn, mà từ ngàn xưa đã có những chứng nhân anh hùng quả cảm, các ngài đã chấp nhận từ bỏ, chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là đã chịu từ bỏ chính bản thân để làm chứng cho chân lý, chịu mất mạg sống để làm chứng cho đức tin. Tiêu biểu như thánh Hồ Đình Hy làm quan lớn trong triều đình, hay chánh tổng phạm trọng Tả là nhửng vị có chức quyền trong xã hội, các ngài tha mất chức, mất danh vọng chứ không chịu mất đức tin.
2. Chết qua việc vác thập giá.
Khi nói đến hai từ "Thập Giá' chúng ta nghĩ ngay đến dụng cụ hành hình mà trên đó Đức Kitô đã chết để cứu chuộc thế gian. Đó cũng là biểu tượng của mọi đau khổ mà một Kitô hữu phải chịu hay tự nguyện đón nhận để kết hiệp với Đức Kitô và cộng tác với Người trong việc cứu độ các linh hồn. Bởi đó thập Giá là một mầu nhiệm đã được mạc khải như Đức Kitô đã dạy: "Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập Giá mình hàng ngày mà theo". Câu nói của Đức Kitô như một lời khẳng định chắc nịch đã được các thánh tử đạo Việt Nam hân hoan đón nhận như một đặc ân dành riêng cho mình. Các ngài không nề chông gai gian khó vác những thập giá Tin Mừng vào những nơi u mê. Các ngài đã gieo hạt giống Tin Mừng trong những hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Và cuối cùg đã can đảm vác cây Thánh Giá đến nơi pháp trường, chấp nhận hy sinh để hạt giống được gieo vào lòng đất, vì các ngài luôn ý thức rằng "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác".
3. Chết vì tình yêu Đức Kitô.
Đối với người tín hữu chúng ta vẫn ý thức một cách chắn chắn về phần thưởng đời sau. Vì thế, cái chết không còn nặng nề, mà cái chết có ý nghĩa thì nhẹ tựa lông hồng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng là gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa tình yêu. Nơi Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh đã hình thành một sự sống mới cho chúng ta, để chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng "Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ được cứu mạng sống ấy". Để làm được điều này đòi hỏi mỗi người phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa dành cho mình thật mãnh liệt, không gì có thể chiến thắng, không gì có thể xóa nhòa. Như thánh Phaolô đã từng thách thức "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô" (Rm 8,35), Làm sao tôi có thể làm được điều thánh Phaolô đã làm nếu tôi thiếu tình yêu mến Chúa, làm sao tôi có thể hy sinh như các thánh tử đạo Việt Nam nếu tôi không phó thác vào tình yêu Thiên Chúa.
Mỗi khi nghe đọc lại tiểu sử hào hùng của các thánh tử đạo Việt Nam, tôi lại thấy một dòng máu nóng chảu cuồn cuộn trong huyết quản của mình, như một hơi nóng thúc đẩy tôi phải biết can đảm sống ở giữa pháp trường hôm nay. Pháp trường không còn sử dụng gươm đao, không còn lăng trì khổ nhục, vì ngày nay người ta sử dụng những thứ vũ khí tinh vi hơn, họ có thể "xử trảm" chân lý một cách vô tội va, họ có thể biến đen thành trắng, biến có thành không... đó là những cực hình cứ liên tục giàng xé cuộc sống làm cho ta đau đớn không khác gì những cực hình mà các thánh tử đạo Việt Nam phải chịu. Noi gương các thánh , chúng ta cũng xác tín "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ được cứu mạng sống ấy". Amen.
60.Sống và sống dồi dào--Mt 10, 17 - 22
Hồi còn nhỏ, lúc học Tiểu học, được đọc truyện các thánh, nhất là các Thánh Tử đạo, biết gương can đảm của các ngài, dám liều mình chịu chết, hi sinh cả mạng sống, tôi rất kính phục. Từ sự kính phục đó, nhìn lại con người của mình, cảm thấy mình hèn kém quá, tôi có ý nghĩ này: Các thánh đáng phục, đáng kính đó, nhưng rõ ràng họ cao cả quá, chắc chắn là mình không làm sao theo nổi, không làm sao bắt chước các ngài được. Vậy là người có đạo, người tin Chúa, mình phải sống làm sao đây? Tôi đã chọn giải pháp trung dung, thôi thì cũng ráng sống tốt, cũng ráng nên thánh, nhưng vừa vừa thôi, để được lên thiên đàng là đủ rồi. Chắc ăn lắm! Đó là nên thánh nửa vời. Mải đến chừng đi chủng viện, qua học thần học, tín lý, tôi mới hiểu câu nói của một vị thánh: không có tình trạng nên thánh nửa vời. Đọc qua lịch sử của các thánh Tử đạo VN, ta sẽ thấy rõ điều đó. Hôm nay mừng kính trọng thể các Thánh Tử đạo VN. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Những nhà truyền giáo đặt chân lên đất nuớc VN, lối đầu thế kỷ 17 (1638). Vậy mà trong khoảng non 300 năm đầu, lịch sử của Hội thánh VN là một cuộc Tử đạo liên miên kéo dài. Đây là lịch sử của trên 100.000 anh hùng tử đạo, tuy chỉ được tôn phong vẻ vang trên bàn thờ có 117 vị. Đây cũng chính là lịch sử Giáo hội VN được ghi bằng những trang sử oai hùng, được tô điểm những nét vàng son, chói lọi về những cái chết anh hùng của bậc tiền nhân. Chính lời của Chúa Giêsu là sức sống, là niềm tin của họ, nhờ đó họ mới có thể vượt qua được cái chết thường tình: "anh em đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn..." Họ đã lãnh triều thiên tử đạo vì các lẻ như sau:
cái chết của các vị tử đạo đã được nói trước: Chúa nói: "anh em sẽ bị nộp;bị đánh đập trong hội đường, vì danh Thầy anh em sẽ bị mọi người ghen ghét." (Mt 10,18+22). "Tôi tớ không hơn chủ; nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." (Gn 15, 20). Ở tại bến cảng Đà Nẳng có một cây thánh giá thật to, rất lâu đời. Không rõ thánh giá này đuợc dựng nên từ đời nào, nhưng rõ ràng nó chính là biểu tượng của người kitô hữu VN. Một vị thừa sai thời Pháp, nhìn cây thánh giá nói: "đất nước này rồi sẽ lắm đau thương." Đúng vậy! Hội thánh VN đã dựng tượng thánh giá, ở khắp mọi nơi, trước hết qua các thánh tử đạo, đã rải dài từ Bắc xuống Nam; nơi đâu có máu của các ngài đổ xuống là nơi đó thánh giá mọc lên; mọc lên hữu hình không chỉ trong các nhà thờ, tại tư gia, hay trên cổ trên áo, mà nhất là trong tâm hồn của mọi kitô hữu. Họ tôn thờ thánh giá không phải vì cuồng tín, mà vì chính Thầy của mình đã đi qua con đường đó và họ cũng phải đi qua như Thầy mình vậy. Vì thế cái chết của họ đã được báo trước; nhưng họ vẫn thanh thản vui lòng chấp nhận như Thầy mình.
Các ngài đã bền chí, trung kiên trong niềm tin, trong yêu mến: Đừng nói các thánh tử đạo muốn chết, mà không ham sống. Sự sống là quà tặng quí giá mà Thiên Chúa ban cho họ. Họ vẫn ý thức rằng: được sống là một hồng ân cao cả, vì họ cũng là người VN, da vàng máu đỏ như ta. Tuy nhiên, điều hệ trọng của họ chính là phải sống thế nào cho ra kiếp người: câu trả lời của họ, đó chính là sống trong tin yêu và trong tự do. Các ngài đã chọn lựa sống tự do, trong tình yêu chung thủy với Thiên Chúa và anh em; nhưng vua quan lại muốn tách họ ra khỏi Thiên Chúa bằng vũ lực, bằng hình khổ và cả mạng sống của họ nữa. Dù vậy, họ vẫn ý thức Lời Thầy mình nói: "Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì.." Họ liều mạng sống đời này, không phải vì cuồng tín, nhưng vì tin vào Chúa Thiên Chúa, Đấng luôn tín trung, không hề lừa dối ai bao giờ....
Bà thánh Inê Đê , thánh nữ tử đạo duy nhất được tôn phong của Hội thánh VN, vì giúp đở, che giấu các vị truyền giáo trong nhà mình tại Phúc Nhạc, mà bà bị bắt, bị tra tấn đánh đập nhiều lần; bà bị kiệt sức và chết trong tù ngày 12. 07. 1841. Lúc trong tù, con cái vào thăm mẹ; chúng thấy áo quần bà đầy vết máu, chúng òa khóc lên. Bà Inê Đê cười, nói: "các con đừng khóc, mẹ đang mặc áo hoa hồng đây". Nói được câu này, đủ minh chứng bà thánh Đê, đầy ơn Chúa, nên mới can đảm, trung kiên tới cùng như thế...
Lấy máu mình để làm chứng: Khi ta bị đứt tay, trặc chân, lỗ đầu, sứt trán, ta còn cảm thấy đau; chưa kịp uống thuốc giảm đau, ta đã la inh ỏi. Vậy mà Thánh Tử đạo Marchand Du, bị xử bá đao, nghĩa là bị lóc thịt đủ một trăm miếng. Đầu tiên họ lóc da đầu của ngài kéo ra phía trước để che mặt, rồi tiếp tục chổ khác. Vậy mà nghe nói thánh nhân không rên la; tuy nhiên lóc chưa đủ số, thì ngài đã chết rồi.
Ông bà mình nói: máu chảy ruột mềm, có nghĩa là lúc bị hoạn nạn tâm trạng con người dễ xiêu lòng, thay đổi. Các thánh tử đạo VN cũng là người như ta, cũng da vàng máu đỏ, nhưng sở dĩ các ngài chịu được những tra tấn, chặt đầu, lóc thịt chính vì để minh chứng cho Một Con người: đó là Đức Kitô. Chính vì các ngài tin vào thế giá của Đức Kitô, tin rằng Ngài không bao giờ dối gạt họ, tin vào tình yêu và lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, tin rằng sau cái chết đời này còn một cuộc sống vĩnh cữu đáng quí hơn nhiều, đáng đổi lấy hơn sự sống đời này, tin rằng họ hoàn toàn không ảo tưởng, vì chính Đức Kitô cũng đã chết cho họ, để họ cũng được sống lại với Ngài. Rõ ràng họ không chết cho một lý tưởng, mà là chết cho một con người, đó là Đức Kitô, chết cho Hội thánh Chúa.
b/. Gợi ý sống và chia sẻ: Hôm nay chúng con xin dâng lên các thánh TĐ.VN hai nén hương: một nén là để ca tụng, thán phục các ngài, những tấm guơng sáng chói đời đời cho hậu thế soi chung. Một nén khác: để khẩn cầu các ngài phù trợ chúng con nhiều ơn Chúa, trên đường trần gian hôm nay, đầy cạm bẩy, đầy trắc trở, giúp chúng con vượt qua mọi thử thách trên đời, hầu như không thể vượt qua. Amen.
61.Bách hại
Cuộc sống càng văn minh thì lại càng tạo ra nhiều nhu cầu, và dường như con người mỗi ngày một bị trói buộc vào trong những tiện nghi vật chất.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng hạn như báo chí, truyền thanh và truyền hình. Những người quen đọc báo hay nghe truyền thanh. Một ngày không cầm lấy tờ báo, một ngày không mở cái đài thì xem như nó trống trải thiếu thốn thế nào ấy. Hay như gia đình chúng ta mới tậu được cái tivi, thì tối nào cũng vậy, chúng ta vội vã thanh toán những chuyện lỉnh kỉnh cho xong để rồi được thảnh thơi ngồi xem. Nếu bỏ qua một chương trình nào thì chúng ta lại cảm thấy tiêng tiếc. Nhu cầy này nẩy sinh ra nhu cầu khác, khiến con người cố gắng tìm tiềm kiếm bạc để được thoả mãn. Từ nhà lầu xe hơi, đến tivi tủ lạnh, những tiện nghi vật chất này đôi khi trở thành những loại tượng thần chi phối và làm chủ toàn bộ cuộc đời chúng ta.
Tại nhiều thành phố lớn, người ta sống một cách thừa thãi, không bao giờ biết đến cái đói là chi và cũng chẳng bao giờ nghĩ đến những người khác đang vất vả, đang đau khổ, đang túng thiếu tại các nhà tù, tại các hầm mỏ, tại các nhà thương. Và hơn thế nữa còn có biết bao nhiêu người hiện giờ đang bị bách hại, đang bị ghét bỏ vì danh Đức Kitô. Điều này khiến cho chúng ta nhớ tới lời thánh Gioan đã cảnh giác: Anh em đừng ngạc nhiên nếu như anh em bị thế gian ghét bỏ. Đúng thế, dưới cắp mắt thế gian, thì người Kitô hữu chúng ta đã trở nên một cái gì kỳ dị, nhiều khi chúng ta đã trở thành những đề tài cho người ta bôi bác, đả kích, bài xích. Phải chăng âm vang lời Chúa từ ngàn xưa vẫn còn là một sự thật: Nếu họ ghét bỏ Thầy thì họ cũng sẽ ghét bỏ các con. Mỗi khi đi qua nhà thờ chúng ta ngả mũ bái chào Chúa. Mỗi khi gặp linh mục đưa Mình Thánh cho kẻ liệt chúng ta thinh lặng cung kính tôn thờ. Có thể là chúng ta quỳ gối. Trước thái độ này, những người ngoại cho là kỳ dị, họ không thể hiểu nổi vào một thời buổi văn minh như hiện nay mà còn có những người làm những hành động như thế. Họ nghĩ vậy vì họ không hiểu. Họ cho chúng ta là lập dị, là kỳ cục, là chậm tiến. Đó cũng là điều dễ hiểu. Thế gian nhận biết những kẻ thuộc về họ, với cách thức suy tư, hành động và hưởng thụ như họ. Thế nhưng một khi đụng đầu với những kẻ tin vào một thế giới khác, cao cả hơn, thánh thiện hơn thì họ lại cho đó là điều kỳ cục. Ngày nào mà người Kitô hữu không còn làm cho thế gian ngạc nhiên và đặt vấn đề, thì chúng ta đã phản lại sứ mạng của chúng ta. Người Kitô hữu lúc bấy giờ sẽ bị xếp vào hàng những kẻ thuộc về thế gian. Họ cố gắng xoá bỏ những điểm dị biệt với thế gian và che giấu cái sự thực của riêng mình. Mặc dù bên ngoài họ vẫn đi tham dự Thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, nhưng bên trong tinh thần đức tin đã tắt ngấm từ lâu.
62.Bách hại
Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa Giêsu đã phán: Môn đệ không trọng hơn Thầy. Nếu người ta đã bắt bớ Thầy thì người ta cũng bắt bớ các con. Lời tiên tri này đã được thực hiện một cách trọn vẹn.
Trước hết nơi Chúa Giêsu: từ khi bước vào cuộc sống công khai Ngài đã gặp phải sự chống đối của bọn biệt phái. Chúng tìm mọi sơ hở để bắt lỗi những lời Ngài giảng và những việc Ngài làm. Chúng tố cáo Ngài là phạm thượng lộng ngôn, dùng quyền quỷ mà trừ quỷ, lỗi ngày Sabat, xách động dân chúng chống lại chính quyền Lamã và sau cùng ý đồ đen tối của chúng đã được thực hiện, chúng đã bắt giữ và đóng đinh Ngài trên thập giá.
Tiếp đến là các tông đồ. Sau ngày lễ Hiện Xuống Phêrô và Gioan đã bị tống ngục. Trong số 12 tông đồ thì chỉ có mình Gioan chết già tại cộng đồng Êphêsô, còn tất cả đều đã hy sinh mạng sống cho Tin Mừng Phúc Âm.
Sau cùng là Giáo Hội. Giáo Hội thời sơ khai đã trải qua 300 năm cấm cách dưới thời các hoàng đế Lamã. Những tín hữu muốn sống sót và bảo toàn đức tin phải chui rúc trong những hang toại đạo. Vì thế các sử gia đã gọi thời kỳ này là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm.
Riêng tại Việt Nam, Tin Mừng được rao giảng vào thế kỷ 16, từ đó cho đến thế kỷ 19, từ đời hậu Lê cho tới thời Chúa Nguyễn, trải dài hơn 300 năm, cũng đã gặp phải bao cấm cách, nhất là dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Biết bao nhiêu người đã phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn và sản nghiệp trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc để bảo vệ đức tin. Trên 130.000 người đã hy sinh mạng sống để tuyên xưng đức tin, trong số đó có 117 vị đã được tôn phong lên bậc hiển thánh.
Qua những sự kiện lịch ấy chúng ta đi tới kết luật: Thân phận người Kitô hữu là thân phận bị bách hại. Sự bách hại có mặt ở mọi nơi và trong mọi lúc, khi thì khắc nghiệt và toàn phần như đã xảy ra trong dĩ vãng. Khi thì từ từ và từng phần như đang xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới. Khi thì như mơn trớn vuốt ve bằng tiền tài danh vọng và lạc thú như tại những nước tư bản. Nhưng tất cả đều dẫn tới một mẫu số chung là làm cho đời sống đức tin suy yếu và con số những người bước theo Chúa mỗi ngày một vơi giảm.
Con người càng tiến bộ thì phương cách bắt bớ càng tinh vi, có thể chúng ta không bị bắt bớ vì lý do tôn giáo nhưng người ta sẽ chụp mũ và bắt bớ chúng ta ở một tội trạng nào khác, nhưng theo tôi nghĩ sự bắt bớ quan trọng nhất đang diễn ra ngay tại cõi lòng chúng ta, vì ai trong chúng ta cũng cảm thấy một sự giằng co giữa sự thiện và sự ác, giữa sự tốt và sự xấu. Nhiều khi sự ác đã lấn át và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Có chiến thắng trong cuộc chiến nội tâm tuy âm thầm nhưng mãnh liệt này, chúng ta mới hy vọng chiến thắng được thế gian vì tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ.
Thân xác các thánh Tử đạo Việt Nam tuy đã chết nhưng tinh thần tử đạo của các ngài vẫn sống mãi. Hãy bước theo dấu chân của các Ngài. Thực vậy, mặc dù chúng ta không được diễm phúc tử đạo, nhưng cũng hãy dùng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương để làm chứng cho Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Mỗi hy sinh chúng ta chịu sẽ là một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
63.Thập giá
Nhân ngày lễ kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thập giá trong cuộc sống của các ngài.
Hơn ai hết, các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta đã sống mầu nhiệm thập giá một cách sâu xa nhất. Đúng thế, chẳng những vác thập giá mình hằng ngày bằng một đời sống thánh thiện quên mình, chết đi cho lòng vị kỷ và cho tội lỗi như các tín hữu khác, các ngài còn thực sự uống chén đắng và trải qua cuộc thanh tẩy bằng máu mà Chúa Giêsu đã trải qua trong cuộc khổ nạn.
Các ngài chịu đau khổ và chết trong thân xác như Đức Kitô trên thập giá. Cuộc đời các ngài lặp lại từng bước những chặng được thập giá của Chúa Giêsu và kết thúc bằng lời phó thác: Lạy Cha, con xin phó hồn con ở trong tay Cha. Bằng đời sống và bằng cái chết các ngài nói lên niềm xác tín của mình: Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Tình yêu của các ngài còn mạnh hơn cả sự chết và là yếu tố tạo nên chiến thắng. Các ngài sống cho tình yêu và chết cho tình yêu, đối với tình yêu thì giá nào cũng vẫn còn là thấp, kể cả sự chết.
Các ngài đã làm chứng và loan truyền mầu nhiệm thập giá. Cái chết của các ngài không còn là một việc riêng tư, nhưng đã trở nên một biểu hiện cho niềm tin chung của Giáo Hội vào giá trị tuyệt đối của Nước Trời, vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Sự chết đó còn là một tiếng gọi, một lời thúc giục toàn thể dân Chúa hãy sống trọn vẹn niềm tin của mình và chiếu sáng niềm hy vọng giữa lòng cuộc đời. Nếu sống được như vậy, thì dẫu không trải qua cái chết tử đạo, chúng ta cũng vẫn có thể loan truyền mầu nhiệm thập giá. Sống như một chứng nhân là điều kiện thiết yếu để có thể chết như một chứng nhân. Các thánh tử đạo Việt Nam đã làm chứng bằng cả sự sống lẫn sự chết.
Thập giá đã đưa Đức Kitô đến phục sinh. Sau khi đã tự hạ vâng lời cho đến chết, Đức Kitô đã được suy tôn cùng với uy quyền và vinh quang. Còn các thánh tử đạo thì sao? Dù các ngài chưa thể sống lại trong thân xác như Đức Kitô, nhưng cũng đã đạt tới sự sống vinh quang của Ngài, bởi vì ngay lúc chết, các ngài đã được tham dự vào sự sống vinh quang của Đức Kitô phục sinh chỉ còn phải chờ đợi ngày được tỏ hiện mà thôi. Sự liên đới với Đức Kitô trong cái chết chắc chắn sẽ tạo nên sự liên đới trong sự sống.
Dù trong cảnh ngộ nào, Đức Kitô và các môn đệ Ngài cũng vẫn chung một số phận: Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị. Vẫn là một quy luật muôn thuở của Nước Trời: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Trong mùa gặt phong phú của Giáo Hội Việt Nam thời sơ khởi, các thánh tử đạo đã loan truyền mầu nhiệm thập giá một cách kiên trì trên mảnh đất thân yêu. Xin các ngài giúp chúng ta, là những người công giáo Việt Nam hôm nay luôn sống trọn vẹn niềm tin, và làm chứng cho tình thương Chúa bằng đời sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.
64.Kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương
Mấy thế kỷ trước đây, trong thời gian các tín hữu công giáo Việt-nam bị bách hại ác liệt, nhà cầm quyền khuyến dụ các tín hữu bước qua thập giá như một dấu chỉ công khai bỏ đạo để được tha. Tín hữu nào theo lệnh vua quan dẫm đạp lên thập giá được xem như là người công khai bỏ đạo.
Ngày nay, không còn áp lực bên ngoài bắt buộc các tín hữu dẫm lên thập giá, nhưng có nhiều áp lực bên trong như tham lam, ích kỷ, ganh tỵ, oán thù… vẫn hằng thôi thúc các Kitô hữu chà đạp lên nhân phẩm và tình người, biến họ trở thành những người chối bỏ Đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Đạo Chúa là Đạo yêu thương
Đạo Thiên Chúa được gọi là Đạo yêu thương vì cốt tủy của Đạo là giới luật yêu thương và mục tiêu của Đạo là xây dựng đời sống yêu thương huynh đệ trên khắp thế giới.
Khi có vị luật sĩ hỏi Chúa Giêsu, trong các điều răn, điều nào trọng nhất, Chúa đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." (Mt 22, 37-40)
Thánh Phao-lô cũng nhắc lại giáo lý nầy cho các tín hữu Rô-ma: “Các điều răn… đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” (Rm 13,9-10)
Tuyên ngôn yêu thương nầy đã được Chúa Giêsu nâng lên thành điều răn mới khi Ngài phán: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 13, 34)
Chỉ có những ai yêu thương mới được xem là người môn đệ Chúa
Muốn ghi tên gia nhập vào một tổ chức, một đoàn thể hay một đảng phái nào đó, ứng viên phải chấp nhận một số nội quy của tổ chức đó.
Cũng thế, khi muốn gia nhập vào Đạo yêu thương để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, thì điều kiện đầu tiên phải có là lòng yêu mến tha nhân, như lời Chúa Giêsu dạy: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Gioan 13, 35).
Như thế, không phải hễ đã có tên trong sổ rửa tội, có tham gia sinh hoạt tôn giáo là có thể xưng mình là môn đệ Chúa Giêsu nhưng là phải thật sự yêu mến tha nhân quanh mình.
Ai ghét bỏ tha nhân là từ bỏ Đạo yêu thương của Chúa
Vì Đạo Chúa là Đạo yêu thương nên ai ghét bỏ tha nhân, kẻ ấy không còn là môn đệ của Chúa Giêsu nữa, như lời Chúa dạy: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Gioan 13, 35).
Như thế, khi ghét bỏ người khác hay cạn lòng yêu thương tha nhân, Kitô hữu tự loại mình ra khỏi hàng ngũ những người môn đệ Chúa.
Ngoài ra, những ai thiếu lòng yêu mến tha nhân thì trong ngày phán xét, sẽ bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa, như lời Chúa dạy trong dụ ngôn phán xét cuối cùng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Mt 25, 34. 41)
Noi gương các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương.
Thách thức của các kitô-hữu bị bách hại ngày xưa là quyết không bước qua thập giá dù phải chịu máu đổ đầu rơi. Thách thức của kitô hữu hôm nay là quyết giữ lòng yêu mến tha nhân đến cùng dù phải đối mặt với hận thù, bạo lực và ghen ghét.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo Chúa Giêsu và kiên trì sống Đạo yêu thương đến cùng. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt, các ngài vẫn không hề nao núng. Nhờ đó, các ngài được lãnh nhận triều thiên tử đạo. Nếu hôm nay chúng ta kiên quyết xoá bỏ oán ghét hận thù, để kiên trì giữ luật yêu thương, để sống chan hòa với mọi anh em trong tình huynh đệ (cho dù để đạt được điều nầy, chúng ta phải chịu khổ nạn trong tâm hồn), thì chúng ta cũng sẽ được đứng vào hàng ngũ các thánh tử đạo hiển vinh.
65.Sống chứng nhân
Truyền thống Giáo Hội bao giờ cũng quý trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái chết đó như vừa nói lên lòng can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin Mừng. Vì thế, khi nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng cho Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương cái ngài, chúng ta cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta. Vậy chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ làm cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng chói, nếu chúng ta biết tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải chỉ là một công thức đẹp, một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội, như thư chung HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì đó cũng là một mệnh lệnh. Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta đang sống trên đất nước Việt Nam, cùng với những người Việt Nam khác, xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn cảnh các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong đó chúng ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi cho hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin của chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng ta trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho chúng ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng hạn nếu môi trường chúng ta sống chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống sao cho đời thấy rằng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư, đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu thoát, chấp nhận sự đạm bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Nếu những kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp người dân, thì chúng ta phải biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời sống lứa đôi bị coi thường, tình yêu vợ chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống của con cái, như là kết quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia đình của chúng ta phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương yêu nhường nhịn lẫn nhau, con cái được đón nhận như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn trọng và yêu thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng cầu nguyện chứ không phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn nhiên không có cuộc sống làm chứng nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho chúng ta lo ngại nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của chúng ta vào Giáo Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô đã phải trả giá bằng cái chết trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời sống chứng nhân là chuyện bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm chứng là sống tận căn cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để cái biện chứng hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông hát. Đó là điều các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều chính chúng ta cũng phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.
66.Truyền đạo
Người Công giáo Việt Nam thường coi mình là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt sắng. Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt nhất là cho người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều mất thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những người đã sống theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho kẻ khác niềm tin của mình.
Không có việc trao tặng niềm tin ấy qua việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam hôm nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là chia sẻ bằng lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác, tuy âm thầm nhưng hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một cách chân thực. Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã thực hiện là cho chính sự sống của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt giống của đức tin, tựa hạt của một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa đã được gặt hái. Đó là một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất, bởi vì không ai có thể đòi lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong những cách thế cho khác, người ta có thể tìm lại được mình trong chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc rao giảng và hưởng niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người sống đạo cách chân thực, gương mẫu, có thể được mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho niềm tin trong cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca tụng tán dương.
Khi đọc truyện các thánh Tử đạo Việt Nam chúng ta thấy phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại, nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục sống vì người khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ mình không xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày nay, ngoài một vài trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi giáo cực đoan, nơi các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp nơi trên thế giới hầu như không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những người dám chết cho công lý, cho hòa bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã chết cho cái chính đạo ấy chứ không phải chết vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết vì đạo của mấy ông tư tế và Biệt phái, bởi vì chính những người này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn bị hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng Đaminh ở Florence, thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước đây bị giáo quyền kết án, cũng chính là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo chân lý và hy sinh tính mạng để bảo vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh hiệu một vị thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của người da đen… trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng thực ra chỉ là tự do và dân chủ cho người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El Salvador đã bị chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh lễ, ngài bị giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục, mà vì đã can đảm ủng hộ chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ được tôn phong lên hàng thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám sống và dám chết cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám sống và dám chết như vậy hay không?
67.Chứng nhân
Vào hồi 9 giờ sáng ngày 19 – 6 – 1988 tại Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Dĩ nhiên đây chỉ là con số tiêu biểu cho hơn 100.000 vị tử đạo trong gần 300 năm bị bách hại. 300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ. Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của mình.
Trong số hơn một trăm ngàn ấy, có một số rất ít là giám mục, linh mục thừa sai nước ngoài, một số đông hơn là linh mục và tu sĩ nam nữ Việt Nam, nhưng đại đa số là giáo dân: những ông trùm họ, ông câu, ông chánh trương, bà quản, những binh lính và hàng ngàn thanh niên nam nữ và các trẻ em. Tất cả đã chịu tử hình cá nhân hay tập thể, sau khi đã chịu nhiều cực hình khác nhau.
Nói chung, các vị tử đạo đã bằng lòng chấp nhận chịu thử thách đau thương, không kêu ca, không oán hận những người làm khổ mình như một con sò chịu cho người ta cắt thân ra, đặt vào một hạt cát, để rồi sau một thời gian sẽ có một viên ngọc đắt giá. Nếu như con sò kia nhả hạt cát ra thì sẽ không bao giờ có được một viên ngọc sáng giá. Các vị tử đạo cũng vậy, các ngài ấp ủ, bọc kín đau khổ trong đời mình, vì biết rằng qua đó Giáo hội sẽ được lời lãi gấp bội. Các ngài luôn vui tươi trong mọi cảnh huống cuộc đời. Thật là khó hiểu đối với những người không có đức tin. Vui tươi trước những may lành, thành công thì ai cũng làm được, hãnh diện trong vinh quang giàu sang, sung sướng là bình thường, nhưng vui tươi trong gian nan, thử thách, đau khổ, chết chóc là một điều hết sức kỳ khôi, lạ lùng, khác thường, nhưng rất hợp tình hợp lý, vì nước trời ghi công, vì sẽ được hạnh phúc muôn đời, đó là phần thưởng vô giá mà không có gì ở trần gian có thể so sánh được. Tử đạo là như thế.
Nói rõ hơn, trong các tôn giáo khác cũng có những người đã can đảm nhận lấy cái chết do sự nhiệt cuồng mạnh mẽ nhưng nhất thời, còn các vị tử đạo Công giáo không phải là những người nhiệt cuồng. Trong một thời gian lâu dài trước, các ngài đã biết hễ ai theo đạo Công giáo là sẽ bị chết, các ngài luôn sống với ý tưởng: không sớm thì muộn mình sẽ phải chịu đau khổ và phải chết cho đức tin, sống như vậy thì đau khổ hơn chết. Mặc dù vậy các ngài vẫn nhẫn nại trung thành với những bổn phận hằng ngày, vẫn bình thản sống trong sự tinh tấn của lương tâm và đợi chết hằng ngày. Thái độ đó khác hẳn với thái độ nhiệt cuồng của những người cuồng tin, lúc đầu mặc dầu các ngài cũng tìm hết cách để tránh khỏi bị hại, nhưng khi giờ tử đạo đến, các ngài biết chết một cách bình tĩnh cũng như các ngài đã sống bình tĩnh. Chết cách ấy quả là một việc anh hùng và phải có một sức mạnh siêu nhiên nào đó, đúng, đó là bàn tay vô hình của Thiên Chúa nâng đỡ.
Như vậy, tử đạo là lấy máu mình, lấy mạng sống mình, dùng cái chết của mình để minh chứng cho đạo mình tin theo, minh chứng đạo Công giáo đạo của Chúa. Các vị tử đạo đã chết bằng những hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài. Vì thế, danh từ “tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng và dùng đau khổ tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ ra cho người khác chém để làm chứng”.
Mừng kính trọng thể các thánh tử đạo, chúng ta nói lên lòng biết ơn sâu xa của chúng ta là những người ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Các ngài là cho ông tổ tiên của chúng ta, các ngài đã chết, nhưng công nghiệp của các ngài vẫn còn mãi. Cho nên, nhiệm vụ của chúng ta là ghi ơn, thừa hưởng và phát huy truyền thống cha ông ngàn đời vô giá. Truyền thống đó là: đức tin sắt đá, tinh thần đạo đức, chí hy sinh và gương anh dũng. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời của mình.
Chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái, yêu thương, đây là cách tốt nhất để sống đạo và truyền đạo. Chung quanh chúng ta, những đồng bào không Công giáo cũng quan tâm rất nhiều đến bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người khác: những việc làm xóa đói giảm nghèo, những ngôi nhà tình nghĩa, những lớp học tình thương, những chia sẻ cho những anh em bị bão lụt, thiên tai, những người bệnh tật… chúng ta có quan tâm đến những việc đó hay những việc tương tự khác không? Chúng ta cũng nên tự hỏi: cách sống đạo của chúng ta có thực sự tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin không? Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng việc sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái yêu thương để chúng ta thêm tình mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền vững và một cách quảng đại. Chúng ta hãy nhớ: chỉ có tình yêu thương là cách sống đạo tốt nhất và làm chứng cho Chúa, cho đạo hữu hiệu nhất.
68.Những vị anh hùng âm thầm – Lc 9,22-26
Dân tộc nào cũng có những vị anh hùng và tôn giáo nào cũng có những vị anh hùng, được gọi những danh hiệu khác nhau. Kitô giáo có hàng ngũ các thánh, những tôi trung, con thảo của Chúa, những mẫu mực sống đạo của người công giáo. Là anh hùng trong đạo nhưng không có ai thắng. Có chăng là thắng chính mình, thắng những kẻ thù vô hình không mang quốc tịch nào như ma quỷ, xác thịt và thế gian.
Các vị tử đạo Việt Nam không cuồng tín liều lĩnh, không tự ý tìm đến cái chết: không ai tự thiêu, tự thắt cổ, tự cắn lưỡi, tự đập đầu mà chết để giữ chữ trung với đạo (không ai tự tử mà lại được phong thánh).
Trước khi tử đạo, các ngài là những người muốn sống để phục vụ gia đình, quê hương và Giáo Hội. Muốn sống mà không được sống, tránh không được thì chấp nhận, để rồi vui nhận. Cam lòng chịu chết mà không oán hận: đó là tính cách của các vị tử đạo Việt Nam. Kẻ nuôi lòng hận thù không thể làm thánh vì không xứng danh làm môn đệ của Đấng đã dạy: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình.
Tôn vinh các vị thánh tử đạo Việt Nam là nêu lên một quan điểm tích cực: Lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Không khơi lên đống tro tàn để bùng cháy lòng căm thù, nhưng sáng lên một tinh thần bao dung hoà giải. Romeo và Juilette chết đi để hoà giải hai dòng họ thâm thù truyền kiếp. Cũng thế, dòng máu các vị tử đạo đổ ra không phải là vô ích. Các vị ấy về cõi trời nhưng gởi lại một thông điệp, đã có những người quyết tử để đất nước được hồi sinh, đã có những người chết vì niềm tin để con cháu được sống đức tin giữa lòng dân tộc, đã có những người bị đè bẹp vì thành kiến cố chấp để muôn người được thông cảm hoà đồng với nhau.
Đất nước Việt Nam sản sinh nhiều anh hùng: chiến sĩ anh hùng, bà mẹ anh hùng... nay có thêm những anh hùng đức tin làm cho kho tàng này được thêm phong phú.
Hướng về tương lai trong viễn cảnh thái hoà, người công giáo Việt Nam tiếp bước cha ông tiền bối của mình để sống đời chứng nhân, đem tin yêu đến cho mọi nhà. Còn biết bao nhiêu người đang phấn đấu sống theo chính đạo, chống lại bóng đen gian tà, chu toàn bổn phận của mình, làm việc với lương tâm chức nghiệp, sống lương thiện lành mạnh, chống lại các tệ nạn xã hội, tránh thoát ma lực của đồng tiền, quên đi lợi nhuận để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân, hy sinh tiết kiệm để cứu giúp những người bất hạnh. Quả là những anh hùng âm thầm trong bóng tối mênh mông.
69.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam--Mt 10, 17-22
Hôm nay chúng ta mừng lễ kính thánh Anrê Trần Dũng Lạc và các bạn Tử Đạo, hay nói chung là mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài cũng là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, giờ đây cùng nhau chúng ta nghe lời Chúa qua Phúc âm (x. Mt 10, 17-22). Khi kêu gọi mọi người "Hãy Vui Lên", các giám mục đã mời gọi từng giới, từng thành phần trong dân Chúa. Hôm nay chúng ta nghe các ngài ngỏ lời với các cụ cao tuổi và mời gọi các cụ bước vào Năm Thánh như những chứng nhân cho tình. yêu Chúa "Các cụ vui vì lại được sống thêm một Năm Thánh nữa, Năm Thánh 2000” Chúng ta đã có dịp nói với nhau về niềm vui của chúng ta, niềm vui đích thực, niềm vui mà các thánh Tử Đạo đã hân hoan vui mừng khi được đi ra pháp trường. Các giám mục của chúng ta cũng muốn qua các cụ lão ông, lão bà kêu gọi chúng ta vui niềm vui chứng tá ấy. Ở Việt Nam có hội phụ lão, ở bên Mỹ có hội người già trong các cộng đồng Việt Nam, mục đích để giúp các cụ có dịp gặp gỡ nhau, cùng nhau trao đổi và giúp nhau trong cảnh già nua tìm được niềm vui trong những ngày cuối của đời mình, dĩ nhiên là niềm vui thánh thiện nâng cao quí cụ ngày càng được gần hơn đến với Chúa. Chúng ta cũng phải coi chừng vì nhiều khi việc ngồi lại với nhau chẳng những không tạo điều kiện để nâng cao, nhưng lại ghì kéo xuống làm cho chúng ta rơi vào những phù phiếm không lợi ích chi cho mình, đồng thời trở thành gương xấu cho con cho cháu và là gánh nặng cho xã hội. Chẳng hạn ở Việt Nam ngày ngày người ta vẫn thấy ba, bốn cụ già chân nam đá chân chiêu, lai rai hết ly này đến ly khác, gia đình con cháu buồn, người ngoài lắc đầu, tuổi già và niềm vui ấy trở thành gánh nặng cho mọi người. Rồi tại một hội người già trong một Tiểu Bang nọ, các cụ cũng than phiền là có nhiều chuyện không trong sáng giữa các cụ với nhau nên có nhiều cụ ở nhà. Một chương trình truyền hình nọ mời một cụ lão phỏng vấn: xin cụ cho biết cảm tưởng của cụ, niềm vui của cụ vẫn có mỗi ngày trong cuộc sống, kế đó họ xin cụ bí quyết để sống vui. Cụ trả lời rằng: "chẳng có bí quyết gì hết”, nếu có bí quyết gì đi chăng nữa nó cũng dễ như trở bàn tay, như uống nước lã vậy thôi. Đó là khi tôi thức dậy mỗi buổi sáng, tôi chỉ có hai điều để lựa chọn, một là sống an vui hạnh phúc, hai là sống lầm than khổ sở, dĩ nhiên là tôi đã chọn điều thứ nhất. Lạy Cha, chúng con lại có một ngày sống mới, đó là ngày sống mà mọi người trong gia đình như ông bà, cha mẹ và con cháu, tất cả đểu được mời gọi sống niềm vui của Tin mừng, niềm vui ấy nhiều khi chúng con phải sống như các thánh Tử Đạo cha ông chúng con đã từng sống trước đây Xin cho chúng con can đảm và trung thành sống trọn niềm vui ấy. Chúng con cảm tạ Cha cho tuổi già của ông bà, cha mẹ và chúng con cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu nhân danh các thánh Tử Đạo. Amen.
70.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, Giáo Hội luôn duy trì một thủ tục khắt khe để phong thánh hầu tránh đi mọi lạm dụng có thể xảy ra. Khởi đầu thì bất cứ người giáo dân nào cũng có quyền làm đơn xin Giáo Hội xúc tiến thủ tục điều tra để phong thánh cho một hay nhiều Kitô hữu. Đó là những người công giáo đã qua đời, mà còn để lại những mẫu gương thánh thiện cao độ, nhất là khi họ chết vì đạo với những bằng chứng rõ rệt vì đức tin.
Tất cả 117 vị tử đạo Việt Nam mà chúng ta mừng kính hôm nay đều có đủ bằng chứng đích thực về cái chết anh hùng đó. Qua thủ tục điều tra từ hơn một thế kỷ nay, các vị ấy đã lần lượt được Giáo Hội nhìn nhận là Đấng đáng kính, vì đã nêu gương thánh thiện cho các Kitô hữu. Tiếp đến là nâng lên hàng Chân phước, tức là các vị ấy được nhìn nhận là đang được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa. Tuy việc tôn kính còn giới hạn chưa phổ quát khắp nơi trên thế giới. Cuối cùng là được phong lên bậc thánh nhân, tức là được tôn vinh hiển thánh với lễ kính có thể được cử hành ở khắp mọi nơi.
Nhìn vào con số 117 vị tử đạo Việt Nam, chúng ta nhận thấy các ngài là những bậc cha ông của chúng ta, trong đó gồm đủ mọi thành phần: 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thầy giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Ngoài các giám mục và các linh mục là những người lo đáp ứng những nhu cầu thiêng liêng, chúng ta thấy các ngài thuộc đủ mọi giai cấp xã hội. Thánh Hồ Đình Hy là quan thái bộc, đặc trách ngành dệt tơ lụa vải vóc trong cả nước. Thánh Phạm Trọng Khảm là quan án. Thánh Vinhsơn Tường làm chánh tổng. Thánh Nguyễn Huy Mỹ làm lý trưởng. Các thánh Đạt, Huy, Thể là quân nhân. Có người làm thầy thuốc, làm nhà buôn, làm thợ mộc, thợ may, có người làm ngư phủ hay nông dân.
Mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy chiêm ngưỡng những mẫu gương thánh thiện các ngài để lại. Nhưng chiêm ngưỡng mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải cố gắng noi theo và bắt chước, vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.
Là những thanh thiếu niên, chúng ta hãy chiêm ngưỡng và bắt chước một chàng trai tuấn tú 18 tuổi đã trả lời quan toà: Tôi chỉ mong chức quyền trên trời chứ không màng danh vọng trần thế. Chàng trai tuấn tú ấy là thánh Tôma Thiện.
Là những người đang sống trong bậc vợ chồng, chúng ta hãy khắc ghi lời bà lý Mỹ: Gia đình tôi luôn sống trong hoà thuật và yêu thương, nhà tôi chuyên chăm đạo đức, tham dự thánh lễ hằng ngày. Nếu vợ con hay người giúp việc vì bận rộn không đi lễ được, ông bắt phải đọc kinh chung và nghe sách thiêng liêng để suy niệm. Ông xưng tội nhiều lần trong năm. Ông không đánh bạc, không uống rượu hay to tiếng với ai bao giờ. Bà lý Mỹ đã nói như vậy về chồng bà là thánh Nguyễn Huy Mỹ.
Cụ Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi họ yêu cầu cụ đọc kinh, thì cụ lớn tiếng: Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các quan trị nước cho yên, càng ngày càng thịnh. Tại pháp trường, khi chịu xử tử, thánh Lê Văn Phụng còn nhắn nhủ người con trai của mình: Con ơi, hãy tha thứ, đừng báo thù kẻ tố giác ba nhé. Là con cháu của các bậc anh hùng tử đạo chúng ta đã làm được những gì để tuyên xưng đức tin của mình?
71.Các thánh Tử Đạo Việt Nam
Mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta cũng kỷ niệm việc thiết lập hàng giáo phẩm đến nay được 50 năm. Vì thế trong một vài phút ngắn ngủi này chúng ta cùng ôn lại đôi dòng lịch sử.
Kể từ khi cha Buzomi, vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất nước này vào năm 1615, cho tới khi hàng giáo phẩm được thiết lập vào năm 1960, thời gian kéo dài là ba thế kỷ rưỡi. Trong khoảng thời gian này, những thành phần nhân sự dần dần được thiết lập để xây dựng cho Giáo Hội Việt Nam.
Trước hết là cha Đắc Lộ đã khai sinh ra hồi Thày giảng năm 1650. Chín năm sau, tức là năm 1659, Tòa Thánh thiết lập hai Giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài, đặt dưới quyền quản trị của hai vị Tân Giám mục là Lambert de la Motte và Francois Pallu, thuộc hồi thừa sai hải ngoại Paris. Chính Đức cha Lambert de la Motte trong ba năm, từ năm 1668-1670 đã truyền chức linh mục cho chín người Việt Nam đầu tiên xuất thân từ hội Thày giảng.
Chín linh mục này làm nên hàng giáo sĩ Việt Nam đầu tiên. Từ việc phong chức linh mục đầu tiên này tới cuộc tấn phong Giám mục cho Đức cha Nguyễn Bá Tòng năm 1933, thời gian kéo dài gần hai thế kỷ rưỡi. Rồi từ khi có giám mục Việt Nam cho tới khi hàng giáo phẩm được thiết lập, thời gian chỉ có 37 năm. Về nhân sự của Giáo Hội địa phương, kế tiếp việc thiết lập hàng giáo sĩ Việt Nam là việc thiết lập dòng nữ Mến Thánh Giá tại Kiên Lao (Nam Định) và Bãi Vàng (Hà Nam) do Đức cha Lambert de la Motte, vào năm 1670.
Cũng trong khoảng thời gian ấy, trải dài hơn ba thế kỷ, Giáo Hội Việt Nam đã gặp phải những cuộc bách hại và cấm cách đẫm máu, khiến cho hàng vạn người đã bị mất mát tài sản, hàng ngàn người đã ngã gục ngoài pháp trường, trong đó có 117 vị đã được tôn lên hàng hiển thánh, gồm tám giám mục, năm mươi linh mục và 59 giáo dân. Chính các ngài đã trở thành những hạt giống đức tin, đem lại cho Giáo Hội Việt Nam một vụ mùa bội thu.
Mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng như kỷ niệm ngày thành lập hàng giáo phẩm, mỗi người chúng ta hãy hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã thực sự thuộc về Đức Kitô hay chưa? Bởi vì tinh thần của Chúa và tinh thần của thế gian là hai cái gì đối kháng, cho nên chúng ta không được phép bắt cá hai tay, hay lửng lơ con cá vàng, như lời Chúa đã nói: không nóng không lạnh, chỉ dở dở ương ương thì Ta sẽ mửa mi ra.
Hơn nữa, Chúa cũng đòi chúng ta phải dứt khoát lập trường và dành cho Ngài địa vị số một trong cuộc đời chúng ta, vì ai đã cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau thì không xứng đáng với Nước Trời. Tuy nhiên chọn lựa Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải thể hiện sự lựa chọn ấy trong cuộc sống thường ngày bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy. Bởi vì có thực thi những điều Ngài truyền dạy, chúng ta mới thực sự trở nên là những môn đệ và chứng nhân của Ngài. Mỗi hy sinh chúng ta chấp nhận để chu toàn Lời Chúa, sẽ là một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
72.Sống Lời Chúa- Tử Đạo
Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ:
- Người ta sẽ ghét bỏ các con, sẽ bắt bớ và xua đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt các con vào ngục tù, và sau cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày.
Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được thực hiện, trải qua dòng thời gian, hằng triệu các tín hữu đã đi vào dấu chân của các tông đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm.
Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn lên trong máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo Hội đều gặp phải những bắt bớ và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo Hội còn phôi thai, cho đến tận ngày hôm nay khi Giáo Hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.
Nào là những cuộc bách hại đẫm máu ở Đại Hàn, Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba thế kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực vậy, Tin mừng được chính thức loan truyền trên quê hương Việt Nam vào thời Hậu Lê thuộc thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc còn phôi thai Giáo Hội Việt Nam đã gặp phải những cấm cách đúng như lời Chúa đã phán: Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Suốt ba trăm năm, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình. Hơn 130 ngàn người đã ngã gục dưới những cực hình dã man, để trờ thành những chứng nhân bất khuất cho Đức Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh, gồn 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Thế gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo Hội, Sự thù ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con người hôm nay đã bước vào thời đại văn minh và tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay trên thế giới vẫn còn có biết bao nhiêu Giám mục, Linh mục và giáo dân bị tù tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy nhất đó là đã tin theo Đức Kitô.
Thế nhưng như người ta vẫn thường bảo:
- Cái đe làm cho chiếc búa bị hỏng.
Thế gian nhục mạ, bắt bớ Giáo Hội và rồi họ đã chết, còn Giáo Hội thì vẫn đứng vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức sống của mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tạo được trên thế giới và cái chết của ngài đã gây ra một sự mất mát đớn đau. Rồi những tình cảm nồng hậu người ta đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng như Đức Gioan-Phaolô II trong những chuyến công du.
Từ đó chúng ta nhận thấy gian nguy và thử thách là một cái gì gắn liền với thân phận của Giáo Hội, hay nói cách khác, là một phần của đời sống Giáo Hội, bởi vì không một vị thánh nào mà không bị khổ đau, mà không bị đổ máu.
Thế nhưng chấp nhận cái chết trong phút chốc có thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng giây từng phút, từ bỏ những ước muốn riêng tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha thứ mọi lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm, đó có thể là một việc khó, đòi phải có một đức tính kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Việc làm đó không hào quang, không rực rỡ, không một ai biết đến trừ ra chính Thiên Chúa.
Đôi lúc đau khổ và thử thách còn là một phần của đời sống người Kitô hữu: Nào cám dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào chết chóc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc, để tạo dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc và tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải nhớ rằng: Sống đạo và chạy theo vui thú là hai việc làm không thể đội trời chung với nhau. Bởi vì đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự bành trướng của tinh thần thế gian. Hay như lời thánh Phaolô đã nói:
- Những người thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục vọng vào thập giá.
Chính những đau khổ và thử thách sẽ giúp chúng ta vượt lên trên tinh thần thế tục, thanh tẩy chúng ta và đền bù tội lỗi chúng ta.
Bởi đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng hãy biết đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để góp phần vào thập giá của Ngài. Trong những giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi và khích lệ vì chính Chúa cũng đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Cuộc đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí và làm cho nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau thập giá là vinh quang phục sinh.
73.Làm Chứng
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày 19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “Tử Đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: “An quả nhớ kẻ trồng cây” hay “uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quí báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quí để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần nho giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua chúa trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao… Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Kitô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
74.Tử Đạo hay Sống Đạo?
Nếu như anh chị chúng ta là những người giàu có và thành công trên đường đời, hẳn chúng ta sẽ lấy làm hãnh diện. Nếu cha mẹ chúng ta là những người tốt lành và thánh thiện, hẳn chúng ta cũng sẽ rất lấy làm hãnh diện. Cũng thế, hôm nay khi mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta càng phải hãnh diện hơn nữa vì các ngài những bậc cha ông của chúng ta đã lấy mạng sống cùng với những giọt máu đào để làm chứng cho Chúa.
Thực vậy, Giáo Hội Việt Nam đã góp phần vào tiến trình chung của Hội Thánh Công giáo những trang sử hào hùng và dũng cảm.
Bên Âu Châu, thời kỳ đen tốt nhất Giáo Hội đã phải trải qua chính là thời kỳ Giáo Hội còn phôi thai, trải dài từ cuối thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ tư, từ triều Nêron đến triều Maximinus. Suốt trong khoảng thời gian này, Giáo Hội đã bị bắt bớ và cấm cách. Biết bao nhiêu người đã chết hay đã ngã gục trên pháp trường. Những người muốn sống sót đều phải chui rúc dưới những hang, được gọi là hang toại đạo., hiện nay vẫn còn tìm thấy tại Roma. Các sử gia đã gọi đó là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm. Nhưng sau cùng, Giáo Hội đã chiến thắng với biến cố hoàng đế Constantinô trở lại và ngọn cờ thập giá được tung bay trên toàn đế quốc La mã.
Nếu so sánh, chúng ta thấy Giáo Hội Việt Nam cũng có những điểm thật giống với Giáo Hội Rôma. Đó là ngay sau khi hạt giống Tin mừng được gieo vãi trên đất nước này, thì lập tức gông bão đã nổi lên. Từ thời vua Lê chúa Trịnh cho tới những triều đại nhà Nguyễn, trải dài gần ba trăm năm. Trong suốt thời gian này, biết bao nhiêu người đã bị nhà tan cửa nát, phải di tản vào những nơi rừng thiêng nước độc, như các giáo dân vùng La Vang, Quảng Trị. Biết bao nhiêu người đã phải chịu những cực hình khủng khiếp. Trong số đó, có 117 vị đã được nâng lên hàng hiểm thánh. Ai cũng tưởng rằng ngọn lửa Phúc âm sẽ bị dập tắt. Thế nhưng, máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các tín hữu. Vì thế, Giáo Hội Việt Nam đã lớn lên và trưởng thành trên nền móng vững chắc ấy, xứng đáng được gọi là trưởng nữ của các Giáo Hội tại Á châu.
Tuy nhiên, hãnh diện mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải noi gương bắt chước các ngài, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu mà làm rầu nồi canh, đừng vì cuộc sống tội lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn khuôn mặt Giáo Hội Việt Nam. Hãy sống thế nào để xứng đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.
Hồi còn bé, tôi rất thích đọc hạnh các thánh tử đạo và thầm mong một ngày nào đó, tôi cũng đưa cổ cho lý hình chém một nhát và thế là nghiễm nhiên trở thành thánh tử đạo. Thế nhưng, lớn lên tôi mới nghiệm ra rằng: mơ ước như vậy chỉ là một sự hão huyền, bởi vì không phải thời buổi nào cũng có những cấm cách. Hơn thế nữa, hành động chịu chết vì đạo là một hành động cao cả và tuyệt vời nhất, như lời Chúa Giêsu đã xác quyết:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hành động cao cả và tuyệt vời này phải là kết quả của những tháng ngày sống niềm tin yêu và thấm nhuần đạo đức. Không phải một sớm một chiều mà một thằng quỷ có thể trở nên một vị thánh. Không phải hễ có bắt bớ là mọi người đều có thể tử đạo, bởi vì sống sao chết vậy, cây xiêu chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.
Kinh nghiệm cho hay mổi khi có những khó khăn xảy ra, thì rất nhiều kẻ đã trở cờ, chối bỏ Chúa. Họ chối bỏ Chúa chỉ vì chén cơm manh áo, họ chối bỏ Chúa chỉ vì một chút địa vị xã hội, họ chối bỏ Chúa chỉ vì muốn chạy theo những dục vọng thấp hèn. Thế nhưng, lý do chính yếu, là như phần chìm của tảng băng, đó là họ đã không thực sự sống đạo, đã không thực sự sống niềm tin của mình. Cũng giống như khi xây nhà, nếu không đổ nền đổ móng cho vững chắc, thì chẳng bao lâu căn nhà sẽ bị sụp đổ.
Vì thế, chúng ta nên hiểu tử đạo theo một nghĩa rộng, đó là làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Đó chính là cái nền tảng vũng chắc để xây dựng tòa nhà đức tin. Chính trong ý nghĩa này mà Mẹ Maria đã được gọi là Nữ vương các thánh tử đạo, mặc dù Mẹ đã không đổ máu để làm chứng cho đức tin của mình.
Hãy tập sống tinh thần tử đạo bằng cách thực hiện những điều tốt lành, bởi vì mỗi khi hành động như vậy là chúng ta đã tuyên xưng niềm tin của chúng ta. Hơn thế nữa, mỗi hy sinh chúng ta chịu trong khi phục vụ và giúp đỡ người khác sẽ là như một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây và từng phút để làm chứng cho Chúa.
Hãy sống đạo, sống niềm tin của mình. Nếu cha ông chúng ta đã tuyên xưng niềm tin bằng cái chết anh hùng, thì khi sống đạo, chúng ta cũng tuyên xưng niềm tin của chúng ta bằng chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta.
75.Sống đạo và chết vì đạo
Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám mục địa phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858, ngài đã bị xử án lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị cắt thịt ra từng mảnh. Tương truyền rằng khi thọ án ngài đã có những lời ta thán những kẻ hành hình ngài là độc ác. Nên vì câu nói ấy mà mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn lên bậc chân phước.
Truyền thuyết trên đây có thể không đúng với sự thật, nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở chúng ta về điều này: Người tử đạo không phải là một anh hùng theo kiểu các anh hùng khác của nhân loại.
Thật vậy, các vị tử đạo không phải là những anh hùng ngã gục trên chiến trường với vũ khí trong tay, trong một cuộc chiến chống lại quân thù. Các ngài là những con người không biết thù ghét, mà cũng không được thù ghét bất cứ ai, trái lại luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là “Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình”. Nếu các ngài có phải chiến đấu, thì đó là chiến đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của chính mình.
Vì thế, nếu có một người nào bị giết, tuy trên danh nghĩa vì đạo, nhưng lại căm thù những kẻ bách hại mình, hay kiêu hãnh tự phụ vì tính anh hùng của mình, thì người đó không thể nào là thánh được, mà cùng lắm chỉ có thể được coi như một anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó mà Giáo Hội Công giáo không bao giờ chấp nhận các tín hữu của mình tự sát, ngay cả trong trường hợp gọi là để bảo vệ đức tin hay Giáo Hội.
Nói cách khác, người Kitô hữu được mời gọi trước hết để sống đạo, chứ không phải chết vì đạo, bởi vì Thiên Chúa là Chúa của sự sống, chứ không phải là Chúa của sự chết. Đàng khác, nếu chúng ta sống đạo đúng theo đòi hỏi của Tin Mừng, nghĩa là sống trọn tình bác ái đối với tất cả mọi người, thì cái chết chúng ta cũng có ý nghĩa là một cái chết vì đạo. Bởi lẽ chết vì đạo, trước hết phải là chết vì lòng yêu mến.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam xứng danh là những vị tử đạo theo cả hai nghĩa: Các ngài đã chết để tỏ lòng trung thành với Chúa, với Giáo Hội, nhưng các ngài cũng chết cũng chết vì tình yêu mến, yêu Chúa, yêu Giáo Hội, và yêu cả những người bắt bớ và làm khốn mình. Các ngài đã không thù ghét, không nguyền rủa, mà có khi còn tỏ lòng biết ơn vì vô tình họ đã trở thành những người Thiên Chúa dùng để ban phúc tử đạo cho các ngài.
Vua quan phong kiến có thể coi các ngài như những kẻ phản bội tổ quốc vì theo tả đạo, nhưng các ngài thực sự là những người yêu nước, yêu đồng bào, nên có vị tuy ước ao được phúc tử vì đạo, nhưng lại chấp nhận một cuộc sống chui nhủi, nay trốn chỗ này, mai trốn chỗ khác, đói khát, hiểm nguy không ngại, chỉ muốn tiếp tục được phục vụ anh em tín hữu của mình. Rồi một khi bị bắt, không một vị nào đã tìm cách chống cự, hay tỏ vẻ thù nghịch với vua quan lính tráng, trái lại vui vẻ chấp nhận cái chết như một cách tỏ lòng trung thành với Chúa và tổ quốc.
Thật vậy, nếu không vì muốn trung thành với tổ quốc, thì các ngài đã có thể phản đối hay chống cự, hoặc lên án những kẻ cầm quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài đã cam tâm và bình thản chấp nhận cái chết mà không hề oán hận và hối tiếc. Trường hợp của thánh Phanxicô Trần văn Trung, cai đội, càng chứng tỏ là người Kitô hữu này chẳng hề muốn phản bội tổ quốc, vì ngài đã tình nguyện xin đi đánh giặc, nhưng vua quan từ chối, vì ngài không chịu bỏ đạo.
Noi gương ông cha mình, người Việt Nam Công giáo chúng ta hôm nay cũng phải gắn bó đời sống đức tin của mình với những đòi hỏi của đời sống con người trong xã hội, và trong cộng đồng dân tộc. Chẳng có gì mâu thuẫn giữa đức tin và lòng yêu nước. Nếu các vua chúa thời trước tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì nhiều vị tử đạo thay vì phải chết vì đạo, đã có thể sống đạo mà phục vụ tổ quốc và dân tộc một cách hữu hiệu và tốt đẹp biết bao.
76.Tử đạo, một chọn lựa của lòng tin
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ, đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân yêu này. Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: “sống gởi, thác về”. Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
1. Chọn lựa của dân Do thái:
Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ: “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai hoạ”. Khi dân Do thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,… và gắn bó với Người”, thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.
2. Chọn lựa của cha ông chúng ta:
“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.”
Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà những chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin mừng”. Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời đại.
3. Chọn lựa của chúng ta hôm nay:
Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. Amen.
77.Chứng nhân
Trong những năm giảng dạy, có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Các con sẽ làm chứng về Thầy”. Và chứng ấy là “Người ta sẽ hành hạ và giết các con”. Dù không thuộc lịch sử Giáo Hội cho lắm, chúng ta đều biết rằng: Trong ba thế kỷ đầu, Giáo Hội Công giáo đã bị bắt bớ, hành hạ ghê rợn, và không biết bao nhiêu người, từ Giáo hoàng trở xuống, đã đổ máu ra làm chứng đạo Chúa. Rồi lịch sử đạo Công giáo ở Việt Nam cũng thế, dù chúng ta không hiểu biết nhiều lắm, nhưng ai cũng biết rằng: Đây là những trang sử oai hùng, những trang sử mà không một trang nào lại không được tô điểm bằng những nét vàng son chói lọi, và những cái chết anh hùng của tiền nhân chúng ta dưới đủ mọi hình thức tàn bạo, ghê gớm.
Quả thực, có thể nói: Đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bu-giơ-mi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giờ. Vài chục năm sau, cuộc bắt đạo đầu tiên xảy ra thời chúa thượng Nguyễn Phúc, khiến hai thày Inhaxiô và Âu tinh chịu trảm quyết năm 1645 ở Huế. Kể từ năm 1665, việc cấm đạo xem ra liên tục hơn, lúc căng lúc dùng. Hầu hết các thánh đường bị triệt hạ, đất đai nhà chung bị tịch thu và hàng trăm người được phúc tử đạo vào thời Trịnh Cương và Trịnh Giang. Từ năm 1706 đến 1740. Cuộc bách hại kéo dài khốc liệt và đẫm máu hơn qua thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đến thời Văn Thân, khiến nhiều thừa sai ngoại quốc và không biết bao nhiêu linh mục và giáo dân Việt Nam đã phải đổ máu để gieo vãi hạt giống Tin Mừng.
Suốt ba thế kỷ cấm đạo, dưới sáu triều đại, khi thăng khi trầm, Giáo Hội Việt Nam có được khoảng 100.000 vị tử đạo. Trong số đó có 117 vị được phong thánh Tử Đạo vào ngày 19.6.1988 do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hiện nay cũng có mười vị được phong “đáng kính” và 1.000 vị được kể vào bậc “tôi tớ Chúa”. Cái chết của các vị tử đạo nói lên điều gì và dạy chúng ta điều gì?
Chúng ta không những nhìn nhận mà còn xác tín rằng: Những người chết vì Chúa như thế được gọi là tử đạo, nghĩa là những chứng nhân của đạo Chúa. Tại sao vậy? Bởi vì khi ấy cũng như ngày nay, Giáo Hội dùng cái chết của các ngài để minh chứng đạo Công giáo là đạo của Chúa. Các ngài lấy máu mình để làm chứng, không phải là làm chứng cho một lý tưởng, nhưng là cho một việc. Chết cho một lý tưởng chưa phải là bằng chứng quyết định cho lý tưởng ấy, vì người ta có thể tưởng lầm rằng: Lý tưởng ấy là đúng, và chết cho một lý tưởng chỉ minh chứng mình có lòng ngay, mình thành thực. Nhưng khi người ta chết cho một việc thì khác, đó chính là cái chết của các vị tử đạo: Trước cái chết, các ngài tỏ ra can đảm, anh hùng, cương quyết, bình tĩnh, khiến cho mọi người phải thán phục.Trước cái chết, các ngài không sợ hãi, khuyến khích nhau, tha thứ, cầu nguyện cho kẻ bách hại mình, và vui vẻ tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó, cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: Các ngài là những chứng nhân cho đạo Chúa. Vì thế, danh từ “Tử Đạo” có nghĩa là làm chứng, và dùng đau khổ, cái chết để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ cho người khác chém để làm chứng”.
Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: Tử Đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho một số người, nhưng bổn phận làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng, và chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta cần thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng chính đời sống tốt đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả.
Người ta kể rằng: tại Trung Quốc trong những năm trước năm 1950, có nhiều giáo sĩ đã được gửi đến truyền giáo tại nước này. Người ta đã mở những lớp dạy tiếng Trung Hoa cho những giáo sĩ ngoại quốc để có thể tiếp xúc với dân chúng địa phương. tại một lớp nọ có khoảng 70 người theo học, trong buổi học đầu tiên, bà giám đốc của trường bước vào lớp học. Bà ta đi qua từng hàng ghế từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên, tươi cười nhìn các học viên, rồi cuối cùng đi ra khỏi lớp mà không nói một lời nào. Các học viên đều ngạc nhiên về việc làm của bà giám đốc. Một lát sau, bà ta trở lại lớp và hỏi: “Quí vị đã tiếp thu được điều gì hôm nay chưa?”. Mọi người đều ngơ ngác vì bà đã dạy gì đâu? Có một người đứng lên nói: “Chúng tôi chưa nghe bà nói một lời nào. Nhưng chúng tôi chỉ để ý có một điều, khi bà đến lớp này, bà đã xức một loại nước hoa thơm quá”.
Cả lớp phá lên cười. Lúc đó, bà giám đốc tươi cười nói: “Tôi cố ý xức nước hoa thật nhiều để quí vị chú ý đấy. Nếu quí vị đã nhận ra được điều ấy là hôm nay quí vị đã học được một bài rồi. Qua điều ấy tôi muốn nói với quí vị rằng: Quí vị sẽ sống khoảng hai năm ở nước này như những người câm vì quí vị không nói chuyện được với những người Trung Hoa. Tuy nhiên, quí vị vẫn có thể để lại cho những người chung quanh quí vị một mùi thơm đặc biệt qua nếp sống của quí vị, để dầu không nói một lời nào, nhưng người khác cũng vẫn nhận ra được hương thơm của Chúa qua quí vị”.
Là con cái của Chúa, chúng ta có thể đem đến cho trần gian, cho những người chung quanh, hương thơm ngào ngạt của Chúa qua nếp sống hàng ngày của chúng ta mà không cần nói một lời nào. Xin các thánh Tử Đạo cầu bầu và trợ giúp để chúng ta luôn sống đúng và sống đầy đủ bổn phận làm chứng của chúng ta.
78.Các thánh Tử Đạo Việt Nam
Lễ kính các thánh tử đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết.
Tại sao tuyên dương? Thưa vì người ta thường nghĩ “Không có gì quí hơn mạng sống”. Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá đã kiếm cỏ, kiếm vỏ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn; có người bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của người khác, đã dành ăn với người khác; thậm chí có người còn dám ăn thịt người trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy nhiên có những người đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao quí nhất, mà còn có những giá trị không cao hơn nhiều. Thí dụ:
- Trong trận động đất ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình. Vì không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
- Hay như các anh hùng liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản thân.
- Và các vị thánh Tử Đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
Tất cả những người vừa kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết: chỉ cần nói với quan một câu là “Tôi chịu bỏ đạo” thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ cần thưa “vâng” khi quan hỏi “có chịu bỏ đạo không?”, hay đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các ngài đã không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều suy nghĩ:
Điều thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm sống: sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo một lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quí chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch với lý tưởng ấy; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng cao đẹp của mình.
Một trong những điều tệ hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất là các thanh niên ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn hoài được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống mãi rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những cách hưởng thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác thường… kết quả là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du nhập vào xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh Tử Đạo là một điều hữu ích: sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo một lý tưởng cao đẹp.
Điều thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh Tử Đạo là sự trung thực của các ngài: Trung thực là sống đúng theo điều mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là các ngài thực sự tin rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa. Thực tế ngày nay, nhiều người không còn trung thực nữa: họ nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ nói, có khi họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi…
Và điều thứ ba khiến chúng ta kính phục các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một buổi nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác. Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”. Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
79.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam vui mừng mừng kính các anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Trong bầu khí linh thiêng và cảm động này tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài tâm tình của tôi.
1. Tâm tình thứ nhất là tâm tình tự hào.
Các thánh Tử đạo Việt Nam của chúng ta làm cho chúng ta tự hào.
Chúng ta phải tự hào vì chúng ta đã có được những vị tổ tiên anh hùng thật xứng đáng. Các Ngài đã được sinh ra, đã làm việc, đã cùng sống với những người Việt Nam chúng ta ngay trên mảnh đất quê hương thân yêu này. Các Ngài đã sống như biết bao nhiêu những con nguời khác đã sống, nhưng các Ngài đã sống hơn hẳn rất nhiều người khác ở chỗ các Ngài đã biết sống anh hùng, không để cho mình bị mua chuộc, không để cho mình bị khuất phục. Tiền bạc không làm cho các Ngài mù tối. Khổ đau không làm cho các ngài chùn bước, nhục hình không làm cho các ngài ngã qụy, và cả cái chết cũng không uốn cong được lòng trung tín của các Ngài.
Chúng ta hãy đọc lại sắc dụ cấm đạo được ban hành ngày 18-9-1855 để chúng ta thấy được một phần nào những hình khổ mà các Ngài phải chịu như thế nào: "Các quan theo đạo Giatô tại triều đình Huế hạn cho một tháng phải bỏ đạo. Các quan tỉnh thì ba tháng. Lính tráng và người dân thì sáu tháng, bằng không thì phải kể là trọng phạm.
Các người theo đạo Giatô không được thi cử, không được giữ chức tước gì.
Ai đưa đường hay chứa chấp đạo trưởng thì bị xử tử. Đạo trưởng Tây phương thì chém đầu vất xác xuống sông. Các giáo đồ giúp các đạo trưởng thì phải chém đầu.
Các cụ đạo bản quốc cũng phải chém đầu. Các giáo đồ theo các cụ đạo này thì phải thích chữ vào mặt và phát lưu.
Phải đốt cho sạch các nhà thờ nhà xứ "
Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã nghĩ ra và đã dùng để phạt những người theo đạo như sau:
- Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.
- Nặng hơn một chút thì bị voi dầy, bị trói ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng.
- Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ) và thiêu sống.
- Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt cho tới chết)
Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về việc xử Cha cố Du tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:
"Họ cột chân tay Ngài vào một cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất. Tên khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông - rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và Ngài tắt hơi về chầu Chúa lúc 17giờ.
Cha chết rồi, lính chặt đầu Ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi... đoạn họ cởi trói lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc bỏ vào thùng vôi. Tiếp theo họ lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày... rồi lấy xuống nghiền nát ra bỏ vào thùng đựng xác rối vất tất cả xuống biển cho mất tích"
Vâng, kính thưa anh chị em,
Gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng thành của các Ngài còn cao hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùng tử đạo Việt Nam ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau: "Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyênh của Giáo Hội Chúa Kitô".
2. Tâm tình thứ hai là lòng biết ơn.
Việc mừng lễ hôm nay làm tôi nhớ lại những lời rất cảm động sau đây của Chúa Giêsu: "Kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì chúng con không vất vả làm ra. Những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng công lao khó nhọc của họ" (Jn 4,36-37).
Sử gia Tertulianô ngày xưa khi nhìn lại những năm trời Giáo Hội bị bách hại và những cuộc trở lại đạo hàng loạt sau đó, ông đã phải viết lên những lởi rất rất đáng cho chúng ta suy nghĩ như thế này: "Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữu khác"
Hàng trăm ngàn các anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta đã vất vả khó nhọc gieo vãi. Các Ngài đã gieo vãi không phải là những hạt giống thông thuờng nhưng bằng những giọt máu của các Ngài. Và chính nhờ những giọt máu này mà chúng ta mới được như ngày hôm nay.
Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các Ngài vì chính nhờ các Ngài mà hạt giống đức tin đã nảy mầm và lớn lên trong chúng ta.
3. Tâm tình thứ ba là bổn phận phải sống làm sao cho xứng đáng với danh nghĩa con cháu của những anh hùng.
Châm ngôn Việt Nam có câu rất hay: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh"
Phải sống xứng đáng để những thế hệ mai sau khi nhìn vào thế hệ này, họ cũng cảm thấy tự hào.
Năm 1934 khi nhắn nhủ một số các em nhỏ đến mừng sinh nhật của mình nhà bác học bổi danh nhất của thế kỷ thứ 20, Albert Einstein đã nói với các cháu những lời cảm động như sau: "Các cháu nên nhớ rằng những điều kỳ diệu các cháu được học ở trường là do công lao của biết bao thế hệ trên khắp thế giới đã hăng hái gắng sức và cặm cụi làm việc không ngừng rồi truyền lại cho các cháu như một di sản để cho các cháu tiếp nhận, tôn trọng, tăng gia thêm và một ngày nào đó các cháu sẽ lại trung thành truyền lại cho con cháu các cháu. Nhờ vậy mà chúng ta, những con người hữu sinh hữu tử mới thành bất tử trong những vật trường tồn mà chúng ta tạo chung với nhau"
Chúng ta đang thừa hưởng một di sản vô cùng quí giá do cha ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau.
Nhưng truyền lại bằng cách nào?
- Thưa bằng chính cuộc sống mà tổ tiên của chúng ta đã sống.
Văn hào Tagore khi bàn về cái chết của Thánh Gandhi, đã nói: "Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn nhớ tới thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau"
a- Bài học đầu tiên mà mỗi người chúng ta phải noi gương bắt chước đó là phải trung thành với niềm tin.
Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta. Hãy bảo vệ lấy, đừng để cho nó bị hao mòn đi.
Phaolô Mợi bị bắt, bị giải đến quan. Quan dụ:
- Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.
-..........................?
- Vậy một nén vàng!
- Bẩm quan chưa đủ.
- Vậy anh muốn bao nhiêu?
- Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ vàng để mua được một linh hồn khác.
Nguyễn văn Lựu: "Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được."
b- Bài học thứ hai phải can đảm sống niềm tin đó.
Trong một bài diễn văn đọc cho binh lính trước khi họ lâm trạn. Hitler đã nói: "Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ"
Victor Hugo: "Đồi Calvario ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó"
Chúa Giêsu: "Nước Trới phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy"
Không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng.
Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát.
Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt.
Phải xử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.
Lời cuối cùng của tôi. Tôi xin mượn lời của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Roma. Ngài gửi những lời này cho họ vào lúc cơn bắt bớ đạo giáo tại đó bắt đầu trở thành khốc liệt. Ngài muốn dùng những lời này để khích lệ họ, để họ can đảm, để họ tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng: "Ai có thế tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?
Ngài nói tiếp như một xác tín: “Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" Và Ngài kết luận: "Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta" (Rom 8,35-39). Amen.
80.Niềm Tin
Một viên sĩ quan trẻ trong quân đội Nga xin được nói chuyện riêng với vị mục sư người Hungary. Khi hai người ở trong một căn phòng đã đóng kín cửa, viên sĩ quan hung hãn chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng:
- Ông biết không, cái đó là sự dối trá cho các ông bày đặt ra để làm mê hoặc dân chúng. Ở đây bây giờ chỉ có tôi và ông. Ông hãy thú nhận rằng: Ông không hề bao giờ tin rằng ông Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.
Vị mục sư cười và trả lời:
- Này anh bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.
Viên sĩ quan hét lên:
- Ông đừng có lừa dối tôi, đừng diễu cợt tôi.
Rồi anh rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:
- Nếu ông không nhận rằng đó là một sự dối trá thì tôi sẽ nổ súng.
Vị mục sư điềm tĩnh trả lời:
- Dù anh giết tôi, tôi cũng không thể nói điều anh muốn tôi nói. Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô thật sự là Con Thiên Chúa.
Cũng như vị mục sư kia, các thánh Tử Đạo đã kiên cường giữ vững đức tin trước mọi thử thách, mọi gian lao, mọi giông tố của cuộc đời. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Chúng ta có thể kể ra đây một vài khuôn mặt của những vị thánh giáo dân như những chứng từ cho điều chúng ta vừa nói:
- Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.
- Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.
- Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giầu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng người luôn bình tĩnh vui tươi. Người nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.
- Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.
- Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.
- Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.
- Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.
- Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 người con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên đàng”.
- Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Anh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.
Chúng ta không thể kể ra đây hết những hình khổ các thánh Tử Đạo đã phải chịu. Chúng ta cũng không thể nói hết ở đây những lời di chúc quí báu của các ngài. Đối với các ngài, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Có lẽ ngày hôm nay chúng ta không còn được diễm phúc đổ máu và hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa nữa. Nhưng nếu phải hy sinh một món lợi vật chất, nếu phải đánh đổi một chức vụ trong xã hội, nếu phải từ bỏ một thú vui tội lỗi vì Chúa, vì luật lệ, và vì Tin Mừng của Người, chúng ta có dám không, thưa quí ông bà và anh chị em? Phải chăng lập trường của chúng ta vẫn là: “Thà bỏ đạo, bỏ Chúa chứ không bỏ những thứ đó”?
81.Các thánh Tử Đạo Việt Nam
Lễ các Thánh tử đạo Việt Nam (được gọi là lễ Thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo) ấn định trong niên lịch phụng vụ vào ngày 24 tháng 11 mỗi năm, và Hội Đồng Giám mục quyết định dời lễ kính vào ngày Chúa Nhật liền trước hoặc liền sau ngày 24 tháng 11, để giáo dân có dịp tham dự dễ dàng.
Thực ra việc kính Thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo bao gồm việc kính tất cả 117 vị tử đạo đã được Giáo Hội phong lên bậc hiển Thánh. 117 vị Thánh này có 96 Thánh Việt Nam (37 Linh mục, 14 thầy giảng, một chủng sinh và 44 giáo dân), 11 Thánh người tây Ban Nha (6 Giám mục và 5 Linh mục), 10 Thánh người Pháp (2 Giám mục và 8 Linh mục).
Thánh Anrê Dũng Lạc tử đạo ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai vị Thánh tử đạo đầu tiên là Linh mục Tế và Linh mục Đậu tử đạo ngày 22 tháng 1 năm 1745, và vị Thánh tử đạo sau cùng là giáo dân Phêrô Đa tử đạo ngày 17 tháng 6 năm 1862. Như vậy khi nói các bạn tử đạo với Thánh Anrê Dũng Lạc ta phải hiểu là các Thánh tử đạo kể từ năm 1745 tới năm 1862 (trong khoảng thời gian 117 năm).
Tất cả các vị Thánh này, chỉ vì kiên trung giữ vững đức Tin, quyết tâm không bỏ Chúa, không bỏ Giáo Hội, nên đã trải qua nhiều đau khổ, cơ cực, như bị tra tấn, bị đòn vọt đánh nát thịt da, bị kìm nung đỏ cặp vào chân tay, bị đói khát, bị mình trần phơi nắng nhiều ngày, bị gông cùm xiềng xích trong tù ngục nhiều tháng trời.v.v. và sau cùng hoặc bị chém đầu (án trảm), hoặc bị thiêu đốt (án thiêu sinh), hoặc bị xiết cổ đến chết (án giảo), hoặc bị cắt các chi thể rồi mới chém đầu (án lăng trì), hoặc bị cắt xẻ da thịt ra hằng trăm miếng (án bá đao). Cũng có vị, vì bị tra tấn quá dã man, bị đói khát, ngày đêm nhốt trong cũi chật hẹp, lại phải đeo xiềng xích, cùm chân tay, nên đã trút hơi thở cuối cùng, trước khi bị đem ra pháp trường.
Thánh Linh mục Du bị trói vào một cây cọc. Có 3 lý hình, một cầm kìm, một cầm dao, còn một người lo đếm cho đủ 100 lát cắt. Trước đó, lính đã nhét đá vào miệng ngài và cột chặt, để không có thể kêu la hay bỏ chạy được. Sau một hồi trống, lý hình cắt lớp da trên trán Cha Du lệt xuống che mắt, rồi cắt từng mảng hai bên ngực, sau lưng, tay chân. Quá đau đớn Cha Du giãy giụa quàn quại, ngướv mắt lên trời cao, rồi gục đầu xuống nhắm mắt lìa trần. Tiếp theo quân lính cắt đầu của vị tử đạo, bổ thân mình làm 4 và ném xuống biển. Còn thủ cấp Cha được đem đi bêu tại nhiều nơi, rồi đưa trả về kinh đô, bị bỏ vào cối giã nát và cho rắc xuống biển.
Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lện quan án sát. Vừa nghe lện, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nhge hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
Sáng ngày 5-6-1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ông cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ông.
Sau ba tháng tù tại Bình Định ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông.
Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh an năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.
Bà Thánh Inê Đê (Lê Thị Thành), sau khi đã bị tra tấn và chịu đòn, coi trong người không có chỗ nào không bị thương tích, áo quần đầy máu me, bà đã trút hơi thở cuối cùng trong ngục. Lời sau cùng của bà là:
“Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”
Hôm đó là ngày 12-7-1841, sau 3 tháng bị giam cầm về đức Tin.
Riêng những vị xử trảm, cũng có những gương sáng lạng về việc các ngài coi thường sự đau đớn lúc bị chém đầu. Coi như các ngài ước ao được chém nhiều lần để biểu lộ lòng yêu mến Chúa.
Trước khi bị chém Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ hay:
“Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức Tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời.
Năm ông Đaminh Nhi, ông Đaminh Mạo, ông Đaminh Nguyên, ông Anrê Tường, ông Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, bốn vị ông Đaminh Mạo cùng cá ông Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.
Riêng Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao;
“Thằng theo tà đạo, đức ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”
Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28-11-1835. Sáng hôm đó, anh gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa, cho đến chết.”
Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ Anrê Trọng đã đến đón convà theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ phải xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con.”
Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn:
“Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.”
Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, nhưng bà nhưa lấy kỷ vật đó là đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp con bà, cho bà.
Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại:
“Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”
Rồi bà đem về an táng trong nhà.
82.Tử Đạo Việt Nam
Cuối thế kỷ 16 đạo Công giáo được rao truyền tại Việt Nam. Tới thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 thì đã có nhiều người Việt Nam được lãnh nhận triều thiên Tử Đạo. Các Ngài là những người đã vì Chúa mà cam chịu mọi cực hình kể cả sự chết. Trong số những vị Tử Đạo này đã có 117 vị được Giáo Hội dần dần phong lên hàng chân phước rồi sau được phong lên hàng hiển thánh. Về việc phong chân phước cho các ngài thì Đức Lêo XIII phong 64 vị, Đức Piô X phong 28 vị, Đức Pio XII phong 25 vị. Tất cả các vị này: gồm 8 Giám mục, 50 Linh mục, 15 Tu sĩ và 44 giáo dân đã được chính Đức đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong lên hành hiển thánh trong một buổi lễ rất long trọng được tổ chức tại Công trường Thánh Phêrô tại Roma cách đây đúng 10 năm tức là ngày 19-6-1987.
Đi vào chi tiết hơn một chút thì ta thấy trong số 117 vị có 37 Linh mục Việt Nam, 13 Linh mục ngoại quốc dòng và triều. Đáng nhớ hơn cả là cha Vinh sơn Liêm, Cha Phê-rô Nguyễn văn Lựu, Cha Gioan Đoàn trinh Hoan, Cha Philipphê Phan văn Minh nhất là Cha Andrê Trần an Dũng Lạc và Cha Phaolô Lê bảo Tịnh. Có thể nói các ngài là tinh hoa của hàng Giáo sĩ Việt Nam.
Ngay từ nhỏ cha Phaolô Lê bảo Tịnh đã có một đời sống rất đạo đức. Hồi mới được vào nhà trường để được đào luyện thành Linh mục Có lần Thầy đã trốn vào rừng để sống cuộc đời ẩn tu. Sau đó vì vâng lời Thầy đã bỏ chốn ẩn tu về học trở lại. Đang khi theo học khoa Thần học thì thầy bị bắt, bị giam cầm tra tấn gông cùm suốt 7 năm rồi cuối cùng bị đi dầy. Sau một thời gian Thầy được phóng thích. Thầy đã được chịu chức Linh mục sau đó, rồi vì nhu cầu của Chủng Việc Cha Lê bảo Tịnh đã được Bề trên đặt Ngài làm Giám Đốc. Cuộc đời của Ngài rất gương mẫu. Nhưng chỉ được một thời gian thì Ngài bị bắt trở lại, bị tra tấn hạnh hạ thật dã man rồi cuối cùng Ngài bị trảm quyết.
Còn Cha André Trần an Dũng Lạc thì bị bắt đi bắt lại tới 3 lần. Ngài được giáo dân rất thương mến cho nên mỗi lần bị bắt ngài lại được giáo dân chuộc ra. Sau ba lần thì Ngài không để cho chuộc nữa. Ngài vâng theo thánh ý Chúa…can đảm chịu chết để làm gương cho các tín hữu. Có một chi tiết khá đặc biệt là Ngài rất được cảm tình của đám binh lính và lý hình. Trước khi hành hình họ đã thành tâm xin lỗi ngài vì lệnh mà họ phải làm như vậy.
Về phía các Thầy giảng thì chúng ta thấy các ngài cũng không kém anh hùng. Các Ngài cũng rất sẵn sàng chịu mọi cực hình để được làm chúng cho Chúa. Trong số này phải nhắc đến Thầy Phêrô Đoàn cap Văn. Thần Văn đã già. Già nhưng họ cũng không nương tay. Thầy bị gông cùm, bị đánh đòn và bị bỏ đói cho đến chết. Bên cạnh đó có Tôma Trần văm Thiện. Thầy Thiện là mộ chủng sinh dự bị. Thầy quyết một lòng theo Chúa cho đến cùng. Đến khi bị điệu ra pháp trường quan toà còn dùng đủ mọi cách để cám dỗ thầy quá khóa kể cả việc hứa thưởng những bổng lộc lớn lao cho Thầy. Thế nhưng chẳng có gì có thể làm thầy lìa bỏ Chúa. Thầy đã chọn vinh quang nước trời hơn mọi thứ lợi lộc ở trần gian.
Sau cùng là 44 giáo dân Nam nữ ở mọi lứa tuổi thuộc đủ mọi thành phần giai cấp xã hội. Chúng ta hãy nhắc đến một số những tên tuổi đặc biệt. Trần văn Trung là một viên cai đội. Giuse Lê đăng Thị là một chưởng vệ. Giuse Nguyễn huy Mỹ là một lý trưởng. Chính người vợ của Ngài đã khuyến khích Ngài chịu chết để làm gương cho mọi người. Andrê Trần văn Trông là một binh sĩ trẻ. Ngài được chính Mẹ của mình đưa đến pháp trường và sau khi ngài chịu hành hình chính bà đã ôm hôn thắm thiết xác con mình. Việc làm của bà chẳng khác gì việc làm của Mẹ Maria khi Mẹ ôm xác Chúa Giêsu sau khi xác xủa Chúa được đưa từ trên cây Thánh giá xuống. Cũng phải nhắc ở đây một người đàn bà rất đặc biệt đó là bà Inê Lê thị Thành. Người ta vẫn thường gọi là bà Đê. Bà là người có công che giấu các Linh mục tại nhà mình. Khi bị bắt bà đã nhất định không bước qua cây Thập giá dù đã bị tra tấn rất dã man. Cuối cùng bà đã chết ở trong ngục.
Ngoài ra chúng ta cũng thể không nhắc đến một chi tiết này đó là trong số những vị Tử Đạo được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô tuyên phong lên hàng hiển thánh kỳ này có 8 Giám mục ngoại quốc. Trong sắc phong 117 vị tử đạo Đức Thánh Cha đã xử dụng một cụm từ rất chính xác. Ngài nói các vị tử đạo TẠI Việt Nam. Cụm từ đó làm cho các Giám mục ngoại quốc tham dự lễ tấn phong hôm đó rất cảm động. Trong số 8 vị đó thì có 3 vị nổi tiếng hơn cả. Đó là Đức cha Thể, Đức cha Y, Đức cha Xuyên. Đây là những vị mục tử nhân lành đã theo thật sát gót chân Thầy chí thánh hy sinh mạng sống của mình vì đoàn chiên. Đức cha Thể thì chết rũ tù. Đức cha Y thì cũng bị giam trong tù trước khi bị trảm quyết.. Đức cha Xuyên thì bị hình phạt rất man rợ đó là Ngài bị lăng trì….thịt xương bị xẻo bị cắt ra từng mảnh cho tới chết.
Chúng ta cũng nên nhắc lại đây một vụ sát hại thảm khốc xẩy ra ở gần chúng ta. Tôi muốn nói đến vụ thảm sát tại Bà rịa vào ngày 7-1-1862.
Vào năm 1861 số tín hữ tại Bà rịa có vào khaỏng hơn 2000 người. Cuộc sống được yên ổn cho đến tháng 8 năm 1861 nghĩa là cho tới khi quan tuấn vũ Biên Hòa ra chỉ thị cho quan phủ Bà rịa lập danh sách những người có đạo. Sau khi lập danh sách, nhưng người có đạo đếu bị khắc tự ở hai bên má: Một bên thì bị khắc hai tiếng "Biên Hòa", bên kia thì bị khắc hai tiếng "Tả đạo".
Tháng 9 năm đó người ta thấy bốn ngục giam được thiết lập. Đây là ngục dành riêng để giam giữ những người có đạo.
Ngục Dinh (Phước lễ) được lập ngay tại Bà rịa để giam 300 đàn ông.
Ngục Thơm ở Long Kiên gần đó để giam 135 người vừa đàn bà vừa trẻ em.
Ngục Thành ở Long điền cũng để giam vừa đàn bà vừa trẻ em. Số người ở đây là 140 người tất cả.
Ngục cuối cùng là ngục Đất đỏ (Phước thọ). Ở đây người ta giam 125 người cũng vừa đàn bà vừa trẻ em.
Như vậy chỉ tính ở Vùng Bà rịa cũng đã có đến gần 700 người bĩ bắt và bị giam. Cuộc sống bị giam cầm rật khổ. Mùa khô thì còn đỡ, đến mùa mưa thỉ cuộc sống lao tù thật rất khổ. Các tín hữu bị canh giữ nghiêm ngặt, nhiều nơi phải ăn uống và xử lý mọi việc có liên đến đời sống hằng ngày trong cùng một chỗ, rất là mất vệ sinh nhưng không còn cách nào khác. Đối với ba ngục giam giữ đàn bà và trẻ con thì tương đối được dễ hơn một chút.Chính vì thế mà Cha Trí mới có thế giả dạng làm người lái buôn nước mắm để vào tiếp tế cũng như ban các phép Bí tích cho bổn đạo.
Một việc rất không may là cuối tháng 12 năm 1861 thì Biên Hòa thất thủ. Quân nhà Nguyễn phải chạy về hướng Bà rịa. Tại đây họ cũng chỉ cấm cự được đến tháng ngày 7 tnáng 1 năm 1862. Trước khi rút đi họ ra lệnh phóng hỏa thiêu rụi tất cả các trại giam với tất cả những người bị giam ở trong đó. Họ canh giữ một cách rất cẩn thận. Ai đào thoát mà họ bắt được thì sẽ bị chém ngay lập tức. Dịp này trại Dinh bị thiệt hại nhiều nhất. Trong số 135 người bị giam tại đó thì đã có tới 106 người bị chết. Ba trại kia vì là đàn bà con trẻ cho nên những lính canh đỡ khắc nghiệt hơn. Một vài người lính còn nhân đạo hơn. Họ phá cửa cho những người bị giam trong đó được thoát thân. Chỉ trừ có trại Thơm ở Long Kiên là bị hại nhiều hơn cả. Lý do là tên cai ngục ở đó quá tham lam. Ông ta chặn những người ở đó để cướp của.
Tổng kết lại trong thảm họa này số những người giam ở bốn trại bị chết là 288 người. Trong số này có đủ mọi lứa tuổi:
Bà cụ Maria Nở ở Long điền 75 tuổi
Ông Giuse Vệ ở Phước lể cũng 75 tuổi.
Em Micae Giao, Phê-rô Ban, Carôlô Nhỏ ở Long Kiên và Long Điền mới chỉ có 10 tuổi.
Em Madalena Lợi ở Long Kiên và Maria Mới ở Đất đỏ mới chỉ được một tuổi.
Đặc biệt là hai cháu sơ sinh Antôn Trước và Antôn Sau. Đây là hai anh em sinh đôi trong trại Đất đỏ. Các cháu chẳng khác gì các tánh anh hài thời Chúa Giêsu vừa mới Giáng sinh.
Ngày hôm sau tức là ngày 8-1-1862 những nơi bị phóng hỏa chỉ còn là một đống tro tàn với những thi thê các vị tử đạo còn nằm ngổn ngang tại đó.
Cha Hòa và Cha Trí âm thầm lo mai táng cho các ngài. Hai cha đào 3 cái huyệt lớn bên ngục Dinh và an táng các đấng tử đạo trong ba cái huyệt này. Riêng các đấng bị chết ở ba ngục kia thì không có tài liệu nào nói rõ.
Ngày nay tại Bà rịa nơi an táng các ngài người ta vẫn còn thấy một tấm bia trên đó có khắc những dòng chữ này:
Ba trăm bổn đạo xác nằm đây
Những trông sống lại hưởng phúc đầy.
Vì Chúa tù, lao, dư ba tháng,
Cam lòng chịu cháy, chết chỗ này.
Lập mộ cùng táng chung một huyệt.
Giáo nhơn coi đó, nhớ hằng ngày.
Chúng ta là con cháu của các Ngài. Chúng ta hãy noi gương các Ngài.Noi gương yêu Chúa và yêu người. Noi gương can đảm không lùi bước trước những thử thách gian nan. Noi gương hy sinh không màng danh lợi, quyết một lòng trung tín với Chúa cho đến cùng. Lời Chúa nói ngày xưa vẫn còn như mãi nhắc nhở cho mọi người chúng ta:"Ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được ơn cứu độ".
83.Tử Đạo Việt Nam
Hôm nay chúng ta vui mừng và cảm dộng mừng lễ các thánh anh hùng Tử Đạo Việt Nam. Việc mừng lễ hôm nay phải làm bộc phát lên trong lòng chúng ta niềm tự hào chan chứa. Chúng ta tự hào vì trong những trang sử của Giáo Hội Việt Nam chúng ta có những trong sử đầy chất anh hùng. Đây là những biến cố có tầm vóc không phải chỉ với chúng ta mà còn cả với Giáo Hội toàn cầu. Chính Đức Thánh Cha Lêô XIII trong sắc phong 64 vị tử đạo Việt Nam lên hàng chân phước ngày 27.5.1900 đã nói:"Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa trong những thế kỷ khai nguyên của Giáo Hội "
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ II trong bài giảng ngày lễ tôn phong 117 vị anh hùng tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh cũng phát biểu tương tự như thế. Ngài nói: " Từ năm 1533 tức là từ khi cuộc rao giảng Tin Mừng Kitô bắt đầu tại vùng Đông Nam Á, Giáo Hội Việt Nam trong suốt 3 thế kỷ đã phải chịu những cuộc bách hại liên tiếp nhau với một vai giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo Hội tại Tây Phương đã chịu trong 3 thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn tín hữu Kitô chịu tử đạo và rất nhiều người khác đã chết trong rừng núi, những vùng ma thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đầy tới.
I. Sự kiện.
Hôm nay trên khắp mọi nẻo đường của đất nước, chúng ta vẫn còn thấy hiển lộ ra nhiều dấu tích đau thương nhưng rất hùng tráng này. Một trong các dấu tích sáng ngời nhất đó là Thánh địa Lavang mà mọi người chúng ta đều biết, nơi đây chúng ta mới kỷ niệm 200 năm ngày Mẹ hiện ra với con cái của Mẹ vào một trong những giờ phút đau thương nhất của những người con cái Mẹ trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này. Giờ đây tôi xin dành một ít phút để đi sâu vào một vài khiá cạnh làm nên những trang sử anh hùng đáng tự hào này.
1. Trước hết là thời gian và con số:
+ Thời gian không xa chúng ta lắm. Nó bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888 có nghĩa là chỉ cách chúng ta hơn một thế kỷ và kéo dài gần 3 thế kỷ. 3 thế kỷ ba thế hệ của cuộc sống làm người.
+ Con số người chịu ảnh hưởng của cuộc bách hại này không nhỏ: Lịch sử cho chúng ta thấy những người chịu ảnh hưởng của cuộc bách hại rất lớn.
* Có khoảng 400.000 người bị lưu đầy, phát lưu và phân sáp.
* 130.000 người đã chết vì đạo trong số này đã có 117 vị được Giáo Hội chính thức tôn phong lên hàng hiển thánh vào ngày 19.6.1988 cách đây 12 năm.
2. Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được
- Còn một chút nhân đạo như bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói.
- Nhẹ nhàng như bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng vv.
- Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết - tức là bị chặt đầu- bị xử giảo - tức là bị thắt cổ -, hay bị thiêu sống.
- Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì - phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
Xin được dịch ra ở đây một đoạn được viết trong cuốn La Cochin-chine Religieuse về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao.
Ngày 30-11-1835 họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử Ngài.
Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.
Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.
Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ.
Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết.
Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa.
Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất - một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông - rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi láy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30-11-1835
Cha chết rồi bọn lính chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích"
3. Bây giờ tôi xin nói thêm một chút về 117 thánh tử đạo đã được Giáo Hội phong lên hàng hiển thánh. Quá trình này đã được chuẩn bị khá lâu.
* Ngày 27-5-1900 Đức Thánh Cha Lêo XIII phong 64 vị lên hàng chân phước. Đây là lần đầu tiên.
* Ngày 20-5-1906 Đức Thánh Cha Pio X phong thêm 8 vị.
* Ngày 02-5-1909 cũng Đức Thánh Cha Piô X phong thêm 20 vị nữa.
* Ngày 29-4-1951 Đức Thánh Cha Pio XII phong 25 vị.
Trong 117 vị được phong chân phước có
8 Giám mục (Giám mục thuộc dòng Đaminh và 2 Giám mục thuọc Hội thừa sai Paris)
50 Linh mục (Gồm 37 là người Việt Nam, 8 thuọc Hội thừa sai Paris
và 5 thuộc dòng Đaminh)
15 thầy giảng
và 44 giáo dân thuộc đủ mọi thành phần xã hội: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v..v.
4. Xét theo loại hình phạt thì
* 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất
* 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ.
* 8 vị chết rũ tù
* 6 bị thiêu sinh
* 4 bị lăng trì - tức là phân thây ra từng mảnh
* 1 bị tử thương và
* 1 bị bá đao
5. Xét về thời gian thì
* 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Doanh
* 2 vị chịu tử đạo thời Trịnh Sâm
* 2 vị chịu tử đạo thời Cảnh Thịnh.
* 57 vị chịu tử đạo thời Minh Mạng
* 3 vị chịu tử đạo thời Thiệu Trị
* 51 vị chịu tử đạo thời Tự Đức
Kính thưa anh chị em tôi vừa lược lại một số những sự kiện Lịch sử còn in thật đậm trong Lịch sử Giáo Hội Việt Nam.
II. Bài học.
Bàn về cái chết của Gandhi một con người mà người dân Ấn độ lúc nào cũng kính trọng và coi ông như một vị thánh nhà văn hào Tagore đã viết: "Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn phải nhớ tới thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau"
1. Bài học thứ 1 có vẻ hơi tiêu cực một chút.
Anh chị em ai có dịp đi thăm cố đô Huế, vào thăm các lăng tẩm đặc biệt là Lăng Minh Mạng Và Tự Đức và nếu chúng ta hỏi những người coi sóc các lăng tẩm về vị trí của những ngôi mộ các vua được chôn ở trong đó thì người ta sẽ cho chúng ta biết sự thật này: Không ai biết họ được chôn tại vị trí nào. Theo truyền thuyết kể lại vì sợ người ta trả thù do lối sống quá tàn ác của mình cho nên những người thân với Minh Mạng và Tự Đức đã phải dùng tới việc "phi tang" bằng cách cho giết hết những người tham dự vào cuộc mai táng hai ông Vua này.
Trong bài diễn văn nổi tiếng đọc tại Hà nội ngày 17/11/2000 ông Bill Clinton, tổng thống Mỹ có nói một câu làm cho mọi người phải suy nghĩ: “Chúng ta không có thể sửa lại được quá khứ”.
Không biết khi con sống Minh Mạng và Tự Đức có thấy được cái sự nhục nhã mà họ để lại sau khi họ qua đời hay không. Những ông Vua mà khi chết còn sợ người ta quật mồ lên để trả thù! Vậy thì sống mà để làm gì?
Chúng ta hãy cố sống thế nào để hiện tại chúng ta đang sống không trở thành một quá khứ tủi nhục cho tương lai mà ngược lại phải trở nên bài học đáng tự hào cho hậu thế như các thánh tử đạo cha ông của chúng ta.
2. Bài học thứ 2: Giá trị của niềm tin.
Đức tin là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa nhưng nhiều khi chúng ta không ý thức được giá trị của nó. Phải ở trong những hoàn cảnh Đức tin bị đe dọa con người mới thấy được Đức tin có một gía trị to lớn như thế nào.
Phaolô Mợi bị bắt bị đem ra xử.
Quan nói với Anh: "Anh đạp lên ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.
Phaolô Mợi không trả lời.
Quan nói tiếp: " Vậy thì một nén vàng.”
+ Dạ bẩm quan chưa đủ.
- Vậy anh muốn bao nhiêu?
+ Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khoá thì quan lớn phải cho tôi đủ vàng bạc để tôi mua được một Linh hồn khác! Vâng làm sao mà có đủ vàng bạc để mua được một linh hồn!
3. Bài học về lòng trung thành.
Trong một bài diễn văn Hitler đã tuyên bố một câu làm nức lòng các chiến sĩ của ông. Ông nói: "Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ"
Nietszche: "Lao công của các bạn là chiến đấu. Hoà bình của các bạn là chiến thắng"
Victor Hugo: "Đồi Calvaire ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó"
Chính Chúa Giêsu cũng đã có lần tuyên bố: "Nước Trời phải dùng sức mạnh mà cướp lấy"
Còn Nguyên văn Lựu thì nói: "Đạo đã nhập vào xương vào tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được "
Sẽ không có vinh quang cho nhưng ai không chịu chiến đấu.
Sẽ chẳng có chiến thắng cho những ai không dám ra chiến trường.
Sẽ không có phần thưởng cho những ai không chịu hy sinh vì chính nghĩa Nước trời.
Tôi xin được kết thúc bằng một lời tuyên xưng trung thành của thánh Phaolô: " tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.
84.Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, trước tiên chúng ta hãy hợp cùng các ngài để tạ ơn Chúa. Các ngài là cha ông của chúng ta đã từng sống trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, và từng dấu chân của các ngài đã đặt trên các con đường chúng ta đang đi. Nói chung, các ngài là những con người như chúng ta, cùng một phong tục, một văn hoá như chúng ta. Và xét về mặt con người, các ngài cũng có những mặt tình cảm, mặt giới hạn, những yếu đuối như chúng ta. Nhưng các ngài đã trung thành với ơn Chúa cho đến cùng, bất chấp mọi gian nan thử thách, bất chấp những dã man và các ngài đã dùng cái chết thảm thương của mình để nói với tất cả con cháu và toàn thể thế giới rằng: "Chỉ có Thiên Chúa là Đấng đáng được tôn thờ và yêu mến mà thôi".
Nhờ đâu mà các ngài được can đảm và mạnh mẽ như thế? Chính là nhờ ơn Chúa, vậy chúng ta hãy cùng với các ngài tạ ơn Chúa. Ngày hôm nay mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta hãy cùng chia vui với các ngài, vì những đau khổ chóng qua của đời này đã hết, số phận đời đời của các ngài đã được định đoạt. Các ngài hưởng nhan thánh Chúa đến muôn thuở muôn đời và không còn lo âu sợ hãi gì nữa, nhất là sợ mất Thiên Chúa. Vì từ nay Chúa chính là phần gia nghiệp của các ngài. Chúng ta hãy chia vui với cha ông của chúng ta và cùng vui mừng với Giáo Hội Việt Nam yêu quí của chúng ta, vì đã có những người con ưu tú đang sống trọn vẹn niềm vui, sự an bình và sung mãn của Nước Trời.
Mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay chúng ta cũng đừng quên cầu xin Chúa cho Giáo Hội, nhất là cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta. Bởi vì hầu như bất cứ ở đâu và thời nào, Giáo Hội cũng luôn luôn bị bắt bớ và thách hại và những người con trung thành của Giáo Hội vẫn luôn chịu tử đạo. Nhất là ngày nay, sự tử đạo dần mòn vì bị trị áp đảo tinh thần. Lý do là vì những đường lối hướng dẫn của Giáo Hội trong mọi lãnh vực của đời sống con người luôn là ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa, luôn bênh vực cho những quyền căn bản của con người, để giúp tất cả mọi người không phân biệt màu da ngôn ngữ, văn hoá, chủng tộc... luôn sống đúng nhân phẩm của mình trong vũ trụ này, hầu chu toàn bổn phận làm con cái của Chúa.
Nhưng một thực tại không chối cãi được nơi trần gian này mà thánh Gioan đã ghi ngay trong những câu đầu Phúc âm của ngài, ngài viết: "Ánh Sáng chiếu trong bóng tối, nhưng bóng tối không chịu tiếp nhận ánh Sáng". Và chính Chúa Giêsu, Ngài cũng đã quả quyết: "Ai thích làm những điều ám muội trong bóng tối thì ghét ánh Sáng". Cho nên hầu như lúc nào lực lượng của bóng tối cũng tìm đủ mọi lý do để phủ nhận ánh sáng bằng cách nhân danh một nền văn hoá, nhân danh một cá nhân, một bè đảng trần thế, nhân danh một ý thức hệ để loại trừ Giáo Hội.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo Hội luôn vững tin vào Thiên Chúa và luôn nhớ rằng, chính Chúa Giêsu, Đấng Sáng Tập Giáo Hội đã nói với Simon con ông Giona, tức là Phêrô rằng: "Này con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng nổi. Chúng ta hãy cầu xin cho những người con của Giáo Hội biết trung thành bền vững đi trong ánh sáng và hướng dẫn người khác luôn tiến bước trong ánh sáng của Giáo Hội. Đừng bao giờ hùa theo sức mạnh của bóng tối, đừng chạy theo cặn bã phù vân để bách hại Giáo Hội là Mẹ của mình.
Nhìn lại lịch sử của Giáo Hội, có một điều làm chúng ta an ủi là Giáo Hội vẫn trường tồn và phát triển qua bao nhiêu bách hại. Mặc dù các đế quốc quyết tâm tiêu diệt Giáo Hội, nhưng họ đã bị sụp đổ, các cá nhân vì những quyền lợi riêng tư đã thù ghét đàn áp Giáo Hội, nay đã nằm yên trong lòng đất lạnh và không còn ai nhắc đến nữa. Gần đây, các thế lực vô thần độc tài bài trừ Giáo Hội một cách khoa học và tinh vi cũng đã tan tành bể vụn ra từng mảnh trước mắt chúng ta.
Nhiều nơi sau thời bách hại đã qua, các tín hữu đã cùng hát lên với nhau Thánh Vịnh 125:
"Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về,
Chúng con thuở ấy dường như đang mơ.
Miệng cười thú vị làm sao,
Lưỡi dân rối rít xôn xao nỗi mừng.
Ai gieo trong lệ sầu,
Sẽ gặt trong hân hoan.
Ai vừa khóc vừa đi,
Đem hạt giống ra vãi,
Ắt se trở về vui vẻ, mang theo bó lúa bên mình".
Vì thế, chúng ta hãy cầu xin cho Giáo Hội Việt Nam đem hạt giống chôn vùi trong lòng đất, nhưng không phải để mục nát thối rữa, mà là để nảy mầm tươi tốt trong mùa xuân của dân tộc đang như con nhộng nằm trong kén, nhưng không phải để ngủ mê mà để âm thầm chuyển mình chờ ngày cánh kén tung bay thành con bướm nhởn nhơ với muôn màu muôn sắc trên cánh đồng đầy hoa tươi rực rỡ trên bầu trời trong mát.
Sau cùng, mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện cho chính bản thân và cho gia đình của mình, nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Xin cho mỗi người, mỗi gia đình biết noi gương các thánh luôn trung thành yêu mến Chúa, sống đời đạo đức gương mẫu, để ngày kia chúng ta được sum vầy trong Nước Chúa, bên Các Thánh Tử Đạo cha ông của chúng ta.
Thật là đau khổ biết bao nhiêu khi chúng ta tường tượng thấy người thân yêu sẽ không cùng với chúng ta để hưởng hạnh phúc đời đời trong Nước Thiên Chúa, mà phải trầm luân muôn kiếp trong chốn tối tăm. Cho nên, yêu thương nhau thật sự chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau và luôn luôn khuyến khích, hướng dẫn nhau giữ đạo cho tử tế, thờ kính yêu mến Chúa hết lòng, để một ngày kia tất cả chúng ta cùng với các thánh ca khen danh Chúa mãi mãi muôn đời. Amen.
85.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Chúng ta có thể coi đạo Công Giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ 16, còn trước đó thì rất mơ hồ. Một vài tác giả cho rằng: các môn đệ của Thánh Tôma từ Ấn Độ theo các tàu buôn đã đến truyền giáo cho người Việt Nam.
Theo Đại Việt Sử Ký thì Sĩ Nhiếp là người thờ kính Chúa Trời, có xây một đền tại dinh của ông. Trong đền này có hình Gia tô thập tự. Ông chết năm 226, thọ 90 tuổi. Tuy nhiên đó mới chỉ là ức đoán mà thôi. Việc truyền giáo chỉ thực sự khởi sắc vào thời hậu Lê thuộc thế kỷ 16, khi các cha dòng Tên theo các tàu đã đến và giảng đạo tại Việt Nam.
Thời hậu Lê, tuy cấm đạo nhưng chưa khắc nghiệt lắm vì hoàn cảnh loạn lạc. Sau đó Tây Sơn đánh đổ nhà hậu Lê, đã ban cho tự do tôn giáo, nhưng không được bao lâu, nhà Tây Sơn cũng ra lệnh cấm đạo. Từ thời hậu Lê cho tới nhà Nguyễn, trong khoảng thời gian 162 năm, đã có 11 lần cấm đạo, những chưa gắt gao cho lắm.
Nhờ giám mục Bá Đa Lộc giúp đỡ, Nguyễn Phúc Ánh đánh thắng nhà Tây Sơn, lên làm vua và khởi đầu cho triều đại nhà Nguyễn. Vì thế, vua Gia Long không cấm đạo mà còn bênh vực và nâng đỡ. Có người nói rằng khi gần chết nhà vua đã trở lại, nhưng không có bằng chứng chắc chắn nào cả.
Sang thời Minh Mạng, lúc đầu nhà vua không cấm đạo, nhưng chung quanh nhà vua, toàn những vị quan thù ghét đạo, luôn tìm cách vu khống cho người có đạo, thành thử nhà vua đã ngả theo và ra sắc chỉ cấm đạo trong cả nước.
Thời Thiệu Trị cũng vậy, lúc đầu nhà vua cũng không cấm đạo, nhưng kể từ ngày tàu Pháp tấn công cửa Hàn Tứ tại Đà Nẵng, nhà vua tức giận và đã cấm đạo một cách gắt gao. Nhà vua treo thưởng cho ai bắt được một linh mục Pháp là 30 nén bạc. Công việc chua đi đến đâu, thì nhà vua lâm bệnh và qua đời.
Thời Tự Đức, khi mới lên ngôi, nhà vua tỏ ra rất khoan hồng, mở cửa ngục tù cho giáo dân ra về, hy vọng những ngày đen tối sẽ chấm dứt. Thế nhưng, chẳng được bao lâu, hoàng hậu và các quan không đồng ý. Vì sợ có chia rẽ, nên nhà vua lại ban hành lện cấm đạo một cách gắt gao, không kém gì các bạo vương Rôma ngày xưa.
Trải qua hơn ba thế kỷ, hằng trăm ngàn người đã phải lìa xa quê hương, sống lén lút nơi rừng thiêng nước độc, để trốn tránh sự truy lùng như những giáo dân vùng La Vang Quảng Trị. Còn những người bị bắt, thì đã phải chịu những cực hình dã man, không kém gì các thánh tử đạo của Giáo Hội trong thời buổi sơ khai. Vậy đâu là những lý do khiến cho vua quan ra lệnh cấm đạo.
Lý do thứ nhất đó là vì óc thủ cựu và hẹp hòi. Họ luôn cho rằng chỉ mình mới tốt và đúng, còn người khác thì xấu và sai. Hơn nữa do ảnh hưởng của Nho giáo, phàm những gì thánh hiền đã nói hay đã viết, đều là khuôn vàng thước ngọc cần phải tuân theo.
Lý do thứ hai đó là vì thái độ giận cá chém thớt. Thuở ban đầu các vua Minh Mạng, thiệu Trị và Tự Đức đều không cấm đạo, nhưng sau đó, vì không ngăn chặn được sự tấn công của người Pháp, nên vua quan quay ra thù ghét những người mà họ cho rằng đã theo đạo của Tây và khép vào tội phản động, nối giáo cho giặc.
Lý do thứ ba, đó là vì cho rằng những người theo đạo không còn tôn trọng truyền thống cha ông để lại, chẳng hạn trong việc thờ cúng ông bà tổ tiên, hiếu kính đối với cha mẹ…Đây cũng chỉ vì óc thiển cận, không tìm hiểu cho thấu đáo, nên đã gây ra những ngộ nhận, những hiểu lầm đáng tiếc.
Tuy nhiên lý do căn bản nhất vẫn là sự đối kháng giữa tinh thần của Chúa và tinh thần của thế gian. Đối kháng như lửa và nước, như ánh sáng và boqng tối. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã tiên báo: Người ta đã bắt bớ Thầy, thì người ta cũng sẽ bắt bớ các con…Nhưng ai xưng tụng Thầy trước mặt người đời thì Thầy cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự ở trên trời.
Sự bắt bớ, hay nói đúng hơn, sự đối kháng này không phải chỉ xảy ra bên ngoài trên bình diện xã hội, như chúng ta đã thấy, mà còn xảy ra bên trong, trên bình diện nội tâm. Thực vậy, chúng ta luôn cảm thấy một sự giằng co giữa sự thiện và sự ác, để rồi như thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Bởi đó, hãy trung thành với Chúa trong những bắt bớ bên trong bằng cách thự hiên điều thiện điều tốt, nhờ đó chúng ta sẽ trung thành với Chúa trong những bắt bớ bên ngoài. Vì ai bền đỗ đến cùng, thì sẽ được cứu thoát.
86.Bách hại
Trong cuộc sống, chúng ta thấy có những viên thuốc đắng, người ta phải bọc đường để cho dễ uống. Thế nhưng qua Tin mừng, Chúa Giêsu đã không hành động như vậy. Trái lại, Ngài đã nói rõ cho các môn đệ biết những khó khăn đang chờ đón các ông. Ngài bảo: - Thầy sai các con đi như chiên con ở giữa sói rừng. Người ta đã ghét bỏ Thầy, thì rồi họ cũng sẽ ghét bỏ các con. Đầy tớ không trọng hơn chủ. Họ sẽ xua đuổi các con ra khỏi hội đường, sẽ bắt bớ và hãm hại các con. Đã đến giờ những kẻ giết các con tưởng rằng làm như thế là phụng sự Thiên Chúa…
Quả thật là rõ ràng và minh bạch, không dấu diếm, không úp mở và chúng ta cũng chẳng cần phải cắt nghĩa hay thêm bớt điều gì nữa. Kể từ nay, các ông sẽ phải mạnh dạn tiến lên với dấu ấn của người môn đệ Đức Kitô. Thế gian sẽ nhìn các ông như những kẻ xa lạ và thù địch, không có cùng một mẫu số chung, không đồng hội đồng thuyền với họ.
Nếu Đức Kitô đã bị đóng đanh vào thập giá như một tên tội phạm về phương diện chính trị, thì các ông cũng vì Ngài mà bị điệu tới vua chúa và chính quyền, bị hành hạ và ngược đãi, để rồi sau cùng đã chết đi cho ánh sáng Tin mừng được chiếu tỏa. Và sự thật đã xảy ra như thế. Tất cả các ông, ngoại trừ thánh Gioan tông đồ, đều đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô.
Theo mẫu gương kiên hùng của các ông, Giáo hội sơ khai cũng đã bị nhuộm thắm bởi dòng máu của hàng ngàn, hàng vạn các tín hữu bị bách hại duới thời các bạo vưong La Mã, đúng như lời Chúa đã báo trước:
- Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con.
Tại Hollywood, kinh đô điện ảnh của thế giới, người ta đã dàn dựng những cuốn phim vĩ đại nói về những cuộc bách hại các tín hữu trong những thế kỷ đầu. Hàng ngàn tín hữu đã bị làm mồi cho sư tử tại các hý trường. Với màn ảnh rộng và với màu sắc huy hoàng, người ta đã thực hiện được những cảnh hùng vĩ ấy một các dễ dàng và đã gây được một sự xúc động mạnh mẽ nơi khán giả.
Dầu vậy, đó vẫn chỉ là những cảnh giả tạo. Ống kính không thể thu được cái thực tại sống động và cay đắng mà các môn đệ cũng như các tín hưu sơ khai đã phải trải qua:
- Thầy sai các con đi như chiên con ởi giữa sói rừng.
Kinh nghiệm đau thương ấy vẫn luôn xảy ra ơ mọi nơi và trong mọi lúc. Ngay như Giáo hội Việt Nam cũng vậy. Với hơn ba trăm năm cấm cách, trải dài từ thời Hậu Lê cho đến thời nhà Nguyễn, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, hàng trăm ngàn người đã phải rời bỏ nơi quê cha đất tổ, sống lẩn trốn nơi rừng thiêng nước độc như các tín hữu vùng La Vang Quảng Trị. Hàng ngàn tín hữu đã ngã gục duới những cực hình dã man để trở thành những chứng nhân bất khuất cho Tin Mừng, trong số đó, 117 vị đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tôn lên bậc hiển thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 tại Rôma.
Từ những sự kiện trên, chúng ta thấy tinh thần Kitô giáo luôn là một cái gì trái ngược với tinh thần thế gian. Chẳng hạn khi Đức Thánh Cha lên tiếng trình bày quan điểm của Giáo hội trước những vấn đề thời sự nóng bỏng trên thế giới, thì người ta lập tức mổ xẻ, phê bình và không ngần ngại chỉ trích và phản đối. Họ muốn giới hạn tôn giáo vào những hoạt động mang tính cách riêng tư, chứ không để cho tôn giáo ảnh hưởng đến đời sống của xã hội cũng nhu đến những sinh hoạt trong lãnh vực kinh tế, chính trị…
Làm như vậy là đi ngược lại với sứ mạng của Kitô giáo. Đúng thế, Kitô giáo không phải là một hòn đảo biệt lập, hay là một pháo đài cho chúng ta ẩn náu an tòan, cũng không phải là một cái vỏ ốc cho chúng ta thu mình vào đó. Trái lại, Kitô giáo phải là một con đường dẫn chúng ta đến với người khác để rồi cùng với họ chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa.
Vì thế mỗi người Kitô hữu đều có bổn phậnph trở nên như muối ướp cho trần gian khỏi ươn thối, phải trở nên như ánh sáng chiếu soi trong đêm tối.
Chúng ta không phép được che dấu tinh thần của Đức Kitô, trái lại phải làm cho nó thấm sâu vào môi trường chúng ta đang sống.
Chúng ta không được phép để mặc cho thế gian chìm vào bóng đêm, dù có gặp phải những gian nan và thử thách.
Như các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta phải lấy làm vinh dự vì đã bị thế gian ghét bỏ, chúng ta phải lấy làm hãnh diện vì được trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô.
23/11 Chúa Giêsu thương tiếc cho Giêrusalem.
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Chúa Giêsu thương tiếc cho Giêrusalem.
Thứ Năm tuần 33 thường niên.
"Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi".
Lời Chúa: Lc 19, 41-44
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, trông thấy thành thì Người khóc thương thành ấy mà rằng: "Chớ chi hôm nay ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi! Nhưng giờ đây, sứ điệp ấy bị che khuất khỏi mắt ngươi. Vì sẽ đến ngày quân thù đắp luỹ bao vây ngươi, xiết chặt ngươi tứ bề. Chúng sẽ tàn phá ngươi bình địa, ngươi cùng con cái ở trong thành. Chúng sẽ không để lại hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết giờ ngươi được thăm viếng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đức Giêsu khóc
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Người ta có thể khóc vì nhiều lý do.
Khóc vì buồn thương, khóc vì tình yêu của mình bị từ chối.
Khóc vì tiếc nuối một điều tốt đẹp bị hủy hoại.
Một người đàn ông khóc là chuyện không thường xảy ra.
Chính vì thế chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Đức Giêsu khóc.
Con Thiên Chúa nhập thể biết đến nỗi đau của phận người.
Giọt nước mắt của Ngài cho thấy Ngài thật sự có một trái tim.
Đức Giêsu khóc khi đến gần và trông thấy thành phố Giêrusalem.
Trong thành Giêrusalem có ngôi Đền thờ lộng lẫy (Lc 21, 5).
Đền thờ ấy là Đền thờ thứ hai được xây sau khi dân lưu đày trở về.
Còn Đền thờ thứ nhất do Salômôn xây, đã bị quân Babylon phá hủy.
Vua Hêrôđê Cả đã trùng tu và nới rộng Đền thờ thứ hai này.
Công việc sửa sang kéo dài từ năm 20 trước công nguyên,
đến năm 64 sau công nguyên mới hoàn tất.
Vào thời gian này, người Do Thái nổi dậy chống lại quân Rôma.
Vào lễ Vượt qua năm 70, thành phố bị vây hãm (c. 43).
Đền thờ bị tiêu hủy sau tám mươi tư năm tu sửa.
Đây là một bi kịch lớn mà Đức Giêsu đã linh cảm với nỗi đau đớn.
Bài Tin Mừng hôm nay
nằm ngay sau biến cố Đức Giêsu lên Giêrusalem lần cuối (Lc 19, 28).
Ngài biết đây là lần cuối, nên giữa bầu khí tung hô của dân chúng,
Đức Giêsu lại rơi vào nỗi đau buồn, xót xa.
Ngài sẽ là vị ngôn sứ phải chết trong thành này (Lc 13, 33).
Như mọi người Do Thái khác, Đức Giêsu quý thành phố và Đền thờ.
Thành phố Giêrusalem là thủ đô của đất nước.
Đền thờ là nơi mỗi năm Ngài đến đó dự các lễ lớn đôi ba lần.
Đây là nhà Cha của Ngài, là nhà cầu nguyện (Lc 2, 49; 19, 46).
Nhưng mọi điều tốt đẹp Ngài đang thấy, có ngày sẽ đổ vỡ tan hoang.
“Không để hòn đá nào trên hòn đá nào” (c. 44).
Thiên Chúa là Đấng đi thăm Dân Israel (Lc 1, 68; 7, 16; 19, 44).
Ngài thăm Dân Ngài qua Người Con là Đức Giêsu (Lc 1, 78).
Ngài đến thăm để đem ơn cứu độ, đem lại bình an (c. 42).
Hôm nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục đi thăm nhân loại.
Ngài vẫn sai Con của Ngài đến với chúng ta để ban ơn bình an.
Nhưng con người hôm nay có thể khép lòng, và để lỡ cơ hội quý báu.
“Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11).
Làm sao mỗi Kitô hữu nhận ra thời điểm Ngài đến thăm mình? (c. 44).
Thế giới Tây phương hôm nay đang có khuynh hướng loại trừ Thiên Chúa.
Họ nhân danh tự do tôn giáo để loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội.
Nhưng không có Trời thì ai ở được với ai.
Nhân loại bị kéo vào những cuộc chiến tranh, thù hận không lối thoát.
Hãy để Thiên Chúa đi vào đời bạn và chi phối những chọn lựa của bạn.
Chỉ trong Thiên Chúa mọi sự mới có nền tảng vững vàng.
Nếu không, như Giêrusalem, chúng ta chỉ có là những bức tường than khóc.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.
Suy niệm 2: Nhờ Người, với Người và trong Người
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Giê-ru-sa-lem là thành phố hoà bình. Nhưng không thể tự mình kiến tạo hoà bình. Thiên Chúa mới là người ban hoà bình. Chúa Giê-su là ông Vua Thái Bình. Nhưng đáng tiếc là thành phố hoà bình không biết đón tiếp Vua của mình. Không “nhận ra những gì đem lại bình an”. “Không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm”. Cơ hội chỉ đến một lần. Nên Chúa rơi lệ khóc thương cho số phận của thành. Giê-ru-sa-lem là trái tim của dân tộc Ít-ra-en. Là niềm tự hào dân tộc. Ai cũng hân hoan khi được đến Giê-ru-sa-lem. “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi. Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa”. Đền thờ là một kỳ công tuyệt tác hoàn mỹ. “Giê-ru-sa-lem được xây cất như một thành trì. Mọi phần ăn khớp với nhau” (Tv 121). Chúa Giê-su đã nhiều lần hớn hở vui mừng vì được lên Giê-ru-sa-lem dự lễ. Như mọi người Do thái, Người cũng tự hào và yêu mến thành đô. Nhưng giờ đây Người phải rơi lệ. Vì thấy số phận tiêu điều của nó: “sẽ không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào”(Lc 19,44).
Lời tiên báo đó đã ứng nghiệm vào năm 70. Quân binh La mã đến phá huỷ đền thờ tan tành. Đa số người Do thái ngả theo phe đế quốc. Thờ ngẫu tượng. Chỉ một số ít trung thành với luật Chúa. Đó là gia đình Mát-tít-gia. Chiến trận liên miên. Kẻ chết, người bị thương. Và sau cùng, tất cả rơi vào tay đế quốc. Giê-ru-sa-lem đánh mất hoà bình từ hơn 2 ngàn năm nay. Hiện tại đó vẫn là một miền đất có hai dân tộc và ba tôn giáo. Chiến tranh không bao giờ ngưng (năm lẻ).
Đó là tất cả những bí ẩn của Giê-ru-sa-lem và của thế giới. Tất cả đã được ghi vào quyển sách. Nhưng quyển sách lại bị đóng bảy ấn niêm phong. Chẳng ai có thể đọc. Chẳng ai có thể hiểu. Chỉ một người có thể mở ấn niêm phong. Có thể đọc và có thể hiểu. Đó là người giải mã bí mật của thế giới. Là con chiên đã tự nguyện bị giết chết, bị sát tế. Nên đã trở thành con chiên có bảy sừng và bảy mắt. Con Chiên hiển vinh sau khi đã trải qua cái chết. Có thể đem lại hoà bình. Vì Người qui tụ không phải chỉ dân Ít-ra-en, nhưng là tất cả mọi dân trên thế giới. Bấy giờ mọi người sẽ nhận biết Thiên Chúa. Và sống trong cảnh thái bình. “Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộ mọi nước, mọi dân. Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này” (năm chẵn).
Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đến. Xin ban hoà bình cho chúng con.
Suy niệm 3: Giờ Chúa viếng thăm
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Nhìn trong văn mạch, biến cố được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay, đi liền sau biến cố Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Nhưng không như bao lần khác, Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem lần cuối cùng này để thực hiện cuộc Vượt Qua đem lại ơn cứu rỗi, hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau. Ðây là giờ Thiên Chúa viếng thăm, giờ mang đến ơn cứu rỗi, tuy nhiên, những vị lãnh đạo Do thái tại Giêrusalem, như chúng ta sẽ thấy trong cuộc khổ nạn của Chúa, họ không những từ chối, mà còn xách động dân chúng chối bỏ Chúa, yêu cầu quan Philatô ra lệnh đóng đinh Chúa vào Thập giá và tha Baraba cho họ. Như thế, dù có sự nồng nhiệt hoan hô Chúa khi Ngài cỡi trên lưng lừa tiến vào thành thánh, thì sự nồng nhiệt đó cũng chỉ là thoáng qua, và Chúa Giêsu nhận thấy ơn cứu rỗi mà Ngài mang đến bị con người khước từ hơn là đón nhận.
Ðiều xẩy ra cho thành Giêrusalem cũng có thể xẩy đến cho mỗi người ở mọi thời: mỗi người đều có những giây phút hồng phúc được Chúa viếng thăm đem đến ơn lành. Theo quan niệm Kinh Thánh, giây phút Thiên Chúa viếng thăm là giây phút Ngài thực hiện lòng nhân từ. Thánh Luca đã nhấn mạnh ý nghĩa này trong hai bài thánh ca ở đầu sách Tin Mừng của Ngài, đó là bài ca của ông Dacaria và của Ðức Maria. Trong bài ca chúc tụng của mình, Dacaria đã nêu bật lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa: chính vì lòng nhân nghĩa mà "Thái dương từ cao xanh khấng viếng thăm ta". Còn về phần mình, ý thức giờ Thiên Chúa viếng thăm đang xẩy ra không những cho bản thân, mà còn cho cả dân tộc và toàn thể nhân loại, Ðức Maria đã nhận định về ý nghĩa sâu xa của việc Thiên Chúa viếng thăm: "Lòng nhân nghĩa của Người suốt đời nọ đến đời kia, trên những kẻ kính sợ Người". Chỉ có một lý do cho cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, đó là thể hiện lòng nhân nghĩa đối với những người được Ngài viếng thăm. Do đó, nếu không đón nhận giờ Chúa viếng thăm, con người không những gây thiệt hại cho chính mình, mà còn cho cả người khác nữa.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết lắng nghe tiếng Chúa cảnh tỉnh, đồng thời biết mở rộng tâm hồn đón nhận những giây phút ân sủng của Chúa để được sống an vui hạnh phúc.
Suy niệm 4: Khóc thương thành Giêrusalem
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ðoạn Phúc Âm được Giáo Hội đề nghị cho chúng ta Suy niệm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu khóc thương thành Giêrusalem vì đã không biết nhìn nhận giờ Thiên Chúa đến viếng thăm. Nhìn chung trong toàn bộ văn mạch thì biến cố được nhắc đến trong Phúc Âm đi liền sau biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Và đây không phải là lần vào thành thông thường như bao lần khác, mà là lần vào thành long trọng, lần cuối cùng, để rồi sau đó Chúa thực hiện công cuộc cứu rỗi, mục đích cuối cùng của nhập thể, của cuộc đời của Chúa.
Chúa vào thành Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua mang lại ơn cứu rỗi, sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa. Ðây là giờ Thiên Chúa đến viếng thăm, giờ mang đến ơn cứu rỗi, sự bình an. Tuy nhiên, những người lãnh đạo dân Israel tại Giêrusalem như chúng ta thấy trong cuộc thương khó của Chúa, không những họ từ chối mà còn thành công trong việc xách động toàn dân chối bỏ Chúa, yêu cầu quan Philatô ra lệnh đóng đinh Chúa vào thập giá và tha cho Baraba. Như thế, dù có sự nồng nhiệt hoan hô Chúa trong ngày vào thành Giêrusalem trên lưng lừa, nhưng sự nồng nhiệt này chỉ thoáng qua và Chúa Giêsu nhìn thấy sự khước từ ơn cứu rỗi mà Ngài mang đến hơn là sự chấp nhận.
Ðiều xảy ra cho thành Giêrusalem cũng có thể xảy ra cho mọi người thuộc mọi thời đại. Mỗi người chúng ta đền có giây phút Chúa đến viếng thăm, đó là giây phút hồng phúc mang đến ơn lành, ơn cứu rỗi và sự bình an. "Ước chi hôm nay, ngươi hiểu biết sứ điệp mang hòa bình lại cho ngươi". Nhưng Chúa không bắt buộc tự do của mỗi người, sự tự do mà Ngài đã trao ban cho con người một lần vĩnh viễn, không bao giờ muốn lấy lại. Dù biết rằng con người vẫn có thể lạm dụng sự tự do đó để chống lại Ngài.
Trong quan niệm Kinh Thánh, giây phút Thiên Chúa đến thăm là giây phút Thiên Chúa đến thực hiện lòng nhân từ, trao ban sự bình an cho tâm hồn. Tác giả Phúc Âm theo thánh Luca đã nhấn mạnh ý nghĩa này trong hai bài ca quan trọng vào khởi đầu sách Phúc Âm, đó là bài ca về ông Dacaria và của Mẹ Maria. Ý thức giờ Thiên Chúa đến viếng thăm đang xảy ra không những cho chính bản thân mình, mà còn cho cả toàn dân tộc, cho cả toàn nhân loại, Mẹ Maria đã nhận định về ý nghĩa sâu xa của cuộc viếng thăm của Thiên Chúa với những lời như sau: "Lòng thương xót Chúa lan tràn từ đời này tới đời kia, đối với những ai kính sợ Chúa. Chúa đã cứu Israel, tôi tớ Chúa và nhớ lại lòng thương xót của Người".
Chỉ có lý do duy nhất cho cuộc viếng thăm của Chúa, đó là để thực hiện lòng nhân từ của Ngài cho người được viếng thăm mà thôi. Nếu không nhận biết giờ viếng thăm của Chúa, con người chỉ gặp phải những thiệt thòi cho chính mình, như đã xảy ra cho thành Giêrusalem ngày xưa. Chúng ta không nên nhìn biến cố Chúa khóc thương và loan báo ngày sụp đổ của thành Giêrusalem trong viễn tượng của sự trả thù. Thiên Chúa nhân từ không bao giờ hành động để trả thù sự chống đối khước từ của con người. Những thiệt thòi mà kẻ từ chối Chúa gặp phải là hậu quả tai hại của tội lỗi, của những hành động xấu xa do con người thực hiện vì chối bỏ Thiên Chúa mà thôi. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ mặc con người trong sự dữ, nhưng Ngài luôn luôn làm những gì có thể để cảnh tỉnh, để lưu ý con người đừng đi vào con đường nguy hiểm, gây thiệt hại cho chính mình.
Ước chi hôm nay chúng ta lắng nghe tiếng Chúa cảnh tỉnh và đừng cứng lòng từ chối giây phút ân sủng nơi Thiên Chúa an bài cho mỗi người chúng ta được gặp lại.
Lạy Chúa,
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã luôn luôn đối xử nhân từ đại lượng với chúng con, mặc dù chúng con nhiều lần làm ngơ, không muốn nhìn thấy những việc Chúa làm cho chúng con, không muốn lắng nghe những gì Chúa chỉ dạy để được sống an vui, hạnh phúc. Xin thương giúp chúng con trở về sống trong tình thương Chúa luôn mãi.
Suy niệm 5: Thương tiếc Giêrusalem
Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Đức Giêsu khóc thương mà nói: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình anh cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không trông thấy được. Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp lũy chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tứ bề.” (Lc. 19, 41-42)
Đoàn hành hương theo Đức Giêsu tiến về Giêrusalem vừa đi vừa hát những Thánh vịnh lên đền thánh. Họ dừng lại với Người chiêm ngưỡng thành thánh. Họ xúc động khi hát Thánh vịnh 122: “Hãy xin bình an cho Giêrusalem; ước gì bình an trong thành lũy ngươi”. Còn Đức Giêsu lại khóc thương thành.
Những âm mưu
Từ nhiều thế kỷ, các ngôn sứ đã loan báo cho dân thành Giê-ru-sa-lem biết thành sẽ có ngày bị phá hủy, nếu họ không sám hối trở về. “Khốn cho quân loạn tặc, cho đứa ô nhơ, cho thành áp bức! Nó không nghe tiếng gọi. Nó không lĩnh lời chỉ giáo. Nó không cậy trông Gia-vê. Nó không lại gần Thiên Chúa của nó” (Sôphônia 3, 1-2). Quân Can-đê đã phá hủy thành và bắt dân đi lưu đầy, thế mà họ vẫn cứng đầu cứng cổ, không lay chuyển, Đức Giêsu đến kêu gọi họ lần cuối cùng trở về với tình yêu Thiên Chúa.
Đức Giêsu biết dân thành Giêrusalem đã quyết định bắt Người chịu nạn chịu chết. Tôn trọng tự do của họ, Người bất lực cứu thoát thành thánh khỏi bị tàn phá. Họ thật cứng đầu cố chấp. Với tình yêu tha thiết với họ, Đức Giêsu đã khóc, Người khóc vì yêu thương đoàn chiên này cố chấp lầm lạc. Trong khi đoàn hành hương ca hát chúc mừng thành được bình an, thì Đức Giêsu khóc than lòng kiêu ngạo và thỏa mãn của họ đã đóng kín con mắt những thủ lãnh dân chúng: Họ không bao giờ còn được thấy hòa bình nữa!
Lời tiên tri về phá hủy thành Giêrusalem dựa trên những chi tiết bao vây và công phá Giê-ru-sa-lem vào năm 70. Chắc hẳn lời tiên báo của Đức Giêsu cũng tương tựa như thế về thành bị phá hủy, “vì ngươi đã không nhận biết thời giờ Thiên Chúa viếng thăm”. Chính Thiên Chúa đến viếng thăm Giê-ru-sa-lem qua con người của Đức Giêsu, và Người đã ban cho họ ơn giải thoát, ơn bình an và thăng tiến họ. Nhưng họ đã từ chối những ơn ban nguồn phúc cứu độ ấy. Lại còn giết người con của vua trời đất. Họ sẽ gặt lấy hoa trái của lòng bất trung của họ. Cuộc phán xét trong cơn lôi đình của Thiên Chúa không thể hãm lại được nữa. Đức Giêsu khóc vì Thiên Chúa không muốn người ta phải chết. Ước chi họ ăn năn sám hối và được sống.
RC
Suy niệm 6: Tại sao Chúa khóc thương thành Giêrusalem?
Xem CN 24 TN C - Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su năm C - thứ Ba tuần 2 MV và thứ Ba tuần 19 TN
Trong cuộc sống, hẳn chúng ta cũng chứng kiến nhiều người khóc: có những người khóc vì đau khổ, bệnh tật, bất hạnh, thất vọng và bị bỏ rơi... Nhưng cũng có những người khóc vì sung sướng!
Hôm nay, Tin Mừng tường thuật việc Đức Giêsu khóc thương thành Giêrusalem. Tại sao vậy? Thưa vì Ngài nhìn thấy viễn cảnh tương lai qua sự đổ nát do đế quốc Rôma gây nên vào năm 70 Công Nguyên.
Nhưng có lẽ, điều làm cho Đức Giêsu đau lòng hơn cả chính là dân thành này đã khước từ chính Ngài là nguồn ơn cứu độ. Không tuân giữ những lời dạy của Ngài, không hề để ý đến những hành vi tội lỗi của mình để sám hối ăn năn... Ngược lại, họ luôn tự hào mình là dân tộc ưu tuyển, nên đương nhiên được hưởng những quyền đặc lợi cho riêng mình. Chính sự tự hào này đã giam hãm con người và thái độ của họ trong sự ích kỷ, nên không thể đón nhận được ơn lành của Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mau mắn đón nhận lời giáo huấn của Chúa và ra sức thi hành để được cứu độ. Cần loại bỏ sự tự kiêu, ích kỷ và thay vào đó là thái độ khiêm nhường để nhận ra vai trò, trách nhiệm của mình. Có thế, chúng ta mới mong được ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn yêu mến luật Chúa và cùng nhau chung tay xây dựng tòa nhà Giáo Hội bằng chính đời sống chứng tá của mình. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Tỉnh thức để nhận ra “giờ được Chúa viếng thăm”
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu tiên báo về về thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá. Đó là cuộc phán xét lịch sử nhưng cũng là báo trước cuộc phán xét cánh chung. Chúng ta hãy tỉnh thức để biết nhận ra “giờ được Thiên Chúa viếng thăm” hầu được bình an nơi Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong khi nguời Do-thái rất tự hào về sự nguy nga, tráng lệ, kiêu hùng của thành Giê-ru-sa-lem, thì Chúa lại nói đến một ngày mà công trình ấy sẽ bị phá hủy hoàn toàn. Cũng vậy, con thường chỉ đánh giá sự việc và con người dựa trên những dấu hiệu bề ngoài. Đôi khi những dấu hiệu bên ngoài ấy làm con mù quáng, nên đánh giá lầm những điều kín ẩn bên trong.
Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ, người Do-thái khát khao, mong chờ một Đấng cứu tinh, nhưng khi Chúa đến giữa họ thì họ lại không chịu đón nhận. Họ đã không nhận ra Chúa, không phải vì Chúa không tỏ ra cho họ, mà là vì Chúa không đến theo kiểu họ ước mong. Và như thế, Chúa phải xót xa vì sự hững hờ của họ.
Phần con cũng không thiếu những lúc con chỉ nhìn thấy những điều trước mắt. Con quá vui khi thành công và con cũng quá buồn trước thất bại. Con đã không biết nhìn ra những sứ điệp thiêng liêng mà Chúa gởi đến cho con qua những thành công hay thất bại đó. Xin Chúa thương xót và thứ tha cho con. Xin Chúa dạy con biết sống trọn giây phút hiện tại, luôn rút ra được những ích lợi từ mọi biến cố vui buồn trong đời. Và xin cho con luôn hiểu rằng: không bao giờ là quá trễ đối với Chúa. Xin Chúa cho con luôn biết làm lại cuộc sống của mình để sẵn sàng đón chờ giờ con được Thiên Chúa viếng thăm. Amen.
Ghi nhớ: “Chớ chi ngươi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi”.
Suy niệm 8: Chúa Giêsu khóc thương thành Giêrusalem
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vào năm 70 sau Công nguyên, vị tướng La Mã Titô đem đại quân vây hãm thành Giêrusalem. Ông ra lệnh không được đốt phá.
Thế nhưng, một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã cầm bó đuốc đang cháy ném vào bên trong đền thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa được. Sau khi đám cháy tàn lụi, Titô ra lệnh phá hủy thành và đền thờ, ngoại trừ ba lều tháp và một bức tường, để cho hậu lai thấy sự kiên cố của thành đã bị phá. Tất cả những sự việc trên được sử gia Josèphe sống trong thời đó ghi chép lại cho hậu thế...
Suy niệm
Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Ðức Giêsu khóc thương thành vì sẽ có ngày thành huy hoàng bị phá huỷ… Sau này, trong cuộc thương khó, dân chúng đấm ngực và thương khóc khi thấy Chúa Giêsu vác thánh giá. Chúa Giêsu nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi, hãy khóc cho thân phận mình và cho con cháu” (Lc 23,27-28). Ngài yêu thương thành Giêrusalem. Nhưng dân thành cố tình chối bỏ Ngài để chạy theo những mê muội của trần gian. Ngài cảm thấy xót xa khi người ta từ chối tình yêu của Ngài. Ngài đến cho họ tình yêu nhưng họ không đón nhận cho nên họ phải đau khổ. Tất cả mọi sự đã xảy ra như lời Chúa Giêsu đã loan báo: Vào năm 70 sau Công nguyên quân đội Rôma do tướng Titô chỉ huy đã phá hủy và bình địa thành nguy nga này.
Ngày nay, chúng ta cũng như dân thành Giêrusalem ngày xưa: Cố tình chối bỏ Chúa để chạy theo những vật chất, quyền bính danh vọng trần gian. Ðức Giêsu vẫn đang than khóc và đau khổ vì tội lỗi con người...
Xin Chúa cho chúng ta luôn khao khát, nhận biết và đón nhận tình yêu của Thiên Chúa. Biết thức tỉnh và từ bỏ đời sống tội lỗi để quay về với Ngài. Khi đó chúng con sẽ được hưởng tình yêu, sự tha thứ và ơn cứu độ từ Thiên Chúa.
Ý lực sống
“Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người,
các bạn đừng cứng lòng”. (Tv 95,8)
Suy niệm 9: Đức Giêsu thương tiếc thành Giêrusalem
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Cuộc hành trình đi Giêrusalem được kết thúc bằng một cuộc khải hoàn long trọng tiến vào thành. Nhưng khi đến gần, nhìn thấy thành Giêrusalem, Chúa thấy trước thành này sẽ bị tàn phá, cũng là báo trước cuộc phán xét trong ngày cánh chung, nên Chúa thốt lên những lời than tiếc cho thành Giêrusalem. Họ có lỗi bởi vì Thiên Chúa luôn yêu thương dân Người, nhưng họ đã từ chối tình thương của Thiên Chúa, từ chối ơn cứu độ và sự bình an Người mang đến cho họ. Và vì không đón nhận nên họ phải đau khổ.
Trên đường tiến về Giêrusalem, vừa thấy thành, Đức Giêsu đã khóc thương nó, vì thấy trước viễn cảnh sụp đổ bình địa của thành, vì dân thành đã không tin vào Người. Đức Giêsu đã khóc, vì dường như bất lực trước sự cứng lòng của dân Do thái thành Giêrusalem. Người làm được mọi sự, nhưng đối với sự cứng lòng của người Do thái, Người không thể làm gì trước tự do của họ. Có thể nói, Thiên Chúa dường như bất lực trước sự tự do mà Người đã ban cho con người. Người Do thái là dân Chúa chọn nên họ đáng hưởng nhiều đặc ân, nhưng thực tế họ không được gì. Bởi Chúa đã giáng sinh nơi quê hương họ để cứu chuộc họ, nhưng họ đã không đón nhận.
Dưới cái nhìn của các tiên tri, số phận của thành Giêrusalem gắn liền với niềm tin và lòng trung thành đối với Thiên Chúa. Sự trung thành của thành thánh luôn đem lại thịnh vượng và an bình. Trái lại, tai hoạ luôn là hình phạt cho sự phản bội. Ngay từ xa xưa, tiên tri Giêrêmia đã loan báo về sự sụp đổ của thành thánh vào năm -587. Trong Tin mừng, dường như Đức Giêsu cũng muốn lấy lại ngôn ngữ của Giêrêmia để loan báo về sự sụp đổ của thành thánh vào năm 70. Tiếp theo những biến cố này là một loại tang thương xảy đến cho dân Do thái mà cao điểm là cuộc sát tế 6 triệu người Do thái do Đức quốc xã trong đệ nhị thế chiến.
Như vậy, dưới cái nhìn của Luca, sự sụp đổ của Giêrusalem và bao tai hoạ xảy đến cho dân Do thái đều là hậu quả của sự khước từ hồng ân của Thiên Chúa (R.Veritas).
Đức Giêsu đã khóc vì đau buồn trước viễn cảnh thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá bình địa: “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”. Đền thờ là nơi Ngài thường đến hành hương từng năm, nơi đầy ắp kỷ niệm thời thơ ấu, nhà của Cha Ngài, nơi linh thiêng của cả dân tộc. Vậy mà Đền thờ ấy sẽ phải bị tàn phá. Quả thật, năm 70, nhân cuộc nổi dậy của người Do thái, tướng Titô đã tàn phá bình địa thành đô, và cho cày một luống dài giữa Đền thờ, để cho thấy từ nay nơi đây đã trở thành hoang phế. Cùng với Đền thờ là biết bao người dân, trong đó có cả những trẻ thơ vô tội, bị tàn sát dưới lưỡi gươm của lính Rôma. Thế mà giờ đây, Đức Giêsu đến đem bình an cho dân thành; Ngài là Thiên Chúa đến thăm dân Ngài. Vậy mà, tiếc thay, dân thành đã dửng dưng, không đón nhận (5 phút Lời Chúa).
Để nói lên thiện chí hoà bình giữa Ac-hen-ti-na và Chi-lê, Ac-hen-ti-na đã đem khí giới, đúc tượng Đức Giêsu. Bức tượng được đưa lên dãy núi Andes là nơi đã xảy ra cuộc xung đột giữa hai quốc gia. Dưới bệ tượng có dòng chữ: “Chính Người là sự bình an của chúng ta. Người đã làm cho đôi bên nên một”.
Lời Chúa hôm nay cho thấy Đức Giêsu khóc thương Giêrusalem, bởi thành đã không nhận ra Chúa là nguồn bình an. Đức Giêsu khóc thương thành, Người cũng khóc thương những người Do thái đương thời. Họ không nhận ra Thiên Chúa đang biểu lộ tình thương giữa họ.
Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta chạy theo những thứ bình an giả tạo, mà quên tìm kiếm bình an đích thực; chúng ta chối bỏ Thiên Chúa và đặt của cải, danh vọng, địa vị làm mục đích cuộc đời. Khi ấy, chúng ta cảm thấy bất an và mệt mỏi. Ngược lại, lúc chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa và bước đi trong ánh sáng của Người, chúng ta mới có bình an đích thực.
Điều xảy ra cho thành Giêrusalem cũng có thể xảy ra cho mọi người thuộc mọi thời đại. Mỗi người chúng ta đều có giây phút Chúa đến viếng thăm, đó là giây phút hồng phúc mang đến ơn lành, ơn cứu rỗi và sự bình an. “Ước chi hôm nay, nơi hiểu biết sứ điệp mang hoà bình lại cho ngươi”. Nhưng Chúa không bắt buộc tự do của mỗi người, sự tự do mà Ngài đã trao ban cho con người một lần vĩnh viễn không bao giờ muốn lấy lại. Dù biết rằng con người vẫn có thể lạm dụng sự tự do đó mà chống lại Ngài (Mỗi ngày một tin vui).
Truyện: Kiên tâm chịu đựng
Khi đi tuần tra tại một thành phố nọ có một vị thẩm phán lúc nào cũng bị một luật sư kiêu căng gây phiền toái bằng cách đưa ra một số nhận xét mang tính cách chế giễu.
Sau đó, trong bữa ăn tối, có vài người hỏi vị thẩm phán tại sao ông không dùng quyền lực của mình để chỉ trích viên luật sư này.
Vị thẩm phán liền bỏ dao nĩa xuống, chống cùi chỏ lên bàn và kể câu chuyện của mình:
- Tại thành phố của chúng ta, có một bà goá sống chung với một con chó, cứ mỗi khi mặt trăng toả sáng, thì con chó lại đi ra ngoài và sủa liên tục suốt đêm.
Ông ngừng lại và lặng lẽ bắt đầu ăn trở lại. Một trong những người bạn hỏi ông:
- Thưa ngài thẩm phán, thế con chó và mặt trăng thì làm sao ?
Ông nói:
- Ô, bất chấp tiếng sủa của con chó, mặt trăng vẫn cứ tiếp tục tỏa sáng.
Vâng! Hãy tin tưởng vào Chúa. Gặp thời thuận tiện hay không, cùng với thánh Phaolô, chúng ta hãy kiên vững trong sứ mệnh loan báo Tin mừng, vì xác tín rằng không một sức mạnh trần thế nào có thể cản được chương trình của Thiên Chúa.
Suy niệm 10: Không nhận biết thời giờ được Chúa viếng thăm
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Thành Giêrusalem tượng trưng cho dân do thái và cho tất cả những người được Thiên Chúa ưu ái nhưng đã phụ lòng Ngài nên cuối cùng phải gánh lấy số phận bi thảm.
Lỗi của nó là gì ? Là không “nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi” (câu 41); “không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (câu 44). Ơn Chúa ban cho nó rất nhiều, nhất là ơn “bình an” và “viếng thăm”. Nhưng nó đã coi như không, nên không nhận biết để cám ơn, không nhận biết để xử dụng, không nhận biết để hiểu xem ý Chúa muốn nó làm gì khi ban ơn cho nó.
B.... nẩy mầm.
1. “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi”. Lời Chúa Giêsu rất giống với lời Thánh Vịnh đầu tiên chúng ta đọc mỗi sáng “Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người và đừng cứng lòng nữa” (Tv 94). Lời này mỗi ngày nhắc nhở chúng ta “nhận biết” tiếng Chúa nói với chúng ta suốt ngày, và chúng ta đừng cứng lòng như thành Giêrusalem xưa.
2. Ngày nay người do thái vẫn còn đến bên bức tường đổ nát của cổ thành Giêrusalem để than khóc cho số phận của đất nước và tiếp tục chờ mong Đấng Messia “của họ”. Nhưng trớ trêu thay lúc Đấng Messia thật đến viếng thăm họ thì họ đã chối từ và xử tử! Tại vì họ đã “không nhận biết”. Xin giúp con tỉnh táo “nhận biết” những thời giờ Chúa đến viếng thăm con.
3. Mỗi ngày tôi đã để vuột mất biết bao “sứ điệp bình an” do anh chị em trong cộng đoàn đem đến. Tôi đã cố nhắm mắt do thành kiến, ác cảm, giận hờn… Tôi cứ mù quáng chạy miết theo sở thích và ý riêng của tôi. - Lạy Chúa, đáng lẽ con phải khóc cho bản thân, nhưng con cứ thản nhiên tự đắc… và hình như Chúa đang khóc cho tình trạng khốn đốn của con.
4. Một buổi trưa hè nóng bức, Thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ: từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.
Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giờ thấy được.
5. “Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Chúa Giêsu khóc thương mà nói: Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi” (Lc 19,41-42)
Chúa Giêsu đã khóc thương dân thành Giêrusalem, và hôm nay Ngài cũng đang khóc thương tôi.
Ngài khóc thương khi thấy tôi bị xô đẩy quay cuồng bởi dòng xoáy của cuộc đời, nhưng vẫn cố bám vào những “cột mốc” không bền vững và tin đó là cột mốc của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con cảm nhận được tình Ngài yêu con, biết lấy Ngài làm cùng đích đời con. (Hosanna).
Suy niệm 11: Lời tiên tri về Jêrusalem
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Dưới cái nhìn của các tiên tri, số phận của thành Jêrusalem gắn liền với niềm tin và lòng trung thành đối với Thiên Chúa. Sự trung thành của thành thánh luôn đem lại thịnh vượng và an bình. Trái lại tai họa luôn là hình phạt cho sự phản bội. Ngay từ xa xưa, Giêrêmia đã loan báo về sự sụp đổ của thành thánh vào năm - 587. Trong Tin Mừng, dường như Chúa Giêsu cũng muốn lấy lại ngôn ngữ của Giêrêmia để loan báo về sự sụp đổ của thành thánh vào năm 70. Tiếp theo những biến cố này là một loạt tang thương xảy đến cho dân Do Thái mà cao điểm là cuộc sát tế 6 triệu người Do Thái do Đức quốc xã trong đệ nhị thế chiến.
Như vậy dưới cái nhìn của Luca, sự sụp đổ của Jêrusalem và bao tai họa xảy đến cho dân Do Thái đều là hậu quả của sự khước từ hồng ân của Thiên Chúa.
Hậu quả của những sự khước từ đó thật đáng sợ. Sự khước từ luôn đi đôi với những hình phạt.
Chúa Giêsu là hồng ân, là quà tặng của Thiên Chúa. Khước từ hồng ân và quà tặng của Thiên Chúa thật là một tội khủng khiếp, khôn lường.
Người con trai của một nhà truyền giáo bị bắt giữ, và bị quy cho tội phản động, bởi vì anh ta thuộc về một tổ chức bất hợp pháp chống lại chính phủ. Anh bị xét xử, kết án và cầm tù. Người cha già của anh, vốn nổi tiếng là một người có học thức và là một Kitô-hữu tốt lành, đã chạy đi khắp nơi tập hợp được hàng trăm chữ ký vào tờ đơn xin ân xá cho anh. Ông tìm đến tận Washington gặp Tổng Thống Grant trình bày tờ đơn đó và van xin tổng thống tha thứ cho con trai ông, nhờ vào những công lao đóng góp của cha mẹ anh ta.
Được sự phê chuẩn của Tổng Thống, người cha già đó vội vã đón ngay xe lửa trở về nhà tù gặp con trai. Cầm trên tay tờ giấy được ân xá, ông nói với con trai:
- John ạ, cha có một tin vui mang đến cho con đây. Tổng Thống Grant đã chấp thuận đơn xin ân xá của cha. Con có thể trở về nhà với cha ngay bây giờ, và kịp gặp được mẹ con trước khi mẹ con qua đời!
Nhưng con trai ông không đáp lại một lời. Người cha nói tiếp:
- Con có hiểu cha nói gì không, John ? Đây là tờ giấy chứng nhận con đã được ân xá.
Nhưng anh con trai vô ơn đó trả lời:
- Thưa cha, con rất tiếc đã làm buồn lòng cha, nhưng con đã quyết định không đi theo hệ thống chính trị này, và con sẽ sống theo chọn lựa của con.
Trái tim của người cha già hầu như tan nát. Ông cụ ngã nhoài xuống hàng lưới sắt, và được một người gác ngục dìu đi.
Vâng! Đó là kết quả của một sự khước từ.
Thành Jêrusalem xưa cũng như vậy.
2. Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Ngài không đầu hàng trước sự khước từ của con người, bởi vì cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá đã trở thành nguồn ơn cứu thoát cho nhân loại. Chúng ta có thể nhận thấy bàn tay quan phòng ấy của Chúa ngay trong sự sụp đổ của Jêrusalem vào năm 70. Do biến cố này, các tín hữu tiên khởi đã tản mác đi khắp nơi và nhờ thế Tin Mừng được loan báo cho mọi dân tộc khác. Nhìn lại sự sụp đổ của Jêrusalem và Tin Mừng được loan đi khắp nơi, chúng ta lại càng xác tín hơn vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương con người đến độ ngay cả sự khước từ của con người cũng có thể biến thành khởi điểm cho một hồng ân cao cả hơn.
Chúng ta chẳng thấy Giáo Hội đã gọi tội nguyên tổ là tội hồng phúc sao ? Đây phải là xác tín của chúng ta mỗi khi chúng ta nhìn vào các biến cố lịch sử xảy ra.
Khi đi tuần tra tại một thành phố nọ, có một vị thẩm phán lúc nào cũng bị một luật sư kiêu căng gây phiền toái bằng cách đưa ra một số lời nhận xét mang tính cách chế giễu.
Sau đó, trong bữa ăn tối, có vài người hỏi vị thẩm phán nguyên nhân tại sao ông không dùng quyền lực của mình để chỉ trích viên luật sư này.
Vị thẩm phán liền bỏ dao nĩa xuống, chống cùi chỏ lên bàn và kể câu chuyện của mình:
- Tại thành phố của chúng ta, có một bà góa sống chung với một con chó, cứ mỗi khi mặt trăng tỏa sáng, thì con chó lại đi ra ngoài và sủa liên tục suốt đêm.
Ông ngừng lại và lặng lẽ bắt đầu ăn trở lại. Một trong những người bạn hỏi ông:
- Thưa ngài thẩm phán, thế con chó và mặt trăng thì sao ?
Ông nói:
- Ồ, bất chấp tiếng sủa của con chó, mặt trăng vẫn cứ tiếp tục tỏa sáng.
Vâng! Hãy tin tưởng vào Chúa. Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cùng với thánh Phaolô, chúng ta hãy kiên vững trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng vì xác tín rằng không một sức mạnh trần thế nào có thể cản bước được chương trình của Thiên Chúa, Chúa chúng ta.
- 22/11 Nén bạc sinh lời
- 21/11 Ðức Mẹ Dâng Mình Vào Ðền Thờ
- 20/11 Người mù thành Giêricô
- 19/11Tốt lành và trung tín
- 18/11 Cầu nguyện là sức mạnh
- 17/11 Sống trong ngày của Chúa.
- 16/11 Sống giây phút hiện tại
- 14/11 Đúng vị trí, làm điều phải làm.
- 14/11 Đúng vị trí, làm điều phải làm
- 13/11 Bổn phận với đồng loại