Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
05/01 Phép lạ Bánh hóa nhiều
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Phép lạ Bánh hóa nhiều.
Thứ Ba sau lễ Hiển Linh.
"Hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tỏ ra Mình là Ðấng Tiên tri".
LỜI CHÚA: Mc 6, 34-44
Khi ấy, Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn giữ, và Người bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều.
Và khi giờ đã muộn, các môn đệ đến thưa Người rằng: "Chỗ này hoang vắng, mà giờ đã muộn, xin Thầy giải tán họ, để họ đi tới các làng các xóm gần đây mà mua gì ăn".
Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Các con hãy cho họ ăn đi". Họ thưa Người: "Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng bạc bánh để phát cho họ ăn".
Người nói với họ: "Các con có mấy cái bánh? Hãy đi xem". Khi biết được rồi, họ thưa: "Có năm cái bánh và hai con cá".
Người ra lệnh cho họ bảo mọi người ngồi xuống làm thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống từng nhóm, chỗ một trăm, chỗ năm mươi. Người cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời mà chúc tụng, rồi bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho người ta; còn hai con cá, Người cũng chia cho mọi người. Và tất cả đều ăn no.
Mụn bánh và cá còn dư lại, người ta lượm được mười hai thúng đầy. Mà số người ăn là năm ngàn người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ai nấy được no nê
Suy niệm:
Trên thế giới hiện nay có gần một tỷ người đói ăn,
Và nhiều nơi ở châu Phi vẫn có bao trẻ thơ chết đói.
Có người coi tôn giáo là duy tâm, sống lơ lửng với những ý tưởng đẹp,
và loay hoay với chuyện cứu rỗi linh hồn.
Nhưng Thiên Chúa ta gặp trong Kinh Thánh
lại là một Thiên Chúa để ý đến cái đói của thân xác con người.
Thiên Chúa ấy đã cung ứng manna, thịt chim cút và nước uống
cho dân Người trong cuộc hành trình tiến về Đất hứa,
mà Đất hứa này là vùng phì nhiêu, nơi chảy sữa và mật.
Thiên Chúa ấy được coi là người mục tử
dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối nước trong lành.
Đức Giêsu cũng chẳng làm khác với Cha của Ngài.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài tỏ mình ra như người mục tử.
Khi thấy đoàn dân bơ vơ như bầy chiên không người chăn dắt,
Ngài qui tụ họ lại bằng cách dạy dỗ họ nhiều điều.
Nhưng khi chiều xuống, Ngài cũng biết họ cần ăn.
Lo cho chiên được no là nhiệm vụ của người mục tử.
Đức Giêsu đã muốn các môn đệ cộng tác trong việc nuôi ăn này:
“Chính anh em hãy cho họ ăn !”
Với tất cả những gì môn đệ có, vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá,
năm ngàn người đã được ăn no và còn dư mười hai thúng đầy.
Chiều hôm đó, cỏ như xanh hơn vì lòng người vui rộn rã.
Qua phép lạ lớn này, Đức Giêsu tỏ mình ra cho đám đông dân chúng.
Đây là phép lạ của sự bẻ ra và được nhân lên.
Chẳng phải Thầy Giêsu mới là người bẻ ra và trao đi cho các môn đệ.
Chính các môn đệ cũng đã làm như thế cho đoàn dân.
Bẻ ra và trao đi là điều kiện để giải quyết nạn đói của thế giới hôm nay.
Chỉ có thể xóa nạn đói nghèo bằng sẻ chia và liên đới.
Đừng sợ nếu bạn chỉ có ít cá và bánh, ít thời giờ, tiền bạc, khả năng.
Hãy trao vào tay Chúa tất cả những gì bạn có và để Người định liệu.
Cầu nguyện :
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa là Tình Yêu hi vọng. Ta còn gì hi vọng ở những công thức, tính toán, những phán xét khô khan, khắc nghiệt, những tổ chức quá hợp lý đến lạnh lùng? Thiên Chúa là ơn cứu độ đem lại cho thế giới niềm hi vọng được sống vui tươi, bình an và hạnh phúc.
Thiên Chúa là Tình Yêu chứng nghiệm. Chẳng phải là định nghĩa lý thuyết nhưng đã được chứng nghiệm. Vì yêu nên đã đi bước trước. Tạo dựng nên con người. Và còn yêu thương hơn nữa, cứu chuộc con người hư hỏng, phản bội.
Thiên Chúa là Tình Yêu trao ban. Ban chính Con Một của Ngài. Ban cho ta chính bản thân Ngài. Chẳng còn tình yêu nào lớn lao cao quí hơn nữa. Đó là ban hết những gì có thể, chẳng còn có thể ban cho ta gì khác nữa.
Thiên Chúa là Tình Yêu cảm thương. Chẳng phải một trái tim sắt đá vô cảm, nhưng một trái tim biết cảm thương. Chúa Giêsu đã ‘chạnh lòng thương” khi nhìn thấy đoàn lũ dân chúng tất tưởi bơ vơ.
Thiên Chúa là Tình Yêu cụ thể. Bằng những thể hiện. Trước hết là dậy dỗ. Yêu thương nên quan tâm nói những lời an ủi, khai sáng tâm trí, mặc khải chân lý. Chỉ có trái tim yêu thương mới dành thời giờ trò chuyện, quan tâm dậy dỗ như thế.
Thiên Chúa là Tình Yêu hành động. Chẳng phải chỉ nói suông mà còn hành động. Lo cho người đói ăn, dù số lượng vượt sức khả năng hạn hẹp của các tông đồ và hoàn cảnh giữa nơi hoang địa. Lập tức đi tìm. Không chỉ sai bảo, chính Chúa Giêsu trực tiếp vào cuộc, cầm lấy bánh và cá, làm phép, bẻ ra, trao cho môn đệ.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ những ai yêu thương mới hiểu được Thiên Chúa. Không phải yêu bằng bất cứ cách nào, nhưng phải yêu như Chúa yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ có ai yêu thương mới ở trong Thiên Chúa, mới sống trong Thiên Chúa và mới làm cho Thiên Chúa sống trong thế giới, trong anh em.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Người xuống trần mở ra một thời kỳ mới. Thời kỷ yêu thương và tha thứ. Ta hãy cùng Người tiến hành thời kỳ Tân Phúc-âm-hóa trong yêu thương, tha thứ, quan tâm, sửa chữa, nâng đỡ lẫn nhau. Đó là xây dựng một thế giới mới
Suy Niệm 3: Bánh hóa nhiều lần thứ nhất.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu đã tỏ lộ chính cõi lòng của Ngài, cõi lòng của một mục tử: khi thấy dân chúng đông đảo, Chúa động lòng thương xót, vì họ như chiên không có người chăn.
Việc Chúa tỏ mình bao giờ cũng nhằm làm cho con người được sống và sống hạnh phúc. Chúa đến với con người không phải để đè bẹp hay để làm con người phải sợ hãi, nhưng Ngài đến để yêu thương, để cứu độ con người. Thật vậy, khi Chúa tỏ lộ tấm lòng mục tử của Ngài, thì cảnh bơ vơ lạc lõng của người ta không còn nữa. Tấm lòng mục tử của Ngài không dửng dưng trước nỗi bi đát của con người. Tấm lòng ấy đã làm mọi sự vì con người và cho con người. Và qua tấm lòng ấy, người ta còn nhìn ra chính tấm lòng của Thiên Chúa: Chúa Giêsu chính là ân huệ bằng xương bằng thịt mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.
Đứng trước sự tỏ lộ đầy yêu thương ấy, chúng ta hãy có thái độ biết ơn và vui mừng, cố gắng trở nên những con chiên ngoan hiền bên vị Mục tử nhân hậu và cùng với Ngài tỏ lòng cảm thương những con chiên bơ vơ lạc lõng.
Suy Niệm 4: YÊU THƯƠNG THẬT LÒNG
“Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lí thuyết!”. Đây chính là câu nói của triết gia Thomas Carlyle khi ông được một vị linh mục trong xứ đến hỏi về điều cần làm cho giáo xứ của ngài lúc này.
Thật vậy, con người ngày nay, ai ai cũng biết là có Thiên Chúa, nhưng tin trên lý thuyết đã chiếm đa số, kể cả những người Công Giáo, còn tin trong sự cảm nghiệm thì không biết được bao nhiêu %, có lẽ không đáng kể!
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại một hình ảnh đẹp của chính nhà giảng thuyết lẫn thính giả:
Nếu Đức Giêsu chạnh lòng thương và dạy dỗ họ nhiều điều, thì một đám đông say mê nghe lời giảng của Đức Giêsu đến quên cả ăn.
Nếu Đức Giêsu chạnh lòng thương khi thấy đám đông “như bầy chiên không người chăn dắt”, thì đám đông vui mừng vì gặp được chủ chiên của họ cách đích thực, không phải trên lý thuyết!
Thật vậy, thấy đám đông dân chúng, phản ứng đầu tiên của Ngài chính là chạnh lòng thương!
Vì chạnh lòng thương, Đức Giêsu đã trao ban lương thực cả phần hồn lẫn phần xác cho dân chúng.
Phần hồn, Ngài dạy dỗ họ nhiều điều; phần xác, Ngài đã hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng.
Trong xã hội hôm nay, điều làm cho chúng ta không khỏi suy nghĩ, đó là của cải trên thế giới lại nằm trong tay một số hay một vài nhóm người, khi họ nắm tài nguyên của thế giới! Trong khi đó, nhiều nước vẫn trong tình trạng báo động về nghèo đói, nhiều người vẫn đang quằn quại đối chọi với cái đói, cái khát, rồi nạn thất nghiệp, chiến tranh, khủng bố ngày càng lan rộng.
Nguyên nhân dẫn đến vấn nạn trên, chúng ta thấy mấu chốt của vấn đề: đó chính là thiếu lòng bao dung, tình thương.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cảm thông, liên đới và trách nhiệm với anh chị em mình. Hãy biết chạnh lòng thương như Thiên Chúa đã thương yêu ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết quên mình để lo cho anh chị em xung quanh như Chúa. Xin cũng ban cho chúng con luôn biết tìm đến Chúa để được hạnh phúc đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
04/01 Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến.
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến.
Thứ Hai sau lễ Hiển Linh.
"Nước trời đã đến gần".
LỜI CHÚA: Mt 4, 12-17. 23-25
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".
Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến".
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân.
Tiếng tăm Người đồn ra khắp xứ Syria. Người ta đã đem đến cho Người đủ thứ bệnh nhân, những người mắc phải tật nguyền đau đớn, quỷ ám, kinh phong, bất toại. Người đã chữa họ lành. Dân chúng đông đảo theo Người, họ đến từ xứ Galilêa, miền Thập Tỉnh, Giêsrusalem, Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ánh sáng và sự sống
Suy niệm:
Từ sau lễ Hiển Linh đến lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa,
Giáo Hội cho chúng ta đọc các bài Tin Mừng về việc Chúa tỏ mình.
Mỗi bài là một dịp Chúa tỏ mình cho Dân của Người.
Bài đọc hôm nay cho thấy Đức Giêsu tỏ mình lần đầu tiên
tại Galilê, vùng đất có nhiều người ngoại giáo sinh sống.
Ngài tỏ mình tại Caphácnaum, một tỉnh lớn chuyên đánh cá gần hồ Galilê,
tỉnh này nằm trong địa giới của chi tộc Naptali ngày xưa.
Thánh Mátthêu thấy việc tỏ mình này làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia:
“Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng,
những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).
Như thế Đức Giêsu chính là ánh sáng rực rỡ xua tan bóng tối,
Người nâng dậy những ai đang ngồi trong cảnh chết chóc, tối tăm.
Phần sau của bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy điều đó (Mt 4, 23-25).
Đức Giêsu đã đi khắp vùng Galilê để làm ba việc:
dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh nhân.
Thật ra việc dạy dỗ và việc rao giảng có thể coi là một,
nếu thế chương trình hành động của Đức Giêsu sẽ gồm giảng dạy và chữa bệnh.
Dù giảng dạy hay chữa bệnh, Đức Giêsu chỉ muốn một điều
đó là làm vơi nhẹ gánh nặng của những người đang đau khổ.
Đức Giêsu loan báo Nước Trời đã đến gần (Mt 4, 17),
và Người chứng tỏ cho thấy Nước ấy đã đến thật rồi
qua việc chữa lành moi bệnh hoạn tật nguyền của dân.
Cách đây hai ngàn năm, đã có những người bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt.
Ngày nay, dù khoa học tiến bộ, nhưng bệnh tật vẫn không tha con người.
Y khoa vẫn phải đối mặt với những chứng bệnh mới, chưa có thuốc chữa.
Con người không bị ám bởi quỷ, nhưng bởi những sản phẩm do mình làm ra.
Làm thầy dạy và làm lương y là hai nghề đặc biệt
tiếp nối công việc ngày xưa của Thầy Giêsu,
để loan báo cho thế giới hôm nay về sự sống, ánh sáng và hy vọng.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: ÁNH SÁNG SOI ĐÊM TỐI
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu đến chiếu soi luồng ánh sáng mới vào nơi tối tăm. Nơi tối tăm nhất là miền Galilea vì đó là miền dân ngoại, là dân còn ngồi trong bóng tối sự chết.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng đổi mới cuộc đời. Lời kêu gọi “Anh em hãy sám hối” chiếu một làn ánh sáng mới vào đời sống chúng ta. Dưới làn ánh sáng này, ta không còn có thể ngồi yên trong bóng tối sự chết, nhưng phải đứng lên mà bước đi. Dưới làn ánh sáng này, ta không thể ngủ yên trong cuộc đời xưa cũ, nhưng phải sám hối, phải dứt lìa tình trạng tội lỗi xưa, phải giã từ con người cũ kỹ ươn lười tội lỗi, phải tỉnh thức trong một cuộc đời tươi mới, thánh thiện, hăng say nhiệt thành.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng ban sự sống. Sự sống con người bị tổn thương, bị hao mòn vì bệnh tật, bị kìm kẹp trong vòng vây của ma quỉ. Con người bị bệnh hoạn tật nguyền không thể sống trọn vẹn cuộc sống tự do, không thể phát huy đến mức tối đa năng lực Chúa ban. Chúa Giêsu đến chưa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Nhưng sâu xa bên trong, Chúa giải thoát con người khỏi trói buộc của ma quỉ, đem lại cho con người sự tự do của con cái Chúa, giúp họ sống trọn vẹn cuộc sống, giải phóng năng lực tiềm ẩn để con người có thể phát triển đến mức thập toàn.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng soi thấu lương tâm giúp ta phân định trong cuộc sống. Cuộc sống có nhiều giả trá. Những giả len lỏi vào tận thâm tâm khiến con người bị lầm lẫn ngay trong lượng giá, chọn lựa nền tảng. Thánh Gioan cho biết không chỉ có thần lành mà còn có thần dữ chi phối chọn lựa của ta. Ánh sáng của Chúa soi chiếu tâm hồn, giúp ta phân định, giúp ta lựa chọn và giúp ta đi trên con đường ánh sáng, con đường của Chúa, con đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng thực hành. Không lý luận phức tạp, không vòng vèo quanh co, ánh sáng của Chúa chiếu lên ánh sáng đơn sơ và thực tế để ai đi trong ánh sáng sẽ có chọn lựa và sống đời sống đơn sơ thực tế, đó là tuân giữ điều răn của Chúa. Và “ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”. Người ấy ở trong ánh sáng. Người ấy chan hòa ánh sáng.
Suy Niệm 3: Hãy sám hối.
Có một vị ẩn sĩ nổi tiếng là thánh thiện, và được nhiều người đến xin ông cầu nguyện cho. Điều đó làm cho ông rất hãnh diện.
Một buổi sáng nọ, trên đường đến thăm một ngôi nhà thờ, ông thấy một người ngồi nức nở bên đường. Đến gần, ông nhận ra đó là tên cướp mà mọi người trong vùng đều run sợ. Vị ẩn sĩ định bỏ đi, nhưng anh ta tiến đến quỳ gối trước mặt ông và xưng thú tội lỗi. Nghe xong, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận, và nói lớn tiếng: “Một tên trộm cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ sao? Ta nói thật với ngươi: cây gậy mà ta đang cầm trên tay trổ bông còn dễ hơn việc Thiên Chúa tha thứ cho ngươi”. Nói như thế rồi, vị ẩn sĩ tiếp tục cất bước, bỏ mặc tội nhân trong thất vọng.
Nhưng chưa đi quá mười bước, cây gậy ông đang cầm trên tay bỗng bị cắm sâu xuống đất, ông dùng tất cả sức lực để rút lên, nhưng cây vẫn không nhúc nhích. Lạ hơn nữa, từ thân cây gậy, cành lá và hoa từ từ mọc ra. Rồi ông nghe có tiếng nói: “Sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông, một người tỗi lỗi biết hối cải được tha thứ dễ dàng hơn một hơn một kẻ kiêu hãnh”.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Đó là trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay. Ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu loan báo chính là giải phóng con người khỏi tội lỗi và những hệ lụy của nó, như yếu đau tật nguyền…
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Sám hối là điều kiện tiên quyết để được ơn cứu độ. Sám hối không phải là tiếng khóc của thất vọng, mà là một sức lực mới giúp con người vươn lên.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Nước Trời chính là động lực của sám hối. Và do đó, sám hối đích thực cũng chính là một quyết tâm hướng về những biểu hiện của Nước Trời như sống yêu thương, quảng đại, tha thứ.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên” hay nói đúng hơn hãy sám hối để cho Nước Trời được đến giữa mọi người.
Suy Niệm 4: “HÃY SÁM HỐI”
Có một người đàn ông trong vùng nổi tiếng về chuyện nhiều vợ, ông lại là người chuyên uống rượu và hay la lối mọi người. Tuy nhiên, một hôm, ông ta quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi, ăn năn trở về với Chúa qua việc xưng tội và rước lễ. Thấy vậy, nhiều người sầm xì, bàn tán... trong nhóm có một bà được cho là đạo đức, đã nói lớn tiếng để mọi người nghe thấy, bà nói: “Người tội lỗi như thế thì làm sao được Chúa tha? Xưng tội và rước lễ như vậy, chẳng qua là hình thức, qua mắt thiên hạ!!!”
Ôi thật xót xa thay! Bà này đâu có hiểu được rằng: người tội lỗi luôn là trọng tâm sứ vụ của Đức Giêsu và họ là đối tượng số một của Tin Mừng! Bởi vì, một người tội lỗi biết hối cải thì được tha thứ dễ dàng hơn một kẻ tự cho mình đạo đức nhưng sống trong kiêu hãnh!; hay một người tội lỗi trở lại thì cả triều thần thiên quốc vui mừng!
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên".
Sám hối theo nghĩa thông thường là ý thức mình tội lỗi, hối hận, cần phải quay trở về đường ngay nẻo chính sau khi đã quyết tâm chừa bỏ con đường cũ. Tuy nhiên, sám hối theo Kitô giáo còn mang chiều kích siêu nhiên, đó là trở về cùng Thiên Chúa, để nhận ra tình yêu thương vô biên của Ngài. Mặt khác, sám hối còn là để biết yêu thương, cảm thông, chia sẻ, quảng đại và tha thứ.
Không chỉ dừng lại ở đó, điều quan trọng nữa là: khi sám hối, chúng ta biết khiêm tốn để soi chiếu cuộc đời của mình với tình thương, lòng nhân hậu của Thiên Chúa, rồi định hướng cho mọi hành vi, lựa chọn của mình trong tương lai để được ơn cứu độ.
Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta ơn sám hối trong cuộc sống thường ngày, bởi vì, đã là con người thì không ai có quyền nói mình vô tội. Vì thế, chúng ta hãy biết chạy đến với Thiên Chúa trong sự sám hối để được ơn tha thứ. Amen.
Ngọc Biển SSP
03/01 Chúng tôi đến để triều bái Người.
- Viết bởi Mt 2, 1-12
Chúng tôi đến để triều bái Người.
Chúa Nhật CHÚA HIỂN LINH. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
"Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Lời Chúa: Mt 2, 1-12
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giêrusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ.
Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người".
Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM LỄ HIỂN LINH – Năm B
Lời Chúa: Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
89. Ra đi
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Thiên Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Israel.
Ngài còn tỏ mình cho các dân tộc khác,
vì Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai.
Các nhà chiêm tinh vùng Babylon là đại diện cho dân ngoại.
Đối với họ, bầu trời là một cuốn sách,
các vì sao nói về những biến cố trên địa cầu.
Có thể Thiên Chúa đã muốn dùng sự xuất hiện của một vì sao
để báo hiệu Con Ngài chào đời.
Thiên Chúa chấp nhận dùng thứ ngôn ngữ đầy khiếm khuyết đó
để mời họ lên đường đi gặp Đấng Cứu Độ.
Hôm nay, Ngài vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài
bằng muôn vàn cách thức khác nhau, khiến họ hiểu được.
Thiên Chúa vẫn làm sáng lên muôn ánh sao,
không ở trên trời cao, nhưng ở trong lòng người.
Ánh sao có thể là một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt:
khát vọng sự thật, tự do, ấm no, hạnh phúc?
Ánh sao đưa con người lên đường tìm kiếm,
và Ngài không ngừng ban niềm vui trong suốt cuộc hành trình.
Các nhà chiêm tinh đã phải ra khỏi nhà,
ra khỏi mình, ra khỏi những định kiến,
để đón tiếp cái bất ngờ.
Họ chỉ mong được bái lạy vị Vua mới sinh.
Nhưng vị Vua này chẳng ở Giêrusalem cao sang,
mà lại ở vùng Bêlem bé nhỏ.
Vị lãnh tụ dân Israel chỉ là một hài nhi bình thường,
sống trong một căn nhà bình thường.
Hêrôđê bối rối lo sợ khi nghe tin sinh hạ Vua Do thái.
Các thượng tế và kinh sư tuy biết rõ nơi Ngài sinh,
nhưng họ không muốn lên đường tìm kiếm.
Các nhà chiêm tinh chỉ có một cái biết mơ hồ,
nhưng họ đã can đảm ra đi, tích cực tìm kiếm,
tin tưởng sấp mình bái lạy và cung kính dâng lễ vật.
Vẫn có đám đông những người không phải là Kitô hữu
đang miệt mài nghiên cứu trong mọi lãnh vực,
khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, tư tưởng...,
đang gắng công tu tập trong các tôn giáo,
hay đang tận tụy làm cho trái đất được tốt đẹp hơn.
Có ánh sáng nào soi chiếu nẻo đường họ đi.
Họ đã chấp nhận bao hy sinh từ bỏ, để nhẹ nhàng, thanh tịnh mà tiến bước.
Các nhà chiêm tinh ngày xưa đã gặp được Đấng họ tìm.
Hôm nay, còn bao người vẫn trên đường dong ruổi.
Thiên Chúa đồng hành với họ mà họ chẳng hay.
Họ đã ở gần Chúa ngay khi chưa gặp Ngài.
Lễ Chúa Hiển Linh mời ta nhận ra
và trân trọng hoạt động của Thiên Chúa
nơi anh chị em ngoài Kitô giáo.
Có khi chúng ta giống các thượng tế và kinh sư
tự mãn với cái biết lý thuyết của mình về Thiên Chúa,
nên chẳng muốn lên đường gặp mặt Ngài.
Ước gì chúng ta không coi mình như người đã tìm thấy,
nhưng khiêm tốn học hỏi nơi những người đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có nhìn thấy Thiên Chúa đang hoạt động nơi những anh chị em ngoài Kitô giáo không? Bạn có quen ai làm bạn cảm phục không?
Thiên Chúa đến với bạn qua những đại lộ (là Thánh Lễ, các Bí Tích...) Nhưng Ngài cũng đến với bạn qua các ngõ hẻm (một biến cố, một bài báo, một câu nói bâng quơ...). Đâu là những ngõ hẻm Chúa thường đến với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
2. Ngôi sao dừng lại
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Người Do Thái đợi chờ Đấng Mêsia từ bao thế kỷ.
Đấng Mêsia được ví như một vì sao từ nhà Giacóp (x.Ds 24,17).
Nói một cách thi vị, chờ đợi Đấng Mêsia
là chờ đợi một vì sao xuất hiện.
Hình ảnh vì sao gợi lên trong lòng người Do Thái
niềm nôn nao đợi chờ Đấng Cứu Độ
cho dân tộc mình và cho cả thế giới (x. Ds 24,7).
Nhưng không phải chỉ người Do Thái mới biết đợi chờ.
Theo các sử gia đáng tin cậy ở thế kỷ đầu,
cả dân ngoại cũng tin rằng
Đấng cai trị thế giới sẽ được sinh ra từ xứ Giuđê.
Phải chăng đó là lý do
khiến các nhà chiêm tinh từ vùng Ba tư, Ả rập xa xôi
đã lặn lội đến Giêrusalem để bái yết tân vương,
khi họ thấy trên bầu trời xuất hiện vì sao lạ?
Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều phản ứng khác nhau
trước sự hạ sinh của Vua dân Do Thái.
Hêrôđê thì sợ hãi vì thấy ngai vàng bị lung lay.
Ông dò hỏi về nơi sinh và ngày sinh của vị Vua mới
để âm mưu loại trừ một đối thủ.
Các thượng tế và kinh sư ở Giêrusalem
lại có thái độ dửng dưng thụ động.
Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Vua Mêsia,
nhưng họ chẳng buồn cất bước tới Bêlem.
Còn các nhà chiêm tinh là đại diện cho dân ngoại,
đã hăm hở lên đường, lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm.
Họ làm tất cả miễn sao gặp được Đấng quân vương.
Dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lầu vàng điện ngọc,
nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận với cả lòng thành.
Lễ Hiển Linh nhắc chúng ta về việc truyền giáo.
Các nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao.
Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa?
Mỗi môi trường cần một thứ ánh sáng riêng.
Mỗi con người nhạy cảm với một loại ánh sáng.
Chúng ta phải tìm hiểu xem
đâu là thứ ánh sáng thu hút được lòng con người.
Ánh sáng của sự chân thành, của phục vụ yêu thương;
Ánh sáng của niềm vui an bình, của can trường bất khuất.
Một nụ cười, một ánh mắt, một lời khích lệ
cũng bừng sáng rực rỡ chẳng kém một vì sao.
"Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng
như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2,15).
Chúng ta chỉ là những vì sao sáng
khi chúng ta để mọc lên trong lòng chúng ta (x. 2Pr 1,19)
ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x.Kh 2,28).
Ước gì mỗi Kitô hữu trở thành một ánh sao:
ánh sao nói được điều gì đó với người đang chờ đợi,
ánh sao đồng hành với nhân loại trên mọi nẻo đường,
ánh sao ngừng lại trước nhà của Con Thiên Chúa
để Con Thiên Chúa và thế giới hôm nay gặp nhau.
Gợi Ý Chia Sẻ
Những người dân ngoại ở xa có thể gặp Chúa, còn những kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở sát Bêlem lại không gặp được Ngài. Theo bạn, để gặp được Chúa, cần có thái độ nào, điều kiện nào?
Ở môi trường bạn đang sống và làm việc, người ta cần thứ ánh sáng nào? Bạn có thứ ánh sáng đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng
đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
3. Ngôi sao dẫn đường
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng trên nói về các nhà chiêm tinh dân ngoại
theo ánh sao mà tìm đến bái yết Hài Nhi
Một loạt câu hỏi thường được đặt ra hôm nay:
Làm sao một ngôi sao có thể dẫn đường cho họ đi?
Nếu đó là một ngôi sao sáng lạ lùng
thì tại sao thành Giêrusalem lại không nhận biết?
Bởi đâu ngôi sao lại không đi thẳng tới Bêlem?
Có tin được chuyện ngôi sao ngừng lại trước cửa nhà không?
Các câu hỏi trên đều xoay quanh ngôi sao lạ.
Một ngôi sao như thế có thật không hay đây chỉ là một truyền thuyết?
Thánh Mátthêu đã viết đoạn Tin Mừng này
theo một thể văn đặc biệt của người Do Thái.
Chúng ta không nên hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen.
Điều quan trọng không phải là có một ngôi sao lạ,
một ngôi sao thông minh biết dẫn lối chỉ đường.
Điều quan trọng là điều Mátthêu muốn nói với ta:
Đức Giêsu không phải chỉ là Mêsia cho dân Do Thái,
Ngài còn là Đấng Cứu Độ cho cả nhân loại.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại.
Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta.
Họ khao khát tìm ơn cứu độ.
Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ,
họ nghe thấy lời mời gọi lên đường.
Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả
và bước đi trong đêm tối.
Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì khác
ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ.
Cần có đức tin cứng cáp mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế.
Cũng cần có đức tin mạnh mẽ mới dám tin rằng
vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một ngôi nhà ở Bêlem,
chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy.
Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào
mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi,
và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại
đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường.
Không phải là ánh sao trên trời cao,
mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người.
Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó,
và bước vào cuộc hành trình đức tin đầy mạo hiểm,
như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Đôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê,
sợ hãi bối rối trước sự xuất hiện của Đấng Cứu Độ.
Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của bạn,
đưa bạn vào sự bấp bênh, mong manh,
để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống đời Kitô hữu là bước vào một cuộc hành trình đức tin. Trong cuộc hành trình đầy cam go ấy, vẫn thường có những ánh sao. Có khi nào bạn gặp được một ánh sao lạ hướng dẫn bạn không?
Thiên Chúa đi tìm con người và con người đi tìm Thiên Chúa. Bạn có thấy đó là hai yếu tố quan trọng trong đời sống người Kitô hữu không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng
đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
4. Hành trình tìm Chúa - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Các đạo sĩ là ai? Chắc các ông thuộc hàng vương giả của các miền Tarsi, Saba và Sêba ở phương Đông (Tv. 72, 10), vì các ông dám vào cung điện hỏi thẳng vua Hêrôđê: “Vua người Do thái sinh ra ở đâu?”. Nhưng các ông không phải là thứ hôn quân như Hêrôđê, mà là các bậc anh quân yêu nước thương dân như các vua Nghiêu, vua Thuấn. Có thể các ông là các nhà bác học như Thales, Pythago, Hypocrate đã lập ra các trường tu, vừa tập luyện đạo đức vừa nghiên cứu khoa học, thiên văn, y học. Nhưng hơn hết, các nhà đạo sĩ này là những người dầy công đi tìm chân lý.
Khi các ông chiêm ngắm các hành tinh vĩ đại vận chuyển lạ lùng trong vũ trụ và nghiên cứu muôn vật sinh sống kỳ diệu, các ông nhận ra rằng: phải có Đấng toàn năng vô cùng tạo dựng nên vũ trụ vạn vật này.
Thêm vào đó các ông sưu tầm kinh điển cổ kim đông tây, các ông đã hiểu hết các thần tượng được tôn thờ ở Ba tư, Ả rập, Ai cập, La mã, Hy lạp, các ông nhận thấy thần nào cũng đầy tính mê nết xấu như loài người.
Nhưng tìm đến Kinh thánh của Do thái, các ông thấy đầy những sự lạ lùng tốt đẹp: từ Đấng toàn năng dựng nên trời đất muôn vật trong sách Sáng Thế, đến những việc Ngài tỏ cho lãnh tụ Môsê: Ta là Đấng Tự Hữu, Đấng Hằng sống đầy lòng thương xót đã giải phóng dân Do thái thoát ách thống khổ nô lệ Aicập. Các ông càng phấn khởi khi đọc sách tiên tri Isaia cho các ông biết Thiên Chúa sắp đến tỏ mình ra cho mọi xác phàm, các dân ngồi trong bóng tối sự chết sẽ nhìn thấy ánh sáng muôn thuở của Ngài “Ngài là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, là cố vấn kỳ diệu, vua muôn thuở, Cha đời đời và là Hoàng tử thái bình vô tận”. Ngài thật là Đấng muôn dân đang trông đợi (Is. 7, 14 ; 9, 1-6 ; 40, 5. 10).
Sau bao nhiêu năm tháng sưu tầm học hỏi hòa nhịp với tâm tư suy nghĩ và cầu nguyện trông cậy, đột nhiên các ông thấy trên không trung xuất hiện một ngôi sao lạ đang từ từ tiến đến các ông. Các ông reo lên: “Thôi đúng rồi, một ngôi sao lạ mọc lên từ nhà Gia cóp, một vương trượng xuất hiện từ Israel” (Ds. 24, 17). Thế là các ông sung sướng hối hả lên đường theo ánh sao hướng dẫn. Các ông bỏ nhà, bỏ nước, bỏ mọi tiện nghi sang trọng, dấn thân đến miền xa lạ. Dù đường xa chông gai núi non hiểm trở, vực thẳm cheo leo, rừng hoang sa mạc, dù nóng bức thiêu đốt, dù phong ba bão táp, dù sương tuyết lạnh lùng, dù nguy hiểm tính mạng, không làm cho các ông sờn lòng nản chí, ánh sao là hy vọng vô tận của các ông rồi. Suốt cuộc lữ hành tìm Chúa, các ông luôn luôn nhìn lên ánh sao cầu nguyện để được can đảm, mạnh sức thắng vượt mọi gian khổ.
Khi tới Giêrusalem, ánh sao biến mất, các ông tưởng đã gặp được Đấng Cứu thế. Nhưng chưa, các ông phải đi tìm Ngài mọi nơi, mọi người, từ dân quê mùa đến hàng trí thức, từ kẻ tốt lành đến kẻ gian ác như Hêrôđê. Làm thế, Thiên Chúa muốn dẫn dắt các ông bằng mọi phương tiện đều có thể giúp các ông đến với Chúa, miễn là các ông vững tin Ngài. Nhờ đó, Ngài càng gia tăng sự vui mừng cho các ông. Chính trong lúc các ông băn khoăn, bối rối nhất, Thiên Chúa đã cho các ông được ơn gặp Hài Nhi Giêsu, Đấng cứu độ các ông. Các ông phục xuống kính bái Ngài: Một Hài Nhi thanh tú tuyệt vời như thuở con người mới được tạo dựng. Các ông cảm thấy gần gũi Ngài quá, lòng các ông ấm áp, trí các ông sáng suốt, ánh sáng thánh thiêng của dung nhan Ngài đang truyền sang toàn thân các ông, lửa yêu mến của Ngài đang cháy lên trong con tim rạo rực của các ông. Các ông dâng lên Ngài trọn vẹn hồn xác và toàn thể dân tộc các ông. Các ông ra về lòng chan chứa hân hoan trong âm vang du dương của muôn tiếng hát thiên thần:
“Vinh Danh Thiên Chúa trên trời,
Bình An dưới thế cho người thiện tâm”
Những con người thiện tâm như Ba Vua đang đi khắp thế giới loan báo Tin mừng bình an cho muôn dân. Tin mừng bình an của Hài nhi Giáng Sinh đã đến với chúng ta. Tâm hồn chúng ta có trong sạch, có thiện tâm và sáng lên để đón mừng bình an của Chúa Cứu thế chưa?
Lạy Chúa, các đạo sĩ dù là dân ngoại, đã dầy công tìm Chúa và gặp được Chúa nơi hang đá và trong vinh quang muôn đời. Xin cho chúng con thành tâm thiện chí ra sức tìm Chúa trong cầu nguyện, trong lời Chúa, trong hy sinh và bác ái với mọi người, vì Chúa đã phán: “Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ thấy, hãy gõ cửa sẽ mở cho”.
Xin mở cửa cho chúng con được gặp Chúa trong bình an và chan chứa tin yêu.
5. Lễ vật lòng thành – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Các đạo sĩ là ai?
Các ông là người phương Đông. Người phương Đông không như người phương Tây. Phương Tây tìm Chúa để chiếm hữu Chúa như họ chiếm hữu vùng đất mới sau bao nhiêu cuộc mạo hiểm. Họ chiếm hữu để thỏa mãn lòng tham giàu có, danh vọng. Người Do thái cũng như người phương Tây. Họ cầu mong Đấng Cứu Thế đến để thỏa mãn nguyện vọng bá chủ thiên hạ, làm cho dân Israel chiến thắng vinh quang, cho “Giêrusalem bừng sáng lên, cho nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, cho của cải muôn dân nước sẽ đến với ngươi, cho lạc đà từng đàn che rợp đất từ Madian, Êpha, Saba, hết thảy kéo đến mang theo vàng với trầm hương đổ vào nước ngươi” (Is. 60, 1-6).
Người phương Đông tìm Chúa, không để chiếm hữu Ngài, Ngài là Đấng tối cao, chí linh, chí thánh, vô biên. Họ kính Ngài ngự chốn rất cao xa. “Kính nhi viễn chi”. Họ biết mình thân phận thụ tạo hèn mọn, không dám gần Ngài. Dù là kẻ phàm trần được Ngài cho làm vua, mệnh danh là thiên tử. Họ cũng không dám ngẩng mặt nhìn dung nhan ông vua của họ. Huống chi là Thượng Đế chí tôn. Vậy họ tìm Chúa làm gì? Họ tìm Chúa, thực ra là để tìm thiên mệnh, là thánh ý Chúa. Qua tri thiên mệnh, qua các hiện tượng của trời đất, các tinh tú, thời tiết, qua các tâm hồn thánh nhân, qua cuộc sống của hiền nhân quân tử, và nhất là qua lương tâm trong sáng của lòng họ: “Tri tâm tắc tri thiên” (Mạnh Tử. Tận tâm. Thượng 1). Cho nên, không biết thiên mệnh không đáng làm quân tử: “Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử” (Luận Ngữ xx. 3). Không biết thánh ý Chúa, không thể làm con Chúa.
Biết thánh ý Chúa là điều quan trọng nhất của người phương Đông để biết phép tắc của trời và sống đúng theo ý trời:
“Thiên hữu hiển đạo, quyết loại duy chương” – Trời có đạo lý rõ ràng, các loài phải thấy rõ mà theo (Kinh Thư. Thái hệ hạ 2).
Khổng Tử sở dĩ trở thành “vạn thế sư biểu” và “Thánh chi thời” là nhờ ông lo tìm biết ý trời mãi tới năm mươi tuổi mới thấu được thiên mệnh, đến sáu mươi tuổi mới thuận theo được ý trời và tới bảy mươi tuổi tâm tưởng hoàn toàn không trái phép trời: “Ngũ thập nhi tri thiên mạng, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ” (LN. II, 4).
Chính Hài Nhi Giêsu khi đến thế gian đã thưa với Chúa Cha rằng: “Này con xin đến để làm theo tôn ý Cha”. Lúc lên mười hai tuổi, Người cũng đã thưa với thân mẫu trần gian rằng: “Tại sao tìm con, con phải lo làm việc của Cha con đó” (Lc. 2, 49).
Tri thiên mệnh, làm theo ý Chúa Cha đó là lễ vật lòng thành hoàn hảo nhất mà ba vua đem đến dâng tiến Chúa Giáng Sinh qua ba lễ vật hữu hình: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Vàng là kim loại óng ánh, rực rỡ, tinh ròng để trang sức cho trần gian, các ông dâng lên Ngài, làm ngai vàng cho Ngài ngự trị, tôn vinh Ngài làm vua trên hết các vua. Các vua còn muốn nó thay cho lòng mến nồng nhiệt, bền vững nhất gói ghém trọn vẹn cả tâm tư, trí khôn, ý chí, sức lực của chính các ông và muôn dân mà các ông là đại biểu cho họ hôm nay và mãi mãi.
Nhũ hương: một thứ nhựa cây tầm thường, không mùi vị, nhưng khi đốt vào lửa hồng, nó tỏa hương thơm ngào ngạt, bay lên những làn khói trắng nhẹ nhàng. Các ông muốn nó thay cho mọi của cải trần gian từ nay chỉ được dùng tiến dâng tế lễ Ngài, không bao giờ để nó làm tôi đòi cho các thần tượng bất chính. Mọi sự do Ngài dựng nên, trao ban cho loài người, thì phải dùng để tôn thờ Thiên Chúa. Các ông còn ước ao những làn hương thơm đó ôm ấp những lời nguyện hèn mọn của các ông và của hết mọi người ở khắp nơi, bay tỏa lên trước tôn nhan Thiên Chúa, xin Ngài làm cho bao nhiêu nỗi âu lo, buồn phiền cay đắng, nhọc nhằn, khốn cực của nhân loại được trở nên dịu dàng, thơm tho, ngọt ngào trong lửa kính mến Ngài.
Mộc dược là nước lấy từ thứ cây có vị đắng và thơm, để tắm gội, thanh tẩy và ướp xác khi khâm liệm. Ba vua dâng lễ vật này lên Hài Nhi đang nằm trong nơi hôi thối, để cảm tạ Ngài đã hy sinh giáng trần, thí mạng sống lấy máu thịt Ngài ướp lấy mạng sống của các ông và của cả nhân dân thế giới khỏi dòi bọ tội lỗi phá hủy, các ông dâng mộc dược còn tượng trưng sự hy sinh hãm mình của chính các ông đã ra sức thanh tẩy đầu óc mê tín dị đoan của các tà thần dân ngoại. Những cố gắng từ bỏ lối sống ham danh trục lợi, ăn chơi tội lỗi. Đặc biệt các ông dâng lên Ngài lòng biết ơn sâu xa của các ông mà Ngài đã ban cho các ông biết hy sinh lớn lao cho công cuộc nghiên cứu khoa học, tìm tới chân lý, nhất là Ngài đã dạy các ông biết thực thi bác ái, cứu giúp đồng bào.
Đã từ lâu, Chúa Hài Nhi hằng mong chờ lễ vật lòng thành của tôi. Tôi đã có một chút lòng mến óng ánh như vàng, một chút kinh nguyện nồng nàn thâm trầm như hương thơm ngọt ngào, một chút hy sinh cay đắng như mộc dược dâng lên Ngài chưa?
Lạy Chúa, Người là tình yêu, Người yêu con vô bờ, chẳng cần chi thiên phúc, sống thân phận bần cùng đồng hàng với con hèn, cho con được đồng phận thiên phúc của Người. Lạy Chúa, con đền ơn trời biển làm sao? Xin cho con biết hiến dâng cho Người: một con tim nồng ấm dạt dào thương mến như Người, một khối óc cởi mở đón nhận chân lý hằng sống của Người, một thân xác lành mạnh luôn luôn biết phụng sự các chi thể của Người.
6. Lương tâm là ngôi sao sáng
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Trong Sứ Điệp Hòa Bình thế giới đầu năm nay 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Trên thế giới ngày nay đến hơn 250 triệu người di dân, trong đó 22,5 triệu người là những người tị nạn, họ là những người nam và người nữ, trẻ em, thanh thiếu niên và những người già cả đang tìm kiếm một nơi để sống trong hoà bình. Để tìm được nơi ấy, nhiều người trong số họ sẵn sàng liều mạng dấn thân vào một hành trình mà đa phần vừa lâu dài vừa đầy nguy hiểm; họ sẵn sàng chịu đựng nhọc nhằn gian khổ, đối mặt với những hàng rào kẽm gai và những bức tường được dựng lên để ngăn không cho họ đến”. Tại sao có tình trạng này xảy ra? Đức Giáo Hoàng trả lời vì con người này nay đánh mất lương tâm trong sáng mà ngay từ đầu Thiên Chúa đặt để nơi con người. Một trong những sự trong sáng đó là tình huynh đệ, tình người.
Hôm nay, Lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Ba Vua. Ba vua cũng là các nhà chiêm tinh tìm đến bái thờ Chúa Giêsu mới sinh, Vua Trời xuống thế, nhờ thấy một vị sao sáng chiếu sáng trên bầu trời ở Phương Đông. Điều đáng chú ý ở đây là sự nhiệt tình, tích cực và kiên trì của Ba vua tìm cho được Chúa dù ánh sao lúc ẩn lúc hiện. Khi ánh sao sáng, họ đi theo ánh sao dẫn đường. Khi ngôi sao biến mất, họ buộc phải tự tìm đường nhưng họ vẫn hy vọng, không hồ nghi về tính xác thực của ông Vua đã được ngôi sao kia báo hiệu. Cho nên, khi không có ngôi sao, họ dùng tới những phương tiện thông thường là hỏi han, đến tận vua nước này hỏi. Vua Hêrôđê không biết, triệu tập các thượng tế và kinh sư hỏi họ cũng không biết nhưng mở Thánh Kinh họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê". Thế là các đạo sĩ tìm thấy Chúa Giêsu.
Các nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao. Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa? Mỗi người Chúa dựng nên đều có lương tâm. Lương tâm giống như là tấm bản chỉ đường, là ánh sao trong đêm tối để con người phân biệt được ranh giới giữa thiện và ác. Lương tâm chính là đền thờ Chúa ngự và ở đó Chúa tỏ mình cho chúng ta để ta đi đến Thiên đàng bình an và hạnh phúc. Vâng, quả thế, con người ngay đầu đã có tâm thiện, “nhân chi sơ tính bản thiện”. Chính lương tâm thiện này được Thiên Chúa đặt để vào trong lòng con người khi Ngài dựng nên họ. Vì vậy, con người có giá trị cao hơn mọi loài thụ tạo khác, và hơn nữa giá trị đó được đánh đổi bằng cái chết của Chúa Giêsu – Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người (Ep 1,3-7). Cho nên, Chúa Giêsu hằng mong muốn chúng ta rằng: “Anh em phải có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì Thiên Chúa sẽ thứ tha, anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Quả thật, người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình” (Lc 6,36-38.44), và “Hễ ‘có’ thì nói có; ‘không’ thì nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).
Trong cuộc sống, lương tâm của chúng ta bị điều kiện hóa bởi xã hội, có nghĩa rằng vì cuộc sống cơm áo gạo tiền cho nên tôi phải mua gian bán lận, ở trường ai ai gian lận trong học tập thi cử nên tôi cũng làm được hay là vì xã hội cho phá thai, bạo lực gia đình nên tôi làm theo mà lương tâm không thấy cắn rứt, đáng nguyền rủa và không cảm thấy đau lòng và xót xa khi tôi đã đánh hay đã giết người, người đó đâu ai xa lạ chính vợ con của mình, máu mủ của mình. Vì lương tâm bị điều kiện hóa nên lương tâm của chúng ta không còn chỗ cho Chúa ngự, tiếng nói của Chúa không còn vang dội trong thâm tâm của mình nữa, tại sao? Vì lương tâm của chúng ta đầy ắp điều xấu, hay chai lì với tội lỗi, đến nỗi không biết rằng chúng ta đang sống phần “con” mà mất phần “người”, chẳng màng chi tới việc tốt, hay chẳng cần nghe tiếng nói lương tâm, nói của Chúa hãy làm lành lánh dữ. Chính lúc ấy, ánh sao trong lương tâm không sáng lên, bị chai lì đi bởi vì nó bị bóng đêm tội lỗi che phủ.
Khi ánh sao lịm tắt, các đạo sĩ nhờ Thánh Kinh tìm đến Chúa Giêsu. Cũng vậy, Khi lương tâm của chúng ta lịm tắt thì hãy mở Thánh kinh, mở Lời Chúa ra mà đọc và sống Lời Ngài để ánh sao lương tâm ta bừng sáng lên các nhân đức thánh thiện. Cho nên người Kitô hữu không chỉ có lương tâm thiện mà có giáo huấn Tin Mừng giúp ta sống đời người thiện hảo, trong sáng và chân thật nhờ Thiên Chúa là Đấng Chân Thiện Mỹ làm nên sự sống, tâm hồn và mọi sự tốt đẹp cho chúng ta.
Vì vậy, là cha mẹ, là những người lớn phải có trách nhiệm với con cái, phải huấn luyện lương tâm con cái theo tinh thần Kitô giáo: (1) đừng dùng phương tiện xấu để đạt mục đích tốt; (2) hãy làm cho người khác đều ta muốn người khác làm cho ta; (3) đừng xúc phạm đến thể xác và tinh thần người khác; (4) đừng làm gương mù gương xấu cho người khác. Như vậy, chỉ với lương tâm này, chúng ta mới sống đúng với phẩm giá con người và phẩm giá một người kitô hữu, xứng đáng là con cái Thiên Chúa, con cái của Sự Sáng. Cho nên, trong sứ điệp Hòa Bình thế giới năm nay 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Vì tự bản chất, con người là hữu thể có tương quan, được an bài là phải đi tìm sự tròn đầy qua các tương quan liên vị, được gợi hứng bởi sự công bằng và tình yêu, nên việc nhân phẩm, tự do và tính tự trị được thừa nhận và tôn trọng, công bằng và tình yêu. Vì vậy, hãy để ánh sáng Lời Chúa vào lương tâm, chúng ta có thể xem tất cả mọi người “không còn là những nô lệ, di dân, kẻ thù… nhưng là anh chị em với nhau” (số 1).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, các đạo sĩ nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn đã bước vào hang đá và thấy Hài Nhi, Đức Mẹ và Thánh Giuse, họ liền sấp mình thờ lạy Ngài. Chúng ta cũng hãy bắt chước các đạo sĩ: siêng năng học hỏi Thánh Kinh và sống Lời Chúa dạy để lương tâm chúng ta thật sự bừng lên ánh sáng: Ánh sáng của sự chân thành, của phục vụ yêu thương; của niềm vui an bình, của can trường bất khuất hay của tha thứ sẻ chia... để “Trong Đức Ki-tô Giêsu và nhờ Tin Mừng của Ngài, anh chị em chưa biết CHÚA cùng thừa kế gia nghiệp với chúng ta, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6) như trong bài đọc 1 rằng: “Mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi”. Alleluia!
7. Gặp Chúa
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm hiểu về thái độ của những nhân vật liên hệ.
Trước hết là các thượng tế và kinh sư. Khi được hỏi Đức Kitô sinh ra ở đâu, thì họ đã trả lời vanh vách: Tại Bêlem, miền đất Giuđa, vì trong sách tiên tri có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời. Sự hiểu biết của họ thật chính xác, nhưng mới chỉ là một sự hiểu biết hoàn toàn theo sách vở, cho nên đã không đủ mạnh để thúc đẩy họ đi vào hành động. Không một ai trong hõ đã nghĩ tới chuyện đến Bêlem xem lời tiên tri ấy đã ứng nghiệm như thế nào?
Tiếp đến là thái độ của dân thành Giêrusalem. Trước nguồn tin một vị vua của họ mới chào đời, Đấng họ trông chờ và tin rằng sẽ đến để giải thoát họ, thay vì vui mững và chuẩn bị nhập cuộc, thì họ lại hoảng hốt như chính Hêrôđê, kẻ thống trị họ đã hoảng hốt. Họ đã quen với cuộc sống mà họ biết là sẽ phải chấm dứt, để bước sang một cuộc sống mới, nhưng khi thời cơ đến, họ lại e ngại, sợ hãi vì phải dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, bởi vì con đường giải thoát thực sự là một cuộc dấn thân và chỉ dành cho những ai biết chỗi dậy và lên đường.
Cuối cùng, chính các nhà đạo sĩ từ một phương trời xa lạ, không phải chỉ xa lạ về mặt địa dư, mà còn xa lạ cả về mặt tôn giáo và tín ngưỡng, lại gặp được Chúa, mà họ gọi là Vua dân Do Thái mới sinh ra, không phải tại Belem mà thôi, mà còn cả trong một thứ lòng tin nào đó. Ba nhà đạo sĩ được ngôi sao dẫn đến nơi Hài Nhi Giêsu ở, họ đã quì lạy Ngài và tiến dâng Ngài lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược.
Câu chuyện thánh Matthêu kể lại và chúng ta vừa nghe, đã không chấm dứt với ba nhà đạo sĩ, với các thượng tế và kinh sư, với Hêrôđê và dân thành Giêrusalem, mà còn được tiếp diễn cho tới ngày hôm nay. Bởi vì người hôm qua là đạo sĩ, nghĩa là người ngoại đạo, thì hôm nay rất có thể đã trở thành những thượng tế, những kinh sư, những người thành Giêrusalem, nghĩa là những người trong nhà. Đồng thời cũng rất có thể xảy ra trường hợp những người trong nhà đã đánh mất khả năng nhận ra Đấng Cứu Thế và tiếp nhận Ngài, cũng như đã đánh mất khả năng nhận ra những dấu chỉ về sự hiện diện của Ngài trong thế giời hôm nay.
Đúng thế, trong thế giới hôm nay cũng như hôm qua và mãi mãi về sau, không biết có bao nhiêu người bị xếp vào phía bên tả trong ngày phán xét, chỉ vì đã không cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, kẻ đau yếu và bị cầm tù được viếng thăm. Họ đã không nhận ra Thiên Chúa nơi những người anh em cùng khổ.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã gặp được Chúa nơi những người anh em của chúng ta hay chưa? Và như ba nhà đạo sĩ, chúng ta có biết dâng lên Chúa lễ vật là những sự trợ giúp chúng ta dành cho những người anh em bất hạnh hay chưa?
8. Đi theo ánh sao
Rất nhiều người đã tới nhà thờ trong đêm Giáng sinh, nhưng thử hỏi có mấy ai đã thực sự gặp gỡ Chúa như ba nhà đạo sĩ phương đông?
Chúa Giêsu không phải là người khó tính, đến như các trẻ mục đồng, thuộc hàng khố rách áo ôm, cũng có được một chỗ đứng bên máng cỏ. Nhưng rõ ràng là qua đoạn Tin Mừng chúng ta thấy được rằng sự kiện Chúa ra đời đã thực sự khuấy động khá nhiều người từ vua Hêrôđê, các thượng tế và luật sĩ, đến quần chúng nhân danh thành Giêrusalem và cả những nhà đạo sĩ xa xôi.
Tuy nhiên những người đã để cho sự kiện Chúa ra đời khuấy động tới cùng lại chỉ có ba nhà đạo sĩ vốn bị liệt vào hạng những kẻ ngoại, những người ở ngoài. Hêrôđê quả có đi tìm Chúa, nhưng là để thủ tiêu Ngài chứ không phải để gặp Người. Các thượng tế và các luật sĩ thuộc giới đền thờ, là những người có đầy đủ các điều kiện tạm gọi là khách quan rát thuận lợi để gặp Chúa. Họ là những nhà thông hiểu thần học và Thánh Kinh. Kẻ khác còn phải nhờ đến họ để biết được Người sinh ra ở đâu. Nhưng theo Tin Mừng thì xem ra họ không rời đền thờ nổi. Trong khi đó Chúa lại sinh ra nơi máng cỏ Bêlem. Làm sao họ có thể gặp được Người? Còn những người dân khác của kinh thành Giêrusalem thì lại hoảng hốt, thay vì vui mừng trước cái tin Đấng mình mong đợi đã sinh ra.
Và cuối cùng chỉ còn lại ba nhà đạo sĩ đã đến được bên máng cỏ cùng với những trẻ mục đồng. Các nhà đạo sĩ tới được với Chúa là vì các ông đã nhận ra dấu lạ, hay cái mới trong lúc các ông làm công việc thường ngày của mình. Các ông đã tìm hiểu ý nghĩa của cái mới và chân thành theo dõi, cho dù phải thực hiện một cuộc hành trình ngàn dặm với bao nhiêu là vất vả.
Ai gõ thì sẽ mở cho, ai tìm thì sẽ gặp. Đến nhà thờ mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải có cả một cuộc hành trình tìm kiếm Chúa. Ngài mời gọi bằng những dấu chỉ của thời đại. Phải tỉnh thức để nhận ra những dấu chỉ ấy, hay đúng hơn, để biết được giữa muôn vàn sự kiện của cuộc sống thường ngày, giữa muôn vàn vì sao lấp lánh trên bầu trời, sự kiện nào có giá trị của một ánh sao lạ, dẫn chúng ta đến với ơn cứu rỗi.
Chúa đến cho tất cả mọi người, thế nhưng Tin Mừng cho chúng ta thấy không phải tất cả mọi người đều đã được gặp Ngài.
9. Chúa Hiển Linh
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Phương, CSsR)
Nơi mỗi người ít nhiều cũng có những tâm tình tôn giáo.
Tuy nhiên, không phải ai cũng đón nhận Thiên Chúa là Đấng tối cao trong lòng họ.
Phần mình, người tín hữu cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa qua thiên nhiên diệu kỳ, qua dòng lịch sử nhân loại và tôn giáo, và nhất là qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể.
I. QUA THIÊN NHIÊN
Thánh Mátthêu đề cập đến ánh sáng của Thiên Chúa đã bừng lên qua hiện tượng ánh sao. "Chúng tôi thấy ngôi sao của Người xuất hiện" (Mt 2, 2).
Theo ánh sao chỉ dẫn, các nhà chiêm tinh đã lên đường tìm kiếm Đức Vua của dân Do Thái. Rất có thể, ba nhà chiêm tinh chưa hình dung ra ngôi vị Thiên Chúa nơi Hài Nhi Giêsu. Có chăng, họ mới mường tượng về một vị vua mới ra đời và họ phải đến triều bái theo nghi thức ngoại giao. Nhưng dù sao, sự hiện diện của ba nhà chiêm tinh bên máng cỏ Bê-lem cũng đủ nói lên phép ứng cử ngay lành và thiện chí khát khao kiếm tìm chân lý và sự thật nơi các ngài.
Thiên Chúa đã dùng hiện tượng thiên nhiên (ánh sao), đã dùng ngôn ngữ, cách sử thế của con người (vị vua) để từng bước tiệm tiến mạc khải về Người cho nhân loại.
Đời người được tiếp xúc với môi trường thiên nhiên: ánh bình tỏa rạng báo hiệu một ngày mới, mặt trời lên chiếu sáng và mang lại hơi ấm, ánh trăng soi tạo cảnh sắc cho đêm, ngọn gió mát thổi đến mang lại hơi thở cho sự sống làm thanh thỏa lòng người, hạt mưa rơi làm phát sinh mầm sống mới...Tất cả những hiện tượng thiên nhiên ấy như đang nhắc nhở cho con người ý thức về bàn tay quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa.
Tiếc rằng, đang hưởng thụ hồng ân Chúa qua thiên nhiên nhưng không ít người lại tỏ ra vô ơn phủ nhận Thiên Chúa. Xem ra, những gì hưởng thụ miễn phí thì người lại không biết trân trọng nguồn gốc.
Mong sao, mỗi hiện tượng thiên nhiên đều là một câu hỏi để người ta tìm về cội nguồn sự sống. Xa hơn nữa, họ tìm về Đấng Tạo Hóa. Về điều này, người tín hữu phải nêu gương trước tiên với những khắc khoải gặp gỡ Ngôi Lời Nhập Thể. Lịch sử là những ghi nhận diễn biến tôn giáo nơi con người.
II. LỊCH SỬ
Kể từ ngày thảm họa tội lỗi làm mất đi vẻ đẹp nguyên tuyền Thiên Chúa ban cho con người, dân Chúa rơi vào cảnh lầm than "bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân" (Is 60, 2).
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn dõi theo con người và không để họ rơi vào vô vọng. Khi tình thương đã đến đỉnh điểm, Thiên Chúa cho bừng lên ánh sáng, vinh quang của Người "như bình minh chiếu tỏa" (Is 60, 1) chiếu soi lòng người.
Ngày ấy, để gặp gỡ Thiên Chúa, dân Chúa đi về phía ánh sáng, vua chúa trần gian phải hướng về ánh bình minh (x Is 60, 3). Từ muôn nơi, con trai, con gái của Thiên Chúa quy tụ loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa, cùng làm nên một cộng đoàn dân thánh: mặt mày rạng rỡ, lòng dạ hớn hở tưng bừng...
Ánh sáng bừng lên, bình mình đã ló dạng, Thiên Chúa đã đi vào lịch sử loài người nhưng trong thực tế rất nhiều người vẫn còn thơ ơ lãnh đạm, thậm chí khước từ Người. Ước mong sao, người tín hữu cảm nhận được ánh sáng chúa đang chiếu soi tâm hồn của họ, cảm nhận được ánh bình minh của Chúa đang là những tia sáng hy vọng hướng dẫn cuộc đời họ, trở nên dấu chứng niềm tin cho nhân loại.
III. NGÔI LỜI NHẬP THỂ
Lịch sử cứu độ là cả một lịch sử khát khao Đấng Cứu Thế. Vậy mà Cứu Thế đã đến nhà mình nhưng người nhà không đón nhận (x.Ga 1,10-14). Sao thế?
- Sự cực đoan nơi con người: Khi nghe các nhà chiêm tinh nói về vị vua dân Do Thái ra đời, vua Hê-rô-đê đã cho triệu tập các kinh sư và các thượng tế để trao đổi. Về lý thuyết, tất cả họ đều biết rất rõ Vị Lãnh Tụ chăn dắt It-ra-en sẽ ra đời tại Bê-lem. Trong lòng tin, thì Vị Lãnh Tụ này không khớp kinh nghiệm của họ nên họ khó chấp nhận một sự tương phản. Bê-lem nhỏ bé không thể sánh với Giê-ru-sa-lem. Bê-lem không thể là nơi sinh ra của một vị vua được.
Sự tự phụ nơi con người: Về kiến thức tôn giáo, những kinh sư và những thượng tế là những người thông thái, là những bậc thầy trong dân Do Thái, nhưng về lòng tin thì xem ra họ mới chỉ biết một mớ lý thuyết chứ chưa hề biết về Thiên Chúa nhập thể làm người. Thế mới hay, sự duy lý đã khóa chặt con người trước mạc khải của Thiên Chúa: người có đạo chưa chắc đã có Chúa; người có Chúa rồi sẽ có đạo..
- Lòng gian ác: Thông tin về một vị vua Do Thái ra đời đã làm cho vua Hê-rô-đê run sợ về sự an nguy ngai vàng của ông. Từ đó, mọi sự tiếp đón của ông đối với những nhà chiêm chiêm tinh chỉ là trò giả hình, gài bẫy, mưu đồ giết hại Hài Nhi Giêsu; bằng chứng là sau đó ông đã hạ lệnh giết sách các hài nhi từ hai tuổi trở xuống. Rõ ràng lòng dạ độc ác của con người đã ngăn lối họ đến với Thiên Chúa.
Chúa đã đi vào trần gian và mang tên Giêsu nhưng sự cực đoan, tự phụ và lòng gian ác đã khép kín tâm hồn người ta, ngăn bước họ đến với Chúa. Thánh Phao-lô kinh nghiệm Thiên Chúa đã dùng Thần Khí mà mạc khải mầu nhiệm: "Trong Đức Ki-tô và nhờ Tin Mừng các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người DoThái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Chúa hứa" (Ep 3, 5).
Như thế, nhờ Chúa Thánh Thần Thiên Chúa đã tỏ mình nơi Đức Kitô. Trong Đức Kitô, muôn dân được hiệp nhất. Ước mong người tìn hữu mở lòng đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, xin Người dẫn đến Chúa Giêsu. Nơi Chúa Giêsu, tất cả mầu nhiệm Thiên Chúa được tỏ bày.
KẾT
Thiên Chúa đã đến trần gian và từng buớc tiệm tiến tỏ mình cho nhân loại qua lịch sử, qua thiên nhiên, nhất là qua Ngôi Lời Nhập Thể.
Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng đã tôn trọng sự tự do nơi con người và con người đã sử dụng tự do để thuận theo hoặc khước từ Người.
Cách riêng người tín hữu sẽ chọn lựa đi về phía ánh sáng để thờ lạy Chúa là chân lý và sự thật. Tin vui cứu độ phải được loan báo cho toàn dân.
10. Lễ vật dâng Chúa - Lm Phạm Quốc Hưng, CSsR
"Và vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng Maria mẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược"
Một trong những câu tiếng Anh mà tôi thích hơn cả là "You can give without loving, but you can"t love without giving". Tạm dịch là "Bạn có thể cho mà không yêu, nhưng bạn không thể yêu mà không cho".
Mùa Giáng sinh là mùa chúng ta thấy rõ sự thật chứa đựng trong câu nói trên. Thật vậy, trong những ngày này người ta thường quan tâm đến việc mua sắm quà cáp tặng nhau. Các món quà tặng nhau có thể khác biệt từ những thứ đơn sơ như một lá thư, một cánh thiệp, một cú điện thoại chúc lễ, một phong bì với mấy tờ giấy bạc, một chiếc áo ấm, một chiếc quần tay hay đến những thứ mắc tiền như chiếc nhẫn kim cương, hoặc một chiếc xe mới. Giá trị vật chất của các món quà có thể khác nhau, nhưng mục đích của chúng thì giống nhau: chúng bày tỏ sự lưu tâm thương mến quý trọng của người cho dành cho người nhận.
Nếu việc trao tặng không phát xuất từ tình thương mà chỉ cốt để thỏa mãn các đòi hỏi của sự công bình, để cầu cạnh trục lợi hay dụ dỗ, thì người ta không gọi tặng phẩm là quà tặng nữa, nhưng là tiền công, là của hối lộ hay miếng mồi đặt bẩy.
Tương quan giữa Thiên Chúa và con người là tương quan yêu thương. Hơn nữa, Thiên Chúa chính là Tình Thương. Mọi việc Người làm cho nhân loại đều phát xuất từ tình thương vô biên của Người dành cho họ. Vì vậy, mọi sự con người đón nhận từ Thiên Chúa đều là những quà tặng tình thương và nhằm mục đích giúp chúng ta bước sâu hơn vào liên hệ yêu thương với Người.
Trong tất cả những quà tặng Thiên Chúa trao ban cho con người, Chúa Giêsu chính là món quà vượt trên tất cả. Ngài chính là món quà tự thân của Thiên Chúa dành cho nhân loại, nghĩa là Thiên Chúa đã trao ban chính mình Người cho nhân loại nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, như thánh Gioan viết: "Quả Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế (đó) đến đỗi thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời" (Jn 3:16).
Đó chính là một trong những ý nghĩa sâu xa nhất của lễ Giáng sinh.
Tình thương chỉ có thể đáp trả bằng tình thương. Nếu trong lễ Giáng sinh, chúng ta đã có dịp chiêm ngắm tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho loài người nơi Chúa Hài Đồng, thì hôm nay - lễ Hiển linh - chúng ta có dịp học hỏi với ba nhà Đạo sĩ mà ta thường gọi là ba Vua về sự đáp trả của con người trước quà tặng tự thân của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và những lễ vật mà Thiên Chúa muốn đón nhận từ con người chúng ta.
Theo Tin mừng thánh Matthêô, lễ vật ba Đạo sĩ dâng lên Chúa là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng là quý kim và là biểu tượng của hàng vương giả; nhũ hương là loại hương dùng trong việc thờ phượng Thiên Chúa và các bậc thần linh; và mộc dược là thước dùng trong việc tẩm liệm người chết.
Qua việc dâng tặng Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược, các Đạo sĩ đã thay mặt Hội thánh để tuyên xưng Chúa Giêsu là Vua vũ trụ và là Vua Tình yêu, Đấng đáng được muôn loài suy phục và đáng được ngự trị trong tâm hồn từng người; Ngài chính là Thiên Chúa Chí Tôn đáng được mọi người thờ lạy với tình yêu tuyệt đối; và Ngài đã vì yêu thương chúng ta nên đã mắc lấy bản tính và thân phận con người của ta, nên giống chúng ta mọi sự chỉ trừ tội lỗi, và tột đỉnh của tình yêu hiệp nhất Thiên Chúa dành cho chúng ta nơi Chúa Giêsu chính là việc Ngài đã chia sẻ sự chết của ta.
Vàng, nhủ hương và mộc dược ở đây cho ta thấy địa vị siêu việt của Chúa Giêsu. Đồng thời, những lễ vật này cũng nhắc chúng ta nhớ đến phẩm giá cao trọng tuyệt vời của ơn gọi làm người Kitô hữu. Vì khi chịu phép Thánh tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào Chúa Kitô, được trở nên chi thể của Thân thể nhiệm mầu của Chúa là Hội thánh. Chúng ta được Chúa Kitô cho chia sẻ chính địa vị vương đế, tư tế và ngôn sứ của Người. Thánh Phêrô đã gọi chúng ta là "dòng giống được lựa chọn, hàng tư tế hoàng vương nước thánh thiện, dân được chọn là sở hữu" của Chúa để ca ngợi vinh quang Chúa (1 Pet 2:9).
Qua việc mạc khải cho chúng ta biết những lễ vật ba Đạo sĩ - những người đại diện đầu tiên của Hội thánh - đã dâng tiến Chúa Hài đồng, Chúa muốn chúng ta cũng phải dâng tiến Chúa những lễ vật mà vàng, nhũ hương và mộc dược đã được chọn làm biểu tượng. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Người vàng ròng là lòng mến yêu tuyệt đối dành cho Người qua việc sống trọn vẹn giới luật mến Chúa yêu người. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Người nhũ hương của một đời sống được thấm nhuần bầu khí nguyện cầu mà đỉnh cao là hy lễ Thánh thể, khi chúng ta được nên một với Chúa Giêsu để dâng lên Thiên Chúa một động tác yêu mến tôn thờ cao trọng nhất. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Chúa mộc dược của một sự bỏ mình liên lỉ qua những hy sinh to nhỏ trong cuộc sống hàng ngày như một sự nối dài của cái chết hy sinh trên thập tự của Chúa Giêsu, để qua đó chúng ta được chia xẻ vinh quang phục sinh của Người.
Với tinh thần yêu thương hiệp nhất, cầu nguyện và hy sinh, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên giống cuộc sống của chính Chúa Kitô và làm thành một lễ vật sống động đẹp lòng Chúa. Đây chính là điều thánh Phaolô từng kêu gọi các tín hữu tiên khởi phải nỗ lực thực hiện: "Vậy hỡi anh em, nhân vì lòng thương xót của Thiên Chúa, tôi khuyên anh em: hãy hiến dâng thân mình anh em làm lễ tế sống, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là sự thờ phượng thiêng liêng của anh em. Đừng rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương trí, mà biến hình đổi dạng, làm sao cho anh em thẩm định được ý định Thiên Chúa là gì, thật là tốt lành, thú vị, trọn hảo" (Rm 12:1-2).
Chúng ta còn phải học với ba Đạo sĩ cách thức dâng tiến lễ vật lên Chúa Giêsu. Tin mừng hôm nay thuật rằng "Và vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng MariaMẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược" (Mt 2:11).
Khi ấy, Chúa Giêsu là một Hài Nhi mới sinh còn hoàn toàn tùy thuộc sự chăm sóc của Mẹ Maria. Chúa chưa thể tự mình đón nhận lễ của ba Đạo sĩ. Người muốn Mẹ Maria thay Người đón nhận lễ vật của các ông. Về phía ba Đạo sĩ, khi gặp Chúa Hài Nhi và phục bái Người thì các ông luôn gặp Chúa và phục bái Người bên cạnh Mẹ và có lẽ Chúa Hài Nhi đang ở trong vòng tay Mẹ. Chắc chắn lúc ấy các lễ vật của ba Đạo sĩ chỉ được Chúa đón nhận bằng một cách duy nhất: qua tay Mẹ Maria!
Đó là lý do tại sao các tín hữu đích thực của Chúa Kitô qua mọi thời đại luôn noi gương ba Đạo sĩ và làm theo ý Chúa khi biết nhờ Mẹ Maria để đến với Chúa, để yêu mến Chúa, và để tận hiến cho Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ day chúng con luôn biết sống đẹp lòng Chúa bằng tinh thần yêu thương bác ái, cầu nguyện và hy sinh, để xứng đáng với ơn gọi làm con Chúa, là Kitô hữu của mình. Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết nhờ Mẹ để đến với Chúa, để yêu mến Chúa, và tận hiến cho Chúa, như gương ba Đạo sĩ năm xưa. Amen.
11. Ông vua thứ tư - Lm. Thu Băng, CRM
Trong cuốn "Những chuyện hay về Giáng Sinh - Les Contes de Noel" có thuật chuyện như sau: Theo Thánh Kinh, sau khi Chúa Giêsu Giáng Sinh, chỉ có ba vua đến thờ lạy và bái kiến Người. Nhưng theo tục truyền, có một ông vua thứ tư, khi thấy ánh sao cũng vội vã lên đường, đem theo nhiều của cải và 3 hạt ngọc quí để dâng tiến Chúa Hài Nhi.
Khi đi đàng, ngài gặp nhiều kẻ nghèo đói xin xỏ, ngài bỏ hết cả của cải đem phân phát cho người nghèo. Sau một tuần lễ, mọi của cải đã hết. Đến lúc lên đường, ngài gặp một ông già ăn xin đói khổ, rách rưới, ốm o gần chết bên lề đường tuyết lạnh. Ngài động lòng thương lấy ra một viên ngọc cho ông an ủi lúc tuổi già và trộm nghĩ: Còn hai viên ngọc nữa dâng Chúa cũng được.
Đến xế chiều ngày hôm sau, ngài lại gặp một đám cháy nhà. Người nhà khóc lóc om xòm vì mất của, nhà tan, bơ vơ không chốn nghỉ, các con đói khổ. Động lòng thương, ngài lấy ra viên ngọc thứ hai làm phúc cho qua cơn hoạn nạn. Thế là chỉ còn một viện, nhất định giữ để dâng kính Chúa.
Đến gần tới thành Jerusalem, ngài gặp một toán lính đang săn đuổi một cô gái. Cô lo sợ van xin chúng cũng không tha. Trong lúc khẩn cấp, ngài lại lấy nốt viên ngọc để chuộc cô gái và xin tụi lính tha cho cô. Và thế là hết chẳng còn gì dâng cho Chúa nữa.
Chiều tối mới tới hang Belem, nhìn vào thấy ba vua đang sửa soạn lễ vật dâng tiến Chúa. Ngài buồn bã ngậm ngùi và mắc cỡ không dám vào trong, bèn qùi xuống hang tối ngoài cửa, chắp tay kính thờ Chúa cách xa xa. Lòng thầm nguyện: "Lạy Chúa, con đã ráp tâm đến dâng Chúa 3 viên ngọc quí, nhưng vì cảnh khốn cùng trên đường, con đã đem cho hết họ rồi, nay con chả còn gì để dâng cho Chúa nữa. Con thật xấu hổ. Xin Chúa tha thứ cho con". Rồi ngài khóc lóc vì buồn.
Đức Mẹ nghe có tiếng động ngoài cửa, chạy ra coi, thấy vậy thì dắt ngài vào. Vào trong hang rồi ngài cũng không dám đứng ngang hàng ba vua, chỉ đứng đàng sau thập thò. Chúa giơ tay nhận lễ vật của ba vua, nhưng lại trườn người ra nắm tay và mìm cười với vị vua thứ tư, tỏ ý hài lòng.
Của lễ: Vàng, Nhũ hương, Mộc dược thật quí, nhưng của lễ do lòng bác ái từ thiện còn quí hơn. Khi đến hang đá với Ba Vua hôm nay, Chúng ta dâng Chúa lễ vật gì? Vàng, Nhũ hương hay Mộc dược? Dâng ba lời khuyên Phúc Âm: Đức Khiết Tịnh, Đức Vâng Lời, Đức Khó Nghèo và tinh thần bác ái? Dâng Đô la hay Chi phiếu, Của cải vật chất đời này hay tấm lòng bác ái vị tha của ông vua thứ tư mà Chúa ứ thích hơn cả? “Của lễ toàn thiêu, của lễ hiến dâng, Chúa chẳng ưng. Thì lạy Chúa với tấm lòng tan nát khiêm cung”.
Theo tiếng Hy Lạp thì chữ Epiphany có nghĩa là tỏ mình ra. Việc Chúa giáng trần là một biến cố quan trọng, bắt đầu một trang sử cứu độ, Ngài đã tỏ mình ra cho các người chăn chiên, đặc biệt Ngài tỏ mình cho ba nhà đạo sỹ từ Đông Phương mà người ta gọi là dân ngoại, những người có lòng thành thực đi tìm kiếm Chúa nhờ việc nghiên cứu các lời loan báo về Đấng Cứu Thế của các nhà Tiên Tri, nhờ việc sẵn sàng tìm kiếm sự thật đã được loan báo qua sách Thánh, mà các nhà Đạo Sỹ đã được ngôi sao lạ dẫn đường chỉ lối cho được gặp Thiên Chúa, Ngài đã xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại.
12. Lễ vật của dân tộc
Cách đây 20 thế kỷ, một nhóm chiêm tinh rời bỏ xứ sở để bước theo một ngôi sao lạ. Họ nhận ra ngôi sao ấy, có lẽ do họ được ơn soi sáng và được biết trước. Vì thế, khi ngôi sao xuất hiện, họ liền ra đi vì lòng họ đang mong mỏi trông chờ. Quả thực, từ rất xa xưa, con người vẫn trông đợi một Đấng cứu tinh. Tội lỗi và đau khổ của kiếp người khiến cho những ai biết suy nghĩ đều cảm thấy bâng khuâng, như luyến tiếc một thiên đàng đã mất. Chính vì mong mỏi Đấng Cứu Thế, khao khát một thứ ánh sáng siêu việt và một thứ ơn huệ từ trên ban xuống, mà nhiều khi con người đã tự tạo ra cho riêng mình những vị cứu tinh.
Lòng mong mỏi ấy càng trở nên tha thiết hơn nơi dân Do Thái, dân được tuyển chọn để bảo tồn lời giao ước. Thế nhưng, con người không thể trở về với Thiên Chúa mà không có hoà giải, mà không có phần đóng góp của mình.
Thực vậy, nếu hoà giải là một cuộc trở về của con người, sau những năm tháng bất hiếu và chìm đắm trong tội lỗi, thì cái phần hy sinh ở chính bản thân lại càng cần thiết hơn nữa, đó là dứt khoát từ bỏ con người cũ. Như ba nhà đạo sĩ đã lên đường theo ánh sáng của ngôi sao lạ thế nào, thì chúng ta cũng vậy, tâm tình sám hối ăn năn chính là bước chân đầu tiên của chúng ta trên con đường trở về tìm gặp Thiên Chúa.
Đọc lại Phúc Âm chúng ta còn thấy, sau khi gặp gỡ Hài Nhi Giêsu, ba nhà đạo sĩ đã dâng tiến những lễ vật, gồm có vàng, nhũ hương và mộc dược, là những sản phẩm đặc biệt của quê hương mình. Chúng ta cũng vậy, hãy dâng lên Chúa Hài Nhi của lễ cá nhân chúng ta, đó là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày. Đồng thời chúng ta cũng hãy dâng lên Chúa Hài Nhi của lễ đóng góp của dân tộc mình, để nhờ đó ơn cứu độ có thể đến cho mọi người trên quê hương đất nước. Vậy của lễ dân tộc là gì?
Trước hết đó là những lầm than của dân tộc từ xưa đến nay. Có khi dân tộc ta đã kiên nhẫn chịu đựng và đó là một hành vi tùng phục đối với Chúa, mở đường cho ta tìm thấy Chúa hôm nay. Có khi dân tộc ta chưa kiên nhẫn chịu đựng, chưa tham dự vào cùng khổ giá ấy, thì ta có thể thay mặt dân tộc để tùng phục Chúa, và để, ở cương vị con cái Chúa, dâng phần đóng góp thay cho dân tộc. Như thế, càng hoà mình trong những chuyển biến thăng trầm của dân tộc, ta lại càng có thể đồng công cứu chuộc dân tộc nhiều hơn. Càng hoà mình với những người nghèo túng và bị hất hủi, ta lại càng góp được phần nhiều hơn vào của lễ của dân tộc. Của lễ dân tộc còn là những tinh tuý, những giá trị văn hoá và luân lý, đó là những cố gắng trong tối tăm của cha ông từ hàng ngàn vạn năm đã vươn mình về phía Chúa. Của lễ ấy phần nào đang hiện diện nơi ta, bởi lẽ rằng, cũng như một người càng thông thái bao nhiêu, thì khi tòng giáo rồi, họ càng dễ sống đạo sâu xa bấy nhiêu.
Như thế, ta sẽ đưa những cố gắng của cha ông thuở trước tới đích nơi ta, để những cố gắng này trở thành một của lễ ba vua, của lễ đóng góp của dân tộc nhỏ bé chúng ta.
13. Chúa Nhật Lễ Hiển Linh
Chúng ta đang mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Hài Nhi GiêSu đã tỏ mình ra cho các mục đồng, đại diện cho dân Israel, dân riêng của Thiên Chúa. Người còn tỏ mình ra cho Các Đạo Sĩ Phương Đông, đại diện cho lương dân, qua ánh sao lạ. Các Đạo Sĩ này là những người thành tâm, thiện chí, họ khao khát đi tìm ý nghĩa của ánh sao lạ ấy.... Khi đã gặp được Hài Nhi, họ dâng lễ vật cho Ngài.
Trước đó bảy thế kỷ, Isaia đã hé mở cho dân Chúa thấy ý nghĩa lớn lao ngang qua sự xuất hiện vinh quang của Thiên Chúa “Hãy bừng lên, hãy tỏa sáng ra hỡi Giêrusalem. Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm bao bọc địa cầu, và u minh phủ kín các dân”. Điều Isaia loan báo, đã không chỉ làm nức lòng những trái tim héo úa, làm phấn khởi những ngón tay rã rời. Khơi lên niềm hy vọng lón lao cho dân, mở ra con đường trở về cho dân ngoại. Chính trong bối cảnh đó, Thiên Chúa đã nhìn đến con người, và Ngài đã sai Con của Ngài sinh bởi người nữ. Ngài đang tỏa sáng trên dân Ngài, nhưng không phải chỉ riêng cho người Do Thái mà là cho tất cả mọi người, mọi dân tộc.
Thật vậy, hôm nay bằng ánh sao lạ, Ngài đã chỉ cho các đạo Sĩ của Phương Đông, trông lên trời cao và tìm đến để thờ lạy vị Vua Cứu Tinh vừa mới giáng sinh. Vượt lên trên mọi tính toán, mọi khó khăn, mọi nguy hiểm, mọi vất vả, các đạo sĩ đã vội vã lên đường. Bằng tấm lòng chân thành khát khao tìm chân lý và ánh sáng, các đạo sĩ đã chấp nhận dấn thân vào cuộc phiêu lưu, mang trong mình hành trang là niềm tin để bước theo ánh sao lạ. Tuy nhiên, cũng không thiếu giây phút mà ngay cả một chút ánh sáng của niềm tin cũng vụt tắt để nhường lại cho những mò mẫm của đêm tối tăm. Cho dù găp phải hoàn cảnh bất lợi như thế, ba đạo sĩ không thất vọng, không chán nản bỏ cuộc, trái lại bằng tất cả sự nổ lực, các ngài đã tìm đấn với Vua Hêrôdê, để khơi thêm ánh sáng cho niềm tin đã sắp tắt lịm. Quả thật, Thiên Chúa không để cho những kẻ tìm kiếm Ngài phải hổ ngươi thất vọng. Đáp lại tấm lòng của họ, Thiên Chúa đã tỏ mình, hiển linh trước mặt họ trong thân phận của một Hài Nhi, hiền hòa trong trắng nằm trong máng cỏ. Sự kiên trì, chân thành tìm kiếm của họ nay đã được toại nguyện. Với tất cả sự thành kính, họ đã dâng lên Hài Nhi Giêsu: Vàng, Nhũ hương, Mộc Dược..tượng trưng cho lòng tin, cậy, mến yêu của mình. Đáp lại lòng thành kính và những lễ vật của họ, Ngài đã ban tặng họ niềm vui, sự an bình,..và mở ra cho họ con đường mới, một lối đi của tình thương và hạnh phúc, không còn âm mưu và nguy hiểm.
Còn Hêrôđê và Giêrusalem khi nghe biết về ánh sao lạ mà các nhà đạo sĩ cho biết thì đâm ra lo lắng, hoang mang, bối rối,...Họ chỉ lo cho cuộc sống trước mắt, cơm áo gạo tiền.Danh vọng và quyền uy đã chiếm hết trong cuộc sống của họ. Sự ảnh hưởng, quyền lợi ích kỷ...đã làm cho mắt họ không còn nhìn thấy ánh sao lạ, lòng họ không còn trong sáng đủ để khám phá ra tiếng Chúa đang hối thúc, và không còn sự khát khao đi tìm kiếm chân lý...Cuộc sống của họ đang “ngon cơm ngọt canh” mà bổng dưng Vị Vua mới lại xuất hiện...Có thể Ngài sẽ phá vỡ nồi cơm hay chăng? Và Ngài sẽ làm họ mất ảnh hưởng, cùng đi theo là mất luôn những quyền lợi trần thế...Do đó, họ phải hoảng sợ và lo lắng.
Khi đặt mình trước bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy mình đang được Chúa tỏ mình ra qua các dấu chỉ và các biến cố xảy đến hằng ngày. Vậy ta lấy mắt đức tin để nhìn ra các ánh sao mà Chúa đang gởi đến: Lời Chúa, Giáo Huấn của Giáo Hội, các Bí Tích, qua lương tâm, qua các biến cố trong cuộc sống, để giống như các đạo sĩ, ta quảng đại dấn thân, quên mình không ngại khó, kiên trì và nhẫn nại đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Ngôi sao đã vụt tắt khi các đạo sĩ dừng chân tại Giêrusalem. Trong cuộc sống, tiền bạc, quyền lực khôn ngoan, … không phải là chỗ dựa vững chắc để ta tìm gặp Con Thiên Chúa. Kinh nghiệm ấy giúp ta dứt mình ra khỏi những níu kéo của tiển bạc vật chất, mà ngược lại ta phải bám chắc vào Lời Chúa để làm hành trang tìm kiếm Chúa cho cuộc đời mình.
Gặp được Chúa, Các đạo sĩ đã được đổi mới. Mỗi lần gặp Chúa, phải được đánh dấu bằng cuộc đổi mới. Nếu ta thành tâm thiện chí, khao khát muốn gặp Chúa, thì Chúa sẽ có cách tỏ mình ra, Ngài sẽ thánh hóa, thăng tiến và biến đổi con người chúng ta nên tốt hơn, thánh thiện hơn.
Xin cho chúng ta biết lấy đức tin để nhìn ra ánh sao Lời Chúa, dâng lên Chúa tấm lòng yêu mến chân thành, những nổ lực, hy sinh,...từ bỏ con đường cũ để theo ánh sáng Chúa, ta đến với Chúa để đón nhận niềm vui, bình an và hạnh phúc của Chúa.
14. Mầu nhiệm ánh sáng
(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Minh Chánh)
1/ Lễ Hiển Linh là lễ Ánh Sáng. Mầu nhiệm Ánh Sáng của lễ Hiển Linh được tỏ hiện qua ngôi sao hướng dẫn các Đạo Sĩ từ Đông Phương đến thờ lạy Chúa Hài Nhi: "Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương và chúng tôi đến để triều bái Người". (Mt 2.31)
Ngôi sao Đông Phương hướng dẫn các Đạo Sĩ đến thờ lạy Chúa, đó là biểu tượng nói lên Hài Nhi Giêsu chính là Anh Sáng đã đến thế gian, như lời Tiên tri Isaia trong bài đọc một đã tiên báo:"Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi."(Is 60.1) Nhưng Chúa Giêsu còn là Anh Sáng soi chiếu cho hết mọi dân tộc như lời cụ Simêon đã nói về hài nhi Giêsu "là Anh Sáng soi đường cho dân ngoaị, là vinh quang của Israel dân Người ".(Lc 12.32)
2/ Nhưng thử hỏi: Chúa Giêsu là Ánh Sáng đã đến thế gian, vậy tất cả những người thời bấy giờ có tiếp nhận Ngài không? Ta chỉ thấy ngoài Mẹ Maria, Thánh Giuse, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ là những người đại diện cho dân tộc Israel và cho các dân trên mọi nước tiếp nhận Đức Giêsu. Còn hầu hết thì còn chưa tiếp nhận Ngài hay không nhìn nhận Chúa Cứu Thế là Anh Sáng. Vì thế mà Chúa Giêsu đã nói:" Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng đón nhận",(Ga 1. 11) vì " người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc làm của họ xấu xa". (Ga3.19) Một khi con người khước từ Đức Giêsu thì con người sẽ chìm đắm trong đêm tối. Vì Chúa nói:"Ta là ánh sáng trần gian, để bất cứ ai tin vào Ta, thì không ở lại trong bóng tối."(Ga12.46)
3/ Khi con người đang sống trong một Thế giới đang vươn tới đỉnh cao của sự phát triển: phát triển trí tuệ; phát triển kinh tế; phát triển mối tương quan đại đồng giữa các quốc gia với nhau; phát triển những lối sống văn minh hiện đại..... Vậy nhìn vào thế giới hiện tại hôm nay, ai dám nghĩ rằng đó là một thế giới hoàn hảo? Chắc hẳn là không. Vì sau những vẻ hào nhoáng của Thế giới mau qua này, thì lại xuất hiện mảng bóng đêm tăm tối đang lan tràn vào thế giới như: sự thù hận và tìm cách hạ bệ lẫn nhau giữa người với người mỗi ngày thêm gia tăng; sự chia rẽ trong hôn nhân được báo động tới mức trầm trọng; nạn phá thai càng ngày càng nghiêm trọng và khủng khiếp; mại dâm ma tuý bị coi như đó là chuyện bình thường, tệ nạn này đang lan tràn đến những miền quê và nông thôn; đời sống công bằng và bác ái càng ngày càng mất dần trong cộng đoàn, xem đồng tiền, xem của cải hơn là phẩm giá của một con người. Nói chung, Thế giới hôm nay đang đạt tới tầm vóc của sự phát triển, thì đời sống tâm linh và nhân bản của rất nhiều người cũng bị rơi vào tình trạng đen tối và bị huỷ hoại. Một khi sự sống của con người đang bị chết dần bởi hành vi đen tối của họ, thì đó cũng là lúc vinh quang của Thiên Chúa đang bị mọi người chà đạp và loại trừ ra khỏi đời sống họ. Vì "Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống".(Irênê) Mà một khi đánh mất vinh quang của Thiên Chúa ra khỏi đời sống của mình, thì cuộc sống của con người sẽ là bộ xương khô, cuộc sống sẽ giả tạo. Sống giả tạo thì đời sống làm gì có ý nghiã, làm sao họ có thể đạt được mục đích cuối cùng của kiếp người.
4/ Vì thế, trong khung cảnh của ngày lễ Hiển Linh, lễ Anh Sáng, là người Công Giáo chúng ta hãy ý thức lại sứ mạng của mình. Sứ mạng của chúng ta là phải trở nên" Anh sánh cho trần gian",(Mt 5.14) và Anh Sáng của chúng ta phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp của chúng ta làm, mà tôn vinh Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời.(x,Mt 5.16) Vậy việc làm tốt đẹp của chúng ta đó là việc gì? Trước hết, chúng ta "hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thịên".(Mt 5.48) Sống hoàn thiện như Thiên Chúa luôn đòi hỏi chúng ta phải trở nên sứ giả gieo rắc "nền văn minh tình thương", "nền văn minh sự sống" trong môi trường chúng ta đang sống. Đây là lời mời gọi mang tính tổng quát, nhưng khi chúng ta khám phá và sống một trong những điều tổng quát này, thì đời sống chúng ta sẽ trở thành ngọn đèn soi sáng cho những ai đang lần bước trong đêm tối.
Xin Mẹ Maria là Ngôi Sao Mai, giúp cho đời sống chúng con cũng trở thành ánh sao sáng trong việc sống đạo hôm nay. Amen.
15. Ngôi Sao Giáng Sinh
Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, có một chi tiết làm cho tôi suy nghĩ đó là ngôi sao bỗng biến mất khi các nhà đạo sĩ tới Giêrusalem, và rồi lại hiện ra, khi họ rời bỏ thành thánh để đi Bêlem. Tại sao lại như thế?
Như chúng ta đã biết Giêrusalem được coi là thành thánh, bởi vì ở đó có di tích, nơi mà xưa kia tổ phụ Abraham đã đem con mình là Isaác để sát tế cho Thiên Chúa. Chính nơi đây, vua Salomon đã xây dựng một đền thờ nguy nga bằng gỗ quý từ Libăng đem về. Vào thời Đức Kitô, ngôi đền thờ ấy đã được xây dựng lại. Một công trình vĩ đại, phải mất 46 năm trời người ta mới hoàn tất. Vì là thành thánh và là nơi có đền thờ, nên không lạ gì khi các nhà đạo sĩ, đi tìm vua dân Do Thái mới sinh, lại không dừng chân, tưởng đó là chặng đường chót. Nhưng oái oăm thay, ngôi sao lạ đã biến mất, còn trong thành cũng chẳng thấy ai bàn tán xôn xao về tin tức một vị tân vương mới ra đời. Ba nhà đạo sĩ chỉ là những người khách lạ, nhưng đã đem đến một tin làm chấn động cả dân thành, khiến từ vua chúa quan quyền cho đến bậc thứ dân đều sửng sốt hoang mang.
Nhà vua liền triệu tập các học giả vốn được coi là những người đoán biết được mệnh trời. Các vị ấy liền tìm ra ngay nơi Chúa sinh ra, đó là Bêlem. Nhưng đáng ngạc nhiên thay, nhà vua cùng các bậc học giả uyên thâm đó, chẳng một ai nghĩ là chính mình cần phải đi tìm vị tân vương. Họ chỉ hướng cho ba nhà đạo sĩ đi Bêlem, nhưng rốt cuộc chính ngôi sao lạ đã hướng dẫn ba vị khách phương xa tìm ra Đức Kitô. Vậy tại sao ngôi sao lại biến mất trên nền trời thủ đô Giêrusalem?
Ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta đều nhận thấy: Tôn giáo nào cũng có những nơi được dành riêng cho việc thờ phượng, nào là nhà thờ, nào là chùa chiền, nào là thánh thất. Điều đó thật tốt, nhưng đối với chúng ta ngày hôm nay thì không đủ, bởi vì Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta.
Tin Mừng đã khởi đầu từ trong căn nhà nhỏ bé ở Nadarét với biến cố truyền tin, rồi được công bố cho những kẻ chăn chiên trên cánh đồng Bêlem. Tin Mừng ấy đã được diễn tả cụ thể trong cuộc sống và hành động của Đức Kitô tại Nadarét và trên khắp các nẻo đường Palestine. Tin Mừng ấy đã được hoàn thành trong cái chết của Ngài ở ngoài đền thờ, ngoài thành thánh, và trong sự phục sinh của Ngài, để rồi từ đó được loan truyền đi khắp thế gian. Điều đó muốn nói lên rằng thờ phượng Thiên Chúa nơi thánh đường mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải nhập cuộc, còn phải hoà mình đối với mọi người, nhất là những kẻ đau yếu, bậnh tật khổ đau.
Ngày nay ngôi sao Giáng sinh hình như cũng đang biến dần và những người tìm Chúa lại phải ra khỏi thành thánh, hướng về những Bêlem mới, đó là những kẻ bất hạnh đang bị bóc lột, và khinh bỉ như các người chăn chiên thuở trước. Thế nhưng liệu chúng ta có dám tìm Chúa theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ như thế, hay là chúng ta lại ngại ngùng không dám bước theo, để rồi cuối cùng trong tay chỉ còn là một cánh sao bằng giấy.
16. Ai chuộng bóng tối hơn ánh sáng?
Giữa biển trần gian mịt mù sóng gió, những người có thiện chí vẫn khát mong tìm về bến bình an. Thật ra, bến đỗ cuộc đời toạ lạc nơi đâu? Có phải là nơi cái chết do bệnh tật và tuổi già? Những người không biết Chúa, không tin có đời sau vẫn nghĩ như vậy và họ cảm thấy cuộc đời là vô vị, là tuyệt vọng. Nếu chỉ có đời này thì người ta lao vào tìm kiếm những gì? Phải chăng là tiền bạc, địa vị và lạc thú chóng qua, để rồi khi chết thì ai cũng như ai!
Xem ra, không có mấy người phủ nhận hoàn toàn đời sau, chỉ là không muốn để thời giờ tìm hiểu cho cặn kẽ thôi. Nhiều người chủ trương sống tự tiện, buông thả theo thói đời và lấy sự hơn thua vật chất làm tiêu chuẩn cho cuộc đời mình.
Nói như vậy thì những người không biết Chúa có phải là lỗi của họ chăng? Có thể nhưng không hẳn là như vậy. Một phần do hoàn cảnh, một phần do thành kiến. Có người lý luận theo vòng lẩn quẩn: cha mẹ tôi theo Hồi giáo, tôi tuy thấy đạo Kitô giáo hay hay nhưng vì cha mẹ tôi không giữ đạo này nên tôi cũng vậy. Họ không có sự bứt phá, không muốn tìm hiểu thêm.
Thế nhưng, giới trẻ ngày nay rất thích khẳng định mình, muốn vượt qua ranh giới thuần phong mỹ tục. Họ cho rằng cha mẹ không hợp thời, họ không chấp nhận kiểu: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó như ngày xưa, họ thích sống tự do với bạn bè, thích nhạc rap, nhạc hip- hop, thích sống thử... Những điều này làm các phụ huynh phải đau đầu, thấy mình bất lực khi con cái mình trở thành những con thiêu thân đi vào chỗ chết, đánh mất lễ nghĩa gia phong, đạo đức của cha ông.
Giới trẻ và loài người ngày nay muốn tìm cái mới lạ và tự do theo ý mình. Họ muốn tìm một cuộc sống riêng tư, theo ý riêng và họ nghĩ như vậy mới là hạnh phúc, sung sướng. Nhưng nhiều nhà đạo đức thấy rằng: nhiều người trong thế hệ này lầm lạc. Nếu như giới trẻ muốn tự do vì cần tìm hiểu nghiên cứu để phát minh những cái hay cái tốt thì đáng hoan nghênh. Nhưng vẫn có rất nhiều người chạy theo trào lưu phóng túng chỉ vì để cho giống bạn mình! Họ không biết tại sao. Họ cũng không cần biết đến mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Họ chỉ theo phong trào ai làm sao tôi làm vậy, không có lập trường của riêng mình, không có định hướng riêng.
Thật ra, giữa thế gian nhiều hỗn độn này, bao nhiêu bóng tối bủa vây, bóng tối của hận thù, chiến tranh xuất phát từ sự ích kỷ của con người, bong tối của đam mê tiền bạc hay dục vọng ươn hèn. Giữa thế gian đầy bong tối đó, người Kitô hữu hãy trở nên ánh sáng soi lối cho tha nhân. Tuy chúng ta không toả ánh sáng như mặt trời nhưng có thể là ngọn nến trong gia đình và làng xóm của mình, chúng ta hãy phản chiếu ánh sáng của Thiên Chúa qua những hành động yêu thương, vị tha, hy sinh, giúp cho đời bớt khổ, cho những ai thành tâm tìm Chúa được gặp thấy Ngài nhờ ánh sáng đức tin của chúng ta.
Ước chi thế nhân hôm nay năng biết hướng lòng lên cao để nhận ra ánh sao Chúa ban và tìm đến thờ lạy Con Thiên Chúa.
Ước chi đừng ai giống Hêrôđê chỉ biết đến bản thân mình, chỉ biết thu vén cho mình. Ông ở gần Bêlem mà không tìm hiểu về Chúa, chỉ muốn hiểu Kinh Thánh theo kiểu trần gian nên đã tàn sát các con trẻ ở Bêlem.
Ước chi chúng ta biết bắt chước Ba Vua lên đường, ra khỏi sự ích kỷ và thành kiến của mình để nhận ra Chúa đang hiện diện trong Hội Thánh Công giáo, trong những người nghèo hèn bé mọn đang cần sự giúp đỡ. Ước chi toàn thể nhân loại trên thế giới này biết có đời sau, nhận ra sự chóng qua và bất toàn của đời này. Phải chi loài người thức tỉnh, nhận biết giới hạn của đời mình và tìm đến hạnh phúc chân thật mà Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
SỰ SÁNG là Chúa Giêsu Kitô đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng(x. Ga 3, 19). Xin Chúa cho chúng con đừng chạy theo thế gian nhưng biết chọn Chúa là nguồn hạnh phúc cho đời mình.
17. Gặp gỡ Chúa
Những hạng người nào đã được diễm phúc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem? Trước hết là các mục đồng, những người canh giữ đoàn vật. Họ là những người nghèo và hơn thế nữa, họ còn là những người bị khinh dể bị coi thường. Các luật sĩ và Biệt phái thường gọi họ là bọn dân đen. Cái đám người không biết đến lề luật, họ là những kẻ bị chúc dữ. Thế nhưng, chính đám người bị chúc dữ ấy, chính đám người không biết đến lề luật ấy lại là những người đầu tiên được đón nhận Hài Nhi Giêsu.
Tiếp đến là những nhà bác học xa lạ. Đường không quen, nẻo không thuộc. Họ từ xa mà đến, dám chấp nhận mọi hy sinh gian khổ. Cái nghèo của những người này chính là thái độ sẵn sàng của họ. Các Luật sĩ và Biệt phái coi họ là dân ngoại. Thế nhưng, cái đám dân ngoại này lại được diễm phúc gặp được Hài Nhi Giêsu.
Từ những sự kiện trên chúng ta rút ra được hai nhận định. Nhận định thứ nhất đó là sự gặp gỡ giữa người giàu và kẻ nghèo nơi Hài nhi Giêsu. Đúng thế, từ xưa cho đến nay vẫn có một hố ngăn cách giữa giàu và nghèo. Sự ngăn cách này được tạo nên bởi những nghi ngờ và thù oán. Mỗi bên đều có cái lý của mình. Tuy nhiên trong lịch sử đã có một khoảnh khắc trong đó giàu và nghèo không còn đố kỵ nhau, đó là khoảng khắc Chúa Giêsu sinh ra. Bởi vì có những người giàu, giàu về tiền bạc cũng như giàu về kiến thức đã đến viếng thăm một Hài nhi nghèo nàn, sinh ra không cửa không nhà.Thế nhưng, cái nghèo của Hài Nhi Giêsu mà ba nhà đạo sĩ khám phá ra đã không đẩy lùi họ, trái lại còn hấp dẫn họ, không làm cho họ hổ thẹn, trái lại còn làm họ cảm thấy được tôn vinh. Vì vậy, không ngỡ ngàng, không nghi vấn, họ tự dâng của lễ cho một Hài Nhi của người nghèo, như triều cống cho một hoàng tử của đế vương.
Nhận định thứ hai đó là các mục đồng và dân ngoại là những người ít được chuẩn bị nhất lại nhận ra Chúa. Trong khi đó các Luật sĩ, Biệt phái và tư tế, là những người đã được chuẩn bị nhiều nhất, đã được thông tin hoàn toàn nhất, bởi vì chính họ đã cho các đạo sĩ biết rõ nơi gặp gỡ đích thực của vị Vua mới sinh ra, thế nhưng cuối cùng họ đã không nhận ra Ngài. Họ có dư khả năng để biết nhưng lại không có khả năng để hiểu. Đúng thế, họ biết được bằng trí tuệ, bằng những phương tiện thông tin đầy đủ có trong tầm tay, nhưng muốn hiểu thì còn cần đến tấm lòng, cần đến con tim nữa.
Các mục đồng là những kẻ thiếu học, còn các nhà đạo sĩ là những người thiếu thông tin. Họ không có khả năng để biết, nhưng lại có khả năng để hiểu. Không phải chỉ sáng trí, có học là đủ để đi vào những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trái lại, cần phải có thiện chí, cần phải có tấm lòng, dám chấp nhận những hy sinh, dám từ bỏ cái tự cao tự đại của mình, thì mới có thể đến gần và gặp gỡ Chúa.
Bởi đó, là những người có đức tin, thế nhưng chúng ta đã gặp gỡ Chúa như các mục đồng và như ba nhà đạo sĩ phương đông hay chưa?
18. Thiên Chúa tỏ mình
Ngày hôm nay Thiên Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông, nghĩa là những người ở ngoài dân Chúa và bị người Do Thái xếp vào hàng dân ngoại. Chính vì thế lễ Hiển Linh có thể được coi như là lễ Giáng sinh của người ngoại. Tuy nhiên, qua phụng vụ chúng ta thấy được tính cách bi đát của chương trình cứu độ như thánh Gioan đã diễn tả: Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà các người thân đã không tiếp nhận Ngài.
Thực vậy, Isaia đã đưa ra những lời tiên đoán đầy phấn khởi về Giêrusalem vào ngày Đấng cứu thế xuất hiện. Ngày ấy, Giêrusalem sẽ trở thành trung tâm ánh sáng và mọi người từ bốn phương trời sẽ tiến về đó với muôn vàn lễ vật. Nhưng trớ trêu thay, vào ngày Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, theo như lời tiên tri Isaia loan báo, ánh sáng đã chiếu trên Giêrusalem, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới nhận ra ánh sáng ấy, còn dân trong thành thì vẫn tiếp tục sống trong u tối. Giêrusalem đã có thể chỉ rõ nơi vua dân Do Thái mới sinh ra, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới tới thờ lạy Ngài.
Một ngôi sao xuất hiện trên bầu trời thì có chi đáng quan tâm. Nhưng tất cả cuộc hành trình kỳ diệu lại khởi đầu từ đó. Đêm hôm ấy, hẳn cũng đã có nhiều người nhìn lên trời, ngắm những vì sao nhưng lại không thấy được vì sao của Ngài. Cũng thế, những biến cố, những sự kiện diễn ra hằng ngày trên đường phố, trong xã hội. Chúng ta cũng có thể đọc được những sự kiện, những biến cố ấy trên cùng một trang báo, qua cùng một chương trình thời sự, nhưng có mấy khi chúng ta thấy được trong một biến cố, trong một sự kiện dấu chỉ về một đòi hỏi của Chúa?
Tuy nhiên, các nhà đạo sĩ đã không chỉ bằng lòng với việc thấy được vì sao của Ngài. Các ông còn chuẩn bị lễ vật và hăm hở lên đường với một cuộc hành trình mang tính cách phiêu lưu, tiến tới một nơi vô định mặc dầu có ánh sao dẫn lối. Tin Mừng cho thấy là cũng đã có lúc không còn ánh sao nữa và các ông đã phải hỏi thăm về nơi các ông phải tới với những người không quen biết. Và không phải là không có những cạm bẫy. Hêrôđê có đó với tấm lòng nham hiểm đằng sau những lời nói đầy vẻ ân cần. Vượt không biết bao nhiêu dặm đường để rồi cuối cùng đứng trước một hài nhi yếu ớt, nhưng các ông cũng đã sấp mình thờ lạy, và dâng lễ vật với lòng hân hoan toại nguyện. Phải chăng đó chính là thái độ của một lòng tin đích thật. Các thượng tế và luật sĩ, mặc dù thông hiểu Kinh Thánh, nhưng vẫn ngồi yên tại chỗ. Sự hiểu biết của họ như đã không đủ sức để lay chuyển họ. Là những người ở trong, họ đã tự đặt mình thành những kẻ ở ngoài. Trong khi đó, những người vẫn bị xếp vào hạng ở ngoài, vì đã đi theo tiếng gọi của Chúa, mà đã trở thành những người ở trong. Những điều chúng ta thấy và hiểu biết về Tin Mừng, về Đức Kitô, về Nước Trời, về ơn cứu độ, có đủ sức lay chuyển chúng ta đi theo tiếng gọi của Chúa hay không?
19. Hiển Linh - Marcellino D'Ambrosio
(GB. Nguyễn Kim Ngân chuyển ngữ)
Lúc bấy giờ, tất cả cũng đều khá khiêm tốn, một xe lừa đến một thành phố bụi bặm phía nam Giêrusalem. Tất cả các phòng khách sạn đã được đặt trước. Sinh con trong một chuồng ngựa và đặt nằm trong một máng ăn gia súc thay vì một cái nôi ấm áp.
Trong cảnh nghèo nàn ít ai biết đến này đột nhiên xuất hiện một đoàn tùy tùng kỳ lạ từ một nơi xa xôi. Những kẻ sang trọng trong lễ phục tặng cho hài nhi mới sinh những món quà đắt giá mà dường như không có ở những nơi tầm thường này.
Biến cố này có ý nghĩa đến mức nó được nhìn nhận như một ngày lễ trong phụng vụ Rôma, được cử hành một cách truyền thống vào ngày 6 tháng Giêng ngay sau ngày thứ 12 từ lễ Giáng Sinh. Lễ trọng này được gọi là Lễ Hiển Linh [Epiphany], có nghĩa là “tỏ mình” hay "tỏ hiện".
Một em bé cất tiếng khóc chào đời trong một gia đình nghèo khổ, xem ra không hơn gì những đứa trẻ khác, nhưng "hóa ra" Ngài thật sự là Vua muôn vua, Chúa các chúa. Món quà Ngài nhận, được tiên báo trong sách Isaia 60,6 qua câu chuyện: vàng tương xứng với một vị vua, nhũ hương dành cho việc thờ phượng Thiên Chúa và mộc dược – cay đắng nhưng quý giá – dành cho vị anh hùng hi sinh mạng sống mình vì dân.
Có một vài điều quan trọng đáng chú ý về những vị khách danh giá này. Họ là những dân ngoại, không phải người Do Thái. Ngay từ lúc khởi đầu cuộc sống nhân loại, rõ ràng Chúa Giêsu không chỉ là Đấng Mêsia của người Do Thái, Đấng đến để giải thoát dân Israel khỏi ách ngoại bang. Không, Người còn là vua vũ trụ, Đấng thống trị tất cả, Đấng đã đến để phá hủy bức tường hận thù chia cắt giữa người Do Thái với dân ngoại, nước này với nước kia.
Nếu bạn đã từng tự hỏi “Công Giáo” có nghĩa là gì, thì đây là nghĩa của nó. Được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp mang nghĩa “theo tất cả”, nó có nghĩa rằng Chúa Kitô không đến để thiết lập một giáo phái địa phương nào đó cho số ít người được tuyển chọn, một lối “thờ cúng” giữa nhiều lối khác nhau. Không, Ngài thành lập Giáo Hội là “Công Giáo” hay phổ quát, lan rộng khắp trần gian, đón nhận toàn thể nhân loại thành một nước, một gia đình, dưới một vị vua.
Vài điều nữa về những vị khách nổi tiếng này. Không phải là người Do Thái, họ là người ngoại giáo. Trên thực tế, thuật ngữ “Magi” rõ ràng liên quan đến “ma thuật”. Nó không có trong Kinh Thánh nơi mà bình thường họ tìm kiếm sự thông thái (nếu không thì họ đã biết đường thẳng tới Bêlem rồi). Nhưng, trong phần thưởng dành cho sự hăng hái của họ, dẫu cho có sai lạc trong việc tìm kiếm chân lý, dù sao đi nữa Thiên Chúa đã dẫn họ đến với Chúa Kitô bằng lòng thương xót bao la của Ngài.
Kể từ thời Balaam, Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta biết rằng dân ngoại có thể được đến gần Ngài một cách huyền nhiệm và được Ngài dùng, thậm chí qua những truyền thống khôn ngoan bất toàn của chính họ. Nếu bạn đến nhà nguyện Sistine và nghiên cứu tác phẩm của Michelangelo bạn có thể thấy bằng chứng về điều này. Hàng trên cùng của một bức tường của nhà nguyện là những bức tranh nổi tiếng về các ngôn sứ thời Cựu Ước. Đối diện với những bức tranh này không phải là hình các tông đồ thời Tân Ước như người ta mong đợi. Nhưng đúng hơn là, một dãy các bà đồng bà cốt, những nữ ngôn sứ thời xưa, mà trong những lời sấm của họ có nhiều lời ám chỉ không rõ ràng được khám phá về một vua cứu thế trong tương lai. Một trong các nữ ngôn sứ của Michelangelo miệng há hốc vì kinh ngạc, mắt nhìn chăm chăm vào bức họa Chúa Giêsu phục sinh nằm phía sau nhà nguyện. Quả thật, những khao khát sâu thẳm nhất của tất cả các dân tộc, những yếu tố của chân lý được tìm thấy trong tất cả các tôn giáo và triết lý của họ đều được thực hiện trong Chúa Kitô.
Có phải điều này có nghĩa là tất cả các tôn giáo đều như nhau và chúng ta không nên áp đặt ý tưởng của mình lên người khác không? Không phải tất cả. Thánh Giustinô nói rằng có “nhiều hạt giống Lời Chúa” nằm rải rác ở khắp thế giới. Nhưng những hạt giống đều được nhắm tới việc nảy mầm, phát triển và sinh hoa kết quả. Nghe Tin Mừng đầy đủ và dự phần vào tất cả những phương tiện của ân sủng nói chung thì cần thiết để làm cho điều đó xảy ra. Tất cả mọi dân tộc đều có quyền đến với sự tràn đầy Công Giáo này. Và đó là bổn phận của chúng ta để chia sẻ nó. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đúng khi nói rằng: “Những người khác có thể có khả năng được cứu độ mà không cần lắng nghe Tin Mừng, nhưng liệu chúng ta có thể được cứu độ nếu chúng ta sao lãng việc rao giảng Tin Mừng không?”.
20. Ánh sao đạo đức - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.
Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.
Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.
Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?
2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?
3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
21. Ánh sáng đức tin – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Arthur Jones gia nhập không lực Hoàng gia, anh được huấn luyện trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định: “Có nên quì gối đọc kinh như thói quen ở nhà không?”. Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng, nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ mình phải thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao?”
Anh liền quyết định cứ quì gối đọc kinh như thói quen. Khi vừa làm dấu kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người mới biết anh là người Công giáo. Hơn nữa, anh lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy nhiên, anh vẫn quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau đó thường dẫn đến những cuộc tranh cãi hàng giờ.
Cuối khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Cám ơn bạn, tôi không nghĩ mình là Kitô hữu tốt nhất đâu. Có thể tôi là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức tin.
Ánh sáng Đức Tin của người lính đã tỏa sáng trong trại huấn luyện của không lực hoàn gia. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Các con là ánh sáng thế gian” (x. Mt 5,14-16). Như ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn đường cho các đạo sĩ, ngôi sao Tin Mừng cũng đã xuất hiện để soi dọi vào tâm hồn tăm tối của chúng ta. Để từ đây, ánh sáng đức tin luôn tỏa rạng ngời.
Nhưng Tin không phải là thấy. Tin là dựa vào lời Chúa mà liều mình, mà dấn thân và nhiều khi phải vượt qua gian nan thử thách.
Các đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, họ vội vã lên dường mà không biết ngôi sao sẽ dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất, họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ là hành trình Đức Tin, con đường của họ là con đường thánh giá.
Để giữ vững Đức Tin, nhiều khi chúng ta phải can trường lướt thắng bản thân, phải liên lỉ chiến đấu hy sinh, phải anh dũng biểu lộ niềm tin. Tổng Giám Mục Fulton Sheen khẳng định: “Để trắc nghiệm Đức Tin của chúng ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không pải lúc đời lên hương, thuận buồn xuôi gió”.
Như các đạo sĩ tìm lại ánh sao sau khi lạc mất, người tín hữu Kitô được mời gọi nhìn lên ánh sao của niềm hy vọng. Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta can đảm dấn thân đi tới.
Trong cuộc sống đời thường, có rất nhiều dấu chỉ như ánh sao dẫn ta đến với Chúa. Có thể là:
- Một câu kinh thánh đánh động lòng ta.
- Một nghĩa cử yêu thương nồng ấm.
- Một lời khuyên nhắc nhớ chân tình.
- Một gương sáng làm ta xúc động.
Nếu cuộc đời chúng ta đã từng có những ánh sao dẫn đường, thì đến lượt mình, hãy là những vì sao ngời sáng như kim cương trên bầu trời, là những ánh đèn đêm hoa đăng ngày đại hội. Eliot đã viết:
“Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng,
Thì hãy là ánh lửa non cao.
Nếu không thể là ánh lửa non cao,
Xin hãy làm ánh nến tỏa sáng trong gia đình”.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong Giáo lý Năm Thánh 2000 có viết: “Việc giáo dân tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, cùng với nhiều hình thức tông đồ và phục vụ của họ trong xã hội, khiến chúng ta có lý mà hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba, sẽ có một cuộc “hiển linh” trọn vẹn và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân”.
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra những ánh sao Chúa gởi đến trong cuộc đời chúng con.
Xin biến chúng con thành những ánh sao ngày càng rực sáng và lan tỏa khắp thế giới. Amen.
22. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Theo một cổ truyền mà Thánh Giustinô thế kỷ thứ II đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, Thánh Giuse và Mẹ Maria đem Chúa lên Giêrusalem dâng cho Thiên Chúa. Theo Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh. Trong khoảng thời gian đó đã xảy ra nhiều việc quan hệ. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Belem. Chính ở đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ Phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dọa, ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Belem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà.
Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà Ba Nhà Đạo sĩ là những đại diện.
Việc các Đạo Sĩ đên tôn thờ Chúa Giêsu đã mau được nhìn nhận như là việc làm cho trọn những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Trong sách Tiên Tri Isaia có viết như sau: "Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên" (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.
Các thượng tế tại Giê-ru-sa-lem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy, sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc Ba Nhà Đạo Sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nazareth mà con người khát mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu nhiệm: " Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Đức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng" (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô "(Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người sống bên ngoài mạc khải ( là các đạo sĩ, dân ngoại), và những người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô sẽ cho thấy sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo Hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.
Giáo Hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa Kitô, Ngài đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo Hội cũng phải được mở ra để tìm kiếm sự thật đôi khi do dự, dao động hoặc biến thái, mà vẫn còn là trung tâm của nhân loại, và phản ánh những mong muốn của cuộc sống về hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho.
Trong bối cảnh cử hành Năm Đức Tin, chúng ta không chỉ tưởng nhớ, và vui mừng kỷ niệm ngày sinh nhật của Con Thiên Chúa. Năm Đức Tin là cơ hội để chúng ta tự hỏi: chúng ta làm gì với những gì chúng ta đã nhận được, những điều chúng ta tin? Chúng ta đã, đang và sẽ làm điều gì trong Năm Đức Tin?
Là những người đã chịu Phép Rửa tội, chúng ta nhận được từ Thiên Chúa sứ mạng, và khả năng để làm chứng nhân cho đức tin trong mọi tình huống của cuộc sống, như trong gia đình, khi gặp gỡ bè bạn, nơi công xưởng, xí nghiệp, nơi học đường, tóm lại là ở bất cứ nơi nào người Kitô hữu có mặt. Chúa Giêsu đã mở cánh tay của mình ra chào đón dân ngoại. Là Kitô hữu, chúng ta tự hỏi: làm thế nào con người thời nay có thể tin vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống? Làm thế nào để con người ngày hôm nay yên mến tha nhân, và sẵn sàng giúp giúp đỡ anh em? Đó là nhiệm vụ của chúng ta.
Giáo Hội của Chúa Kitô là kết quả của một câu chuyện tình yêu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta, Ngài là Giao Ước Mới. Nơi Giáo hội của Ngài, con người có thể đặt câu hỏi, tìm câu trả lời, và dần dần khám phá ra Hài Nhi năm trong máng cỏ, là dấu chỉ lòng thương xót của Chúa, là Thiên Chúa Cứu Độ.
Năm Đức Tin mời gọi chúng ta: "Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa! Hãy để cho Chúa Kitô chạm đến chúng ta! Hãy mở ra những cánh cửa, để đón nhận tình thương nhân từ của Thiên Chúa! Hãy trình bày cho Chúa Kitô những niềm vui cũng như những nổi buồn của chúng ta! Hãy để cho ánh sáng của Chúa soi sáng trí khôn chúng ta bằng ánh sáng của Người, và chạm đến tâm hồn chúng ta bằng ân sũng của Chúa".
Trong tinh thần này, chúng ta hãy cầu nguyện sốt sắng cho muôn dân trên khắp địa cầu được ơn Đức tin, để họ tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa Cứu Độ duy nhất. Chúng ta cũng cầu cho sự hiệp nhất trọn vẹn của tất cả mọi người tin vào Đức Kitô, ngõ hầu chứng tá của họ trở nên chất men hiệp thông cho toàn thế giới. Xin Mẹ Maria Rất Thánh, Mẹ của Chúa Kitô và là Mẹ của Giáo Hội nguyện giúp cầu thay.
23. Lễ Hiển Linh, Lễ của Ánh Sáng
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người” (Mt 2,11)
Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa không những chỉ xuống thế làm người trên mặt đất này, mà còn để cho con người nhìn thấy ; Người không chỉ có sinh ra, nhưng còn để con người biết đến và thờ lạy. Đây là sự thật nhãn tiền được biểu lộ trong ngày lễ Hiển Linh, ngày Chúa tỏ mình ra cách rõ nhất mà hôm nay chúng ta mừng kính.
Hôm nay, các đạo sĩ từ phương Đông đến tìm, họ tìm ai? Tìm “sự lóe rạng mặt trời đức nghĩa” (Ml 3, 20) như Malaki đã loan báo, tìm Đấng mà chúng ta đọc thấy trong sách Dacaria: “Này có một người, hiệu là ‘Chồi lộc’” (Dc 6, 12). Ai tìm thì sẽ thấy. Họ mỏi công đi tìm theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ và họ đã thấy, họ đến thờ lạy Hài Nhi mới sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Do lòng nhân hậu, Chúa tự tỏ mình ra cho người ta thấy như thánh Phaolô viết: “Ðấng cứu thoát ta đã hiển linh… không phải do tự các việc ta làm trong đàng công chính, nhưng là chiếu theo lòng thương xót của Người” (Tt 3,4-5).
Xin hỏi các đạo sĩ: Các ngài đang làm gì, hỡi các đạo sĩ, các ngài làm chi vậy? Các ngài thờ lạy một Trẻ Thơ măng sữa, mới sinh nơi xóm nhỏ đơn nghèo ư? Các ngài tin rằng, Trẻ Thơ ấy là Thiên Chúa sao? Nhưng “Thiên Chúa ở trong thánh điện của Người, ngai của Người đặt ở trên cao” (Tv 10,4). Còn các ngài, các ngài tìm Chúa nơi hang bò lừa đang nằm trong vòng tay mẹ ẵm sao? Các ngài làm chi vậy? Tại sao các ngài lại dâng vàng? Trẻ Thơ này là vua ư? Nhưng đâu là cung điện cũng như ngai vàng của nhà vua, và đâu là quần thần của nhà vua? Chuồng bò là cung điện, máng cỏ là ngai vàng, Đức Maria và thánh Giuse là quần thần của vua sao? Làm sao những người thông thái không thờ lạy Hài Nhi, họ đã bị điên dồ hết rồi sao, phải chăng họ coi thường sự non nớt và cái nghèo của Trẻ Thơ?
Để nên người thông thái, các đạo sĩ đã trở nên điên dồ; Thánh Thần đã dạy bảo họ trước: “Vì chưng một khi thế gian, đứng trước sự khôn ngoan của Thiên Chúa, đã không lợi dụng khoa khôn ngoan mà nhìn biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã quyết ý dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu những kẻ tin” (1Cr 1, 21). Vì vậy, họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Hài Nhi nghèo này, thờ kính như một vị vua, vị thần. Một ngôi sao hướng dẫn họ bên ngoài đã chiếu tỏa nơi họ ánh sáng huyền nhiệm của chính vì sao.
Chúa là Ánh Sáng
Lễ Hiển Linh là mầu nhiệm ánh sáng, ánh sáng được diễn tả qua biểu tượng ngôi sao hướng dẫn cuộc hành trình của các nhà đạo sĩ. Chúa Kitô chính là Nguồn Sáng thật, là “Mặt Trời mọc lên từ trên cao” (x. Lc 1,78) chiếu tỏa trần gian và lan ra theo những vòng tròn đồng tâm. Trước hết trên Ðức Maria và Thánh Giuse được chiếu sáng bởi sự hiện diện thần linh của Hài Nhi Giêsu, kế đến là các mục đồng tại Bêlem; khi được thiên sứ báo tin, các ngài mau mắn chạy đến hang đá và gặp thấy nơi đó “dấu chỉ” đã được báo trước cho họ: một con trẻ được bọc trong khăn và đặt nằm trong máng cỏ (x. Lc 2,12). Các mục đồng, cùng với Đức Maria và Thánh Giuse, đại diện cho “nhóm nhỏ còn lại của Dân Israel”, những người nghèo, những kẻ đã được loan báo Tin Mừng.
Ánh sáng của Chúa Kitô cuối cùng chiếu toả đến các vị đạo sĩ, quả đầu mùa từ các dân ngoại: “Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng… và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người” (Mt 2,11). Trong khí đó, “cả nhà vua cùng các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân” (Mt 2,3) còn nằm trong bóng đêm, nơi mà tin tức về Ðấng Thiên Sai sinh ra, được thông báo một cách nghịch lý cho họ biết qua các vị đạo sĩ, và khơi dậy không phải niềm vui mừng, nhưng sự lo sợ và những phản ứng thù nghịch (x. Mt 2,3). Ý định của Thiên Chúa quả thật là nhiệm mầu: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm là điều xấu” (Ga 3,19).
Nhưng thử hỏi ánh sáng đó là gì đây? Nó chỉ là một biểu tượng gợi ý, hay có một thực tại thật được nói lên qua hình ảnh này? Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa là sự sáng, tối tăm không hề có nơi Người” (1Ga 1,5). Và thêm: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Hai lời quả quyết trên giúp chúng ta hiểu rõ hơn rằng: Ánh sáng bừng lên trong đêm Giáng Sinh là Tình Yêu Thiên Chúa, được mạc khải nơi chính Lòng Thương Xót Nhập Thể.
Chúa Giêsu “là Ánh sáng đã chiếu soi lương dân và Vinh quang của Israel dân Chúa” (Lc 2,32); Ðược Thiên Chúa linh ứng, cụ Simêon đã thốt lên như thế. Ánh sáng chiếu soi mọi dân tộc, ánh sáng của lễ Hiển Linh phát xuất từ vinh quang của Israel dân Chúa, vinh quang của Ðấng Thiên Sai, mà theo Kinh Thánh, đã giáng sinh tại Bêlem, “thành của Vua Ðavít” (x. Lc 2, 10-11). Các đạo sĩ thờ lạy một Hài Nhi đơn sơ nằm trong đôi tay Mẹ Maria, bởi vì các ngài nhìn nhận nơi Con Trẻ này nguồn mạch của hai ánh sáng đã hướng dẫn các ngài: ánh sáng của ngôi sao và ánh sáng của Kinh Thánh. Các ngài nhìn nhận nơi Con Trẻ vị Vua của người Giuđêa, vinh quang của dân Israel, và cũng là Vua của tất cả mọi dân nước.
Giáo hội là ánh sáng
Trong khung cảnh phụng vụ của lễ Hiển Linh cũng được biểu lộ mầu nhiệm Giáo Hội và chiều kích truyền giáo của Giáo Hội. Giáo Hội được mời gọi chiếu sáng trong thế giới ánh sáng của Chúa Kitô, vừa phản chiếu ánh sáng đó nơi chính mình, như mặt trăng phản chiếu ánh sáng của mặt trời. Trong giáo hội đã được hoàn tất những lời tiên tri xưa nói cho thành thánh Giêrusalem: “Hãy chỗi dậy, hãy mặc lấy ánh sáng, bởi vì ánh sáng của ngươi ngự đến... Các dân tộc sẽ bước theo ánh sáng của ngươi, các Vua Chúa sẽ đi theo vinh quang của Nguồn Sáng ngươi” (Is 60, 1-3). Người kitô hữu sẽ phải thực hiện điều này: sau khi đã được Chúa huấn luyện sống theo các Mối Phúc, nhờ qua chứng tá của tình thương, phải lôi cuốn mọi nguời đến cùng Thiên Chúa. “Như thế phải chiếu toả ánh sáng của chúng con trước mọi người, ngõ hầu nhờ thấy những việc tốt chúng con làm mà họ tôn vinh Cha chúng con trên trời” (Mt 5,16).
24. Ánh sáng soi đường
Nhờ Ánh Sao dẫn đường, ba nhà đạo sĩ từ Phương đông đã đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Có thể nói, họ là những con người khao khát chân lý và qui phục sự thật. Theo quan niệm vẫn có nơi nhiều nền văn hoá trên thế giới, mỗi khi có vị quân vương ra đời thì trên bầu trời xuất hiện một ánh sao lạ. Và người ta cũng thường nghĩ rằng, cuộc đời của một con người gắn liền với một vì sao nào đó!
Khi Chúa Giêsu giáng sinh, Ngài đã tỏ mình ra nhiều người, bằng nhiều cách thế khác nhau. Trước hết, Ngài tỏ mình ra cho những con người đơn sơ, nghèo khó như các mục đồng chăn chiên ngoài đồng; cho những con người thánh thiện và tốt lành như cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna. Hôm nay, với việc các nhà đạo sĩ từ Phương Đông tìm đến với Chúa Giêsu, chúng ta có thể nói được rằng: Chúa đã tỏ mình ra với muôn dân, ngay cả với Dân ngoại. Nói cách khác, Chúa đã tỏ mình ra nơi mọi tâm hồn thành tâm thiện chí đi tìm Ngài bất luận họ là ai, thuộc dân tộc nào!
Câu chuyện trong Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều này là: với việc Giáng sinh làm người của Chúa Giêsu, thì Ánh Sáng đã đến trần gian. Ánh sáng này đã xoá tan ranh giới phân biệt Do thái và Hy Lạp, tuyển dân và Dân ngoại. Nhưng cũng từ đây, một "ranh giới" mới xuất hiện, không phải Thiên Chúa muốn nhưng do con người tạo ra, đó là cuộc đối đầu giữa Ánh sáng và Bóng tối. Theo thánh Gioan tông đồ, vẫn có Ánh sáng thật và cũng có Bóng tối thật! Chúa Giêsu là Ánh sáng - Ánh sáng ban sự sống, xuất phát từ Chúa Cha và những ai tìm đến với Ngài với tâm hồn ngay chính cũng được Ánh sáng soi dẫn và sống trong Ánh sáng. Nhưng khi Ánh sáng xuất hiện thì Bóng tối cũng lộ diện rõ ràng, mà Hêrôđê chính là đại diện cho những con người sống trong Bóng tối. Bóng tối trong cuộc đời này xem ra rất mạnh thế. Bóng tối cũng vô cùng tinh xảo và khôn ngoan theo kiểu thế gian. Vua Hêrôđê căn dặn những nhà đạo sĩ rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người". Đó là những lời nghe có vẻ rất đạo đức và thánh thiện của vị bạo Chúa Hêrôđê, nhưng tận đáy lòng của vị vua này là muốn tiêu diệt Hài Nhi Giêsu vì ông lo sợ rằng: với việc ra đời của Chúa Hài Nhi thì ngai vàng của ông bị lung lay. Ông sợ Vua Giêsu sẽ cướp mất quyền làm vua của ông. Thật là một suy tính tiểu nhân và trẻ con vô cùng! Ông đâu biết rằng: "mọi quyền hành ở trần gian này đều do Chúa ban và thiết định". Ông cũng đâu hiểu rằng: Chúa Giáng trần cũng là để cứu chuộc mọi người trong đó có ông nữa. Thật tội nghiệp cho ông, một vị vua sống trong bóng tối vì bị đam mê dục vọng lôi cuốn.
Trong con người chúng ta, hình như cũng có bóng dáng của ba nhà đạo sỹ mà cũng có bóng dáng của Hêrôđê ẩn hiện đâu đó. Có những lúc tâm hồn chúng ta bay bổng, tha thiết muốn đi tìm Chúa, muốn sống chết với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Những lúc đó, chúng ta muốn sẵn sàng hiến dâng cho Chúa tất cả: "Đây tâm tư con, thân xác con, nguyện hiến dâng Ngài từ đây đến trót cuộc đời...!" Đó cũng là những khi chúng ta thấy Chúa luôn hiện diện bên cạnh mình, thấy mình được mọi người thương mến và quí trọng... Đời thật đáng sống làm sao! Yêu Chúa và yêu người dễ dàng làm sao!
Nhưng rồi có những lúc, chúng ta gặp phải những thất bại, những chống đối, những hiểu lầm; những lúc cuộc đời của ta không thuận buồm xuôi gió, thiếu trước hụt sau... Chúng ta cầu xin Chúa hoài mà Chúa vẫm im lặng, thì tự nhiên chúng ta cũng muốn buông xuôi tất cả. Những lúc đó, chúng ta dễ hành xử như những người không có niềm tin và hy vọng. Chúng ta rất dễ có những hành động như Hêrôđê là muốn phá đổ, muốn huỷ diệt tất cả vì mình không thấy hạnh phúc và mất bình an. Những lúc đó, ta dễ dàng nghĩ rằng: "Tha nhân là hoả ngục đối với tôi". Tôi không còn muốn tin ai ngay cả Thiên Chúa! Thật nguy hiểm biết bao! Khi trong chúng ta, hình bóng của Hêrôđê làm chủ rồi thì Chúa phải ra đi! Bóng tối không muốn tiếp nhận Ánh sáng nữa. Nhưng người con cái của Chúa đích thực thì không nên sống như thế. Chúng ta phải kiên quyết xua trừ Bóng tối ra khỏi con người của chúng ta để Ánh Sáng là chính Chúa vào làm chủ trong ta. Bất cứ lúc nào, chúng ta biết nói lời yêu thương, tha thứ, nâng đỡ nhau thì khi đó trong ta Ánh sáng đã chiến thắng Bóng tối.
Có chuyện kể rằng: Đứng trước hung tin: Jacques, cậu con trai yêu quí vừa từ trần, nữ bá tước Littry vô cùng đau khổ và cảm thấy tiêu tan hết nghị lực; tuy nhiên, bà vẫn cố gắng lao mình vào công việc phục vụ các bệnh nhân trong bệnh viện do bà sáng lập năm 1870, ở thung lũng Marne, xứ Eperny. Ngày nọ, một thương binh người Đức được cho đến bệnh viện. Dù y thuộc thành phần quân đội thù nghịch đã giết chết con trai bà bá tước, nhưng bà vẫn tiếp nhận một cách vui vẻ. Đến khi lúc soạn đồ đạc, áo xống của người thương binh, bà bắt gặp chiếc ví và cái đồng hồ của cậu Jacques trong túi áo của tên lính Đức ấy. Vừa bàng hoàng, vừa tức giận, nữ bá tước Littry chỉ biết thốt lên: "Đúng đây là tên lính đã giết con trai mình!". Nhưng kìa, một mảnh giấy trong chiếc ví của Jacques rơi xuống. Bà Littry vội cúi xuống nhặt lên đọc, một hàng chữ đập mạnh vào mắt bà: "...Mẹ yêu quý! con luôn nhớ đến mẹ và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con tử trận, xin mẹ đừng quá bi lụy, nhưng hãy can đảm, quảng đại chịu đau khổ để cầu nguyện cho con..." Sau một hồi xúc động, bà Littry cúi xuống tiếp tục săn sóc tên lính Đức cách tận tình. Trên mặt y, một giọt nước mắt của bà rơi xuống, nóng hổi, lóng lánh như hạt sương mai...!.
Nữ bá tước Littry đã để cho Ánh sáng xoá tan Bóng tối trong tâm hồn bà, để bà được tiến bước trong cuộc đời tràn ngập Ánh sáng của tình yêu.
Các nhà đạo sỹ ngày xưa đã để cho Ánh sao lạ soi dẫn đường mình đi và họ đã đến được với Chúa nhờ lòng nhiệt huyết và đầy tin tưởng của họ. Ngày nay, chúng ta cũng có những Ánh sao soi đường để chúng ta đến được với Chúa. Ánh sao đó chính là Lời của Ngài. Nhưng thử hỏi, chúng ta có sẵn sàng để cho Lời Chúa dẫn đường mình đi không? Câu hỏi ấy đang chờ từng người chúng ta trả trời trước Chúa Giêsu Hài đồng trong Mùa Giáng Sinh này cũng như trong suốt cuộc đời chúng ta.
25. Hãy làm cho Ánh Sáng tỏa sáng ra
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tiếp liền sau Đại lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Chúa Tỏ Mình. Theo một truyền thống rất xa xưa từ thế kỷ thứ II, thánh Giustinô đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, thánh Giuse và Đức Maria đem Hài Nhi lên Đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa như luật dạy. Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh, Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay. Trong khoảng thời gian này đã xảy ra nhiều việc liên quan với nhau. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Bêlem. Chính nơi đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dọa, ông ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Bêlem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà mới trở về Nagiarét (x. Mt 2).
Như thế, chúng ta thấy Lễ Chúa Hiển Linh trước hết có nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, mà ba nhà đạo sĩ là những đại diện.
"Epiphaino" có nghĩa là Thiên Chúa tự mặc khải trong nhân tính của Đức Kitô, tự làm cho mình có thể trông thấy được. Cụ thể như dùng ánh sao đêm biểu lộ cho ba đạo sĩ biết, dẫn họ lên đường đến nơi Hài Nhi vừa mới sinh để nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Nếu lễ Giáng Sinh người ta nêu bật sự ẩn mình của Thiên Chúa trong sự khiêm hạ với điều kiện là người, nơi Trẻ Thơ Bêlem. Thì lễ Hiển Linh lại nêu bật việc Thiên Chúa tự tỏ mình, xuất hiện qua chính nhân tính.
Việc các đạo sĩ đến tôn thờ Chúa Hài Nhi đã sớm được nhìn nhận như là ứng nghiệm những lời tiên tri trong Kinh Thánh. Isaia có viết: "Các dân tộc sẽ bước đi theo ánh sáng của ngươi, và các vua chúa tiến bước theo nguồn sáng của ngươi đang mọc lên" (Is 60,3.6). Ánh sáng của Chúa Kitô, khi xưa như được chiếu tỏa trong hang Bêlem, nay tỏa sáng trên khắp địa cầu.
Trong lễ Chúa Tỏ Mình, Giáo Hội đề nghị một văn bản rất ý nghĩa của ngôn sứ Isaia: "Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi" (Is 66,1-3).
Đây là một lời mời hướng tới Giáo hội Chúa Kitô và hướng tới từng người trong chúng ta, mời gọi ta ý thức hơn về sứ mệnh và trách nhiệm của mình đối với thế giới trong việc làm chứng và đem ánh sáng mới của Tin Mừng đến khắp địa cầu. Trong số mở đầu Hiến chế về Giáo Hội có viết: "Ánh sáng muôn dân là chính Chúa Kitô, nên Thánh Công Đồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội bằng việc rao truyền Phúc âm cho mọi tạo vật" (LG, 1). Tin Mừng là ánh sáng không được dấu đi, nhưng để trên giá. Giáo hội không phải là ánh sáng, nhưng nhận ánh sáng của Chúa Kitô, tiếp nhận nó để được soi chiếu, và phổ biến ánh sáng đó ra với tất cả sự rạng ngời. Và đây là điều cũng phải xảy ra trong cuộc sống cá nhân mỗi người chúng ta.
Các thượng tế tại Giêrusalem được Hêrôđê triệu tập để tư vấn cho ông về nơi Đấng Cứu Thế đã được sinh ra, cũng như cung cấp cho nhà vua các thông tin mà họ đã thu thập được trong truyền thống Kinh Thánh. Tuy nhiên, ý Chúa nhiệm mầu, vì ý định của Hêrôđê không trong sạch, ý định đó các nhà đạo sĩ là sứ giả cho những người tìm kiếm Thiên Chúa đã được mộng báo. Việc các nhà đạo sĩ đến kính viếng Chúa Hài Nhi cho ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ dành cho Dân được tuyển chọn, nhưng cho cả nhân loại. Việc ba nhà đạo sĩ đến Giêrusalem hỏi đường, cho thấy mối liên lạc giữa sự khôn ngoan ngoại giáo và mạc khải Kitô Giáo thể hiện nơi con người của Chúa Giêsu thành Nagiarét mà con người khát mong tìm kiếm. Sứ vụ phổ quát của Chúa Kitô được Thánh Phaolô gọi là sự mặc khải của mầu nhiệm: " Ấy vì dân ngoại, cùng (với Israel) là kẻ thừa tự, là Thân mình, và là đồng hưởng lời hứa trong Đức Yêsu Kitô, nhờ bởi Tin Mừng" (Ep 3, 2). Ơn cứu chuộc sẽ mở ra cho muôn người thuộc mọi quốc gia, và các dân ngoại đã trở thành người đồng thừa tự, cùng được chia sẻ lời hứa trong Chúa Giêsu Kitô (Ep 3, 6). Sự gặp gỡ giữa sự khôn ngoan của những người sống bên ngoài mạc khải ( là các đạo sĩ, dân ngoại), và những người hiển nhiên thừa hưởng lời hứa (Dân Do Thái) từ sự ra đời của Chúa Kitô chứng tỏ sứ mệnh của Chúa Giêsu trong sứ vụ công khai của mình, và bản chất của Giáo hội mà Chúa Giêsu sẽ xây dựng.
Tước hiệu "Vua Do Thái", mà ba nhà đạo sĩ ám chỉ Hà Nhì mới sinh sẽ xuất hiện trên miệng của Philatô vào lúc ông xét xử Chúa Giêsu và trên bảng ghi trên thập giá.
Trước câu hỏi của ba nhà đạo sĩ, "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? " khiến nhà vua, các đại giáo trưởng và luật sĩ thông thạo Thánh Kinh bối rối. Đó cũng là thái độ của các nhà lãnh đạo Do Thái trong đời sống cộng đoàn và Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu sau này.
Vì thế sự tỏ mình của Chúa Giêsu cho các đạo sĩ chính là khởi điểm của việc thể hiện tỏ tường sẽ được thực hiện trong sự chết và phục sinh của Đức Kitô, nhất là bừng sáng vào ngày Ngũ Tuần.
Giáo hội với sứ mạng phổ quát của mình, phải là nơi đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người mọi nơi, mọi thời đại về Thiên Chúa. Giống như Chúa Kitô, Người đã chiếu tỏa vinh quang cho dân ngoại. Giáo hội cũng mời gọi chúng ta dõi theo ánh sao cùng ba nhà đạo sĩ đến chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người trong khiêm hạ và nghèo khó, nhất là đón nhận chính Hài Nhi ấy là Ánh Sáng và là Chúa Kitô vào trong chúng ta, để chúng ta có sống là sống chính sự sống của Người, và lấy các tâm tình, tư tưởng và hành động của Người làm tâm tình, tư tưởng và hành động của chúng ta. Như thế, mừng Giáng Sinh là biểu lộ niềm vui, sự mới mẻ, ánh sáng mà biến cố Giáng Sinh này đã đem lại trong toàn cuộc sống chúng ta, để chúng ta cũng là những người đem niềm vui, sự mới mẻ đích thật, và ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Amen.
26. Vui mừng vì được ngôi sao lạ dẫn đường
Thông thường khi muốn đến một nơi nào chưa biết, người ta sẽ bằng nhiều cách: tìm xem qua bản đồ, nhờ người biết trước chỉ hay dẫn đường. Nếu không người ta sẽ rất dễ bị lạc đường. Càng đến nơi quan trọng bao nhiêu thì người ta lại càng phải tìm hiểu kỷ bấy nhiêu.
Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Hiển linh hay còn gọi là lễ Ba vua. Nói đúng hơn đây là Ba vị hiền sĩ từ Phương Ðông. Họ được báo tin có Vua dân Do thái mới sinh ở Bêlem. Vì thế, họ cùng nhau lên đường theo sự hướng của Ngôi sao lạ đến Bêlem. Trên đường đi, chẳng may Ngôi sao lạ biến mất nên họ vào hỏi thăm vua Hêrôđê.
Không ngờ chính vua Hêrôđê cũng chẳng hay biết gì. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Ðấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu (Mt 2, 4). Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt 2, 5 - 6). Sau khi chỉ đường cho các nhà đạo sĩ vau Hêrôđê căn dặn kỷ lưỡng:: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." (Mt 2, 8b). sau đó, họ đã tiếp tục lên đường. May mắn thay, Ngôi sao lạ đã tiếp tục xuất hiện và dẫn đường cho họ. "Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng." (Mt 2, 10)
Các Hiền sĩ là những người rất thành tâm thiện chí. Họ đã nhờ Ngôi sao lạ dẫn đường đến thờ lạy Hài nhi Giêsu. Mặc dù, khi Ngôi sao biến mất thì họ vẫn không nản lòng. Họ đã tìm cách hỏi thăm cho bằng được. Nhưng rồi họ lại hết sức vui mừng khi Ngôi sao lạ lại xuất hiện để tiếp tục dẫn đường cho họ.
Ngôi sao lạ ấy chính là thánh ý quan phòng của Thiên Chúa. Có thể lúc Ngôi sao biến mất là lúc Thiên Chúa muốn thử thách sự kiên trì của họ. Với sự kiên trì và tấm lòng yêu mến sự thật họ đã tìm được nơi và người họ muốn tìm.
Trong đời sống đức tin của chúng ta, chính lời Chúa và những chỉ dẫn của Giáo hội là Ngôi sao dẫn đường cho ta đến Thiên đàng. Những lúc cảm thấy như Ngôi sao biến mất là những lúc Chúa muốn thử thách lòng tin của chúng ta. Xin cho chúng ta luôn biết kiên trì và thật lòng như các Vị Hiền sĩ để mỗi ngày theo sự hướng dẫn của Chúa và Giáo hội đi về Thiên đàng.
27. Vinh quang đích thực của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Tôn giáo nào thì cũng muốn cho vị thần linh mình tôn thờ được hiển trị. Đó là một tình cảm tôn giáo đáng quí nhưng cũng thật đáng sợ, vì chính nó đã từng là nguyên nhân của biết bao cuộc bắt bớ hay triệt hạ phe đối nghịch. Lịch sử đã ghi nhận không ít cuộc chiến tranh tôn giáo. Hiển Linh là Chúa được biểu dương, là biểu lộ quyền năng của Ngài ra bên ngoài, vì hình như hình hài một hài nhi bé bỏng không xứng với Ngài? Có một thời tôi đã từng nghĩ như thế: Có thế chứ... phải là những vị vua tới thờ lạy ngài, tới cống tiến ngài những lễ vật đắt giá mới xứng; phải có những ánh sao lạ để cả thiên hạ phải trầm trồ! Và tôi lấy làm hả dạ. Tôi có tinh thần tôn giáo sốt sáng chẳng?
Thật ra câu chuyện về các nhà chiêm tinh (thường được dân có đạo nâng lên hàng vua chúa cho nó oai) đến bái lậy Hài Nhi Giêsu chỉ được Phúc Âm Mát-thêu ghi lại với chủ đích, như ông vẫn quen làm nhiều lần, là để khảng định: "thế là ứng nghiệm" việc Hài nhi ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê... việc ngài trở về từ Ai-cập... như những gì đã từng được các tiên tri loan báo. Dầu câu chuyện mang rất nhiều tính truyền thuyết, tôi nghĩ nó không chỉ đơn thuần là để nâng cao thứ tình cảm tôn giáo nói trên.
Hài Nhi mới sinh tại Bê-lem Hiển Linh, nhưng hiển linh điều gì? Đâu là vinh quang đích thực của ngài?
Ba nhà chiêm tinh (hay đạo sĩ) là những con người có hiểu biết và chuyên tìm tòi những qui luật của trời đất. Các ông biết về một vị nào đó rất quan trọng mới xuất hiện và các ông đi tìn ngài. Theo lô-gic, nhân vật này chắc chắn phải là một vị vua và phải tìm thấy trong chốn cung điện. Và thế là họ tìm tới Giê-ru-sa-lem là kinh thành của vương triều Da-vit; nhưng ở đó họ chỉ gặp được Hê-rô-đê, con người của quyền lực và mưu mẹo. Chỉ có 'ngôi sao' mới có thể dẫn họ tới một nơi không ngờ: làng quê Bê-lem hẻo lánh, và tìm thấy một hài nhi với thân mẫu trong sự đơn sơ và nghèo hèn. Chúng ta tất cả đều biết ngôi sao đó chính là biểu tượng của niềm tin vào Tin mừng. Chỉ có Tin Mừng của đức Giêsu Ki-tô mới chỉ cho chúng ta tới gặp được một Thiên Chúa, không phải trong vinh quang của quyền uy và đầy công thẳng, mà là trong một diện mạo thơ nhi quá gần gũi: Thiên Chúa của lòng từ nhân và hay thương xót... cứu độ chứ không phải một Thiên Chúa luận phạt. Nếu ba nhà chiêm tinh phải từ bỏ lô-gic thông thái của họ (điều này không dễ mấy đâu) để có thể sấp mình bái lậy một hài nhi nghèo hèn, thì mọi người, kể cả tôi và bạn, (nhất là khi càng cho mình là thông minh chính trực) còn cần phải làm một cuộc cách mạng trong niềm tin để có thể bái lạy vinh quang Thiên Chúa trong sự hiền lành, từ nhân và hay thương xót.
Câu truyện còn cho tôi thấy có sự đối kháng thâm sâu giữa một bên là uy quyền thống trị và trừng phạt (điển hình là vua Hê-rô-đê) với bên kia là sự yếu đuối ẩn dật của một Hài Nhi bé bỏng nép mình bên lòng mẹ. Sự công thẳng có sức mạnh của nó và xem ra không thể đội trời chung với lòng trắc ẩn nhân ái. Uy quyển của bạo vương Hê-rô-đê không thể được chia sẻ với Tân Vương cứu độ mới sinh ra. Ở đâu có sự công thẳng ở đó không thể có chỗ cho lòng trắc ẩn thương xót, và ngược lại. Sự công thẳng nổi cộm như một quyền lực thống trị trong khi lòng nhân ái lại luôn tỏ ra quá yếu đuối ẩn dật. Chính vì thế mà khi đề cao lòng trắc ẩn thương xót thì nhiều người lại tỏ ra e dè sợ sệt. Họ lo sợ sự hợp lý đầy uy quyền của 'lành thưởng dữ phạt' sẽ bị phá đổ, và thế là họ rắp tâm 'tiêu diệt' lòng thương xót, ít là trong hiểu biết và suy nghĩ của họ. Thiên Chúa giáng trần đã chọn hình hài của một thơ nhi yếu đuối ẩn dật để biểu lộ lòng xót thương cứu độ loài người quả là điều thích hợp... có điều Ngài phải chịu sự toan tính tiêu diệt của bạo vương quyền uy thì cũng là tự nhiên thôi.
Lạy Hài Nhi đang ngủ yên trong vòng tay âm yếm của Mẹ, xin cho con dặt cược toàn bộ cuộc sống con trên sự nhỏ bé, yếu đuối của lòng thương xót Chúa. Chính những lúc tâm hồn con lo sợ cuống quýt trước quyền lực ghê gớm của sự công thẳng Chúa, xin đưa con vào vòng tay hiền mẫu để con cũng có được giấc ngủ của an bình trong tin tưởng phó thác vào lòng thương xót. Xin che chở để con không bao giờ bị sự công thẳng Chúa nhấn chìm trong lo âu sợ hãi. Amen.
28. Chiếu tỏ đức tin và tình thương của Chúa
Biến cố Chúa Giáng sinh là biến cố trọng đại cho vũ trụ, cho muôn dân muôn nước. Thiên Chúa đã cho các mục đồng chứng kiến biến cố này. Đồng thời Ngài cũng cho lương dân mà đại diện là ba nhà đạo sĩ như những tâm hồn chân thành tìm kiếm Thiên Chúa được chứng kiến tận mắt biến cố lớn lao này.
Lễ Hiển Linh được gọi là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng dân tộc Do Thái mà còn cho muôn dân khác nữa. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, tiên tri Isaia đã mở ra cả một viễn tượng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng qui về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa. (x Is 60, 1 - 6)
Nội dung của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động qua câu chuyện về ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Đức Giêsu mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là ba vua, do đó lễ Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là các đạo sĩ. Họ là những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc đới với Dân riêng của Chúa và đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại đội của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin "Vua người Do Thái mới sinh", Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại, họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người bị liệt vào hàng "dân ngoại" lại hăm hở đến với "Vua người Do Thái", cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.
Lễ Hiễn Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua bài Tin mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta" (Ga 1, 18; 6, 46). Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.
Vấn đề được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, chúng ta đã biết Đức Kitô đến mức độ nào? Nhất định là chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới hạn. Còn nếu chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã nói: "Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương Đức Kitô", thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc sống hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản thân tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự, tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi cả vì chính cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.
Thật vậy, còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngừng đặt vấn nạn với chúng ta: "Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?". Thế nên, chúng ta có trách nhiệm trả lời cho họ. Trả lời một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta, qua cách sống của mình. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài cách sống đức tin của mình, lòng quảng đại, sự tha thứ, tinh thần quan tâm, chia sẻ trong tình yêu thương của Chúa Kitô. Chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.
Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
Thiên Chúa là Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa là Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu. Trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, có nhiều mẫu người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Có nhiều người đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân không gia đình thăm viếng, chăm sóc. Những con người đó đang sống đức tin của mình cách công khai, họ chính là những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô.
Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho mọi người được thấy Thiên Chúa tình thương.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám sống quảng đại, vị tha, quan tâm giúp đỡ đến nhu cầu của tha nhân. Xin cho chúng con trở nên những ánh sao chiếu toả đức tin, tình thương, lòng nhân hậu của Chúa cho mọi người. Amen.
29. Hãy là sao lạ dẫn đường giới thiệu Chúa
Epiphany: manifestation or striking appearance có nghĩa là Lễ Hiển Linh.
Tiếng Hy-lạp cổ dùng chữ Theophaneia (Theophany meaning ‘vision of God’).
Lễ này được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng theo truyền thống xa xưa. Vào Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự hiển linh của Con Chúa cho các Dân Ngoại.
Từ năm 1970, Giáo Hội Công Giáo Rôma, nghi thức Latinh đã cử hành Lễ Hiển Linh vào ngày 6 tháng 1 và là Lễ buộc. Các quốc gia khác có thể cử hành vào Chúa Nhật, sau ngày 1 tháng 1.
Lễ Hiển Linh còn được gọi là Lễ Ba Vua. Trong khi các tín hữu Đông Phương tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, được xem là sự hiển linh của Con Chúa cho toàn thế giới.
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.
Lời ngôn sứ Isaia đã vang vọng từ 700 năm trước Công Nguyên về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế: Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi (Is 60, 1).
Ánh sáng sẽ bừng lên trong đêm tối và con dân sẽ đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế là ánh sáng đến trong thế gian để xua trừ bóng tối của tội lỗi và gian tà. Mọi dân sẽ hướng về nguồn ánh sáng để dõi tìm ơn cứu độ: Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước (Is 60, 3).
Theo truyền thuyết, những nhà chiêm tinh, nhà khôn ngoan, còn gọi là các đạo sĩ hay ba vua, đã chiêm ngắm bầu trời và nhận ra vì sao lạ. Họ đã dõi theo ánh sáng của vì sao lạ để tìm đến bái thờ Đấng đã được sai đến.
Ngôn sứ Isaia đã tiên báo về việc các bậc quân vương tiến về để thờ lạy Chúa Hài Nhi. Các nhà Đạo Sĩ Phương Đông cùng đến dâng Chúa của lễ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Isaia đã có thị kiến về đoàn người từ các phương xa tìm đến bái thờ: Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa (Is 60, 6).
Các nhà Đạo Sĩ đã miệt mài kiếm tìm qua dấu chỉ mà không quản ngại gian khó. Các ngài đã được Thiên Chúa đáp trả như lòng mong ước.
Chúa Giêsu đã dạy: Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7, 8). Hồng ân Chúa bao la tuyệt vời, đoàn người dân ngoại đã được chứng kiến tận mắt ơn Cứu Độ đã tỏa sáng: Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến (Mt 2, 11).
Vàng được mệnh danh là vua của mọi kim loại. Vàng thường được coi là của lễ xứng hợp nhất để dâng tiến vua. Chúa Giêsu sinh ra để làm vua. Vị vua này không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu. Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập tự giá.
Sự có mặt của Ngài đã biến đổi thế giới loài người, mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Bệnh tật được chữa lành (Mt 8, 16-17), tang tóc được hân hoan (Lc 7, 11-17), tội lỗi được tha thứ (Mt 2,5), ngay cả sự chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an (Mc 5, 39). Vì vua này xuất hiện luôn ban cho con người một niềm vui, một niềm hy vọng "Phúc cho anh em, là những người nghèo, vì triều đại Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những người đói khát vì anh em sẽ được no nê. Phúc cho anh em là những người đang khóc vì anh em sẽ được vui cười" (Lc 6, 20-21).
Nhũ hương dâng cho Hài nhi là thứ hương liệu có mùi thơm dịu mà thầy tư tế thường dùng trong các nghi thức thờ phượng. Thầy tư tế chính là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Vị tư tế cũng chính là người mở đường dẫn lối để con người đến được với Thiên Chúa.
Ánh sao soi đường đến nơi thì đã tắt, bởi lẽ Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật để soi rọi con người tìm ra chân lý. Chân lý con người tìm kiếm là tình yêu và gia nghiệp của Ngài. Chính chúa Giêsu sẽ dẫn đưa con người về với Chúa Cha.Thư gửi Ephêsô, thánh Phaolô đã khẳng định: "Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cũng được thừa kế gia nghiệp với người do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban" (Eph 3,6).
Mộc dược là lễ vật dành cho người chết, là hương liệu để xông xác người. Chúa Giêsu đến thế gian để sống cho con người và cuối cùng chết cho con người. Cái chết của Ngài biểu lộ sự trung thành đối với loài người mà Ngài đã yêu thương đến tận cùng (Ep 13, 1). Chúa Giêsu không nghĩ tới mình, vì lẽ đó Ngài có thể đón tiếp mọi người và lắng nghe mọi người đến với Ngài. Cuộc sống Chúa Giêsu là một cuộc tự hiến cho con người để cứu độ con người.
Qua Kinh Thánh và lịch sử của ơn cứu độ, ta biết có nhiều tâm hồn khao khát đi tìm kiếm và mong chờ Chúa. Khi thời gian chuẩn bị đã mãn, dấu chỉ đã tỏ hiện, lòng con người thôi thúc khát mong và mùa hồng ân đã cận kề, các Đạo Sĩ tìm hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người."(Mt 2, 2).
Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua trang Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.
Việc đi theo ngôi sao lạ để đến bái thờ và dâng Chúa những của lễ thật sự chẳng phải là việc giản đơn và cũng không phải ai cũng làm được như 3 nhà đạo sĩ.
Muốn như vậy, trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.
Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.
Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường.
Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ. Chúa mời gọi ta loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Và như vậy, ta hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những luồng sáng tự nhiên phát ra từ ta ấy, chắc chắn mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.
30. Thừa kế
"Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lại Người".
Thừa kế là thừa hưởng một điều gì đó, chẳng hạn là gia sản. Thông thường, giữa người để lại gia sản và người được thừa kế gia sản đều có quan hệ thân tộc hoặc một mối ràng buộc nào đó. Tuy nhiên, đôi khi có quan hệ nhưng chẳng được nhận một thứ gì. Điều này không bất thường so với như việc chẳng quen chẳng biết, chẳng có dây mơ rể má gì mà lại được nhận thừa kế mới là chuyện đáng nói. Ấy vậy, chuyện ngược đời đó lại trên lại đúng cho trường hợp của chúng ta. Chúng ta được thừa hưởng một gia sản tuyệt vời từ những người không hề quen biết. Đó là đức tin từ các tông đồ. Thực sự phải nói là từ Đức Kitô.
Chúng ta được thừa kế không do công trạng của mình mà do tình yêu của Thiên Chúa. Nhờ việc thừa kế đó mà chúng ta trở nên có quan hệ huyết thống với các tông đồ và với cả Thiên Chúa nữa. "Trong Đức Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Eph 3, 6). Đây thật là một mầu nhịêm.
Trở lại lịch sử, Do thái là dân riêng của Chúa, là dân được Chúa tuyển chọn và lập giao ước. Có thể nói, mọi vinh quang danh dự Thiên Chúa đã dành hết cho dân tộc này. Nhưng trớ trêu thay, khi con Thiên Chúa làm người thì người Do thái là dân đầu tiên từ chối Thiên Chúa. Nên giờ đây, ơn cứu độ không còn chỉ cho dân Do thái nữa. Chúng ta thừa kế là như thế đó.
Khi ba đạo sĩ đến gặp Hêrôđê để hỏi thăm về nơi hạ sinh của Vua dân Do thái thì từ vua đến dân đều xôn xao, bối rối, cả thành Giêrusalem náo loạn lên. Hêrôđê bối rối không phải vì chợt tỉnh ra, thấy mình sao vô tâm để rồi tìm cách để đến bài thờ Vua cả trời đất. Một người độc ác như Hêrôđê nếu có bối rối thì tại vì hắn sợ ngai vàng của mình bị lung lai. Hắn sợ, bởi nếu đây là sự thật thì thời cuộc sẽ thay đổi, điều này đồng nghĩa hắn mất vương quyền. Còn chuyện dân chúng xôn xao thì cũng đáng để luận bàn lắm. Vì thật ra điều này đã được tiên tri Malakhia nói rồi: "Và người, Bêlem , đất thuộc Giuđa, hẳn ngươi không nhỏ bé trong hàng tướng lãnh Giuđa, vì bởi nơi ngươi sẽ xuất hiện vị thủ lãnh, Đấng chăn dắt Israel dân ta" (Mk 5,1-3). Nhưng tiếc thay khi điều đó xảy ra thì không có ai tỏ vẻ mừng vui. Cũng chẳng ai tha thiết đi tìm, đi kiếm mà thờ lạy chúc tụng vị thủ lãnh Israel đó. Ngoại trừ những mục đồng nghèo nàn, khốn khó.
Thế nên, cũng sẽ chẳng có dấu chỉ nào cho dân Israel mà điều này đựơc tỏ ra cho người ngoại giáo mãi bên Phương Đông. Căn cứ theo các lễ phẩm dâng Chúa Hài Đồng thì ba đạo sĩ này đến từ Babilon. Họ được gọi là những Magi - nhà hiền triết thông thạo thiên văn và nhiều sự khôn ngoan khác. Họ là dân ngoại nhưng với sự khao khát tìm chân lý, với lòng thành kính trước sự ra đời của một vị vương tử, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho họ.
Chúa Nhật Chúa Hiển Linh giúp ta tra vấn lại lòng tin của mình với Thiên Chúa. Chúng ta là dân thánh của Chúa nhờ phép rửa. Chúng ta giờ đây không là dân ngoại, nô lệ mà chúng ta con Cha trên trời, là "bạn hữu" của Đức Kitô. Thêm một lần mừng sinh nhật của Đức Giêsu là thêm một lần để ta vui mừng và hy vọng. Chúa giáng sinh không là lý do để chúng ta lo sợ. Đó là tâm trạng của người nô lệ. Họ sợ thời cuộc thay đổi sẽ ảnh hưởng đến sự bình yên của cuộc sống, họ sợ bị bấp bên, sợ liên luỵ trong cuộc đời.
Hãy lên đường theo sự hướng dẫn của Ánh Sao.
31. Ánh sáng soi đời
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh. Qua dấu chỉ ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, đặc biệt là cho những ai thành tâm tìm kiếm Chúa.
Ngày xưa, người ta thường cho rằng, việc giáng sinh của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng việc xuất hiện những ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để đoán định mệnh của con người. Ba nhà đạo sĩ mà Tin mừng vừa tường thuật cho chúng ta nghe là những người rất thành thạo về khoa chiêm tinh, nhìn thấy ngôi sao lạ, họ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu thế, Vua dân Do thái nên họ đã quyết lòng đi tìm gặp Đấng Quân vương mà họ khao khát mong chờ.
Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy một khía cạnh rất tế nhị nhưng cũng rất thời sự trong cuộc sống của con người. Đó là sự tồn tại của hai hạng người đối nghịch nhau trong cách sống. Hạng người thứ nhất là hạng người xem ra rất trí thức, thông biết nhiều điều, nhưng biết chỉ để cho biết chứ không dẫn đến hành động. Đó là trường hợp của những đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân Do thái. Những người này biết rõ nơi Đức Giêsu sẽ sinh ra, nhưng họ không tha thiết gì trong việc tìm gặp Đấng cứu thế, Đấng thủ lãnh chăn nuôi dân Israel dù sau khi họ nghe những nhà đạo sĩ từ Phương Đông đến nói cho họ biết điềm lạ ấy. Hạng người thứ hai là những người khao khát chân lý, say sưa kiếm tìm và quyết tâm đạt đến chân lý. Đó là trường hợp của ba nhà đạo sĩ mà chúng ta được nghe nói đến trong đoạn Tin mừng hôm nay. Các ông hăng hái lên đường khi đã thấy điềm lạ là ánh sao lớn xuất hiện. Với ánh sao này, các đạo sĩ nhận ra có một vĩ nhân, một Quân vương mới vừa ra đời. Thái độ tích cực tìm kiếm sự khôn ngoan và chân lý của ba nhà đạo sĩ hoàn toàn đối lập với thái độ của các đại giáo trưởng và những luật sĩ trong dân Israel.
Nếu biết chỉ để cho biết, chỉ để tỏ ra cho người ta thấy mình uyên bác mà thôi thì quả thật đáng chê trách và đáng tội nghiệp cho họ. “Cái biết” thật sự phải dẫn đến cách sống và lối sống phù hợp với sự thật thì mới làm trổ sinh hoa trái được. Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh báo rằng: “Ai nghe những lời Ta nói đây mà không đem ra thực hành thì ví như người ngu xây nhà mình trên cát, gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành" (Mt 7, 26-27). Trong cuộc sống chúng ta cũng thấy có nhiều người rất uyên thông nhiều vấn đề, đặc biệt là đối với tôn giáo, nhưng họ lại là những người vô thần hoặc trở thành những người đả kích các tôn giáo. Cái biết của những con người kiêu căng, muốn dạy đời cho thiên hạ nhưng không biết dùng cái biết đó để kiếm tìm chân lý và sự thật. Rốt cuộc, họ chỉ là những con người kiêu căng đáng thương.
Chuyện kể rằng, có một sinh viên đang theo học tại một trường Đại học nổi tiếng bên Pháp. Một hôm, anh bước lên chiếc xe buýt và bắt gặp một ông cụ già đang ngồi lần chuỗi ở một dãy ghế dưới cùng của chiếc xe. Anh bước tới và làm quen với ông cụ ấy. Anh ta khuyên ông cụ thôi đừng làm những trò nhảm nhí ấy nữa. Sống trong thời đại văn minh rồi mà còn tin dị đoan như thế thì lạc hậu vô cùng. Anh ta lần lượt giới thiệu hết tác phẩm nổi tiếng này đến các sách bách khoa khác cho ông lão để ông mở mang trí thức và mở rộng tầm nhìn của mình ra thế giới. Gần đến tạm xe, anh ta xin địa chỉ của ông lão để có dịp anh ta sẽ gửi sách cho ông hoặc giới thiệu những quyển sách hay cho ông lão tìm mua. Ông lão khiêm tốn lấy tấm danh thiếp của mình ra trao cho chàng sinh viên, anh ta vô cùng hốt hoảng và xấu hổ bước đi, vì tấm danh thiếp ấy ghi “Pasteur, Viện trưởng viện nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp”. Như thế, đức tin, sự khiêm tốn, cách sống cao thượng... không là kết quả của những hiểu biết trên sách vở hay qua những phương tiện truyền thông.
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho chúng ta trong cuộc sống qua nhiều dấu chỉ khác nhau: qua những biến cố lớn nhỏ trong cuộc sống, qua những thay đổi của đất trời, qua những biến chuyển của thời gian và lịch sử... nhưng chúng ta đã có thái độ nào trước những dấu chỉ ấy? Chúng ta chỉ nhìn ngắm những dấu chỉ ấy để bàn luận và đùa cợt hay để suy gẫm và thay đổi cách sống? Hoa trái của đời sống đức tin tuỳ thuộc vào việc tích cực sống theo thánh ý của Thiên Chúa được biểu lộ qua những biến cố lớn nhỏ trong cuộc đời chúng ta.
Đọc Tin mừng, chúng ta thấy được sự thật này: những chân lý mà Thiên Chúa mặc khải cho con người thường được những người bị coi là thấp cổ bé miệng và nghèo khổ đón nhận hơn là những người giàu có và trí thức trong xã hội. Quả thật, những ai tự phụ, kiêu căng thì không thể đến gần Thiên Chúa và tiếp cận với Thiên Chúa được. Họ không còn sự khát khao Thiên Chúa nữa những lòng họ đã đầy ắp những dự định, tính toán tham lam trong lòng mình rối. Thời đại nào cũng có những con người như thế. Vì thế, Chúa Giêsu đã có lần cất tiếng chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải những mầu nhiệm Nước trời cho những người bé mọn nhưng lại giấu không cho những người thông thái và khôn ngoan được biết. Hay nói đúng hơn là những người tự hào mình là khôn ngoan đã không đón nhận những mầu nhiệm Nước trời mà Đức Giêsu đã mặc khải cho họ. Họ chỉ tìm cách chống lại và đả phá những gì Đức Giêsu rao giảng. Chân thành và khiêm hạ trước Thiên Chúa luôn là thái độ cần thiết và khôn ngoan đối với con người. Những ai tự hạ mình trước Thiên Chúa sẽ được Ngài nâng dậy và được Ngài cho hiểu biết sự thật và được Sự thật giải thoát cho khỏi những mê lầm trong cuộc sống thế trần này.
Mừng lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta hãy noi gương các nhà Đạo sĩ biết hăng hái lên đường tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa để được Thiên Chúa cho gặp Ngài và được Ngài đong đầy tâm hồn chúng ta tình yêu Chúa để chúng ta được sống hạnh phúc với Chúa mãi mãi trong vinh quang Nước trời mai sau.
32. Hành trình Ba Vua – AM Trần Bình An
Sao chổi Halley, tên được đặt chính thức là 1P/Halley một sao chổi được đặt tên theo nhà vật lý thiên văn học người Anh Edmund Halley, là một sao chổi có thể nhìn thấy cứ mỗi 75 đến 76 năm. Nó là sao chổi nổi tiếng nhất trong các sao chổi theo chu kỳ. Dù trong mỗi thế kỷ đều có nhiều sao chổi có chu kỳ dài xuất hiện với độ sáng và ngoạn mục hơn nhưng sao chổi Halley là một ngôi sao chổi chu kỳ ngắn có thể thấy rõ bằng mắt thường và do đó, là sao chổi có thể nhìn thấy bằng mắt thường chắc chắn có thể trở lại trong một đời người. Sao chổi Halley xuất hiện lần cuối bên trong Hệ Mặt Trời vào ngày 9 tháng 2 năm 1986, và sẽ xuất hiện trở lại vào ngày 28 tháng 7 năm 2061.
Theo thuyết Newton, một số sao chổi quay chung quanh Mặt trời trên những quỹ đạo hình ellip. Nhà thiên văn học Edmund Halley, người Anh (thế kỷ thứ 17-18) áp dụng định luật Newton để tính quỹ đạo cho biết là các sao chổi hiện ra những năm 1531, 1607 và 1682, có quỹ đạo giống nhau và chỉ là một thiên thể. Cứ khoảng 74 - 76 năm thì sao chổi lại quay trở lại gần Mặt trời và được nhìn thấy từ Trái Đất. Ông tiên đoán là sao chổi này sẽ trở lại năm 1758.
Đúng hôm lễ Giáng sinh năm đó, sao chổi hiện lên bầu trời, nhưng tiếc thay ông đã mất trước và không được biết là tiên đoán của ông được xác minh. Sao chổi này được đặt tên là sao chổi Halley để ghi nhớ thành tích khoa học của ông. (Wikipedia)
Chưa có tài liệu nào xác nhận sao chổi Halley đã dẫn dắt ba nhà chiêm tinh từ phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Nhưng điều quan trọng là các nhà chiêm tinh đã tìm được Đấng Cứu Thế, sau cuộc ra đi gian nan, đầy thách đố. Đó cũng là cuộc hành trình đức tin của từng Kitô hữu thiện tâm.
Tỉnh thức
Chẳng lẽ không có ai, ngoài ba nhà chiêm tinh dân ngoại, nhìn thấy một ngôi sao bỗng dưng rực sáng trên bầu trời? Hẳn nhiên có nhiều người Do Thái cùng nhìn thấy, nhưng chắc chắn chẳng thể nào hiểu được dấu chỉ Đấng Messia nhập thế. Như thế, để có thể giải mã được dấu chỉ của Thiên Chúa, tiên quyết cần thành tâm, ao ước, khao khát Đấng Cứu Thế với tinh thần nhạy bén, sẵn sàng và tỉnh thức. Đức Chúa Thánh Thần luôn rộng ban ơn Thông minh, ơn Hiểu biết cho những người thiện tâm. “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2, 2)
“Một hồi chuông, một ngọn tháp nhắc nhở con: Chúa đang ở trong Nhà Tạm gần con, lòng con nóng nảy, hướng đến thờ lạy, yêu mến Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 233)
Dấn thân
Các vị chiêm tinh không phái người hầu, kẻ hạ đi tìm Đức Giêsu, mà đích thân họ cất bước ra đi. Chẳng hề quản ngại lời dèm, tiếng chê, hay do dự vì cách trở, xa xăm, hiểm nguy, khó nhọc, họ dám lấy chính mạng sống đánh cược, can đảm, xông pha lên đường, liều lĩnh viễn du tìm Đấng Thiên Sai.
“Đã ra đi phải bất chấp lưỡi thiên hạ đàm tiếu. Ba Đạo sĩ ra đi, hy vọng gặp Chúa Cứu Thế, họ đã gặp; Phanxicô Xaviê ra đi, hy vọng cứu các linh hồn, ông đã gặp; Goretti ra đi, thoát cơn cám dỗ, hy vọng gặp Chúa, Chị đã gặp.” (Đường Hy Vọng, số 7)
Thử thách
Rồi bỗng dưng ngôi sao lạ biến mất, biết đâu mà lần? Biết đâu mà đi? Thách đố đã không hề thiếu trên con đường thiên lý tìm Chúa. Cạm bẫy, cám dỗ, lạc lối, trộm cướp, đạo tặc, ma quỷ, không thiếu. Bệnh hoạn, đuối sức, đói khát chẳng thiếu trong suốt hành trình. Nếu không vững niềm Tin, Cậy, Mến, làm sao các nhà chiêm tinh vượt qua nổi?
“Mất để được, chết để sống, từ để gặp. Ba Đạo sĩ liều hiểm nguy, chế nhạo. Phanxicô liều xa cha mẹ, mất của cải, thú vui. Goretti liều mạng sống.” (Đường Hy Vọng, số 8)
Tín thác
Dù mất dấu vết ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh vẫn không hề nao núng, lung lạc, ê chề thất vọng, bỏ cuộc, dang dở hành trình. Họ chủ động dò hỏi khắp nơi. Thậm chí vào cả hoàng cung, trực tiếp hỏi thẳng Vua Hêrôđê. Gián tiếp qua các thượng tế và kinh sĩ, họ tìm đến Kinh Thánh, Lời Hằng Sống, để được hướng dẫn đi đúng đường. Đây chính là chánh đạo để gặp được Đấng Cứu Thế. Họ đã hoàn toàn tín thác vào Lời Chúa. “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.” (Mt 2, 9)
“Thành tín trên con đường con đi, Phêrô không nộp Chúa, không cáo Chúa, nhưng Phêrô không được một lời bênh Chúa, “Tôi không biết người ấy,” Phêrô muốn yên thân, khỏi liên lụy: Phêrô bỏ Chúa dọc đường và tháo lui.” (Đường Hy Vọng, số 46)
Vâng phục
“Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.” (Mt 2, 10) Hành động theo Lời Chúa đương nhiên gặp Chúa mọi nơi, mọi lúc. Khi các vị chiêm tinh nghe theo chỉ dẫn của Kinh Thánh qua lời các thượng tế và kinh sư, thì họ lại trông thấy ngay ngôi sao dẫn đường, thoát khỏi sự mù lòa, lầm lạc bi đát. Vâng phục luôn là đức tính quan trọng và cần thiết để tìm Chúa và theo Chúa.“Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.” (Mt 2, 12)Ba vị Chiêm tinh lần nữa tiếp tục vâng theo sứ thần, để được sống, thoát khỏi bàn tay nhuốm máu của vua Hêrôđê.
“Có người phục mà không vâng, có người vâng mà không phục, có người vâng và phục, vì thượng cấp”đúng điệu” với mình, có người vâng và phục vì Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 397)
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, khấn xin Người ban cho chúng con Đức Chúa Thánh Thần, để lửa Tin, Cậy Mến bùng cháy trong lòng chúng con, để Tình Yêu Chúa chiếm hữu hoàn toàn tâm can chúng con. Hầu chúng con luôn cố gắng, quyết tâm ra đi tìm Chúa, gặp Chúa và theo Chúa, vượt qua bao gian nan, thử thách cam go, như ba vị chiêm tinh ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đoái thương cứu giúp chúng con đang trầm luân trong thung lũng đầy nước mắt, đang lặn lội, mê muội, mù lòa, trong những cám dỗ phù phiếm thế gian. Mẹ là ngôi sao sáng giữa biển khơi mịt mù, xin dẫn dắt chúng con tìm đến Chúa Giêsu, cội nguồn ơn cứu rỗi. Amen.
33. Tìm Chúa
Vào thời Trung Cổ người ta hay diễn tuồng ba vua ở trong nhà thờ hoặc nơi cửa ra vào. Để làm thõa mãn trí tưởng tượng của khán giả, người ta thường đem đến những vật kỳ lạ, và cho là lễ vật của ba vua tiến Chúa như: khỉ, vẹt, lạc đà... Lễ ba vua còn có một thủ tục khác nữa là chơi trò bắt thăm làm vua. Người ta cho một hạt đâu hay một tượng nhỏ vào trong chiếc bánh ngọt, và chia ra thành từng phần cho những người trong nhà, ai được miếng bánh có hạt đâu hay tượng nhỏ đó sẽ được làm vua, được đội triều thiên trong bữa ăn. Thủ tục này bắt chước thủ tục của dân ngoại ở Rôma, Đức... còn trong tu viện nếu được làm vua sẽ được làm chủ tọa cộng đoàn khi dự nghi lễ phụng vụ và chủ tiệc ngày hôm ấy. Từ thời Trung Cổ người dân ngoại và cả người Công Giáo đều ao ước được giống như ba vua, để được dâng lễ vật tiến Chúa, được chủ tọa nghi lễ phụng vụ... Đó chỉ là những hình thức bên ngoài của thời Trung Cổ, nhưng ít nhiều cũng cho thấy tâm tình bên trong; họ ao ước giống ba vua cả trong đức tin, hành động và cả lòng can đảm.:
1. Trong đức tin
Ba vua chính là những người dân ngoại đầu tiên nhận biết Chúa. Và chính nhờ đức tin qua ngôi sao lạ đã hướng dẫn đường đi, nước bước cho các ông. Thật vậy đức tin chính là ơn ban cao trọng nhất, vì không có đức tin chúng ta không thể sống đẹp lòng Chúa được. Hơn nữa không có đức tin thì sẽ như người mù lòa không biết đường biết hướng về đâu. Nhưng phài luôn nhớ rằng đức tin luôn là ơn ban nhưng cho tất cả mọi người, đặc biệt là dân ngoại. Đức tin đến với ba vua không như một phép lạ để họ nhận biết Người. Họ được ngôi sao lạ dẫn đường , ngôi sao này có thật hay không chúng ta không cần biết. Điều quan trọng là qua ngôi sao lạ ba vua nhận biết đó là điềm Thiên Chúa gởi đến soi sáng và đưa họ đến Bêlem để thờ lạy Chúa.
Ngày xưa ba vua nhờ đức tin soi sáng dẫn đường đã được thõa lòng hạnh phúc. Ngày nay Thiên Chúa cũng soi sáng chúng ta bằng nhiều cách qua các biến cố. Nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta đã biết lấy đức tin để đón nhận chưa?
2. Hành động
Thánh Giacôbê nói: "Đức tin không có hành động là đức tin chết". Nếu ba vua nhìn thấy ngôi sao mà không lên đường, thì việc trông thấy ngôi sao nào có ích gì? Đối với chúng ta cũng vậy, nếu có đức tin mà không sống theo đức tin thì có ích gì. Ba vua vừa nhìn thấy ngôi sao lạ thì nhận biết ngay đó chính là quyền phép Thiên Chúa thì các ông không cần tìm hiểu nguyên do, mà mau mắn bước theo. Thật là một niềm tin mãnh liệt là một tấm gương cho mỗi người chúng ta. Dứng trước chân lý đức tin đòi hỏi ta cũng phải có thái độ tùng phục như vậy. Do đó chúng ta hãy mau mắn làm theo ba vua, khi thấy "ngôi sao đức tin" phải vội vã lên đường, nếu ta còn lưỡng lự chậm chạp rất có thể ngôi sao đó sẽ tắt lim và không còn ánh sáng nào soi đường cho ta đi về quê thật là nước thiêng đàng nữa.
3. Can đảm
Ba vua đã từ giã gia đình thân yêu, không ngại thân già sức yếu, đường sá nguy nan, chấp nhận tất cả những khó khăn chỉ mong làm tròn thánh ý Chúa đã tỏ ra với mình. Chúng ta những người đang lữ hành, con đường mình đi chắc chắn cũng có rất nhiều chông gai hiểm trở. Chúng ta phải chiến đấu không ngừng với bản thân mình, với những xu hướng xấu từ ngay trong chính bản thân... Như ba vua đã đạt được đích đến là Thiên Chúa, thì chúng ta tin rằng với con đường đức tin mình cũng sẽ đạt được hạnh phúc đời đời. Vì thế mà mỗi người hãy can đảm vượt mọi trở ngại đời này, để sống xứng đáng với đức tin mà Thiên Chúa đã ban cho ta.
Không, phải con đường đức tin lúc nào cũng trơn tru, lắm lúc cũng bị mây mù che khuất như ba vua hôm nay, nhưng với sự quyết tâm và lòng thành các ông đã vượt qua bằng cách hỏi thăm đường. Chúng ta cũng vậy lắm lúc con mắt đức tin mình cũng bị che mù làm ta không còn nhận ra đường đi nữa, không còn biết phải đi con đường nào và xử sự ra sao. Lúc đá cũng hãy biết chạy đến những người khôn ngoan, hướng dẫn đức tin như: cha sở, cha linh hướng hoặc những người khôn ngoan, chắc chắn chúng ta sẽ không bị lầm lạc và cũng tìm được Chúa như ba vua xưa đã thấy.
Trong ngày lễ hiển linh hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa Hài đồng tâm tình thờ lạy. Ta chẳng có vàng, nhũ hương và mộc dược, nhưng chúng ta có tấm lòng, có con tim. Vậy chúng ta hãy dâng lên Chúa với tất cả lòng chân thành và con tim yêu mến đó.
Lạy Chúa, chỉ tin không thì chưa đủ, mà còn đòi hỏi con phải mau mắn thi hành những điều đức tin dạy, như thế mới là sống theo ý Chúa. Amen.
34. Thiên Chúa tỏ mình – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Ngày xưa người ta quen gọi lễ Hiển Linh là lễ Ba Vua, sở dĩ vậy vì trong Tin Mừng đọc trong Thánh Lễ hôm nay, ba nhà đạo sĩ tìm kiếm để bái yết hài nhi Giêsu. Ba nhà đạo sĩ là những người trổi trang về kiến thức uyên bác; họ có thể đọc dấu chỉ thiên nhiên để nhận ra sự xuất hiện của những người đặc biệt. Từ ngữ “vua” được dùng trong “ba vua” là để chỉ người trổi trang hơn người khác về phương diện nào đó.
Qua biến cố mục đồng tới viếng hài nhi, người ta nhận ra Thiên Chúa đã tỏ mình cho những người Do Thái nghèo nhưng có tâm hồn mở rộng sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa. Với biến cố ba nhà đạo sĩ đi viếng hài nhi, Giáo Hội nhận ra Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Người Do Thái cho rằng họ là dân được tuyển chọn, còn các dân tộc khác là dân ngoại. Với biến cố Đức Giêsu và việc các dân tộc khác đón nhận Tin Mừng, người ta nhận ra rằng tất cả mọi dân tộc đều thuộc về Thiên Chúa, tất cả các dân tộc đều được Thiên Chúa yêu thương như dân tộc Do Thái. Hôm nay với trình thuật các đạo sĩ tìm kiếm và bái lạy Đức Giêsu, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa cũng mặc khải cho dân ngoại. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại như Ngài đã từng yêu thương dân tộc Do Thái. Mọi dân tộc đều bình đẳng trước Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc, mọi con người, chứ không phải chỉ riêng dân tộc Do Thái.
Kitô hữu phải là người cảm nghiệm sâu xa tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, và đặc biệt cho chính mình. Kitô hữu cũng phải là người sống bình an và hạnh phúc, vì ý thức mình là tạo vật được Thiên Chúa yêu thương. Ngài tha thứ mọi lỗi lầm, và không chỉ vậy, còn mời gọi mọi người vào chia sẻ sự sống vĩnh cửu hạnh phúc với Thiên Chúa. Một khi phần nào cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa và bình an hạnh phúc, Kitô hữu thấy mình phải chia sẻ niềm vui này, tin mừng này cho những người anh em của mình chưa biết Đức Giêsu, ngõ hầu họ cũng có niềm vui này. Bản chất Kitô hữu là rao giảng Tin Mừng, làm cho muôn dân được nghe, hiểu và sống đáp trả tình yêu Thiên Chúa.
Ngày nay nhiều người “dị ứng” với từ ngữ truyền giáo, vì từ ngữ này gợi lên nơi người ta ấn tượng rao giảng để kéo người khác bỏ đạo của họ để theo Kitô giáo. Nếu có ý hướng như vậy, người ta mang nặng tính phe phái và giành giựt nhiều hơn là chia sẻ tin mừng. Một Kitô hữu đúng nghĩa phải là người muốn chia sẻ tin mừng với người khác, vì mình nghĩ rằng biết Đức Giêsu là điều rất tốt và ích lợi cho mọi người. Tuy nhiên, Kitô hữu phải là người luôn tôn trọng người khác, tôn trọng tự do và tín ngưỡng của tha nhân; nếu ai đó đón nhận Tin Mừng, thì đó là vì chính họ thấy sự thật, họ cũng được bình an và hạnh phúc hơn khi trở thành Kitô hữu.
Khi một Kitô hữu muốn rao giảng tin mừng, họ phải tự vấn chính mình: “niềm tin vào Đức Giêsu mang gì lại cho tôi? Tin vào Đức Giêsu, có làm cho tôi sống bình an và hạnh phúc hơn không? Nếu tin vào Đức Giêsu Phục Sinh không giúp gì cho tôi, thì tại sao tôi lại muốn làm cho người khác trở thành Kitô hữu như tôi?” Lời mời gọi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh đòi Kitô hữu phải xét lại niềm tin của mình, lối sống của mình. Nếu đời sống của tôi không là đời sống toát lên nét tươi vui của một người hạnh phúc, thì làm sao tôi có thể rao giảng tin mừng được! Nếu tôi sống u buồn thất vọng, tôi là phản chứng cho Tin Mừng Phục Sinh. Tôi phải sống sao, để đời sống của tôi không trở thành phản chứng.
Kitô hữu là người có Chúa Kitô nơi mình, là người bạn của Đức Giêsu Kitô, là người muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Cách sống của Đức Giêsu Kitô phải là cách sống của mỗi Kitô hữu. Kitô hữu phải là người có cùng chọn lựa với Đức Giêsu Kitô, phải biết yêu thương con người hôm nay như chính Đức Giêsu đã yêu, phải là người yêu đến cùng anh em mình, người thân mình, những người mình gặp gỡ, và thậm chí cả những kẻ không ưa và ghét mình. Đức Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ giết Ngài, Kitô hữu cũng phải tha thứ cho những người làm hại họ.
Kitô hữu phải là người trung thành như Thiên Chúa là Đấng Thành Tín. Thiên Chúa không bao giờ phản bội, và Kitô hữu cũng không bao giờ được phản bội ai. Không làm hại ai. Chỉ muốn điều tốt cho tha nhân, chỉ tìm lợi ích cho người khác chứ không làm hại họ, đó phải là cách sống của Kitô hữu. Có được như vậy, nhiều người sẽ ngạc nhiên và sẽ tìm hiểu niềm tin của Kitô hữu; để rồi nếu họ muốn họ có thể chia sẻ niềm tin Kitô hữu, để họ cũng được bình an và hạnh phúc như những Kitô hữu. Kitô hữu phải là men trong bột, phải là ánh sáng cho thế gian. Kitô hữu tuy có cùng nỗi bận tâm và gian nan như bất cứ con người nào sống trên đời, nhưng ánh sáng đức tin đã soi sáng cho họ, giúp họ tuy sống giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có muốn người khác có cùng niềm tin với bạn không? Tại sao?
2. Nếu không tin vào Đức Giêsu, bạn có được như hiện tại không? Tại sao?
3. Phải rao giảng thế nào để con người ngày nay dễ đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu Kitô?
35. Đi tìm Chúa hôm nay – Lm. Damien OFM
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Đấng Messia không còn là của riêng người Do thái nữa, nhưng Ngài tỏ mình ra cho mọi dân tộc.
Ngôi sao dẫn đường.
Do thái thuộc đông phương; và theo văn hóa và khoa chiêm tinh của người đông phương thì mỗi vị vua sinh ra đêù có một ngôi sao chiếu mệnh. Ba nhà đạo sĩ có lẽ là những nhà chiêm tinh học, nên đã nhận ra ngôi sao chiếu mệnh của vua người Do thái mới sinh ra.
Ngôi sao chiếu mệnh nầy không như những ngôi sao chiếu mệnh của các vị vua khác, vì nó còn là ngôi sao đi trước ba nhà đạo sĩ, dẫn đường cho họ đến với Chúa. Thiên Chúa đã dùng các thiên thần để báo cho các mục đồng biết Chúa đã đến trong thế gian. Nay Thiên Chúa dùng một tinh thể làm dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa Giêsu và dẫn ba nhà đạo sĩ đến với Chúa. Xưa trong sa mạc, Thiên Chúa cũng đã dùng cột mây và cột lửa để nói với dân về sự hiện diện của người giữa dân. Thiên Chúa có thể dùng thiên thần, con người(các mục đồng) hay một vật(ngôi sao) để làm dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa.
Ngày nay, ai là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa? Ngôi sao đó trước hết la Giáo Hội(“chúng con là ánh sáng thế gian”), là một vị thánh, là một linh mục, là một kitô hữu gương mẫu…Và ngôi sao soi sáng và dẫn đường cách đặc biệt là Phúc Âm.
Với lời dạy của Chúa Giêsu: “Chúng con là ánh sáng thế gian… ngọn đèn phải để trên đế, để soi sáng cho mọi người trong nhà”, mỗi người kitô hữu phải là một ngọn đèn, nghĩa là một ngôi sao dẫn đường cho kẻ khác. Cha mẹ là ngôi sao dẫn đường cho con cái, những người có trách nhiệm phải là ngôi sao dẫn đường cho những người mình chịu trách nhiệm; linh mục tu sĩ phải là ngôi sao dẫn đường cho dân Chúa; và mỗi người kitô hữu phải là ngôi sao dẫn đường cho những ai chưa biết Chúa.
Tính phổ quát của vì Vua mới.
Sự hiện diện của các mục đồng, của ngôi sao và của ba nhà đạo sĩ nói lên rằng: Đấng Messia mới sinh ra không còn là của riêng của những kẻ tử tế, Biệt Phái và Kinh sư nữa, nhưng trước hết Ngài là của những kẻ thấp hèn tội lỗi hay bị khinh chê, như các mục đồng, vì họ là những người đầu tiên được vinh dự đến với Chúa. Ngài không còn là của riêng của dân Do thái mà thôi, nhưng còn là vua của những kẻ ngoại giáo, xa xôi mà ba nhà đạo sĩ là ba đại diện; sự hiện diện của ngôi sao cũng nói lên rằng, Ngài còn là vua của cả vũ trụ nữa. Ngôi sao cũng phải phục vụ Chúa.
Vua Herôđê bối rối
“Nghe nói thế,vua Herôđê bối rối, và tất cả Giêru- salem cùng với nhà vua”: Chúa sinh ra, các thiên thần ca hát, các mục đồng vui mừng, ba nhà đạo sĩ từ phương đông xa xôi đến thờ lạy, còn vua Herôđê và cả Giêrusalem thì bối rối. Hêrôđê bối rối lo lắng vì sợ mất ngôi vua của mình. Các giáo trưởng và luật sĩ bối rối vì vị vua nầy đến mà không thông báo gì cho họ lại tỏ mình ra cho dân ngoại. Họ thấy chỗ đứng của mình bị lung lay. Thế là họ tìm cách tiêu diệt Ngài.
Họ không hiểu rằng vị vua nầy đâu có thèm gì ngôi báu một khi đã chấp nhận sinh ra trong chuồng bò. Họ không hiểu rằng vị vua nầy, đâu phải để cai trị nhưng để cứu vớt.
Ngày nay cũng thế, người kitô hữu phải hiểu rằng Thiên Chúa không phải là của riêng người công giáo mà là Thiên Chuá của mọi người, và Giáo Hội không chỉ là của riêng người có đạo mà là Giáo Hội của mọi dân tộc, của kẻ lành cũng như người bất lương. Vì Con Thiên Chúa đến để cứu vớt chứ không phải để lên án hay cai trị. Chúa sinh ra trong ngheo khó và sau nầy bị khinh chê và bắt bớ. Nên phải bỏ đi cái mơ ước hảo huyền một Giáo Hội giàu sang và quyền thế trước mặt người đời. Phải bỏ đi cái quan niệm một thứ đạo phô trương. Đừng lặp lại cái lỗi lầm của người Do thái, mơ ước một vị vua quyền thế và cao sang. Nếu không thì Chúa sẽ làm cho chúng ta thất vọng vì ngài không hề đáp ứng những mơ ước hảo huyền của ta. Và rồi chúng ta cũng sẽ bối rối như Herôđê, các Biệt Phái và kinh sư xưa trước sự hiện diện khiêm tốn của Chúa.
Đi tìm Chúa hôm nay.
Chúng ta đã thấy, một những ngôi sao dẫn đường cho chúng ta hôm nay đến với Chúa là Lời Chúa.Chính nhờ đọc và suy gẫm Lời Chúa mà chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sống. Phúc Âm sẽ vẽ lên cho chúng ta gương mặt đích thực của Chúa Kitô chứ không phải khuôn mặt theo những mơ ước trần tục của chúng ta. Phúc Am sẽ là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta đến với Chúa Giêsu.
Vị vua thứ tư.
Chuyện kể rằng, khi Ba vua Gaspar, Melchior, Balthazar và đoàn tùy tùng vừa đi khỏi làng Bêlem, thì vị vua thứ tư hớt ha hớt hải chạy đến. Ông cũng đã thấy ngôi sao, ông dắt vào lưng ba viên ngọc quí, gia sản quí nhất của ông và vội vã lên đường cho kịp Nhưng ông đến trễ, ba vua kia đã về mất rồi!…Ông đến trễ và nhất là đến với hai bàn tay không… ông không còn các viên ngọc quí nào nữa…
Ông từ từ nhẹ tay mở cửa chuồng bò, nơi có Con Thiên Chúa, Mẹ người và người cha nuôi của Người. Trời tối, Giuse đang trở mớ rơm để qua đêm, bé Giêsu nằm trên tay Mẹ.
Rón rén, vị vua thứ tư tiến lại gần, phục mình dưới chân bé Giêsu và Mẹ Người và bắt đầu nói qua giòng nước mắt:
- Lạy Chúa, con đến để dâng lên ngài lễ vật như ba vị vừa rồi, dâng cho Chúa ba viên ngọc to như trứng bồ câu, ba viên ngọc thứ thiệt. Nhưng giờ đây không còn nữa…Con thấy ba vị kia đi trước con trên lưng lạc đà, con định tiến lên đi với họ. Nhưng rồi rượu ngọn, tiếng chim họa mi hót làm con say mê. Đêm đó con ở lại trong một quán trọ. Khi con bước vào, con thấy một cụ già lên cơn sốt rét, nằm co quắp bên lò sưởi. Không ai biết ông ta là ai. Túi tiền ông rổng tuếch. Ông không có tiền trả tiền thuốc và những thứ cần thiết. Ngày mai, ông sẽ bị đuổi ra ngoài. Lạy Chúa, đó là một cụ già, rất già, nước da sậm và có bộ râu trắng. Ông làm con nhớ đến cha con. Lạy Chúa, xin tha cho con, con lấy một viên ngọc trong túi và đưa cho chủ quán để ông lo tìm thầy chạy thuốc và nếu ông ấy chết, thì có một cỗ quan tài che xác ông.
Ngày hôm sau, con ra đi, dục con lừa của con chạy cho kịp ba vị kia vì lạc đà họ đi chậm. Con đường con đi qua vắng vẻ, có nhiều bụi rậm. Bổng con nghe tiếng kêu cứu từ một bụi rậm. Con nhảy xuống lừa và thấy mấy chú lính đang bắt nạt một thiếu phụ trẻ. Họ đông quá, con thấy mình không đủ sức đọ lại với họ. Hơn nữa con đã già rồi. Lạy Chúa, xin tha cho con lần nầy nữa. Con đưa tay vào túi lấy một viên ngọc thứ hai và chuộc lại người thiếu phụ. Cô ta hôn tay con rồi chạy như bay vào miền núi như một con sóc.
Giờ đây chỉ còn lại có một viên nữa thôi, nhưng con nghĩ, có còn hơn không. Lúc đó đã quá trưa, và con nghĩ mình có thể đến Bêlem trước lúc trời tối. Nhưng kìa lính Hêrôđê đang hung hăng đốt cháy một làng gần Bêlem. Con chạy tới và và hỏi thăm thì con biết lính tráng đang thi hành lênh của vua: giết tất cả các con trẻ từ hai tuổi trở xuống. Ngoài một căn nhà đốt cháy, một tên lính to khỏe, đang nắm trong tay một em bé trần truồng, đưa đi đưa lại. Đứa bé hết sức dãy dụa và khóc thét lên vì sợ. Người mẹ thì đang quì lạy và khóc ngất. Anh lính nói với mẹ nó ”Bây giờ tao sẽ cho nó vào lửa và nó sẽ cháy như một con heo sữa quay!” Mẹ nó la lên thảm thiết…
Lạy Chúa, xin tha cho con! Không chịu nổi, con lấy viên ngọc cuối cùng trao cho tên lính để nó trao em bé cho mẹ nó. Mẹ nó ôm chặt lấy con, áp cứng vào lòng, không một tiếng cám ơn, chạy trốn như một con chó tìm được miếng xương. Lạy Chúa thế là con đến đây với hai bàn tay không. Xin Chúa tha cho con, xin tha cho con…
Nói xong ông sấp mặt sát đất hồi lâu. Thinh lặng bao trùm chuồng bò. Rồi ông ngước đầu lên, thấy Giuse đã trở rơm xong, Chuá vẫn nằm trong tay Đức Mẹ. Từ từ, Chúa quay về phía ông, gương mặt Ngài rạng rỡ. Chúa chìa đôi tay tí hon cho đôi tay trống không của vị vua thứ tư, bé Giêsu và Mẹ đều mỉm cười…
36. Hiển Linh – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Lễ Hiển Linh ngày xưa thường được gọi là lễ Ba Vua. Tin Mừng hôm nay cho thấy các đạo sĩ đi tìm để dâng lễ vật lên vua người Do Thái. Các đạo sĩ là những người có học, họ đại diện cho những người luôn quan sát thiên nhiên và truy tìm chân lý. Họ đã không quản ngại đường xa để tìm đến với Sự Thật.
Nhận biết Thiên Chúa nhập thể là một ân sủng
Các mục đồng được Thiên Chúa cho biết về Đấng Cứu Thế, Đấng là qùa tặng của Thiên Chúa cho tất cả loài người, qua các thiên thần. Còn những người học thức, được Thiên Chúa cho biết về Đấng Vua đặc biệt của người Do Thái qua ánh sao, qua những dấu chỉ tự nhiên. Các mục đồng đơn sơ được gặp Đức Giêsu cách dễ dàng và giản dị, còn ba nhà đạo sĩ uyên thâm đã phải trải qua khoảng đường dài, những cuộc truy tìm qua những trung gian, chẳng hạn với vua Hêrôđê, mới có thể gặp được Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể.
Tất cả đều nhờ ân sủng của Thiên Chúa, nhờ sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa để các vị đạo sĩ có thể tìm được và nhận ra vị Vua đặc biệt nhưng bình thường này. Vì làm sao chỉ với ánh sao, các vị đạo sĩ có thể biết đâu là em bé giữa bao nhiêu em bé ở Bêlem? Vua Hêrôđê không thể nhận ra đâu là vị vua đặc biệt này, nên đã giết tất cả các em bé, còn các vị đạo sĩ làm sao nhận ra được “chính là Ngài”? Dù là người đơn sơ hay người có học, nhận ra được Thiên Chúa, đều là ân sủng.
Đón nhận con người, là đón nhận Thiên Chúa
Người làng Bêlem không đón nhận Đức Mẹ, thánh Yuse, là không đón nhận Thiên Chúa. Vua Hêrođê không đón nhận hài nhi “vua người Do Thái”, là không đón nhận Thiên Chúa. Dân chúng và những người lãnh đạo dân tìm cách giết Đức Giêsu, là họ giết Thiên Chúa.
Dân Do Thái không biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể nên đã giết Ngài. Người Bêlem không biết hài nhi trong dạ người phụ nữ trẻ đói nghèo là Thiên Chúa nhập thể, nên đã từ khước cho các ngài một chỗ trú chân. Người làng Nazarét không biết em bé Giêsu là Thiên Chúa làm người, nên không nhận ra ân sủng mà họ đang được hưởng: sống gần bên Thiên Chúa nhập thể. Không biết, nên không đón nhận. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho con người về điều này, ngay cả với những người giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, 34).
Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho con người, nhưng những mục đồng thì nhận biết còn người giầu làng Bêlem thì không nhận biết, các đạo sĩ nhận biết nhưng Hêrôđê và những người thông luật ở Yêrusalem không nhận biết, ông già Simêon nhận biết nhưng tư tế dâng tiến Ngài cho Thiên Chúa thì không nhận biết Ngài. Xin cho chúng ta có tâm hồn đơn sơ khiêm tốn để nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với chúng ta trong từng giây phút của cuộc đời.
Mầu nhiệm dấu kín nay được tỏ lộ
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, mọi tầng lớp dù vô học hay trí thức. Ba nhà đạo sĩ là những người có học, quan sát thiên nhiên để truy tìm chân lý, và Thiên Chúa đã tỏ lộ cho họ qua thiên nhiên. Vì thế rất có lý để tin rằng những người nghiên cứu khoa học xã hội hay tự nhiên đều có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua công việc của họ.
Thiên Chúa dùng mọi cách để đến với con người. Có thể là ánh sao, có thể là lời thỉnh vấn, có thể là dấu chỉ đơn sơ đối với người tin chất phác như “hài nhi vấn tã nằm trong máng cỏ” (Lc.2, 12). Trong mọi trường hợp, đều cần tấm lòng đơn sơ, dù là người chất phác vô học hay người trí thức. Một người ít học hay có học, nhưng không có lòng sẵn sàng đón nhận chân lý thì không thể gặp gỡ Thiên Chúa được, cụ thể như người làng Bêlem hay các luật sĩ ở Yêrusalem.
Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Đây là mầu nhiệm vô cùng lớn, được ẩn dấu từ muôn thuở nay tỏ lộ cho con người. Làm sao Thiên Chúa lại có thể thành người? Làm sao Đấng vô hạn lại có thể thành con người “hữu hạn”? Làm sao Thiên Chúa duy nhất lại có thể là ba? Người Hy-Lạp không thể chấp nhận điều này, vì không hợp lý. Người Do Thái không thể chấp nhận Đấng Thiên Sai có thể bị giết trên thập giá. Kitô-hữu là người “không logic” theo một nghĩa nào đó, vì đã chấp nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, đã tin Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi Vị.
Xin cho con người vâng phục Thánh Thần, để có thể đón nhận mặc khải của Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, người ít học và người học cao hiểu rộng, ai dễ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể hơn? Tại sao?
2. Làm sao con người biết rằng Thiên Chúa yêu thương con người?
3. Thiên Chúa có yêu thương những người ngoại không? Tại sao?
37. Hãy tỏa sáng - Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, đang khi vị linh mục giảng tĩnh tâm cho gần 500 tín hữu trong một hội trường rộng lớn về đề tài “Hãy làm gương sáng”, thì điện bị cúp trong toàn khu vực (cúp điện theo chiến thuật!). Cả hội trường chìm trong bóng tối.
Bấy giờ ngài bật lên một que diêm, giơ cao lên và cất tiếng hỏi: “Anh chị em có thấy ánh sáng từ que diêm nầy không?”
Mọi người trong hội trường đáp lại: “Thưa có”
Vị linh mục tiếp: “Dù bóng tối phủ dày nhưng chỉ cần ánh sáng của một que diêm thôi cũng đủ cho nhiều người chung quanh nhìn thấy. Như thế, ánh sáng của việc tốt, dù nhỏ bé thôi, cũng có thể tỏa ra trước mắt nhiều người trong một xã hội dẫy đầy bóng tối.”
Sau đó, ngài mời gọi những ai mang theo hộp quẹt trong túi, hãy bật cho lửa sáng lên. Nhiều người hưởng ứng. Thế là bóng tối bị đẩy lùi, cả hội trường sáng lên bởi rất nhiều ánh lửa nhỏ từ các hộp quẹt của những người hiện diện.
Bấy giờ vị linh mục tiếp: “Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện một việc tốt mỗi ngày thì cuộc đời chúng ta sẽ tỏa sáng như những đốm lửa trên tay chúng ta đây. Nhờ đó bóng tối của thói hư tật xấu và của tệ nạn đang bao trùm thôn xóm sẽ dần dần bị đẩy lùi.” (Phỏng theo một cốt truyện trên internet)
* * *
Hôm xưa, nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ rực sáng lên ở phương đông, các nhà chiêm tinh mới lần theo ánh sao, tìm đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Hôm nay, mỗi người tín hữu theo Chúa Kitô phải trở thành những ánh sao mới để dẫn lối cho bao người tìm về với Chúa.
Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia được trích đọc vào thánh lễ hôm nay vang lên như một lời mời gọi tha thiết, thúc giục chúng ta hãy toả sáng.
“Hãy đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả,
vinh quang Ngài xuất hiện trên ngươi.
Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.” (Isaia 60,1)
Ngoài ra, qua thư gửi tín hữu Phi-lip-phê, thánh Phao-lô nhân danh Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tỏa sáng: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Philip 2,15)
Phải tỏa sáng cách nào?
Trước hết là bằng cách phát huy nếp sống đẹp: đẹp trong lời ăn tiếng nói, đẹp trong cách cư xử giao tế với người chung quanh, nhưng đẹp nhất là có lòng bác ái, yêu thương, tôn trọng và sẵn sàng phục vụ những người chung quanh… Ai thực hiện được những điều đó, thì họ là những ánh sao dẫn đường về với Chúa, về với Chân Thiện Mỹ. Thế giới và xã hội rất cần những ngôi sao như thế để soi đường dẫn lối cho bao người.
Như giọt sương mai
Những giọt nước bẩn đọng lại đây đó trên những lá cây bên đường không thể tỏa ra chút ánh sáng nào; tuy nhiên những giọt sương mai còn đọng lại trên các ngọn cỏ lại trở nên long lanh tuyệt đẹp dưới ánh bình minh.
Vậy thì các tín hữu cần loại trừ khỏi cuộc sống mình những tệ nạn và thói hư tật xấu, bấy giờ tâm hồn họ sẽ trở nên trong sáng như những hạt sương mai.
Kế đó họ cần học hỏi và để cho Lời Chúa thấm đẫm tâm hồn. Một khi Tin Mừng Chúa Kitô được chiếu giọi tận đáy sâu tâm hồn thì Ánh Sáng Tin Mừng sẽ làm cho họ trở nên lấp lánh giữa cuộc đời, như ánh sáng mặt trời ngời sáng trên những giọt sương mai.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp chúng con tỏa sáng, dù không như ánh sao giữa bầu trời đêm thì ít nữa cũng như một cây nến sáng trong gia đình, để nhờ gương lành việc tốt của chúng con, gia đình, thôn xóm chúng con được bừng sáng, vì “gần mực thì đen, gần đèn ắt phải sáng”.
38. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chính những Lời Chúa dạy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm chúng ta.
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị đến ngay cung điện vua Hêrôđê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên. (Mt 2, 2)
Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2, 4-6)
Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đa.
Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Người, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.
Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119, câu 105)
Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu? - Ở nơi mà không mấy ai tin là có: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta. Thật quá bất ngờ!
Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung điện Hêrôđê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Chúng ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh đường... Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái trong gia đình."
Qua dụ ngôn dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà… Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người. (xem Mt 25, 31-46)
Khi chưa nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Phaolô ra tay bách hại các môn đệ của Người dữ dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đamát và có tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: "Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm đó, Sao-lô (tức thánh Phaolô tông đồ) mới nhận ra các tín hữu cũng chính là Chúa Giêsu nên người thường nhắc nhở mọi người ghi tâm khắc cốt lời nầy: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15).
Chính những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Người.
Lễ vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc cho những người đau khổ chung quanh chúng ta. Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi. Ước gì chúng ta mau mắn và quảng đại hiến dâng cho Người.
39. Ánh nến toả sáng trong gia đình
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Giữa ban ngày, chỉ cần một tấm bảng nhỏ vẽ mũi tên chỉ đường cũng đủ để giúp bộ hành tìm được hướng đi, nhưng giữa đêm đen, dù có cả một rặng núi sừng sững được sử dụng như tín hiệu chỉ đường, cũng không ai nhận thấy. Trong khi đó, chỉ cần một ánh sáng le lói giữa màn đêm cũng đủ để cho khách bộ hành tìm thấy mục tiêu cần tiến đến. Trong đêm tối, một đốm sáng nhỏ có khả năng dẫn đường chỉ lối hơn cả một ngọn núi cao.
Chính vì thế, khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa đã cho xuất hiện một ánh sao đặc biệt giữa bầu trời đêm để soi dẫn cho ba nhà chiêm tinh từ phương Đông đến gặp Chúa Cứu Thế. Nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ nầy, ba nhà chiêm tinh mới có thể tìm gặp Hài Nhi Giêsu mới hạ sinh.
Đoạn Tin Mừng Matthêu (2, 1-12) trích đọc trong phụng vụ lễ hiển linh mời gọi chúng ta trở thành những ngôi sao nhỏ để dẫn đưa anh chị em lương dân đến với Chúa. Nói cách khác, Lời Chúa mời gọi chúng ta làm ánh sáng chỉ đường cho lương dân.
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ I-sa-i-a mà phán dạy dân Người: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi mang ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất." (Is 49,6)
Chúa Giêsu cũng trao sứ mạng nầy cho các môn đệ: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian... ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ..." (Mt 5, 14):
Và Thánh Phaolô tiếp tục kêu mời chúng ta: "Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời." (Pl 2,15)
Ít ra, xin được là ánh nến toả sáng trong gia đình
Trở nên ánh sáng soi đường là một sứ mạng tuy cao trọng nhưng đầy khó khăn nên không ai muốn đảm nhận. Tuy vậy, là con cái Chúa, không ai được quyền thoái thác chối từ. Mấy câu thơ sau đây của thi sĩ Éliot sẽ khích lệ chúng ta:
"Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng giữa trời,
Thì hãy là ánh lửa non cao.
Nếu bạn không thể là ánh lửa non cao,
Xin hãy làm ánh nến toả sáng trong gia đình."
Có lẽ chúng ta không dám làm ngôi sao sáng giữa trời, vì thấy mình yếu đuối và tội lỗi. Có thể chúng ta cũng chẳng dám mơ ước trở thành một ánh lửa non cao cho nhiều người từ phương xa nhìn tới. Vậy thì ít ra, xin cho mỗi người chúng ta cố sức trở thành một ánh nến toả sáng trong gia đình. Ánh nến nầy rất quan trọng vì 'gần mực thì đen và gần đèn ắt phải sáng.' Ánh sáng của cuộc đời mẫu mực nơi người cha, người mẹ toả chiếu trên con cái chắc chắn sẽ làm cho con cái được nên người. Và ngay cả ánh sáng của con cái cũng có thể làm cho cha mẹ nên sáng.
Sự kiện sau đây minh chứng điều nầy:
Ngày 12 tháng 12 năm 1999, tôi ban bí tích rửa tội cho hai em nhỏ. Người chị là Têrêxa Huỳnh thị Bích Hằng, mười lăm tuổi, còn người em là Maria Huỳnh thị Bích Nga, mười hai tuổi. Vì hai em mồ côi cha mẹ sớm, chẳng được học hành, nên được gia đình người cô ruột thương tình đem về nuôi.
Điều oái oăm là cô dượng của hai em tuy là người có đạo nhưng không mấy khi bước đến nhà thờ. Mỗi tối, gia đình nầy bán phở đến 12 giờ đêm. Hai người cháu cũng lo phục dịch đến giờ ấy.
Thế rồi từ ngày hai cháu được dẫn đến nhà thờ, được các nữ tu dạy cho biết Chúa và giáo lý, hai cháu bỗng nhiên yêu mến Chúa cách nhiệt tình và yêu thích học giáo lý cách đặc biệt. Cứ mỗi ngày chúa nhật, hai cháu cảm thấy mừng vui rộn rã trong lòng vì được đến với Chúa. Lòng nhiệt thành của hai cháu đã làm bừng lên nhúm đức tin như tro tàn nguội lạnh trong lòng cô dượng. Thế rồi cô dượng cũng sốt sắng đi thờ phượng Chúa trong các ngày chúa nhật, sau khi đã vắng bóng ở nhà thờ gần đến mười năm! Người cô nói với tôi: "Thấy hai cháu sốt sắng quá, thét rồi hai vợ chồng con cũng sốt sắng lây."
Hai cháu đúng là hai ánh nến nhỏ trong gia đình đã chiếu soi cho Cô Dượng.
Vậy giờ đây chúng ta cùng cầu nguyện với Chúa Giêsu bằng lời thơ của thi sĩ Éliot:
"Lạy Chúa, nếu con không thể là ngôi sao sáng giữa trời,
Thì xin hãy là ánh lửa non cao.
Và nếu con không thể là ánh lửa non cao,
Xin cho con được làm ánh nến toả sáng trong gia đình."
40. Ánh sao lạ - Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mt 2:1-12: Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện...
Một cuộc thăm dò trên tuần báo Newsweek ngày 5 tháng 12 năm 2004, với câu hỏi:
“Thế giới hôm nay sẽ trở nên tốt hay xấu hơn nếu không có Chúa Giêsu”
Và được kết quả như sau:
- 61% cho rằng thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Chúa Giêsu.
- 47% nói rằng sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn, nếu như Chúa Giêsu không tồn tại trên thế giới này.
- 63% nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn.
- 58% cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu như không có Chúa Giêsu.
- 59% cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi
- 38% tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Chúa Giêsu.
- 26% cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Chúa Giêsu.[1]
Tại sao lại có những kết quả trái ngược như thế?
Trở lại lịch sử, chúng ta thấy: Ngay khi Chúa Giêsu mới giáng sinh thì đã có ba nhóm người tiêu biểu cho ba thái độ của nhân loại đối với Chúa Giêsu trong suốt dòng lịch sử. Ba thái độ đó là:
1. Con người và phản ứng của Hêrôđê
Hêrôđê có một cá tính kinh khủng, ông đa nghi một cách điên khùng, ông là người luôn luôn ngờ vực, càng về già ông càng đa nghi đến độ có kẻ đã gọi ông là “ông già sát nhân”. Ông nghi ai là đối thủ tranh chấp quyền hành thì người ấy liền bị loại trừ ngay. Ông đã giết vợ là Marianne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander và Aristobulus cũng bị ông sát hại luôn. Hoàng đế Rôma là Augustus đã cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôđê còn an toàn hơn làm con trai ông ta” (câu nói bằng tiếng Hy Lạp dí dỏm hơn, vì tiếng Hy Lạp hus là con heo và huios là con trai). Bản chất man rợ của Hêrôđê còn được thấy rõ hơn trong những việc chuẩn bị của ông trước khi qua đời. Khi được bảy mươi tuổi biết mình sắp chết, ông rút về thành Giêrikhô, thành xinh đẹp nhất của ông, rồi truyền lệnh bắt một số người nổi danh nhất trong thành Giêrusalem, vu khống rồi hạ ngục. Ông truyền lệnh phải giết hết những người ấy khi ông lâm chung, vì ông biết rằng khi ông chết chẳng ai thèm than khóc, nên nhất định phải làm sao cho có nước mắt đổ ra lúc ông chết.
Chính vì ganh ghét và thù địch, Hêrôđê sợ Hài Nhi sẽ can thiệp vào quyền thế và ảnh hưởng của mình, nên đã quyết tâm tiêu diệt Hài Nhi.
Ngày nay cũng vậy, vẫn còn nhiều người quyết tâm tiêu diệt Chúa Giêsu, vì họ chỉ thấy Ngài là người xen vào đời sống họ, không cho họ làm theo điều mình thích nên họ muốn giết Ngài. Người nào chỉ ước ao làm theo ý thích của riêng mình thì không bao giờ cần Chúa Giêsu và luôn tìm cách loại trừ Ngài.
2. Phản ứng của các tư tế và các Kinh Sư
Họ hoàn toàn dửng dưng, đối với họ chẳng có chuyện gì thay đổi. Họ chỉ quan tâm đến lễ nghi tế tự trong đền thờ và những thảo luận về luật lệ, đến nỗi họ hoàn toàn không để ý gì đến Chúa Giêsu. Ngài chẳng có nghĩa gì đối với họ. Ngày nay vẫn còn những người chỉ quan tâm đến việc riêng của mình đến nỗi Chúa Giêsu trở thành vô nghĩa, không đáng quan tâm.
3. Con người và phản ứng của các nhà đạo sĩ
Danh hiệu của những người này là Magi, một chữ rất khó dịch. Theo Herodotus (1,101,132), Magi nguyên là một chi phái Mêđi. Người Mêđi là một phần dân thuộc đế quốc Ba Tư. Họ cố gắng lật đổ người Ba Tư đem chính quyền về cho người Mêđi. Mưu toan thất bại, từ đó người Magi từ bỏ mọi tham vọng quyền hành và trở nên chi phái tư tế. Các Magi đối với dân Ba Tư cũng giống như các thầy Lêvi đối với dân Israel. Họ trở thành thầy dạy và giáo dục cho các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không được dâng lễ vật nếu không có một Magi hiện diện, họ là người của sự thánh thiện và khôn ngoan. Những người Magi này rất giỏi về triết học, y khoa và khoa học tự nhiên.
Với thái độ thành tâm thờ phượng, họ ao ước được đặt nơi chân Chúa Giêsu những tặng phẩm cao quý nhất. Khi một người đã nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu thì họ sẽ đắm chìm trong sự kinh ngạc, yêu mến và ca tụng Ngài.[2]
Quả thế, các đạo sĩ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết đến lời tiên, không biết đến lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.
Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận ra. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho được.
Các đạo sĩ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.[3]
Nhìn vào các đạo sĩ, nếu chúng ta khao khát và quyết tâm tìm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ gặp được Chúa trong cuộc đời chúng ta. Amen.
----------------------
[1] Báo Công Giáo và dân tộc, số 1487-1488, trg. 53
[2] William Barclay
[3] TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, Lễ Hiển Linh
41. Hành trình đức tin - Lm Vũ Đình Tường
Có những chuyến đi mang tính lịch sử lâu dài, được trân trọng nhắc đến như chuyến lên mặt trăng đầu tiên vào thập niên sáu mươi của các phi hành gia Hoa Kì. Xa hơn nữa, lần ngược về quá khứ, là những cuộc hải hành của các nhà thám hiểm đi tìm đất mới. Những chuyến đi lừng danh đó nhiều khi được cả quốc tế biết đến nhưng bản chất của nó vẫn mang tính cách quốc gia. Mang tính cách quốc gia vì nó được chính quyền các quốc gia đó ủy thác trọng trách trong việc làm nên lịch sứ cho quốc gia họ. Hầu như lịch sử thế giới không phân biệt chuyến đi mang tính cách cá nhân, tự chi phí cho chuyến đi riêng của mình nhưng trân trọng ghi lại mọi chuyến đi làm lên lịch sử. Sau khi làm lên lịch sử, trang sử đó được gấp lại và chỉ mở ra khi cần tham khảo.
Tôn giáo hoàn toàn khác biệt với ghi nhận của lịch sử của nhân loại. Những chuyến đi xem ra tầm thường, hoàn toàn có tính cá nhân, riêng tư hay tình gia đình lại được để cập đến trong lịch sử ơn cứu độ. Đức trinh nữ Maria đi thăm người bà con thân thuộc là Elizabeth được ghi dấu trong lịch sử ơn cứu độ. Đây là chuyến đi hoàn toàn có tính cách cá nhân, gia đình lại trở thành mẫu mực cho việc thăm viếng, mang tin vui tới cho người mình thăm. Chuyến đi đền thờ cầu nguyện và con trẻ Jesu bị lạc mất ba ngày cũng ghi đậm nét trong lịch sử cứu độ và được công bố hàng năm trong lịch phụng vụ. Chuyến đi này hoàn toàn có tính cách gia đình, một gia đình thời đó vô danh, không mấy ai để í đến. Chuyến đi của ba vị từ Phương Đông cũng là chuyến đi có tính cách cá nhân, cá biệt cũng được nhắc đến đầy đủ chi tiết. Vì thế những chuyến đi mang tính cách đức tin có chiều dài lịch sử dài hơn, chiều sâu sâu hơn là những chuyến đi mang tính cách khám phá đất mới hay tìm hiểu về khoa học. Chuyến đi vì đức tin có thể không được quảng bá rầm rộ trên báo chí hoặc truyền thông trong đại chúng nhưng những chuyến đi đó thường mang tính cách quốc tế nhiều hơn là tính cách quốc gia vì ở đâu có người chung niềm tin, ở đó những chuyến đi đó được mừng kính hàng năm để ghi nhớ dấu ấn đức tin của con người tin vào Thiên Chúa.
Chuyến đi của ba vị từ Phương Đông còn mang một í nghĩa quan trọng hơn đó là một chuyến đi tìm kiếm sự thật. Lòng họ ao ước bỏ công việc riêng, ra đi tìm hiểu rõ sự thật. Sự thật đó là ngày sinh của Đấng Cứu Thế. Với đại chúng mừng Giáng Sinh là mừng ngày Chúa sinh ra. Với ba vị đạo sĩ Phương Đông mừng Giáng Sinh khởi đẩu từ lúc gặp Chúa trong máng cỏ. Nói rõ hơn mừng Giáng Sinh là mừng ngày nhận biết Chúa tỏ mình ra cho con người. Theo í nghĩa đó thời điểm mừng Giáng Sinh khác nhau và kéo dài nhiều ngày sau ngày Chúa Giáng trần. Chúa tỏ mình ra cho nhiều nhóm khác nhau, đầu tiên là các mục đồng, sau đó là đến các vị đạo sỉ rồi ngày Chúa nhật lễ Thánh Gia thất, lễ Đức Mẹ là mẹ Thiên Chúa, lễ Chúa tỏ mình ra trong đền thờ và chấm dứt vào ngày lễ Chúa nhận phép rửa. Vì sau ngày này không còn đọc kinh Tiền Tụng Giáng Sinh nữa. Với các nhà làm thương mại Giáng Sinh chấm dứt khi không còn người trao đổi hàng hoá, quà cáp Giáng Sinh ế ẩm. Với Giáo Hội Giáng Sinh kéo dài theo í nghĩa
Con Người xuống thế làm người và ở giữa chúng ta.
Bất cứ khi nào Chúa tỏ mình ra thì í nghĩa Chúa Giáng Sinh lại sống lại trong cá nhân đó. Đừng mừng giáng Sinh theo tinh thần xem bắn pháo bông. Cần nhiều tuần tổ chức cho ngày đó nhưng pháo bừng sáng rồi tắt lịm trong năm mười giây. Chúng ta nói là mùa Giáng Sinh vậy mùa thường kéo dài vài ba tuần mới đúng ý nghĩa của mùa.
42. Khát vọng tìm Chúa – Lm. Nguyễn Chánh
1/ Nếu thử hỏi: Khát vọng sâu xa nhất của con người là gì?
Trước câu trả lời này ta thấy có những thái độ chọn lựa khác nhau: Sẽ có nhiều người nghĩ rằng tiền của, vật chất, địa vị, danh vọng, quyền lực, có khi ngay cả lạc thú, những thứ này sẽ là nguyên nhân khơi lên lòng ước muốn nơi họ. Từ xác tín mơ hồ đó, sẽ phát sinh những cách sống chỉ biết tôn thờ vật chất, tôn thờ quyền lực, cùng với những thứ giả dối khác...
Ngược lại, cùng một câu hỏi, nhưng ta lại thấy những tương phản với sự lựa chon theo chiều hướng duy vật trên. Đó là vẫn còn rất nhiều người xác tín rằng: Chúa chính là Đấng luôn đáp ứng cho những khát vọng sâu xa nhất trong cõi lòng con người. Đây chính là xác tín đúng nhất và sâu xa nhất.
Từ xác tín khiêm tốn trên, thực tế ta thấy rất nhiều tâm hồn trong cuộc sống họ không ngừng khao khát tìm gặp Chúa, cho dẫu họ phải hứng chịu nhiều thử thách cam go trong cuộc hành trình tìm Chúa.
Như vậy, cùng một câu hỏi, nhưng câu trả lời thì không giống nhau, luôn có sự tương phản với nhau. Bởi vì có những thái độ chon lựa khác nhau. Sự tương phản này chúng ta cũng tìm thấy nơi thái độ của các nhân vật trong trang Tin mừng hôm nay, khi Chúa sinh hạ tại Bêlem.
2/ Thái độ của Vua Hêrôđê, các Thượng tế, Luật sĩ và Dân chúng:
Đây là thái độ thờ ơ, không cần bận tâm trước một sự kiên vĩ đại là Vua Israel hạ sinh. Mặc dù Đấng Cứu Thế giáng sinh cách Giêrusalem không xa, hay sau khi đã tra cứu Kinh thánh và biết rằng tại Bêlem, miền đất Giuđa, Vị lãnh tụ của Israel ra đời. Đây là những yếu tố khách quan để Hêrôđê và mọi thành phần trong dân Israel nhận biết Chúa, tìm kiếm Chúa. Nhưng cũng vì quá mải mê với cách sống giàu sang, quá ham muốn với cuộc sống danh vọng và địa vị, nên những người này cảm thấy Đấng Cứu Thế cũng không cần thiết mấy so với những quyền hành và bổng lộc mà họ đang nắm trong tay. Vì thế họ cố tình không dò xét và tìm hiểu Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Vua Israel là Đấng Kitô.
3/ Thái độ của các nhà chiêm tinh:
Đó là thái độ ngược hẳn với Vua Hêrôđê, các Thượng tế, Luật sĩ và dân Israel. Các nhà chiêm tinh luôn kháo khát Đấng Cứu Thế. Vì qua sự thiện chí nghiên cứu thời giờ, tín hiệu, nhất là qua ánh sao lạ, họ đã biết Đấng Cứu Chuộc muôn dân đã hạ sinh. Vì thế, họ quyết tâm lên đường tìm Chúa cho bằng được.
Tuy nhiên, trong chặng hành trình kiếm tìm Đấng Cứu Thế, các nhà chiêm tinh cũng đã gặp không ít những khó khăn. Khó khăn về thời gian, đi mà không biết đến lúc nào mới gặp được Chúa. Khó khăn về địa lý, bởi vì đường xá xa xôi hiểm trở. Khó khăn về những dự định cho công việc tại quê nhà. Khó khăn về sức khoẻ, thời tiết. Và khó khăn lớn nhất đối vời các nhà chiêm tinh là ngôi sao lạ dẫn đường biến mất trong chặng hành trình họ đang tìm Chúa.
Cho dù có đối diện với rất nhiều khó khăn, hay có phải rơi vào những hiểm trở chông gai. Các nhà chiêm tinh vẫn cương quyết đi tìm Chúa cho đến cùng. Vì lúc này đối với các ông Chúa chính là tất cả. Và nơi Ngài sẽ đáp ứng cho tất cả những khắc khoải của con người.
Và rồi "kiên nhẫn đã thắng mọi sự". Các nhà chiêm tinh đã gặp được Chúa. Cử chỉ các ngài sụp xuống thờ lạy Chúa, dâng vàng, nhũ hương và mộc dược, tất cả đều thể hiện niềm xác tín: Chúa là tất cả. Chúa là Đấng duy nhất để con người theo đuổi. Chúa là đối tượng duy nhất để đem niềm vui cho con người. Chúa là đối tượng duy nhất để con người tôn thờ và kính bái. Đây chính là thái độ đức tin của các nhà chiêm tinh. Nhờ thái độ đức tin kỳ diệu ấy, chúng ta đã thấy có sự biến chuyển cách sống nơi họ.
4/ Sau khi đã gặp được Chúa và thờ lạy Chúa.
Các nhà chiêm tinh ra về mang theo tâm trạng của những con người đang dâng trào niềm vui mới và cách sống mới. Niềm vui mới đã đem đến cho họ một chon lựa mới. Đó là phải sống theo đường lối mà họ mới nhận ra nơi Chúa. Đường lối mới là họ phải xa tránh và không đi trên lối mòn của con đường cũ, nhưng phải bước đi trên những nẻo đường mới của con người mới. Đây là kết quả của những thiện chí, thể hiện qua sự hy sinh và khao khát kiếm tìm Chúa nơi các nhà chiêm tinh. Những thiên chí của các nhà chiêm tinh đã được Chúa bù đắp bằng sự biến đổi đột ngột nơi bản thân các ngài. Sự biến đổi bằng ơn thánh của Chúa đã đem đến cho các nhà chiêm tinh niềm hạnh phúc thật sự, cũng như những khát mong Thiên Chúa xuất phát từ cõi lòng khiêm tốn chân thành nơi các ngài, đã được lắp đầy bằng ơn thánh Chúa đã tặng ban. Chắc chắn từ giây phút bất ngờ sau khi đã được biến đổi, sẽ là mốc điểm để các nhà chiêm tinh khởi sự bằng đời sống mới liên tục trong Đấng Cứu Độ trần gian.
5/ Khi con người cứ mải mê kiếm tìm
Khi con người cứ mải mê kiếm tìm và sống trong sự hưởng thụ thoả mãn nơi vật chất, tiền của, địa vị, danh vọng, lạc thú. Chắc chắn lối sống ấy không bao giờ đem lại ích lợi gì cho con người. Đó là một cuộc sống vô nghĩa. Đôi khi nó sẽ hướng hành động của con người đi đến tính ích kỷ, bất công, tham lam, tham ô, gian dối... Vì con người có thể dùng mọi thủ đoạn để đạt tới cách sống giả dối, luôn lệ thuộc những thứ mau qua của trần gian.
Ngược lại, khi con người biết khiêm tốn kiếm tìm chính Chúa là nguồn hy vọng của con người. Chắc chắn cuộc kiếm tìm ấy sẽ mang đến cho con người một cuộc sống lý tưởng cao đẹp. Một cuộc sống đã được Chúa đổi mới bằng ơn thánh. Một cuộc đời luôn có " Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" hiện diện trong mỗi hoàn cảnh. Một cuộc sống mà Chúa sẽ hướng dẫn mỗi người phải hành động như thế nào cho phù hợp với ý Chúa. Đó là một cách sống luôn tôn trọng sự thật, luôn quý trọng công bình, luôn tôn trọng quyền lợi của cá nhân và tập thể, luôn biết xây đắp bình an và gieo rắc công bình cho mọi người và mọi nơi đang cần sự công bình.
Lạy Mẹ Maria! Xin Mẹ giúp chúng con luôn tin tưởng rằng, Đức Giêsu Kitô Con Mẹ, là Đấng luôn đem lại lý tưởng cao đẹp cho con người, luôn bù đắp cho những khát vọng sâu xa nhất trong cõi lòng con người. Xin Mẹ hướng dẫn đời sống chúng con, luôn là cuộc lên đường để tìm Chúa không ngừng. Nhờ vậy đời sống chúng con sẽ được biến đổi thật sự, khi đã gặp được Đức Kitô Đấng muôn dân mong đợi, như các nhà chiêm tinh trong bài Tin mừng hôm nay. Amen.
43. Bày Mưu, Hoán Kế - Lm. Vũ Đình Tường
Bày mưu, hoán kế là việc làm của đầu óc. Sống yêu thương và tha thứ là đường lối của con tim. Đôi khi ta có chung kế hoạch nhưng đạt mục đích của kế hoạch chung lại khác nhau, tùy người. Bày mưu hoán kế đến từ trong đầu; ước mong đến từ con tim. Có thể nói Thiên Chúa tạo dựng bộ óc giúp ta nuôi thân nơi trần gian và ban cho con tim để con tim giúp tìm cách vào nước trường sinh. Vì thế đầu óc thường tìm hết kế này, cách khác tìm lợi nhuận cho riêng mình; trong khi con tim giúp chia sẻ tình thương. Vì hai đường hướng khác biệt mà có chiến tranh nội tâm. Một đàng là cách thức của khối óc; đàng khác là đường lối của con tim. Khi hai con đường đi ngược chiều, nội chiến xảy ra. Hai con đường đi cùng chiều, tâm hồn bình an. Khi đường lối đen tối khối óc thắng đường lối trong sáng của con tim thì khối óc biến con tim yêu thương thành con tim sỏi đá; Khi đường lối yêu thương con tim thắng đường lối khối óc thì khối óc đi theo đường chân lí, ánh sáng Phúc Âm. Khi không bên nào nhường bên nào thì đường ai nấy đi; óc theo đường của óc và ctim quyết theo đường riêng mình. Lúc đó chiến tranh lạnh xảy ra, đêm đến nghe tiếng con tim khuyên bảo, kêu gọi trở về con đường yêu thương. Khi khối óc từ chối, lâu ngày con tim mệt mỏi, tạm yên, nhỏ nhẹ hơn. Nó tạm đình chiến trong một thời gian, rồi sẽ trở lại. Đường lối của con tim là thế, kiên trì cho đến khi khối óc phải chào thua, lúc đó nó mới chính thức yên nghỉ. Tiếng nói nhỏ nhẹ trong tâm hồn đó được nhiều người biết đến là tiếng nói của lương tâm.
Đại diện cho đường lối đen tối và con tim sỏi đá là vua Hêrôdê bởi mục đích tối hậu của vua là tìm lợi ích cho riêng vua mà không loại trừ bất cứ âm mưu tàn ác nào, miễm âm mưu đó có lợi cho cá nhân vua. Chính vì thế mà vua không quan tâm đến tiếng than khóc nức nở của những người mẹ có con bị vua ra lệnh giết chết. Cái ngai vàng của vua quan trọng hơn sinh linh trẻ thơ. Nhà vua sống trong lo sợ, sợ mất ngai vàng, sợ mất chức tước, quyền hành nên vua ra lệnh giết tất cả các trẻ trai hy vọng giệt được ấu Chúa. Vua sợ một cách vô lí nhưng vì quá sợ nên vua không quan tâm đế dân. Vua để cho nỗi sợ hoành hành, quyết định. Vua dối trá với các nhà đạo sĩ đến hỏi vua làm sao để tìm ấu Chúa mới sinh. Miệng vua nói sẽ đi thờ ấu Chúa, thực tế lòng vua lo sợ và nghĩ kế tìm cách giết ấu Chúa.
Đại diện cho đường lối trong sáng và con tim yêu thương là ba nhà đạo sĩ bởi mục đích tối hậu của họ là đi tìm ấu Chúa để thờ lậy. Họ không ngại từ bỏ ngai vàng, ra đi, dấn thân tìm ấu Chúa. Dù ra đi tìm kiếm nhưng tâm hồn họ thanh thản, thân xác có mệt mỏi vì đường xa, xứ lạ nhưng an tâm, ấm lòng, đầy hy vọng. Họ mang theo lễ vật dâng tiến ấu Chúa nhưng họ nhận nhiều hơn là cho đi. Nhờ sao lạ dẫn đường họ đã tìm gặp ấu Chúa, thờ lậy xong họ được báo trong giấc mộng hãy theo đường khác mà về. Con đường đó lại được sao lạ đi trước dẫn đường. Chúng ta không biết họ đến từ nước nào, vương quốc họ ở đâu. Họ đến từ nơi xa vì nhận được dấu lạ, sao sáng dẫn đường. Họ đại diện cho tâm hồn trong sáng, tìm kiếm ánh sáng chân lí và tìm được. Hêrôđê cũng tìm kiếm nhưng không gặp ấu Chúa bởi lòng ông chai đá, tâm hồn thiếu ngay thẳng và đầu óc đen tối vì thế không thể nhìn thấy ánh sáng. Vua sống trong thất vọng, triền miên lo sợ. Thiên Chúa bằng cách riêng của Ngài, nhẹ nhàng phá tan mọi âm mưu đen tối mong phá kế hoạch của Ngài. Họ thất bại nhưng mắt vẫn không nhận ra vì thế họ tiếp tục sống trong bóng tối.
44. Ánh sao chỉ đường
Ngày xưa, lúc chưa có la bàn, các thủy thủ hay ngắm sao trời để định hướng đi. Vào thời CG, người ta cũng hay dựa vào việc chuyển động của các ngôi sao để dự đoán về chuyện đất trời liên quan đến sự sống của nhân loại. Các nhà chiêm tinh mà chúng ta quen gọi là Ba Vua hôm nay cũng dựa vào điềm sao để tìm đến với Hài Nhi Giêsu.
Thực sự ra, ngôi sao chỉ đường cho Ba Vua đến yết kiến Ấu Chúa Giêsu ra sao? Một nhà khoa học nói rằng: vào khoảng năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng lạ thường xảy ra trên bầu trời. Đó là hai ngôi sao Jupiter và Saturn năm đó sáp lại gần nhau tạo ra sự cộng hưởng ánh sáng, khiến cho vầng trời đông có một luồng sáng khác thường và kéo dài suốt mấy tháng. Chúng ta không sống vào thời điểm đó nên không biết có phải đó là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi hay không. Nhưng có một điều chắc chắn là Chúa Giêsu đã đến trần gian. Ngài là ánh sáng Sự Thật chiếu soi cho nhân loại đang sống trong u tối. Ngài đến để cứu nhân loại khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự chết.
Và hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh, tỏ mình ra cho Ba Vua đại diện cho muôn dân đến thờ lạy và dâng lễ vật quý giá lên Hài nhi Giêsu. Tuy nhiên, có một điều đáng tiếc là vua Hêrôđê đang coi sóc miền Giuđêa, trong đó có làng Bêlem lẽ ra phải thông báo cho dân chúng về việc Đấng Cứu Thế ra đời để mọi người cùng tháp tùng với Ba Vua đến chiêm bái Chúa. Đàng này, vua âm thầm giữ lấy tin tức này một mình và hơn nữa lại nuôi ý đồ mưu sát Đấng cứu thế.
So sánh việc làm của Hêrôđê và Ba vua cho thấy loài người có hai thái độ khác nhau trước ơn cứu độ. Nhiều người vui mừng vì Chúa đã đến dạy cho mình điều hay lẽ phải để con người sống thanh cao, thánh thiện, xứng đáng trở nên con cái Chúa. Một số khá đông khác lại muốn khước từ chân lý, muốn sống trong bóng tối của sự giả trá, mê lầm. Họ muốn tạo lập một thế giới riêng, và bỏ qua tiếng nói của lương tâm, họ chỉ sống theo sở thích, chiều theo những dục vọng đam mê của bản năng.
Ánh sáng thật đã đến trần gian nhưng người đời chuộng tối tăm hơn sự sáng. Trong thời đại hôm nay, người ta cổ võ cho nền văn minh của bóng tối và họ cho đó là tự do: tự do làm điều xấu mà không ai dèm pha, rầy rà, người ta nhân danh quyền lợi của cha mẹ để tiêu diệt con cái mình từ trong trứng nước, sẵn sàng giết con ruột của mình lúc chưa kịp chào đời; người ta nhân danh tự do để quan hệ ngoài giá thú, trước hôn nhân... Và để lương tâm không cắn rứt khi làm những việc xấu đó họ đã lạm dụng các phương tiện thông tin đại chúng nhất là phim ảnh để làm lương tâm giảm nhạy bén về những tội này và tất cả mọi người cùng lầm lạc như họ. Có những người đang cố ý gieo rắc và cổ võ điều xấu, trong khi đa số loài người thì thờ ơ và không kiên quyết chống lại sự ác nên cũng gián tiếp làm cho sự ác lan tràn cách mau chóng.
Hêrôđê ngày xưa và thế gian ngày nay có xu hướng dập tắt ánh sáng chân lý để mọi người tiếp tục sống trong mù tối và đi vào con đường của sự chết. Đứng trước nền văn minh của bóng tối đó, Kitô hữu chúng ta hãy là những ngôi sao dẫn đường cho những ai thành tâm tìm chân lý được nhận biết Chúa và sống theo lời người để được ơn cứu độ. Mỗi người chúng ta hãy là những ánh sao ở tại nơi mình sống. Mỗi người hãy tỏ lòng kính mến Chúa và yêu thương mọi người, từ thân nhân trong gia đình mình đến những người xung quanh đang cần chúng ta giúp đỡ. Nếu chúng ta biết chân thành yêu thương, hiền hòa, bác ái, thì chúng ta thật sự là những ánh sao dẫn đưa mọi người tìm đến với Chúa để được ơn cứu độ.
45. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lễ Chúa Hiển Linh là cao điểm của mùa Giáng Sinh. Ta đã có dịp suy niệm Lời Chúa về ý nghĩa của biến cố Ngôi Hai làm người sinh xuống và ở giữa nhân loại. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế giới luôn luôn là một dấu chỉ, một ngôn ngữ để Thiên Chúa nói với loài người. Vậy qua biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa muốn tỏ mình ra, muốn “lộ diện” với nhân loại, để nhân loại thấy được Thiên Chúa vô hình và kế hoạch ân sủng của Người (xem Ga 1,18).
1. Vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên nhân loại (bài đọc Cựu Ước – Is 60,1-6)
Qua cái nhìn của ngôn sứ Isaia, Giêrusalem không còn là thủ đô của dân tộc nhỏ bé Ít-ra-en nữa, nhưng nó đã trở nên “đô thành của Thiên Chúa” và trung tâm cứu độ của toàn thể thế giới rồi. Từ bao lâu nay, thế giới nằm dưới ách thống trị của bóng tối và mây mù tội lỗi. Tình trạng của Giêrusalem cũng không hơn gì thế giới, vì cũng ở trong tối tăm và chẳng dân tộc nào nhận ra nó. Nhưng khi Giêrusalem được mặt trời công chính ngự đến thì chỗ đứng của nó hoàn toàn thay đổi. Giêrusalem đã được chọn làm nơi “vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa”. Vì thế ngôn sứ kêu gọi Giêrusalem hãy đứng cao lên để toàn thế giới nhận được ánh bình minh của Đức Chúa. Giêrusalem sẽ chứng kiến tầm quan trọng của nó vì nó trở nên nguồn sáng lôi cuốn và hướng dẫn toàn nhân loại đến một vương quốc mới.
Ngôn sứ Isaia sử dụng hình ảnh giàu có phong phú của một quốc gia trần thế để diễn tả một thực tại thiêng liêng là vương quốc ân sủng của Thiên Chúa. Theo quan niệm Do-thái, một quốc gia hùng mạnh là quốc gia đông dân cư và giàu sang, với của cải vàng bạc từ các nước thiên hạ đổ về qua đường biển, hoặc qua đường bộ và chở đầy trên lưng đàn lạc đà không sao đếm xuể. Hình ảnh ấy tượng trưng cho sự sung mãn ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại khi Con Một xuống thế làm người tại Giêrusalem mới. Muôn dân nước “đều tập hợp, kéo đến” để nhìn nhận “vinh quang của Thiên Chúa”.
Nhưng vinh quang của Thiên Chúa phải chăng là quyền năng cao cả của Người? Đúng vậy. Tuy nhiên hơn thế nữa, quyền năng cao cả ấy được biểu hiện qua việc làm yêu thương của Thiên Chúa khi Người ban cho ta Con Một. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (l Ga 4,9). Thiên Chúa có cả một kế hoạch để chiếu tỏa vinh quang của Người trên Giêrusalem mới, tức là kế hoạch ân sủng được thực hiện một cách lạ lùng qua Đức Giêsu Kitô và thánh Phaolô Tông đồ gọi đó là Mầu nhiệm Đức Kitô.
2. Mầu nhiệm Đức Kitô được mặc khải cho cả Ít-ra-en lẫn dân ngoại (bài đọc Tân Ước – Ep 3,2-3a.5-6)
Thần học gia Phaolô cho ta một cái nhìn thật rõ ràng về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Kế hoạch cứu độ, những từ này nói lên công việc Thiên Chúa làm và sự rỗi của ta là đối tượng của công việc ấy. Những từ này nhấn mạnh về phía Thiên Chúa chủ động. Nhưng đối với thánh Phaolô, việc cứu rỗi không phải là việc làm của mình Thiên Chúa, mà còn phải có sự đáp trả của ta. Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ, nhưng ta là kẻ được lãnh nhận cần phải cộng tác tích cực, sử dụng ân sủng đó để sống như con cái Thiên Chúa hầu đạt tới mức sung mãn trong Đức Kitô. Do đó, thánh Phaolô gọi kế hoạch đó là “kế hoạch ân sủng”, vì Đấng ban ân sủng cũng như những kẻ lãnh nhận ân sủng sẽ cùng cộng tác với nhau mà đến với nhau và làm cho quan hệ đôi bên được vững bền muôn đời. Ta không thể tưởng tượng nổi tại sao Thiên Chúa lại chọn cách thế như vậy để đến với nhân loại và cứu độ con người. Quả thực là một mầu nhiệm! Trong tiếng La-tinh, mầu nhiệm cứu độ thường được gọi là “kế hoạch cứu độ” (economia salutis). Mầu nhiệm này được Thiên Chúa tỏ ra và thực hiện qua Đức Kitô nên thánh Phaolô gọi là “Mầu nhiệm Đức Kitô”.
Thánh Phaolô cho ta một định nghĩa đầy đủ về mầu nhiệm này. “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Vậy Thiên Chúa muốn tỏ cho ta biết những gì qua “Mầu nhiệm Đức Kitô”? Có ba điểm cốt yếu trong chân lý mầu nhiệm này. Trước hết Thiên Chúa muốn mọi người không trừ ai, Do-thái cũng như dân ngoại, đều được cùng hưởng phần phúc gia nghiệp của Người, tức là lời hứa được cứu độ. Mầu nhiệm Đức Kitô khẳng định tính cách phổ cập của ơn cứu độ. Dù thuộc bất cứ dân tộc nào, nền văn hóa nào, hoặc giai cấp nào trong xã hội mọi người đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì đây là kế hoạch ân sủng dành cho tất cả nhân loại. Nhờ chia sẻ cùng một bản thể nhân loại với Đức Kitô nên ta được mời gọi lãnh ân sủng Thiên Chúa ban cho ta trong Đức Kitô.
Điểm thứ hai mầu nhiệm Đức Kitô cho ta thấy vai trò quan trọng của Đấng thực hiện kế hoạch ân sủng là Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa không đặt kho tàng ân sủng cứu độ ấy ở trên trời hay một địa điểm đặc biệt nào đó dưới thế gian, vì như thế làm sao con người có thể tìm kiếm được. Nhưng Người đặt nguồn ơn cứu độ ấy “trong Đức Kitô Giêsu”, Đấng được Chúa Cha sai đến “làm người để chuộc tội cho thiên hạ” (Rm 8,3). Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm, cho nên khi Đức Kitô thực hiện kế hoạch ân sủng cứu độ qua bản thể nhân loại và bản thể Thiên Chúa của Người, thì tất cả những lời giảng, việc làm, cái chết và sự phục sinh của Người đều có giá trị của Thiên Chúa và có khả năng cứu độ mọi người. Người chịu cuộc Thương Khó, chết và sống lại, để được Thiên Chúa tôn vinh và đặt làm anh cả của một đoàn em đông đúc, tức là nhân loại mới (Rm 8,29).
Điểm thứ ba nói lên phương thức giúp mọi người nhận biết và tin vào Đấng Cứu Độ. Đó là “nhờ Tin Mừng”. Tin Mừng cứu độ này “những người thuộc các thế hệ trước”, tức là các vị ngôn sứ thời Cựu Ước, không có diễm phúc biết tới. Chỉ có các thánh Tông đồ mới là những người được biết và được Thiên Chúa trao phó cho nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng ấy. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phaolô nói về sứ vụ rao giảng Tin Mừng như sau: “Thế nhưng làm sao người ta kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?... Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng; chính ngôn sứ Isaia đã nói: Lạy Đức Chúa, ai đã tin khi nghe chúng con giảng? Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,14-17).
3. “Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Người” (bài Tin Mừng – Mt 2,1-12)
“Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng”, thánh Phaolô đã phải cay đắng nói lên sự thật phũ phàng ấy. Thánh Gio-an Tông đồ cũng đồng quan điểm khi ngài khẳng định ngay trong lời tựa sách Tin Mừng: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Câu truyện các nhà chiêm tinh phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu trong khi vua Hê-rô-đê bối rối và dân thành Giêrusalem xôn xao đã chứng thực điều các thánh Tông đồ khẳng định là một sự thật. Chúa Giêsu Kitô được sai đến để cứu độ mọi người và mọi người được mời gọi đón nhận Người, đó là một tin mừng. Nhưng người ta từ chối không tin nhận Người là Đấng Cứu Độ. Như thế Tin Mừng đã trở thành tin buồn đối với họ rồi.
Rõ ràng có hai lớp người khác nhau theo câu truyện trong bài Tin Mừng. Các nhà chiêm tinh đại diện cho những người tin vào Đức Kitô, còn vua Hê-rô-đê và dân Giêrusalem thay mặt cho những kẻ chối bỏ Đức Kitô. Gặp được Đức Kitô, các nhà chiêm tinh đã thay đổi cuộc đời mình. Hình ảnh các ông “đi lối khác mà về xứ mình” thật có ý nghĩa. “Lối khác” đây chính là con đường Đức Kitô dạy trong Tin Mừng của Người. Còn “xứ mình” không phải là phương Đông nữa, mà là quê hương đích thực của họ, tức nhà Cha trên trời.
Bài Tin Mừng là một kết luận của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặt ta trong tư thế phải trả lời dứt khoát: tin Đức Kitô và đón nhận ân sủng cứu độ, hay là chối bỏ Người và hư mất đời đời.
4. Sống Lời Chúa
Thiên Chúa yêu thương ta và muốn tỏ cho ta biết Người yêu thương ta đến ngần nào. Qua biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết Người là ai và muốn làm gì để ta được làm con cái Người và được cứu độ. Điều đáng mừng nhất, đó là ơn cứu độ đã được ban cho mọi người không trừ ai. Dĩ nhiên ta không phải là người Do-thái, nhưng cũng không bị loại bỏ, trái lại được quyền đến chia sẻ cùng một gia nghiệp của Thiên Chúa. Nhưng điều quan trọng là ta có thực lòng và hăng hái đón nhận Đức Kitô như các nhà chiêm tinh phương Đông hay không.
Suy nghĩ: Các nhà chiêm tinh “đã đi lối khác mà về xứ mình”. Các vị ấy đã từ bỏ lối sống cũ để đi theo lối sống của Đức Kitô. Vậy lối sống cũ của tôi là lối sống nào? Ngôi sao tức là Ánh Sáng Tin Mừng đã soi lối cho tôi bước đi. Vậy tôi có đi theo Ánh sao ấy không hay vẫn “đường xưa lối cũ” từ bao năm nay?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ Chúa Hiển Linh).
46. Tỏa sáng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Lễ Hiển Linh theo nguồn gốc văn tự Epiphaneia (Epiphany: manifestation or striking appearance). Tiếng Hy-lạp cổ dùng chữ Theophaneia (Theophany meaning ‘vision of God’). Theo truyền thống, Lễ này được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng. Dịp Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự hiển linh của Con Chúa cho các Dân Ngoại. Trong khi các tín hữu Đông Phương tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, được xem là sự hiển linh của Con Chúa cho toàn thế giới. Từ năm 1970, Giáo Hội Công Giáo Rôma, nghi thức Latinh đã cử hành Lễ Hiển Linh vào ngày 6 tháng 1 và là Lễ buộc. Các quốc gia khác có thể cử hành vào Chúa Nhật, sau ngày 1 tháng 1. Lễ Hiển Linh còn được gọi là Lễ Ba Vua.
Từ 700 năm trước Công Nguyên, tiên tri Isaia đã loan tin vui về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế: Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi (Is 60, 1). Ánh sáng sẽ bừng lên trong đêm tối và con dân sẽ đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế là ánh sáng đến trong thế gian để xua trừ bóng tối của tội lỗi và gian tà. Mọi dân sẽ hướng về nguồn ánh sáng để dõi tìm ơn cứu độ: Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước (Is 60. 3). Theo truyền thuyết, những nhà chiêm tinh, nhà khôn ngoan, còn gọi là các đạo sĩ hay ba vua, đã chiêm ngắm bầu trời và nhận ra vì sao lạ. Họ đã dõi theo ánh sáng của vì sao lạ để tìm đến bái thờ Đấng đã được sai đến.
Tiên tri Isaia đã tiên báo về việc các bậc quân vương tiến về để thờ lạy Chúa Hài Nhi. Các nhà Đạo Sĩ Phương Đông cùng đến dâng Chúa của lễ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Isaia đã có thị kiến về đoàn người từ các phương xa tìm đến bái thờ: Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa (Is 60, 6). Các biến cố được ghi lại như một câu truyện xảy ra gọn gàng trong một thời gian ngắn ngủi. Thật ra lịch sử ơn cứu độ được mạc khải một cách tiệm tiến qua từng biến cố trong thời gian dài. Trong đêm hồng phúc, trước tiên Chúa tỏ hiện cho những mục đồng đơn sơ và nghèo nàn, tiếp đến là Chúa bày tỏ mình cho những người đại diện bên ngoại giáo đến từ xa và sau cùng Chúa đã tỏ mình cho toàn thể nhân loại trên thế giới.
Dựa vào Kinh Thánh và lịch sử của ơn cứu độ, chúng ta biết có nhiều tâm hồn khao khát đi tìm kiếm và mong chờ Chúa. Khi thời gian chuẩn bị đã mãn, dấu chỉ đã tỏ hiện, lòng con người thôi thúc khát mong và mùa hồng ân đã cận kề, các Đạo Sĩ tìm hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người."(Mt 2, 2). Các nhà Đạo Sĩ đã miệt mài kiếm tìm qua dấu chỉ mà không quản ngại gian khó. Các ngài đã được Thiên Chúa đáp trả như lòng mong ước. Chúa Giêsu đã dậy: Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7, 8). Hồng ân Chúa bao la tuyệt vời, đoàn người dân ngoại đã được chứng kiến tận mắt ơn Cứu Độ đã tỏa sáng: Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến (Mt 2, 11).
Truyện kể có một bé gái cùng với mẹ đi viếng hang đá. Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ: Tại sao họ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏ? Một tấm lòng và một sự quan tâm thực sự, cô bé cảm nhận được nhu cầu của cuộc sống thật. Sự kiện Chúa Giêsu sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy được tâm tư và sự cảm thông của lòng người. Chúa đến trong nghèo nàn để mời gọi chúng ta cùng chia sẻ tâm tình với những người cùng khổ nghèo đói. Nhu cầu thực tế của cuộc sống là miếng cơm manh áo và nơi chỗ nương thân. Chúa Hài Nhi Giêsu đã chạm đến cái cùng cực của thân phận con người. Từ đó, Chúa mời gọi chúng ta: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."(Mt 25, 40).
Hình ảnh Ba Vua hay các Đạo Sĩ bái quỳ dâng tiến lễ vật và thờ lạy Chúa Hài Nhi bày tỏ lòng tin kính và bái phục. Họ không nghĩ về thân phận hay địa vị của mình nhưng thần phục trước Đấng được sai đến. Vất vả đường xa lặn lộn kiếm tìm nguồn sự sáng, các nhà đạo sĩ đã thỏa tâm. Sau khi gặp được Chúa Hài Nhi, họ đã theo đường khác để trở về quê hương xứ sở. Chúng ta chắc rằng họ là những người khôn ngoan biết ngước nhìn lên để tìm hướng đi. Mỗi người chúng ta cũng có những ước vọng và khao khát những điều cao thượng. Sự cao siêu phải từ trên dọi chiếu. Chúng ta không thể cúi mặt chỉ đi tìm những của cải trần gian mau qua chóng hết. Cuộc đời của con người không chỉ tìm kiếm của ăn, áo mặc, danh vọng, địa vị và tìm thỏa mãn bản năng, nhưng có sứ mệnh và mục đích cao cả hơn bội phần. Chúng ta cần phải hướng tới, nhìn lên và khát mong niềm vui bất diệt của cuộc sống thật mà Thiên Chúa đã an bài: Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em (Eph 3, 2).
Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho Dân ngoại. Chúng ta thuộc về dòng dõi những người dân ngoại, nhưng lại được thừa hưởng ân sủng ơn cứu độ. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô để cùng chia phần sự sống. Thánh Phaolô đã diễn tả mầu nhiệm cao siêu được truyền ban cho các thế hệ. Nay Chúa cũng đang tỏ mình ra cho toàn thể nhân loại qua đời sống của Giáo Hội: Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người (Eph 3, 5). Tuy không phải là dân Do-thái, như những kẻ được chọn, nhưng chúng ta hãnh diện tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô qua ân sủng của Ngài. Chúng ta trở thành dưỡng tử và được dự phần trong tiệc cưới Nước Trời.
Cùng đến máng cỏ Bêlem, ngắm nhìn Chúa Hài Nhi, các mục đồng và các đạo sĩ tiến dâng lễ vật, hôm nay chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa Hài Nhi? Kể câu truyện của thánh Giêrôm. Chúa Giêsu hỏi: Giêrôm, con lấy gì mừng Ta nhân ngày Ta sinh ra? Thưa, con xin dâng lòng con. Được, nhưng còn gì nữa? Con xin dâng mọi kinh nguyện và tất cả tâm tình của con. Còn gì nữa? Con xin dâng tất cả những gì con có và tất cả con đây. Ta muốn nữa? Thưa Chúa Hài Nhi, con chẳng còn chi cả? Chúa muốn con dâng gì nữa đây? Hãy cho Ta các tội của con. Ủa, để làm gì? Hãy cho Ta các tội của con, để Ta có thể tha thứ cho con tất cả. Ôi Chúa Giêsu, Chúa làm con phát khóc lên được.
Lạy Chúa, con có nhiều quà lắm nhưng không biết dâng Chúa món gì. Món quà mà con thích thì Chúa lại không ưa. Những món qùa Chúa mong, con lại muốn giữ lại cho mình. Xin cho con biết rộng mở tâm hồn để biết cho đi mà không cần phải so đo tính toán. Con xin dâng Chúa khả năng, thời giờ, của cải và cả những điều con ưa thích. Con dâng cả tội lỗi yếu hèn và sự bất toàn của con, xin Chúa đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung.
47. Hướng lên – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Với niềm hy vọng phấn khởi, Tiên tri Isaia đã hân hoan loan báo với đoàn dân tin vui: Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi (Is 60, 1). Tuy dù còn cả hơn nửa thiên niên kỷ nữa, Đấng Cứu Thế mới giáng trần, Isaia đã khơi dậy niềm hy vọng của ơn cứu độ. Thiên Chúa kiên trì dẫn dắt lịch sử của dân tộc Do-thái qua từng giai đoạn. Mọi biến cố xảy ra trong cuộc lữ hành đều in ghi dấu vết sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dùng hơn ba ngàn năm để chuẩn bị ban cho Dân Thánh một sự kiện trọng đại. Con Thiên Chúa sẽ giáng trần làm người. Đây là một hồng ân tuyệt vời cho cả dòng dõi nhân loại. Ngài sẽ đến giải thoát dân khỏi vòng nô lệ tội lỗi và dẫn lối vào ánh sáng chan hòa: Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi (Is 60, 3).
Lữ hành cuộc sống, vinh quang hay thất bại (ups and downs) là lẽ thường. Người ta thường nói: Năm chìm, bảy nổi, chín cái lênh đênh. Dòng đời con người có lên, có xuống và có thăng trầm, thành bại. Nhưng cuộc đời hầu như ai cũng muốn vươn lên. Mỗi ngày sống là một mời gọi tiến tới. Bước tới trên con đường trọn lành sẽ không bao giờ tròn đủ. Cũng như khi chúng ta đã có, lại muốn có thêm trong tất cả mọi lãnh vực. Trong cuộc lữ hành trần thế, con người phát triển qua từng giai đoạn từ thơ ấu tới trưởng thành, từ ngây thơ tới sự hiểu biết, từ vô tri tới tri thức và từ yếu đuối tới sự mạnh mẽ. Lớn lên từ đơn côi tới tình yêu, từ sự an vui hoan lạc tới lòng tri ân cảm mến, từ đau thương tới lòng thương xót và từ sự sợ hãi tới niềm tin.
Hôm nay chúng ta cùng suy tư về sự hướng thiện qua bảy cửa ngõ (Seven-ups): Tỉnh dậy, tỉnh thức và thức dậy (Wake up), mỗi ngày khi mở mắt thức dậy, chúng ta đón chào một ngày hoàn toàn mới với nhiều ân lộc. Thiên Chúa đã an bài mọi sự trật tự lạ lùng trong vũ trụ để có ánh nắng mặt trời chiếu dọi sưởi ấm, có mưa tuôn hồng ân tưới gội đất đai mầu mỡ phì nhiêu, có tuyết rơi luyện lọc khí trong lành và có những làn gió thoảng đẩy xa bụi trần đời. Mỗi giây phút chúng ta sống là những phút giây hồng ân. Chúng ta không thể kéo dài và cũng không thể cắt bớt thời gian. Mỗi ngày khi thức dậy, chúng ta hãy chọn thái độ sống và quyết định cho mình một ngày sống vui vì: Hôm nay là ngày Chúa đã làm ra, chúng ta hãy vui mừng hoan hỉ (Tv 118, 24).
Lên đồ, mặc quần áo hay trang sức (Dress up), mỗi buổi sáng, chúng ta sống thêm một ngày với những sự cố hoàn toàn mới. Đứng trước gương soi, quần áo ăn mặc chỉnh tề, khuôn mặt rạng rỡ, đầu tóc gọn gàng và trang điểm dễ coi và mỉm nụ cười, chúng ta hài lòng với khuôn mặt dễ thương của mình. Tướng mạo sẵn sàng để đối diện với mọi người và với đời. Trước khi rời gương soi, chúng ta cũng nên để tâm nhìn lại khuôn mặt thật của mình, hồn của chúng ta có trong sáng, tâm có chân thành, ý hướng có ngay lành và có quyết tâm hành thiện không? Bắt đầu một ngày sống, hãy mặc cho mình một bộ hành trang tương xứng với thân, tâm hài hòa.
Nhìn lên, ngước mắt lên, ngẩng đầu lên (Look up), muốn thấy bầu trời và các tinh tú, chúng ta phải ngước nhìn lên. Các nhà Đạo Sĩ đã nhìn lên để đi tìm kiếm dấu chỉ của Đấng Thiên Sai. Dấu chỉ là ngôi sao lạ xuất hiện: Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng (Mt 2, 10). Thượng đế ban cho con người có đôi mắt để quan sát và nhìn xem. Đôi mắt có thể nhìn xuống để đi tìm của cải vật chất và đồ ăn thức uống. Cặp mắt cũng có thể nhìn sang ngang để nối tình thân hữu và tìm kiếm sự liên đới xã hội. Hơn thế nữa, đôi mắt có thể ngước nhìn lên bầu trời bao la để nhận biết Đấng Tạo Thành vũ trụ và nhận ra những dấu chỉ thời đại qua sự vận chuyển của tinh tú. Các nhà Đạo Sĩ đã biết ngước nhìn lên trời cao để tìm kiếm những dấu chỉ hướng dẫn. Các ngài đã được đáp lại theo ý sở nguyện. Họ đã tìm gặp được Hài Nhi Cứu Thế nơi làng Belem nhỏ bé: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta (Mt 2, 6).
Đứng dậy hay đứng lên (Stand up), là một thái độ sẵn sàng để bước tới. Dấn thân như các vị Đạo Sĩ, bỏ nhà cửa quê hương và gia đình tìm theo tiếng thúc dục nội tâm. Các ngài không ngồi đó để chờ đợi, nhưng đã tiến bước trong sự tìm kiếm. Các Đạo Sĩ không giống như vua Herôđê ngồi ở nhà chờ đợi được báo tin. Các ngài đã tìm tòi hỏi han: Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người" (Mt 2, 2). Với tâm hồn đơn sơ và chân thành, các Đạo Sĩ không ngần ngại vào nơi cung đình để hỏi han tìm đường. Họ muốn tìm đến Vua thật. Họ đã chuẩn bị qùa quí và lễ dâng để triều bái Vua người Do-thái: Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở (Mt 2, 9).
Hướng tới hay vươn tới (Reach up), con người luôn mong tìm đạt tới những kỷ lục hơn nữa trong mọi ngành nghề. Tất cả mọi loài động vật đều sống theo bản năng đã được phú bẩm. Con ong, con kiến, con chim từ đời này qua đời khác vẫn một mẫu sống như nhau, rất ít thay đổi. Lịch sử cuộc sống con người phát triển không ngừng. Qua mọi thời, khả năng của con người được in ghi và lưu truyền. Từ cuộc sống đơn sơ đi đến xã hội văn minh hiện đại. Khả năng của con người vươn tới theo thời gian và không gian. Trong tất cả mọi sinh hoạt cả tâm linh lẫn thể chất đều có sự đổi mới và thăng tiến mỗi ngày. Đời sống xã hội con người có mục tiêu và cùng đích, không chỉ đời này mà cả đời sau. Con người không chỉ bao gồm xác thân hay hư nát nhưng có một linh hồn bất tử hướng tới cuộc sống viên mãn.
Nâng lên, ngẩng lên hay hướng lên (Lift up), nâng tâm hồn lên tới Chúa qua lời khấn nguyện. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Philiphê khuyên rầng: Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bầy trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện (Phil 4,6). Cầu nguyện là hướng lòng lên cùng Chúa để ngợi khen, cảm tạ và xin ơn tha thứ. Sự kết hợp với Chúa trong tâm trí và linh hồn đòi hỏi sự tập trung nối kết một cách mật thiết. Chúng ta không tôn thờ ngẫu tượng bằng gỗ đá vô hồn mà là Thiên Chúa, chủ thể hiện hữu sống động. Sự cầu nguyện của chúng ta phải luôn tập trung tâm ý và gắn bó với Chúa đừng để bị chia trí và xao lãng lo ra. Tâm tình cầu nguyện kết nối liên tục đừng để bị cắt đoạn, chia lìa hay rớt mạng.
Đóng, khép lại và im miệng (Shut up), Thiên Chúa tạo dựng con người có hai lỗ tai và một cái miệng. Hai tai để nghe cho rõ và một cái miệng để phát biểu. Hãy học lắng nghe và nói những điều chân thật. Trong bài hát 'Cao Cung Lên' của nhạc sĩ Hoài Đức và Nguyễn Khắc Xuyên, tiểu khúc một, có câu: "Thôi hỡi trần gian, im tiếng đi mà cung kính..." Chúng ta cúi mình thờ lậy và suy gẫm mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể. Không thể diễn tả bằng lời mà hãy nhìn xem và cung kính như các nhà Đạo Sĩ: Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược (Mt 2, 11). Các nhà Đạo Sĩ không đặt câu hỏi hay nghi ngờ vì cảnh vẻ qúa nghèo nàn của gia đình thánh. Khi nhận biết dấu chỉ của Đấng Thiên sai, các ông đã cúi bái, phục lạy, tôn thờ và hiến dâng lễ vật.
Các nhà Đạo Sĩ không phải là người Do-thái. Họ đại diện cho các dân ngoại đến tôn nhận Con Thiên Chúa giáng trần. Ơn cứu độ phổ quát được ban phát cho mọi dân tộc. Thánh Phaolô trình bày: Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô (Eph 3, 6). Qua Bí Tích Rửa Tội và niềm tin, chúng ta cùng được thông phần ơn cứu rỗi của Đức Giêsu Kitô là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Cùng với các nhà Đạo Sĩ, chúng ta hãy đến thờ lạy, cảm tạ và tôn vinh danh thánh Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã thương chọn gọi chúng con làm con dân của Chúa. Xin cho chúng con tiếp tục truyền rao chân lý phúc âm để nhiều người nhận biết Danh Thánh Chúa. Xin ánh sáng của Chúa tỏa chiếu trong tâm hồn chúng con và trên khắp cùng bờ cõi trái đất.
48. Ánh sáng cho mọi dân tộc – Flor McCarthy.
Bài giảng 1: Họ mở các kho tàng ra
Một trong những dụ ngôn của Aesop như sau: Một bé gái đang ngồi bên cạnh bức tường, thì đột nhiên, có một con cóc ló ra từ một cái hang. Cô bé này liền trải chiếc khăn quàng lụa của mình ra trước mặt con cóc, đây là loại vải mà con cóc rất thích được bước lên đó. Ngay khi vừa nhìn thấy chiếc khăn quàng, con cóc liền quay trở vào hang, và trở ra ngay, mang theo một vương miện nhỏ bằng vàng đính trên chiếc khăn quàng, rồi lại quay trở về hang.
Ngay tức khắc, cô bé liền cầm lấy cái vương miện, và bỏ vào túi. Ít lâu sau, con cóc lại trở ra, nhưng khi không nhìn thấy vương miện trên chiếc khăn quàng, thì con cóc liền bò lên bức tường, nó cứ đập cái đầu nhỏ xíu của nó vào bức tường một cách đầy đau khổ, cho đến cuối cùng nó bị vỡ đầu và chết. Nếu cô bé cứ để cái vương miện ở nguyên tại chỗ, thì chắc chắn con cóc sẽ còn mang thêm những kho tàng của nó ra khỏi hang nữa.
Mục đích của câu chuyện ngắn này cho thấy rằng mỗi người đều có một kho tàng để chia sẻ. Vấn đề là: Làm thế nào để chia sẻ kho tàng đó ra. Điều này đòi hỏi nhiều sự kiên nhẫn. Bí quyết hệ tại ở việc chia sẻ một cách tự nguyện. Không có lý do nào để bắt buộc mọi người phải hy sinh. Nếu bạn lấy đi những thứ của người khác, thì chúng bị nghèo nàn đi. Nhưng nếu bạn trao tặng chúng, thì chúng lại được phong phú lên. Con người về căn bản đều tốt, nhưng nếu họ đi vào vương quốc của tình yêu, thì họ phải đánh thức và kêu gọi tấm lòng tốt này.
Ở đây, Lễ Giáng Sinh đến hỗ trợ chúng ta. Nếu Con Thiên Chúa đến trong sự giàu sang, thì Người càng làm cho chúng ta ý thức về sự nghèo hèn của mình. Từ đó, Người sẽ khơi gợi một cảm giác thèm thuồng nơi chúng ta, và làm huỷ hoại tâm hồn chúng ta. Nhưng Người đã đến trong sự yếu đuối, do đó, Người càng làm cho chúng ta ý thức về sự giàu có của mình. Sự nghèo khó của Người khơi gợi nơi chúng ta một cảm giác thương xót, từ đó, mang tâm hồn chúng ta đến với sự sống. Khi nhìn vào cảnh nghèo hèn của Hài Nhi Vua Vũ Trụ, giúp chúng ta biết cởi mở tâm hồn của mình ra.
Chính sự nghèo hèn của Đức Giêsu đã làm cho các đạo sĩ mở ra kho báu của họ, gồm có vàng, nhũ hương và mộc dược, đặt tất cả trước mặt Người. Thay vì bị nghèo nàn đi, các đạo sĩ lại được trở nên giàu có. Chính nhờ biết cho đi, mà chúng ta trở nên phong phú, bởi vì thông qua sự cho đi, chúng ta phát hiện được sự phong phú của bản thân mình.
Lễ Hiển Linh thách thức chúng ta cởi mở tâm hồn của mình ra. Khi biết cởi mở tâm hồn, là bắt đầu biết sống. Đức Giêsu không cần đến những quà tặng của chúng ta. Nhưng người khác có thể cần đến. Người mong muốn chúng ta chia sẻ chính bản thân chúng ta cho người khác. Và nếu nhờ được biết Chúa Giêsu, mà chúng ta có khả năng mở ra kho tàng của tâm hồn mình ra, và chia sẻ cho người khác, thì chính chúng ta cũng sẽ cảm thấy mình được trở nên phong phú.
Bài giảng 2: Tìm kiếm Chúa
Alan đang hồi phục trong bệnh viện, sau một tai nạn xe cộ. Lễ Giáng Sinh sắp đến. Một đêm kia, trong khi đang nằm trên giường, anh nhìn ra bên ngoài cửa sổ, và nhận thấy bầu trời đầy sao. Đột nhiên, anh bắt đầu suy nghĩ về các đạo sĩ, và cuộc hành trình đi Giêrusalem của họ, để tìm kiếm Đức Kitô.
Thế rồi anh lại bắt đầu suy nghĩ về bản thân mình, có một điều gì đó mà cho đến nay, chưa bao giờ anh thực sự làm. Và anh tự nhủ “Mình đã 22 tuổi rồi, mình đã làm được gì cho cuộc đời mình? Mình đã đi đến đâu?”. Câu trả lời là “Không đi đến đâu”. Anh vẫn còn sống theo những chuyện kích động và phấn khích. Anh đã lãng phí những năm tháng đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình, những năm tháng mà một nhà thơ đã gọi là “những năm tháng rực rỡ”.
Sau đó, anh suy nghĩ về mối tương quan của anh đối với Thiên Chúa. Các đạo sĩ đã không có được Chúa ngay từ đầu. Nhưng họ đã tìm kiếm Người, và kiên trì tìm kiếm, cho đến khi phát hiện ra Người. Đối với anh, thì trái ngược lại. Anh không hề tìm kiếm Chúa. Anh đã có được Chúa ngay từ đầu. Anh được lãnh bí tích Thanh Tẩy và được huấn luyện thành người Công giáo. Anh đi lễ nhà thờ thường xuyên, cho đến năm 15 tuổi. Nhưng đến nay, anh đã bỏ tất cả. Anh đánh mất Chúa. Và thay vì tìm kiếm Người, thì anh lại cố tình quay lưng lại với Người. Anh đã hoàn toàn rời xa Người. Ngoài ra, anh còn chống lại Người nữa.
Đối với anh, đó là một điểm rất tối tăm, khi tất cả những điều này dồn dập đến trong tâm hồn anh. Nhưng khi bóng tối đạt đến độ dày đặc nhất, thì một điều tốt đẹp xảy ra. Dường như ngôi sao của Chúa mọc ngay trước mặt anh. Anh nhận ra rằng ánh sáng của Chúa không hề bị dập tắt, nhưng vẫn còn tiếp tục toả sáng trong tất cả những năm tháng của cuộc đời anh, ngoại trừ có khi ánh sáng đó bị những đám mây che khuất. Và một sự thật tuyệt vời đã ló dạng trên anh: Mặc dù anh đã từ bỏ Chúa, nhưng Người vẫn không hề bỏ anh. Trong tất cả những năm tháng này, Chúa vẫn đang tìm kiếm anh.
Tâm hồn anh tràn đầy niềm vui. Chưa bao giờ anh nghĩ rằng mình đáng giá đối với bất cứ ai, nhất là đối với Thiên Chúa. Và anh đã tự nhủ “Kể từ bây giờ, tôi có một ngôi sao sẽ không đánh lừa tôi, tôi có một chiếc la bàn sẽ không nói dối tôi”.
Khi các đạo sĩ tìm thấy Chúa, họ dâng lên Người những lễ vật tuyệt vời –vàng, nhũ hương, mộc dược. Bây giờ Alan đã gặp được Chúa, vậy anh có thể dâng lên Người cái gì đây? Có một thời gian, anh đã từng hoàn toàn bị lạc lối. Nhưng rồi anh nhận ra rằng có điều gì đó mà anh có thể dâng lên Chúa. Anh có thể dâng lên Chúa chính bản thân mình. Nhưng tất nhiên là trước hết, anh phải tìm thấy bản thân mình, trước khi anh có thể hiến tặng bản thân mình như một quà tặng cho bất cứ người nào khác. Tuy nhiên, ít nhất là anh có thể khởi sự, và anh xác định là phải làm điều đó ngay tức khắc.
Lễ Giáng Sinh đến, mà Alan vẫn còn trong bệnh viện. Nhưng mọi người đều ngạc nhiên khi nhận thấy sự thay đổi nơi anh. Cho đến nay, anh luôn mang đầy vẻ cay cú về cuộc sống nói chung, vụ tai nạn của anh nói riêng. Bây giờ, anh đã có nụ cười và lời nói vui vẻ với tất cả mọi người. Ai cũng bối rối không biết điều gì đã làm anh thay đổi. Nhưng chính Alan đã biết điều đó: Chính nhờ sự kiện anh đã gặp được Chúa. Không ai có thể thực sự tìm thấy Chúa, mà không thay đổi.
Những năm sau đó, anh nói “Đó là ngày Lễ Giáng Sinh đích thực đầu tiên trong cuộc đời tôi. Không, tôi không thể nghe được các thiên thần hát trên bầu trời. Nhưng tôi đã cảm nghiệm được một sự bình an, mà các thiên thần đã hát trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đó”.
Mọi người đều cần có một ngôi sao để đi theo, giống như những con tàu cần đến ngọn hải đăng mang ánh sáng, để hướng dẫn chúng vào bến bờ một cách an toàn. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta đi theo ngôi sao của Chúa ở trước mặt chúng ta, và chúng ta càng được chúc phúc gấp bội, nếu chúng ta kiên vững đi theo ngôi sao đó trong toàn bộ cuộc sống của mình. Điều này có nghĩa là chúng ta gắn bó toa tàu của chúng ta vào ngôi sao đó, một ngôi sao của hy vọng, ngôi sao của Bêlem. Nhiều người trải qua cuộc sống của họ trong sự tìm kiếm những điều mà chúng ta có, mà vẫn không tìm thấy được.
Và chúng ta không được sợ hãi, nếu kết quả đưa đến là chúng ta nhận thấy cuộc sống của mình thay đổi –sự thay đổi sẽ tốt đẹp hơn. Điều này sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui, mà thế gian không thể đem lại được.
CÂU CHUYỆN KHÁC: Bức màn được vén lên
Chữ Hiển linh có nghĩa là sự mặc khải. Sau đây là một ví dụ ngắn gọn và đơn giản: Đôi khi, trong một ngày u ám, lạnh lẽo của mùa đông, một tia sáng xuất hiện trong một lớp mây dày đặc, và qua đó, chúng ta thoáng bắt được ánh nắng lấp lánh của mặt trời. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, tia sáng bị che khuất, và mặt trời lại biến mất. Nhưng sự thoáng hiện ngắn ngủi của một thế giới sáng sủa hơn, ấm áp hơn, vẫn có thể đem lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Chỉ cần nhớ lại điều này thôi, sự lạ lùng của nó vẫn có thể tác động trong tinh thần của chúng ta.
Cuộc sống hằng ngày đầy rẫy những sự mặc khải nhỏ bé, đối với những ai có đôi mắt để nhìn, và có tâm trí để suy gẫm. Chúng len lỏi xuyên qua những khe hở của cuộc sống bận rộn của chúng ta – một giây phút của sự bình an, hoặc của nét đẹp, hoặc của tấm lòng tốt.
Vào ngày này, ngày Lễ Hiển Linh, bức màn bí nhiệm được vén lên, giúp cho các đạo sĩ có thể thoáng bắt được tia sáng lấp lánh của Hài Nhi ở Bêlem. Một số người nhìn vào con trẻ Giêsu Kitô, và chỉ nhìn thấy giống như một đứa trẻ khác. Những người khác, chẳng hạn như Hêrôđê, đã nhìn vào Hài Nhi như một mối đe doạ. Nhưng các đạo sĩ đã nhận ra con trẻ Giêsu như là Đấng Cứu Độ. Tất cả những người đó đều cùng có đôi mắt như nhau, tuy nhiên, với những đôi mắt đó, họ không nhìn thấy cùng những sự việc như nhau. Chính lòng tin đã đem lại khả năng cho các đạo sĩ, để nhìn xuyên thấu qua bức màn, và “thấy” sự thật ở phía sau đó.
Tuy nhiên, ngay cả đối với họ, bức màn cũng khép lại, ngôi sao biến mất, và họ phải quay trở về nhà. Kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ Chúa đã tạo ra được sự khác biệt gì cho họ? Xét về một khía cạnh, thì cuộc gặp gỡ này không hề tạo ra sự khác biệt nào cả: Họ vẫn phải trở về với cuộc sống cũ, công việc cũ của họ v.v… Tuy nhiên, xét về một khía cạnh khác, có thể nói rằng điều đó đã tạo ra cả một thế giới, thay đổi đối với họ. Bấy giờ, họ đã có được một tầm nhìn mới, một hy vọng mới.
Đối với họ, mặc khải này đã là những giây phút đưa dẫn họ đến với chân lý bằng con đường tắt. Đó là một ánh sáng loé lên, chiếu tỏ vào cuộc sống của họ, và đem lại cho từng giây phút của cuộc sống một ý nghĩa mới. Chắc hẳn họ đã dành ra thì giờ suy gẫm, để thấu hiểu được ý nghĩa của điều mà họ phát hiện được, vào cuối cuộc hành trình đi đến Bêlem. Nhưng trong những ngày bị mây che phủ, họ rút ra được lòng can đảm và niềm hy vọng, từ mặc khải mà họ đã được ban.
Giống như các đạo sĩ, trong ngày lễ này, chúng ta phải đến thờ lạy con trẻ Giêsu Kitô. Và lại cũng giống như các đạo sĩ, chúng ta phải trở về nhà mình, và tiếp tục cuộc sống bình thường của mình. Nhưng hy vọng rằng chúng ta sẽ nhận thấy cuộc sống khác biệt hẳn, bởi vì chúng ta tự nhận thấy bản thân mình cũng khác đi. Nơi Hài Nhi thần thánh, chúng ta nhận ra được thần tính của chính mình.
Đôi khi, người ta đi hành hương những quãng đường thật dài, để tìm kiếm nhưng kinh nghiệm thiêng liêng, mà họ vẫn có thể có được ngay tại chỗ ở của họ. Chúng ta không cần phải đi đến bất cứ nơi đâu. Ngôi sao của Chúa chiếu toả ngay trước mặt chúng ta ở nơi đây. Nhờ Đức Kitô ngự đến, chúng ta không cần phải sợ hãi bóng tối nữa. Một ánh sáng đã đến với thế giới, một ánh sáng chiếu toả trong bóng tối, một ánh sáng mà không ánh sáng nào khác có thể chế ngự được.
49. Cuộc hành trình đức tin
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
TỪ MỘT VÌ SAO LẠ…
Có ba thái độ khác nhau khi con người phát hiện ra một vì sao lạ:
Thái độ Thành Tâm Thiện Chí của các nhà chiêm tinh. (thường gọi Ba Vua)
Khi phát hiện ra một vì sao lạ, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã đến Giêrusalem để tìm “Đức Vua dân Do Thái”.
“Vào thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào vì sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của từng trời bị dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự việc nào đó.” (William Barclay).
Lịch sử cho thấy, vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới lúc ấy cũng có sự chờ mong một vị vua sẽ đến. Như ở Roma, sử gia Suetonius đã viết: “Khắp phương Đông có một niềm tin là vào thời đó, nhất định có người từ Giuđa đến cai trị thế giới”, (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng đã viết: “Có một xác tín rằng trong chính thời gian này, phương Đông trở nên hùng mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu” (Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: “Vào khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất” (Josephus, Những cuộc chiến tranh của người Do Thái 6,5)…
“Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian đang thiết tha trông đợi. Loài người thật đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới.” (William Barclay).
"Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." (Mt.2,2).
Họ bái lạy với trọn vẹn lòng thành sau cuộc hành trình xa xôi vất vả. Niềm tin vào “Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra” là hoàn toàn chân thật và họ đã dâng lên Hài Đồng Giêsu những lễ vật tượng trưng sự cao trọng và ý nghĩa nhất dành cho Đấng Cứu Thế.
“Vàng là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và sau hết, Ngài là Đấng Cứu Thế cao cả của loài người” (William Barclay).
Thái độ Ganh Ghét và Thù Địch của vua Hêrôđê.
“Con vua thì được làm vua. Con sãi ở Chùa thì quét lá đa”.
Vua nào cũng muốn bảo vệ ngai vàng của mình, và cho con cháu sau này. Nên khi nghe nói có một hài nhi sinh ra sẽ là vua thì tất nhiên vua nào cũng lo lắng. Nhưng, đối với con người của Hêrôdê, thì sự lo lắng càng dữ dội hơn nữa, vì cá tính đầy tham vọng của ông.
Lịch sử cho biết ông là một người đa nghi. Về điểm này, ông rất giống Tào Tháo. Sẵn sàng giết chết bất cứ ai mà ông nghi làm tổn hại đến quyền hành của ông. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander, Aristobulus cũng bị ông sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôdê còn an toàn hơn làm con trai ông ta”.
Một con người đầy tham vọng như vậy làm sao có thể đón nhận được Thiên Chúa, Vua Tình Thương.
Vì thế, ông tìm cách loại trừ Hài Nhi Giêsu.
Thái độ Dửng Dưng như không hay biết gì của các thượng tế và kinh sư.
“Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt. 2,4-6).
Các thượng tế và kinh sư quả thấm nhuần Kinh Thánh, nhưng rõ ràng thái độ của họ xem những gì nói đến trong Kinh Thánh như những chuyện huyền thoại xa xưa không dính líu gì với cuộc đời họ. Và rồi, có hay không có Giêsu cũng không thành vấn đề gì đối với họ.
Họ đang no đầy những lợi lộc và cả quyền lực. Họ không thể thay đổi con đường của họ đang đi. Họ bằng lòng với những gì đang có, cuộc sống của người khác mặc họ. Một Đấng Cứu Tinh không như ý họ thì cần gì phải quan tâm đến.
… ĐẾN VÌ SAO THÁNH GIÁ
Ở quê tôi, tôi quen biết một anh công giáo rất tốt. Anh thường xuyên đi lễ ngày thường, và giúp nhiều việc nhà thờ. Nhưng sau 1975, anh không đến nhà thờ nữa. Một ngày kia, sau khi nhận một chức vụ lớn ở xã, anh dẹp bàn thờ Chúa và Đức Mẹ mà anh đang để nơi trang trọng nhất giữa nhà. Bước vào nhà anh, không còn dấu vết gì là người Công Giáo. Sau ba bốn năm làm việc, rồi anh cũng đã quay về, dựng lại bàn thờ xưa. Đường công danh thấy cũng không đến đâu.
Ở quê tôi, có một anh cũng có một chức vụ quan trọng. Anh này không chỉ xoá dấu vết Công Giáo ở nhà, mà muốn khẳng định mình đã đoạn tuyệt với Đạo. Lúc ấy, tôi chưa biết anh, tôi nghe đồn là anh ta đã kích Đạo dữ lắm. Một hôm, tình cờ tôi đi dự tiệc giỗ cùng với một Cha và ngồi cùng bàn với anh ta, và được một người giới thiệu danh tánh và chức vụ của anh. Đang giữa tiệc, anh xé một miếng bánh mì và nói: “Này là mình ta…”, rồi anh cầm lấy ly rượu, nói tiếp: “Này là máu ta…”. Vị linh mục và tôi bước ra khỏi bàn …Sau này, anh mất chức. Nghe nói có một người có chức vụ lớn đã nói về anh ta: “Là một người Công Giáo được dạy dỗ từ nhỏ mà anh ta còn quay lại xúc phạm đến thế, thì có thể tin anh sẽ là người trung thành khi anh là một người mới gia nhập vào một tổ chức nào đó không?”.
Đã hơn hai ngàn năm qua, Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta vẫn mời gọi con người đến với Ngài sau khi Ngài đi bước trước là “đã đến với nhân loại”. Tình yêu không thể đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả. Con người cần có thành tâm thiện chí để đến với Ngài.
Thành tâm thiện chí như các đạo sĩ phương đông. Không ngừng tìm hiểu dấu chỉ của Thiên Chúa (khám phá ra vì sao lạ). Hành trình Đức Tin (tìm đến với Thiên Chúa). Vượt qua mọi thử thách (khi vì sao lạ khuất bóng). Thờ lạy Chúa hết lòng (dâng lễ vật) và luôn biết khôn ngoan để bảo vệ niềm tin (đi con đường khác trở vể quê hương).
Xem đó, chúng ta thấy cần có một con tim yêu thương mãnh liệt để đáp lại tình yêu vô bờ bến mà Thiên Chúa đã dành cho con người.
Nếu không, tiền, tình, danh vọng; tham, sân, si, sẽ là những chướng ngại vật, những rào cản tách con người xa lìa Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, hờ hững với Thiên Chúa.
Chúng ta có thể tìm thấy trong thế giới hôm nay hình ảnh những Hêrôđê, những thượng tế và biệt phái thời đại, và có khi, chúng ta cũng tìm thấy những hình ảnh ấy ở trong chính ta.
Tôi nhớ ngày xưa có lần tôi xem một câu truyện cổ tích.
Câu chuyện kể về một mối tình thật đẹp của một đôi nam nữ. Nhưng một bà phù thủy độc ác đã ganh tỵ muốn xé lẻ đôi uyên ương ấy, bà hô lên lời nguyền biến chàng trai thành một con dã nhân trông ghê rợn và chỉ trở lại kiếp người như xưa nếu có một ngày nào đó cô gái ấy dám nhìn thẳng vào đôi mắt của anh. Chính anh cũng không biết được chiếc chìa khóa ấy để giải lời nguyền của bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang lốt loài thú hoang dã, không còn nói được tiếng người, anh đau buồn và âm thầm lánh xa cô gái. Cô gái không hay biết điều gì. Cô vô cùng đau khổ vì người yêu bổng dưng bỏ cô đi đâu biền biệt.
Một bà tiên hiền lành đã thương tình muốn cứu chàng trai và trả lại tình yêu trong sáng cho họ. Bà gặp cô gái và trao cho cô một “viên ngọc dẫn đường” để cô đi tìm người yêu. Cô đặt viên ngọc trước mặt, nó lăn đi qua muôn nẻo đường băng sông vượt núi. Cô gái đáng thương cứ bám theo viên ngọc. Có lúc cô gục ngã và đứng lên tiếp tục cuộc hành trình không có điểm hẹn, không có giới hạn thời gian. Có lúc tưởng như cô bỏ cuộc. Có lúc tưởng như cô không còn đủ sức đứng lên.
Cuối cùng, cô đến một bờ rừng. Cô gặp một dòng suối, cô cố gắng cúi xuống uống vài ngụm nước và mệt mỏi nằm bất động bên bờ suối. Tiếng muôn thú trong rừng về đêm nghe ghê rợn, nhưng cô gái tội nghiệp không hay biết gì. Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.
Cô tỉnh dậy, muôn tiếng chim đua hót líu lo hòa vang khúc nhạc ngày mới. Nắng ban mai xuyên qua cành lá như những sợi tơ vàng óng ánh quanh cô. Cô gái đẹp như tiên nữ dạo chơi trần thế, nhưng nỗi sầu trong lòng cô vẫn đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn đường nằm im lìm và cô không biết phải đi đâu nữa.
Chợt cô nghe tiếng vỡ gẫy của những nhành cây cỏ dại. Cô quay nhìn lại, phía sau cô, nép mình sau gốc cổ thụ, một bóng hình đen đúa như ma quái. Một con quái vật! Cô gái thét lên và bỏ chạy. Cô không còn sức nữa, cô ngã xuống và nằm im một lúc. Cô ngồi dậy, đứng lên định chạy nữa, rồi lại té xuống, cứ thế, đôi ba lần. Cô liết nhìn con quái vật, đầy sợ hãi. Con vật vẫn còn đó. Nó đứng im.
Cuối cùng, cô đứng dậy. Can đảm nhìn về con quái vật. Lúc này, cô thấy rõ đó là con dã nhân. Cô nhìn nó. Nó không có vẻ gì hung dữ. Nó không có vẻ gì đang muốn hãm hại cô.
Con dã nhân tiến lại gần cô. Những ngày tháng đi theo “viên ngọc dẫn đường”, cùng với những giây phút sự sợ hãi hôm nay đã làm cô kiệt sức. Cô đứng im lặng, thu hết can đảm để nhìn con dã nhân đang tiến lại mỗi lúc một gần cô hơn. Gần hơn... rất gần. Mắt cô nhìn thẳng và đôi mắt nó.
Trong khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, cô ngỡ ngàng nhận ra một ánh mắt thật quen không thể nào hòa lẫn với ánh mắt nào khác. Cũng trong khoảnh khắc huyền diệu ấy, cô gái nhận ra người yêu cô đang đứng trước mặt.
Viên ngọc dẫn dường nằm ở đâu đó lóe sáng lên và biến mất.
Nếu Giáng Sinh đầu tiên có một vì sao lạ đã dẫn đưa ba nhà đạo sĩ tìm đến Hang Đá thờ lạy Đấng Cứu Thế, thì ngày nay, vì sao Thánh Giá dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa để cùng chung tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ.
Cuộc hành trình này còn đầy gian nan thử thách. Còn đòi hỏi nhiều hy sinh. Không có tình yêu thánh giá, con người không thể nào đi đến bến bờ đoàn tụ yêu thương.
Lạy Chúa,
Xin cho mọi người nhận ra một vì sao lạ:
-“Vì sao Thánh Giá”
tỏa sáng muôn nơi,
khắp mọi phương trời,
dẫn đưa con người,
về miền đất hứa:
-“Thế giới đệ huynh
anh em một nhà,
Thiên Chúa là Cha.” Amen.
50. Câu chuyện về ngôi sao lạ
Ý của tác giả là gì? Trước là Ba Vua, nay là Hiển Linh? Bản văn rất khó hiểu vì là thể văn "thần hiện" có nhiều chi tiết hoang đường khó giải thích.
Các bản văn về thời thơ ấu có muộn nhất trong các bản văn Phúc Âm Khi Đức Giêsu được tin chắc chắn và phổ biến là Đức Chúa và là Đấng Cuứ Thế "Messia" (Lc 2,36). Thì các lời Kinh Thánh đã được thực hiện. Mọi sự phải xảy ra theo như các lời Kinh Thánh đã tiên báo. Lấy những lời Kinh Thánh đã tiên báo mà viết lại về thời thơ ấu dệt thành những câu chuyện tường thuật theo cách riêng của mỗi tác giả như chúng ta thấy Luca khác Matthêu khác cộng với óc thần thoại và các chi tiết hoang đường để diển tả tính cách thần thánh của các sự việc. Gọi là thể văn "thần hiện". Thánh Âu Tinh cho là không nói sai mà là nhằm chuyển tải một ý tưởng thần học. Ý tưởng thần học thì rất thật. Cha Gomez: Phúc Âm là thần học. Đơn giản nhưng táo bạo vì là lần đầu tiên được nói lên. Trước kia vì bảo thủ và tôn sùng Kinh Thánh là của Chúa từ chấm từ phết nên cứ tin không nghi ngờ gì hết. Ngày nay Giáo Hội "để cho nói" và nhiều người dám nói và thử nói sau những nghiên cứu công phu của nhiều người và suốt thời gian chừng năm mươi năm.. Phải làm sao đi đến được ý của tác giả. Các vật liệu làm thành câu chuyện là miếng trầu làm đầu (giàu) câu chuyện. Cũng gọi là thể văn bình giải: giải thích Cựu Ước bằng Phúc Âm. Đúng hơn là để Đức Giêsu giải thích Cựu Ước.
Người ta đã phí nhiều công sức để tìm giải thích ngôi sao lạ là một sao chổi lệch quỹ đạo, vua hay đạo sĩ..v..v. Ngày nay: Đừng mất công vô ích. Đó chỉ là những chi tiết hoang đường (thần thoại) mà thể văn thần hiện thường dùng làm chất liệu.
Ba nhân vật chính làm thành bức tranh, đến từ phương đông mang lễ vật "vàng nhủ hương mộc dược" để cống bái là thực hiện Is.60,5: kho tàng bể khơi, nguồn phú túc của chư dân, những con lạc đà......họ sẽ loan truyền lời ca ngợi Chúa:
- Ba là con số của Thiên Chúa
- Phương đông: Văn hóa Á đông dùng chỉ người hiền "hiền triết".
- Ngôi sao lạ thực hiện Ds.24,17b: Một ngôi sao gốc từ Giacob mọc lên dẫn đầu, (cũng gọi là ngôi sao Giacob). Một vương trượng gốc từ Israel đứng lên: Vương trượng là vua. Vua chư hầu đến triều bái và triều cống Thiên Tử. Hài Nhi mới sinh là Thiên Tử, là vua Israel. Do thái gọi là Messia-Vua. Không biết ba vị ấy là nhân vật thế nào nhưng có lẽ ý của Matthêu muốn nói vua chư hầu đến triều cống Thiên Tử. Nên gọi là lễ Ba Vua.
- Bêlem vì Mk 5,1-3 đã tiên báo: Hởi Bêlem, đất Giuda... nơi ngươi vị lãnh tụ chăn dắt Israel sẽ sinh ra.
- Đức Giêsu là Đức Kitô thì mọi lời Kinh Thánh tiên bào về Messia đã được thực hiện nơi Đức Giêsu hay Đức Giêsu đã thực hiện những lời tiên báo ấy nơi bản thân Người. Phải hiểu và giải thích theo cách mà Đức Giêsu thực hiện. Nên nói Đức Giêsu làm cho Cựu Ước trở thành Tin Mừng.
- Ba Vua: Vua chỉ vương trượng gốc từ Israel (Ds.24,17b).
- Lễ vật "vàng nhủ hương môc dược": quí nhất tượng trưng cho Is,60,5. Ý của Matthêu là Triều cống Thiên Tử, tuyên xưng Đức Giêsu là Messia- Vua người do thái mong đợi như đã tiên báo.
Ba Vua, sao lạ, lễ vật là ba chi tiết quan trọng nhất làm thành ngày lễ và có lý mà gọi là lễ Ba Vua. Các chi tiết khác là hoa lá râu ria trang điểm cho bài viết hấp dẫn.
Không giải thích cách nầy thì hoàn toàn bế tắc về những khác biệt giữa Mt và Lc và những sai lệch về lịch sử nếu cứ nói Kinh Thánh là Thiên Chúa mạc khải cứ tin không được nghị luận.. dù là chấm phết.
Phải nói là Phúc Âm không viết lịch sử. Chi tiết lịch sử được mượn tạm làm chất liệu nên không được quan tâm lắm tới tính chính xác. "Lịch sữ" có nghĩa là có xảy ra còn thời giờ và địa điểm thì lơ mơ thôi.
Quan tâm chủ yếu là thần học, là câu chuyện cứu độ. Phải đến càng gần ý của tác giả thì tốt.
Truớc Giáng Sinh Đức Maria và Giuse ở Nazarét hay Bêlem?
Lc: Nazaret để nói người là Nazareus (người của Nazaret). Không quan tâm tới dòng tộc Đavít. Sau bốn mươi ngày, dâng Đức Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy cho Đức Maria rồi thì trở về Nazaret. Không có trốn sang Ai cập. Luca bỏ qua nhiều chi tiết "do thái".
Mt: ở Bêlem. Trốn sang Ai Cập vì có lời Kinh Thánh "ta sẽ gọi con ta ra khỏi Ai Cập" (Để trốn sang Ai Cập thì phải bị đuổi giết). Sau khi ở Ai cập về vì sợ Archelao độc dữ mới về Nazaret. Bêlem: dòng tộc Đavít. Nazaret để người cũng được gọi là Nazareus. Matthêu kỹ lưỡng không bỏ sót chi tiết nào về do thái.
Những sai lệch về lịch sử thì giải thích thế nào? Luca sau bốn mươi ngày thì về Nazaret. Còn Matthêu thì khi đi Ai Cập Đức Giêsu đã hai tuổi. Hêrôdê chết năm 4 sau CN. Ít là bốn năm sau mới về Nazaret. Định về Bêlem nhưng sợ Archêlao mới lánh về Nazaret.
Kiểm tra dân số là vào năm thứ sáu sau Đức Giêsu thời Quirinô là thủ hiến Syria.
Lc chỉ muốn nói: Đức Giêsu là người Nazaret, ở Nazaret. Nhưng để có họ Davit thì có kiểm tra dân số dể lên Bêlem, sinh ra tại đó vì Giuse là dòng tộc Davít. Bêlem là thành của Đavít.
Còn Matthêu thì Đức Giêsu là Messia con vua Đavít (ở Bêlem), Ta gọi con ta ra khỏi Ai Cập (phải sang Ai cập rội trở về). Để là Nazareus thì về ở Nazarét.
Hêrôdê là tiểu vương của Galilê, miền bắc. Giêrusalem ở Giuda miền nam. Cho Hêrôdê ở Giêrusalem và tàn sát các anh hài vô tội là để thực hiện lòi Kinh Thánh: Gr 21,15: ở Rama...bà Rachel than khóc...vì con bà không còn nữa.(lịch sử đời không có ghi cuộc tàn sát nầy).
Hai bản gia phả cũng không giống nhau.
Luca thay vì Ba vua thì có thiên thần bảo mục đồng và các chi tiết kèm theo là cách chứng minh riêng Đức Giêsu giáng sinh là "Đấng Cứu thế đã giáng sinh", là Đức Kitô, là Đức Chúa ví có các dạo binh thiên quốc hợp với các thiên thần ca tụng Thiên Chúa.
Rồi Simêon nói tiên tri, bà Anna nói tiên tri.
Tất cả nhằm chứng minh "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Luca không quan tâm Đức Kitô do thái, con Davít. Matthêu thì phải làm sao cho Đức Kitô là con Đavít do thái.
Đơn giản là mượn tạm những chi tiết lịch sử để phục vụ những muc đích thần học về cứu độ, mỗi vị theo cách của mình.
KẾT
Bài tường thuật là nhằm chứng minh Đức Giêsu là Đức Kitô. Nhưng Matthêu thì là Đức Kitô-Vua do thái. Luca thì là Đức Kitô của muôn dân. Đức Kitô đã được tiên báo nay thực hiện, Mathêu thì đầy đủ mọi lời đã tiên báo còn Luca thì một ít.
Nghĩa 'áp dụng' của bài tường thuật là loan báo Đức Kitô cho muôn dân như ánh sáng muôn dân. Ngôi sao trên nền trời chung ai cũng thấy được. Nhưng thấy mà cất công tìm găp thờ lạy "tin" và dâng lễ vật quí nhất là suy phuc bằng tất cả cuộc đời chỉ có ba vị. Đó là "hành trình của đức tin" gian nan, phải vượt khó, đến nơi, gặp được Chúa mới được vui mừng. Có những tín hữu không được vui mừng vì chưa vượt khó, chưa gặp Chúa. Tín hữu mà chưa tin nên chưa có gì. Chúa ban nhiều trợ lực trên hành trình nhưng mỗi người phải cất công lên đường, quyết tâm vượt khó đi tìm Chúa, phải tới nơi, gặp được, tin mới có vui mừng.
Chúa Giêsu là ánh sáng muôn dân, ánh sáng mời gọi mọi người và chờ đợi đón tiếp niềm nở để trao cho niềm vui ơn cứu độ Người đã sắm sẳn qua sự Phục Sinh vinh quang, đang sống, dang hiện diện và đang hoạt động cứu dộ mọi người.
Thấy ngôi sao họ mừng rở vô cùng (c.10). Ngôi sao là cứu tinh, là Đức Giêsu. Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh mà có thấy, có gặp và có vui mừng để rồi tiếp tục được vui mừng trong cuộc sống hằng ngày không.
51. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc
Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng, bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi?
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông” (Mt 2,2). Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Quả thật, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh Thánh: “một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en” (Ds 24,17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: “Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen” (Mk 5,1)
Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên đường, hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương, không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với tất cả tấm lòng thành.
Sau này, Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài” (Mt 8,11-12)
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.
Nhờ ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.
Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.
Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
Nếu Chúa đã gọi: “Chúng con là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14), thì đó là một vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng: Nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.
52. Siêu sao Giêsu
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe kể lại chuyện ba nhà chiêm tinh bên Đông phương theo ngôi sao lạ tìm vua Do Thái mới sinh. Vị vua đó chính là Chúa Hài Đồng Giêsu. Vậy, nếu như trong lễ Giáng Sinh Chúa Hài Đồng tỏ mình ra cho các mục đồng, cho người Do Thái; thì hôm nay lễ Chúa Hiển Linh Chúa Hài Đồng tỏ mình ra cho những người lương dân, nghĩa là cho cả nhân loại biết chính Chúa Hài Đồng là vị cứu tinh của nhân loại và Ngài mời gọi mọi người đến với Ngài.
Thiên Chúa dùng Ngôi sao toả sáng trên bầu trời để dẫn đường cho ba vua tìm đến bái kiến Chúa Hài Đồng và dâng: vàng, nhủ hương, mộc dược. Nhờ ánh sáng của ngôi sao mà mọi người đã biết được Chúa Hài Đồng là ánh sáng đích thực của nhân loại. Nhờ Ngôi sao lạ mà chúng ta nhận ra có một "vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Nhờ Chúa Hiển linh mà chúng ta không ngủ trong sự lầm lạc của tội lỗi nữa.
Ngày nay, chúng ta nghe nhiều người sử dụng từ ngôi sao nói về những nhân vật nổi tiếng như ngôi sao ca nhạc, hoặc một diễn viên điện ảnh. Không những thế, mà người ta còn sử dụng từ siêu sao bóng đá như: Ronado, David Backham, Messi... Ở đây, còn hơn một siêu sao nữa. Đó chính là siêu sao Giêsu Hài đồng. Các ngôi sao cũng như siêu sao trần gian sớm nở chiều tàn; còn siêu sao Giêsu vẫn tồn tại mãi mãi theo năm tháng.
Ngày nay dễ thần tượng những ngôi sao, có những người bắt chước ngôi sao thần tượng của mình, nên ăn mặc giống hệt họ: nào cắt tóc ngắn, nhuộm tóc đỏ đen. Nhưng kết quả thường thì thần tượng bị sụp đổ và dẫn đến những hậu quả không tốt cho cuộc sống những người chạy theo những sao trần gian. Thường những sao trần gian dẫn người ta đến lầm lạc và đánh mất giá trị của con người. Các sao trần gian sống trong sự giàu sang hưởng thụ, đầy đủ tiện nghi, nhưng đầy tăm tối và tội lỗi, nhưng lại thu hút và lôi kéo người ta. Và ai cũng muôn mình thành sao hết.
Bên cạnh đó, Siêu sao Giêsu thì khác. Siêu sao Giêsu xuất hiện làm bừng lên giữa đêm tối, không phải một vì sao bình thường trên bầu trời mà là một vì sao sáng rất đặc biệt. Siêu sao đó không phải ở tận trên trời xanh nhưng là ở ngay bên chúng ta. Siêu sao này đem lại sự bình an cho những kẻ bị giam cầm, đem lại hạnh phúc cho người đau khổ, đem lại no ấm cho những người thiếu thốn. Siêu sao này mở mắt cho những người mù loà, sua trừ ma quỷ, chữa lành các bệnh tật. Đặc biệt, siêu sao này không chạy theo những danh - lợi - thú như các siêu sao ở trần gian. Siêu sao này không chạy theo tiền của. Trái lại siêu sao này hạ mình đến nỗi chấp nhận sinh ra trong chuồng bò. Siêu sao này qui tụ những con người hèn hạ, những người xem chừng bị xã hội gạt ra bên lề đường. Một nghịch lý từ một nơi rất tầm thường (chuồng bò) thì lại xuất hiện một con người rất phi thường, từ một nơi tối tăm lại chiếu toả ánh sáng cho muôn người.
Siêu sao Giêsu là siêu sao cho chúng ta phải thần tượng, phải bắt chước, chạy theo và nên giống Siêu sao Giêsu và chúng ta phải làm cho mọi người thấy được Siêu sao Giêsu trong cuộc sống hằng ngày của mình. Amen.
53. Lễ Hiển Linh
Có một câu truyện về một ông vua trẻ mới lên ngôi kế vị cha. Nhà vua trẻ này rất yêu thương và cảm thông với thần dân trong vương quốc. Thế nhưng, xem ra dân chúng không màng chi đến sự quan tâm săn sóc của nhà vua khiến nhà vua rất buồn lòng. Sau khi lắng nghe ý kiến của các quan cận thần, nhà vua cải trang thành một thường dân, rời bỏ cung điện và đến sống giữa những người dân của mình. Ngoài những giờ làm việc, ông đi thăm những người nghèo chung quanh, giúp đỡ những người đau yếu, khuyên nhủ những ai gặp khó khăn, cứ như thế chẳng mấy chốc ông đã chiếm được cảm tình của mọi người. Thế rồi một hôm ông bỗng biến mất, và sau đó xuất hiện trở lại như một vị vua. Lúc đó dân chúng mới nhận ra người nghèo lạ lùng này chính là vua của họ, kể từ đó dân chúng yêu thương hiệp nhất với nhau và quan tâm đến những dự án mà nhà vua thực hiện để nâng cao mức sống của họ.
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Hiển Linh, nghĩa là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người. Nếu lễ Giáng Sinh nhấn mạnh đến khía cạnh nhập thể từ trên cao xuống, thì lễ Hiển Linh cho thấy chiều kích hiển linh của mầu nhiệm nhập thể và nhắc nhớ con người rằng Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa, là Vua vũ trụ.
Tin mừng hôm nay nêu bật hai thái độ khác nhau của con người đối với Con Thiên Chúa nhập thể, đó là chấp nhận hoặc chối từ. Hêrôđê đã xem Chúa như kẻ thù, như một người sẽ chiếm lấy địa vị và quyền lực của ông. Ông đã không biết theo ơn Chúa soi sáng để nhìn thấy dấu chỉ Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử và thiên nhiên để đi tìm và nhìn nhận Chúa. Còn các đạo sĩ phương Đông đã dám ra khỏi cảnh sống thường ngày của mình, từ bỏ tiện nghi mình đang hưởng, để đi theo sự soi sáng của ân sủng Chúa, để nhận ra lời mời gọi của Chúa qua ánh sao dẫn đường. Họ thành tâm đi tìm và đã gặp; và khi gặp được, họ không thắc mắc tại sao, nhưng khiêm tốn tôn thờ Vua vũ trụ nơi dung mạo một Hài Nhi yếu đuối, nghèo hèn, cũng như dân chúng trong câu truyện trên đã nhận ra vua của họ qua dung mạo một người nghèo sống giữa họ.
Thiên Chúa vẫn luôn mạc khải chính mình cho chúng ta qua dung mạo người anh em, qua các bí tích, qua những dấu chỉ tầm thường đơn sơ của đời sống mỗi ngày, nhưng liệu chúng ta có đủ khiêm tốn để nhìn thấy, lắng nghe và chấp nhận Chúa hay không? Xin Chúa giúp chúng ta thành tâm đi tìm Chúa để được gặp Chúa.
54. Tìm gặp Chúa Kitô
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc các đạo sĩ Đông Phương đã theo ánh sao tìm đến triều bái Hài Nhi Giêsu mới giáng sinh tại Bêlem. Lời tiên tri Isaia từ 600 năm trước đã được thực hiện: ‘Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước… Lạc đà đàn đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Epha, dân Saba hết thảy kéo lại, tải đến vàng với trầm hương và chúng cao rao lời khen ngợi Giavê’.
Chúng ta hãy theo sau các nhà đạo sĩ trung thành với ánh sáng đã nhận được: ‘Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài bên trời Đông, và chúng tôi đến bái yết Ngài’. Đối với chúng ta, ngôi sao đó chính là ý muốn của Thiên Chúa, là đức tin vào Chúa Kitô, hay đúng hơn là chính Chúa Kitô – ánh sáng soi cho mọi dân tộc. Ánh sáng đó vẫn luôn chiếu sáng, nhưng sở dĩ chúng ta không nhận ra là vì chúng ta còn yêu tối tăm hơn ánh sáng, và vì con mắt tâm hồn chúng ta còn bị cái đà của ích kỷ che khuất. Để tìm gặp Chúa Kitô, chúng ta cũng phải liều mạng như các đạo sĩ để ra khỏi xu hướng thích dễ dãi, hưởng thụ, ngại gian khổ.
Cũng như các đạo sĩ đã gặp thấy Hài Nhi cùng Đức Maria, Mẹ Ngài, chúng ta cũng không thể tìm Chúa Kitô riêng rẽ tách biệt khỏi Mẹ Ngài được, bởi lẽ sau khi thụ thai và sinh hạ Ngài, Đức Maria còn có sứ mạng trao tặng Ngài cho chúng ta. Do đó tình yêu của chúng ta đối với Chúa Kitô không thể tách khỏi tình yêu đối với Đức Trinh Nữ Maria.
Các đạo sĩ đã dâng tiến Hài Nhi Giêsu lễ vật: vàng, nhũ hương, mộc dược, chúng ta cũng hãy dâng tiến Ngài tấm lòng vàng, hương thơm lời cầu nguyện, và mộc dược hy sinh hằng ngày để mưu cầu ơn thánh cho các linh hồn. Ý thức hiến dâng càng sinh động và liên tục, hiệu quả lời cầu nguyện càng được bảo đảm.
Sau cùng chúng ta đừng quên cầu nguyện cho các nhà truyền giáo, bởi vì nhờ các ngài mà đức tin đã đến với chúng ta. Nhờ các ngài mà chúng ta được niềm vui hiển linh, đó là Chúa Kitô tỏ mình ra cho chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
55. Tầm nhìn Ba Vua - Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Với cái nhìn thầm lặng, không ồn ào, không khoa trương, không gợn chút mưu toan tính toán, nhưng sâu lắng, công chính, chân thật, đầy nội tâm, đầy thiện chí và là tầm nhìn của cả một tấm lòng, ba con người (quen gọi là ba vua, ba đạo sĩ, ba nhà chiêm tinh…) đã nhìn xuyên thấu ánh sao, đã nhận ra bên kia ánh sao là Chân Lý. Nhờ tầm nhìn xuyên thấu như thế, ba vua đã nhận ra Ơn Cứu Độ của mình: Hài Nhi Giêsu – Thiên Chúa làm người.
Còn Thiên Chúa, Đấng hằng yêu thương con người, không làm ba vua thất vọng. Người ban cho những kẻ có tấm lòng chân thật được gặp mình.
Bởi Thiên Chúa là Đấng chân thật. Ai để lòng mình trào dâng sự thật, người đó sẽ được Thiên Chúa nhìn nhận và cho sống trong tình yêu vô cùng của Thiên Chúa.
Tầm nhìn của ba vua tỏa chiếu sự đơn sơ, không kiêu sa, không cầu kỳ, nhưng tỏa chiếu hạnh phúc và dạt dào thánh ân. Tôi gọi tầm nhìn hiệu quả của ba vua là tầm nhìn xuyên thấu.
I. NHÌN XUYÊN THẤU.
Chỉ một mình tông đồ Matthêu tường thuật biến cố lạ thường: Ngay sau ngày Chúa Giêsu giáng sinh, bầu trời phương đông xuất hiện một vì sao lạ.
Chắc không thiếu những người nhìn thấy ngôi sao. Nhưng chỉ có ba vua nhìn xuyên thấu ánh sao để không dừng lại nơi ánh sao, không chỉ ngồi nhìn ánh sao, không bằng lòng với việc nghiêng cứu ánh sao, mà khám phá nơi cái lạ của một ánh sao vừa xuất hiện để thấy điềm trời, để nhận biết chân lý, để khám phá tình yêu của Đấng Tạo Thành.
Nhờ tầm nhìn xuyên thấu thụ tạo, để nhận ra Đấng Tạo Thành ấy, đã dẫn ba vua về gặp Chúa, gặp Đấng cứu độ mình.
Từ nay, cuộc đời của họ sẽ thay đổi. Bởi từ nay, họ đã mang Chúa nơi tâm tư. Hình ảnh Chúa Hài nhi chiếm ngự đầy ắp trong cõi lòng. Từ nay, họ sẽ ấp ủ hình ảnh của Chúa, và sống cho Chúa trọn đời. Từ nay, họ sống với Chúa và Chúa trong họ.
Biết bao nhiêu biến cố, biết bao nhiêu tai ương xảy ra trên thế giới, trong vũ trụ qua từng thời gian sống của nhân loại. Học nơi Ba Vua để chúng ta cũng có một tầm nhìn, nhìn xuyên thầu mà nhận ra sự quan phòng của Chúa, nhận ra bàn tay Chúa luôn hiện diện trên mọi hoàn cảnh, trên toàn thế giới tạo thành.
II. HỌC NƠI TẦM NHÌN BA VUA.
Có những giọt nước mắt làm cho cả thế giới phải giật mình. Giọt nước mắt rớt xuống trong yêu thương và trong tinh thần trách nhiệm của những nhà lãnh đạo cao cấp, càng làm rúng động thế giới.
Ngày lễ Hiển Linh, chiêm ngắm tầm nhìn xuyên thấu của ba vua, tôi muốn gọi những giọt nước mắt như thế là “Nước mắt Yeb Sano”.
Hãy soi chiếu những giọt nước mắt trong những cơn khốn cùng vào tầm nhìn ba vua, để rút ra bài học cho chính chúng ta.
1. Nước mắt Yeb Sano.
Tháng 11.2013, tại Hội nghị Công ước Khung của Liên Hiệp quốc (COP) về biến đổi khí hậu lần thứ 19, Ngoại trưởng Yeb Sano, trưởng đoàn đàm phán Philipines đã có bài phát biểu kêu gọi hành động khẩn cấp để ngăn chặn một cơn bão tàn khốc khác có thể ập tới, giống như siêu bão Haiyan ập vào Philipines chỉ một tuần trước khi diễn ra Hội nghị này.
Bài phát biểu của nhà Ngoại trưởng thật cảm động:
“…Đến thời khắc này, chúng tôi vẫn không thể chắc chắn về toàn bộ mức độ của sự tàn phá vì thông tin được cập nhật một cách nhỏ giọt tới khốn khổ bởi điện và viễn thông đã bị cắt đứt, có thể còn lâu mới được khôi phục. Đánh giá ban đầu cho thấy Haiyan đã để lại những tổn thất khủng khiếp chưa từng có trong tiền lệ, không thể hình dung nổi và vô cùng tàn khốc, ảnh hưởng tới 2/3 Philippines, khiến khoảng một nửa triệu người mất nhà, cảnh tượng gợi nhớ tới hậu quả của sóng thần đối với vùng đất lớn, lầy lội, đầy bùn, ngập mảnh vỡ vụn và xác người chết.
Theo ước tính từ vệ tinh, Cơ quan Khí tượng và Hải dương quốc gia Hoa Kỳ cũng ước tính rằng Haiyan đã có áp suất tối thiểu khoảng 860 mbar, còn Trung tâm Cảnh báo bão chung ước tính Haiyan có thể đã đạt tới sức gió 315 km/h và gió giật 378 km/h, khiến nó trở thành cơn bão mạnh nhất trong lịch sử hiện đại mà chúng ta từng biết.
Bất chấp những nỗ lực to lớn mà nước tôi đã chuẩn bị để đối đầu với sự tấn công dữ dội của cơn bão quái vật này thì bão cũng quá mạnh, và mặc dù Philippines một quốc gia quen thuộc với bão thì siêu bão Haiyan không giống với bất cứ thứ gì chúng tôi trải qua trước đây, hay có lẽ là không giống với điều gì mà bất cứ quốc gia nào từng trải qua.
Hình ảnh sau cơn bão cũng dần dần từng bước chậm chạp trở nên rõ ràng hơn. Sức tàn phá thật khủng khiếp. Và như thể điều đó còn chưa đủ, một cơn bão khác đang hình thành trong vùng nước ấm ở bờ tây Thái Dình Dương. Tôi rùng mình khi nghĩ tới một cơn bão khác sẽ tấn công chính những nơi mà người dân thậm chí còn chưa thể gượng sức để đứng dậy nổi…”.
Trong nước mắt, ông Sano bất ngờ tuyên bố (không được soạn trước), ông sẽ tuyệt thực trong quá trình diễn ra hội nghị cho đến khi đạt được những bước tiến có ý nghĩa. Ông nói:
“Để đoàn kết với đồng bào tôi, những người đang đấu tranh để tìm thức ăn ở nhà và với em trai tôi, người chưa ăn gì suốt ba ngày qua, với tất cả lòng kính trọng, thưa ông Chủ tịch, và tôi không hề có ý không tôn trọng sự hiếu khách tử tế của ông, bây giờ tôi sẽ bắt đầu tình nguyện tuyệt thực vì khí hậu. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ tự nguyện không ăn trong COP này cho đến khi thấy được một kết quả có ý nghĩa.”.
Những lời đau xót và tha thiết của ông Yeb Sano đã làm các tham dự viên nói riêng, và cả thế giới chết lặn.
Nỗi đau về thiên tai chỉ là một phần trong vô vàn nỗi đau mà nhân loại phải gánh chịu. Nó có thể là cơn diệt chủng những dân tộc, những nhóm người yếu thế; có thể là sự lừa lọc trên diễn đàn bằng những tuyên bố, những lời hứa “có cánh” trong những cuộc chạy đua quyền lực; có thể là sự làm ngơ trước cái nghèo, cái khốn khổ của đồng loại, miễn mình an thân trong sự giàu có của mình của quốc gia mình; có thể là sự tìm triệt hạ kẻ yếu bằng sức mạnh của mình, của quốc gia mình; sử dụng một cách vô trách nhiệm đối với tài nguyên, khoán sản, miễn sao chính mình, phe nhóm của mình, quốc gia của mình vinh thân phì da…
2. Bài học của chúng ta.
Với tất cả những gì đang diễn ra trên thế giới và xung quanh, chúng ta cần có tầm nhìn xuyên thấu để tìm cho mình bài học.
- Đó là bài học mà Ba Vua đã dạy chúng ta: Nhận ra Chúa hiện diện nơi thụ tạo, để yêu con người hơn, yêu thiên nhiên hơn, yêu chính công trình hoàn vũ mà Chúa đã tạo dựng và ban tặng ta.
- Nhìn xuyên thấu những nỗi đau biết bao nhiêu người, biết bao nhiêu quốc gia, dân tộc phải rên siết, giúp chúng ta có trách nhiệm với nhau, quý trọng sự sống, quý trọng quyền được hạnh phúc của người khác, của quốc gia khác.
- Có nhiều lãnh vực không thuộc khả năng giải quyết của ta, như những gì vừa nhắc đến, bởi nó thuộc tầm vóc quốc tế. Nhưng từ những gì căn bản nhất, gần cận cuộc sống của ta nhất, đến những gì đặc biệt lớn lao, đều cần sự quan tâm, hơn thế, cần sự trăn trở và thao thức của từng cá nhân, để mỗi cá nhân ý thức, thì mới có ý thức của cả cộng đồng.
- Chúng ta là Kitô hữu, những thăng trầm của cuộc sống mình, của đồng loại quanh mình sẽ trở thành lời cầu nguyện, sẽ là hiến lễ dâng lên Chúa để kết hợp những rên siết của nhân loại với thánh giá Chúa Kitô, mong được Chúa thánh hóa và ban ơn tha tội cho mọi con người.
- Dù có nhiều hoàn cảnh không thể do cá nhân giải quyết, nhưng vẫn cần ta lưu ý nó, để khi có thể, ta phải lên tiếng, phải làm tất cả sao cho cuộc sống thêm hạnh phúc, con người bớt đớn đau.
- Dù có nhiều vấn đề không thuộc cá nhân ta, nhưng ta cần biết đến mọi đau khổ của con người, để trong trách nhiệm, trong giới hạn của mình, ta tránh bớt được bao nhiêu hay bấy nhiêu, những tổn thương mà cá nhân có thể gây ra trên cuộc sống của mình, của đồng loại và của mọi thụ tạo.
Tóm lại: Nơi toàn thể thụ tạo, dấu ấn của Thiên Chúa không bao giờ tàn phai. Hãy nhận ra Chúa, nhận ra tình yêu và bàn tay quan phòng của Chúa nơi thụ tạo để yêu mến Chúa hơn, yêu thụ tạo của Chúa hơn.
Thực tập thật nhiều tầm nhìn xuyên thấu, để luôn luôn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi thụ tạo. Hãy tôn trọng thụ tạo, vì đó là cách ta nâng niu sự sống của mình. Yêu thụ tạo, yêu sự sống cũng là một nghĩa vụ thờ phượng mà ta phải có đối với Thiên Chúa, Đấng tạo thành ta và tạo thành vũ trụ.
56. Tìm gặp Chúa
Với lễ Giáng sinh, chúng ta nhận thấy Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta để chúng ta có thể gặp gỡ Ngài. Gặp gỡ Ngài không phải chỉ ở trong đền thờ nguy nga, mà còn gặp gỡ Ngài nơi những con người bình thường. Ngài đó, một Hài nhi bé nhỏ, nằm trong máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem. Đồng thời, không phải chỉ có một hạng người nào đó mới có quyền được gặp gỡ Ngài, mà ngay cả những kẻ tầm thường như những trẻ mục đồng cũng có thể gặp gỡ Ngài.
Để niềm vui của Chúa Giêsu được trọn vẹn, lễ Hiển Linh hôm nay đã gợi lên cho chúng ta một xác tín mới: Thiên Chúa không phải chỉ đến với dân Do Thái, mà còn đến với cả những người từ phương Đông, nghĩa là những người không thuộc về dân riêng của Chúa, những người vẫn bị liệt vào hàng dân ngoại.
Xác tín này đã được thánh Phaolô diễn tả một cách rõ ràng trong bức thư gởi tín hữu Ephêsô: Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, cùng một thân thể và cùng thông phần với lời hứa của Ngài trong Đức Giêsu Kitô.
Với lễ Hiển Liên, Thiên Chúa đã đến với tất cả mọi người, Ngài phá đổ những hàng rào tạo nên sự kỳ thị: Kỳ thị tôn giáo, kỳ thị giai cấp, kỳ thị màu da, kỳ thị tiếng nói. Thực sự thì đó chỉ là những hàng rào do chính con người dựng lên để bảo vệ những quyền lợi cho riêng mình.
Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của tất cả, và điều Ngài ước mơ vẫn là tập hợp muôn dân nước dưới ánh sáng của Ngài. Ngài đã đến với chúng ta, nhưng điều quan trọng đó là chúng ta có tiến tới để gặp gỡ Ngài hay không? Bàn tay Ngài đã giơ ra, nhưng điều quan trọng đó là chúng ta có nắm lấy để được cứu vớt hay không, bởi vì như lời thánh Augustinô đã nói:
- Khi tạo dựng nên chúng ta Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta Ngài đòi chúng ta phải ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Sự thực đã cho chúng ta thấy: Ánh sáng đã chiếu trong u tối, nhưng u tối lại không tiếp nhận ánh sáng. Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng những người thân thuộc đã không tiếp nhận Ngài.
Thực vậy, Ngài đã đến nhưng không phải tất cả mọi người đều tới gặp gỡ Ngài. Một Hêrôđê cũng đã ngỏ ý muốn đến triều bái Ngài nhưng với một âm mưu thâm độc, ông muốn giết hại Ngài để được ngồi mãi mãi trên chiếc ngai vàng của ông. Các luật sĩ và tư tế thì lại thoả mãn với những hiểu biết của mình, để rồi chẳng biết lên đường tìm gặp Ngài? Còn dân thành Giêrusalem thì lại ngại đổi thay và chuyển biến.
Để đến với Chúa, chúng ta cần phải lên đường như ba nhà đạo sĩ phương Đông, không phải trong tối tăm mò mẫm, bởi vì chúng ta luôn có ánh sao lạ, đó là Tin Mừng, thập giá và sự phục sinh của Ngài soi đường dẫn lối.
Lễ Giáng sinh và lễ Hiển Linh chính là một cuộc gặp gỡ. Thiên Chúa đến với con người và con người nhận biết Ngài nơi hài nhi Giêsu.
Như các nhà đạo sĩ phương Đông, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi lên đường đến với hài nhi Giêsu. Lên đường ở đây có nghĩa là từ bỏ những bảo đảm để tiến tới phía trước. Ngài đến trong những cái bất ngờ của những sự kiện diễn ra trong cuộc sống thường ngày. Tuy nhiên chúng ta có sẵn sàng lên đường, đi theo ánh sao là Tin Mừng của Chúa hay không?
57. Tỏ mình
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều qui về một điểm chính là: “Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho tất cả mọi người”, không phân biệt ai, cho dù người Do thái hay kẻ ở ngoài Kitô giáo, như các đạo sĩ từ Phương đông đến. Nhưng đáp lại, không phải tất cả mọi người đều đáp lại ơn Chúa mà chấp nhận từ bỏ cuộc sống của mình, từ bỏ cuộc sống theo tính hư nết xấu của mình để đến gặp và sấp mình khiêm tốn thờ lạy Chúa. Thiên Chúa mạc khải cho con người, cho tất cả mọi người bằng nhiều cách khác nhau.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay, nhất là bài Phúc âm trình bày cho chúng ta thấy hai con đường, hai thái độ đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Con đường thứ nhất là con đường mạc khải chính thức trong lịch sử cứu độ do Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử của dân Chúa. Con đường thứ hai có thể nói là con đường tự nhiên qua các biến cố xảy ra trong thiên nhiên, trong vũ trụ, trong sinh hoạt hàng ngày của con người. Và chúng ta cũng nhìn thấy hai thái độ chấp nhận của các đạo sĩ từ phương xa và thái độ từ chối lơ là không màng chi đến việc đón nhận Chúa như vua Hêrôđê và các thầy thượng tế tại Giêrusalem.
Kinh Thánh đã chỉ cho họ biết, và họ thuộc lòng Kinh Thánh để biết rằng: Con Thiên Chúa sẽ Giáng sinh tại Belem, nhưng họ lơ là hoặc quá say mê hưởng thụ những lợi lộc vật chất mà không chấp nhận từ bỏ, không chấp nhận ra đi đến nơi Thiên Chúa chờ sẵn để gặp họ, để gặp Con Người. Tệ hơn nữa, vua Hêrôđê lại sợ rằng Chúa đến để chiếm lấy quyền của ông, làm cho ông mất danh vọng, mất quyền hành, mất địa vị. Chính vì thế mà ông đã ngấm ngầm muốn hại Chúa, nên ông đã cho triệu tập riêng các đạo sĩ lại để hỏi cặn kẽ về ngày giờ, để rồi như chúng ta đã biết là sau đó, khi vua Hêrôđê đã thấy các đạo sĩ không trở lại với mình nữa, thì nhà vua đã tức giận và ra lệnh giết tất cả các hài nhi trong vùng, trong khoảng từ hai tuổi trở xuống. Ông hy vọng rằng trong số các hài nhi bị giết chết đó có Con Thiên Chúa, có Đấng mà người ta gọi là Đấng Thiên sai, Đấng đến để hướng dẫn dân tộc Do thái, để cứu rỗi nhân loại.
Mừng lễ ba vua hôm nay hay nói được là lễ Hiển linh, lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, cho tất cả mọi người. Lễ này chúng ta có thể nói là bổ túc cho lễ Giáng sinh mà chúng ta đã mừng trước đây.
Lễ Giáng sinh nhìn trên một phương diện nào đó chúng ta có thể nói đó là lễ Chúa mạc khải chính mình Chúa, Chúa đến với dân tộc của Ngài là dân tộc Do thái, và lễ Hiển Linh là Chúa đến với dân tộc ngoài Do thái, với tất cả mọi người và cách thức Chúa đến với họ khác với điều họ mong ước. Chúa đến với họ bằng một đứa trẻ mới sinh nghèo hèn, không ai chấp nhận. Chúa đến với họ trong nghèo hèn, trong khiêm tốn, trong âm thầm ngoài tưởng tượng của những người đáng lẽ ra phải nhận biết Chúa như vua Hêrôđê, các đạo trưởng, luật sĩ trong dân Do thái thời đó.
Thiên Chúa dùng mọi phương thế, mọi con đường, để đến với mọi người ở trong cũng như ở ngoài Giáo Hội Chúa. Con đường của mạc khải Lời Chúa qua lời giảng dạy của Giáo Hội cũng như con đường của các biến cố trong thiên nhiên, trong cuộc sống hằng ngày để nhắc chúng ta rằng, Ngài đang đợi ở nơi đó, Ngài đã hẹn trước với chúng ta để mong gặp chúng ta. Nhưng chúng ta có đáp lại lời mời gọi của Chúa hay không? Ta có đủ can đảm như các nhà đạo sĩ thực hiện một cuộc phiêu lưu từ bỏ nếp sống hưởng thụ vật chất, từ bỏ ngôi nhà vinh quang để đi gặp Chúa hay không?
Trở về cách đây hơn 2000 năm thì chúng ta thấy rằng, phương tiện di chuyển thời đó đường xa và không có nơi cư ngụ tiện nghi như ngày nay. Và để đi đường xa như vậy, từ một vùng đất xa lạ đến một xa lạ khác, và đi tìm một con người mà không ai trong ba nhà đạo sĩ này có thể biết trước là ở đâu, thì các vị đạo sĩ này hẳn đã phải cố gắng thật nhiều, và có lòng can đảm khác thường để liều lĩnh chấp nhận những cuộc hành trình và đích điểm còn mơ hồ chưa xác định được. Các ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy là ơn Chúa đã chiến thắng nơi các ngài. Để lên đường đi tìm Chúa, các ngài đã can đảm chấp nhận những hy sinh, những liều lĩnh, cốt sao là tìm được trẻ thơ như trong giấc chiêm bao.
Nhìn về mỗi người chúng ta, chúng ta cũng có thể nói: mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên để hướng về Ngài, tâm hồn luôn khao khát hướng về Thiên Chúa và khi Thiên Chúa cho ta biết Ngài đến gặp gỡ chúng ta, muốn gặp ta qua những biến cố trong cuộc sống hàng ngày, thì liệu chúng ta có đủ can đảm chấp nhận hy sinh như các nhà đạo sĩ để ra đi để gặp gỡ Chúa hay không? Chúa đến với chúng ta, Chúa tìm chúng ta trước với những ơn lành của Ngài, những ơn soi sáng trực tiếp cũng như dấu chỉ mời gọi xảy ra trong cuộc sống, trong lịch sử của chính chúng ta cũng như lịch sử của dân tộc, của quốc gia và cả trong những biến cố lịch sử thế giới.
Thiên Chúa đi tìm con người để đưa con người trở về với Ngài. Nhưng mỗi người chúng ta có thành tâm thiện chí, có can đảm đủ để nhìn ra những dấu chỉ, những lời mời gọi của Chúa hay không? Hay chúng ta nuôi dưỡng những thiện chí đó trong suốt cuộc hành trình giữa những khó khăn mà chúng ta gặp phải hoặc chúng ta bỏ dở nửa chừng vì những khó khăn đủ loại cản bước chúng ta tìm Chúa. Hay chúng ta sợ Chúa đến tách mất khỏi chúng ta những lợi lộc vật chất, những vinh quang, những uy quyền mà chúng ta đang hưởng như vua Hêrôđê.
58. Thông điệp
Thông thường mỗi sự kiện quan trọng trong đời sống đều nói đến một thông điệp nào đó. Chẳng hạn, như lụt lội hoành hành là sự trả thù của thiên nhiên đối với sự phá phách môi trường của con người. Tình trạng bạo hành hiện nay trên thế giới là kết quả của một lối sống buông thả, chọn tự do và quá đề cao bản ngã cá nhân. Vấn đề quan trọng là phải đọc được nội dung của thông điệp đó. Nội dung này đôi khi ẩn dấu rất khó khám phá, nhưng không vì thế mà không có những dấu chỉ để khi xem thì người ta thấy chứ không phải xem để mà xem.
Do đó, xem một sự kiện và thấy ý nghĩa của nó chính là một yêu cầu của mỗi người chúng ta khi nhìn xem những dấu chỉ thời đại. Những điều này cũng đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm trên đất nước Palestin vào thời Đức Giêsu sinh ra và các đạo sĩ đã thấy được nội dung thông điệp khi nhìn xem ngôi sao lạ tại phương đông.
Các đạo sĩ đã xem thấy ánh sáng.
Các đạo sĩ đông phương những bậc thông thái về bói toán, y học, chiêm tinh và giải mộng. Họ không phải là người Do thái nhưng là dân ngoại. Họ đã lên đường tìm đến Giêrusalem để “bái lạy Người”. Họ đã thấy gì? Họ đã thấy “vì sao của Người xuất hiện bên phương đông”. Điều mà họ thấy là Hài Nhi mới sinh chính là Vị Cứu Tinh (Đấng Mêssia) mà dân Do thái từ lâu mong đợi. Hơn nữa, họ cũng thấy một vương quyền toàn cầu từ nơi Hài Nhi này. Tức là điều mà họ thấy là Thiên Chúa cứu độ đã tỏ mình ra, đã hiển linh cho thế giới, Người là Đấng đến cứu người tội lỗi, Người là ánh sáng huy hoàng bừng lên cho đoàn người đi trong đêm tối. Người là Đấng Mêssia được xức dầu để loan báo Tin Mừng. Những điều này có lẽ Hêrôđê và dân thành Giêrusalem không biết.
Ánh sáng Chúa Kitô không làm cho người ta ngạc nhiên, nhưng để người ta thấy sứ mệnh của Ngài: Ánh sáng đó là để chiếu soi muôn dân.
Ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Chính Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe nói lên cho chúng ta rằng có một sự biểu lộ đồng thời về sự phổ quát của ơn cứu độ và sự tập hợp mọi người trong ánh sáng Chúa Kitô, vì không ai bị loại bỏ khỏi Vương quốc của Người.
Chúa Giêsu không phải của dân Do thái. Người cũng không phải của riêng ai. Chúa Giêsu là của mọi người. Người là ánh sáng chiếu soi muôn dân. Vì thế, cụ già Simêon đã chào mừng Đức Giêsu như “Ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israen dân Ngài”. Người chính là Lời của Thiên Chúa, là sự sống và là ánh sáng cho con người, là ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người khi Người đến trong thế gian. Ánh sáng đã đến thế gian và đẩy lùi bóng đêm của sự dữ và tội lỗi. Các đạo sĩ đã nhận ra ánh sáng chỉ Đấng Cứu Tinh, họ đã theo ánh sáng và đã gặp được Đức Giêsu. Ánh sáng này còn biểu trưng cho ân sủng, tác động của Thiên Chúa trong tâm trí mọi người, và hướng dẫn mọi người đến với Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa đã âu yếm nhìn các nhà đạo sĩ ngoại giáo đang tiến về Đức Giêsu. Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, cũng có ân sủng đang hướng dẫn chúng ta tìm kiếm Đức Giêsu. Mỗi người chúng ta có can đảm đi theo ân sủng đó hay không?
Hãy bước theo ánh sáng.
Vậy đâu là dấu chỉ ngày nay để chúng ta nhận ra ánh sáng, ân sủng, và sự can thiệp của Chúa trong cuộc đời? Điều gì cho phép chúng ta và cũng làm cho chúng ta bắt đầu một cuộc mạo hiểm thiêng liêng như các đạo sĩ năm xưa?
Quả thật, đây là vấn đề ám ảnh mọi người lo âu tìm kiếm chân lý. Các đạo sĩ đã được ngôi sao hướng dẫn đến Giêrusalem, như những đại diện của các quốc gia được thu hút bởi ánh sáng vinh quang của Đấng Toàn năng mà ngôn sứ Isaia đã nhắc tới. Một cách tương tự, 2000 năm sau, những dấu chỉ mà chúng ta cảm nhận hướng dẫn chúng ta đến với Lời Chúa được gìn giữ bởi Giáo Hội và được mạc khải bởi sự chăm sóc mọi thời.
Các đạo sĩ đã biểu lộ sự khao khát tìm kiếm chân lý với thái độ đầy ý nghĩa. Nhìn thấy ngôi sao, họ biết được dấu chỉ chất chứa nội dung thông điệp. Họ sẵn sàng bỏ lại quá khứ và lên đường tìm kiếm. Nhờ vào Lời Chúa với những cố gắng vượt qua những thử thách, họ đã tiếp cận với chân lý tại Bêlem. Nếu các bạn dám mạo hiểm, liều mình theo Lời Chúa, thì các bạn sẽ gặp được niềm vui như các đạo sĩ năm xưa. Sau khi vượt qua dấu chỉ đầu tiên đến sứ điệp phổ quát, một hòa điệu sẽ được khám phá giữa thông điệp ánh sáng của Chúa và kinh nghiệm của đời sống thường nhật. Có như thế, chúng ta mới có thể nhận biết Đấng hiện diện ngay trong chính đời sống của chúng ta.
Như thế, qua việc đọc Lời Chúa chúng ta sẽ thấy, sẽ khám phá, sẽ hiểu được dấu chỉ. Dấu chỉ đó có thể là một hài nhi đang nằm trong máng cỏ hay là một con người bị thất bại đau thương trên thập giá; đó cũng có thể là một người lang thang không nhà ở, đang gặp đau khổ cần sự giúp đỡ. Nhưng đó chính là chân lý, là nguồn hạnh phúc của chúng ta, vì đó là dấu chỉ sự hiện diện và thông điệp của ánh sáng.
Ánh sáng dịu êm! Xin hướng dẫn chúng con từng bước, từng bước một thôi để đến với Ngài. Và một khi đến và gặp gỡ Ngài xin cho cuộc đời chúng con cũng được biến đổi và trở thành ánh sáng để soi dẫn người khác đến với Ngài – Đấng là đường, là sự thật và là sự sống.
59. Ngôi sao rạng ngời - Lm. Vinh Sơn
Vào một đêm mưa bão tố, ngọn hải đăng tại một hòn đảo bị mất điện nên không thể chiếu sáng. Người phụ trách hải đăng vội vã đốt một cây nến nhỏ và cầm cây nến theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt đèn lên. Bấy giờ có người đi xuống cầu thang lên tiếng liền hỏi anh rằng:
- Ông làm gì với cây đèn cầy nhỏ bé này?
Anh trả lời:
- Tôi mang cây đèn lên sân thượng để chiếu sáng giúp tầu bè từ ngoài khơi biết đường trở về và cập bến an tòan.
Người kia thắc mắc:
- Nhưng cây nến nhỏ bé thế này thì tầu bè ở tận ngoài khơi làm sao nhìn thấy ánh sáng được?
Người phụ trách trả lời:
- Bây giờ tôi chỉ cần nó đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có lo liệu tính toán.
Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ trách đã dùng cây nến châm lửa vào cái đèn lồng, trong giây lát ánh sáng từ cây đèn lồng rực lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể xử dụng thay bóng đèn điện. Ánh sáng của nó có sức chiếu ra tận ngoài khơi, hầu giúp tầu bè dễ dàng định hướng di chuyển qua lại hay quay về cập bến an toàn.
Ánh sáng của một vì sao lạ đã tỏa sáng trên bầu Trời dẫn đưa ba nhà đạo sĩ từ phương Đông xa xôi đến bên Hài Nhi Giêsu để thờ lạy Ngài…
Theo Sách Dân số (x. Ds 24,17) sẽ có ngày “ngôi sao nhà Giacóp” sẽ mọc lên và tỏa sáng. Dân Do Thái ngay ở thế kỷ I đã áp dụng lời tiên tri này cho Đấng Mêsia – Đấng Cứu Thế đến cứu dân Chúa đã được tuyển chọn. Hình ảnh tượng trưng đó rất phù hợp với câu chuyện về các đạo sĩ dân ngoại từ phương Đông xa xăm đến thờ lạy Hài Nhi. Lời tiên báo về ngôi sao cho dân Israel không phải do một Ngôn sứ Israel nói ra mà bởi Balaam, một phù thủy dân ngoại, truyền thống vẫn coi ông ta như là kẻ giải mộng huyền bí, nghĩa là một “đạo sĩ”.
Chính Hài nhi là ngôi sao cứu tinh của nhân loại như chính tên Giêsu nghĩa là Đấng Cứu Chuộc. Hài nhi là Đấng Messia, là Chúa Kitô, Ngài là "ánh sáng chiếu soi muôn dân" mà Ngôn sứ Isaia loan báo:“người đi trong bóng tối đã trông thấy xuất hiện một ánh sáng lớn lao, bởi vì một Hài nhi đã sinh ra cho chúng ta” (Is 9,1-5). Ánh sáng đó dẫn đưa mọi dân nước quy tụ thờ phượng Thiên Chúa như Ngôn sứ Isaia tiên đoán các dân các nước sẽ đến để thờ phượng Thiên Chúa của Israel: "Lạc đà dần dần che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha; dân Sơ-Va hết thảy kéo lại, mang vàng với trầm hương, và cất cao lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60,6).
Ba nhà đạo sĩ đã theo ánh sao đến Giêrusalem thì mất ánh sao, nên các nhà Hiền Triết phương Đông vào triều đình hỏi: “ Đức Vua dân Do Thái mới sinh đang ở đâu”, làm vua Hêrôđê bối rối lo sợ (x. Mt 2,3) khi triệu tập các tư tế cùng các kinh sư, những nhà thông thái đã nghiên cứu và giải thích Thánh Kinh,cho biết Đấng Cứu Thế sinh ra ở Bê-lem (x. Mt 2,4-6); dù biết rõ Chúa Kitô xuất hiện nhưng họ cũng hoàn toàn dửng dưng. Thái độ của họ coi như là không có Hài Nhi – Đấng Cứu Thế - được sinh ra. Riêng Vua Hêrôđê, sử sách làm chứng rằng vào những năm cuối đời, ông nghi ngờ mọi người có ý đồ lật đổ ông, vì thế mà ông không ngại ra tay tàn sát tất cả những ai mà ông nghi là sắp làm hại ông, kể cả những người trong gia đình. Dẫu biết rằng Hài Nhi đến từ Thiên Chúa, nhưng với tính cách đa nghi sẵn có ông vẫn sợ Hài Nhi mới sinh sẽ lật đổ vương quyền của ông. Cái sợ đó đã làm ông mất hết lương tri, gây nên tội ác vô cùng to lớn: quyết tâm tìm giết con trẻ Giêsu bằng cách “ Sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống ” (Mt 2,16) sau khi các Đạo sĩ quay về không trở lại với nha vua theo lời phủ dụ của ông..
Nhà Vua, các bậc thông thái và dân chúng Giêrusalem tượng trưng cho người Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng nhưng lại khước từ ơn cứu độ Đức Kitô ban tặng, còn Lương dân được đại diện bởi các nhà chiêm tinh thì đón nhận và hết lòng tìm kiếm để biểu lộ sự tôn thờ cung kính. Dân ngoại khi tin vào Hài Nhi đã thay thế người Do Thái bỏ trống trong lòng sứ điệp của Thiên Chúa, khi họ không chịu tin vào Lời của Ngài: nghe và đón nhận Đấng Cứu Thế. Dân ngoại tin tập họp từ khắp nơi sẽ là dân Israel mới của thời đại cuối cùng, được kêu gọi chia sẻ hạnh phúc của cuộc sống tương lai, chính Chúa Giêsu đã nói"Người ta sẽ từ đông sang tây đến dự tiệc trong nước Chúa"(Lc 13, 29)
Rời khỏi triều đình, các nhà hiền triết phương Đông lại thấy ánh sao tỏa sáng dẫn đường đến tận Bêlem. Khi đến bên Hài nhi các nhà chiêm tinh sấp mình thờ lạy (= bái lạy: cc. 2.8.11): “Bái lạy” hay “sấp mình thờ lạy” (proskyneô) là hành vi sấp mình trên nền nhà để tôn thờ thần thánh hoặc những người có địa vị cao, chẳng hạn với các bậc quân vương. Tác giả Tin mừng Matthêu hầu như chỉ dùng động từ này để diễn tả lòng tôn kính đối với Đức Giêsu bởi những người khẩn cầu tín thác vào Ngài (x. Mt 8,2; 9,18; 15,25; x. 20,20) và bởi các môn đệ tôn kính Thầy (x. Mt 14,33: liên kết với việc tuyên xưng niềm tin vào Con Thiên Chúa), đặc biệt thái độ thờ lạy dành cho Đấng Phục Sinh (x. Mt 28,9.17), như thế hành động tôn kính bái lạy của các hiền triết Phương Đông loan báo về thân phận Đấng Cứu Thế sẽ chịu chết và Phục sinh trong Hài nhi để cho muôn dân tìm kiếm tôn thờ.
Các Đạo sĩ đã lấy vàng, nhũ hương, mộc dược dâng tiến Hài Nhi. Truyền thống cổ xưa cho thấy: sau khi bái lạy một vị vua, các vị khách thường có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật mà các đạo sĩ tiến dâng xứng đáng dành cho bậc quân vương như Kinh Thánh đã nói: vàng trong Thánh Vịnh (x. Tv 72,15); vàng và nhũ hương của ngôn sứ Isaia (x. Is 60,6 ); xức mộc dược cho vua (x. Tv 45,8), hay nhũ hương và mộc dược trong Diễm ca (x. Dc 3,6). Theo truyền thống của các Giáo Phụ nối tiếp truyền thống các tông đồ coi các lễ vật này là những biểu tượng về vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc dược) của Đức Giêsu.
Các nhà đạo sĩ tìm kiếm Thiên Chúa nhờ ánh sao tỏa trên bầu Trời, chúng ta được mời tỏa sáng đức tin và tình yêu để anh em lương dân nhận biết Thiên Chúa như Đức Giêsu nói:”Sự sáng của các con cũng hãy tỏa sáng trước mặt mọi người” và thánh Phaolô mời gọi: "Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2,15).
Tuy nhiên ánh sáng của ngọn đèn chúng ta chỉ leo lét, yếu ớt, Chúng ta chỉ là những vì sao sáng khi chúng ta để mọc lên trong lòng chúng ta (x. 2Pr 1,19) ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x.Kh 2,28).
Thật thế như Ngôn sứ Isaia kêu mời:
"Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra" (x. Is 60,1-6).
60. Ánh sao soi đường - Lm. Anmai, CSsR
Từ ngàn xưa, Do Thái đã được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn làm dân riêng của Ngài. Do Thái như là trưởng tử trong gia đình của Thiên Chúa. Do Thái được yêu thương, được nâng niu, được chiều chuộng một cách hết sức đặc biệt. Trong ý định ngàn xưa, Thiên Chúa muốn Do Thái được vẻ vang, được vinh quang. Vinh quang dành cho dân riêng - dân được chọn ấy - hôm nay được nhắc nơi ngôn sứ Iasia:
Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả,
vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.
Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.
Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem,
tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi:
con trai ngươi từ phương xa tới,
con gái ngươi được ẵm bên hông.
Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ,
lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ,
vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả,
của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi.
Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha:
tất cả những người từ Sơ-va kéo đến,
đều mang theo vàng với trầm hương,
và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa. (Is 60, 1-60)
Thế nhưng, vì bội nghĩa vong ân, nhiều lần nhiều lúc Thiên Chúa đã oán phạt dân riêng mà Ngài đã chọn. Phạt thì phạt, giận thì giận nhưng Thiên Chúa không đành cắt đứt nghĩa tình của Ngài. Và rồi, bằng nhiều hình thức, nhiều cách, Thiên Chúa đã tỏ lộ tình yêu ấy.
Trong cuộc sống thường nhật, cái gì mà lộ ra trước mắt người ta mà người ta không mất công để tìm kiếm thì những thứ ấy dường như không có giá trị và người ta cũng không trân trọng. Với những gì mà người ta cất công tìm kiếm, khi có được thì thái độ, tâm tình của họ khác hẳn. Họ sẽ hết sức vui mừng, mất ăn mất ngủ với những gì mà họ có được sau những ngày dài vất vả.
Đơn giản nhất là sau khi miệt mài lao động, sau khi miệt mài vất vả thì người thợ lặn mới có thể tìm ra được viên ngọc quý. Ngọc quý nằm sâu tít dưới đáy biển chứ không nằm lộ thiên để người ta nhặt về làm của riêng cho mình.
Thiên Chúa cũng vậy, Thiên Chúa có đó, Thiên Chúa đã mạc khải về Ngài nhưng chỉ những ai thành tâm tìm kiếm mới được gặp Ngài.
Có những lúc Thiên Chúa xuất hiện chỗ này hoặc chỗ khác, có những lúc Thiên Chúa ẩn mình. Có những lúc Thiên Chúa nói trực tiếp, có những lúc Thiên Chúa nói gián tiếp. Có những lúc người ta cảm giác như Thiên Chúa đi đâu đâu rồi nhưng thực sự Thiên Chúa vẫn có đó trong thế gian này.
Việc Con Thiên Chúa cất tiếng khóc chào đời để cứu độ nhân loại cũng vậy, đâu phải một ngày một bữa mà Giêsu xuống thế gian. Một chặng đường dài của lịch sử, Con Một Thiên Chúa đã được tiên báo qua miệng của các ngôn sứ, qua những người trung gian của Thiên Chúa.
Trở về với cái bối cảnh Bêlem ngày nào, chúng ta sẽ thấy rõ chuyện này.
Đấng Mêsia được loan báo trong Cựu Ước. Sự xuất hiện của Đấng Mêsia đã làm đảo lộn cả thế giới và rồi mỗi người một cách nghĩ, mỗi người một cách kiếm tìm. Chỉ biết là Mêsia đến nhưng không biết đến ngày nào và đến ở nơi đâu. Các ngôn sứ hình như có nói về cái mảnh đất nhỏ bé Bêlem nhưng mấy người chịu tin vì Bêlem là cái chi chi để mà Mêsia đến.
Bêlem ngày nào đó cách đây hơn hai ngàn năm được cái vinh hạnh là đón Đấng Cứu Thế trần gian cất tiếng khóc chào đời. Phải nói rằng Bêlem chẳng là gì cả so với những vùng đất tên tuổi. Bêlem nhỏ bé đến độ chẳng ai thèm để ý đến, thèm ngó ngàng đến ấy vậy mà lần này Bêlem được nổi tiếng.
Cũng để thoả mãn trí tò mò, để an tâm hơn với cái lời đồn đại vua dân Do Thái sẽ xuất hiện thì vua dân Do Thái hỏi các thượng tế và kinh sư. Tưởng các thượng tế và kinh sư không biết chuyện này nhưng các thượng tế và kinh sư trả lời một cách mau mắn câu hỏi của nhà vua về chuyện Đấng Cứu Độ trần gian cất tiếng khóc chào đời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." Trả lời quá nhanh với câu hỏi hóc búa! Cũng đúng thôi vì những kinh sư và thượng tế là những người nghiên cứu rất kỹ về Đấng Mêsia và ngong ngóng Đấng Mêsia ngự đến.
Vốn dĩ kém lòng tin cộng với sự lo lắng về ngai vàng của mình Hêrôđê bí mật mời các nhà chiêm tinh đến hỏi cho ăn chắc. Ông không thể tin được Mêsia đến ngay cái thời của ông và sợ nhất là vua dân Do Thái chào đời ấy sẽ làm cho ông mất ngai thế là ông làm ra cái vẻ tốt bụng, ông đã mời các nhà chiêm tinh đến để hỏi và còn làm bộ làm tịch nếu như gặp "Người" thì chỉ cho vua biết để vua "bái lạy".
Sau khi rời khỏi dinh thự Hêrôđê thì ánh chỉ đường cho những nhà chiêm tinh lại xuất hiện để chỉ đường cho các ông. Nhờ ánh sao soi đường các ông đã đến được nơi cần đến. Các ông đã gặp Hài Nhi và thân mẫu của Hài Nhi. Kèm theo lời chào, lời thăm hỏi đó là lễ vật dâng lên Hài Nhi.
Một lần nữa, các nhà chiêm tinh được báo cho biết con đường để đi về sau khi gặp Hài Nhi. Các nhà chiêm tinh phải đi về bằng con đường khác chứ không được đi về bằng cái con đường cũ mà các ông đã đi.
Các nhà chiêm tinh, Thánh Kinh không nhắc đến là người nào, dân tộc nào nhưng có lẽ họ là dân ngoại. Họ không theo tôn giáo nhưng họ say mê nghiên cứu vũ trụ, họ nghiên cứu về cuộc đời. Căn cứ vào những gì được báo mộng, căn cứ vào những diễn tiến trong cuộc đời và họ đi tìm Đấng Cứu Độ trần gian. Khởi đầu chắc có lẽ cũng do tò mò, do muốn tìm hiểu sự thật xem có đúng với những gì được tiên báo không nhưng mọi việc diễn ra trước mắt của các ông không có gì có thể chối cãi được. Hài Nhi Giêsu và Mẹ Ngài sờ sờ bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Thấy vậy và ắt hẳn các ông đã tin.
Mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa Các nay không còn ở trong sách vở, ở trong lý thuyết, ở trong những điều tiên báo nữa mà là sự thật. Sự thật về Ngôi Hai đã được mạc khải nhờ Tin Mừng. Sự thật ấy, việc mạc khải ấy đòi hỏi sự cộng tác, sự tìm tòi của con người. Phần Thiên Chúa, Thiên Chúa từ ngàn xưa đã có và hiện tại cũng đang có. Phần con người, con người phải mất công đi tìm để đáp lại tiếng của Ngài.
Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi cho giáo đoàn Êphêsô mới nhắc nhớ chúng ta điều ấy: "Anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây. Anh em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Ki-tô thế nào. Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa". Ep 3, 2-3a5.6
Qua mọi thời, Thiên Chúa vẫn dùng Thần Khí và các thánh Tông Đồ và các ngôn sứ để mạc khải về Ngài. Chúng ta được may mắn hơn dân Do Thái ngày xưa là ngày nay chúng ta được mạc khải quá rõ ràng về Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện ra bằng cách này hay cách khác, bằng ánh sao này hay ánh sao khác trong cuộc đời chúng ta là những biến cố trong cuộc đời chúng ta. Chuyện quan trọng là chúng ta có nhận ra ánh sao soi đường ấy hay không mà thôi.
Giữa biết bao nhiêu con người thời của Hêrôđê, thời của các thượng tế và kinh sư, thời của các nhà chiêm tinh và của biết bao nhiêu người Do Thái thì chỉ có những nhà chiêm tinh đã được nhận thấy Thiên Chúa một cách nhãn tiền. Ơn phúc ấy đòi hỏi sự góp công, sự tìm tòi và nhờ ơn Chúa.
Chúng ta xin ơn Chúa cho chúng ta cũng biết bắt chước như các nhà chiêm tinh để chúng ta có một lòng say mê tìm kiếm Thiên Chúa như họ. Và, trong cái hành trình tìm kiếm Thiên Chúa ấy có những lúc khó khăn là bị mất dấu do mất ánh sao lạ hay là sự đe doạ của những Hêrôđê thời đại nhưng nếu vững tâm và vững tin thì sẽ được gặp.
Và khi gặp Ánh Sao Soi Đường, khi có Ánh Sao Soi Đường trong cuộc đời của ta, ta cũng nên chăng bắt chước những nhà chiêm tinh là chia sẻ Ánh Sao mà chúng ta bắt gặp trong cuộc đời của anh chị em đồng loại chung quanh ta. Thiên Chúa vẫn muốn, vẫn mời gọi mỗi người chúng ta hãy là một ánh sao nho nhỏ để cho người khác được xem thấy. Thiên Chúa vẫn muốn chúng ta chỉ cho mọi người thấy Ánh Sao Soi Đường đích thực chính là Ngài.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Ánh Sao Soi Đường chỉ đường dẫn lối cho mỗi người chúng ta luôn đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta không bao giờ phải lạc bước giữa cuộc đời đầy phong ba bão táp này và cũng nguyện xin Ánh Sao Soi Đường ban ơn cho chúng ta để chúng ta được chiêm ngắm vinh quang mà Thiên Chúa hứa cho những ai Ngài yêu thương, Ngài ân thưởng.
61. Lễ Hiển Linh
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Khi ngôi sao chiếu sáng trên bầu trời Bêlem, là lúc tình trạng dân Israel như thầy tư tế già Dacaria phát biểu “ngồi trong nơi tối tăm và trong bóng tử thần” (Lc 1,79). Tuyển dân của Chúa mà còn như thế huống nữa là dân ngoại. Thánh Phaolô phác hoạ tình trạng thuộc linh của dân ngoại: “Thuở ấy anh em không có Đức Kitô, không được hưởng đặc quyền của Israel, xa lạ với các Giao Ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này” (Ep 2,12). Tóm lại, lúc Đấng Kitô giáng thế là lúc thế gian suy đồi cùng cực, đang đứng trên bờ vực thẳm, thì ngay khi ấy ngôi sao xuất hiện ở Đông Phuơng đem theo lời hứa vĩ đại Tin Mừng.
1. Ngôi sao của hy vọng.
Trong quan niệm của người Đông Phương, sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ tới một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông Phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn học chiêm tinh với các khoa tử vi. Lịch sử Trung quốc ghi lại truyện hoàng đế Quang Vũ đời Đông Hán rất kính trọng ông Nghiêm Tử Lăng, sai sứ đi nhiều lần mới mời được ông vào triều, nhà vua tiếp đón ông rất mực kính trọng và thân thiết, giữ ông lại trong cung đến đêm và nằm chung một giường. Nửa đêm, Tử Lăng gác một chân lên bụng nhà vua, nhà vua không nỡ làm ông thức giấc, cứ để yên cho ông làm như vậy. Sáng hôm sau liền có quan thái sử tâu lên vua rằng hồi hôm xem điềm trời, thấy sao của khách xâm phạm sao nhà vua rất gấp, xin hoàng thượng nên để ý. Vua Quang Vũ cả cười nói rằng: “Ta biết rồi, việc này xảy ra chỉ vì ta và Tử Lăng cùng nằm chung một giường, và chân của Tử Lăng gác lên bụng ta mà thôi, các khanh chớ lo!”. Đối với các nhà bác học Đông Phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu các tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho “ý muốn vĩnh cửu”. Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh Thánh: “Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Vì vậy khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy “vì sao xuất hiện từ Gia cóp” hầu tìm ra con đường sáng cho mình trong một thế giới u minh.
2. Ngôi sao thần bí
Khi nghe được tin này Hêrôđê hết hồn, với tầm óc hiểm độc và quỷ quyệt nhà vua coi đây là một điều rất dữ. Sự xuất hiện của ngôi sao cũng như sự xuất hiện những chữ viết trên bức tường của cung điện vua Benxatxa ngày xưa, dự báo sự diệt vong của nhà vua. Điều đó có nghĩa là sẽ có một vua Giuđa thay cho mình ngồi trên ngai vàng. Do đó nhà vua phải sử dụng đến mọi thủ đoạn ác độc để diệt trừ hậu hoạ khi còn trong trứng nước. Nhưng mưu độc của loài người làm sao phá hỏng được kế hoạch của Thiên Chúa. Con Trẻ mà Hêrôđê tìm giết lại là Con Trẻ thoát khỏi tai hoạ.
Một điều lạ kỳ ấy là ngôi sao một đàng là hy vọng, là niềm vui lớn cho mọi người thiện tâm, lại nên điềm dữ báo nguy cho hạng người tàn ác. Ý nghĩa cao đẹp của nó được những tấm lòng ích kỷ tham lam nhận ra. Sự xuất hiện của ngôi sao báo hiệu ngày tàn của họ đã tới!
3. Ngôi sao dẫn đường.
Ngôi sao trên bầu trời Bêlem đã dẫn các đạo sĩ Đông Phương trải qua cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông tới nơi Con Trẻ mà các ông muốn kiếm tìm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mặc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
Ngôi sao trên bầu trời Bêlem vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho tất cả những ai cần tìm chân lý, muốn được cứu rỗi linh hồn, và mong nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa.
4. Ngôi sao của vui mừng.
“Khi thấy ngôi sao dừng lại chỗ Con Trẻ, các hiền sĩ hết sức vui mừng”. Vì đối tượng mà họ khổ công tìm kiếm nay đã thấy rồi, lòng khao khát chân lý với nếp sống quang minh chính trực nay đã được hoàn toàn thoả mãn. Niềm vui của họ là điềm báo ân phúc lớn lao sau này Chúa dành cho các môn đệ: “Thầy nói điều đó với anh em để niềm vui của Thầy ở cùng anh em và niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 15,11).
Trong những năm sau khi Chúa Giêsu giáng thế, sự vui mừng mà các hiền sĩ Đông Phương đã được hưởng, thì bao nhiêu người khác cũng được huởng nhờ ngôi sao chỉ đường dẫn lối. Lòng khao khát chân lý của họ cũng được đền đáp vì họ nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa dành cho mọi người thiện tâm.
Và nếu ngôi sao trên bầu trời Bêlem này như ngọn đuốc soi đường dẫn các hiền sĩ tới mục tiêu, thì cái thế giới mà chúng ta đang sống đây mới tìm ra được ý nghĩa mới, vui mừng và hy vọng mới thay vì tuyệt vọng và sầu thảm của những ngày cũ.
62. Chúng tôi đến bái lạy Người - Lm. Trầm Phúc
Lễ Hiển Linh có thể gọi là lễ của ánh sáng, ngày kính nhớ việc Chúa cho dân ngoại nhìn thấy ánh sáng vinh quang của Ngài, và kêu gọi họ hiệp thông với Ngài.
Thánh Mat-thêu viết sách Tin Mừng của ngài cho những giáo dân người Do Thái mới theo đạo, để chứng minh cho họ biết rằng, Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế mà họ đang đợi trông. Vì thế, ngài nhắc đến những biến cố lịch sử của Cựu Ước và các tiên tri. Chúng ta không thể nói đến tất cả những biến cố lịch sử đó, nhưng chỉ căn cứ vào trình thuật của Thánh Sử để suy nghĩ về biến cố trọng đại này, để hiểu những gì Chúa muốn nói với chúng ta.
Trình thuật cho thấy ba nhà đạo sĩ mà chúng ta quen gọi là Ba Vua, cũng là những nhà chiêm tinh, là những người xem đường vận chuyển của ngôi sao tinh tú để đoán vận mạng của thế giới. Chúng ta cũng không thể biết ba đạo sĩ này là những người nào, có phải là vua không hay chỉ là những nhà khoa học thời bấy giờ, điều đó không quan trọng. Họ thuộc những sắc tộc khác nhau, cùng nhìn thấy một ngôi sao lạ đặc biệt hơn những ngôi sao họ thường thấy, và theo quan niệm thời bấy giờ, họ cho rằng, ngôi sao ấy là điềm báo cho biết một vị vua thật vĩ đại vừa mới ra đời.
Họ đã lên đường tìm kiếm vị vua lạ thường ấy. Đây là một chuyến đi mạo hiểm, lâu dài và không kém gian khổ. Nhưng họ vẫn ra đi, bất chấp mọi trở ngại có thể xảy ra.
Đi từ ba phương trời khác nhau, họ đã gặp nhau và cùng đi với nhau. Nhưng khi đến Giê-ru-sa-lem, vì sao biến mất. Họ tưởng rằng đã đến nơi. Hỏi thăm, không ai biết. Có lẽ có ai gợi ý và chỉ dẫn họ đến với vua Hê-rô-đê.
Họ nói: “Đức vua dân Do thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương đông nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Nghe nói thế, Hê-rô-đê bối rối. Có lẽ ông đã tự hỏi: ông vua nào? Hê-rô-đê là người Do Thái, nên ông biết Thánh Kinh; ông sực nhớ rằng: đúng thế, Đấng Cứu Thế phải đến, và Ngài đến rồi chăng? Ông cho mời các thầy thông luật và các tiến sĩ đến và hỏi riêng họ xem Đấng Cứu Thế sinh ra tại đâu? Họ nói: “Đấng Cứu Thế sẽ sinh hạ tại Bê-lem như lời Kinh Thánh đã viết”.
Hê-rô-đê bối rối, lo âu. Dân Giê-ru-sa-lem xôn xao. Giờ đây họ mới nghe nói đến Đấng Cứu Thế mà họ và cha ông họ đã trông đợi từ lâu, hôm nay đã đến. Nghe một tin trọng đại như thế, họ xôn xao rồi thôi, không mấy người nghĩ đến. Hê-rô-đê, ngược lại, ông chú ý đặt biệt đến ông vua mới sinh này và cặn kẽ hỏi thăm các nhà đạo sĩ đến ngày tháng ngôi sao đã mọc lên và bảo họ đến Bê-lem, điều tra cẩn thận về Hài Nhi và khi về sẽ cho ông hay. Ông sẽ đến bái lạy Hài Nhi mới sinh…, nhưng với cây dao găm…
Thánh Mat-thêu muốn cho chúng ta thấy sự vô tình của dân thành Giê-ru-sa-lem và thiện chí của những đạo sĩ.
Hê-rô-đê run sợ vì nghĩ rằng ngai vàng của ông sẽ bị đe dọa. Lịch sử đã cho thấy, vào cuối đời ông, vì sợ mất ngôi nên ông đã dìm triều đình trong biển máu.Thế gian là như thế. Không vua nào mà không sợ mất ngôi, và họ không ngại giết tất cả những ai có thể đe dọa ngai vàng.
Vua Giêsu không như thế. Ngài là Vua Tình Yêu, Ngài dám bỏ tất cả vinh quang thần linh của Ngài để đến cứu vớt chúng ta.
Cha Karl Rahner nói: “Lễ Giáng Sinh là lễ Thiên Chúa đến tìm con người, lễ Hiển Linh là lễ con người đi tìm Thiên Chúa”.
Chúng ta có tìm Chúa không?
Chúng ta đã có Chúa rồi thì phải, chúng ta không cần phải tìm kiếm gì nữa. Làm như Thiên Chúa là một kho tàng, chúng ta đã nắm trong tay rồi, cất kỹ ở đâu đó và chúng ta không phải tìm kiếm gì thêm.
Chúng ta giống như dân Do Thái, tự mãn vì họ đã có Lề Luật, Giao Ước, và xem như được bảo đảm về mọi mặt (như thánh Phao-lô đã nói với giáo đoàn Rô-ma). Nhưng họ không giữ được hồng ân đã ban cho họ.
Những người ở xa, không được biết Chúa lại ra công tìm kiếm và họ đã tìm thấy.
Chúng ta đã lãnh nhận đức tin như một hồng ân nhưng không.
“Đừng để muối lạt đi”. Đừng để ánh sáng trong tâm hồn chúng ta lụi tắt. Hãy nuôi ngọn lửa đức tin bằng sự trung thành, bằng cố gắng tìm kiếm.
Đức tin không phải là một bảo vật chúng ta có sẵn mà là một sự sống cần được nuôi dưỡng để lớn lên và trưởng thành. Phải luôn tỉnh thức để vâng theo những thúc bách của Chúa Thánh Thần, vì con người xác thịt của chúng ta nặng nề, ngại cố gắng, chỉ mong sống nhàn hạ dễ dàng.
Các Thượng tế Do thái và Pha-ri-sêu, là những người nằm lòng Kinh Thánh, vẫn không hay biết “giờ Chúa đến viếng thăm họ”. Họ đinh ninh rằng, họ là “con cái Ab-ra-ham, là dân thánh” của Chúa, họ không cần phải cố gắng hơn.
Con đường tìm Chúa không dễ. Ba nhà đạo sĩ cũng trãi qua nhiều thử thách, mất phương hướng khi ngôi sao biến mất, nhưng họ không dừng lại hoặc bỏ cuộc; trái lại, họ vẫn tiếp tục nghe theo tiếng thúc bách trong lòng. Và vì vậy, họ đã được ân thưởng. Những đạo sĩ này chính là của đầu mùa của dân ngoại đã tìm được ánh sáng.
Phải, Chúa Giêsu chính là Ánh Sáng thật, không lụi tàn theo thời gian. Ngài là Ánh Sáng ban sự sống. Giáo Hội đã chọn hai bài đọc Cựu Ước trong sách tiên tri I-sa-i-a để đọc trong lễ Giáng Sinh và lễ Hiển Linh, cho chúng ta thấy rõ hồng ân Chúa ban cho chúng ta trong mùa Giáng Sinh, qua người Con Một.
Trong lễ Giáng Sinh, Giáo Hội nói lên niềm vui Chúa ban: “Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm hoan hỉ, đã tăng thêm nỗi vui mừng”. Tiên tri cho thấy thời thiên sai sẽ có hòa bình và tự do: không còn ách nô lệ, không còn chiến tranh, vì “một trẻ thơ đã chào đời để cứu chúng ta, một người Con đã được ban tặng cho chúng ta”. Trong lễ Hiển Linh, lời tiên tri nói đến vẻ huy hoàng rực rỡ của Giê-ru-sa-lem: “Giê-ru-sa-lem rực sáng lên “vì vinh quang của Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Chư dân sẽ đi về ánh sáng của ngươi. Mọi nguồn giàu sang phú túc sẽ tuôn tràn đến ngươi. Vàng với trầm hương sẽ được đem đến cho ngươi, và muôn dân sẽ ca tụng Chúa”. Giê-ru-sa-lem trần gian không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”, nhưng Giê-ru-sa-lem mới sẽ thành nơi quy tụ của muôn dân. Giáo Hội chính là Giê-ru-sa-lem mới đó.
Điều này chứng tỏ ý định cứu độ của Chúa, không dành riêng cho một dân tộc hay cho một số người nào, mà cho tất cả mọi người không trừ ai. Thiên Chúa mời gọi mọi người vào niềm vui cứu độ của Ngài. Chúa sử dụng tất cả mọi tạo vật để chuyển tải sứ điệp của Người.
Đối với các đạo sĩ, Chúa dùng ngôi sao. Còn chúng ta? Chúng ta có thấy trên nền trời tâm hồn một ngôi sao nào không? Chúng ta có tìm kiếm không? Chúng ta có chú ý đến vì sao đang chiếu sáng trên đỉnh núi kia không? Đó là ngôi sao của Tình Yêu giáng thế. Hay chúng ta chỉ chú ý đến những vì sao trần thế: ngôi sao bóng đá, ngôi sao màn bạc, ngôi sao nhạc rock?...
Cầu xin cho một ngày nào đó, chúng ta nhận thấy có một vì sao nhỏ, nhưng khiến chúng ta quên hết mọi sự, để lại mọi sự sau lưng và lên đường tìm kiếm đó là em bé Bê-lem. “Em bé này rồi sẽ ra sao, vì tay Chúa đã đặt trên em?” Ngài là Ánh sáng chiếu soi trong đêm tối của trần gian, Ngài là Tình Yêu.
Tình yêu ư?
Đúng thế, bản thể Ngài là Tình Yêu. Em bé này sẽ tan xương nát thịt thôi, vì tình yêu là như thế. Vận mạng của em là như thế, không thể khác được. Thiên Chúa Tình Yêu đã trở thành em bé Tình Yêu. Nhiều người sẽ yêu em, nhưng cũng có nhiều người sẽ giết em, vì họ không thể là tình yêu.
Em bé Bê-lem đang mời gọi chúng ta, không chỉ chúng ta mà hết mọi người. Đến lượt chúng ta, hãy trở nên những vì sao nhỏ, nhỏ thôi, nhưng là những vì sao hướng dẫn mọi người quanh ta về với Thiên Chúa Tình Yêu. Muốn thế, chúng ta hãy yêu thương. Ánh sáng của tình yêu mới đủ sức chinh phục con người. Chúng ta không thể được cứu rỗi linh hồn một mình, vì Chúa không chỉ cứu chúng ta mà thôi. Ngài muốn muôn dân phải được dự vào bữa tiệc yêu thương của Ngài, và chúng ta chính là những người có nhiệm vụ đem mọi người vào bàn tiệc Vua Trời.
Em bé Bê-lem vẫn có mặt nơi đây, nơi bàn thờ này. Ngài đến vì chúng ta và cho chúng ta. Ngài là của ăn để chúng ta lớn lên và trưởng thành trong niềm tin, nhờ đó chúng ta đủ năng lực trở nên những người mời gọi những anh em khác vào ca tụng Chúa với chúng ta.
63. Ánh vinh quang – Trầm Thiên Thu
Lễ Hiển Linh trước đây được gọi là lễ Ba Vua. Tuy nhiên, sự thật họ không phải là những ông Vua mà là các chiêm tinh gia, các đạo sĩ đến từ Đông phương, cũng không phải chỉ có ba ông mà nhiều ông. Với con mắt "nhà nghề", họ đã nhân biết đó là Ánh Sao Lạ, ngôi sao này kỳ lạ đến nỗi họ đã phải tức tốc lên đường đi tìm, nghĩa là họ đã được Ơn Chúa tác động, nhưng điều quan trọng là họ mau mắn làm theo linh hứng của Chúa Thánh Thần.
Hiển linh là Thiên Chúa tỏ cho nhân loại biết và nhân loại đã nhận biết Hài Nhi Giêsu là Thiên Tử, là Đấng Thiên Sai. Lời cầu nguyện "xin cho Danh Cha cả sáng" đã hiện thực.
Ngôn sứ Isaia nói: "Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi" (Is 60:1-2). Ánh Sáng đó là vinh quang Thiên Chúa, Ánh Sáng đó là Đức Kitô giáng sinh tại Belem, và từ nay, Ánh Sáng đó luôn chiếu tỏa khắp nơi, bóng tối phải lùi bước ở bất cứ nơi nào có Ánh Sáng.
Vì thế, "chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông" (Is 60:3-4). Trong số chư dân đó có chúng ta, những con dân nước Việt bé nhỏ, thế mà lại được làm con của Thiên Chúa, vì Ánh Sáng Đức Kitô đã và đang chiếu sáng dọc suốt đất nước hình chữ S thân yêu của dân Việt chúng ta. Thật kỳ diệu biết bao! Đúng như ngôn sứ Isaia đã tiên báo: "Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60:5-6).
Toàn thể nhân loại hân hoan qua lời cầu nguyện: "Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn" (Tv 72:1-2). Công lý rất cần, có công lý mới khả dĩ có hòa bình đích thực, có công lý thì người nghèo mới được tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Chính Chúa Giêsu đã đến thực hiện công lý. Vì thế, chắc chắn "triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất" (Tv 72:7-8). Đó là vương quốc hòa bình, mỗi công dân đều sống trong hạnh phúc.
Từ khắp nơi, không trừ nơi nào, ngay cả những vùng sâu vùng xa nhất, từ "các hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống Ngài, những vua chúa cũng đều tới tiến dâng lễ vật, mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự" (Tv 72:10-11). Đức Kitô là Vua Công Lý, "Ngài giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ" (Tv 72:12-13). Đó là điều mà Giáo hội đang rất quan tâm, được trình bày qua Giáo huấn Xã hội Công giáo, nhất là từ Công đồng Vatican II.
Thánh Phaolô nói: "Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Ngài đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây" (Ep 3:2-3). Tông truyền là một trong bốn đặc tính của Giáo hội Công giáo, và đó cũng là mối dây liên kết các chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô, đồng thời cũng là tình liên đới với nhau – kể cả với người không cùng tôn giáo.
Thánh Phaolô giải thích rõ ràng: "Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Ngài đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Ngài. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Ep 3:5-6). Vì thế, chúng ta không có lý do gì để "chảnh" hoặc kỳ thị người khác, dù người đó là ai.
Thánh sử Mátthêu kể: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người" (Mt 2:2). Nghe tin ấy, vua Hêrôđê mới tá hỏa tam tinh, như bị sét đánh ngang tai, vì tâm bất chính nên ông bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ đều trả lời: "Tại Bêlem, miền Giuđê". Đúng như trong sách ngôn sứ có chép rõ ràng: "Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời" (Mt 2:6).
Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Ngài" (Mt 2:7). Nghe chừng tử tế quá! Miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm. Đây là loại "đểu thật" chứ không "đểu giả", lọc lừa và mánh khóe một cách tinh vi, người khác khó có thể nhận ra, khi biết bị lừa thì "chuyện đã rồi". Động thái của vua Hêrôđê cũng nhắc chúng ta xem lại lời ăn tiếng nói và hành động của mình có "lệch pha" hay không, vì ai cũng có thể nói hay về mình, muốn chứng tỏ mình "tốt lành" nhưng thực ra lại đang mưu mô thâm hiểm.
Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi, vì họ ngay lành nên cứ tưởng ông vua này cũng tốt lành. Thực ra vua Hêrôđê chẳng dễ dãi cho họ đi như vậy đâu, ông ta tính "đường dài" hơn, chơi "nước cờ" cao hơn thôi. Chứ nếu ông ta không tính xa thì ông ta đã bỏ tù họ hoặc lệnh cho họ bị "cẩu đầu trảm" rồi.
Ra khỏi hoàng cung, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, rồi mới dừng lại. Lạ thật! Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Vào trong hang đá, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Cô Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Hài Nhi.
Thấy một Em Bé ngọ nguậy, thế mà họ sụp lạy. Lạ thật! Đó là đức tin của họ. Nếu là chúng ta, liệu chúng ta có tin và sụp lạy Hài Nhi như họ? Có lẽ "hơi bị khó". Nhưng mấy chiêm tinh gia kia không đắn đo, không tính toán, không ngập ngừng, thấy và sụp lạy ngay. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.
Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình. Họ lại nhận được ơn Chúa. Chắc lúc này họ mới nhận thấy mình thực sự may mắn vì thoát khỏi "nanh vuốt" của ông vua dã tâm Hêrôđê. Việc Chúa làm thật là kỳ diệu!
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, xin giúp chúng con sống ngay lành, tâm địa tốt lành, biết nghĩ tốt cho người khác chứ không suy đoán theo thiên kiến. Tất cả vì sáng danh Chúa chứ không vì vinh danh chúng con hoặc tư lợi. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Amen.
64. Lễ Giáng Sinh của muôn dân
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề: “Còn một nhà đạo sĩ khác nữa” (The Other Wise Man), kể về một nhà đạo sĩ thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị Vua vừa sinh ra ở Bêlem. Nhà đạo sĩ này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban đã chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông để dâng tặng Hài Nhi Giêsu. Thế nhưng trên đường đến gặp ba nhà đạo sĩ kia để cùng đi, gặp bất cứ ai xin, ông cũng đem ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp được là một bà cụ già rét run vì lạnh. Động lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ già viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính toan làm nhục cô gái. Ông đành đem viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lình do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Ông đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, nhà đạo sĩ thứ tư này chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Ông bối rối và kể lại cuộc hành trình của mình. Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra nhận quà của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ. Chính nhờ những nghĩa cử này mà Thiên Chúa mới được tỏ mình ra cho mọi người.
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.
Nội dung của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động qua câu chuyện về Ba Vua, đúng hơn là ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Chúa Giêsu mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là Ba Vua, do đó Lễ Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là: các đạo sĩ, có thể là các nhà bác học hay thiên văn học, đã từ Phương Đông mà tới (Phương Đông vẫn thường được coi là phương trời của những dân ngoại), họ là những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc đối với Dân riêng của Chúa và đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại độ của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin “Vua người Do Thái mới sinh”, Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại, họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người bị liệt vào hàng “dân ngoại” lại hăm hở đến với “Vua người Do Thái”, cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.
Thưa anh chị em,
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua bài Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.
Vấn đề được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, hãy tự vấn rằng bản thân chúng ta đã biết Đức Kitô đến mức độ nào? Nhất định chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới hạn. Xét về việc giảng giải bằng lời nói, chúng ta có thể bập bẹ đưa ra một số chi tiết về con người của Đức Kitô, về giáo thuyết, về thân thế và sự nghiệp của Đức Kitô; những điều mà người thiện chí không thể không nhìn thấy. Còn nếu chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã nói: “Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương Đức Kitô”, thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc sống hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản thân tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự, tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi cả vì chình cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.
Thật vậy, còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?” hoặc: “Đức Giêsu là ai vậy?. Vậy thì, hỡi các Kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi: “Đức Kitô là ai?”. Nhưng xin đừng mở cuốn Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch, đó là con đường yêu thương. Thật vậy, chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.
Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
May mắn là vào thời đại chúng ta, có Mẹ Têrêsa Calcutta. Qua chính cuộc sống đầy hy sinh vì mọi người, Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy Thiên Chúa. Thật kỳ diệu: ngay Cuba rồi Liên Xô cũng mời Mẹ Têrêsa đến thăm và cho phép lập Dòng các chị em Thừa Sai Bác Ái với quyền thu nhận tập sinh, đang khi các Dòng khác đã có mặt từ lâu, vẫn chưa được phép này. Tại sao? Cuộc đời hy sinh của Mẹ Têrêsa, từ khi là nữ tu trẻ, từ năm 1918, đã dám mạo hiểm, mạo hiểm trong khiêm tốn nhưng lòng đầy tình yêu Thiên Chúa và con người. Sống trong tập thể tu viện với đầy đủ tiện nghi của một Dòng chuyên dạy con gái nhà giàu, được bảo đảm hơn là cô đơn giữa xóm ổ chuột. Thế mà, trong thời gian dài, nữ tu Têrêsa là con người lang thang trên các nẻo đường ở Calcutta, vì Têrêsa thấy rõ Chúa Giêsu đang sống trong những người nghèo bên các vỉa hè của những người dư giả, giả vờ quên rằng có Lazarô đang nằm chết đói ngoài cửa nhà mình, đang chờ một phần ăn rất nhỏ, vất đi từ một bàn tiệc linh đình sang trọng. Tình yêu, yêu Thiên Chúa, yêu Chúa trong mọi người, đã biến đổi sự yếu hèn của nữ tu Têrêsa nên sức mạnh vô địch. Không bao lâu, căn nhà nhỏ của Mẹ Têrêsa phải nới rộng, nới rộng đến nhiều quốc gia trên thế giới, cả đến nước Liên Xô. Đoàn Thừa Sai Bác Ái chưa đầy 40 năm đã chóng lớn như phép lạ, và Mẹ Têrêsa được trao tặng cả vinh dự lớn nhất của người đời: “giải thưởng Nobel Hoà Bình”. Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy thế nào là Thiên Chúa.
Thiên Chúa của những năm cuối thế kỷ 20 là như thế đó. Thiên Chúa trong viễn tưởng năm 2000 phải như thế đó. Thiên Chúa của những cá nhân ích kỷ, của những tập thể ích kỷ, Thiên Chúa của người “tôi” ích kỷ đã chết, và phải chết đi với cái người “tôi” ích kỷ. Như thế sẽ chiếu tỏ một Thiên Chúa, thực sự là Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con Một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa là Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu.
May mắn là trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, trong những giờ này, có những mẫu người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Những con người Kitô hữu đó được công khai bầu lên là người mẫu của tình yêu vị tha, những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô.
Có những người, giờ này, đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân bại liệt tại giường, không gia đình thăm viếng, chăm sóc; anh chị em đó đã đến, hỏi thăm sức khoẻ, chạy dùm một số việc, giặt giũ, vệ sinh cá nhân… Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho đồng bào được thấy Thiên Chúa, và ước gì những chứng nhân ấy lại là chính chúng ta. Ước gì được như vậy!
65. Ánh sao lạ
Hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Câu chuyện đã xảy ra như sau:
Bấy giờ một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời và ba nhà đạo sĩ phương Đông, là những người nghiên cứu về những hiện tượng thiên nhiên, đã hiểu được ý nghĩa của ngôi sao lạ.Họ đã lên đường, bước đi dưới sự soi dẫn của ánh sao và cuối cùng đã gặp được Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem, mà họ tin rằng Ngài chính là vua dân Do Thái. Trước khi trở về quê cũ, họ đã thờ lạy và dâng lên Hài Nhi lễ vật của địa phương mình, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược.
Từ câu chuyện trên, tôi muốn rút ra một kết luận: Ngoài ánh sao lạ đã soi đường cho ba nhà đạo sĩ tới máng cỏ Bêlem, thì mỗi người chúng ta cũng phải trở nên một ánh sao, dẫn lối cho những người chung quanh, nhất là những người thân yêu cùng sống trong một mái ấm gia đình tìm gặp được Thiên Chúa.
Thực vậy, như chúng ta thường xác quyết:
- Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học làm người.
Dưới mái nhà thân yêu này, trước hết chính cha mẹ phải là một ánh sao dẫn đưa con cái đến cùng Chúa, bởi vì tại đây, ngoài cái nền giáo dục nhân bản, tức là đào luyện cho con cái trở nên những người biết sống tự lập và biết sống với người khác, hầu đem lại lợi ích cho quốc gia, cho xã hội, là người tín hữu, chúng ta còn phải cho con cái một nền giáo dục Kitô giáo, tức là uốn nắn chúng để chúng trở nên những người con cái Chúa.
Vì thế, ngay từ hồi còn tấm bé, cha mẹ đã dạy cho chúng qua đôi tay vụng dại lên làm dấu thánh giá, còn môi chúng bập bẹ những lời kinh đơn sơ.
Hơn thế nữa, đời sống gương mẫu của cha mẹ sẽ có được một sức lôi cuốn hấp dẫn con cái đến cùng Chúa, vì lời nói như gió lung lay, còn việc làm thì như tay lôi kéo.
Augustinô là một chàng trai chơi bời trác táng, thế nhưng nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của bà mẹ là thánh nữ Monica, cuối cùng Augustinô đã trở lại cùng Chúa và trở nên một vị giám mục thánh thiện và khôn ngoan,
Tiếp đến vợ chồng cũng phải trở nên một thứ ánh sao cho nhau, có nghĩa là vợ chồng phải biết giúp nhau tìm đến cùng Chúa bằng lời nói và việc làm của mình. Tôi xin đưa ra một thí dụ: Người chồng là một tân tòng, nếu không được gương sáng của người vợ thúc đẩy, thì đức tin vừa mới nảy mầm, chẳng bao lâu cũng sẽ bị thui chột.
Có một ông bố rượu chè cờ bạc, thường bỏ nhà để đàn đúm ăn nhậu với bè bạn. Ngày kia, khi ông trở về thì trời đã khuya, nhìn vào nhà ông thấy vẫn còn ánh đèn, lại có cả những tiếng thì thầm. Tiếng thì thầm ấy chính là tiếng người vợ đang dạy cho đứa con cầu nguyện cho ông. Như được một luồng ánh sáng chiếu soi, ông bừng tỉnh, từ bỏ con đường tội lỗi để trở về cùng Chúa.
Một khi mọi người trong mái ấm thân yêu có được một đời sống gương mẫu, thì chắc chắn gia đình của chúng ta sẽ trở nên như một ánh sao lạ, qua đó người khác sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa.
66. Ánh Sao Nhiệm Mầu
(Suy niệm của Lm An Phong, OP)
Các đạo sĩ ở phương Đông đã nhận ra một vì sao lạ; nhưng chính Hêrôđê và dân cư ở Giêrusalem lại không nhìn thấy. Các đạo sĩ nhìn thấy ánh sao và biết rằng "Vua dân Do Thái mới sinh"; còn dân của Chúa, bao năm mong chờ Đấng Cứu Tinh lại không nhận ra điều gì cả. Các đạo sĩ từ phương Đông đã "đến để triều bái Người"; còn Hêrôđê lại dò hỏi để tìm cách giết Người.
Cái nghịch lý của ánh sao là như thế. Ánh sao đó xuất hiện cho những người thành tâm thiện chí, soi đường cho những người khát khao muốn tìm sự thật; nhưng ánh sao đó lại biến mất trước những người chỉ mải mê với cuộc đời của mình, ánh sao đó làm bối rối và xôn xao đối với những người đang lo xây dựng "ngai vàng" cho cuộc đời mình.
Ánh sao nhiệm mầu đó không phải là ánh sao bình thường, nhưng là dấu chỉ của Thiên Chúa tỏ bày cho con người. Dấu chỉ đó không chỉ hạn hẹp cho những người "Do Thái", cũng như không phải chỉ những người "có đạo" mới nhìn thấy được. Thiên Chúa "Hiển Linh" là Thiên Chúa tỏ bày vinh quang của Ngài cho mọi người, cho những người chưa biết Chúa. Các đạo sĩ phương Đông là đại diện cho những người thành tâm thiện chí ở khắp nơi trên thế giới.
Người ta không thể chờ một ánh sao lù lù hiện ra trước mặt để chỉ cho biết Chúa đến. Nhưng chính thái độ mở lòng ra, tâm tình chờ đợi, lòng tin tưởng vào Chúa sẽ giúp người ta nhận ra những lời nhắn nhủ của Ngài, sự chỉ dẫn sáng suốt của Ngài, tình thương và hồng ân của Ngài.
Chúa đã đến và Ngài vẫn đang đến. Chúa đã tỏ bày ánh sao của Ngài cho các đạo sĩ và Ngài vẫn luôn tỏ bày ánh sáng nhiệm mầu của Ngài cho những ai chuẩn bị để đón nhận.
Lạy Chúa Giêsu!
Xin cho chúng con
biết phát hiện ra quyền năng của Chúa trong thế giới.
Xin cho chúng con biết nhận ra bàn tay của Chúa trong lịch sử.
Xin cho chúng con
sống với Chúa trong cuộc sống thường ngày.
Lạy Chúa Giêsu, nếu con có con mắt Đức Tin,
chắc hẳn con sẽ nhìn thấy Chúa không ở đâu xa.
Nếu con có đôi chân của lòng Trông Cậy,
con sẽ bước đi trong bàn tay nâng đỡ của Chúa. Và
Nếu con có trái tim của Đức Mến,
con sẽ có thể yêu Chúa nơi mọi người xung quanh con.
Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố để con nhận ra
Chúa đang Hiển Linh trong chính cuộc sống của con.
67. Đi Tìm Gặp Chúa
(Suy niệm của Lm An Phong, OP)
Hôm nay, chúa nhật lễ Hiển Linh (vẫn quen gọi là lễ Ba Vua), hay là lễ Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại mà đại diện là ba nhà Chiêm tinh đến từ phương đông, theo dấu ngôi sao lạ, để "sấp mình thờ lạy" Người, đồng thời "lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến" lên.
Cử hành lễ Hiển Linh là cử hành việc Thiên Chúa đến với dân ngoại. Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho những ai biết tìm kiếm và đón nhận Người.
Đời sống chúng ta là một hành trình tiến về quê hương vĩnh cửu là Nước Thiên Chúa. Đã là hành trình thì chắc chắn sẽ có những khó khăn, vất vả, nhưng cũng có những lúc bình an, hạnh phúc. Trên hành trình này, Chúa sẽ là niềm vui, niềm hy vọng, vì vinh quang Chúa xóa tan mây mù, bóng tối và vinh quang Chúa sẽ xuất hiện, làm cho "mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng dạ ngươi hớn hở tưng bừng" (Is 60,4). Trên hành trình này, Thiên Chúa đã dùng Thần Khí của Người để cho chúng ta được "thừa hưởng gia nghiệp, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Ep 3,6). Như thế, hành trình này sẽ là hành trình của niềm vui và hy vọng.
Đời sống chúng ta là một hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Thiên Chúa vốn là Đấng "ẩn giấu", tức là Người chỉ tỏ hiện rõ ràng cho những ai thành tâm tìm kiếm Người. Các Kinh sư và cả thành Giêrusalem đã không nhận ra Vị Cứu tinh vừa xuất hiện tại Belem, vì họ có não trạng hẹp hòi, thiếu quảng đại. Còn ba nhà Chiêm tinh đã khám phá nơi hài nhi bé nhỏ chính là Đấng Thiên Chúa gởi đến, vì họ thành tâm tìm kiếm. Trong lịch sử Giáo hội, một Phanxicô đã nhận ra Chúa hiện diện nơi các tạo vật (Trường ca tạo vật), Mẹ Têrêsa Calcutta đã nhận ra Chúa nơi những mảnh đời rách nát "họ đã sống không ra người, cần cho họ chết cho ra người"... Tận điểm của hành trình tìm kiếm là gặp gỡ. Ba nhà Chiêm tinh đã đến Belem, đã gặp được ĐấngCứu thế, đã quì xuống thờ lạy Người. Đời sống kitô hữu là một hành trình gặp gỡ Thiên Chúa qua công việc mỗi ngày. Sống đức tin thực sự là sống đức ái thực sự. Đức ái thực sự là phục vụ vô vị lợi. Sự phục vụ vô vị lợi dẫn đến những cuộc gặp gỡ. Chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa nơi con người. Thiên Chúa hiện diện nơi từng biến cố, từng sự kiện, từng con người...
Như thế, đời sống kitô hữu là đời sống đi tìm kiếm Thiên Chúa và gặp gỡ Người trong hoàn cảnh, môi trường hiện tại. Đời sống đó là một hành trình tràn đầy niềm vui và hy vọng, vì có Thiên Chúa đồng hành.
Lạy Chúa,
Xin cho lòng con bình an đón nhận ngày vừa sáng lên.
Xin giúp con luôn tựa nương vào ý Ngài.
Xin hướng dẫn con tìm ra ý Ngài
trong mỗi giờ phút của ngày hôm nay.
Xin chúc lành cách đối nhân xử thế của con.
Xin dạy con đón nhận mọi cái bất ngờ trong ngày hôm nay
với một tâm hồn thanh thản.
Xin Chúa hướng dẫn tư tưởng và tâm tình của con
trong mọi lời nói và hành động.
Xin dạy con biết cương quyết và khôn ngoan khi hành động,
mà không khiêu khích người khác
hoặc làm cho họ buồn tủi.
Xin cho con sức mạnh
để chịu đựng những mệt nhọc của ngày hôm nay.
Xin Chúa định hướng ý chí con.
Xin dạy con cầu nguyện.
Xin Chúa cầu nguyện trong con. Amen.
68. Ngôi sao sáng
(Suy niệm của Lm Anphong Trần Đức Phương)
Lễ Hiển Linh trước đây gọi là Lễ Ba Vua vì căn cứ vào ba của lễ quý giá các 'Đạo Sĩ' dâng lên Chúa Hài Nhi: Vàng, Nhũ hương và Mộc dược (Matthêu 2,11). Ba lễ vật này thời đó rất qúy giá, chỉ có trong các hoàng tộc; nên lúc đầu, người ta tưởng phái đoàn đến thờ lạy Chúa Hài Nhi gồm có Ba Vua và gọi lễ này là Lễ Ba Vua. Sau này, khoa khảo cổ tiến bộ, người ta tìm hiểu kỹ hơn và nhận ra phái đoàn gồm có các nhà "Thông thái" hay "Đạo sĩ" hoặc "Chiêm tinh" dịch từ chữ 'Magi' (số nhiều của chữ 'magus') là danh từ của người Ba Tư thời đó để chỉ những người tài giỏi, thông thái được chọn vào hàng tư tế, hoặc cố vấn cho các triều vua (New American Bible dùng chữ 'Magi'; có những bản dịch khác dùng chữ 'Wise Men' (những Nhà Thông Thái).
Theo bài Phúc Âm hôm nay (Matthêu 2, 1-12), các 'đạo sĩ' đã được ơn soi sáng qua ngôi sao mới xuất hiện và nhận ra có một vị 'Cứu Tinh' mới sinh ra ở nước Do Thái, và họ lên đường theo ngôi sao sáng xuất hiện dẫn đường. Các vị này (Đại diện các dân tộc ngoài Do Thái) từ "Phương Đông" (tức là từ nước Ba Tư hay một nơi nào phía Đông nước Do Thái), tới nước Do Thái và tìm đến Belem để chiêm bái và tôn kính Chúa Hài Nhi mới sinh.
Hai Bài đọc trong Chúa Nhật này đều nói lên ý tưởng chính là việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài Do Thái.
Bài Đọc I: Tiên Tri Isaia (60, 1- 6) đã báo trước việc 'Vinh quang Thiên Chúa sẽ xuất hiện trên các dân tộc và dẫn đưa mọi người tìm đến Ánh Sáng thật là Thiên Chúa chân thật, Đấng Cứu Độ trần gian.' Bài Đọc II trích trong thơ Ephêsô (3, 2-3; 5-6): Thánh Phaolô nói đến việc các dân tộc ngoài Do Thái cũng được mời gọi để chung phần cứu rỗi của Thiên Chúa Nhập Thể để cứu chuộc nhân loại.
Căn cứ vào các tư tưởng chính của Thánh Lễ hôm nay, các Nhà Phụng Vụ ngày nay gọi lễ này là Lễ Hiển Linh để chỉ việc Thiên Chúa tỏ hiện vinh quang của Ngài cho các dân tộc đến tận cùng trái đất. (Trong tiếng Anh, Lễ này gọi là 'The Epiphany' gốc từ chữ Hy Lạp 'Epiphaneia'có nghĩa là 'sự tỏ hiện').
Thánh lễ hôm nay hướng tâm trí chúng ta cùng với các 'đạo sĩ' đến để chiêm bái và thờ lạy Chúa Hài Nhi sinh ra trong hoàn cảnh khó nghèo; đồng thời cũng dậy chúng ta bài học dấn thân và chia sẻ.
Bài học dấn thân: cũng như các mục đồng đã bỏ giấc ngủ ngon ban đêm để đến thờ lạy Chúa Hài Nhi trong hang đá bò lừa, các 'đạo sĩ' cũng bỏ cuộc sống êm ấm trong gia đình để lên đường chịu bao mệt nhọc vất vả để tìm đến thờ lạy Đấng Cứu Tinh. Chúng ta cũng phải dám dấn thân chấp nhận mọi vất vả, khó nhọc hàng ngày để đến thờ lạy Chúa, để sống đức tin chân thật của chúng ta trong thế giới hôm nay.
Bài học chia sẻ: Xin Chúa cũng giúp chúng ta noi gương các 'đạo sĩ': biết sống khó nghèo để dành dụm những gì mình có để dâng lên Chúa, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh hoạn ở các nơi đang cần sự giúp đỡ của chúng ta. Tránh may sắm, trưng diện quá, ăn uống tiêu xài hoang phí, để tiết kiệm giúp đỡ những người thiếu thốn. Nhất là khi chúng ta được sống trong hoàn cảnh có công ăn việc làm vững chắc, nhà ở rộng rãi, cuộc sống phong phú, đầy đủ.
Hơn nữa, mỗi người tín hữu của Chúa cũng phải là những Ngôi Sao Sáng chỉ đường cho mọi người nhận ra con đường Sự Thật và Sự Sống, con đường đi đến với Chúa, bằng đời sống lương thiện, công bằng, hoà hợp yêu thương. Tránh xa những thói xấu của xã hội hôm nay, như tự do luyến ái, phá thai, li dị, gian lận trợ cấp, kết hôn giả, cờ bạc, nghiện ngập..vv... Đó là những thói xấu thế gian, những thói xấu biến chúng ta thành những 'ngôi sao lạc' dẫn đưa vào nơi tăm tối lầm lỗi.
Chúng ta, tất cả đều chỉ là những con người mang nhiều tật xấu, tham lam, ham danh, ham lợi. Chúng ta hãy khiêm nhượng chiêm ngắm cảnh khó nghèo của Hang Đá Belem và cầu nguyện chung cho nhau, nâng đỡ lẫn nhau để chúng ta biết sống khó nghèo, khiêm tốn và ngay thẳng, xứng đáng con cái Chúa.
Xin Chúa 'thắp sáng lên trong chúng ta' ngọn lửa tình yêu để chúng ta nhận ra 'con đường ngay thẳng', 'con đường công chính' và dám dấn thân đến với Chúa và đem Chúa đến cho mọi người trong gia đình chúng ta, mọi người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hàng ngày.
69. Suy niệm của Lm An Phong, OP
THIÊN CHÚA TỎ HIỆN CHO NHỮNG TẤM LÒNG CHÂN THÀNH TÌM KIẾM NGƯỜI
Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Ba nhà khôn ngoan theo dấu sao lạ tìm đến Be Lem và nhận ra Hài nhi, vua dân Do Thái.
Hẳn là chúng ta có thể nhận ra mình nơi hình ảnh Ba nhà khôn ngoan đi tìm kiếm Thiên Chúa.
Hẳn là vị Thiên Chúa vốn "ẩn giấu" chỉ tự bộc lộ cho những ai chân thành tìm kiếm Người.
* Cuộc đời là một cuộc hành trình, là một cuộc lên đường tìm kiếm, tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm an bình, tìm kiếm tất cả những gì làm cho cuộc sống tốt hơn. Với tiếng khóc oe oe chào đời, con người đã là kẻ lên đường; và tất yếu mọi bước đường đời cũng là những cuộc lên đường đi tới. Đã sống làm người là phải đi tới và đi tới mãi, không còn có thể quay đầu thoái lui nữa.
Như thế, hạnh phúc, chân lý, bình an, hy vọng… cũng chỉ đến với những ai sẵn sàng lên đường trong tâm trạng khắc khoải kiếm tìm quê hương đích thực "Lạy Chúa; tâm hồn con khắc khoải cho đến khi nghỉ an trong Chúa" (thánh Augustinô). Có lẽ mỗi người chúng ta đều mang trong mình hình ảnh Ba nhà khôn ngoan đi tìm kiếm Thiên Chúa. Bởi lẽ đức Tin chính là một cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu, không phải là tin vào một số lý thuyết; và đức Tin chỉ là một quà tặng cho những ai sẵn sàng mở tâm hồn ra để đón nhận.
* Ý nghĩa căn bản của mầu nhiệm hiển linh cũng là ý nghĩa của mầu nhiệm nhập thể: mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình ra. Nhưng ngay khi tỏ mình ra, Thiên Chúa vẫn là một Thiên Chúa ẩn giấu; Ngài ẩn mình nơi một con người, một trẻ bé bình thường; Ngài ẩn giấu trong một hình bánh rượu; Ngài hiện diện cách ẩn giấu nơi nào có hai ba người tụ họp nhân danh Ngài; Ngài ẩn giấu nơi những người nghèo…
Thiên Chúa vẫn luôn là như thế và Ngài vẫn còn đang ẩn giấu dưới thiên hình vạn trạng trong cuộc đời. Thiên Chúa chỉ "hiển linh" với những tâm hồn bé thơ, những người dám lên đường tìm kiếm, những người biết mở tâm hồn ra để đón nhận; và những người đó sẽ nhận ra Ngài đang ẩn giấu ngay trong những dáng vẻ bình thường của cuộc sống.
Ôi lạy Chúa,
Có phải Chúa đã cho người mù nhìn thấy
và kẻ câm nói được?
Con van nài Chúa thêm một lần nữa!
Xin hãy mở mắt con ra cho con thấy;
Xin hãy mở tai con cho con nghe rõ hơn;
vì con vẫn thường muốn giả điếc làm ngơ.
(Michel Quoist)
70. Một ngôi sao để đi theo
(Suy niệm của Jean-Yves Garneau)
Một ngày lễ đầy màu sắc.
Có lễ nào mang nhiều màu sắc hơn lễ Hiển linh? Có những nhân vật (người ta nói là ba nhưng Tin Mừng không khẳng định điều này) không biết chính xác đến từ đâu (thánh Matthêu viết rằng từ phương Đông; nhưng phương Đông lớn lắm!). Người ta không biết tên của họ (dù họ mang tên Mechior, Balthasar và Gaspar, theo một truyền thống rất cổ xưa mãi từ thế kỷ thứ 5, nhưng đó không phải là một điều chắc chắn mang tính khoa học). Và có ngôi sao! Ngôi sao mà người ta đã nói và viết nhiều về nó. Nó hướng dẫn các vị hiền sĩ của chúng ta (có lẽ là những nhà chiêm tinh và chúng ta đã gọi họ là vua) và nó đã dừng đúng chỗ, đúng lúc: Trên ngôi nhà có Đức Maria và Hài Nhi Giêsu! Lại có vàng, nhũ hương và mộc dược nữa…
Hai sứ điệp.
Lễ Hiển linh thật là hấp dẫn, tuy nhiên chúng ta đừng để mình quá bị chi phối bởi những chi tiết dù có quan trọng đi nữa. Ta hãy quan tâm tới điều chính yếu: hãy chú ý đến sứ điệp, sứ điệp này gồm hai điều:
Một là, lễ hiển linh nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu không đến trong thế gian vì một số người mà thôi (những người thân cận với Ngài), rằng Ngài không nhập thế duy chỉ vì một dân tộc (dân tộc Do Thái), nhưng vì tất cả các dân tộc trên trần thế và vì tất cả mọi người sống trên quả đất này. Thậm chí quốc gia bé nhỏ nhất cũng không thể bị quên lãng. Không ai, thực sự không người nào bị loại trừ khỏi những bận tâm của Chúa Giêsu. Ngài sinh ra cho hết thảy mọi người. Tất cả mọi người, đàn ông đàn bà, lớn bé, giàu nghèo ở khắp mọi nơi chốn và mọi thời đại đều được mời gọi đến lãnh ơn cứu độ. Chúa Giêsu đến để soi sáng và cứu vớt toàn thể nhân loại. Những bản văn Thánh Kinh được công bố hôm nay khẳng định rõ ràng điều đó (x. Ep 3,6: “Mầu nhiệm này là những kẻ ngoại giáo được thông phần cùng một di sản, cùng một thân thể…” Is 60,3-4: “Chư dân sẽ bước đi hướng về ánh sáng của Ngài… hết thảy họ đều tụ họp lại…”).
Điều thứ hai của sứ điệp dạy chúng ta rằng Chúa Giêsu đã bị những kẻ thuộc về Ngài không biết đến, thậm chí còn ruồng bỏ, nhưng lại được những kẻ xa lạ, các hiền sĩ, tìm kiếm, khám phá, đón nhận và tôn thờ. Không có chỗ cho Ngài nơi những kẻ thuộc chủng tộc Ngài, nơi quán trọ, ngày Ngài chào đời! Không có những người trong làng tìm đến máng cỏ đến Giáng Sinh, chỉ có các mục đồng thôi! Còn Hêrôđê, ông vua thời đó, người ta biết rằng ông muốn giết Đấng đến để cứu ông!
Hai áp dụng cụ thể.
Ta có thể rút ra từ sứ điệp trên đây hai áp dụng cụ thể.
Trước hết, ta phải tự nhủ rằng bao giờ cũng có thể sống bên cạnh Chúa Kitô mà không quan tâm đến Ngài, và cũng có thể biết tên của Ngài mà không thực sự biết chính Ngài. Lúc đó ta có thể mang nhãn hiệu Kitô nhưng kỳ thực ta không phải là Kitô hữu. Về mặt lý thuyết, ta khẳng định Chúa Kitô hiện diện trên thế giới, nhưng ta không rút ra được từ đó một kết luận thực tiễn nào cả cho những ứng xử của cá nhân mình và cho cách điều khiển xã hội.
Sau đó ta phải tự nhủ –đây là áp dụng cụ thể thứ hai- rằng ta luôn luôn phải để cho một ngôi sao hướng dẫn mình, phải luôn luôn lên đường tìm kiếm Chúa Kitô, luôn luôn cố gắng hiểu rõ Ngài hơn… vì nơi chúng ta bao giờ cũng còn lại một cái gì ngoại giáo! Ở đây tôi nghĩ đến tất cả những ngẫu tượng mà ít nhiều chúng ta còn tôn thờ hoặc để cho mình bị chúng thôi miên mà không hay biết. Những ngẫu tượng này là; tham tiền bạc, cá nhân chủ nghĩa thúc đẩy chúng ta quên đi số phận của kẻ khác. Ta cũng có thể gọi là ngẫu tượng óc tiêu thụ quá đáng rất thường điều khiển chúng ta và nhất là cái nhìn hoàn toàn duy vật của chúng ta về cuộc sống.
Tìm ngôi sao dẫn đến nơi có Chúa Giêsu và Mẹ Ngài, từ bỏ xứ sở, đi đến một nơi xa lạ, dám sống một cuộc mạo hiểm thiêng liêng trong đó ta dấn thân hoàn toàn và vì đó ta cho đi cái tốt nhất nơi mình, đấy là những gì các hiền sĩ đã làm. Còn chúng ta, quá thường sống như người ngoại đạo trong một đất nước còn mang tên Kitô, chúng ta có can đảm lên đường tìm kiếm Chúa Kitô không? Chúng ta có biết đi theo ngôi sao của các hiền sĩ còn đang chiếu sáng cho những kẻ đói khát Thiên Chúa không?
71. Gặp được Chúa Cứu Thế
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Hôm nay chúng ta mừng lễ ba Vua, tức lễ Hiển Linh. Dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền kể lại việc tìm kiếm Chúa của Ba Vua từ Phương Đông miền đất Palestina, theo sự hướng dẫn của một vì sao lạ. Các ngài đã khám phá ra dấu lạ, rủ nhau lần mò dò dẫm tìm đến Bethlem, và cuối cùng sau cuộc lộ trình đường xa nhiều gian khổ và nguy nan, các ngài đã gặp được Chúa Cứu Thế.
Như ngày lễ Giáng Sinh, lễ Hiển Linh biểu lộ một niềm vui, đó là những hình ảnh, những gói quà, lạc đà, Ba Vua, ngôi sao, nhưng còn vui hơn vì ý nghĩa quan trọng chứa đựng trong ngày lễ này, đó là việc Chúa tỏ mình ra cho các dân, các nước. Ngài là Vua các vua và mọi dân tộc khắp bờ cõi trái đất đều phải tôn thờ Ngài.
Nơi bài đọc I, Giáo hội dùng bài ca trở về của dân Do Thái nơi sách tiên tri Isaia để diễn tả niềm vui của người được cứu thoát khi vinh quang của Chúa bừng dậy. Một số những người nô lệ ở Babylon thuộc dân Do Thái nghĩ mình đang sống trong đêm tối, họ mất hết niềm vui, không còn hứng thú gì để đàn ca xướng hát. Họ đặt những nhạc khí, họ treo những cây đàn nơi gốc cây, nơi cành cây dọc bên bờ sông Babylon, và nơi bờ sông họ ngồi khóc nhớ Sion, nhớ về Thành Thánh Jérusalem.
Nhưng vui mừng biết bao ngày cứu thoát đến, ngày trở về quê hương, ngày được gặp lại Jérusalem, được lên đền thờ dâng lễ tạ ơn Chúa. Và điều đặc biệt là ánh sáng bừng lên ở Jérusalem. Đây không phải là ánh sáng của trần gian mà là ánh sáng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là ánh sáng và khi Chúa là ánh sáng thì Ngài không phải chỉ là ánh sáng của Israel mà thôi nhưng Ngài còn là ánh sáng của muôn dân, muôn nước. Từ đó những kho tàng bể khơi tuốn đến Jérusalem, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới Jérusalem. Tất cả muôn người lũ lượt từ các nơi tuôn đến Jérusalem. miệng cao rao những lời ngợi khen Thiên Chúa.
Nếu bài đọc I trình bày một hình ảnh vui tươi của Jérusalem ngày đại lễ, ngày muôn dân tiến đến trong huy hoàng rực rỡ sang trọng, thì nơi bài đọc II thánh Phaolô đưa hình ảnh ấy lên hàng siêu nhiên. Nơi bài I sự giàu sang phú quí từ các nơi được đưa về để tung hô Chúa, thì nơi bài đọc II đáp lại ân sủng Chúa ban phát dư tràn cho mọi người qua các tông đồ, các tiên tri, nhờ Chúa Thánh Thần thánh hóa. Nhờ lòng thương xót bao la ấy của Thiên Chúa, tất cả dân tộc trên mặt đất đều trở nên người thừa tự, trở nên người cùng một thân thể và thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Nhìn chung cả hai bài đọc đều diễn tả tình yêu thương hài hòa giữa Thiên Chúa và con người với nhau. Con người một lòng một dạ nhìn nhận Thiên Chúa là Vua. Chúa ban ơn cho con người, nhất là ơn được làm nghĩa tử trong Đức Giêsu Kitô, không phân biệt ai cả.
Bài Phúc Âm diễn tả rõ ràng hơn, cụ thể hơn và sinh động hơn trước mắt ta cuộc tìm kiếm Chúa, rồi được Chúa giúp đỡ ban ơn hướng dẫn. Con người không ngại gian lao cực nhọc và cuối cùng gặp được Chúa. Con người quì gối sụp lạy và dâng lễ vật cho Ngài. Xong trở nên con người mới, đi con đường khác, trở nên với đời sống hằng ngày của mình.
Dựa vào đoạn Phúc Âm duy nhất của thánh Matthêu diễn tả cuộc viếng thăm kỳ diệu này, người ta hay trưng bày vao hang đá trong ngày lễ Hiển Linh ba vị vua. Thật ra, không có chỗ nào nói đó là các vị vua, cũng không có chỗ nào cho biết con số của họ là bao nhiêu. Nhưng truyền thống gọi là ba, vì dựa vào ba lễ vật thánh Matthêu kể ra: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Về tên của ba vua là: Kalbar, Manthior và Bankasa, nhưng đến thế kỷ IX người ta mới đề cập đến. Thật ra, tất cả những chi tiết nhỏ này không có nền tảng trong Kinh Thánh và ngôi sao lạ hiện vẫn còn là đối tượng của những giải thích khác nhau. Dầu vậy những điểm chính đã dễ cho chúng ta suy niệm đó là những con người đến từ những xứ xa xôi để tìm vị Vua Do Thái mới sinh ra và khi gặp được Ngài, họ quì gối xuống sụp lạy Ngài.
Hình ảnh ấy cho chúng ta thấy mãi mãi bao lâu Phúc Âm còn rao giảng đều luôn luôn có những đạo sĩ, đó là những người tìm kiếm Chúa bằng cách này hay bằng cách khác. Và khi đã gặp được Chúa, thì thành tâm thực lòng thờ lạy Chúa, nhìn nhận Người là Vua, là Chúa của mình, của đời sống mình, của gia đình mình và cuối cùng là của toàn thể nhân loại.
Cùng với Ba Vua bên máng cỏ, chúng ta hãy tôn thờ uy quyền tối cao của Hài Nhi Giêsu và xin cho chúng ta luôn nhạy cảm đối với những cảm hứng khích lệ của quyền năng Chúa trong tâm hồn mình.
Để có việc làm cụ thể, trong tuần này tôi hình dung ra những tác động của Ba Vua trên con đường tìm Chúa. Đó là để tâm, để ý tìm hiểu sự kiện. Dám chấp nhận dấn thân quyết chí tìm gặp cho được Chúa. Khi gặp được Người thì phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật. Rồi sau cùng, từ bỏ con đường cũ, đi theo con đường mới, con đường của tin yêu và hy vọng, con đường của sự sống bất diệt trên thiên quốc.
72. Thắp đèn cho ai? - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một anh mù đến nhà cậu bạn chơi. Khi trời tối, anh muốn về nhà, người bạn liền thắp một chiếc đèn lồng, đưa cho anh rồi bảo: “Ngoài trời tối rồi, anh cầm cái đèn này đi cho sáng nhé”.
Anh mù nghe vậy tức giận nói: “Sao cậu lại nói vậy. Rõ ràng ai cũng biết tôi bị mù. Tôi cầm đèn lồng để soi đường không phải để người đời cười nhạo sao?”.
Người bạn nhẹ nhàng giải thích: “Anh hiểu lầm ý của tôi. Vì tôi nghĩ giờ này rất nhiều người cũng đi trên đường. Anh cầm đèn lồng, người khác có thể nhìn thấy anh, vì vậy sẽ không thể đụng vào anh được”.
Anh mù nghĩ một lát rồi nói: “Ừ, cậu nói có lý. Cảm ơn nhé! Tôi về đây”.
Hóa ra thắp đèn sáng không hẳn cho mình mà còn cho người khác. Ở đâu đó trong một góc khuất có ánh đèn sáng sẽ làm cho khách bộ hành an tâm. Ở đâu đó có ngọn hải đăng sẽ làm cho người đi biển biết hướng về bình an.
Nếu hiểu rằng mỗi người là một ánh sao thì cuộc đời chúng ta cũng cần được thắp lên để mang lại bình an hạnh phúc cho tha nhân. Ở tuổi thiếu niên chúng ta vẫn hát với nhau về một niềm mơ ước rằng:
"Đếm ánh sao đêm tôi gọi người,
Hồng xanh xanh hồng xanh xám xanh.
Ngôi sao xanh chính là anh đó,
Ngôi sao vàng đó của chị đây.
Không có ngôi sao nào là ngôi sao đen."
Chúng ta mơ ước mình là một ánh sao. Ánh sao thì có đủ màu. Ánh sao thì luôn tỏa sáng. Không bao giờ có ánh sao đen. Nếu ý thức mình là những vì sao trên trời, chúng ta phải sống cuộc sống của những vì sao: thoải mái trong một không gian mênh mông và chiếu tỏa ánh sáng ra chung quanh tùy theo sức sáng mình có. Đất đáthì sống cuộc đời chật hẹp, tăm tối, kèn cựa nhau, nhưng những vì sao thì sống thanh thoát, vừa thi đua tỏa sáng vừa tôn trọng sự sáng của nhau.
Hành trình Ba Vua đến gặp hài nhi Giêsu cũng cần một ánh sao dẫn lối. Tuy hành trình cũng có lúc bế tắc vì không có ánh sao nhưng với sự kiên nhẫn họ đã vượt qua. Họ từng lần mò trong thành phố nhưng chỉ gặp những người chỉ đường đầy toan tính, vụ lợi. Họ thất vọng vì giữa thủ đô lại thiếu một ánh sao thanh thoát tô thêm vẻ đẹp cho bầu trời. Nhưng họ không bỏ cuộc. Họ tiếp tục lần mò trong bóng đêm của thế giới đầy tội ác. Và rồi sự kiên trì đã được đền đáp. Ánh sao lại xuất hiện dẫn họ đến triều bái Hài Nhi mới giáng sinh nơi hang đá Belem.
Cuộc đời hôm nay vẫn có những người đang đi tìm chân lý, tìm lẽ sống. Có rất nhiều người đang mong mỏi có một ánh sao dẫn lối đưa đường cho họ. Họ cần nơi người tín hữu hãy sống thanh thoát như những vì sao không bon chen ngụp lặn trong bóng tối tham lam, ghen ghét, lừa đảo. Họ cần người tín hữu tỏa sáng giữa bầu trời ích kỷ này một ánh sáng bác ái vị tha.
Vâng giữa một thế giới mà bóng tối của thù hận, ghen ghét, tham lam, lừa đảo và hưởng thụ thì rất cần một ánh sao sáng giúp con người biết nhìn nhận nhau là anh em để rồi biết sống kính trọng và yêu thương nhau hơn. Giữa một thế giới đang khao khát gương sáng cũng đòi hỏi người ky-tô hữu hãy tỏa sáng phúc âm để mang tình yêu và hy vọng cho nhân gian.
Ước gì từng người chúng ta hãy trở thành ánh sao sáng để xóa tan bóng đêm của tội lỗi. Xin đừng vì ích kỷ và đam mê mà dập tắt ánh sáng tình thương nơi họa ảnh Thiên Chúa là con người chúng ta. Amen.
73. Đường đến với Chúa
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống người ta vẫn gọi là chốn ba đào. Cuộc sống chẳng mấy khi bình yên. Con người luôn phải tất bật vì cơm áo gạo tiền, vì công danh sự nghiệp, vì bổn phận với gia đình và xã hội. Có nhiều người cảm thấy cuộc sống mệt mỏi quá! Cuộc sống sao cứ đưa đến cho ta biết bao khó khăn thử thách! Những lúc ấy chúng ta cảm thấy mình đơn độc. Chúng ta cảm thấy mọi người bỏ mình để lại khó khăn cho một mình ta. Chính lúc ấy ta cũng cảm thấy Chúa cũng bỏ rơi. Làm sao có thể đến với Chúa, tin vào Chúa khi cuộc đời cứ trăm bề khổ đau?
Vâng, có bao giờ bạn cảm thấy như Chúa bỏ rơi bạn không? Dường như Chúa đi đâu vắng trong lúc bạn rất cần đến Ngài. Giữa những lúc túng ngặt về kinh tế hay đau yếu bệnh tật, bạn kêu cầu: Lạy Chúa, xin đừng để chuyện này xảy đến cho con. Nhưng chuyện vẫn xảy ra. Dường như lúc nào bạn cũng đứng về phe thua bại. Bạn hãy nghe câu chuyện sau đây:
Một người nằm mộng thấy mỗi lần mình đồng hành với Chúa đều thấy để lại trên bãi cát dấu chân của Chúa và của mình song hành nhau. Nhưng mỗi lần gặp bão tố, thì thấy chỉ có một dấu chân mà thôi.
Người ấy hỏi Chúa rằng:
Thưa Chúa! Tại sao lúc cuộc đời của con bình yên, thoải mái, êm đềm, con thấy hằn lên trên bãi cát dấu chân của Chúa và của con song song với nhau. Nhưng trong những lúc đời con gặp khó khăn, sóng to gió lớn dập vùi, đau khổ tối tăm, thì con chỉ thấy có một dấu chân của con hằn lên bãi cát mà thôi? Phải chăng đó là những lúc Ngài bỏ rơi con, để con một mình giữa trần gian giông tố? Phải chăng đó là lúc Ngài không còn quan tâm đến con và phó mặc con cho số phận cuộc đời?
Nhưng Chúa nhẹ nhàng trả lời rằng:
- Con ơi! Những dấu chân độc hành con thấy trên bãi cát trắng đó không phải là của con đâu! Đó là dấu chân của ta, ta bước đi một mình, còn con thì ta đã bồng ẵm vào lòng của ta.
Niềm tin vào Chúa mời gọi chúng ta hãy vững tin vì Chúa Giêsu đã từng nói: "Ta chẳng lìa con, chẳng bỏ con bao giờ" (Dt 13,5).
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng: "Chúa hằng hữu bênh vực tôi, tôi còn sợ loài người làm chi tôi nữa" (Tv 118,6).
Hôm nay lễ Ba Vua cho chúng ta nhìn lại hành trình đến với Chúa của Ba Vua. Đó là hành trình vượt ngàn gian khổ. Gian khổ về địa lý đồi núi, hiểm trở xa cách ngàn trùng. Gian khổ vì bế tắc đôi khi không biết mình đi đâu? Hỏi đường thì gặp các Vua Chúa quan quyền thâm độc nguy hiểm. Giữa những bơ vơ cuộc đời họ lại được ánh sáo dẫn dắt đưa đường. Dù là ánh sao lẻ loi nhưng cũng cho họ niềm tin và nghị lực.
Ánh sao đó định hướng cho Ba Vua tìm gặp vị quân vương mới sinh. Ánh sao đó cho Ba Vua niềm tin để bước đi. Khi có niềm tin và hy vọng gặp được Chúa thì mọi lo âu, ưu phiền hay gian khổ cũng sẽ qua. Vì cuối hành trình ta luôn gặp được Đấng mà ta tôn thờ.
Vâng thưa anh chị em, con đường đến với Chúa, tìm gặp Chúa luôn gặp khó khăn nhưng không có đường cùng nhất là còn có Chúa đồng hành. Chúa sẽ cho ta những ánh sao là những ân nhân, những phương tiện để giúp chúng ta vượt qua. Hãy tin tưởng và bước đi theo ánh sao là tiếng nói của con tim yêu mến Chúa trên hết mọi sự, của lương tâm ngay thẳng, của lòng trung kiên với Chúa.
Hành trình cuộc đời nào cũng có khó khăn. Con đường nào cũng có gian khổ. Hãy tin rằng cuối chân trời ta luôn có Chúa. Hãy tin tưởng vào sự dắt dắt của Chúa mà mạnh dạn bước đi. Hãy phó thác đường đời trong tay Chúa. Chính Ngài sẽ nâng đỡ và phù giúp đời ta.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa mà bước đi theo thánh ý Thiên Chúa. Ước gì cuộc đời ta luôn có ánh sao dẫn dắt để ta đi theo con đường của Chúa, con đường của tin yêu và hy vọng. Amen.
74. Lý do Chúa làm người
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Có anh chàng trai chẳng hề tin hay nghĩ tưởng gì đến Chúa. Chàng cũng làm ngơ các thánh lễ hằng tuần. Vợ chàng trái lại rất sùng đạo. Nàng cố gắng nuôi dạy con cái thấm nhuần lòng tin vào Chúa, mặc kệ những lời xỏ xiên của người chồng cứng lòng.
Đêm vọng Giáng Sinh, khi nghe vợ con ngỏ ý mời mình đi dự lễ đêm, chàng càu nhàu: “Vô nghĩa! Việc gì Thiên Chúa lại phải hạ mình đến nỗi trở thành phàm nhân sống đời khổ sở như thế! Nghe như chuyện khôi hài!”
Vợ con đi rồi, chàng ở nhà một mình. Qua khung cửa sổ, chàng thấy những mảng tuyết đang đổ xuống theo từng đợt gió giật. Nhìn ra khoảnh sân, chàng thấy cả một bầy ngỗng trời ở đâu kéo tới. Chắc hẳn, trên đường xuôi nam, bọn ngỗng gặp bão thành ra lưu lạc chốn này. Chúng như mất hướng, bay lòng vòng quanh quẩn, chắc đang tìm thức ăn và chỗ nào đó kín khuất để tá túc. Chàng bỗng động lòng, nghĩ đến dãy trại sau nhà, nơi được coi là ấm cúng và yên ổn cho chúng tạm trú qua đêm chờ cơn bão tan. Nghĩ thế, chàng mò ra phía sau nhà, đến đầu dãy trại, mở toang cánh cửa lớn ra như để đón chào đàn ngỗng lưu lạc. Thế nhưng, dường như mắt chúng ra như mù loà, không hề nhìn thấy cánh cửa trại đã mở toang hoác, càng không hề biết đến hảo ý của chàng. Chúng cứ tiếp tục bay nhảy vô định, lại chạm vào khung kính, và đụng vào hàng giậu thưa. Càng cố làm cho chúng chú ý đến mình, thì chúng lại càng tỏ ra hoảng sợ chàng, và tản ra xa hơn. Càng cố lùa chúng hướng về phía cửa trại thì chúng lại càng đi sang hướng khác. Thì ra chúng vẫn sợ chàng, vẫn không dám theo chàng, bởi vì chàng đâu phải đồng loại của chúng đâu. Nghĩ thế rồi, chàng bước vào trại, ôm lấy một con ngỗng đang nuôi trong trại, mang ra nhử nhử rồi thả chung với đàn ngỗng trời. Con ngỗng của chàng đã quen thuộc với đường đi lối về, liền lăm lăm đi trở vào cổng trại để trốn giá lạnh mùa đông. Thế là từng con ngỗng trời nối đuôi theo nó, đi dần vào bên trong trại, ấm áp và an toàn.
Như chợt nhận ra điều gì đó, chàng suy nghĩ về lời mình đã càu nhàu với vợ: “Việc gì Thiên Chúa lại phải hạ mình đến nỗi trở thành phàm nhân sống đời khổ sở như thế!”. Rồi chàng bỗng thấy đây không còn là chuyện khôi hài nữa. Lần đầu tiên trong đời, chàng hiểu ý nghĩa của ngày Lễ Giáng Sinh.
Ngoài trời, bão tuyết đã ngừng, và gió đã lặng. Trong tâm tư chàng, cơn bão hoài nghi cũng biến tan. Có một chút yên lành len lỏi vào tâm hồn chàng. Bỗng dưng, chàng quỳ gối xuống, chắp đôi tay lại. Lời kinh từ thuở tấm bé mà chàng đã được học bỗng nhiên khe khẽ rung trên bờ môi: “Con cám ơn Đức Chúa Trời… đã cho Ngôi Hai xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết vì con…”.
Thiên Chúa làm người để cho con người làm con Thiên Chúa. Chúa cúi xuống thân phận loài người để dẫn loài người về bến bờ bình yên là hạnh phúc Nước Trời. Đàn ngỗng cần lắm một con ngỗng quen thuộc đường đi lối về mới có thể dẫn cả đàn thoát giông bão hiểm nguy. Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ trời xuống trần, thế nên, chỉ mình Ngài mới có thể dẫn con người về với trời cao. Cũng như chiếc phi cơ phải hạ cánh thì mới đưa hành khách bay bổng lên trời. Không có sự xuống thế của Ngôi Hai Thiên Chúa thì không có cuộc về trời của con người.
Nhưng đâu là dấu chỉ về Con Thiên Chúa làm người? Làm sao con người có thể nhận ra đâu là Thiên Chúa qua thân phận con người? Năm xưa, các mục đồng đã nhờ thiên thần loan báo mà biết Con Thiên Chúa hạ sinh. Ba vua từ phương đông đã nhờ ánh sao dẫn đường để tới bái kiến Vua Trời giáng sinh. Chúa Giêsu đã nhờ Gioan để dọn đường và giới thiệu khi người đến.
Thiên Chúa đã làm người và ở cùng chúng ta. Ngài đang cần chúng ta là những mục đồng loan tin Chúa cứu thế hạ sinh. Ngài đang cần niềm tin của chúng ta phải tỏa sáng như ánh sao dẫn lối tha nhân đến với Chúa. Ước mong niềm vui giáng sinh được lan tỏa đến mọi người và mọi nhà nhờ vào ánh sáng niềm tin của chúng ta. Một niềm tin được tỏa sáng qua đời sống thanh thoát khỏi những đam mê tội lỗi, những trào lưu tục hóa đang thống trị thế giới. Một niềm tin trung kiên để từ khước những bổng lộc trần gian để sống trung tín với giới luật của Chúa. Một niềm tin sắt son để luôn lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống.
Chính nhờ đức tin ấy,lối sống đạo ấy mà chúng ta trở thành ánh sao dẫn lối cho muôn dân tìm gặp và tôn thờ Chúa. Amen.
75. Ðấng cứu độ tỏ mình cho muôn dân
Nguyện Chúa trời dủ thương và chúc phúc,
Xin tỏa ánh rạng ngời trên chúng con
Cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa
Và muôn nước biết ơn cứu độ của người. (Tv 66, 1-4)
Lời cầu xin của dân Do thái trong thánh vịnh 66 đã được Thiên Chúa Yavê nhậm lời. Vào thời viên mãn, Ngài đã tỏ mình ra không những cho những người Do thái mà thôi mà còn cho muôn dân được biết ơn cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô.
1. Chúa Giêsu tỏ mình cho dân Israel: Thiên Chúa yêu thương dân Israel và luôn luôn tỏ mình ra cho họ trước. Đầu tiên, Chúa tỏ mình cho những người nghèo, những người chăn chiên đang mong được đổi đời, được cứu độ: Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Sứ thần Chúa hiện đến bên họ báo tin vui: Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô và là Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ (x. Lc 2, 9-12). Những người chăn chiên này được Chúa chọn làm đại diện cho dân Israel đón mừng Đấng Cứu Thế ngự đến.
Chúa đã để ngôi sao biến đi trong một khoảng thời gian để các nhà đạo sĩ đến gặp vua Hêrôđê, gián tiếp loan tin Chúa cứu thế ra đời: vua Do thái hiện sinh ra ở đâu. Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở đông phương và chúng tôi đến để triều bái Người. Vua Hêrôđê và tất cả Giêrusalem đều bối rối về thông tin này. Vua mình ngự đến mà mình không biết, không lo đón tiếp, còn những người ngoại lại nhận biết. Giải thích sao bây giờ! Vua triệu tập tất cả đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân để hỏi cho biết nơi Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu: xứ Bêlem, đất Giuđa như lời tiên tri đã chép. Như vậy, Chúa đã gián tiếp tỏ mình ra cho dân Israel khi mới sinh ra. Ai có lòng tìm kiếm sẽ gặp được Người. Tuy nhiên, có điều đáng buồn là ai cũng lo công ăn việc làm hoặc coi trọng việc vui chơi giải trí hơn nên không tìm đến làng Bêlem để tìm gặp Chúa! Chỉ có Hêrôđê là muốn tìm gặp Chúa nhưng không phải để tỏ lòng kính tôn mà để giết hại Đấng Cứu Thế cho ngai vàng trần gian mình được vững!
2. Chúa tỏ mình cho dân ngoại: Chúa Giêsu xuống thế làm người không chỉ để cứu độ dân Israel mà còn cứu chuộc muôn dân nữa. Vì thế, Chúa đã tỏ mình qua một dấu chỉ là ngôi sao lạ trên bầu trời khiến những người ngọai biết tìm hiểu về ơn cứu độ và những dấu hiệu của trời đất có thể nhận biết và tìm gặp Thiên Chúa. Khát vọng và sự hăng hái tìm Chúa của họ đáng cho con cái Chúa phải giựt mình về sự thờ ơ của mình.
Chúa đã thưởng công khó nhọc và lòng chân thành tìm Chúa của ba nhà đạo sĩ, họ đã gặp được Đấng Cứu Thế trong hình dạng một em bé mới sinh. Họ tin, quỳ gối xuống thờ lạy Người rồi dâng tiến những lễ vật quý giá tượng trưng cho lòng thành kính của họ: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ trần gian đã tỏ mình ra cho những người Do thái cũng như dân ngoại và hôm nay đang tỏ mình qua Giáo hội của Ngài. Giáo hội là Bí tích ơn cứu độ muôn dân còn chúng ta là thành phần của Giáo Hội, là con cái Chúa. Chúng ta có bổn phận giúp người khác tìm đến Chúa bằng gương sáng và đời sống nhiệt thành với đạo Chúa, tốt với mọi người để Chúa được tỏ mình ra cho mọi người qua chúng ta là những Kitô hữu. Chúng ta hãy thiết tha cầu xin cho danh Chúa cả sáng, nước Chúa trị đến trong lòng mọi người.
76. Mỗi tín hữu là một Ánh Sao dẫn đường
(Suy niệm của Giuse Đỗ Văn Phi, OP)
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mátthêu hôm nay cho chúng ta biết: Bê-lem là nơi Hài Nhi Giêsu đã cất tiếng khóc chào đời, thời vua Hêrôđê trị vì. Như thế, thánh Mátthêu đã gián tiếp khẳng định: Đức Giêsu là người của lịch sử, cách riêng Ngài là người của lịch sử dân tộc Do-thái – dân riêng của Thiên Chúa.
Chính Đức Giêsu là con người chiếu sáng cho cả quá khứ và đem lại ý nghĩa cho cả giòng lịch sử dân Chúa. Chính Ngài sẽ căn cứ vào lịch sử quá khứ dân tộc mình để từng bước nhận ra được ý nghĩa sứ mạng của mình và cách thức hoàn thành sứ mạng ấy.
Sau khi xác định nơi chôn nhau cắt rốn của Đấng Cứu Thế, thánh Mátthêu tiếp tục kể lại biến cố các đạo sĩ phương Đông tới bái lạy Hài Nhi Giêsu. Đó là những nhà chiêm tinh, có thể họ đã đọc được dấu lạ do thấy ánh sáng của hành tinh sao mộc và sao thổ lồng vào nhau. Hay nói một cách đơn giản: lời loan báo về ngôi sao phát xuất từ nhà Gia-cóp đã được ứng nghiệm với biến cố sinh ra của Đức Giêsu là vị cứu tinh. (x. Ds 24,17)
Nhưng điều được nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay là dân ngoại mà các đạo sĩ là người đại diện, đã đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Trái ngược với sự hăng say nhiệt thành của các đạo sĩ phương Đông là sự bàng quan của các nhà lãnh tụ đạo và đời tại thành thánh Giêrusalem, họ không hề nhúc nhích. Riêng vua Hêrôđê có nói đến việc vua sẽ đến bái lạy Hài Nhi mới sinh, nhưng thực ra ông ta chỉ muốn đến để mưu sát Ngài mà thôi.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta. Họ khao khát tìm ơn cứu độ. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ nghe thấy lời mời gọi lên đường. Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả và sẵn sàng bước đi trong đêm tối. Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có đức tin cứng cáp mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế. Cũng cần có đức tin mạnh mẽ lắm mới dám tin rằng vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một hang bò lừa ở Bêlem, chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy. Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi, và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao, mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó, và bước vào cuộc hành trình đức tin đầy mạo hiểm, như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Đôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê, sợ hãi bối rối trước sự xuất hiện của Đấng Cứu Độ. Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của chúng ta, đưa chúng ta vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng chúng ta gặp được sự vững vàng trong Chúa.
Cuộc sống ngày hôm nay đặt con người trước nhiều thách đố phải chọn lựa. Thách đố phải sống cho sự công bằng trong một xã hội có quá nhiều bất công. Thách đố phải sống tình liên đới và yêu thương trong một xã hội có quá nhiều chiến tranh và hận thù. Chúa Kitô đã đến và chiếu tỏa ánh sáng của Ngài vào thế gian. Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy bước theo ánh sáng của Ngài, ánh sáng của yêu thương, hoà bình và xây dựng.
‘Giáng Sinh’ gợi lại cho chúng ta một biến cố trọng đại: biến cố Ngôi Hai xuống thế làm người. Ngài đến với tất cả mọi người, thuộc mọi quốc gia và ngôn ngữ. Ngài đến để mang lại niềm vui và bình an, mạc khải cho con người một vương quốc vĩnh cửu, mời gọi chúng ta bước theo ánh sáng của Ngài, ánh sáng dẫn vào sự sống.
Trong giây phút thinh lặng này, chúng ta hãy để cho ánh sáng của Chúa chiếu tỏa tâm hồn chúng ta, hầu nhận ra Chúa đang hiển linh trong chính cuộc sống của mình.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa đã đến thế gian để con người được sống và sống dồi dào. Xin cho mọi người luôn biết tôn trọng sự sống là ân huệ Chúa ban, để không còn cảnh các thai nhi bị từ chối quyền được sinh ra nhưng các em sẽ được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống giữa một thế giới mà nhiều người chưa nhận biết Chúa, nhiều người đang đánh mất niềm tin vào Chúa, sống như thể không có Thiên Chúa. Xin biến đổi cuộc đời chúng con thành ánh sao dẫn đưa những ai đang lầm đường lạc lối trở về với Chúa để họ được sống và sống dồi dào trong tình thương của Chúa. Amen.
77. Mỗi người là một ánh sao cho nhau
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Người ta vẫn thường ví von mỗi người là một ánh sao. Mỗi một con người sẽ tương ứng với một ánh sao trên trời. Bài hát sinh hoạt thiếu nhi cũng ví von: con người là một ánh sao, có ánh sao xanh, có ánh sao hồng nhưng không có ngôi sao nào là ngôi sao đen. Bởi vì công dụng của sao là toả sáng, là soi dẫn, thế nên phải là ánh màu lung linh, không thể là ngôi sao đen giữa đêm tối nên sẽ chẳng có tác dụng gì với con người.
Hôm nay, ba vua cũng nhờ một ánh sao dẫn lối đưa đường đến triều bái Đấng cứu tinh nhân loại. Ánh sao đã dẫn họ đến hang Belem, nơi hài nhi, Con Vua Trời mới hạ sinh. Họ đã tin vào ánh sao để nhận ra thân phận vị cứu tinh nhân trần từ chính khung cảnh nghèo nàn của kiếp người. Họ đã tin vào ánh sao để có thể cúi mình thờ lạy một hài nhì yếu ớt con của một gia đình nghèo khó. Họ đã nhờ ánh sao để tìm thấy chân lý trong nghịch cảnh đời sống.
Vâng, Đấng cứu tinh mà họ mong gặp là một hài nhi được bọc trong khăn, đặt nằm trong máng cỏ. Đấng ấy đáng lẽ phải được toàn dân Giê-ru-sa-lem đón chào như vị cứu tinh duy nhất của họ, nhưng lạ lùng thay, họ không chỉ thờ ơ mà còn muốn loại trừ. Ngay cả những con người được coi là người quyền cao chức trọng vẫn không thể gặp được Ngài. Các luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các kỳ lão chỉ lo về truyền thống. Hê-rô-đê thì tìm kiếm nhưng không phải để triều bái mà là để tìm cách huỷ diệt.
Chỉ có các mục đồng và các đạo sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Họ là đại diện cho những con người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý và khao khát an bình. Họ đã nhận ra thân phận hài nhi yếu đuối nằm trong máng cỏ lại là Vua Cả Trời Đất. Đấng phải đến trong thế gian để đem lại công lý và hoà bình cho trần gian.
Ánh sao từ trời cao hôm nay vẫn chiếu xuống nhân trần. Ánh sao hôm nay vẫn là ý Chúa mà con người phải thực hiện, vẫn là tiếng nói lương tâm mời gọi con người sống ngay lành, đừng làm điều dữ, đừng sống quanh co giả dối. Hãy từ bỏ lối sống đam mê lầm lạc của bóng tối tội lỗi để bước đi trong ánh sáng lề luật. Nhưng tiếc thay, nhiều người vẫn sống chai lỳ trong bóng tối tội lỗi. Biết bao bạn trẻ vẫn lao mình trong những đam mê lầm lạc của xì-ke ma tuý và thác loạn. Biết bao người vì danh lợi thú trần gian mà đánh mất lương tri con người. Biết bao người vì đam mê bất chính mà sống thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân. Biết bao người vẫn tìm kiếm thú vui trần thế mà bán rẻ nhân cách, nhân phẩm của chính mình.
Sứ điệp của ngày lễ hiển linh còn là tiếng mời gọi con người hãy là ánh sáng của nhau. Ánh sáng của con người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để đối xử khoan dung nhân ái với nhau. Thế giới hôm nay rất cần ánh sáng của niềm tin để xoá tan nghi kỵ, hiểu lầm. Ánh sáng của tình yêu để cảm thông nâng đỡ nhau. Ánh sáng của bao dung để xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi gia đình không thể thiếu ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng của niềm tin để mọi người tin tưởng lẫn nhau. Không có niềm tin gia đình sẽ không có thuận hoà, chỉ có đố kỵ và ghen tương. Gia đình cần có ánh sáng tình yêu và tha thứ để mọi người biết cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì đời sống của người ky-tô hữu chúng ta luôn toả sáng những hành vi bác ái, yêu thương, những nghĩa cử nhân ái bao dung để nâng đỡ những ai đang cô đơn, thất vọng, đang sống trong cảnh lầm than tìm được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống. Amen.
78. Một vì sao xuất hiện
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Tình cờ tôi được nghe hai cô gái nói chuyện
Cô A: Hình như bạn và anh ấy đã chia tay?
Cô B: Chúng mình không hợp nên chia tay rồi
Cô A: Thế cái thai trong bụng của bạn thì sao?
Cô B: Mình bỏ rồi...
“Mình bỏ rồi” sao nghe dễ dàng thế! Yêu nhau có thai - không cưới - rồi bỏ. Hóa ra thai nhi chỉ là một vật bên ngoài tình yêu. Còn yêu nhau thì giữ nếu chia tay thì bỏ. Hóa ra sự sống thai nhi chẳng có giá trị gì khi họ không còn yêu nhau. Xem thường giá trị sự sống người ta cũng lạnh lùng vứt bỏ nếu không thấy có lợi cho bản thân của họ. Cho dù thai nhi vô tội nhưng để trả thù người yêu, để che dấu người đời, để tránh nghèo đói... người ta vẫn đang tâm vứt bỏ các thai nhi.
Tại Bình Lâm có nghĩa trang Thai Nhi mà chúng tôi đặt tên là “Vườn Thánh Thai Nhi”. Vườn thánh được thành lập ngày 04.03.2011 tới nay đã chôn cất gần 3000 thai nhi. Đây là một làng quê rất yên bình gồm những con người nông dân hiền hòa chất phác sao bỗng dưng lại ác độc đến lạ thường. Mỗi ngày trung bình có 10 bà mẹ giết hại các thai nhi. Nhìn các thai nhi có khi chỉ là một giọt máu bọc trong khăn cũng khiến chúng ta đau lòng. Sao lại nhẫn tâm thế. Các thai nhi là giọt máu của họ cơ mà? Sao lại cạn tình đến vứt bỏ giọt máu đào của mình!
Có đôi lần tôi hỏi một vài bà mẹ: Tại sao lại bỏ con. Người thì bảo tại nhà đông con quá rồi. Người thì bảo tại nhà nghèo. Kẻ thì bảo tại chồng không thương. Hóa ra chỉ vì trẻ nhỏ này sinh ra không có lợi cho mình nên cam tâm dứt bỏ.
Chúa Giêsu cũng từng là tâm điểm để người ta chống đối, gạt bỏ. Họ là những Hê-rô-đê sợ mất ngai vàng. Họ là những biệt phái luật sĩ sợ bị phơi bày ra ánh sáng việc làm giả hình của họ. Họ là những người dân quê thiếu hiểu biết lại hùa theo đám đông để kết án Chúa.
Hoàn cảnh của Chúa Giêsu cũng giống như hoàn cảnh của các thai nhi hôm nay. Người đời có muôn ngàn lý do để gạt bỏ quyền sống của các thai nhi vô tội! Người đời cũng có muôn vàn cách để loại trừ một mầm sống thật thánh thiện trong sáng như các vì sao trên trời.
Thế nhưng, giữa một không gian đầy sự dữ ấy vẫn còn có những con người lặng lẽ đi tìm hài nhi Giêsu. Họ là các đạo sĩ từ phương đông. Họ nhìn thấy hài nhi không phải là một gánh nặng mà là một quân vương. Họ đến để triều bái hài nhi.
Ở Mỹ người ta nói: “Mỗi một trẻ nhỏ đều có thể là một tổng thống Hoa Kỳ”. Nếu ở đời người ta đều nhìn trẻ nhỏ với một tương lai tốt như thế có lẽ sẽ không còn những nghĩa trang thai nhi đông đảo như hôm nay. Nếu con người biết nhìn các thai nhi với cái nhìn tích cực thì sẽ bớt đi những tội ác giã man mà con người hôm nay đang hành động trên sự sống của các thai nhi.
Chúa hiển linh trong thân phận một hài nhi. Ngài muốn mời gọi con người hãy tôn trọng sự sống, hãy bảo vệ sự sống. Ngài muốn nhắc nhở rằng chính Ngài vẫn đang hiển linh nơi những hài nhi nhỏ bé đang hiện diện trước mặt chúng ta. Ước gì chúng ta biết nhìn các thai nhi như các vì sao trên trời luôn chiếu sáng, luôn mang lại lợi ích cho cuộc sống để nhờ đó chúng ta yêu quý sự sống, bảo vệ sự sống và đón nhận sự sống như món quá Chúa ban. Xin đừng nhìn các thai nhi là gánh nặng để rồi tẩy chay hay vứt bỏ. Amen.
79. Gặp Chúa – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
Một cậu bé lần nọ quyết định sẽ đi gặp bằng được Thiên Chúa. Cậu biết rằng chuyến đi sẽ dài và vất vả lắm nên xếp vào túi xách bánh và thức uống.
Khi đã đi qua ba dãy phố, cậu bé gặp một bà lão. Bà ngồi trong công viên, đôi mắt dừng lại ở những chú chim bồ câu. Cậu bé đến ngồi cạnh bà và mở túi xách của mình. Hình như bà lão đang đói, cậu bé nhận ra điều này và mời bà một chiếc bánh. Bà lão cười với cậu. Nụ cười dịu dàng đến nỗi cậu bé muốn nhìn thấy nó hiện ra một lần nữa. Cậu lại mời bà thức uống. Nụ cười lại hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu của bà làm cậu cảm nhận được sự ấm áp. Họ ngồi suốt buổi chiều ăn uống và không nói một lời.
Mãi đến khi trời sụp tối cậu bé mới rời chỗ. Rồi bất ngờ cậu quay lại, chạy đến chỗ bà lão và ôm lấy bà từ biệt. Món quà mà bà lão đã tặng cho cậu là nụ cười đẹp và rộng mở nhất của mình.
Khi cậu bé mở cửa vào nhà, người mẹ vô cùng ngạc nhiên vì nét rạng rỡ còn ngập tràn trong ánh mắt cậu: - Điều gì hôm nay đã làm con hạnh phúc vậy?
Cậu bé đáp:
- Con đã ăn trưa với Chúa. Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp trên đời!.
Trong khi đó bà lão cũng bừng tỉnh với niềm vui và trở về nhà. Đứa con trai nhận ra vẻ thanh thản trên gương mặt mẹ và hỏi:
- Điều gì hôm nay đã làm mẹ hạnh phúc?
Bà lão đáp:
- Mẹ đã ăn bánh cùng với Chúa bên cạnh những chú chim bồ câu. Con biết không, Chúa trẻ trung hơn chúng ta ngỡ rất nhiều.
Khi làm người, Con Thiên Chúa đã sinh ra trong thân phận người nghèo. Ngài đã chọn chốn hang bò lừa làm nơi để sinh. Ngài đã chọn gia đình nghèo làm gia đình của mình. Ngài đã hoà mình như bao người lao động nghèo làng quê Nagiaret. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ không có nơi gối đầu. Ngài còn tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài còn hứa ban hạnh phúc Nước Trời cho những ai đón nhận Ngài qua những người đói, rách, tù đầy...
Cậu bé trong câu chuyện đã tìm gặp Chúa nơi bà lão nghèo ngoài công viên. Và bà lão cũng tìm gặp được Chúa qua tình yêu của cậu bé dành cho bà. Có thể nói tình yêu đã nối kết họ nên một trong tình yêu Chúa. Tình yêu đã giúp họ nhận ra Chúa nơi người mình đang tiếp xúc. Ước mơ của cậu bé là mong được nhìn thấy Chúa đã thành hiện thực khi cậu trao ban miếng bánh thơm ngon cho bà lão. Cậu cũng đâu ngờ rằng tình yêu của cậu làm cho bà lão nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tấm lòng nhân ái của cậu.
Năm xưa, ba nhà đạo sĩ đã tìm gặp Chúa không phải nơi cung điện nguy nga, nhưng lại là nơi đồng hoang mông quạnh. Họ đã gặp vị quân vương vừa mới hạ sinh nơi máng cỏ hôi tanh của đám bò lừa. Họ đã bái quỳ trước một hài nhi bé nhỏ con của một gia đình nghèo khó. Họ đã dâng cho hài nhi những lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho quyền bính của vị quân vương.
Hôm nay, Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là hình ảnh của Chúa. Chúa còn hiện diện cách đặc biệt qua những người nghèo khó, những người già neo đơn, những người đau yếu đang sống trong cô đơn tuyệt vọng. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta dâng cho Chúa tình yêu hiến thân phục vụ tha nhân một cách quảng đại. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy nhận ra Chúa nơi anh em đang sống bên cạnh chúng ta. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy dâng tặng cho Chúa món quà quý hoá nhất chính là tấm lòng biết yêu thương.
Ước gì mỗi người chúng ta biết dâng tặng cho Chúa món quà của yêu thương để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
80. Thiên Chúa cho ai nhận biết Người?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Như đã nói, thật là dại dột nếu muốn xem ký sự của thánh Matthêu như một phóng sự lịch sự tuyệt đối chính xác. Sự kiện đã xảy ra thật, được thánh chép sử- hoặc cựu truyền mà ông nhắc lại lồng trong một hình thái ký sự hoà hợp với văn hoá Cựu Ước và não trạng người đương thời. Những sự kiện rất thật lẫn lộn với những yếu tố được rút ra từ ký ức tôn giáo của dân tộc và cả từ Kinh Thánh nữa. Đối với chúng ta, điều chủ yếu là thu lượm ký sự này lời giáo huấn mà thánh sử muốn truyền đạt. Vả lại ông cũng không chú ý đến sự kiện lịch sử vì bản chất của nó, chỉ cốt soi sáng để làm nổi rõ tầm mức của sự kiện.
1) Sự kiện ba nhà Đạo sĩ đến thờ lạy ‘Vua của người Do Thái’ làm cho Hêrôđê động tính hiếu kỳ, rốt cục nổi giận, sự kiện đó cho thấy Đức Giêsu được thụ phong một vương quyền thời đó, thánh Matthêu đem đối chiếu thái độ các đạo sĩ nó tương phản với cách xử sự của Hêrôđê. Một bên là những người tìm kiếm Chúa – bên kia là một ông vua chuyên chế bị tư lợi và kiêu ngạo làm mờ mắt. Điều này mời chúng ta nhớ lại tính chất của Vương quyền Chúa. Chúa Kitô đã vâng lời cho đến chết, và vì thế Người được Chúa Cha tôn vinh, và đã vào trong Vinh Quang Nước Người. Mọi vật điều suy phục Người, cho đến khi Người cùng với mọi tạo vật suy phục Chúa Cha, để Thiên Chúa nên tất cả trong mọi người. Người cũng thông ban cho các môn đệ quyền bính đó để họ được hưởng sự tự do vương giả và chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi họ, bằng một đời sống từ bỏ và thánh thiện, hơn nữa, để khi phụng sự Chúa Kitô nơi tha nhân, họ khiêm nhượng và kiên nhẫn dẫn đưa anh em mình đến cùng Đức Vua, Đấng mà những kẻ phụng sự cũng là những kẻ thống trị có quyền bính. Triều đại Chúa là một triều đại của Chân Lý và sự sống của ân sủng và thánh thiện, của công lý tình yêu và hoà bình’ (Ánh sáng muôn dân, 36). Sự phủ phục của các đạo sĩ dưới chân Hài Nhi Giêsu nhắc chúng ta nhớ lại điều này: muốn nhận biết Thiên Chúa thì phải ao ước thánh thiện, công lý, tình yêu và hoà bình. Ngược lại, hướng của Hêrôđê chứng minh rằng khi lòng bị sa lầy trong tham vọng, khắc nghiệt, bất công, thì trí sinh mù quáng.
2) Tại sao sau khi cho tin đúng, cấp lãnh đạo dân tộc và những ký lục không chịu khó đi tìm ‘Vua của người Do Thái’. Chắc là vì họ không cho rằng công phu tìm kiếm của các đạo sĩ là quan trọng. Có thể đây là hạng người thần cảm – họ nghĩ vậy – còn mình là cấp hữu trách, mình phải sáng suốt. Bất hạnh thay, lý trí họ đã biến thành chủ trương hệ thống hoá cứng rắn. Đa số trong bọn họ thành tâm muốn trung thành với Thiên Chúa, nhưng lại dựng lên giữa Thiên Chúa và họ một hệ thống chủ thuyết – lý luận, định kiến – hệ thống đó khiến cho trí tuệ họ không thể hấp thụ được cái chưa từng thấy, cái bất ngờ. Đó là tình trạng của bất cứ khoa học nào không quan tâm trước hết đến sự cởi mở do cầu nguyện đem lại. Càng thu thập về kiến thức vế trí tuệ, càng phải phát triển kiến thức về tâm hồn, là loại kiến thức giữ cho tâm khảm trong tư thế sẵn sàng nghênh tiếp những sự can thiệp của Thiên Chúa. Cấp lãnh đạo dân Do Thái đã không nhận ra Đức Giêsu vì họ muốn Đấng Cứu Thế hiển linh ở trình độ họ, trong uy thế của quyền bính, thông tuệ, hành động. Nhưng Đấng Cứu Thế đó lại xuất hiện với nét mặt một đứa trẻ, con nhà nghèo. Những kẻ khiêm nhượng và những kẻ nghèo hèn đã nhận ra Ngài. Chúng ta tự hỏi: chúng ta đi tìm kiếm Đức Giêsu ở đâu?
81. Bền tâm tìm Chúa
Mt 1, 18 - 24: Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người đang thực hiện lời đã hứa....
Anh chị em thân mến,
Đọc qua bài Phúc âm ngày lễ hôm nay, có một văn sĩ cảm hứng, nên đã thêu dệt câu chuyện về việc sinh ra của Đấng Cứu thế như sau: tôi xin nói lại, câu chuyện sau đây chỉ là sự thêu dệt và là ý tưởng của văn sĩ nọ thôi... Câu chuyện kể: Chúa Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ bò lừa, rất hôi tanh và lạnh giá vì không có lò sưởi. Chúa Nhi biết rõ như thế, nhất là biết cha mẹ của mình đã quá vất vả mới có được chỗ ở này, vì họ nghèo quá! Chúa Nhi thông cảm cho họ lắm. Các mục đồng lại đến viếng thăm làm cho cha mẹ và cả Chúa Nhi rất vui... Mấy hôm sau lại có ba đạo sĩ đến thăm, dâng lên Chúa Nhi, vàng, nhũ hương và mộc dược. Chúa Nhi hiểu rõ lòng của họ, nên đã mĩm cười với họ khi họ tiến dâng lễ vật. Sau đó họ lui xuống để bò lừa dâng lên hơi ấm; trong lúc đó ba đạo sĩ nói nhỏ với nhau, nhưng Chúa Nhi nghe rõ lời họ nói: vua Hêrôđê dặn họ khi tìm thấy Vua mới sinh, phải trở về cho ông hay để ông cũng đến triều bái người. Chúa Nhi nhìn thấu ruột gan của Hêrôđê, biết ông đang tìm cách giết mình. Hơi tức giận, Chúa Nhi dùng quyền năng mình, biến nên một tấm lưới vô hình trong suốt, bao bọc xung máng cỏ nhà đang ở, để người ngoài nhìn vào không thấy gì, cũng không thấy ai....Sau khi ba nhà đạo sĩ đi rồi, Chúa Nhi dùng quyền năng của mình, làm cho nơi mình đang ở bay đi sang qua Ai cập; dù bay, nhưng mọi người vẫn thấy căn nhà như đứng yên tại chổ...Chỉ trong nháy mắt, đã tới bên Ai Cập...
a/. Câu chuyện trên đây chỉ là tưởng tượng, không có thật, và cũng đi ngược lại ý nghĩa mầu nhiệm giáng sinh. Thực ra văn sĩ không đồng ý với Chúa Hài Nhi, vì đã để cho vua Hêrôđê rượt đuổi, tìm giết mình. Nhưng điều này lại là cốt lỏi của mầu nhiệm giáng sinh, của bài học của khiêm hạ tột cùng của Đấng cứu thế. Vì yêu thương nhân loại, Chúa Nhi sẵn sàng sinh ra trong cảnh nghèo nàn, vất vả, bị rượt đuổi như thế vì vâng lời Chúa Cha, nhất là để làm trọn chương trình cứu rỗi... Đó là phần Chúa Hài Nhi. Bên dưới đây chúng ta hãy bàn về các nhà đạo sĩ đông phương:
b/. Các đạo sĩ đông phương:
Họ phấn đấu đi tìm chân lý và sự khôn ngoan: Các ông đã nhiều năm nghiên cứu, tìm kiếm ánh sao lạ xuất hiện trên bầu trời, từ đó tìm ra ý nghĩa của biến cố. Thái độ của họ là cởi mở, sẵn sàng đi tìm chân lý, nên khi thấy ngôi sao lạ, các ông đã cảm nhận ra đó là dấu lạ từ Thiên Chúa.
Họ đã lên đường tìm kiếm Chúa Hài nhi, trong đức tin: với niềm xác tín riêng tư, họ bạo dạng lên đường tìm Chúa. Chính đức tin đã thúc đẩy họ lên đường; họ tự mình dấn thân vào cuộc hành trình vất vả tìm kiếm và mong gặp chân lý. Có khi thiên hạ cho là điên khùng, nhưng họ bất chấp; họ bỏ ngoài tai...
Họ đã hỏi thăm sự giúp đở của dân chúng: trên đường đi, có khi ánh sao biến mất, họ vẫn phải nhờ sự giúp đỡ của mọi người xung quanh... nhất là những người khôn ngoan như hỏi các kinh sư trong bài Phúc âm hôm nay...
Họ chấp nhận điều Thiên Chúa dẫn họ tới, và tin vào đó: Họ đi tìm vị vua, vất vả biết bao nhiêu, vậy mà khi bước vào nhà, họ chỉ thấy một Hài nhi nhỏ bé với ông thợ mộc và Mẹ Nguời trong cảnh nghèo nàn. Chẳng có gì quý giá, chẳng có gì là dòng dỏi vua chúa cả! Làm sao tin? Thế mà các đạo sĩ đã tin; họ tin vào sự hướng dẫn của Thiên Chúa qua những dấu hiệu rất tầm thường.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: đời sống của mỗi người kitô hữu cũng là một cuộc hành trình tìm kiếm Thiên Chúa, dù không vất vả như ba đạo sĩ, nhưng phần ta, ta có bền tâm đi tìm Chúa như họ không? Ta có để đức tin hướng dẫn ta trong hành trình tìm Chúa không?
82. Thiên Chúa của các dân tộc
(Trích trong “Niềm vui chia sẻ”)
Một linh mục thừa sai Pháp tên là Henri, đi truyền giáo ở Gabon, Phi Châu. Nhân dịp lễ Giáng sinh, cha Henri về nghỉ ở nhà người chị ruột thuộc gia đình Delvart. Ngài đem theo một đứa bé da đen mồ côi được ngài nuôi từ nhỏ và rửa tội với tên thánh là Giacôbê. Trong gia đình chị của ngài cũng có đứa con trai tên là Giacôbê, đồng trang lứa với cậu bé Giacôbê da đen. Hai đứa trẻ quen nhau dễ dàng và người lớn chỉ còn phân biệt chúng qua hai màu da: Giacôbê đen và Giacôbê trắng. Đứng bên hang đá, Giacôbê trắng cố gắng giải thích cho bạn Giacôbê đen của mình hiểu được vẻ đẹp của mầu nhiệm Giáng sinh, từ Bêlem cho đến chuồng bò, máng cỏ chiên lừa, đến cả giấc mộng của Thánh Giuse, rồi kết thúc với hình ảnh Mẹ Maria, Mẹ của hết mọi người.
Giacôbê đen nghe Giacôbê trắng một cách chăm chỉ. Nhưng cậu bé da màu sầm mặt xuống, thoáng lộ vẻ buồn. Cậu hỏi như than thở với bạn:
- Bạn trắng ơi! Bạn thật may mắn.
- Sao vậy?
- Bạn có Chúa Giêsu da trắng, có một người mẹ ở nhà đây rồi lại có thêm một người mẹ ở trên Thiên đàng nữa.
- Nhưng ăn thua gì, bạn trắng đáp lại. Chúa Giêsu là Chúa của hết mọi người và Mẹ Maria cũng là Mẹ của hết mọi người kia mà. Nhất là Mẹ của những đứa con thơ ấu côi cút như bạn.
Nhưng Giacôbê đen không yên tâm. Cậu bé vừa đưa tay chỉ tượng Đức Mẹ vừa buồn rầu nói: Đức Mẹ trắng tinh, còn mình thì đen thui!
- Bạn trắng nói: Có hề gì, Đức Mẹ đâu có căn cứ vào màu da.
- Chứ còn gì nữa, bạn đen cãi lại. Người mẹ trắng thì làm sao có đứa con đen.
Thế rồi sáng ngày 24 tháng 12 người ta thấy Giacôbê trắng một mình từ dưới kho đi lên, tay cầm một cái lon nhỏ và một cây cọ, tiến về phía nhà thờ. Cậu bước ngay tới máng cỏ, tại đây với lon sơn đen, cậu biến tượng Chúa Hài Đồng da trắng thành một Chúa Hài Đồng da đen, y như màu da của bạn Giacôbê đen vậy.
Giáng Sinh năm ấy, cả họ đạo vừa ngạc nhiên thích thú, vừa vui vẻ sốt sắng đón mừng Chúa Giáng Sinh có sắc da màu. Còn Giacôbê đen không ngớt nở nụ cười để lộ hai hàm răng trắng toát. Em sung sướng nghĩ rằng: với Chúa Hài Đồng da màu, em cũng có được một bà mẹ da màu trên Thiên đàng.
Một câu chuyện giữa hai trẻ nhỏ nhưng lại mang một ý nghĩa cho người lớn chúng ta trong ngày lễ Hiển Linh hôm nay: Chúa Giêsu giáng trần không riêng cho một ai, một dân tộc nào, nhưng là cho hết mọi người, mọi dân tộc: da trắng, da đen, da đỏ, da vàng. Ngay trong ba đạo sĩ tìm đến hang đá Bêlem người ta cũng thấy có một vị da màu. Có thể nói, lễ Hiển Linh là Lễ Thiên Chúa đến với mọi người. Với biến cố Thiên Chúa Giáng Sinh làm người trong hang đá Bêlem, Thiên Chúa như phá đổ mọi hàng rào ngăn cách mà con người đã xây dựng nên: hàng rào kỳ thị, kỳ thị chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai cấp… Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa làm bừng sáng lên mầu nhiệm này. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho người ta đến với Chúa.
Thời đại chúng ta, Chúa không dùng lời ca của các thiên thần hoặc ánh sao của ngôi sao lạ để giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới. Chính mỗi người chúng ta được mời gọi đóng vai “nhà đạo sĩ” để chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Giêsu rồi loan truyền về Ngài cho anh em khác. Phương thức tốt nhất để làm điều đó là nói và hành động như Đức Giêsu. Cha mẹ là “nhà đạo sĩ” thích hợp nhất để trình bày khuôn mặt Chúa Giêsu cho con cái mình. Các thầy, cô giáo là những người cộng tác với “các nhà đạo sĩ”. Các nhà truyền giáo: giáo dân, tu sĩ, linh mục, là những “nhà đạo sĩ” đi đây đó để giới thiệu Chúa Giêsu cho những người khác.
Mới đây, cuộc triển lãm mỹ thuật với chủ đề: “Đức Giêsu Kitô trong hội họa” tại Tòa Giám Mục thành phố Hồ Chí Minh từ đầu Mùa Vọng vừa bế mạc, quả là một cuộc giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Đã có hàng vạn lượt người đến xem, kể cả người ngoài Công Giáo và các tôn giáo bạn, đặc biệt là các bạn trẻ. Nhiều bạn đã ghi lại những dòng cảm tưởng chất chứa nhiều cảm xúc, chẳng hạn: “Tôi là một con chiên lạc của Chúa. Trong chiều nay sau một cơn mưa, tôi đã được tĩnh lặng để ngắm nhìn những tác phẩm hội họa về Đức Giêsu với những cảm xúc lắng đọng nhất. Tôi yêu con người Giêsu và Đức Chúa Giêsu” (Tường Tường, 5.12.96, trang 45). Một bạn sinh viên khác đã viết: “Con không biết gọi Người là gì, không biết Người là ai vì con không phải là đạo Thiên Chúa. Nhưng hôm nay con tin là có Người, có Người từng hiện hữu trong thế giới này, và có Người trong tâm hồn con ngày hôm nay và mãi về sau. Con xin cám ơn tất cả những điều con được biết ngày hôm nay, cám ơn tất cả, con cám ơn Người cho con lòng tin”. (Hồ Thị Phương Nga, SV năm 3 ĐH. kiến trúc TPHCM. 10.12.96 trang 87) v.v… Cuộc triển lãm đã đem lại nhiều kết quả thầm kín bất ngờ.
Một khi khám phá ra gương mặt đích thực của Đức Giêsu, chúng ta hãy đem Chúa ra giới thiệu cho mọi người. Còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng, họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát chân lý. Họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua dân Do Thái sinh ra ở đâu?” Cũng chính là câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?” vậy thì, hỡi các kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi, Đức Giêsu Kitô là ai? Nhưng xin đừng mở sách Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Đức Giêsu Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch: con đường yêu thương. Chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý, nguồn tình yêu và sự sống.
Như ánh sao dẫn đường ba đạo sĩ lên đường đến với Chúa Giáng Sinh, chúng ta hãy từ bỏ những lời nói trống rỗng, những công thức, những khuôn mẫu có sẵn và tìm Chúa trong mọi biến cố cuộc đời, để từ đó chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em đồng bào bằng chính cuộc sống của chúng ta.
83. Hãy chiếu sáng như những vì sao
(Suy niệm của Pm. Cao Huy Hoàng)
"Vua Người Do Thái mới sinh ra ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở Đông phương và chúng tôi đến để triều bái Người"
Gọi là "ngôi sao của Người", bởi ấy là một ngôi sao lạ, không giống như những ngôi sao thường thấy. Ngôi sao lạ xuất hiện, theo các nhà thông thái ấy, là dấu chỉ một điềm lạ xảy đến: một con người vĩ đại xuất hiện trên dương trần. Ngôi sao lạ, lạ đến nỗi các chiêm tinh gia chỉ còn biết theo ánh sáng của ngôi sao ấy mà bước đi, vì xác tín rằng ấy là Ngôi Sao Cứu Thế, Ngôi sao của "Vua Người Do Thái mới sinh ra". Họ đã không đặt viễn vọng kính để nghiên cứu, cũng không theo ánh sáng của ngôi sao để tìm đến chính ngôi sao, mà chiêm ngưỡng, ca tụng, tôn vinh ngôi sao đẹp lạ lùng diễm lệ ấy; ngược lại họ theo ánh sáng của ngôi sao mà tìm đến thờ kính Con Thiên Chúa Giáng Trần. Họ đã không thể làm khác hơn, vì "ngôi sao ấy luôn đi trước họ, dẫn đường cho họ, và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở" (Mt. 2,9).
Và còn hơn thế nữa, cách nào đó, họ đã trình diện cõi riêng mình với Thiên Chúa khi dâng những lễ vật dành cho Vua Chúa với hết lòng thành kính. Vàng, nhủ hương, mộc dược những lễ phẩm tự nó đã quí giá, đối với các bậc quân vương, càng quí giá đối với hàng lê thứ, nhưng ở đây, cái quí giá hơn chính là lòng tin tưởng và phó thác vào một hài nhi khó nghèo dưới mức bình thường của nhân loại mà họ xác tín là Đấng Cứu Thế. Ánh sáng của vì sao nên huyền vi diệu kỳ, chắc chắn không phải là ánh sáng bình thường mà là ánh sáng của Thần Linh Thiên Chúa. Ngôi sao đã chấp nhận làm một công cụ để Thiên Chúa giới thiệu Con Một của mình cho muôn dân. Như vậy, công việc của một ngôi sao, đến đây có thể nói là hoàn tất sứ mệnh, một sứ mệnh thật cao cả: đưa dẫn con người đến gặp gỡ con Thiên Chúa, để tôn vinh, chúc tụng và dâng lên Thiên Chúa những lễ phẩm với lòng tín thác.
Nhưng không ai ca tụng ngôi sao, chỉ nghe thấy ngôi sao cùng muôn tinh tú xôn xao ca tụng Con Thiên Chúa. Cũng không thấy ngôi sao yêu cầu ai ca tụng mình, vì ngôi sao tự biết mình đã chứa chan hạnh phúc khi nhận được ánh sáng từ Thần Linh Thiên Chúa để phát sáng cho đời nhận ra vinh quang Con Thiên Chúa, đễ dẫn lối cho đời đến với Đấng Cứu Thế của họ.
Chúa Kitô: Ánh sáng mới
Chúa Giêsu bé thơ trong máng bò lừa rơm cỏ úa chính là ánh sáng mới chiếu soi gian trần như tiên tri Isaia đã tiên báo: " Ánh sáng mới đã bừng lên cho dân đang lầm lũi tối tăm trong đêm dài. Mặt trời công minh đã chiếu sáng khắp nơi " (Is 9,1). Đức Kitô không chỉ là một ngôi sao xuất hiện ở phương Đông không bao giờ tắt lặn, nhưng còn là ánh sáng muôn đời cho nhân loại.
Ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa trong chương trình cứu rỗi nhân loại: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Ánh sáng ban ngày soi chiếu vào cõi lầm lạc của con người đi trong bóng đêm, ánh sáng công minh chính trực soi chiếu vào hố thẳm bất công và gian tà, ánh sáng ban sự sống- sống chân chính đàng hoàng trong kiếp sống của con người được yêu thương cứu rỗi, được gọi Thiên Chúa là Cha; ánh sáng ấy, thánh Phao lô đã khuyên giáo đoàn Roma tiếp nhận: "Dừng chân ngay thôi con đường mê muội. Xóa bất công xây bình an trong lòng. Hãy mặc lấy khí giới ban sự sống. Sống công minh như giữa ban ngày" (x. Rm 13,11-14)
Ánh sáng của "Ngôi Lời Thiên Chúa đã thành xác phàm"- Ánh sáng của Lời Hứa Cứu Độ của Thiên Chúa Cha trong thượng uyển năm xửa năm xưa, từ thủa con người tự đánh mất ơn mất ơn làm nghĩa tử-Ánh sáng của Lời Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc mà dân Thiên Chúa hằng mõi mong đợi chờ trong tin tưởng: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho con đi" (Tv 118,105). Ánh sáng mạc khải mầu nhiệm cứu chuộc muôn dân: "trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với Người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" ( Eph 3,6).
Đức Giêsu, chính là ánh sáng mới, là ngôi sao mới, chiếu soi con đường mới đưa dẫn nhân loại về với Thiên Chúa Cha. Ngài cũng như ngôi sao phương Đông năm nào không hề có tham vọng đưa nhân loại quy về mình, nhưng là về với Cha, đấng đã sai Con Một Người xuống thế. Tất cả vì danh Cha, tất cả cho Cha, tất cả để "nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện, danh Cha cả sáng". "Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời". (Mt 5, 16)
Và vì Cha biết và tin tưởng Con mình tất cả cho Cha, nên Cha đã thông ban vinh quang của Cha cho con để mọi người khi quy hướng về Ánh sáng của Con, thì được xem thấy Cha của Con và Cha của chính mình.
Các con là ánh sáng thế gian
Mỗi tín hữu phải trở thành một chứng nhân Đức Kitô, một ngôi sao dẫn đường cho nhân loại tìm về với Thiên Chúa. Đời sống chứng nhân, ơn gọi tiên tri cho đời, trước tiên là một ơn nhưng không qua bí tích rửa tội. Đã có biết bao Kitô hữu đã trở nên ánh sáng cho muôn dân qua cách sống đạo của mình. Họ chiếu sáng tinh thần Phúc Âm, không chỉ bằng lời, mà bằng cả cuộc sống Đức Tin, Đức Cậy Trông, và Đức Ái Kitô giáo trong cuộc đời họ. Trong mọi hoàn cảnh, họ chấp nhận và kiên trì chu tất sứ mệnh làm ánh sáng Tin Mừng cho đời, cả khi họ giàu sang, hay nghèo khó, bình an mạnh khỏe hay bệnh hoạn tật nguyền....trên cánh đồng, nơi xưởng việc, trong bệnh viện, kể cả nơi lao tù... Tinh thần của Chúa Kitô ngời sáng và họ đã trở nên ngôi sao mang ánh sáng của Tin mừng cho nhân loại tìm về với Thiên Chúa, để tin nhận, ca tụng, và phó thác vào tình yêu Thiên Chúa.
Nhưng một thực tế đáng buồn: vẫn còn nhiều người đang bước đi trong bóng tối lầm lạc, bóng tối của gian tham, của bất công, của ngẫu tượng xác thịt đểhưởng thụ trần gian... Tại sao?
Tôi vẫn nghĩ chúng ta chưa hiểu thấu mầu nhiệm của ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ, chưa thẩm thấu trọn vẹn được ý nghĩa ánh sáng Chúa Kitô, khi ta vẫn là "những ngôi sao chiếu sáng cho thiên hạ thấy đường tìm về mình, tìm về cái tôi của ngôi sao vô nghĩa". Biết bao việc làm tưởng là để vinh danh Chúa, để người ta tung hô ca tụng Chúa, thì lại tiềm ẩn một âm mưu tranh giành vinh quang của Thiên Chúa, để cho mình được vinh quang, được tung hô. Ngay đến việc nhỏ của một vai trò bé bé trong giáo xứ: Hội đồng, bà mẹ, Legio, ca đoàn... cũng đòi phải được tung hô thì còn gì cho vinh quang Thiên Chúa. Và nếu không được tung hô thì bất mãn đòi bỏ việc, thì còn gì là việc của Thiên Chúa. Bệnh "ngôi sao" trên sân cỏ, trên sân khấu, trên thương trường, trên chính trường, trên thông tin mạng, nếu không loại trừ ai, thì trên lĩnh vực công tác tông đồ cho Thiên Chúa cũng y hệt như vậy- không loại trừ đấng bậc nào trong giáo hội. Vì thế, bệnh "ngôi sao chứng nhân cho Chúa Kitô" trở thành con virus làm tê liệt hệ thống miễn nhiễm những trào lưu nhân loại, những chước cám dỗ của satan, của thế lực chống lại Thiên Chúa. Ai cũng có thể tìm cho mình một mối lợi hư ảo, và nhường lại phần thiệt hại cho Thiên Chúa, để người tìm đến Thiên Chúa thì lưa thưa ít ỏi mà tìm đến mình thì dồn dập xôn xao. Lời ca tụng và lễ phẩm dành cho Thiên Chúa thì không thấy mà lại thấy vô vàn ở các ngôi sao. Có lẽ phải nhắc nhở nhau rằng: Đi trong bóng tối âm u gian ác của cõi lòng mình mà vẫn giảng rao về ánh sáng Thiên Chúa là công việc của ma quỷ, là mưu chước hiện đại nhất của satan. Vì nơi satan, và các thế lực của nó, không có, không chấp nhận ánh sáng của Đức Kitô, của Thiên Chúa, nhưng chúng vẫn biết về ánh sáng ấy, và vẫn có thể tiếp thị cách hiện đại.
Lễ Hiển Linh, là cơ hội cho mỗi Kitô hữu, nhìn lại đời sống chứng nhân của mình. Hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian, nhưng chiếu sáng không phải để thế gian tìm về mình, nhưng là để thế gian tìm về Thiên Chúa, như Đức Kitô, ánh sáng mới cho nhân loại, soi cho nhân loại tìm được lối về với Cha thật trên trời. Tất cả vì "nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện, danh Cha cả sáng". Bạn và tôi, như ngôi sao kia, đang làm việc của mình phải làm là chiếu sáng, chứ không làm việc của mình thích làm là chiếu sáng cho vinh quang mình.
84. Địa chỉ của ông sao - Pm Cao Huy Hoàng
Hai cha con làm hang đá. Hữu xếp mấy bao xi-măng thành hình những khối đá. Cha xếp những khối đá vào…. Hữu ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng đặt vào hang đá. “Con bò to to nầy, mầy nằm bên Chúa nhé, thở mạnh đi cho Chúa ấm. Trời lạnh lắm” Hữu nói. Mẹ nhìn cha con làm hang đá lấy làm vui. Mẹ nói: “Phải có sao lạ nữa chứ anh”. Hữu hỏi ngay: “Sao phải có vậy Mẹ? Sao gọi là Sao Lạ?”. Mẹ trả lời: “Phải có ngôi sao lạ, để dẫn đường người ta tới Belem mà thờ lạy Chúa, chứ con. Ai mà biết Chúa sinh ở chỗ tồi tàn đó”. Hữu: “À, thì ra!”.
Suy nghĩ và giải thích đơn sơ của người Mẹ, hẳn là không sai lạc giáo lý nếu cần dạy cho con. Vì quả thật, những đạo sĩ, theo Tin Mừng, hẳn cũng đã tìm đến Belem nhờ ánh sao lạ dẫn đường.
"Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". (Mt 2, 2).
Hai cha con làm ngôi sao lạ. Thấy mẹ không nói gì về sao “lạ”, người cha trò chuyện với mẹ con: “Con có biết những ông sao ở đâu không?” - “ở trên trời, ban đêm mới thấy”.
“Ồ! đúng rồi. Địa chỉ của ông sao chắc chắn là ở “tít trên cao”. Bầu trời đêm đông càng dễ thấy có rất nhiều ông sao. Ông sao nào cũng ở “tít trên cao”. Ông sao nào cũng sáng. Nhưng sáng tít trên cao!
Vậy mà, hôm Chúa sinh ra đời ở cánh đồng Belem, có một ông sao bỗng nhã hứng bất thần chiếu rọi xuống rất thấp, xuống cả một vùng thôn dã nghèo xác xơ, rét cùng cực, tuyết trắng mênh mông. Ông sao ấy chiếu dọi vào hang đá Belem tồi tàn. Nơi hang đá ấy, không có điện đèn chớp nháy hay ánh sáng của kinh thành hoa lệ đằng xa kia chiếu tới đâu. Nhưng ánh sáng của ông sao lạ làm rực lên ánh hào quang của Hài Nhi, con Thiên Chúa ra đời. Vâng, từ thuở tạo thiên lập địa, nay mới thấy có một ông sao như thế, không chỉ sáng tít trên cao, mà sáng từ tít trên cao sáng xuống cùng dưới thấp.
Mẹ hỏi: “Vậy thì mấy ông sao cũng có cá tính sao?”. Không, thiết tưởng, ông sao nào cũng là loài thụ tạo vô tri vô giác, cá tính gì! Nhưng ông sao này đang được điều khiển bởi quyền năng của Thiên Chúa trên cao. Ông đang làm điều Thiên Chúa muốn. Thế mới gọi ông là ngôi sao lạ!
Lạ, là vì ông sao này khác những ông sao khác. Ông chưa có tên trong danh mục các ông sao đã qua viễn vọng kính của các nhà chiêm tinh. Và ông cũng không làm việc thường ngày như những ông sao kia. Lạ, là vì ông không làm điều ông thích làm, thường làm, nhưng ông đang làm việc của Thiên Chúa bảo ông phải làm! Điều đó, Chúa hiểu rõ ông hơn ai hết. Lạ, là vì ông không ở tít trên cao. Lạ, là vì ông xuống rất thấp. Lạ, là vì ông dẫn người ta đến với Chúa”.
Vâng, ông sao lạ nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha, kế hoạch giới thiệu Chúa Con cho nhân loại, giới thiệu Đấng Cứu Thế ban ân sủng cho nhân loại.
Hài Nhi Giêsu trong kế hoạch của Thiên Chúa
Ông Sao Lạ kia xuất hiện, rồi biến đi, nhường chỗ cho hào quang Chúa Hài Nhi Giêsu đang hiển linh như nguồn ánh sáng mới cho nhân loại, Chúa Giêsu tỏ mình và tỏ tình Chúa Cha cho nhân loại.
Nếu ánh sáng đầu tiên cực kỳ huyền diệu của ngày sáng tạo vũ trụ đã bị bóng tối tội lỗi bao trùm, thì hôm nay ánh sáng mới đã đến, ánh sáng cứu độ. Ánh sáng từ trời cao xuất hiện từ Gia-cóp, vương quyền của Thiên Chúa đã đâm chồi từ Israel. Ánh sáng mới ấy là Hài Nhi Giêsu. Ánh sáng tít trên cao chấp nhận xuống cùng dưới thấp để xua tan bóng đêm tội lỗi. Thiết nghĩ, không thể đặt giả thuyết rằng nếu ông sao kia không chịu chiếu sáng xuống một miền Belem thấp kém, không tên tuổi, liệu có ai đã biết đến Tin Mừng cả thể cho nhân loại: Đấng Cứu Tinh đã ra đời. Vì rằng, ngay trong chương trình của Thiên Chúa, ánh sao kia cũng đã được nhắc đến cách long trọng, và nhắc đến cả sứ vụ được giao phó. “Một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en”(Ds 24, 17). Ánh sao ấy chính là Con Thiên Chúa Giáng Sinh.
Mỗi tín hữu trong kế hoạch của Thiên Chúa
Chúa Giêsu nói: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời. (Mt 5, 14-16)
Thánh Phaolô nhận ra vai trò của chính mình và của mỗi tín hữu, trong kế hoạch của Thiên Chúa, khi đã tiếp nhận ánh sáng cứu rỗi của Thiên Chúa, cũng phải làm ông sao lạ dẫn đường thiên hạ đến với Chúa. Ngài nói: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô” (Eph 3,2-3). Hoặc, một nơi khác, ngài nói rõ hơn: “Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao” (Philip 2,14-15).
“Kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa ủy thác” cho mỗi người, hẳn là giới thiệu ơn cứu rỗi cho con người, dẫn đường cho con người đến với Chúa. Mỗi người là một ông sao lạ. Ông sao lạ không ở tít trên cao, nhưng ông sao lạ xuống cùng dưới thấp….
Theo dõi những bản tin Giáo Hội Việt Nam Mùa Giáng Sinh năm nay, chúng ta thật vui mừng, vì có những ông sao ở tít trên cao xuống đến tận vùng sâu vùng xa chiếu giãi ánh sáng Tin Mừng Giáng Sinh đến cho người bần cùng giá lạnh. Niềm vui vô biên của người H’mong, Tây Bắc được ông sao dung dăng dung dẻ với bầy trẻ sơn cước. Nỗi sung sướng của người Mường Cắt, Hòa Bình thấy Chúa đến gần hơn. Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Tây Nguyên, miệt vườn châu thổ… đâu đâu cũng có ánh sáng của những ông sao lạ không còn sáng tít trên cao, nhưng rất gần, sáng rất thấp. Vâng, có những ông sao xuống miền xuôi, cũng có ông sao lên mạn ngược, ông đến với biển, ông về với rừng, ông xuống với người kinh, ông lên người Dân Tộc…
Làm thân ông sao lạ lại là một niềm vui cho mình cho đời. Ấy vậy, cũng có những ông sao lạ không chỉ xuống thấp mà còn chạy lao xao khắp thành phố Sài Gòn. Có ông xoẹt qua nhà cô bé xa quê bán bắp nướng, khoai luộc, ông gửi một món quà, một nụ cười, một niềm vui, không quên lời chúc giáng sinh và niềm hy vọng an bình Chúa Giêsu mến tặng. Rồi tranh thủ xoẹt qua khu ổ chuột còn gần chục người nghèo đang đánh bài tiến lên ăn kẹo giết nỗi sầu đời cho đêm mau qua ngày mau tới. Có ông sao lạ đua xe cho kịp giờ để gửi một phần bánh giáng sinh nho nhỏ cho ông bà bán vé số dưới gầm cầu Sài gòn, sợ ông bà ngủ sớm, ngủ đói! … Nhờ những ông sao lạ, người mù bỗng thấy, người điếc bỗng nghe, người què quặt tật nguyền bỗng quên mình tật nguyền què quặt. Mùa Giáng Sinh đầy những ánh sao báo tin mừng của những ông sao lạ. Mùa Giáng Sinh rộn ràng yêu thương và niềm vui.
Đêm 19/12, tôi được Cha Hữu An mời tham dự đêm “Rộn ràng Noel” ở GX Kim Ngọc. Trên sân khấu, các ngôi sao ca nhạc Công Giáo đang rộn ràng những ca khúc Noel “hát cho vui đời và hát cho đời vui” của GM. Ns Thông Vi Vu. Ngồi ghế trước, ngoái lại đằng sau, người xem đông quá, tôi bỏ ghế, làm một vòng về phía khán giả. Đông đến tận ngoài đường quốc lộ. Già trẻ trai gái không thiếu. Nhưng đa số là lương dân. Họ đơn giản lắm. Tôi chào một cụ ông:
- “Chào cụ, có vui không”.
- “Vui lắm chú à. Lễ Noel hay thật. Tui không nghĩ là ông thượng tọa đạo Chúa có thể xuống hát chơi vui vẻ với mọi người như thế đâu. Chưa bao giờ tui thấy”.
- “Ông thích không?”
- “Có chứ. Tui thích nhất là ông thượng tọa Chúa hát với lũ nhỏ cái gì mà tít trên cao, tít trên cao”
- “À, tít trên cao, có ông sao sáng đẹp biết bao, ngọt ngào, ông loan báo mùa Noel nay đã về đây…”
- “Đúng rồi, đúng rồi, có gì mà đôi má, xinh quá nữa đó”
- “Dạ, Ôi xinh quá là xinh đôi má. Đỏ hây hây tựa cánh hoa đào. Ôi thương quá là thương hang đá. Chúa từ trời sinh ra”
- “Tự hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, tôi cứ nghĩ là mấy ông thượng tọa Chúa ở xa lắm chứ. Dễ gì mà gặp được mấy ổng. Không dè, gần gũi quá”….
Gặp mấy anh chị thanh niên đang chăm chú vào màn chiếu trước nhà thờ: “Nhạc Chúa hay hơn nhạc đời rồi anh, êm đềm trữ tình lắm. Nhạc trẻ hay, dân ca hay, múa cũng hay. Nhưng khúc đồng dao ông Cha hát với đám con nít, hay ể! Chúa xuống gần hơn trước rồi”
…..
Địa chỉ của ông sao đã chuyển từ tít trên cao, xuống cùng dưới thấp.
Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta một lần nữa xác nhận Chúa Giêsu là ánh sáng mới, ánh sáng cứu độ, đã từ trời xuống; đồng thời cũng nhắc nhớ mỗi người làm một ông sao. Một ông sao lạ, không ở tít trên cao, nhưng xuống cùng mọi người để chia sẻ niềm vui cứu độ.
Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa vì mùa Giáng Sinh Năm Thánh Hai Ngàn Mười của Giáo Hội Việt Nam, Chúa đã đến gần hơn với bao tâm hồn dân Việt. Xin giúp mỗi chúng con tiếp tục làm ánh sao chịu thương chịu khó sà thấp đời mình xuống, để đem ánh sáng Chúa cho mọi người, nhất là những người đau khổ bần hàn, bạn chí thiết của Hài Đồng Giêsu, Con Chúa. Amen.
85. Hành trình của các đạo sĩ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Khi đọc tác phẩm Tây Du Ký của nhà văn Ngô Thừa Ân, nhiều người tỏ ra cảm phục trước ý chí vượt khó diệu kỳ của thầy trò Đường Tăng. Quả vậy, để đến được núi Tây Thi thỉnh Kinh Phật, họ đã phải trãi qua một cuộc hành trình dài với bao nhiêu chông gai thử thách. Đường xa vạn dặm, lại thêm vô vàn cạm bẫy của đủ thứ yêu ma quỉ quái khiến cho cả 4 thầy trò nhiều phen muốn bỏ cuộc. Hành trình đó thực sự là một cuộc thử thách của cả lý trí (biểu tượng qua nhân vật Tôn Ngộ Không) lẫn con tim (biểu tượng qua nhân vật Tam Tạng).
Đọc lại trình thuật Tin mừng Mathêu, chúng ta thấy hành trình của ba nhà đạo sĩ Phương Đông cũng không kém phần gian truân. Nhưng đó cũng là một hành trình rất đẹp. Để có thể triều yết Đấng mà họ gọi là Đại Vương, Vua Dân Dothái, họ đã phải vượt qua một chặng đường dài thăm thẳm. Dĩ nhiên đây là một cuộc hành trình có thật, chứ không phải do tác giả hư cấu như hành trình của thầy trò Đường Tăng. Ở đây chúng ta thấy hành trình của các đạo sĩ quả là một hành trình của lý trí, của con tim và của đức tin.
- Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của lý trí khám phá:
Là những nhà Thiên văn, các ông đã biết dùng những kiến thức của mình để khám phá những dấu chỉ của điềm trời, đặt biệt là ánh sao chiếu mệnh. Họ đã biết sử dụng chất xám để nghiên cứu các hiện tượng lạ trong thiên nhiên, trong vũ trụ. Và chỉ có họ mới phát hiện ra ánh sao lạ, bởi lý trí của các ông đã được dùng đúng chổ, nhằm phục vụ cho chân lý, chứ không phải để phục vụ cho danh lợi thú đời này như Hêrôđê, như các Luật sĩ và Biệt phái. Đặc biệt là trong thời đại ngày hôm nay, rất nhiều người sử dụng lý trí của mình không đúng mục đích. Thậm chí còn sử dụng để phục vụ cho những ý đồ đen tối, thay vì để phục cho công lý, cho sự thật và đem lại lợi ích cho đồng loại. Các đạo tặc tìm kiếm những chiêu thức nhằm lường gạt và hãm hại người khác. Các gian thương tìm cách làm hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng; các tin tặc tạo ra các loại vi rút máy tính phá hoại các chương trình, các dữ liệu; các nhà khoa học vô lương tâm sáng chế ra các thứ vũ khí huỷ diệt hàng loạt....
Các nhà đạo sĩ luôn là một điểm son cho chúng ta noi theo trong việc sử dụng lý trí của mình.
- Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của con tim khao khát:
Con tim khao khát tìm kiếm chân lý. Con tim thao thức dấn thân lên đường tìm gặp sự thật. Điều này không có nơi Hêrôđê và có rất ít nơi dân thành Giêrusalem và những người Biệt phái.
Vì khao khát tìm kiếm chân lý nên họ sẵn sàng bỏ lại tất cả: gia đình vợ con, quê hương xứ sở, nhà cửa sự nghiệp,... để lên đường theo ánh sao lạ. Vì khao khát kiếm tìm sự thật, nên họ bất chấp tất cả: đường xá hiểm nguy, núi rừng cách trở, thử thách đợi chờ. Thật đáng khâm phục. Họ ra đi mà không biết sẽ đi đến đâu. Họ ra đi mà không biết ngày nào trở lại, tựa như Abraham ngày xưa vậy. Chính tình yêu đối với vị "Chánh Vương" là động cơ thôi thúc họ thượng lộ khẩn trương. Đúng như lời quả quyết của thánh Phaolô sau này: "Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi".
- Hành trình của các đạo sĩ, hành trình của đức tin soi dẫn:
Khi thấy sao lạ xuất hiện, đức tin đã mách bảo cho các ông biết có Đại Vương, có Đấng Cứu Tinh xuất hiện. Khi ánh sao biến mất, đức tin đã chỉ lối cho các ông tìm đến với Giêrusalem - Kinh đô của Kinh Thánh để được tham vấn. Khi đối diện với một hài nhi nghèo hèn nằm trong máng cỏ, theo lý trí tự nhiên không ai dám mạnh dạn tuyên xưng đó là Con Thiên Chúa, nhưng đức tin đã soi sáng cho các ông nhận ra đó chính là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi. Và cũng chính đức tin đã biến đổi cuộc đời họ. Họ đã trở thành những vị tông đồ đích thực của Đấng Thiên Sai Giêsu. Theo khẩu truyền, ba nhà đạo sĩ đã đi giảng đạo tới tận trời Tây, và hiện nay một ngôi mộ được coi là của ba nhà đạo sĩ ấy, vốn rất được nhiều người kính viếng ở thành Phố Cologne, bên bờ sông Rhin, nước Đức.
Như vậy, rõ ràng hành trình của các đạo sĩ không chỉ là hành trình của lý trí khám phá, của con tim khao khát, mà còn là hành trình của đức tin soi dẫn. Vì nếu không có đức tin soi dẫn thì có lẽ họ đã lạc lối, và bỏ cuộc khi gặp thử thách. Nếu không có đức tin mách bảo thì có lẽ họ đã không nhận ra một trẻ thơ nghèo hèn là một bậc Đế Vương, là một vị Cứu Chúa. Và nếu không có đức tin soi sáng, chắc chắn họ không dại gì phải sụp lạy trước một hài nhi bé bỏng yếu ớt, càng không dại gì phải uổng phí những lễ vật quí báu của mình, nếu họ không tin nhận đó là Vị Cứu Tinh của họ. Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, từ ngữ "sụp lạy" ám chỉ một sự qui phục chỉ dành cho Thiên Chúa.
Phần tôi thì sao? Tôi đang sử dụng lý trí của mình, kiến thức của mình thế nào? Con tim của tôi đã đặt đúng chổ chưa? Tôi thường yêu mến, thường khao khát những gì? Có phải là "sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần"; hay chỉ là tiền tài, danh vọng, sắc dục và những thú vui hưởng thụ đời này? Trong hành trình dương thế của tôi, đức tin đóng vai trò nào? Tôi có coi trọng và biết cầu xin ơn đức tin mỗi ngày, nhất là trong những lúc gặp thử thách, gặp bế tắc trong cuộc sống hay không?
Ước gì gương của ba nhà đạo sĩ luôn được chúng ta soi nhìn. Để trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta luôn đi đúng đường, đúng hướng và đạt tới cùng đích mà chúng ta mong ước. Đó là Nước Chúa, nơi Đức Kitô đang đợi chờ chúng ta. Amen.
86. Tìm Đức Kitô
Ba vua tìm Chúa Giêsu. Có phải họ đã bị đánh động bởi ý tưởng của người Do Thái về một thời đại vàng son do Đấng Cứu Thế mang lại, và niềm tin ấy có thể đã lan tràn ra hàng trăm cây số về phía đông xứ Palestine chăng? Có người đã nêu ra giả thuyết rằng có những cuốn lịch trong các miền nói trên ghi rằng trong thời gian ấy Vị Chúa Tể của thời đại cuối cùng sẽ sinh ra ở Palestine. Dù sao, chúng ta thấy một số người lên đường đi tìm Chúa Giêsu. Về đề tài này, ta có thể nêu lên vài suy nghĩ sau đây:
1) Tìm Chúa Kitô đòi hỏi trước hết phải có một thái độ tinh thần căn bản
Người ta sống trong tình trạng báo động để nhận ra dấu hiệu có thể đưa tới Chúa. Cứ chấp nhận rằng ba nhà đạo sĩ sống trong một bầu không khí mong chờ một ông vua Cứu Thế, dường như một lúc nào đó họ đã nhận thấy một ngôi sao, một dấu hiệu, tâm hồn họ tỉnh thức. Chúng ta có thuộc về hạng người biết nhận ra, giữa trăm ngàn yếu tố tạo nên đời sống mình, cái dấu hiệu dẫn đưa ta đến Đức Kitô không? Dấu hiệu ấy có thể là một khó khăn, mà đột nhiên ta cảm thấy cần phải phó thác cho Chúa, vì chỉ mình Người có sức soi sáng và giải quyết. Có thể là một niềm vui lớn lao, từ đó ta thấy hiển nhiên là cần phải cảm tạ Chúa. Dấu hiệu ấy cũng có thể là một chi tiết đời sống ta, trong đó, nếu biết nhìn, ta sẽ nhận ra sự hiện diện kín đáo của Chúa. Trong các trường hợp như thế, ta cần phải để ý tới những dấu hiệu dẫn ta tới Đức Kitô.
2) Ba đạo sĩ đã lên đường
Muốn tìm Đức Kitô, ta buộc phải ra khỏi tình trạng ‘yên chuyện’ và ‘an tọa’ của mình. Có người ‘an tọa’ trong những hệ thống tư tưởng; kẻ khác, trong một địa vị ‘ngon lành’; một số thì ngồi yên trong một tiện nghi lương thiện v.v… Bằng cách này hay cách khác, dấu hiệu của Đức Kitô mời gọi ta đừng tự đóng kín trong tình cảnh ‘yên thân’, nhưng phải bước ra khỏi đó để khám phá ra một cái gì lạ lùng, chưa hề thấy, một cái gì mà ta cảm thấy là đáp lại được sự mong chờ của ta, với điều kiện là ta chờ đợi Đức Kitô.
3) Ba đạo sĩ tìm kiếm một cách tích cực
Bao lâu ánh sao còn le lói trước mặt, họ để cho ánh sao dẫn đường. Nhưng kìa, ngôi sao biến mất, họ buộc phải tự tìm đường. Vẫn hy vọng. Không hồ nghi về tính xác thực của ông Vua đã được ngôi sao kia báo hiệu. Thiếu vật chỉ đạo lạ lùng, tức ngôi sao, họ dùng tới những phương tiện thông thường là hỏi han. Họ đi đến những nhà hữu trách tôn giáo. Những người này không muốn bị phiền hà về vụ ông Vua mới sinh ra, nhưng họ cho ba người khách những lời chỉ dẫn đúng. Thế là các đạo sĩ được ‘thưởng công’: họ tìm thấy Chúa Giêsu. Trong đời ta có thể đã có những dấu này, dấu nọ báo tin Chúa Giêsu, rồi tan biến đi. Bổn phận ta bây giờ là tiếp tục nỗ lực tìm kiếm với những phương tiện thông thường sẵn có. Lúc ấy Đức Kitô sẽ không lẩn tránh đâu.
87. Chúa tỏ mình cho muôn dân
(Suy niệm của Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu)
Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người
Thánh sử Mát-thêu là người duy nhất đã viết về biến cố "Khi đức Giêsu ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đa, thời vua Hê-ro-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến, và hỏi: "Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người".
Nghe tin ấy, vua Hê-ro-đê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Không lạ gì mà Vua Hê-ro-đê "bối rối" khi được tin "vị vua dân Do Thái mới sinh ra". Ông đang ngồi chễm chệ trên ngai vàng. Vị vua mới sinh ra lại không thuộc dòng dõi của Ông. Làm sao mà Ông có thể ăn ngon ngủ yên được trước tin động trời này.
Không những triều đình "bối rối", mà cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Dân chúng xôn xao vì đây là tin mừng lớn lao. Đã từ lâu, dân tộc họ, đất nước họ nằm dưới ách thống trị của đế quốc Rôma. Nay tin "vị vua dân Do Thái mới sinh ra" đem đến cho cả thành một niềm hy vọng mới.
Trước biến cố "vị vua dân Do Thái mới sinh ra", thánh sử Mát-thêu đã phác họa lại ba thái độ và ba phản ứng khác nhau:
1. Thái độ và phản ứng của Vua Hê-ro-đê: Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân ta sẽ ra đời".
Sau đó Hê-ro-đê tiếp tục bí mật điều tra các nhà chiêm tinh về "giờ ngôi sao xuất hiện" và dặn dò kỹ lưỡng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lậy Người". Ai trong chúng ta cũng hiểu ý thâm độc của Vua. Vì sau khi các nhà chiêm tinh "được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-ro-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình". Bấy giờ vua Hê-ro-đê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, thì đùng đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh (Mt 2, 16-17).
2. Thái độ và phản ứng của dân thành Giêrusalem, tượng trưng cho thái độ của toàn dân Do Thái: Thoạt đầu, "cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao". Các thượng tế và kinh sư khi được nhà vua Hê-ro-đê triệu vời đến để hỏi về nơi sinh của "vị vua dân Do Thái mới sinh ra", họ đã lục lọi kinh thánh và đã trả lời nhà vua một cách dễ dàng, khi họ tham chiếu lời tiên báo của Ngôn sứ Mikêa 5,1. Nhưng sau đó không thấy có một thượng tế, một kinh sư nào, hoặc một người dân thành Giê-ru-sa-lem lên đường đi tìm "vị vua dân Do Thái mới sinh ra". Họ "chỉ đường" cho Hê-ro-đê tìm giết để loại trừ đối thủ của ngai vàng của ông. Họ "chỉ đường" cho các nhà chiêm tinh biết đường tìm đến "vua mới sinh". Còn họ đứng ngoài cuộc.
Như chúng ta đều biết: Thánh sử Mát-Thêu viết Tin Mừng Chúa Giêsu bằng tiếng A-ram (tiếng Do thái cổ) và nhắm vào các độc giả là những cộng đoàn Kitô giáo gốc Do Thái giáo trở lại đạo và đồng bào Do Thái nói chung, để họ nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia (Đấng Cứu Thế) mà dân tộc từng trông đợi. Như vậy chủ tâm viết đoạn Tin Mừng này, Thánh sử Mát-thêu muốn nêu bật tư tưởng chính yếu: Tin mừng cứu độ đã được loan báo cho dân Ítraen trước nhất, nhưng họ đã không tiếp nhận. Nay Tin mừng này được loan báo cho toàn thể lương dân. Dân Do Thái hằng mong đợi Đấng Cứu Thế đến, nhưng khi Ngai đến, họ không thèm đón nhận người. Họ thông thạo kinh thánh, họ biết nơi sinh của Đấng Cứu Thế, nhưng tất cả các thượng tế và kinh sư, những người đứng đầu lãnh đạo dân, và toàn thể Giê-ru-sa-lem, không ai bận tâm đến biến cố này...Sau một ít phút "xôn xao", họ lại tiếp tục với những mối bận tâm khác, với những đam mê và mong đợi khác. Hai ngàn năm sau, họ vẫn đến gục đầu bên bức tường than khóc và vẫn còn chờ mong một đấng Cứu Thế khác.
3. "Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người".
Ngược lại với hai thái độ trên, là thái độ của những nhà chiêm tinh:
- Họ tỉnh thức theo dõi các biến chuyển trong vũ trụ. Nhận ra dấu chỉ của Đấng Cứu Thế qua việc xuất hiện vì sao lạ.
- Họ lên đường theo sự hướng dẫn của "ánh sao" và quyết tâm tìm kiếm cho bằng được "Vị Vua mới sinh", dù bị thử thách, lạc mất ánh sao tại Giê-ru-sa-lem.
- Họ tin nhận "Vị Vua mới sinh" là Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi, mặc dù khung cảnh bên ngoài khác với lòng họ tưởng: "Vị Vua mới sinh" thật nghèo hèn, sinh ra không ở cung điện vua, Mẹ ngài là một người đàn bà nhà quê, nhưng "Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Bà Maria, liền sấp mình thờ lậy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến".
Theo vết chân của mấy nhà chiêm tinh xưa, chúng ta hãy biết tỉnh thức để khám phá ra những dấu vết sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống, qua các biến cố thường ngày. Hãy kiên tâm theo sự hướng dẫn của "ánh sao" chỉ đường. Hãy tin nhận "sấp mình thờ lậy" Đấng Cứu Thế mới sinh ra.
Lễ Chúa Hiển Linh xưa vẫn được gọi là Lễ Ba Vua, hay Lễ Chúa tỏ mình cho muôn dân. Hôm nay, tất cả Giáo Hội Chính Thống mừng Lễ này như đại lễ Giáng Sinh. Tất cả chúng ta cùng hiệp thông trong niềm tin vào Chúa Cứu Thế với hàng mấy trăm triệu anh chị em tín hữu Chính Thống giáo và cùng nguyện cầu xin Chúa là ánh sáng muôn dân, là ngôi sao dẫn đường cho tất cả muôn dân tìm về nguồn cứu độ chân thật.
88. Ba vua
Lễ Hiển Linh, đó là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ phương đông, để thực hiện lời tiên tri Isaia đã loan báo:
- Dân ngồi trong tăm tối sẽ được nhìn thấy ánh sáng chói lòa.
Đồng thời đây cũng là ngày trọng đại cho mỗi người chúng ta, vì ơn cứu độ đã được thực hiện cho muôn dân.
Chúng ta hãy nhìn vào cung cách của ba nhà đạo sĩ để rồi từ đó cùng nhau tự vấn lương tâm và kiểm thảo đời sống của mình.
Điểm thứ nhất, đó là ba nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh sao lạ và trong thinh lặng các ngài đã suy nghĩ để tìm ra sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến. Trong khi đó những người khác cũng đã nhìn mà chẳng thấy và chẳng hiểu.
Có lẽ chúng ta cũng vậy, chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa. Chúng ta để cho tâm trí bận rộn và quay cuồng trước đam mê dục vọng, tiền bạc và lạc thú. Rồi từ đó, ánh sao cuộc đời và tiếng nói của Chúa cứ mờ dần, cứ tắt dần trong cõi lòng chúng ta.
Điểm thứ hai, đó là sau khi nhận ra sứ điệp của Chúa, các ngài đã lên đường mặc cho những khó khăn chờ đón. Các ngài có thể đưa ra 1001 lý do để ở lại nhà, từ chối dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm bấp bênh. Tuy nhiên, các ngài đã dứt khoát lên đường, không chần chừ do dự, và đã trung thành với quyết định của mình cho đến cùng. Mặc cho người đời cười chê, các ngài vẫn chỉ nuôi một ước vọng: Tìm gặp và thờ lạy vua dân Do Thái.
Thái độ của các ngài hoàn toàn khác xa với thái độ của dân Do Thái, đã được thánh Augustinô diễn tả như sau:
“Các ngài đến chiêm ngắm Đấng Cứu thế trên quê hương của dân Do Thái, nhưng còn họ, họ lại không biết đến. Các ngài đã tìm thấy Chúa Giêsu dưới hình dáng một hài nhi nằm yên trong máng cỏ. Còn họ, họ đã chối bỏ Chúa Giêsu ngay cả khi Ngài rao giảng công khai, ngay cả khi Ngài làm các phép lạ. Các ngài từ xa mà đến, và đã gặp được Chúa. Còn họ, họ ở rất gần mà cũng chẳng thấy”.
Có lẽ chúng ta cũng không hơn gì những người Do Thái. Chúng ta ở cách nhà thờ đôi ba trăm thước mà chúng ta cũng rất ít khi đến tìm gặp Ngài. Chúa còn hiện diện nơi những kẻ cùng khốn bên cạnh chúng ta, thế nhưng chúng ta cũng rất ít khi nhận ra và giúp đỡ.
Điểm thứ ba, đó là sau khi đã khám phá ra và thờ lạy Hài nhi Giêsu, các ngài đã dâng cho Chúa lễ vật, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho tấm lòng quảng đại của mình.
Còn chúng ta, chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa trong Mùa Giáng sinh này, cũng như ở chặng cuối cùng của cuộc đời chúng ta? Hay là chúng ta đến gặp Chúa với đôi bàn tay trống trơn, không một chút công nghiệp, và với một tâm hồn nhàu nát vì tội lỗi.
Sau cùng, các ngài định trở lại Giêrusalem để tường trình cho Hêrôđê, nhưng được thiên thần báo mộng, các ngài đã tuân theo, đi một con đường khác mà trở về quê hương xứ sở của mình.
Qua đó chúng ta thấy, mặc dù là những người có thế giá, các ngài vẫn luôn luôn tuân phục lệnh truyền của Chúa một cách tuyệt đối, không bàn cãi.
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng cuộc đời của chúng ta là một thảm trạng, trong đó, chúng ta luôn luôn chống lại lệnh truyền của Chúa, bằng những vấp ngã, bằng những phản bội.
Hãy noi gương ba nhà đạo sĩ phương đông, hãy lên đường tìm kiếm và thờ lạy Chúa. Hãy bảo toàn đức tin của mình, dù có phải hy sinh, dù có bị thiệt thòi.
89. Nhận biết và tin thờ Chúa như các nhà đạo sĩ
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Mt 2:1-12: Hôm nay, ở Bêlem xuất hiện những nhân vật lạ. Họ từ xa đến và đang phủ phục bái thờ một Hài Nhi đơn sơ nhỏ bé và nghèo nàn; rồi họ lấy lễ vật để dâng lên Ngài như dâng lên một vị vua uy quyền đáng tôn kính. Họ là ai? Họ đã thấy gì?...
Hôm nay, ở Bêlem xuất hiện những nhân vật lạ. Họ từ xa đến và đang phủ phục bái thờ một Hài Nhi đơn sơ nhỏ bé và nghèo nàn; rồi họ lấy lễ vật để dâng lên Ngài như dâng lên một vị vua uy quyền đáng tôn kính. Họ là ai? Họ đã thấy gì?
Thánh sử Mátthêu giới thiệu cho chúng ta biết đây là những nhà chiêm tinh từ phương Đông tới. Họ là những người có khả năng quan sát các vì sao và đọc ra từ đó các dấu chỉ thời đại. Hôm nay, họ theo ánh sao lạ đến Giêrusalem và làm rung động cả thành cùng với nhà vua vì thông tin này: “Vua người Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở Phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Người.”
“Chúng tôi đã thấy ngôi sao…” Ngôi sao chỉ xuất hiện trên bầu trời đêm. Màn đêm làm cho cảnh vật ra tăm tối, tĩnh lặng và gây sợ hãi cho nhiều người. Tuy nhiên, bầu trời đêm lại chứa ẩn nơi nó những dấu chỉ về thời tiết, về sự thay đổi của thời cuộc và của con người. Những nhà chiêm tinh đã ngắm nhìn trời đêm và nhận ra một ngôi sao lạ chỉ cho biết: một Ấu Vương vĩ đại mới chào đời!
Các Nhà Chiêm Tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao” dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù.
Giống như các người chăn chiên ngoài đồng, khi các nhà chiêm tinh “vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người”, họ không chỉ bái lạy một Thiên Chúa giáng trần, mà vì ‘thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng’ vì biết rằng ơn cứu độ của mình và của toàn nhân loại đang được thực hiện cách trọn vẹn và dứt khoát, trong hình hài của Hài Nhi nhỏ bé.
Các Nhà Chiêm Tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa, ở đây được các Nhà Chiêm Tinh diễn tả ra trong tình trạng tinh trong. Dựa vào ba lễ vật, qua các thời đại, người ta đã tưởng tượng là có ba Nhà Chiêm Tinh, có tên rõ ràng, một vị trẻ tuổi, một vị đứng tuổi và một vị đã già; một vị là người châu Á, một vị là người châu Âu và một vị châu Phi. Cách làm này không tương ứng với chữ viết của bản văn nhưng phù hợp với tinh thần của Tin Mừng.
Có thể có nhiều nhà chiêm tinh đã nhận ra vì sao lạ và đọc được ý nghĩa của nó, nhưng chỉ một số ít trong họ đã lên đường tìm kiếm Hài Nhi; và trong số họ, chỉ còn lại vài người kiên trì đến cùng để gặp được Ngài. Hành trình tìm kiếm vị Ấu Chúa mới chào đời là một hành trình đầy thử thách và tăm tối. Với lòng khao khát được bái kiến Người, các ông đã dò dẫm theo ánh sao chỉ đường. Nếu vào ban ngày thì làm gì có ánh sao? Muốn thấy ánh sao, các ông phải đợi khi trời tối. Nếu gặp đêm đông giông bão, trời đất cũng mịt mờ, làm sao mà nhận ra ánh sao chỉ đường? Tuy vậy, khi ánh sao biến mất, các ông đã dò la để có bằng được câu trả lời: vị Ấu Chúa chào đời ở Belem, đất Giuđa, theo lời các ngôn sứ đã loan báo.
“Các ông vào nhà và thấy hài nhi và Mẹ Người…” Có gì bảo đảm hài nhi này là Ấu Vương các ông đang tìm kiếm? Đây chỉ là một hài nhi nghèo khó, đơn sơ, bên cạnh bà mẹ trẻ giản dị không trang sức, không vương quyền… Nhờ ánh sao đức tin soi dẫn, các ông đã nhận ra Hài Nhi chính là vị vua các ông đang tìm kiến, nên đã vui mừng thờ lạy, rồi mở tráp lấy lễ vật dâng tiến Người như dâng tiến một vị vua uy quyền.
Các đạo sĩ cũng được gọi là ba vua, xưa đã đi tìm kiếm Đấng Cứu Thế, cũng chính là hình ảnh của nhân loại ngày nay thao thức đi tìm kiếm Chúa. Các vị đạo sĩ mới chỉ biết Chúa cách mơ hồ nhờ sự nghiên cứu các sự thay đổi tinh tú trên bầu trời rồi đối chiếu với Sách Thánh của dân Do thái, các ngài đã nhận biết Đấng Cứu Thế đã ra đời, và đã khăn gói lên đường đi tìm kiếm Chúa.
Sứ điệp thật rõ ràng: Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian cho tất cả mọi người, kể cả những người ở ngòai đức tín ki tô hữu. Từ “Hiển linh” có nghĩa là tỏ hiện. Do đó, lễ nầy loan báo cho chúng ta rằng Thiên Chúa tỏ hiện cho tất cả mọi người. Đêm giáng sinh, tin mừng được loan báo cho các mục tử, và ngang qua họ, cho tất cả những người nghèo. Hôm nay, đến lượt những người ở ngoài được hưởng diễm phúc ấy. Không một chướng ngại nào, dù là màu da, văn hóa hoặc cả nguồn gốc tôn giáo có thể làm thất bại chương trình của Thiên Chúa. Người tỏ hiện cho tất cả mọi người và từng người miễn là họ tìm kiếm Người.
Tất cả các lứa tuổi và con người của mọi châu lục đều đạt tới mục tiêu khi gặp Hài Nhi này, nhất là khi nhìn nhận Người là Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người đã đến cho mọi người, cho người trẻ cũng như cho người già, cho người thông thái cũng như người chất phác ít học, cho mọi màu da và mọi lối sống, để giúp họ nhận biết Thiên Chúa là Cha và đưa vào cuộc đời họ một ánh sáng chói chan. Như các Nhà Chiêm Tinh, loài người không được để mình đi trệch đường về với Đức Giêsu, mà phải để cho Thiên Chúa hướng dẫn, cho đến khi tới đích.
Với mỗi người chúng ta hôm nay: Mục đích cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta là nhận biết tin thờ biết ơn Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất muôn vật, và tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến là Đức Giê-su Ki-tô, để nhận được ơn giao hòa với Thiên Chúa, được sống trong Nước Trời do Chúa Giê-su thiết lập là Hội Thánh hôm nay, hầu sau này sẽ được hưởng hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa trên Nước Trời vĩnh hằng, như lời Chúa Giê-su đã cầu nguyên với Thiên Chúa: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
90. Ánh sao dẫn đường - Dã Quỳ
Cuộc sống của chúng ta bình thường hằng ngày, ít nhiều cũng có những cuộc hành trình. Có những lần ta lên đường để thực hiện một cuộc thăm viếng người thân, hay có những khi ta đi xa để lo một công việc... Nhưng cũng có những chuyến đi quan trọng để tìm kiếm chân lý hay tìm về với đời sống tâm linh... Hành trình nào cũng khiến chúng ta cần có sự chuẩn bị và đích đến rõ ràng. Nếu như chưa biết đường, ta rất cần tấm bản đồ hay sự hướng dẫn... Hôm nay, Tin Mừng thuật lại cho chúng ta hành trình của các nhà chiêm tinh, một hành trình dài, gian khó và có mục đích, đó là "Hành trình tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu- Đấng Kitô mới sinh".
Ba nhà chiêm tinh là những người ở phương Đông, rất xa, đã lên đường tìm kiếm Hài Nhi Giêsu. Nhờ ánh sao lạ dẫn lối, các ngài đã tìm đến được hang đá nơi Đức Maria, thánh Giuse và Hài Nhi Giêsu đang trú ngụ "Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người."( Mt 2, 11) Họ phủ phục trước con trẻ mà trong Người, họ nhận ra là Vua dân Do Thái, là Con Thiên Chúa mới sinh. Họ dâng tiến Người những lễ vật xứng hợp với lễ vật dâng lên cho Vua là vàng, nhũ hương và mộc dược. Thiên Chúa đã yêu thương tỏ mình ra cho những tấm lòng chân thành và khao khát tìm Người.
Giờ đây, các nhà chiêm tinh phải trở về quê hương xứ sở của họ. Họ đã bàn tính, dự định quay trở lại báo cho Hêrôđê và cũng trở về bằng con đường cũ họ đã đi đến. Thế nhưng, trong giấc mơ họ được báo rằng sự sống của họ đã bị nguy hiểm từ khi gặp Hêrôđê-người mong họ trở lại. Và vì thế,"họ đã đi lối khác mà về xứ sở mình."(Mt 2,12)
Như vậy, phải chăng không có cùng một con đường cho tất cả mọi người để khám phá ra sự hiện hữu của Chúa Kitô, và quyết định bước đi theo Người một cách chắc chắn? Cũng là con đường ấy, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến nơi, triều bái Đấng Kitô. Nhưng Hêrôđê và các thượng tế, các kinh sư dù am tường Kinh Thánh và biết rõ địa chỉ nơi Hài Nhi Giêsu sinh ra, thế mà họ đã không lên đường đến thờ lạy Người. Trái lại, vì lòng kiêu căng ích kỷ, họ tìm kiếm chỉ để sát hại Người. Ba nhà chiêm tinh khi đã gặp Hài Nhi Giêsu, họ thay đổi lối đi, rời bỏ những con đường quen thuộc để bước đi trên con đường mới và chắc hẳn là con đường không biết trước. Họ cần phải chú ý nhiều hơn, điều chỉnh lại phương cách của họ, suy nghĩ của họ, sự nhận định và cách xử thế của họ. Bây giờ họ khởi hành trong tâm tình mới, với trạng thái bình an vì có Ngôi Sao Sáng là chính Đức Kitô ở trong họ.
Con đường đưa tới hạnh phúc và dẫn đến Nước Trời được Chúa Giêsu loan báo không phải là con đường mà tất cả mọi người chọn đi theo một cách tự nhiên. Người đã công bố "Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy."(Mt 7,14) Trên con đường này, chính Chúa là ánh sao chỉ đường dẫn lối và đồng hành cùng ta. Những người cùng đi bên cạnh ta là anh em, là con cùng một cha. Những người ấy cần được đón tiếp, không bị xét đoán, được giúp đỡ tận tình, được phục vụ và tha thứ. Những người ấy phải được yêu thương cho đến cùng vì dấu chỉ mà Chúa Giêsu nhắc nhớ ta là "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau."(Ga13,35)
Mừng Lễ Chúa Hiển Linh, mỗi Kitô hữu chúng ta được mời gọi hăng hái bước theo ánh sao Lời Chúa, ánh sao trong các biến cố cuộc đời và nhất là ánh sao Chúa Giêsu Kitô, đến thờ lạy Người, dâng lên Người trọn vẹn tâm hồn và thân xác của ta. Đồng thời nhờ ánh sáng của Chúa hướng dẫn và đổi mới, ta được trở nên ánh sao nhỏ: Ánh sao của tình yêu thương, ánh sao của niềm hy vọng, ánh sao của lòng tin tưởng, của cảm thông và bác ái...sẽ là những ánh sao thiết thực nhất, chiếu sáng rõ để dẫn lối cho nhiều anh chị em xung quanh nhận ra sự hiện diện của Chúa và tôn thờ Người là Thiên Chúa thật. Đây cũng là sứ mệnh và trách nhiệm của chúng ta- trách nhiệm truyền giáo. Để một ngày, chúng ta sẽ thực sự hạnh phúc ca lên rằng "Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Người."
Lạy Chúa Kitô, xin chiếu dãi ánh sáng của Chúa vào tâm hồn chúng con, để chúng con đủ sức vững bước, vượt qua cõi đời tăm tối này và xin dẫn dắt tất cả nhân loại về với Chúa. Amen.
91. Niềm tin của các đạo sĩ
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Những khi ngắm cảnh chiều hoàng hôn nhẹ buông hay bình minh lên rực rỡ, ta cảm nhận vẻ đẹp huyền diệu của trời đất. Biết thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, ta sẽ thấy sự huyền diệu của Đấng Tạo Hoá.
Những đêm đẹp trời, nhìn lên bầu trời đầy sao, ta thấy Sao Bắc Đẩu. Sao Bắc Đẩu nằm trong chòm sao Gấu Lớn (còn gọi là Đại hùng tinh) và nằm ở phương Bắc. Người đi biển không có la bàn hay người đi rừng thường nhìn sao Bắc đẩu để nhắm hướng Bắc, nhờ đó họ có thể đi biển an toàn, không sợ lạc trên biển cả mênh mông, trong rừng già hoang vắng. Sao Bắc Đẩu là sao định hướng.
Cách đây hơn 2000 năm, trên bầu trời đầy sao bỗng xuất hiện một ngôi sao lạ ở phương Đông. Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ vì họ chuyên nghiên cứu các vì sao. Ngày xưa người ta tin rằng những vĩ nhân chào đời thường được báo hiệu bằng những ngôi sao. Bởi đó khi thấy xuất hiện một ngôi sao lạ, họ đã nghiên cứu đối chiếu với lời tiên báo trong trong sách Dân số ” Một vì sao xuất hiện từ Giacop,một vương trượng chỗi dậy từ Israel”( 24,17), họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm.
Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng. Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại. Khi biết rằng Đấng Kitô hạ sinh ở Bê lem theo lời tiên báo các ngôn sứ, Hêrôđê bày trò gian xảo nhằm tiêu diệt ấu vương. Con cáo già giở giọng ngọt ngào: xin quý Ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cùng đến bái lạy Người. Không gạt được các nhà chiêm tinh, vị bạo chúa ra lệnh giết hết con trẻ ở Bêlem và các vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẻ các nhà chiêm tinh.
Ngôi sao lạ lại xuất hiện dẫn đường, các nhà chiêm tinh mừng rỡ tìm đến Bêlem. Họ đã gặp Hài Nhi liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.
Câu chuyện tuyệt đẹp, ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các Đạo sĩ đến Bêlem để gặp Đấng Cứu tinh.Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì Dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.
Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các đạo sĩ hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.
Phụng vụ Giáo Hội đọc câu chuyện này trong ngày Lễ Hiển Linh,Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại. Các đạo sĩ là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: từ phương đông phương tây nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời.
Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong Thánh kinh nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, thế nhưng chỉ ngồi bàn giấy, không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các đạo sĩ lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo hội, qua các bí tích. Muốn gặp được Người nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.
Niềm tin các đạo sĩ chính là hành trình đức tin của người Kitô hữu.Có những gian truân vất vả vẫn vững tin rằng tất cả sẽ kết thúc trong ánh sáng huy hoàng.
92. Ngôi sao dẫn đường
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Mt 2: 1-12 Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17).
Cách đây hơn hai ngàn năm, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem miền Giuđê thời Vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2). Các nhà chiêm tinh Đông phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” (Mk 5,1). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người.
Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia. Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Ðó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước. Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng.
Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Chuyện đang công khai, Hêrôđê chuyển thành bí mật: “bí mật vời các nhà chiêm tinh, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi phái các vị ấy đi, căn dặn: xin đi dò hỏi tường tận… khi tìm thấy xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy người”. Tất cả những động từ trên đây cho thấy cáo già Hêrôđê đang tìm cách biến các nhà chiêm tinh thành gián điệp phục vụ cho âm mưu đen tối của ông.
Các đạo sĩ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.“Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi đường khác mà về xứ mình”.
Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị Cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.
Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.
Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: “từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời” (Mt 8,11). Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo Hội, qua các Bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.
Hôm nay, không có ngôi sao Đông phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." . Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao? Thánh Gioan giải thích: “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy. “Trên trời có muôn ngàn ngôi sao, thế mà các đạo sĩ nhận ra ngôi sao của Chúa Giêsu.Có thể không ngôi sao nào trên trời dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhưng nếu chúng ta đã đến được với Chúa Giêsu thì cũng nhờ một hay nhiều ngôi sao nào đó dẫn đường. Có thể là cha mẹ, một người bạn, một quyển sách, một biến cố... Điều quan trọng là chúng ta biết đọc những tín hiệu. Giữa trăm ngàn đĩa phim, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể xem được và phân biệt được phim về Chúa Giêsu với các phim khác. Giữa trăm ngàn đĩa ca nhạc, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể nghe được và phân biệt được đĩa thánh ca với các đĩa khác. Đầu đĩa ấy có thể là vũ trụ, có thể là Hội Thánh. Đặc biệt là Thánh Kinh. Nhưng điều cốt yếu vẫn là tôi phải xem, phải nghe. Thiên nhiên và lịch sử không bao giờ thiếu những ngôi sao tín hiệu để con người đến được với ánh sáng.” (ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt).
Thời nay, Mẹ thánh Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao lao là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời. Chúa muốn chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh: “Các con là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Kitô hữu trở nên ánh sao tình yêu, ánh sao tha thứ, ánh sao hy vọng, ánh sao công bình, ánh sao bác ái, ánh sao đạo đức, góp phần dẫn đường cho người khác đến với Chúa. Ngôi sao Đông phương dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi rồi tiến dâng lễ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng ta sáng lên niềm tin. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc,11,28), Chúa Giêsu chỉ cho thấy sự cao cả đích thực của Đức Maria, như thế mở ra cho mỗi người chúng ta khả năng sống mối phúc phát sinh từ Lời được lắng nghe và đem ra thực hành. (x.Verbum Domini, số 124).
Chính Chúa Giêsu là Ngôi Sao Mai dẫn chúng ta đi vào con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Bước theo ánh sáng Ngôi Sao Mai, người Kitô hữu chiếu tỏa các giá trị Phúc Âm giữa lòng trần thế. Loan báo Phúc Âm là loan báo tình yêu thương, là xây dựng “nền văn minh tình thương”. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo trong thời đại hôm nay.
93. Ngôi Lời đã ở giữa chúng ta - Huệ Minh
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Việc Chúa sinh ra được loan báo cho mọi người biết dưới nhiều hình thức khác nhau như: lời các ngôn sứ loan báo từ nhiều thế kỷ trước, đạo binh thiên thần ca hát, ngôi sao lạ xuất hiện... Tuy nhiên không phải ai cũng gặp được Chúa.
Ngày hôm nay Thiên Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông, nghĩa là những người ở ngoài dân Chúa và bị người Do Thái xếp vào hàng dân ngoại. Chính vì thế lễ Hiển Linh có thể được coi như là lễ Giáng sinh của người ngoại. Tuy nhiên, qua phụng vụ ta thấy được tính cách bi đát của chương trình cứu độ như thánh Gioan đã diễn tả: Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà các người thân đã không tiếp nhận Ngài.
Từ xưa, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ nhiều thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh thánh: "Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng chỗi dậy từ Israel" (Ds 24, 17). Ngôn sứ Mikha cũng đã tiên báo: "Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel" (Mk 5, 1).
Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Belem để gặp Đấng Cứu Tinh. Thế nhưng, thật trớ trêu là: vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ hiểu Kinh thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay.
Isaia đã đưa ra những lời tiên đoán đầy phấn khởi về Giêrusalem vào ngày Đấng cứu thế xuất hiện. Ngày ấy, Giêrusalem sẽ trở thành trung tâm ánh sáng và mọi người từ bốn phương trời sẽ tiến về đó với muôn vàn lễ vật. Nhưng trớ trêu thay, vào ngày Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, theo như lời tiên tri Isaia loan báo, ánh sáng đã chiếu trên Giêrusalem, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới nhận ra ánh sáng ấy, còn dân trong thành thì vẫn tiếp tục sống trong u tối. Giêrusalem đã có thể chỉ rõ nơi vua dân Do Thái mới sinh ra, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới tới thờ lạy Ngài.
Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh thường nghiên cứu những chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Một ngôi sao xuất hiện trên bầu trời thì có chi đáng quan tâm. Nhưng tất cả cuộc hành trình kỳ diệu lại khởi đầu từ đó. Đêm hôm ấy, hẳn cũng đã có nhiều người nhìn lên trời, ngắm những vì sao nhưng lại không thấy được vì sao của Ngài.
Cũng thế, những biến cố, những sự kiện diễn ra hằng ngày trên đường phố, trong xã hội. Chúng ta cũng có thể đọc được những sự kiện, những biến cố ấy trên cùng một trang báo, qua cùng một chương trình thời sự, nhưng có mấy khi chúng ta thấy được trong một biến cố, trong một sự kiện dấu chỉ về một đòi hỏi của Chúa?
Đại diện cho lương dân, là đạo sĩ hăng hái lên đường tìm kiếm. Nên sau này, Đức Giêsu đã phải thốt lên: "Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, lsaac và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài" (Mt 8,11-12).
Các nhà đạo sĩ đã không chỉ bằng lòng với việc thấy được vì sao của Ngài. Các ông còn chuẩn bị lễ vật và hăm hở lên đường với một cuộc hành trình mang tính cách phiêu lưu, tiến tới một nơi vô định mặc dầu có ánh sao dẫn lối.
Các đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, họ vội vã lên đường mà không biết ngôi sao sẽ dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ là hành trình Đức tin, con đường của họ là con đường thánh giá. Để trắc nghiệm đức tin, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc đời lên hương, thuận buồm xuôi gió.
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba đạo sĩ đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị đến ngay cung điện vua Hêrôđê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên. (Mt 2, 2)
Tin Mừng cho thấy là cũng đã có lúc không còn ánh sao nữa và các ông đã phải hỏi thăm về nơi các ông phải tới với những người không quen biết. Và không phải là không có những cạm bẫy. Hêrôđê có đó với tấm lòng nham hiểm đằng sau những lời nói đầy vẻ ân cần. Vượt không biết bao nhiêu dặm đường để rồi cuối cùng đứng trước một hài nhi yếu ớt, nhưng các ông cũng đã sấp mình thờ lạy, và dâng lễ vật với lòng hân hoan toại nguyện. Phải chăng đó chính là thái độ của một lòng tin đích thật. Các thượng tế và luật sĩ, mặc dù thông hiểu Kinh Thánh, nhưng vẫn ngồi yên tại chỗ.
Sự hiểu biết của họ như đã không đủ sức để lay chuyển họ. Là những người ở trong, họ đã tự đặt mình thành những kẻ ở ngoài. Trong khi đó, những người vẫn bị xếp vào hạng ở ngoài, vì đã đi theo tiếng gọi của Chúa, mà đã trở thành những người ở trong.
Thiên Chúa yêu thương ta và muốn tỏ cho ta biết Người yêu thương ta đến ngần nào. Qua biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết Người là ai và muốn làm gì để ta được làm con cái Người và được cứu độ. Điều đáng mừng nhất, đó là ơn cứu độ đã được ban cho mọi người không trừ ai. Dĩ nhiên ta không phải là người Do-thái, nhưng cũng không bị loại bỏ, trái lại được quyền đến chia sẻ cùng một gia nghiệp của Thiên Chúa. Nhưng điều quan trọng là ta có thực lòng và hăng hái đón nhận Đức Kitô như các nhà chiêm tinh phương Đông hay không.
Chính những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Người.
Gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài, đó là mục đích cuối cùng của đời người chúng ta, và đó cũng là trung tâm của bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay. Các mục tiêu cuối cùng trên, chúng ta thấy có những nhân vật nổi bật như vua Hêrôđê, các trưởng tế và luật sĩ tại Giêrusalem, các đạo sĩ từ Phương Đông. Mỗi một người trong hoàn cảnh riêng của họ đều được Chúa mạc khải cho, được Chúa mời gọi đến với Ngài bằng những con đường khác nhau. Các đạo sĩ nhờ ngôi sao sáng của thiên nhiên trong vũ trụ, một kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Các trưởng tế và luật sĩ thì qua con đường mạc khải của Kinh Thánh, qua lời dạy của các tiên tri mà họ biết nằm lòng.
Hôm nay, Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là hình ảnh của Chúa. Chúa còn hiện diện cách đặc biệt qua những người nghèo khó, những người già neo đơn, những người đau yếu đang sống trong cô đơn tuyệt vọng. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta dâng cho Chúa tình yêu hiến thân phục vụ tha nhân một cách quảng đại. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy nhận ra Chúa nơi anh em đang sống bên cạnh chúng ta. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy dâng tặng cho Chúa món quà quý hoá nhất chính là tấm lòng biết yêu thương.
94. Lễ Chúa Hiển Linh
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Minh Mẫn)
Hiển linh là sự tỏ ra một cách linh thiêng. Lễ Hiển Linh nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Chúa đã hiển linh khi giáng sinh, đê cho người ta thấy Người nơi máng cỏ;
Hiển linh là sự tỏ ra một cách linh thiêng. Lễ Hiển Linh nghĩa là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Chúa đã hiển linh khi giáng sinh, đê cho người ta thấy Người nơi máng cỏ; Người hiển linh cho ông Simêon và bà Anna nơi đền thờ; Người đã hiển linh sau khi chịu phép rửa ở sông Giođan và trong suốt cuộc sống dương thế Người cũng luôn tỏ mình ra cho mọi người. Nhưng phụng vụ hôm nay nhấn mạnh đến việc Người tỏ mình ra cho muôn dân. Và khi nói đến muôn dân, thì cũng gợi nên cho chúng ta hình ảnh những người dân ngoại và những người không thuộc dân ngoại. Chính vì thế, bài Tin Mừng hôm nay, không chỉ tập trung làm nổi bật lên thái độ của các nhà chiêm tinh được coi là dân ngoại, nhưng đồng thời cũng làm nổi bật lên thái độ của vua Hêrôđê và các thượng tế và kinh sư trong dân.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta về một cuộc hành trình của những người khao khát chân lý, khao khát Thiên Chúa. Các nhà chiêm tinh, họ là những người khao khát chân lý. Họ đã sử dụng hết khả năng của mình để đi tìm chân lý. Họ đã từ bỏ một đời sống an toàn và tiện nghi để dân thân vào một hành trình xa sôi với tất cả những thiêu thốn, hiểm nguy và đầy bất trắc. Mục đích duy nhất là để tìm kiếm vị Vua, tìm kiếm chân lý cho cuộc sống của mình.
Họ là những người tri thức, họ đã dùng sự hiểu biết của mình để đi tìm chân lý. Chính tri thức đã cho họ biết có một vị vua cao cả mới xuất hiện. Chính tri thức đã dẫn đưa họ đi tìm chân lý, đi tìm vị vua cao cả của cuộc sống của họ. Nhưng dù hiểu biết của họ có thâm sâu thề nào đi chăng nữa thì ngôi sao lạ cũng chỉ dẫn họ tới Belem. Vì khi tới Belem họ không còn nhìn thấy ngôi sao dẫn đường nữa.
Khi không còn thấy ngôi sao, hiểu biết của họ trở nên mất phương hướng. Lúc này họ phải cần nhờ đến Lời Chúa, nhờ đến Kinh Thánh để dẫn đường. Họ đến gặp vua Hêrôđê để rồi những thượng tế và kinh sư trong dân (những người hiểu biết về Kinh Thánh) cho họ biết: theo Kinh Thánh, nơi mà vị vua cao cả sẽ sinh ra là tại Belem, miền Giuđê. Và khi đã để mình được hướng dẫn bởi Lời Chúa, bởi Kinh Thánh thì tri thức, hiểu biết của họ lại càng làm cho họ xác tín hơn vào vị vua cao cả của cuộc đời của họ. Chính vì thế khi ra khỏi cung điện của Hêrôđê, thì ngôi sao lại xuất hiện và dẫn đưa họ đến tận nơi Hài Nhi mới dừng lại. Cũng chính vì thế mà, họ tin Hài Nhi mới sinh đang nằm trong máng cỏ, bé bỏng đơn sơ, không vinh quang, không uy quyền là vị vua của chân lý, là vị vua cao cả của cuộc đời họ. Và họ liền sấp mình thờ lạy Người, rồi mở bảo tráp lấy vàng, nhũ hương và mộc dược dâng tiến vị vua cao cả của cuộc đời họ. Hành trình của các nhà chiêm tinh cũng là hành trình đức tin của mỗi người chúng ta.
Kính thưa ÔBACE, tri thức, sự hiểu biết là cần thiết cho hành trình đức tin của chúng ta. Thế nhưng điều quan trọng là, chúng ta có dùng tri thức, dùng sự hiểu biết để hướng dẫn và củng cố đức tin của mình như là các nhà chiêm tinh; hay chúng ta dùng tri thức, hiểu biết của mình để củng cố quyền lợi ích kỷ cá nhân, để loại trừ người khác. Sau khi được các thượng tế và kinh sư cung cấp một số dữ kiện về Hài Nhi, Hêrôđê cũng có những hiểu biết về Hài Nhi, thế nhưng ông dùng hiểu biết đó, để lên kế hoạch cho việc bảo vệ quyền lợi ích kỷ cá nhân mà ông nghĩ sẽ bị đe dọa bởi Hài Nhi.
Kính thưa ÔBACE, nếu như ngày xưa, Hêrôđê dùng hiểu biết bảo vệ quyền lợi ích kỷ cá nhân và bách hại Hài Nhi Giêsu; thì ngày nay, việc dùng hiểu biết của mình để củng cố và bảo vệ quyền lợi ích kỷ cá nhân, cũng xẩy ra hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta. Thật vậy, bất cứ khi nào chúng ta dùng kiến thức, dùng hiểu biết của mình để lừa lọc, gian dối, để đàn áp những người thấp cổ bé họng là chúng ta đang loại trừ các giá trị của Tin Mừng, là chúng ta đang loại trừ và bách hại Hài Nhi Giêsu. Đây là kinh nghiệm mà ít nhiều mỗi người chúng ta đều cảm nhận được.
Thật vậy, dù tri thức và sự hiểu biết của chúng ta có tới đâu đi chăng nữa, nhưng nếu không để mình được hướng dẫn bởi Lời Chúa, bởi Kinh Thánh, thì tri thức, sự hiểu biết đó cũng không thể nào dẫn ta đến gặp gỡ Thiên Chúa Hài là Chân lý tuyệt đối được.
Các thượng tế và kinh sư là những người hiểu biết Kinh Thánh. Họ là những chuyên gia về thần học thời bấy giờ. Họ có thể trích dẫn và giải thích đúng Kinh Thánh. Thế nhưng Kinh Thánh đối với họ chỉ như là một tài liệu cổ, một văn tự chết. Vì thế, họ có thể biết nơi Chúa Giáng sinh nhưng họ không cảm thấy mình đang được mời gọi lên đường. Theo thánh Âutinh thì họ là “những cột cây số” chỉ đúng đường, nhưng lại không di chuyển. Vì thế, hiểu biết của họ cũng chẳng đem lại lợi ích gì cho họ, có chăng chỉ là cung cấp thêm cho Hêrôđê những dữ kiện để thi hành tội ác bách hại các hài nhi.
Kính thưa ÔBACE, nếu không cẩn thận, chúng ta rất có thể sống như các thượng tế và kinh sư. Chúng ta thuộc giáo lý, hiểu biết Kinh Thánh, nhưng chúng ta chẳng bao giờ thực hành, chẳng muốn sống theo lời Chúa dạy. Và thậm chí sống ngược với Lời Chúa và giáo huấn của Hội thánh. Một đời sống như vậy không những làm cho đức tin của mình suy giảm, nhưng rất có thể nó biến thành công cụ để bách hại đức tin nơi người khác. Thực tế cho thấy, có nhiều người chống đối Giáo hội, mất niềm tin vào Hội Thánh chỉ vì chứng kiến những đời sống bê tha, ích kỷ và gian dối của người kitô hữu, những người được cho là đạo đức thánh thiện. Và đây cũng là kinh nghiệm mà mỗi người chúng ta ít nhiều cảm nhận được.
Kính thưa OBACE, Thiên Chúa luôn tỏ mình ra cho con người, để con người có thể đến và kín múc nơi Ngài sự sống mới. Thế nhưng việc nhận ra và đến với Ngài là cả một hành trình. Hành trình này đòi hỏi con người phải biết nỗ lức với hết khả năng của mình dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Chính vì thế, thánh lễ Chúa Hiển Linh hôm nay, xin Chúa cho mỗi chúng ta biết can đảm và khiêm tốn nhìn lại hành trình đức tin của mình, để rồi thành thật nhận ra mình đang ở vị trí nào, đang mang khuôn mặt nào (Hêrôđê, ba nhà chiêm tinh, hay các thượng tế và kinh sư) trên hành trình đức tin. Khi đã nhận ra vị trí, nhận ra khuôn mặt thật của mình trên hành trình đức tin, thì xin Chúa cũng cho chúng ta biết can đảm theo bước chân của ba nhà chiêm tinh, biết tận dụng khả năng của mình dưới sự hướng dẫn của Lời Chúa, để rồi cũng như ba nhà chiêm tinh, chúng ta cũng nhận ra sự hiện diện âm thâm của Thiên Chúa Quyền năng và Tinh yêu nơi những con người bất hạnh đang cần ta giúp đỡ, nơi những con người bé bỏng đơn sơ, không vinh quang, không uy quyền. Amen.
95. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
CHÚA TỎ MÌNH RA CHO NHỮNG TÂM HỒN THIỆN CHÍ
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những chi tiết tương phản lạ thường.
Tương phản giữa Giêrusalem và Bêlem: Giêrusalem, thủ đô hoa lệ, trung tâm văn hoá chính trị của nước Do thái, nhưng đã khước từ, không đón tiếp Đấng Cứu thế. Trong khi đó, Bêlem, một thị trấn bé nhỏ, nghèo nàn lại là nơi đón tiếp Đấng Cứu thế hạ sinh.
Tương phản giữa những người có đạo và những người ngoại đạo: Các bậc chức sắc thông thạo Kinh thánh, nhưng chỉ ngồi im tại kinh thành, không chịu lên đường, nên không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba nhà đạo sĩ mà ta quen gọi là Ba Vua, là những người ngoại đạo, không am tường Kinh thánh, nhưng đã biết tìm tòi học hỏi, dấn thân lên đường, nên đã gặp được Chúa.
Tương phản giữa Vua giả và Vua thật: Hêrôđê được gọi là Vua, nhưng lại cứ nơm nớp lo âu, sợ mất ngai vàng, nên tìm cách tiêu diệt người khác. Trong khi đó, Đức Giêsu Kitô, Vua Trời lại thản nhiên bình an trong cảnh khó nghèo, mở rộng vòng tay đón tiếp mọi người xa gần.
Tất cả những tương phản ấy đáng cho ta suy nghĩ. Đấng Cứu thế không đến theo cơ chế, nhưng rất bất ngờ. Người không đến trong những cung điện sang trọng nhưng đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người không đến trong quyền lực nhưng trong sự yếu đuối, khiêm nhường.
Tất cả những tương phản ấy khiến ta phải lo sợ. Không phải cứ có đạo là gặp đựơc Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa. Muốn gặp được Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn biết Chúa, phải dấn thân lên đường.
Ba Vua là những người ngoại đạo đến từ rất xa, nhưng đã trở nên gương mẫu cho ta trong việc đi tìm và hiểu biết Chúa. Các Ngài là những tâm hồn thiện chí.
Là những tâm hồn thiện chí, luôn luôn khao khát điều lành, nên các Ngài luôn để tâm tìm kiếm. Đêm đêm ngước mắt lên trời cố dò tìm dấu vết thần linh. Chắc chắn không phải chỉ trong phút chốc mà các Ngài phát giác ra ngôi sao lạ, nhưng phải trải qua nhiều năm tháng kiên trì chiêm ngắm bầu trời, cặn kẽ theo dõi đường chuyển dịch của các vì tinh tú, các Ngài mới có thể nhận biết ngôi sao lạ khi nó xuất hiện.
Việc đi theo ngôi sao lạ cũng không giản đơn. Trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện trên đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.
Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.
Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ, loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.
Để kết thúc, tôi xin kể một câu chuyện có thật. Một buổi chiều, một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng vẻ. ở một khúc quanh, người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối, họ lo âu sợ hãi vì đó là đoạn đường thường xảy ra cướp bóc. Biết sửa chữa xe, nên người ấy đỗ xe, xuống giúp sửa chữa. Xe hỏng nặng. Người ấy phải chui vào gầm xe, tháo ra từng bộ phận. Tối mịt xe mới nổ máy. Cả gia đình mừng rỡ, muốn trả công cho người ấy. Nhưng người ấy không lấy công. Cả gia đình cám ơn rối rít và xin địa chỉ hẹn ngày lên thăm. Khi lên thăm, gia đình mới biết đó là một vị giám mục. Gia đình đem lòng cảm phục và xin theo đạo cả nhà. Vị Giám mục ấy chính là một Đức Cha ở cao nguyên Trung phần vào những năm 60.
Nhân dịp đầu năm mới, tôi xin cầu chúc tất cả anh chị em có một đời sống đạo trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm hồn về với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Ba Vua thiện chí ở những điểm nào?
2. Bạn có gặp thử thách trong đời sống đạo không? Khi gặp thử thách, bạn đã ứng xử thế nào?
3. Theo bạn, cách nào hữu hiệu nhất để làm chứng cho Chúa: giảng giáo lý, tranh luận, sống bác ái?
4- Tuần này, bạn quyết tâm làm gì để thực hành Lời Chúa?
96. Thành tâm thiện chí sẽ gặp Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Việc Chúa sinh ra được loan báo cho mọi người biết dưới nhiều hình thức khác nhau như: lời các ngôn sứ loan báo từ nhiều thế kỷ trước, đạo binh thiên thần ca hát, ngôi sao lạ xuất hiện… Tuy nhiên không phải ai cũng gặp được Chúa.
Có những người không gặp Chúa, dù biết rõ những chỉ dẫn về Người.
Đó là những kinh sư, biệt phái. Họ hiểu biết Thánh Kinh. Khi ba nhà đạo sĩ đến hỏi thăm, họ đã đọc vanh vách lời ngôn sứ loan báo Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem. Nhưng họ không gặp được Chúa, vì họ hiểu biết lý thuyết mà không thực hành. Ngồi một chỗ mà không chịu lên đường. Chỉ chú ý tới chữ nghĩa sách vở mà không chú ý tới cuộc sống con người. Chỉ tìm trong sách vở mà không tìm những dấu chỉ trong đời thường.
Đó là Hêrôđê. Bạo vương này muốn tìm Chúa nhưng không gặp Chúa, dù ông có binh hùng tướng mạnh trong tay. Ông không gặp Chúa vì ông tìm Chúa không phải vì Chúa mà vì quyền lợi của ông. Ông tìm Chúa không phải để thờ lạy nhưng để giết chết. Ông tìm Chúa không phải để tôn vinh Chúa nhưng để tôn vinh bản thân. Ông tìm Chúa không phải để làm theo ý Chúa nhưng để bắt Chúa phải theo ý ông. Vì thế Chúa đã vượt thoát khỏi tầm tay của ông. Vĩnh viễn ông không gặp được Chúa.
Những người xem ra gần gũi nhất, hiểu biết nhất, có phương tiện nhất đã không gặp được Chúa. Trái lại, những người có vẻ nghèo hèn, thiếu thốn phương tiện, xa xôi cách trở lại gặp được Chúa. Đó là các mục đồng và đặc biệt ba nhà đạo sĩ mà ta nhớ đến trong thánh lễ hôm nay.
Họ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết lời tiên tri loan báo, không biết lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.
Họ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận biết. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho ra.
Họ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.
Đời sống đạo của tôi cũng là một cuộc đi tìm Chúa. Tôi sẽ chỉ gặp được Chúa nếu tôi noi gương ba vua, có tâm hồn đơn sơ thành thực, có lòng khao khát Chúa vì chính Chúa, và dám dấn thân thực hành những điều Chúa truyền dạy, đặc biệt là giới răn bác ái, phục vụ Chúa trong những anh em nghèo khổ.
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tại sao những kinh sư, biệt phái và Hêrôđê không gặp được Chúa?
2) Có những người ngoại đạo thành tâm thiện chí như ba vua. Bạn đã gặp ai như thế chưa? Bạn nghĩ gì về họ?
3) Muốn gặp Chúa, bạn phải làm gì?
4) Ba vua nhờ ngôi sao dẫn đến gặp Chúa. Bạn phải làm gì để trở thành ngôi sao đưa người khác đến với Chúa?
97. Thiên Chúa tỏ mình
Không biết từ lúc nào câu chuyện ba nhà đạo sĩ đã gắn liền với biến cố Thiên Chúa giáng sinh làm người. Chúa đến làm người không dành riêng cho người Do Thái nhưng là cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc. Danh từ Hiển Linh trong Kinh Thánh mang ý nghĩa Thiên chúa tỏ mình ra cho loài người. Theo phụng vụ Giáo hội Đông phương, lễ Hiển linh là lễ Chúa mở đầu việc rao giảng công khai. Nhưng theo phụng vụ Giáo hội La mã, lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, khi ba nhà đạo sĩ tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu.
Hình ảnh ba nhà đạo sĩ trở nên rất quen thuộc. Họ là đại diện cho những tâm hồn thiện chí đi tìm sự thật, với một tinh thần khát khao cháy bỏng. Họ luôn nhạy cảm trước một dấu hiệu lạ kỳ, báo hiệu một vì vua đã sinh ra. Các đạo sĩ Đông phương thời ấy rất giỏi về triết học, y học và khoa học tự nhiên. Nhiều người còn gọi họ là những bậc thánh nhân.
Vào thời đó, mọi người tin tưởng ở khoa chiêm tinh. Họ tin rằng dựa vào các vì sao họ có thể tiên đoán tương lai vận mệnh của con người. Số mệnh một người được an bài bởi một ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, thông thường các ngôi sao xuất hiện theo một vị trí cố định. Chúng tượng trưng cho trật tự của vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện thì dường như Thiên Chúa đã can thiệp trực tiếp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự kiện đặc biệt sắp xảy ra.
Hài nhi Giêsu chính là vì vua tình yêu, là ánh vinh quang mà Thiên Chúa ban cho nhân loại đang khao khát mong chờ Đấng cứu độ. Họ khắc khoải trong sự đợi chờ thì Chúa Giêsu đã đến. Con người từ khắp nơi, từ những phương trời xa xôi nhất đã về tề tựu quanh Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên chinh phục thế giới của Hài Nhi Giêsu.
Chúa Giêsu là điểm đến sau cùng cho mọi nỗ lực tìm kiếm của nhân loại. Nhìn vào những lễ vật dâng lên vàng, nhũ hương, mộc dược, người ta nhận thấy mỗi lễ vật đều tương ứng với đặc điểm và sứ mệnh của Ngài. Ngài là vị vua thật, là thầy lế lễ vẹn toàn và là Đấng cứu độ cao cả mà loài người đợi trông.
Chúa Giêsu chính là vua thật
Vàng được mệnh danh là vua của mọi kim loại. Vàng thường được coi là của lễ xứng hợp nhất để dâng tiến vua. Chúa Giêsu sinh ra để làm vua. Vị vua này không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu. Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập tự giá. Sự có mặt của Ngài đã biến đổi thế giới loài người, mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Bệnh tật được chữa lành (Mt 8, 16-17), tang tóc được hân hoan (Lc 7, 11-17), tội lỗi được tha thứ (Mt 2,5), ngay cả sự chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an (Mc 5, 39). Vì vua này xuất hiện luôn ban cho con người một niềm vui, một niềm hy vọng "Phúc cho anh em, là những người nghèo, vì triều đại Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những người đói khát vì anh em sẽ được no nê. Phúc cho anh em là những người đang khóc vì anh em sẽ được vui cười" (Lc 6, 20-21).
Chúa Giêsu là tư tế.
Nhũ hương dâng cho Hài nhi là thứ hương liệu có mùi thơm dịu mà thầy tư tế thường dùng trong các nghi thức thờ phượng. Thầy tư tế chính là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Vị tư tế cũng chính là người mở đường dẫn lối để con người đến được với Thiên Chúa. Anh sao soi đường đến nơi thì đã tắt, bởi lẽ Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật để soi rọi con người tìm ra chân lý. Chân lý con người tìm kiếm là tình yêu và gia nghiệp của Ngài. Chính chúa Giêsu sẽ dẫn đưa con người về với Chúa Cha.Thư gửi Ephêsô, thánh Phaolô đã khẳng định: "Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cũng được thừa kế gia nghiệp với người do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban" (Eph 3,6).
Chúa Giêsu là hy tế
Mộc dược là lễ vật dành cho người chết, là hương liệu để xông xác người. Chúa Giêsu đến thế gian để sống cho con người và cuối cùng chết cho con người. Cái chết của Ngài biểu lộ sự trung thành đối với loài người mà Ngài đã yêu thương đến tận cùng (Eph13,1). Chúa Giêsu không nghĩ tới mình, vì lẽ đó Ngài có thể đón tiếp mọi người và lắng nghe mọi người đến với Ngài. Cuộc sống Chúa Giêsu là một cuộc tự hiến cho con người để cứu độ con người.
Chúa Giêsu là vì vua chân thật, là thầy tế lễ vẹn toàn, là đấng cứu độ cao cả thế mà Ngài luôn bị con người chối từ thậm chí tỏ ra chống đối. Các Thượng tế, Kinh sư là những người tự cho mình là hiểu biết Kinh Thánh nhưng lại tỏ ra hững hờ, bất lực không muốn ra đi. Trong khi đó các đạo sĩ là những người ngoại giáo lại dám lên đường và họ đã gặp Đấng cứu độ. Vua Hêrôđê cũng chẳng khá hơn gì. Một vì vua đang nắm quyền nhưng lại nơm nớp lo sợ trước một Hài nhi Bêlem vừa mới sinh. Trình thuật Tin Mừng cho ta chứng kiến những hình ảnh đối lập nhau. Một bên là những người đói khát ơn cứu rỗi, họ đang hết tâm vận dụng toàn lực để tìm kiếm Thiên Chúa. Một bên thì đau đớn nghĩ rằng việc vua mới sinh sẽ làm đảo lộn cuộc đời của họ nên đem lòng thù nghịch Đấng Messia.
Vị Vua tình yêu đã giáng sinh, đã cho con người lần tìm ra chân lý. Biết bao lương dân giờ đã nhận biết Ngài, biết bao người tội lỗi đã trở về Thiên Chúa. Chúng ta thật hạnh phúc vì là thần dân của vị Vua đầy tình yêu này. Một vị vua không hề biết nói đến sự tiêu diệt. Một vị vua không ngồi trên ngai để cai trị nhưng luôn hiện diện trên thập giá để sẵn sàng chịu chết thay cho dân Ngài. Đó chính là Vua Giêsu, là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ nhân trần. Tình yêu của Ngài giờ đây trải rộng đến khắp muôn dân.
Hiện nay còn biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng, họ đang lầm lủi bước đi trong lầm lạc. Họ đang khao khát chân lý. Họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: "Đức Giêsu là ai?". Hãy trả lời cho họ đi. Đức Giêsu chính là tình yêu của Thiên Chúa. Ngài đến phá đỗ mọi hàng rào ngăn cách mà con người đã dựng nên, nhất là những hàng rào kỳ thị: kỳ thị chủng tộc, màu da, tôn giáo, giai cấp, giàu nghèo....
Chúng ta hãy cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng mầu nhiệm tình yêu giữa lòng nhân loại. Mỗi người hãy là ánh sao dẫn đường để soi dẫn cho nhiều người biết khám phá gương mặt đích thực của Đức Giêsu trong đời sống thường ngày.
98. Ánh sáng chiếu soi muôn dân
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Đức Giêsu là ánh sáng. Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và các gia đình tín hữu. Nhưng Ngài còn muốn là ánh sáng cho tất cả mọi người nữa.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển linh, kỷ niệm việc ngày xưa Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho các đạo sĩ, đại diện cho lương dân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người ngoài Kitô giáo cũng nhận được ánh sáng Chúa; và cho chính chúng ta ý thức bổn phận mang ánh sáng Chúa đến cho mọi người.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta có tội vì quá thờ ơ với việc mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.
Chúng ta có tội vì cộng đoàn xứ đạo chúng ta không nêu gương sáng trước mặt mọi người.
Chúng ta có tội vì không quan tâm tìm ý Chúa qua những đấu chỉ hằng ngày.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Is 60, 1-6
Mặc dù đang sống trong chốn lưu dày, ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày hồi hương. Khi đó Giêrusalem sẽ được tái thiết lại huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến:
Trong khi cả trái đất ngập chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì có Chúa là Ánh sáng đang ngự ở đó.
Bởi thế, muôn dân từ khắp nơi sẽ tuốn về ánh sáng của Giêrusalem.
Trên thực tế, dân Do Thái đã được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết. Nhưng Giêrusalem đâu có được đúng như Isaia đã mơ. Như vậy, giấc mơ của Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Ngài chính là Ánh sáng đến trần gian.
2. Đáp ca: Tv 71
Tv này cầu nguyện cho một vị vua lý tưởng mà trong triều đại ngài hòa bình và công lý ngự trị, mọi người đều hạnh phúc.
Vị vua lý tưởng ấy cũng chính là Đức Giêsu.
3. Tin Mừng: Mt 2, 1-12
Các "đạo sĩ" là những nhà trí thức ở vùng Babylon phía Đông xứ Palestine. Do niềm tin có phần mê tín rằng ngôi sao lạ là điềm báo một Đấng cứu tinh đã sinh ra, họ đã đi theo ánh sao và tìm đến với Hài nhi Giêsu.
Nhưng cuộc hành trình của các vị cũng không phải là trơn tru dễ dàng vì có lúc ánh sao biến mất. Nhưng nhờ các vị kiên trì, ánh sao đã xuất hiện lại và cuối cùng các vị đã tìm đến nơi.
Như thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức Do Thái ở Giêrusalem dù thông thạo Thánh Kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Ý nghĩa thật của ngôi sao lạ
Nhiều người vẫn nghĩ rằng ngày xưa có một ngôi sao lạ xuất hiện trên vùng trời Phương Đông để dẫn đường các đạo sĩ. Sao đi trên trời, người đi dưới đất, và khi đến Bêlem thì ngôi sao dừng lại, chiếu một luồng ánh sáng xuống đúng nơi mà Chúa Hài Đồng đang ở. Thế là các đạo sĩ vào nhà, quỳ xuống thờ lạy Đức Giêsu và dâng lễ vật cho Ngài.
Những người biết khoa học chút ít đều coi đây là chuyện hoang đường: làm sao bước chân con người có thể theo kịp tốc độ di chuyển của tinh tú!?
Sự thật hay là hoang đường?
Xin thưa, đây là một cách viết, khai thác một hình ảnh để diễn đạt một chân lý. Theo cách viết của Thánh Matthêu, lý do thúc dục các đạo sĩ lên đường là vì "Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài xuất hiện bên Phương Đông". Matthêu không hề viết là ngôi sao cùng sánh bước với các đạo sĩ trên khắp những đoạn đường từ Phương Đông đến Giêrusalem. Bởi đó họ phải đi tìm, và khi đến Giêrusalem họ phải hỏi người khác nữa. Câu trả lời giúp họ biết hướng để tiếp tục cuộc hành trình chính là một câu Sách Thánh. Mãi khi đến gần Bêlem thì Ngôi Sao mới xuất hiện lại để dẫn họ đến chỗ Hài Nhi đang ở.
Tóm lại, Ngôi Sao là một dấu chỉ thôi thúc lên đường. Nhưng cuộc hành trình đòi hỏi phải cố gắng, kiếm tìm, dò hỏi nhiều nơi, nhiều người, nhất là Sách Thánh. Và cuối cuộc hành trình, dấu chỉ lại rực sáng như để xác nhận rằng cuộc hành trình đã đạt đến điểm tới.
* 2. Hành trình đức tin
Hành trình của các đạo sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình của mọi kẻ tin:
Hành trình khởi đầu bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý (Thí dụ ánh sao lạ đối với các đạo sĩ). Điều lạ lùng này mời gọi người ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm một cái gì đó cao hơn, xa hơn, tốt đẹp hơn.
Tiếp theo là những bước thăng trầm trong cuộc hành trình: có khi con đường rất bằng phẳng êm ái, có khi lại quanh co gồ ghề, có lúc ánh sao sáng tỏ trên bầu trời, có lúc nó vụt biến mất.
Nhưng miễn là người ta không nản lòng mà cứ kiên trì dấn bước thì cuối cùng người ta sẽ gặp được Chúa.
Đó là cuộc hành trình của kẻ chưa có đức tin tìm đến với Chúa, mà cũng là cuộc hành trình của kẻ đã tin rồi nhưng muốn đến với Chúa một cách gần gũi thân tình hơn.
* 3. Lên đường
Có những người tìm kiếm như các đạo sĩ, lên đường như Abraham. Cũng có những người ngồi một chỗ như Hêrôđê. Muốn biết ư? Ông đã có các chuyên viên. Muốn tiêu diệt đối phương ư? Ông có cả ngàn quân lính dưới quyền. Thiên Chúa hướng dẫn những ai muốn tìm Người cách lạ lùng. Người trốn thoát khỏi những kẻ muốn tìm bắt. Người không hung hãn chống lại những kẻ muốn huỷ diệt Người. Người tự xóa mình đi và biến mất.
Người ở đâu, Đức Giêsu ẩn dấu của thời đại? Trong làng quê heo hút nào, trong gia đình nghèo khó nào có ánh sáng Thiên Chúa mời ta nhận ra Người? "Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn... Thực, Ta bảo các ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất là anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chinh Ta" (Mt 25, 35-40). Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có lời Kinh Thánh: Ta đã không bị cám dỗ dùng lời Kinh Thánh để át giọng kẻ quấy rày ư? Đức Giêsu đâu để cho ta đền bù. Nếu ta muốn nắm lấy Người để được an tâm, Người sẽ thoát khỏi tầm tay ta. Nếu ta chấp nhận lên được tìm kiếm Người, ta sẽ như các đạo sĩ, được đầy tràn niềm vui và tìm thấy Người (...) Đọc kỹ Kinh Thánh thôi chưa đủ, còn phải để Kinh Thánh gợi hứng cho đời ta, để ta đem ra thực hành, để ta đặt mình dưới sự điều khiển của Kinh Thánh. Các luật sĩ và các thầy thượng tế biết lời sấm lắm chứ. Nhưng họ chỉ biết trưng dẫn thôi... Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết Hài nhi... Còn các đạo sĩ, bản thân chẳng biết Kinh Thánh, chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên được tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã gặp Người... (Mgr Lucien Daloz, Le Règne des cieux s'est approché, Trích dịch bởi Fiches dominicales, trang 55-56).
* 4. Ánh sáng và bóng tối
Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng sinh, có một hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng: Bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau. Năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi?
"Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông" (Mt 2, 2). Người xưa cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu những chuyển động của các vì tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Quả thật, người Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh thánh: "Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng chỗi dậy từ Ítraen " (Ds 24, 17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo: "Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen " (Mk 5, 1).
Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Belem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên đường. hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương, không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quí giá với tất cả tấm lòng thành.
Sau này, Đức Giêsu đã phải thốt lên: "Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, lsaac và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài " (Mt 8, 11-12).
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.
Nhờ ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.
Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương.
Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
Nếu Chúa đã gọi: "Chúng con là ánh sáng thế gian" (Mt 5, 14), thì đó là một vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng: Nến sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.
Chúng ta đừng chỉ lo gìn giữ ngọn nến của ngày chịu phép rửa tội, nhưng hãy can đảm thắp sáng những ngọn nến còn trong bóng tối lầm lạc và tội lỗi, để thế giới này luôn đi trong ánh sáng chân thật của Chúa.
Lạy Chúa Hài Đồng,
Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới này và trong lòng mỗi người chúng con.
Xin cho chúng con biết kín múc nơi Chúa là chính Nguồn Sáng, để chúng con có khả năng đẩy lui mọi bóng tối trong chúng con và trong lòng mọi người. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Ánh sáng Đức tin
Arthur Jones gia nhập không lực Hoàng gia, anh được huấn luyện trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định: "Có nên quì gối đọc kinh như thói quen ở nhà không?" Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng, nhưng rồi anh tự nhủ: "Chẳng lẽ mình phải thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao?"
Anh liền quyết định cứ quì gối đọc kinh như thói quen. Khi vừa làm dấu kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người mới biết anh là người Công giáo. Hơn nữa, anh lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy nhiên, anh vẫn quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau đó thường dẫn đến những cuộc tranh cãi hàng giờ.
Cuối khóa huấn luyện có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Cám ơn bạn, tôi không nghĩ mình là Kitô hữu tốt nhất đâu. Có thể tôi là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức tin.
Ánh sáng đức tin của người lính đã tỏa sáng trong trại huấn luyện của không lực Hoàng gia. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: "Các con là ánh sáng thế gian" (x. Mt. 5, 14-16). Như ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn đường cho các đạo sĩ, ngôi sao Tin mừng cũng đã xuất hiện để soi dọi vào tâm hồn tăm tối của chúng ta. Để từ đây, ánh sáng Đức tin luôn chiếu tỏa rạng ngời.
Nhưng Tin không phải là thấy. Tin là dựa vào Lời Chúa mà liều mình, mà dấn thân và nhiều khi phải vượt qua gia nan thử thách.
Các đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, họ vội vã lên đường mà không biết ngôi sao sẽ dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ là hành trình Đức tin, con đường của họ là con đường thánh giá.
Để giữ vững đức tin, nhiều khi chúng ta phải can trường lướt thắng bản thân, phải liên lỉ chiến đấu hy sinh, phải anh dũng biểu lộ niềm tin. Tổng giám mục Fulton Sheen khẳng định: "Để trắc nghiệm Đức tin của chúng ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc đời lên hương, thuận buồm xuôi gió".
Như các đạo sĩ tìm lại ánh sao khi lạc mất, người tín hữu Kitô luôn được mời gọi nhìn lên ánh sao của niềm hy vọng. Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta can đảm dấn thân đi tới.
Trong cuộc sống đời thường, có rất nhiều dấu chỉ như ánh sao dẫn ta đến với Chúa. Có thể là:
Một câu Kinh Thánh đánh động lòng ta.
Một nghĩa cử yêu thương nồng ấm.
Một lời khuyên nhắc nhở chân tình.
Một gương sáng làm ta xúc động.
Nếu cuộc đời chúng ta đã từng có những ánh sao dẫn đường, thì đến lượt mình, hãy là những vì sao ngời sáng như kim cương trên bầu trời, là những ánh đèn đêm hoa đăng ngày đại hội. Eliot đã viết:
"Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng
Thì hãy là ánh lửa non cao.
Nếu không thể là ánh lửa non cao.
Xin hãy làm ánh nến tỏa sáng trong gia đình"
*
Đức Gioan Phaolô II trong Giáo lý năm Thánh 2000 có viết: "Việc giáo dân tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, cùng với nhiều hình thức tông đồ và phục vụ của họ trong xã hội, khiến chúng ta có lý mà hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba, sẽ có một cuộc "hiển linh" trọn vẹn và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân.
*
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra những ánh sao Chúa gởi đến trong cuộc đời chúng con.
Xin biến chúng con thành những ánh sao ngày càng rực sáng lan tỏa khắp thế giới. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
6. Ông vua thứ tư
Có một truyền thuyết cho rằng những người khách từ phương Đông tìm đến thờ lạy Chúa Hài Đồng là 3 vị vua, tên là Gaspar, Balthasar và Melchior. Có một truyền thuyết khác lại cho rằng ngoài 3 vị ấy, còn một vị vua thứ tư nữa, tên là Artaban. Sau đây là truyền thuyết về ông vua thứ tư ấy.
Cũng như 3 vị vua kia, Artaban cũng thấy ngôi sao lạ. Sau khi chuẩn bị lễ vật gồm một viên bích ngọc, một viên hồng ngọc và một viên ngọc trai, Ông lên đường tiến đến điểm hẹn với 3 vị vua kia. Tuy nhiên dọc đường ông gặp một người bị thương nặng đang nằm bên vệ đường, ông phải dừng lại đưa người đó đến một lữ quán nhờ chăm sóc. Vì thế khi đến điểm hẹn thì 3 vị kia đã đi mất rồi.
Cần có một con lạc đà để có thể đi băng qua sa mạc, ông bán viên bích ngọc đi để mua lạc đà. Nhưng khi tới Bêlem thì lại trễ, vì Thánh Giuse và Đức Maria đã đem Chúa Hài đồng lánh nạn sang Ai cập.
Artaban đành tìm một quán trọ để nghỉ đêm. Trong quán ông gặp một người đàn bà bế một đứa trẻ mới 1 tuổi đang sợ hãi trốn tránh cuộc lùng bắt của đám lính Hêrôđê. Dù vậy, cuối cùng đám lính cũng tìm tới. Artaban ra cửa gặp chúng và đưa viên hồng ngọc để chúng khỏi vào lữ quán. Ông rất buồn vì giờ đây lễ vật ông định dâng Chúa Hài Đồng chỉ còn có mỗi một viên ngọc trai.
Ông lại lên đường tìm Chúa Hài Đồng. Nhưng ông luôn bị trễ: nghe tin Đức Giêsu đang ở đâu ông đều tìm đến nhưng khi đến nơi thì Ngài đã đi nơi khác. Khoảng 30 năm sau, ông đến Giêrusalem. Ông hốt hoảng khi nghe tin người ta sắp đem Đức Giêsu đi đóng đinh trên đồi Golgotha. Ông vội vã tìm đến, hy vọng là với viên ngọc trai còn lại, ông có thể cứu sống Ngài. Tuy nhiên trên đường đến Golgotha, ông gặp một cô gái đang bị quân lính rượt bắt. Cha của cô thiếu nợ quá nhiều nên người ta định bắt cô để bán làm nô lệ trừ nợ. Artaban đưa viên ngọc trai ra, và quân lính để cô gái được tự do. Giờ đây Artaban chỉ còn đôi bàn tay trắng.
Chiều hôm ấy, khi mặt trời bắt đầu lặn, một cơn động đất khiến các nhà cửa đều rung rinh, ngói nhà bay tứ tung. Một viên ngói rơi trúng đầu ông. Thế là ông chết trước khi đến được ngọn đồi Golgotha. Artaban không gặp được Đức Vua mà bao nhiêu năm qua ông đã khổ cực tìm kiếm.
Tuy nhiên, nhìn theo một phương diện khác thì Artaban đã thực sự gặp được Đức Vua của lòng ông, bởi vì bao nhiêu năm nay Ngài đã ngự trị trong lòng ông. Ngài đã làm cho lòng ông thành quảng đại, dạy ông làm những việc bác ái và luôn duy trì niềm hy vọng trong suốt cuộc hành trình của ông.
Ai đang đi tìm Chúa với trọn niềm tin yêu hy vọng thì đã gặp được Chúa rồi.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa đã muốn cứu độ tất cả mọi người, và Người đã dùng ánh sao lạ để hướng dẫn muôn dân tìm đến Đức Giêsu, Đấng Cứu độ duy nhất. Chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây:
1. Đức Giêsu đã thiết lập Hội thánh và sai đi đến với mọi người / Xin Chúa cho Hội thánh luôn trở thành ánh sáng hướng dẫn muôn dân tìm đến ơn cứu độ của Chúa.
2. Chúa đã ban quyền cho các nhà cầm quyền trong xã hội / Xin Chúa hướng dẫn họ thi hành quyền hành đối với mọi người theo lẽ công bằng, theo sự thật, và luôn tôn trọng nhân phẩm của mỗi người.
3. Chúa đã muốn cứu độ mọi người không trừ ai / Xin Chúa cho những người chưa biết Chúa, những người từ chối Chúa, và những người chống đối Chúa sớm nhận ra ánh sáng chân lý và tình thương của Chúa.
4. Mỗi Kitô hữu đều phải là ánh sáng cho đời / Xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng con / luôn sống đúng với Tin mừng của Chúa / để trở thành ánh sao dẫn đường cho người chung quanh trở về với Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, lễ Hiển Linh hôm nay nhắc cho chúng con nhớ đến trách nhiệm của Kitô hữu là phải luôn tìm kiếm Chúa để gặp gỡ và sống hiệp thông với Chúa, đồng thời cũng phải giúp anh chị em chung quanh chúng con tìm kiếm và gặp gỡ Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn ý thức và chu toàn trách nhiệm đó. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Nên đọc Kinh nguyện Thánh Thể 3, nhấn mạnh những chỗ sau đây:
. (Sau lời Truyền phép, đoạn 3): "Nguyện xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng con thành của lễ muôn đời dâng hiến Cha (như những lễ vật mà các đạo sĩ ngày xưa dâng cho Chúa Hài đồng)...
. (Đoạn cầu cho Hội Thánh): "... Xin cho Hội Thánh Cha trong cuộc lữ hành trần thế được đức tin vững vàng và lòng mến sắt son (Xin cho Hội Thánh nhiệt thành loan báo mầu nhiệm Tình thương bao la của Cha muốn cứu độ tất cả mọi người)...
. (Đoạn cầu cho những kẻ qua đời): "Xin Cha nhớ đến anh chị em tín hữu chúng con đã lìa cõi thế, và mọi người sống đẹp lòng Cha mà nay đã ly trần (cùng linh hồn những người thành tâm thiện chí dù không biết Cha nhưng lòng vẫn hướng về Cha)...
- Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu đã tỏ mình ra cho lương dân vì Ngài muốn quy tụ tất cả mọi người trong Nước của Ngài. Chúng ta hãy cùng với Ngài thiết tha cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con thành những kẻ xây dựng bình an giữa mọi người không phân biệt tín ngưỡng, giai cấp, trình độ, hoàn cảnh...
VII. Giải tán
Ngày xưa Chúa đã dùng ánh sao lạ dẫn đường các đạo sĩ đến với Ngài. Ngày nay Ngài muốn dùng mỗi người chúng ta như một ánh sao lạ dẫn đường cho anh em lương dân đến với Ngài. Rồi nhà thờ trở về với cuộc sống, chúng ta hãy sống như một ánh sao trước mặt mọi người. Chúc anh chị em bình an.
99. Đi tìm Chúa nhờ ngôi sao lạ
Hằng năm cứ gần đến lễ Giáng sinh, đi ngang các Nhà thờ Công giáo hay vào các xóm đạo chúng ta sẽ thấy người ta nô nức cùng nhau làm ngôi sao. Dường như thiếu ngôi sao thì lễ Giáng sinh không thành được. Cho nên bằng mọi cách người ta phải cố gắng làm theo khả năng của mình. Nơi nào khá thì làm ngôi sao đẹp và đắc tiền hơn. Hình ảnh ngôi sao trong mùa Giáng sinh phải chăng là nhắc tới ngôi sao lạ đã dẫn đường cho ba vua đến thờ lạy Hài nhi Giêsu.
Ba vua này được gọi là những nhà chiêm tinh. Họ đã nghiên cứu và thấy được có một ngôi sao lạ xuất hiện bên phương đông. Từ đó họ đã quyết định lên đường tìm Hài nhi Giêsu để thờ lạy cùng mang theo những lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến Người.
Điều đáng nói ba vị vua này lại là lương dân từ xa đến. Đang khi đó vua Hêrôđê là vua Do thái ở kế bên đó thì lại chẳng hay biết. Tại sao ba vua này lại được thấy ngôi sao lạ còn vua Hêrôđê thì không. Chúng ta nhớ có lần Chúa Giêsu đã thưa cùng Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn" (Mt 11, 25). Thật ra Chúa chẳng muốn giấu ai. Người luôn muốn cho tất cả mọi người đều được chiêm ngưỡng Con Mình. Tuy nhiên ở đây còn tùy vào sự đón nhận của con người. Ngôi sao thì có sẵn trên bầu trời nên chỉ có những ai thành tâm thiện chí và thật lòng khao khát thì mới được gặp Người.
Vua Hêrôđê chỉ vì tham quyền cố vị và tưởng rằng mình là nhất trên đời nên chẳng muốn đón nhận gì thêm. Hơn nữa, khi nghe biết có Hài nhi Giêsu sinh ra thì ông lại sợ mất quyền ảnh hưởng nên cũng căn dặn ba vua: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." (Mt 2, 8). Đó chỉ là lời lẽ che đậy âm mưu bên trong. Bằng chứng sau đó ông đã ra lệnh: "giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh". (Mt 2, 16b)
Hằng ngày Thiên Chúa đã gởi đến cho chúng ta rất nhiều ngôi sao lạ. Đó là tiếng nói của Chúa trong lương tâm.Tiếng nói lương tâm thúc đẩy ta làm lành lánh dữ. Đó là những lời nhắc nhở của người thân. Đặc biệt là lời Chúa và những chỉ dẫn của Giáo hội.
Mừng lễ Hiển linh năm nay, chúng ta hãy thành tâm xét mình trước Chúa về cách đón nhận những ngôi sao lạ mà Chúa đã gởi đến cho mình. Hãy xin Hài nhi Giêsu cho chúng ta thêm lòng tin và quảng đại đón nhận những ngôi sao lạ đó để chúng ta ngày càng được đến gần Chúa hơn.
100. Gọi tên ngày lễ - ĐGM Giuse Vũ Duy Thống.
(Trích trong ‘VỚI CẢ TÂM TÌNH’ – Trg. 31)
Trong dịp tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người bạn trẻ đã nêu lên câu hỏi liên quan đến Thánh Lễ hôm nay: “Tại sao ngày nay Phụng Vụ không sử dụng tên gọi lễ Ba Vua nữa? Phải chăng rốt cuộc chẳng có ông vua nào đến viếng Hang đá cả?”.
Câu hỏi ấy trực tiếp về mặt kiến thức, không khó trả lời; nhưng gián tiếp về mặt tâm linh, lại hé mở cho thấy đức tin hôm nay xem ra đang có nhu cầu tìm hiểu. Đã đành, hiểu chưa phải là tin hay chưa hẳn đã tin, nhưng một phần nào cũng góp phần dẫn tới đức tin cho người chưa tin, đào sâu đức tin cho người đã biết, và cũng quan trọng không kém là củng cố sức mạnh cho những niềm tin đang ở trong tình trạng nhạt nhòa.
Niềm tin là một công trình còn phải dựng xây và là một hành trình còn phải tiếp tục. Trên cơ sở ấy, xin đi vào Thánh Lễ hôm nay.
1) Từ tên gọi “lễ Ba Vua”…
Đây là tên gọi quen dùng đối với tín hữu Việt Nam, để chỉ về việc các Đạo sĩ Đông Phương tìm đến Hang đá viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ là những bậc quyền quý đến từ phương Đông theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất; và xác định con số ba vì có ba sắc dân được nói đến trong Isaia 60, mà cũng vì lễ vật tiến dâng được liệt kê ba món rành rành là vàng, nhũ hương và mộc dược, như chuyện kể của Phúc Âm. Để rồi cứ thế theo truyền thống, Ba Vua đã trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là lo xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khát khao chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, để rồi với sự trợ giúp của ơn thánh, tới lúc Chúa muốn và bằng muôn ngàn cách thế linh động theo sáng kiến của Ngài, họ sẽ được dẫn tới gặp gỡ Đấng họ nỗ lực tìm kiếm.
Dưới cái tên gọi “lễ Ba Vua”, chính là một thiện chí tìm kiếm đức tin. Nhưng cũng dưới tên gọi ấy, trong bối cảnh của trang Tin Mừng, người ta lại còn thấy cả một đối chứng đau lòng. Trong khi dân ngoại từ xa, dẫu chẳng hề biết đến lời hứa để mà hy vọng, chẳng hề có được giao ước để mà tin tưởng, và cũng chẳng hề được dẫn đường bởi lề luật, nhưng lại chân thành tìm kiếm và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để mà tìm gặp; thì ngược lại, dân Do Thái ở gần, dẫu có tất cả thuận lợi của một truyền thống dài lâu chờ mong Đấng Cứu Thế, lại không mảy may kiếm tìm, và tệ hại hơn nữa, còn xôn xao về chính việc Chúa đến, không phải vì hối hận về việc mình không sẵn sàng, mà vì lo ngại rằng Chúa đến sẽ đặt dấu chấm hết cho cả một cơ chế họ đã bao đời gầy dựng. Không lạ gì nếu cơ chế ấy đã sản sinh ra những khuôn mặt như Hêrôđê!
Hóa ra, Ba Vua tìm Chúa với lễ vật lòng thành, khi về đã thấy mình là những kẻ tin; còn Hêrôđê tìm Chúa với ác tâm tận diệt, mãi mãi sẽ thấy mình chỉ là một bạo chúa.
2) … Đến tên gọi “lễ Hiển Linh”…
Mặc dù tên gọi “lễ Ba Vua” vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ thích sử dụng tên gọi “lễ Hiển Linh” hơn, chẳng phải vì tên gọi đó nghe kêu hơn hoặc hiểm hóc hơn, cũng chẳng phải để tránh né những câu hỏi không cần thiết về những chi tiết nhiều khi chỉ làm cho ngày lễ thêm rườm rà; mà thật ra là để làm nổi bật lên ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh. Đó là: Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.
Nếu “Ba Vua” là tên gọi nói lên thiện chí của con người, thì “Hiển Linh” là danh xưng khẳng định hồng ân của Thiên Chúa. Thiện chí thôi, dẫu rất lớn, vẫn chỉ là khởi điểm; nhưng chính hồng ân Hiển Linh mới là kết điểm mở ra những mùa gặp gỡ. Và tới phiên mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết điểm hành trình, lại là một khởi điểm mới cho hành trình tìm kiếm mới, với những thiện chí mới nhằm vươn lên những đỉnh cao mới.
Và gặp gỡ như thế là một cuộc đổi đời. Vì thiện chí luôn tìm kiếm hồng ân, mà cũng vì hồng ân luôn đợi chờ một thiện chí biến đổi cuộc đời. Ba Vua gặp Chúa với cả tâm tình được thể hiện qua những lễ vật tiến dâng, họ đã được soi sáng để theo đường khác mà về nhà. Và ở đó sẽ là những cuộc Hiển Linh mới trong đời sống thường ngày.
Gặp ai thì cũng có thể gỡ ra được, nhưng thiện chí con người một khi đã gặp được Thiên Chúa vốn từ bao giờ đã sẵn tỏ mình ra, thì sẽ không thể gỡ ra được nữa. Người ta thành người nhà của Thiên Chúa, và trong mắt nhìn của Phaolô, người ta dẫu xa cũng hóa gần, dẫu lạ cũng nên quen, dẫu gốc gác thế nào đi nữa “cũng cùng được thừa hưởng gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (bài đọc thứ hai). Hiển Linh chính là tên gọi khác của mầu nhiệm Nhập Thể, của danh xưng Emmanuel và của bốn mùa gặp gỡ.
3) … Để dẫn tới sứ điệp đời sống.
“Lễ Ba Vua” hay “Lễ Hiển Linh”, mỗi tên gọi có những bước nhấn riêng, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên Chúa từ bao thuở đã mở ra cho những kẻ biết kiếm tìm. Thế nên đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới. Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Hôm qua đã có một nghịch lý là những kẻ đến gặp Chúa đều là những kẻ thành tâm như các mục đồng tại Bêlem, như cụ già Simêon tại Đền Thánh, như những Đạo sĩ hôm nay từ xa đến; còn toàn thể xã hội tôn giáo Do Thái lại hầu như vắng bóng, hay nếu có thì chỉ như một lực cản đáng buồn. Thế đấy! điều tưởng như thuận lợi lại là một cạm bẫy dẫn tới sự thảm bại, còn điều tưởng chừng như bất lợi lại trở nên lợi thế cho việc gặp Chúa. Liệu nghịch lý ấy hôm nay còn có mặt trong đời sống đức tin của cộng đoàn cũng như của mỗi cá nhân?
Trả lời câu hỏi ấy với quyết tâm khởi hành trên con đường mới, thiết tưởng sẽ là một điều tích cực trong Mùa Giáng Sinh. Nhưng điều tích cực hơn của ngày lễ hôm nay không chỉ là sứ điệp hoán cải, mà chính là lời mời gọi mở rộng tấm lòng, mà trân trọng tất cả những người không cùng chia sẻ một niềm tin với mình, bởi lẽ họ cũng có chỗ đứng trong tấm lòng hiển linh của Chúa. Ơn cứu độ là phổ quát. Và nếu nét đặc trưng của lễ Hiển Linh là ánh sao dẫn đường, thì trách nhiệm của những kẻ đã được gặp gỡ Thiên Chúa sẽ không chỉ thu hẹp trong đời sống cá nhân tu thân tích đức, mà còn hướng tới sứ vụ đối với những kẻ lân cận mình. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.
Nếu mỗi kẻ tin là ánh sao, con đường gặp gỡ biết bao sáng ngời, và lời tiên báo của tiên tri Isaia sẽ nên hiện thực hiển linh cho đời.
Tóm lại, khởi đi từ cách hiểu về tên gọi của ngày lễ để dẫn tới đời sống đức tin, đó là chủ đích của những điều chia sẻ trên đây. Nhưng từ hiểu biết đến đức tin, khoảng cách vẫn không nhỏ. Chính Phúc Âm hôm nay là một kinh nghiệm. Xin đừng để kinh nghiệm ấy mãi còn là một nghịch lý không thể vượt qua. Nhưng hãy để kinh nghiệm ấy biến thành những kinh nguyện quyết tâm mở sang cuộc sống mới. Và đó chính là cách gọi tên cụ thể một ngày lễ.
101. Niềm tin: một chuyến đi
(Trích trong ‘LÀM NỤ HOA TRẮNG’ – ĐGM Giuse Vũ Duy Thống)
Phúc Âm hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành trình đầy kịch tính của những khách lạ phương xa: từ ngạc nhiên khám phá ngôi sao lạ, qua xáo động tại Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ kính, rồi dắt díu nhau lặng lẽ tìm đường khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất hiện trên màn ảnh những cuộc đối đầu càng lúc càng thêm căng thẳng: giữa chính diện và phản diện, giữa lo sợ của bên này và thanh thản của bên kia, giữa tìm gặp hướng tới và lạc mất nẻo đi. Cứ như í ới cơ man nào là tiếng nhỏ to bàn bạc chen lẫn tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ bị xem là xa nhưng lại biết bàn vào và của những người được coi là gần nhưng chỉ biết bàn ra.
Nhưng giữa những chi tiết tưởng như bất ngờ trên hành trình rất dài và rất xa ấy, người ta thấy lấp lánh hình ảnh của niềm tin như một chuyến đi với những đặc tính tiêu biểu:
1) Niềm tin: một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa.
Những vai chính trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem “triều bái Vua dân Do Thái mới sinh” được truyền thống giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác nhau, lúc thì gọi là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi sao cũng được: Vua vì những của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm kiếm, Chiêm tinh gia vì nhìn thấy ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác định lối đường. Chỉ biết họ là những người thiện chí kiếm tìm chân lý và vận dụng tốt những phương tiện đang có để tìm gặp chân lý bằng cách lên đường không mỏi mệt.
Khởi điểm cuộc hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm là một điều bình thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào, nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp nhận.
Tương tự, niềm tin trước hết là hồng ân đến từ tình thương Thiên Chúa dành cho hết mọi người, nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với tâm thành chí thiện, họ mới có thể có được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn gói lên đường khởi sự chuyến đi. Ra khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý Chúa, ra khỏi thói quen khô cứng lâu đời do cha ông truyền lại để mạo hiểm một phen bước theo ánh sáng trời cao, ra khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm chân tại chỗ để cơm mắm cơm muối gieo bước lữ hành.
2) Niềm tin: một chuyến đi biết chấp nhận những thử thách
Là hồng ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ lực đóng góp không ngơi nghỉ của con người, để vượt qua những thử thách và kinh qua những thử luyện được xem là những thách đố trong chiều dài cuộc sống. Đây không chỉ là chuyện “thức lâu mới biết đêm dài” để con người chứng minh sức bền tin tưởng tháng năm, mà còn là chuyện “lửa thử vàng gian nan thử đức” trong những lúc Thiên Chúa xem ra ẩn mặt và hồng ân xem ra vắng bóng, như lúc “ba Vua toan mất hướng, ánh sao bỗng vụt lặn”. Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối diện với âm mưu chủ ý của những người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành tâm, thậm chí còn gài bẫy ngọt ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng biết cách quy chiếu Thánh Kinh nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái lại, chỉ lợi dụng để toa rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế và kinh sư trong dân.
Đêm Noel Chúa sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng thành phố nào đó của Iran chẳng những không có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa thành phố. Chúa như vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc bình an mà tại Bêlem chính nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh, chết chóc. Chúa như vắng mặt. Se lòng.
Thử thách đối với đức tin như gió đối với lửa: gió thổi tắt lửa yếu, nhưng làm bừng lên lửa sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và bền chí. Những thử thách trong cuộc sống niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con người, mà là những cơ hội để con người chứng minh phẩm chất niềm tin. Niềm tin không thử thách: niềm tin dễ dàng; niềm tin thất bại trước thử thách: niềm tin dễ dãi; niềm tin chấp nhận thử thách mới là niềm tin đích thực cho dẫu nhiều khi chẳng dễ chịu chút nào.
3) Niềm tin: chuyến đi biết đón nhận đồng hành
Không phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền thống gọi là lễ Ba Vua, có nơi kể tên các vị đến hàng chục (theo kiểu đồng bằng sông Cửu Long thì còn có cả chục 12, chục 16 cơ đấy), nhưng chừng như hữu ý cho thấy niềm tin không phải là cuộc đơn hành mà là một chuyến đi biết đón nhận đồng hành, không chỉ vì lý do “càng đông càng vui” mà vì giới luật yêu thương là biểu hiện rõ nhất của đức tin cũng là cách cụ thể sống động nhất để diễn đạt đức tin. Con người thời nào cũng thế, không thích bị chinh phục bởi giáo điều nhưng lại tự nguyện buông mình chịu khuất phục vì gương sáng đức tin. Nhớ lại ở Thăng Long thuở hạt giống Tin Mừng mới được gieo vào thửa đất Việt Nam, tín hữu thương nhau quá trời đến nỗi người ngoài đời đã gọi tín hữu là những người theo “Đạo yêu nhau”, tức là những người cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương.
“Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn”, tín hữu đồng hành bên nhau còn để nâng đỡ nhau, nhất là trong cơn nguy biến như Ba Vua gặp Chúa tại Hang đá rồi, phải dìu nhau lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối của Hêrôđê. Ngoài miệng thì bảo là đi triều bái, còn trong hành động lại làm điều trái, tàn sát thê lương, “giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh”. Con đường khác ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng đã có bạn bè thân quen bên cạnh đồng hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà dấn bước.
Giống như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính bản thân cá nhân “Tôi tin”, nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng thanh tuyên tín “Chúng tôi tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ khác nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành.
Tóm lại, dựa vào hành trình của những vai chính ngày lễ Hiển Linh để phác vẽ niềm tin như một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành là cùng lúc tích cực hòa mình vào biến cố Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách tỏ mình của Ngài thì tín hữu cũng cần lên đường đúng cách Chúa tỏ ra cho mình biết. Như thế niềm tin mới là chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và gặp gỡ. Và đó cũng là những hình ảnh sinh động mang tính hiển linh của kẻ tin trước mắt người đồng thời, giống như hình ảnh của những vai chính trong chuyến đi hôm nay: ở bước truy tìm họ được mệnh danh là Chiêm tinh gia, khi đã bước lên đường họ được gọi là Đạo sĩ và khi tới đích với lễ dâng thành kính họ được xưng tụng là Ba Vua.
102. Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra
(Trích từ “Sống Tin Mừng” của Radio Veritas Asia)
Các bài đọc của lễ Hiển Linh đều hướng về một chủ đề chính: "Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi muôn dân". Nơi bài đọc I được trích từ sách tiên tri Isaia: "Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra" (Is 60,1-6).
Đó là lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng của Giêrusalem. Giêrusalem có được như vậy, được trở thành trung tâm của muôn dân đổ dồn về đó là vì nhờ Giêrusalem có Thiên Chúa hiện diện ở giữa. Không có Thiên Chúa hiện diện thì Giêrusalem vẫn chỉ như bao thành khác. Ánh sáng mà Giêrusalem nhận được từ Chúa đã chiếu soi muôn người, ánh sáng đó lôi kéo tất cả mọi người, không trừ một ai đến với Chúa. Giêrusalem ngày xưa là hình ảnh của Giáo Hội, vì Giáo Hội là nơi qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng cho Giêrusalem được ứng nghiệm trong biến cố các vua từ Phương Đông tìm đến Vua dân Do Thái mới sinh đã được thánh sử Luca ghi lại (x.Lc 2,1-12).
Gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài, đó là mục đích cuối cùng của đời người chúng ta, và đó cũng là trung tâm của bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay. Các mục tiêu cuối cùng trên, chúng ta thấy có những nhân vật nổi bật như vua Hêrôđê, các trưởng tế và luật sĩ tại Giêrusalem, các đạo sĩ từ Phương Đông. Mỗi một người trong hoàn cảnh riêng của họ đều được Chúa mạc khải cho, được Chúa mời gọi đến với Ngài bằng những con đường khác nhau. Các đạo sĩ nhờ ngôi sao sáng của thiên nhiên trong vũ trụ, một kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Các trưởng tế và luật sĩ thì qua con đường mạc khải của Kinh Thánh, qua lời dạy của các tiên tri mà họ biết nằm lòng. Vua Hêrôđê thì qua chứng tá của những kẻ qua con đường gặp Chúa, qua chứng tá của các đạo sĩ và các trưởng tế, luật sĩ tại Giêrusalem. Nhưng rồi chỉ có các đạo sĩ là đi đến cùng con đường, là gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài.
Chúa ban cho mỗi người, cho mọi người con đường để gặp Ngài, nhưng chỉ có những ai thành tâm thiện chí và can đảm đi đến cùng, đi trọn con đường thì mới thành công trong việc gặp gỡ được Chúa.
Trong ngày Lễ Ba Vua hay Lễ Hiển Linh hôm nay, chúng ta trước nhất vui mừng vì thấy rõ hành động Thiên Chúa không dành riêng ân sủng của Ngài cho một nhóm người nào, nhưng Ngài kêu gọi tất cả mọi người đến với Ngài, đồng thời chúng ta cần tự vấn chính mình về thái độ trước Chúa Kitô, chúng ta đã thực sự gặp Chúa và tôn thờ Ngài hay chúng ta cũng có thái độ giống như vua Hêrôđê xem Chúa như là kẻ thù, như là người cản trở sự thành đạt của mình, vì đó mà hành động ngấm ngầm chống lại Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được bắt chước thái độ của các đạo sĩ ngày xưa muốn ra đi khỏi nơi an toàn tự nhiên của mình để gặp Chúa và tôn thờ Chúa tại nơi mà Chúa muốn dùng để mạc khải cho chúng con về Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được gặp Chúa và tôn thờ Chúa là Đấng cứu rỗi duy nhất đời con. Amen.
103. Ngôi sao đức tin – Lm Giuse Vũ Thái Hòa
Khi đọc bài Tin mừng hôm nay theo thánh Matthêu về "lễ Ba Vua" (ba thánh sử khác không tường trình biến cố này), chúng ta không thấy nói về vị vua nào cả, cũng không phải ba vua, mà chỉ thấy nói về "các nhà chiêm tinh"! Ngày xưa ở Trung Đông, nhất là tại Ba-tư, các vị chiêm tinh, hoặc đạo sĩ, là những người trí thức, thường làm cố vấn cho các vua và chuyên nghiên cứu về khoa thiên văn. Vào thế kỷ thứ 4 và 5, truyền thống dân gian Tây phương tưởng tượng ra các nhà chiêm tinh là những vị vua. Đến thế kỷ thứ 7, tục truyền lại đặt tên cho họ: Melchior, Gaspard và Balthazar. Rồi đến thế kỷ thứ 15, để muốn nói rằng các vị chiêm tinh tượng trưng cho toàn nhân loại, dân gian còn xác định chủng tộc của họ: Melchior là người da trắng, Gaspard người da vàng, và Balthazar người da đen.
Các nhà chiêm tinh tin rằng mỗi ngôi sao là dấu hiệu của một vị thần hay dấu hiệu của một vị vua đã được thần hóa. Do đó, khi khám phá ra một vì sao lạ, và khi đối chiếu với lời tiên báo trong sách Dân Số: "Một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp (nhà Đavít), một vương trượng (vua) trổi dậy từ Israel"(24:17), các ông tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, bất chấp đường xa và nguy hiểm để đến thờ lạy người.
Khi đến Giê-ru-sa-lem là thủ đô Do-thái, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của tân vương. Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, hỏi tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân, và được biết Đấng Kitô sinh ra ở Bêlem dựa theo lời tiên báo trong sách Mi-kha: "Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời" (5:1). Hài Nhi mới sinh ra chính là vị Cứu Tinh (Mê-si-a) mà Israel đã mong chờ từ lâu.
Khi tìm được Vua Hài Nhi, họ sấp mình bái lạy Người và dâng tiến Người vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba lễ vật tượng trưng: vàng nói rằng Người là vua, vì vàng là kim loại quý dùng để dâng cho vua; nhũ hương nói rằng Người là Thiên Chúa vì người ta xông hương để tôn kính các thần thánh; mộc dược, hương liệu được dùng để liệm người chết, nói lên nhân tính của Người. Các Kitô hữu nhìn nhận nơi Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai được mong đợi (vàng), Con Thiên Chúa (nhũ hương), Đấng hiến dâng mạng sống trên thập giá (mộc dược).
Các vị chiêm tinh này đại diện cho các dân ngoại đã nhìn nhận vương quyền của Hài Nhi ngay từ lúc Người mới chào đời. Họ cũng đại diện cho những người thành tâm thiện chí tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa. Với những bước dọ dẫm và với sự kiên trì, cuối cùng họ đã gặp được Thiên Chúa và dâng cho Người những thứ quý giá nhất.
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta hãy dùng ít phút để suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, vược xa trí tưởng tượng của con người. "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3:16). Nhưng Con Thiên Chúa ở trong một máng cỏ nghèo nàn. Các nhà chiêm tinh nhận ra Người không phải qua bề ngoài nghèo hèn bằng con mắt nhân loại, nhưng bằng con mắt đức tin.
Cách đây hơn 2000 năm nay, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ. Từ đó, Người muốn mỗi người chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh ("Các con là ánh sáng cho trần gian" -Mt 5:14) để dẩn dắt tha nhân đến với Thiên Chúa, như lời mời gọi của thánh Phaolô: "Anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2:15)
Ước gì mỗi người chúng ta là một ngôi sao đức tin, được chiếu tỏa bởi tình thương và bác ái trong đời sống thường nhật của chúng ta.
104. Những con mắt hiển linh
Trong bài Phúc Âm của lễ Hiển Linh có một từ đáng cho chúng ta suy niệm: thấy. Có mắt để phát hiện những điều bí ẩn, những con mắt hiển linh như các nhà đạo sĩ: “Họ thấy Con Trẻ và Mẹ Ngài và họ liền sấp mình thờ lạy Ngài”.
Họ thấy gì? Họ tưởng tượng điều gì? Từ bậc quyền cao chức trọng nào họ phải xuống để thích ứng ngay với thực tế rất khiêm hạ này: một cặp vợ chồng và đứa con của họ? Các đạo sĩ đã “thấy”.
Lời mời gọi đầu tiên của lễ Hiển Linh là: thấy Con Trẻ. Thấy tất cả những gì có nơi Đấng Tuyệt Đối duy nhất này, thầm bảo rằng qua Ngài chúng ta có thể thấy Thiên Chúa, như phụng vụ Acmêni diễn tả rất hay: Hôm nay, Đấng vô hình hiển linh. Đấng mà con người không thấy nay tỏ hiện để chúng ta được thấy.
Làm sao không nghĩ đến câu nói nổi tiếng của thánh Irênê mà luôn luôn phải trích dẫn nguyên vẹn: “Vinh quang của Thiên Chúa chính là sự sống của con người, và sống đối với con người chính là thấy Thiên Chúa”.
Thấy Chúa. Thánh Gioan nói trong đoạn mở đầu Phúc Âm của mình: “Không ai thấy Thiên Chúa; chính Con duy nhất ngự trong lòng Chúa Cha mới tỏ bày Ngài cho chúng ta”.
Ước gì chúng ta có mắt để thấy những điều này! Con mắt đức tin, con mắt xưa kia, ở Palestine, biết mở ra để nhìn vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và cái nhìn nội tâm giờ đây làm chúng ta phải sấp mình trước mặt Ngài. Thánh nữ Têrêsa thành Avila đã viết: “Cái gì ngăn cản chúng ta dùng con mắt của tâm hồn để nhìn về Chúa? Ngài chỉ chờ đợi cái nhìn của chúng ta mà thôi”.
Cái nhìn nội tâm này, sức mạnh của con mắt đức tin này không được đóng kín chúng ta trong một tháp ngà nhỏ: “Anh và tôi!” hoặc trong một tháp ngà lớn hơn: “Chúng ta, những người theo Kitô giáo”. Đây là lời kêu gọi thứ hai của lễ Hiển Linh: nhận rõ ràng Con Trẻ xuất hiện vì tất cả chúng ta. Đàng sau các đạo sĩ, ta thấy được những đám đông mà các vị là biểu tượng, những đám đông mà Isaia phát hiện bằng con mắt hiển linh: “Hãy nhìn xem, hỡi Giêrusalem! Bóng tối bao trùm muôn dân nhưng Chúa sẽ xuất hiện trên ngươi, các dân tộc hướng về ánh sáng của ngươi. Hãy nhìn xem! Họ đang quy tụ lại”.
Người ta nói rằng định mệnh hạn chế cái nhìn của chúng ta. Chúng ta được tạo dựng cho những gì là to lớn của một thế giới đang chờ đợi Chúa và chúng ta cúi xuống nhìn vào cuộc sống của chúng ta và nhìn vào giáo xứ của chúng ta. Thỉnh thoảng, những đám đông hoan hô Đức Thánh Cha làm cho chúng ta cảm nhận làn sóng Công Giáo, nhìn thấy muôn dân họp lại đời đời. Nhưng chúng ta nhanh chóng trở về với chúng ta, những nhóm nhỏ đang hành đạo.
Chúng ta có quá dễ dàng chấp nhận làn sóng những người không tin đang gia tăng hay không? Quen sống trong những khu vực theo Kitô giáo, ở giữa những môi trường mà hai tiếng Thiên Chúa không còn ý nghĩa gì nữa có phải là điều bình thường hay không?
Lạy Chúa, xin khơi dậy nơi chúng con lòng nhiệt thành của những người theo Kitô giáo đầu tiên mà đối với họ lời của Chúa Giêsu vẫn còn sống động: “Các con hãy đi dạy dỗ muôn dân” (Mt 28,19). Ước chi Giáo Hội của Ngài, Giáo Hội vào thời đại có nhiều người không tin này, không ngừng chọn lựa làm những người thừa sai, ước chi trong số mười linh mục người ta không chọn chín vị để nâng niu chiều chuộng các tín hữu và một vị để xông pha những chỗ mà Chúa không còn ở đó nữa.
Trong khi cầu nguyện như thế con cảm thấy con cũng thiếu tinh thần truyền giáo. Hay có lẽ con sợ hãi. Con sống ở giữa những anh chị em không thấy Chúa và con làm như thể con cũng là một người không thấy Chúa. Nhưng làm sao để nói với những người ở ngoài đường, ở trong các cửa hàng và trong nhà máy về Chúa? Và thậm chí đơn giản hơn là nói với anh A chị B mà con thường gặp từ bao nhiêu năm nay nhưng không nói gì với họ về Chúa? Tôn trọng ý kiến, lương tâm của họ chăng? Phải tôn trọng rồi. Con coi thường khi người ta nói về những chứng nhân của Giêhôva nhưng con, con làm gì để truyền giáo?
Con làm chứng nhân như thế nào đây? Thật đơn giản khi nhắc lại rằng người ta làm chứng bằng cuộc sống của mình, con biết rõ rằng đôi khi việc loan báo Tin Mừng cần đến lời nói, thế mà con im lặng. Thậm chí sau cùng thì con không còn thấy những người có lẽ đang chờ đợi chứng tá của con nữa. Xin Chúa cho con có những cặp mắt của người tông đồ, những con mắt hiển linh.
105. Từ bỏ
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Hiển linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ, ba nhà bác học phương đông.
Câu hỏi thứ nhất: các ngài là ai?
Phúc âm đã dùng danh từ “magi” để nói về các ngài. Magi có nghĩa là các vị tư tế, ngoài việc tôn giáo, họ còn chuyên môn về khoa học, nhất là thiên văn, vì thế họ thường được triều đình tôn làm cố vấn. Ngoài ra, magi còn có nghĩa là các nhà đạo sĩ, dùng phép thuật của mình như một kế sinh nhai. Phúc âm không xác định rõ các ngài thuộc vào hạng người nào.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tin chắc chắn các ngài là những người học rộng biết nhiều và thông thạo về thiên văn. Bởi đó, gọi các ngài là những nhà bác học, thiết tưởng cũng không sai cho lắm.
Ngoài ra, dựa vào những lễ vật dâng tiến, cũng như dựa vào thánh vịnh 71:
- Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
Hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
Cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
Muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Tertulianô đi tới kết luận: các người là những bậc vương đế. Vì thế, từ xa xưa người ta thường gọi lễ này là lê Ba Vua. Tuy nhiên, lập luân trên không được xác thực cho lắm.
Câu hỏi thứ hai: các ngài có bao nhiêu người?
Những bức bích họa dưới các hoang toại đạo vào những thế kỷ đầu, có bức vẽ hai vị, có bức vẽ ba vị, có bức vẽ bốn vị, thậm chí có bức vẽ tới…mười hai vị. Ngày nay, chúng ta thường nói tới ba vị, vì dựa vào ba thứ lễ vật các ngài dâng tiến.
Câu hỏi thứ ba: các ngài từ đâu mà tới?
Magi là hạng người xuất hiện đầu tiên tại Ba Tư. Các họa sĩ cổ xưa thường vẽ các ngài với y phục Ba Tư, nên nhiều người đã xác quyết các ngài từ Ba Tư mà đến. Tuy nhiên, lý luận này cũng không được ổn cho lắm. Phúc âm chỉ nói các ngài từ phương đông mà tời. Và phương đông là tên người Do Thái thường dùng để gọi xứ Ả Rập. Hơn nữa, những lễ vật như vàng, nhủ hương và mộc dược, là thổ sản của xứ này. Như vậy, các ngài từ Ả Rập mà đến thì có lẽ đúng hơn.
Sau cùng, câu hỏi thứ bốn: đâu là bài học chúng ta cần ghi nhận?
Bài học chúng ta ghi nhận hôm nay, đó là sự tử bỏ. Thực vậy, các ngài là những người giàu sang, có một địa vị lớn trong xã hội thời bấy giờ, thế nhưng một khi đã nhận biết ý Chúa qua ánh sao lạ, các ngài đã can đảm, dám liều, dám từ bỏ tất cả để lên đường tìm đến với vị vua mới sinh ra.
Đúng thế, các ngài đã để lại sau lưng nào vợ đẹp con khôn, nào tiền bạc giàu sang, nào địa vị chức auyền, để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu vô định, dưới sự soi dẫn của một ánh sao. Các ngài đã phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn, đã phải chấp nhận biết bao nhiêu nguy hiểm: nào là những nụ cười mỉa mai của bà con bè bạn, nào là những vất vả cực nhọc suốt khoảng đường dài…Thế nhưng, các ngài vẫn cất bước tiến lên với một lòng tin tưởng vững chắc.
Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy bất kỳ ơn gọi nào cũng đều đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, như lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Tôi xin đưa ra hai trường hợp tiêu biểu. Trước hết, đó là trường hợp của Abraham. Ông đang sống yên ổn với gia đình trong cảnh giàu sang, thế nhưng Thiên Chúa đã hiện ra bảo ông phải lên đường tới một vùng đất nào đó mà Ngài sẽ trao ban làm sản nghiệp. Abraham liền cúi đầu vâng nghe. Rồi khi tới tuổi già và có được một mụn con trai để nối dõi tông đường, thế mà Thiên Chúa lại truyền phải sát tế mà dâng kính Ngài. Abraham cũng đã cúi đầu vâng nghe.
Tiếp đến, đó là là trường hợp của các tông đồ. Các ông đang sống yên ổn bằng nghề chài lưới, thế rồi một hôm Chúa Giêsu đi ngang qua và lên tiếng gọi:
- Hãy theo ta.
Lập tức các ông từ bỏ ghe thuyền, chài lưới và những người thân yêu để bước theo Chúa.
Với Mathêu cũng vậy, đang làm giàu với nghề thu thế, nhưng sau khi nghe tiếng gọi của Chúa, ông cũng đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.
Từ mẫu gương của ba nhà ba nhà bác học phương đông, của Abraham và của các tông đồ, chúng ta đi tới một kết luận: Muốn theo Chúa, muốn chu toàn thánh ý của Ngài, chúng ta cũng phải dám liều, dám từ bỏ mọi sự, dám hy sinh tất cả, dám dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy bấp bênh. Thế nhưng liệu chúng ta có đủ quảng đại để đáp trả tiếng gọi của Chúa và có đủ can đảm để thực hiện những điều ấy không?
106. Đến thờ lạy.
Xưa kia có một tu sĩ thánh thiện sống ở Ai Cập. Một ngày nọ có chàng thanh niên đến thăm và muốn xin ngài dạy bảo. Anh thỉnh cầu với tu sĩ: “Thầy là người thánh thiện, xin thầy chỉ cho con biết làm thế nào tìm thấy Thiên Chúa”. Tu sĩ là người khỏe mạnh và lực lưỡng. Ngài hỏi chàng thanh niên: “Anh có thực sự muốn đi tìm Thiên Chúa không?” Chàng thanh niên trả lời: “Đúng vậy, thưa ngài, con thực sự ước ao muốn tìm kiếm Thiên Chúa”.
Sau đó tu sĩ dẫn chàng thanh niên xuống bờ sông. Thình lình, ngài túm lấy cổ anh rồi nhấn đầu xuống nước. Thoạt tiên chàng thanh niên nghĩ rằng tu sĩ ban cho anh nghi thức thanh tẩy đặc biệt giống như Phép Rửa tội của thánh Gioan Tẩy giả ở bờ sông Giođan. Nhưng sau gần hai phút tu sĩ vẫn không buông ra, anh bắt đầu vùng vẫy. Dù vậy tu sĩ vẫn dìm anh dưới nước. Bị ngộp thở, chàng thanh niên đã phải vùng vẫy mãnh liệt hơn nữa. Sau vài phút, tu sĩ lôi cổ anh lên khỏi mặt nước và nói: “Khi nào anh ước muốn tìm Thiên Chúa mạnh mẽ như anh ước ao có không khí để thở, lúc ấy anh sẽ tìm thấy Thiên Chúa”.
Hôm nay thánh Matthêu nói với chúng ta về những người có một ước muốn mãnh liệt đi tìm kiếm Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Đó là các nhà đạo sĩ.
Một số người Kitô hữu gốc Do Thái trong cộng đoàn của Matthêu thắc mắc rằng theo Đức Giêsu có phản bội lại đức tin của tổ tiên không. Họ hỏi: “Thưa ngài Matthêu tại sao nhiều người không phải là Do Thái đang đi theo Chúa Giêsu, trong khi đa số những người đồng hương Do Thái lại từ chối Ngài?” Matthêu đã trả lời rằng vì những người không phải Do Thái, những người ngoại trở lại đã có một lòng ước muốn mãnh liệt tìm kiếm Đấng Cứu Thế. Trái lại, những vị lãnh đạo Do Thái nghĩ rằng họ đã có Thiên Chúa rồi, họ nhận thấy không có lý do gì phải đi tìm kiếm Đấng họ đã có. Đối với họ, có Đấng Cứu Thế thì cũng tốt, nhưng không phải là vấn đề cấp thiết như sự sống và sự chết. Do đó, họ đã không có một lòng ước ao mãnh liệt để tìm kiếm Ngài.
Các nhà đạo sĩ chính là những nhà thiên văn đã kiên trì nghiên cứu trong Thánh Kinh, sách của người Do Thái, nói về những dấu hiệu xuất hiện trên trời, những dấu hiệu của Đấng Cứu Thế đang đến. Họ theo dõi hằng đêm, cho đến khi khám phá thấy một vì sao. Vì lòng ao ước tìm kiếm chân lý mãnh liệt họ đã từ bỏ xứ sở của mình và lên đường. Đây là cuộc hành trình rất vất vả, khổ cực và đầy nguy hiểm trong sa mạc với đoạn đường dài 800 dặm, khoảng 1280 km, từ Babylon tới Giêrusalem. Còn chúng ta, chúng ta có khao khát muốn tìm gặp Chúa hay không?
107. Nên thánh
G.K. Chesterton, tác giả nổi tiếng người Anh, đã viết một câu chuyện thú vị về ba nhà thông thái hiện đại. Họ đã nghe biết rằng có một thành phố hòa bình, một thành phố mà chưa bao giờ có chiến tranh, loạn lạc, giặc giã và khổ đau. Họ cũng nghe biết rằng, phải mang theo những lễ vật đến để chứng tỏ họ là những con người của hòa bình, và đóng góp vào việc duy trì hòa bình trong thành phố này. Do đấy họ lên đường đi tới thành Bêlem mới này với những lễ vật họ tin chắc rằng sẽ bảo đảm giữ được hòa bình và cho phép họ ở lại trong thành phố đó.
Khi đến cổng thành họ gặp thánh Giuse đứng kiểm soát những lễ vật của họ. Nhà thông thái hiện đại thứ nhất mang vàng đến. Ông giải thích rằng vàng có thể mua được mọi thứ khoái lạc trên trần gian. Hưởng khoái lạc rồi người ta không còn muốn chiến tranh nữa. Nhà thông thái hiện đại thứ hai đã không mang nhũ hương, mà mang hóa chất đến. Ông mang khoa học hiện đại vào thành phố. Với khoa học kỹ thuật ông có thể làm cho tâm trí con người ngủ mê trong hạnh phúc trần gian. Ông có thể chế ra những hạt giống nhân tạo phát sinh hoa trái và kiểm soát dân số trên mặt đất. Lúc đó dân chúng có thể thỏa mãn được tất cả nhu cầu cần thiết, và như vậy họ không phải đánh nhau nữa. Nhà thông thái hiện đại thứ ba mang một phân tử hạch nhân đến để chế bom nguyên tử, một thứ mộc dược mới, một biểu tượng mới của sự chết. Ông lập luận cứng rắn rằng bất cứ ai chống đối lại con đường hòa bình sẽ phải chết.
Sau khi khám xét lễ vật, thánh Giuse đã khước từ không cho bất cứ người nào vào cả. Họ lao nhao lên phản đối rằng: “Chúng tôi đã mang theo tất cả những phương tiện để cung cấp sự giàu có, kiểm soát thiên nhiên, và tiêu diệt kẻ thù. Chúng tôi còn phải mang thêm cái gì đến nữa để chứng tỏ rằng chúng tôi là những con người của hòa bình?” Thánh Giuse bèn kề vào tai mỗi người rồi thì thầm một lúc. Sau đó họ lặng lẽ bỏ ra đi trong buồn bã. Bạn có biết thánh Giuse nói gì với họ không? Ngài nói rằng họ đã quên mất chính Hài Nhi Giêsu!
Đó cũng là lời khuyên của Công đồng Vatican II cho thế giới văn minh khoa học ngày nay: “Chính Chúa Con Nhập Thể là thái tử của hòa bình, đã dùng thập giá của Người để hòa giải mọi người với Thiên Chúa. Người đã tái lập sự hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một thân thể”.
Ngày nay với chủ trương duy khoa học kỹ thuật, với sự giàu có và quyền lực, con người nghĩ rằng họ là những nhà thông thái hiện đại. Họ có thể xây dựng hòa bình mà không cần hài Nhi Giêsu. Thế nhưng họ đã lầm! Hòa bình và hạnh phúc không thể có nếu thiếu Hài Nhi Giêsu. Ngài là “Thái Tử của Hòa Bình”. Tách rời ra khỏi Thiên Chúa, con người không thể tự tạo ra hòa bình được.
Trong tông huấn Tertio Millennio Adveniente, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng cho rằng càng phát triển về văn minh vật chất, con người càng trở nên nghèo nàn về tinh thần và tạo nên cơn khủng hoảng văn minh hiện nay. Ngài nói: “Đứng trước cơn khủng hoảng văn minh đó, cần phải đáp lại bằng văn minh của tình yêu – đặt nền tảng trên các giá trị phổ quát là hòa bình, liên đới, công lý và tự do, là những giá trị gặp thấy nơi Đức Kitô sự kiện toàn đầy đủ của chúng ta”. “Chúng tôi đến để thờ lạy Người”. Tìm kiếm và thờ lạy Thiên Chúa là ước vọng thâm sâu nhất của con người như thánh Augustinô đã nói: “Chính Ngài đã thúc đẩy con người làm như thế bằng cách làm cho con người thấy khoái trá khi ca tụng Ngài, vì Ngài đã tạo thành chúng con cho Ngài, và tâm hồn chúng con sẽ không an vui bao lâu chưa được an nghỉ nơi Ngài”.
Sách Giáo lý Công giáo cũng dạy rằng: “Sự ước ao Thiên Chúa đã được ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì con người đã được sáng tạo bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa”.
Tìm kiếm Thiên Chúa để trở nên giống như Ngài, vì con người đã được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, với phẩm giá của mình, với ơn gọi là con cái Thiên Chúa được chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Bởi thế, con người phải trở nên hoàn thiện như Ngài. Đó là ơn gọi làm thánh (sainthood). Mỗi người được mời gọi để trở nên thánh thiện như Thiên Chúa Cha là Đấng thánh.
108. Nên thánh
Thánh Phaolô đã nhắc nhở các Kitô hữu thời Giáo Hội sơ khai như sau: “Kính gửi tất cả anh chị em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được gọi là thánh, xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an”. “Kính gửi Hội thánh của Thiên Chúa ở Côrintô, những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được gọi là thánh…”
Các Kitô hữu đã được thánh Phaolô gọi là thánh, vì đã có lòng ước ao tìm kiếm Thiên Chúa mãnh liệt, đã ăn năn sám hối và canh tân đời sống mỗi ngày để trở nên thánh.
Một vị thánh sẽ không bao giờ dám tự coi là mình đã chiếm hữu được chân lý, đã có Thiên Chúa, hay đã biết tất cả mọi điều về Thiên Chúa! Đối với các ngài, luôn luôn có những khám phá mới mẻ về Thiên Chúa, bởi lòng ước ao tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa sẽ không bao giờ vui thỏa. Nói như thánh Augustinô, các ngài chỉ vui thỏa khi nào nghỉ yên trong Chúa.
Câu chuyện Thánh Kinh về ba nhà đạo sĩ Đông phương nói với chúng ta rằng đời sống tinh thần sẽ chỉ bắt đầu khi một người có một lòng ước muốn mãnh liệt đi tìm kiếm Thiên Chúa. Khi một người cảm nghiệm được sự thúc bách nội tâm, một lòng khát khao muốn có một sự liên hệ cá nhân sâu xa với Chúa Giêsu, cuộc hành trình tinh thần của người đó mới bắt đầu khởi sự.
Trước đệ nhị thế chiến, có một cô gái người Pháp, trẻ đẹp, hát hay và khiêu vũ rất giỏi. Nhờ thế cô rất nổi tiếng dưới ánh đèn sân khấu trong các vũ trường ở thủ đô Paris. Đúng lúc đó thế chiến thứ hai bùng nổ, nước Pháp lâm nguy nên mọi người ra sức bảo vệ tổ quốc. Cô gái tài sắc đó đã trở thành y tá cứu thương trên chiến trường. Chẳng may cô bị thương và rủi hơn nữa chính vết thương này đã khiến cô không còn khả năng sinh sản. Với lòng ước ao mạnh mẽ để được làm mẹ và trước những đau khổ mất mát của tha nhân, cô đã không buông xuôi thất vọng, trái lại cô còn có một quyết tâm khác thường.
Thay vì làm mẹ ruột, cô làm mẹ nuôi của các trẻ mồ côi bị bỏ rơi. Để có điều kiện thực hiện ý định đó, cô trở lại làm nghề vũ nữ và ra sức lao động cật lực. Cùng lúc cô đi tìm kiếm các trẻ mồ côi đủ mọi quốc tịch, màu da để nuôi nấng yêu thương. Đứa bé cuối cùng cô nhặt được trong một thùng rác ở thủ đô Paris vào đêm Noel 1983 là một em bé người Pháp. Bây giờ cô trở thành người mẹ nuôi của 12 em, 12 quốc tịch và màu da khác nhau. Với 12 miệng ăn cô không đủ tiền chi phí nên phải bán đồ đạc trong nhà để sống thêm được một thời gian. Sau đó, mẹ con dắt nhau đi lang thang ăn xin. Biết được tình cảnh đáng thương đó, công chúa Monaco đã cho mẹ con cô tá túc trong lâu đài của mình. Hai năm sau cô qua đời và báo chí đã đặt tên cho gia đình cô là một “gia đình Liên Hiệp Quốc”.
Lễ Hiển Linh nhắc nhở chúng ta rằng Ngôi Hai Thiên Chúa đến viếng thăm tất cả mọi người có lòng ao ước tìm kiếm và đến thờ lạy Ngài. Không một ai bị loại trừ ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Thật “Vui mừng cho những tâm hồn tìm kiếm Thiên Chúa” (Tv 105, 3).
109. Những đạo sĩ hôm nay
Suy nghĩ về lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, tôi có một nhận xét nho nhỏ, xin được chia sẻ. Nhận xét ấy như thế này:
Các nhà đạo sĩ phương đông là những người ít được chuẩn bị, ít được hiểu biết về Kinh Thánh, nhưng lại có một tấm lòng quảng đại, sẵn sàng đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa. Các ông đã lên đường, dấn thân vào một cuộc phiêu lưu hoàn toàn bấp bênh, để rồi cuối cùng các ông đã có được diễm phúc gặp gỡ Chúa nơi máng cỏ Bêlem dưới vóc dáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và tầm thường.
Các ông là những người tuy xa mà lại gần.
Trong khi đó, các luật sĩ, tư tế và biệt phái sống tại Giêrusalem. Họ là những người đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Họ thông thuộc Kinh thánh. Bằng cớ là họ đã trả lời vanh vách nơi Đức Kitô sinh ra, thế nhưng họ đã không dám lên đường tìm gặp Ngài. Và hơn thế nữa, họ còn tiếp tay với Hêrôđê để sát hại Ngài.
Sở dĩ như vậy vì họ muốn Đấng Cứu Thế của họ phải được sinh ra trong lầu đài cung điện, để rồi một mai khi lớn lên, Đấng ấy sẽ là một ông vua hùng mạnh như Đavít, khôn ngoan như Salomon, sẽ giải thoát họ khỏi ách thống trị của đế quốc La Mã và dẫn đưa dân tộc họ tới một thời đại hoàng kim, khiến cho mọi dân nước phải quy phục và triều cống. Họ không muốn chấp nhận Ngài dưới vócdáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và tầm thường. Và họ đã không lên đường tìm gặp Ngài.
Họ là những người tuy gần mà lại xa.
Cũng trong chiều hướng ấy, tôi nghĩ rằng những người dám hy sinh, dám dấn thân, dám lên đường tìm gặp Chúa nơi những kẻ nghèo túng và bất hạnh, để yêu thương và giúp đỡ, họ chính là những nhà đạo sĩ của thời buổi hôm nay.
Đúng thế, ngày hôm nay vẫn có những nhà đạo sĩ tìm gặp Chúa nơi những người anh em khổ đau và cùng khốn.
Có những người như Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vừa mới được phong lên hàng chân phước, hằng ngày không ngần ngại đi lượm từng hình hài sắp chết, từng con trẻ bị bỏ rơi… rồi mang về chăm sóc.
Có những người như Cha Prado bên Pháp, đã sang tận Ấn độ để đem lại sức sống mới cho một cộng đoàn nghèo, hết lẽ sống và cũng hết muốn sống.
Có những người như những tu sĩ đã biến nhà mình thành nơi cư trú cho những trẻ em bị bại liệt, hay những thanh thiếu niên bụi đời, lang thang nơi đầu đường xó chợ.
Có những người như Đức Cha Casaldaliga, đã lập tòa giám mục của mình trên một chiếc thuyền độc mộc để ngày ngày, tay chèo tay chống, đi đấu tranh với các công ti tư bản cũng như với quân độ Brasil, vì quyền lợi của đám dân da đỏ mà Chúa đã trao ban như là những con chiên của Ngài.
Gần chúng ta và bên cạnh chúng ta, cũng không thiếu gì những mẫu gương sống động như thế.
Họ là những nữ tu trong bệnh viện. Họ là những thày cô công giáo trong các trường học. Họ là những công nhân có đạo trong các xưởng thợ. Họ là những y tá, những bác sĩ kitô hữu đã dành thời giờ mình được quyền nghỉ ngơi cho những người phong cùi, cũng như cho những bệnh nhân ở những vùng xa xôi hẻo lánh, thiếu thốn những tiện nghi vật chất.
Họ không phải chỉ làm những công việc này vì lòng đạo đức và tình bác ái, mà hơn thế nữa, vì họ đã nhận ra nơi những kẻ nghèo túng va bất hạnh mà họ đang phục vụ khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Đúng như lời Đức Giám mục Bossuet đã nói:
- Người nghèo ở đâu thì Nước Trời ở đó. Người nghèo chính là một bí tích, một dấu chỉ của Đức Kitô.
Thế nhưng, liệu chúng ta có dám lên đường tìm gặp Chúa nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau hay không?
110. Suy niệm của Thế Vinh
LỄ HIỂN LINH: CHÚA TỎ VINH QUANG NGƯỜI NƠI MỘT HÀI NHI
Bài Phúc Âm Lễ Hiển Linh hôm nay (Mat. 2:1-12) không những kể về hành trình đức tin mạo hiểm của các đạo sỹ phương Đông đến thờ lạy đấng Cứu Độ duy nhất trần gian, mà còn diễn tả vinh quang Thiên Chúa được tỏa sáng nơi sự sống con người, nơi một hài nhi-hài nhi Jesus.
Các đạo sỹ đã tìm gì? Họ đi tìm "vua dân Do Thái mới sinh." Họ tìm một hài nhi mới sinh ra. Họ đã đến dâng vàng, mộc dược, nhũ hương và phủ phục trước một hài nhi bình thường như mọi hài nhi khác. Ánh sao trên trời và ánh sao trong tâm hồn mà Thiên Chúa đã soi sáng họ làm điều đó: thờ lạy Thiên Chúa nơi một hài nhi.
Hơn nữa, để hài nhi Jesus thoát khỏi bàn tay bạo tàn của Herode, các đạo sỹ đã trở về xứ sở mình theo đường khác theo như mộng báo. Các đạo sỹ còn là những người bảo vệ mạng sống hài nhi Jesus.
Con Thiên Chúa đã làm người, làm một hài nhi yếu ớt cần sự chăm sóc, yêu thương, và công lao vất vả của cha mẹ trần gian. Vinh quang người tỏ rạng nơi sự sống con ngưòi, nơi một hài nhi. Ôi, cao quí thay sự sống con người, sự sống của các hài nhi! Ôi, cao quí thay phẩm giá con người.
Hôm qua theo tin của VietCatholic nạn phá thai giảm 95% từ 1989 ở Croatia nhờ phản ứng mạnh mẽ của các Giám mục nước này. Bản tin trích dẫn: "Các Đức Giám Mục Croatia đã cùng nhau đồng lòng, đồng trí đưa ra các chương trình hành động cụ thể, trong việc giáo huấn các chủng sinh, các tầng lớp Linh Mục, và các nam/nữ tu sĩ về sự cao quý và tính thánh thiên của sự sống. Và chính từ đó, nạn phá thai đã giảm xuống, và ơn gọi ngày càng tăng lên, và tất cả mọi người đều cùng nhau tâm đầu ý hiệp với Đức Thánh Cha".
Ở Hoa Kỳ, các Giám mục nỗ lực huấn luyện ý thức của giáo dân và mọi người về sự thánh thiêng của sự sống con người. Ngoài những thư chung, lời giảng dạy công khai, và lời cầu nguyện tín hữu trong các thánh lễ, các ngài còn tổ chức biểu tình hàng năm tại Washington DC để đòi các nhà lập pháp thay đổi luật cho phép phá thai.
Việt Nam là nước có tỷ lệ phá thai rất cao. Theo AFP, hằng năm ở Viêt Nam có 1.4 triệu thai nhi bị phá. Đáng buồn thay, tỷ lệ phá thai cũng rất cao trong những ngưòi công giáo. Chắc chắn các vị chủ chăn biết được điều đó trong mục vụ của mình. Ước gì các vị chủ chăn ở Việt Nam có những chương trình biện pháp cụ thể để đánh động ý thức giáo dân về trách nhiệm bảo vệ mạng sống các hài nhi chưa đưọc sinh ra và giảm được tỉ lệ phá thai nơi ngưòi công giáo và ở Việt Nam.
Xin Chúa giúp mỗi người công giáo chúng ta cũng nhận ra vinh quang của Thiên Chúa nơi mỗi hài nhi và bảo vệ sự sống của các hài nhi. Amen.
111. Giờ được sinh ra
Trong khi chúng ta tiến vào năm mới, thật là an ủi khi biết rằng các tinh tú sao trời đang chiếu cố chúng ta. Đây là thời của Chòm Sao Bảo Bình (Aquarius).
Khi ánh trăng mọc trên nóc nhà thứ bảy
Và khi Mộc Tinh thẳng hàng với Hỏa Tinh
Thì an bình sẽ dẫn dắt các hành tinh
Và tình yêu sẽ xâm nhập các tinh tú
Đấy chính là những gì các nhà thiên văn đang nói cho chúng ta, và nó không có khó khăn nhấn mạnh về sự kiện rằng khoảng chừng 50 triệu người Bắc Mỹ tham khảo "Tử Vi" trên những tờ nhật báo, và rằng những sách về thiên văn được tiêu thụ hàng trăm ngàn cuốn mỗi năm. Giữa các người trẻ, thiên văn chính là môn thích thú của họ -- bất hạnh thay, trong nhiều trường hợp, nó là loại thay thế cho tôn giáo mà họ đang chối bỏ. Với nhiều hình thức dự đoán, thiên văn có thể thật là phiền hà bởi vì nó thường hay mập mờ và rất khó chú giải. Một người nói với một người bạn của anh rằng một nhà thiên văn đã nói với anh, "Người chồng thứ hai của vợ anh thật là giàu có, thông thái và đẹp trai." Và người bạn hỏi, "Anh chẳng tức tối khi nghe thấy lời dự đoán đấy sao?" "Đúng, nó làm tôi thật tức giận," người đàn ông trả lời. "Tôi không biết vợ tôi đã xuất giá trước kia hay không." Dĩ nhiên, đối với một số người những dấu chỉ tinh tú có thể mang ý nghĩa những gì mà họ muốn chúng mang ý nghĩa. Thế nhưng cũng thật là hứng thú khi để ý rằng người ta chú giải những dấu chỉ tinh tú để mang ý nghĩa mà chúng ta đang tiến đến một kỷ nguyên mới của tình huynh đệ, an bình và yêu thương. Đây phải là điểm quan trọng nhất với chúng ta những người Kitô hữu bởi vì nguồn đáng tin cậy nhất của chúng ta về tin tức liên quan đến vận số của thế giới -- Tân Ước -- cũng nói cùng một sự thể. Và, thật là không ngờ, nó khởi đầu kể cho chúng ta câu chuyện hạ sinh của một hài nhi.
Việc hạ sinh một hài nhi luôn luôn là một biến cố vô cùng đặc biệt. Tất cả chúng ta ai cũng có những hồi ước đặc biệt trong tâm khảm của chúng ta về sự diệu kỳ của việc hạ sinh hài nhi. Tuy nhiên, cái mà làm cho chúng ta thật sự bỡ ngỡ chính là sự kiện cuộc hạ sinh lần đầu vẫn chưa đủ. Sứ điệp của Tân Ước chính là sự trọn vẹn hòa hảo của chúng ta lệ thuộc và cuộc hạ sinh khác, cuộc hạ sinh thứ hai. Chúng ta phải trở nên giống như con trẻ bé nhỏ một lần nữa. Khác với lần hạ sinh lần thứ nhất, cuộc hạ sinh lần thứ hai là tự nguyện. Sự chọn lựa thuộc về chúng ta: noi theo giáo huấn của Chúa Giêsu để trở nên những con trẻ bé nhỏ hay là chối bỏ nó.
Phúc Âm Thánh Gioan, ông Nicôđêmô người Pharisiêu đến với Chúa Giêsu và hỏi, "Làm sao một người lại sinh ra lần nữa khi họ đã già rồi? Người ấy phải nhập vào lòng mẹ và tái sinh ư?" (Jn 3:4). Giống như Nicôđêmô, chúng ta muốn biết thực sự điều ấy có nghĩa gì. Chúng ta không thông suốt. Chúng ta cố tìm một phương thế có thể để thoát ly khỏi nó. Một số chúng ta bắt chước Nicôđêmô cố khởi đầu bằng những lý lẽ thần học với Chúa Giêsu về vấn đề này. Trong trường hợp nào, việc "tái sinh" theo nghĩa Thánh Kinh mang ý nghĩa gì?
Chữ Hy Lạp mà chúng ta chuyển dịch thành "tái sinh" hay "sinh ra" thật sự mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Thế nhưng khi chúng ta ghép chúng lại hầu cố đưa ra một ý nghĩa đơn giản và rõ ràng nhất, điều mà nó truyền đạt cho chúng ta chính là sự biến đổi tận gốc thì cần thiết trong đời sống các bạn cũng như của chính tôi: một sự thay đổi hoàn toàn, một khởi đầu mới.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta quá sức khi Ngài kêu mời chúng ta vào trong sự sống, vào trong lòng tốt lành vĩ đại của Ngài. Ngài ban cho chúng ta hai lần sinh ra: Lần sinh ra thứ nhất là mang chúng ta vào trong thế gian này và rồi lần sinh ra thứ hai là mang chúng ta vào trong sự sống.
"Chúng tôi đã thấy ngôi sao Ngài mọc tại Phương Đông và đã đến để triều bái Ngài." Trong ngày Chúa Nhật đầu tiên của Năm Mới, nếu chúng ta khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa thẳm sâu trong chính trung tâm nội tại của ta thì chúng ta sẽ không bỏ lỡ ngôi sao của Chúa Giêsu mọc tại Phương Đông, và chúng ta sẽ biết phải triều bái Ngài như thế nào. Giống như các nhà chiêm tinh thời xưa, chúng ta sẽ là những Người Mang Lễ Vật tới Thiên Chúa tại trung tâm điểm của đời sống chúng ta; chúng ta sẽ triều bái Con Trẻ mới sinh qua những lễ vật của lòng trắc ẩn, kiên nhẫn và quan tâm đến tha nhân. Lễ vật vĩ đại nhất của chúng ta cho thế giới trong Năm Mới này chính là món quà của bản thân. Đây chính là lễ triều bái chúng ta dâng lên Ngài: yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.
112. Những chặng đường lữ hành
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Những người hành hương
Từ hình ảnh ba nhà đạo sĩ lên đường tìm kiếm Đức Giêsu, người ta có thể rút ra một vài nhận định làm khuôn mẫu cho mọi người đang trên đường lữ hành.
Ba đạo sĩ là những người từ những phương trời khác nhau, từ những nơi xa xôi, nhưng đã cùng gặp nhau trong ước muốn gặp gỡ với Vị Vua mới giáng sinh. Đó là hình ảnh của tất cả những ai đã lên đường, do những ước vọng lớn lao thúc đẩy.
Ba vị đã tiến bước và trở thành những người tìm kiếm, những người khám phá.
Ba vị đã gặp được Đức Kitô, vì các vị đã từ bỏ tất cả những gì mình đang có, đã ra khỏi mình, ra khỏi nơi ở của mình. Các vị hòan tòan tự do.
Ba vị tràn đầy hân hoan vui mừng, hòan tòan trong sáng và sẵn sàng đón nhận hồng ân.
Như vậy, các nhà đạo sĩ là những người chẳng có mối liên hệ về họ hàng thân thuộc với Thiên Chúa của Itraen, nhưng đã cảm thấy mình có liên hệ. Các vị khao khát gặp gỡ Vị Vua mới giáng sinh, và các vị đã thành công. Cuộc mạo hiểm đầy gian truân vất vả của các vị đã thành công. Đây là một lời nhắc nhở cho mọi người về mối liên hệ của mỗi người với Thiên Chúa, và Thiên Chúa luôn sẵn sàng hướng dẫn mọi người đến gặp gỡ với Người, nếu họ chấp thuận lên đường, chấp nhận ra khỏi mình, ra khỏi những thói quen thường ngày để tìm gặp Người. Kho tàng phong phú của Thiên Chúa luôn mở ra cho bất cứ ai đón nhận lời mời gọi, bất kể người đó là ai.
Ngoài ra, trong cuộc hành trình, các đạo sĩ đã vào Giêrusalem, thành phố tượng trưng cho sự hiểu biết và quyền bính. Tại đây có vua, có các tư tế, các kí lục. Ngôi sao hướng dẫn các đạo sĩ đã biến mất khi các vị đến gần thành phố. Các vị đã vào thành, đã gặp gỡ, đã hỏi han, nhưng đức Giesu không có ở đó.
Ngôi sao ấy lại xuất hiện ở Bêlem: điều này cho thấy sự chuyể dịch về nơi chốn đích thực của quyền bính. Quyền vương đế, ngôn sứ và tư tế không còn ở trong thành phố có Đền Thờ, nhưng được bày tỏ trong hang đá, nơi Con Trẻ được sinh ra. Chính Đức Giêsu mới có quyền đích thực trên mọi loài. Và quyền bính ấy đã xuất hiện ở nơi con người không ngờ đến. Nơi chốn không làm nên quyền bính, nhưng là Con Trẻ, tức là Đức Giêsu.
Mở đầu một cuộc chiến
Biến cố đức Giêsu giáng sinh và việc các đạo sĩ tìm đến triều bái người đã mở ra một cuộc chiến.
Khi nghe các đạo sĩ đã theo hướng khác để trở về sứ sở của mình, vua Hêrôđê đã ra lệnh tàn sát các trẻ em trong vùng, từ 2 tuổi trở xuống. Đây mới chỉ là một màn đầu trong một cuộc lùng bắt còn kéo dài mãi tới sau này. Ngay từ khi mới chào đời, Đức Giêsu đã làm cho những người đang nắm giữ quyền bính phải sợ hãi. Họ không thể nào chấp nhận có một con người được gọi là vua đang gây nguy hiểm cho xã hội do họ tạo lập và điều hành. Cảm thấy vị trí của mình bị lung lay, nên họ quyết tâm tìm cách giết cho bằng được con người tự xưng mình là vua. Người ta có thể nhìn thấy vẻ đắc thắng của họ khi Đức Giêsu chịu chết trên thập giá với hàng chữ gắn phía trên đầu.
Đây thực là một cuộc chiến không cân sức: một bên là quyền bính trần gian với đủ mọi thứ phương tiện, một bên là Con Trẻ yếu ớt, ngay áo để che thân cũng không đủ, nói gì đến người bảo vệ. Thế nhưng, chính Con Trẻ, sau này là đấng chịu đóng đinh, lại là người chiến thắng, bởi vì Người la con Thiên Chúa. Thêm một lần nữa, Noel lại báo trước việc phục sinh.
Vì ích kỷ, những người nắm quyền bính trần gian đã không biết phục vụ người khác, nhưng chỉ lo tìm lợi ích cho riêng mình. Con Trẻ nằm trong máng cỏ lại là đối thủ của những kẻ đầy quyền lực, có quyền ra lệnh cho người khác. Con Trẻ và gia đình đã trốn đi, và những người này tưởng rằng mình đã chiến thắng. Và kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện cách tốt đẹp.
Nhìn lại chặng đường lữ hành
Trong cuộc mạo hiểm của ba nhà đạo sĩ, ta nhận ra bộ mặt của cuộc hành trình đức tin với nhiều chặng khác nhau:
Các đạo sĩ đã thấy một ngôi sao và biến cố này đã thúc đẩy các vị rời bỏ quê hương, rời bỏ chính mình để lên đường. Ngôi sao của chúng ta hôm nay có thể là một biến cố, một cuộc tiếp xúc, một niềm vui hay nỗi buồn, có khi cả cuộc xuất hiện của môt em nhỏ. Những sự kiện này được thắp lên trong cuộc đời chúng ta như một ánh sao, và chúng ta buộc phải ngẩng đầu lên, phải tìm kiếm xa hơn, phải rời bỏ những xác quyết của quá khứ. Chúng ta phải chuyển động. Có một sự việc hay một con người buộc chúng ta phải thay đổi: Anh sao tuy le lói, như một lời mời gọi mơ hồ, không rõ ràng, nhưng chúng ta phải lên đường. Đó là chặng thứ nhất.
Thế nhưng ánh sáng đã thúc đẩy chúng ta lên đường có lúc lại biến mất: chúng ta giống như người Do Thái lạc trong sa mạc và muốn quay trở lại đất Ai Cập. Các vị đạo sĩ cho chúng ta một giải pháp: các vị đã vào Giêrusalem và hỏi han các chuyên viên về lời Chuá. Các kí lục và thủ lãnh đã cho các vị câu trả lời: các vị phải đến Belem. Lời Thiên Chúa chỉ có ý nghĩa cho những ai đã từ bỏ mọi sự (như Apraham). Cuộc đời chúng ta cũng chỉ có ý nghĩa khi lời Chúa được chuyển lại cho ta qua Hội Thánh, và được đón nhận với tâm hồn rộng mở. Đó là chặng thứ hai.
Bóng tối và quyền lực sự dữ vây bọc chung quanh chúng ta. Nguy hiểm và cám rỗ vẫn rình chờ. Vua Hêrôđê, vị Pharaô mới, vẫ ở đó và đang mong ước buộc chúng ta làm nô lệ. Các vị đạo sĩ, khi được thúc đẩy, đã vượt qua mọi cạm bẫy, đã tìm ra được lối thoát mà không làm hại ai cả. Các vị đã đón nhận lời Chúa do người khác nói lại, đã đến nơi mình muốn đến, gặp đấng mình muốn gặp và sau đó ra đi bình an. Các vị đã vượt qua bóng tối. Đó là chặng thứ ba.
Ánh sáng lại xuất hiện. Niềm vui tràn ngập tâm hồn: các vị đạo sĩ đã đến Belem. Mỗi chúng ta cũng phải đến đó. Tại đây, Thiên Chúa hẹn gặp gỡ mọi người. Điều mà tâm hồn chúng ta ước mong hơn hết chính là đây. Đó là lúc để thờ lạy: tức là ở trong hơi thở của Thiên Chúa. Đó là chặng thứ tư.
Rồi chúng ta trình bày những món quà để dâng cho Thiên Chúa. Tất cả cuộc đời chúng ta được đem ra để dâng tiến Hài Nhi. Đó là vàng, nhũ hương, mộc dược … và hài nhi đón nhận tất cả những gì chúng ta dâng tiến! ước gì cuộc trao đổi này được kéo dài mãi mãi … Đó là chặng thứ năm.
Thế nhưng, lại phải lên đường. Thiên quốc còn xa lắm. Lịch sử của Chúa Giêsu ở với lòai người mới chỉ là bắt đầu. Sẽ còn rất nhiều ánh sao xuất hiện trong cuộc đời chúng ta. Lại phải lên đường. Thế nhưng đã có thay đổi. Không thể tiếp tục sống như trước đây, không thể đi lại những con đường cũ. Như các đạo sĩ, chúng ta phải “theo một con đường khác”. Đó là chặng thứ sáu, chặng cuối cùng trên hành trình đức tin, hành trình của mỗi ngày sống, hành trình của cả cuộc đời.
Những dấu chỉ
Lạy Chúa nếu không có ánh sáng,
Đêm cứ dài mãi và tối tăm sẽ bao phủ địa cầu.
Nếu không có những dấu chỉ minh chứng
Tuyệt vọng sẽ trào dâng, niềm cậy trông sẽ rời bỏ con người.
Xin cho con đọc được qua dòng lịch sử
những dấu chỉ: tình yêu không thể hao mòn,
những dấu chỉ: con người được kêu gọi vươn tới,
những dấu xác định Chúa luôn ở với loài người.
Để nhờ đó, lạy Chúa, ngày hôm nay,
con nhận ra những dấu chỉ của Ngài
rằng những người con của Ánh Sáng
phải vững niềm hy vọng và tỏa sáng tin yêu. (ĐTH)
113. Tiếp nối những bước chân anh hùng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Chuyện xưa kể lại: ngày ấy, có một người tên là Ápram, cùng với vợ là Xarai và người cháu tên là Lot, sinh sống trong một nông trại ở một miền đất gọi là Kharan. Ông ao ước có một đứa con để nối dõi tông đường, nhưng chẳng được. Súc vật, đồng cỏ, mọi thứ có đầy đủ, thế mà ông Ápram vẫn cảm thấy thiếu thốn. Đời sống cứ thế qua đi, cho đến một hôm, ông Ápram nghe được một tiếng nói lạ lùng “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi mà đi tới miền đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi. Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,1-3).
Bảy mươi lăm tuổi đầu rồi đâu còn trẻ gì nữa, làm sao có thể chịu đựng những nỗi vất vả, những hành trình; của cải cũng đầy đủ quá rồi, còn mong ước gì hơn nữa. Lại còn chuyện sẽ được cai quản một dân lớn, làm tổ phụ cả một đoàn dân đông đảo; ôi những chuyện xa vời quá, làm sao chấp nhận nổi?
Ápram phân vân, đắn đo suy nghĩ ông cảm thấy tiếng nói lạ lùng ấy đầy uy lực, thôi thúc ông phải thi hành. Và ông đã chấp nhận lên đường, bỏ lại quê cha, bỏ lại mồ mả tổ tiên, bỏ lại mảnh đất thân yêu, bỏ cả sự an toàn đang có ông chỉ mang theo những gì có thể, và dấn mình vào trong cuộc phiêu lưu liều lĩnh với muôn ngàn bất trắc, chưa xác định nơi nào sẽ định cư. Tất cả chỉ dựa trên một lời hứa, một lời hứa linh thiêng và bí nhiệm.
Apram đã không lầm. Những chi tiết của lời hứa đã được thực hiện. Ong đã được dẫn tới một miền đất phì nhiêu, ông đã có được nhiều của cải, chiên bò, gia súc, v.v… và có nhiều nhân viên giúp việc. Đời sống của ông bây giờ sung túc hơn xưa nhiều. Điều vui mừng hơn hết là Apram có được một cậu con trai, người con bấy lâu ông hằng mơ ước. Cuộc đời ông tưởng như không còn ước mong gì hơn nữa … (x. St 21,1-7).
Câu chuyện lại không chấm dứt ở chỗ này. Một lần nữa, tiếng nói lạ lùng năm xưa lại đến với ông, cũng đầy uy dũng và thúc bách: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Moria mà dâng nó làm lễ tòan thiêu” (x. St 22,1-2).
Sao? Lệnh truyền gì mà lạ lùng thế! Lần trước tiếng nói ấy đã cho ông biết: ông sẽ là tổ phụ của một dân lớn, con cháu ông sẽ đông như sao trên trời, như cát dưới biển. Thế mà giờ đây lại được lệnh đem sát tế, đem giết đi đứa con độc nhất, đứa con nối dõi.
Apraham đã được đổi tên – cảm thấy như có một sức mạnh linh diệu thôi thúc ông, đồng thời dựa trên những kết quả từ lời hứa lần trước, ông quyết định thi hành.
Kết cuộc câu chuyện ra sao, chúng ta đã biết rồi, vào lúc Apraham sửa soạn thi hành lệnh truyền, thì đứa con đã được cứu thóat do một sự can thiệp lạ lùng …
Với những hành động can đảm và liều lĩnh ấy, kèm theo một lòng tín trung phó thác mãnh liệt, Apraham trở thành cha của tất cả những ai có niềm tin, trở thành con người khai mở cả một chặng đường, một hành trình nhiều đột biến nhưng thật phấn khởi, trở thành gương mẫu điển hình cho lòng vâng phục, cho hy vọng …
Một câu chuyện khác.
Cách đây hơn 2000 năm, hay có khi trước đó nữa, đã có những nhà chiêm tinh, căn cứ vào những điềm xảy ra trong vũ trụ để nghiên cứu những biến cố. Đó là công việc của những nhà giàu có, sẵn tiền của và thời giờ. Ở vùng đất xa xôi nọ, theo truyền thuyết, có ba nhà đạo sĩ cùng làm công việc ấy. Ngày nọ, ba người thấy xuất hiện trên bầu trời một vì sao lạ, một vì sao chưa thấy xuất hiện lần nào. Ba ông ngạc nhiên và bàn tính với nhau: Hẳn đây là một điềm báo trước một biến cố trọng đại. Nghiên cứu tìm tòi, ba ông được biết vì sao ấy ám chỉ một ông vua mới sinh. Vì vua ấy chắc là cao sang lắm! Nên mới có ngôi sao lạ. Ba ông đều muốn lên đường đến chiêm bái vị vua mới sinh. Ba ông quyết định từ bỏ cả của cải, đem theo những báu vật để dâng cúng vị vua mới sinh.
Và ba ông đi mãi, đi mãi, dưới sự hướng dẫn của ba sao lạ … Và đến đây chúng ta đã biết được phần cuối của câu chuyện rồi. Đó là ba nhà đạo sĩ đến kính bái Chúa Giêsu mới giáng sinh ở Bêlem (Mt 2,1-12).
Apraham, ba nhà đạo sĩ đã đi trên một con đường: con đường của tìm kiếm, con đường của đức tin, con đường dẫn tới tương lai, dẫn tới sự sống. Các vị đã chọn đi trên con đường đó với bao quả cảm, với bao nỗ lực và phấn đấu. Con đường ấy dẫn đưa các vị đến những thành đạt kỳ ảo nhất và cũng dễ hiểu nhất. Con đường ấy là con đường duy nhất, vì kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng, chẳng còn con đường nào khác. Con đường ấy thật nhiều đột biến, thật nhiều thử thách và gian nan, đôi khi rất tăm tối, nhưng cũng đầy hứng thú và kỳ diệu …
Con đường đức tin hay hành trình chinh phục chân lý. Con đường dẫn con người đến những đỉnh cao, những thực tại siêu vời của cuộc sống …
Đó cũng là con đường của chúng ta, của mọi người. Mỗi người đều được mời gọi hướng về sự thật, hướng về vô biên. Con đường ấy cho cả hôm nay, hôm qua và ngày mai, không thể có một con đường nào khác. Chỉ có đức tin mới dẫn đến sự thật, chỉ có tín trung mới dẫn đến sự sống. Đó là chấp nhận phiêu lưu, chấp nhận mạo hiểm, như nhà leo núi chấp nhận những khó khăn để đạt được danh hiệu cao quý nhất của nhà chinh phục.
Chân lý – sự sống. Đó là nguyên lý cao nhất. “Phải sẵn sàng hy sinh những gì yêu quí nhất để theo đuổi cuộc tìm kiếm ấy, dù có phải hy sinh cả cuộc sống” (Gandhi).
Mãi mãi đi trên hành trình của Apraham, của ba nhà đạo sĩ, hành trình của lòng tin và hy vọng.
114. Cuộc Hiển Linh vẫn kéo dài
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Chỉ hiểu biết mà thôi, chưa đủ
Sau khi Đức Giêsu giáng sinh tại hang đá, các thiên thần đã vang tiếng hát tung hô, và các người chăn chiên đã kéo nhau đến thờ lạy Người. Hai sự kiện này có chung một mục đích là diễn tả việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, nhất là cho người nghèo. Sau này, chính Đức Giêsu quả quyết với những người được ông Gio-an Tẩy Giả sai đến: ""người nghèo được nghe Tin Mừng" "(Mt 11,5). Đức Giêsu đến trần gian với sứ mệnh là bày tỏ cho người nghèo, cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương và bênh vực họ.
Thế thì, tại sao trình thuật Tin Mừng về ba nhà đạo sĩ lại được sử dụng để mừng kính việc Đức Kitô tỏ mình ra lần thứ nhất? Hai sự kiện trên không đủ ư? Các đạo sĩ là những người trí thức, họ có mặt tại hang đá với mục đích gì? Họ đem những tặng phẩm quý giá như vàng, nhũ hương và mộc dược, những tặng phẩm vốn dành cho bậc vua chúa, đến hang đá để làm gì?
Thật ra, đây chính là một cuộc tỏ mình ra của Đức Kitô, một cuộc Hiển Linh. Kiến thức hiểu biết, sự giàu sang của các nhà đạo sĩ hoàn toàn tương phản với sự trần trụi, yếu ớt của vị vua mà họ đến thờ lạy.
Để đến được Bê-lem, các nhà đạo sĩ đã phải từ bỏ tất cả. Họ vốn là những bậc quyền thế, hiểu nhiều biết rộng và có nhiều của cải, nhưng họ đã từ bỏ mọi sự để lên đường. Họ là những người hiểu biết, nhưng lại lên đường theo một ánh sao, một ánh sáng từ bên trong, một lời mời gọi. Đây cũng là một cuộc Hiển Linh của Đức Kitô.
Sau cuộc gặp gỡ với vua Hê-rô-đê, người đang nắm quyền tại chỗ, và với những người thông thạo về Lề Luật, các nhà đạo sĩ đã ra đi, chẳng thỏa mãn, nếu không muốn nói là thất vọng. Họ đã tìm lại được bình an và niềm vui khi gặp lại ngôi sao, chứ không phải do những hiểu biết trong sách vở hay những lời dối trá của quyền bính. Từ đó, họ đã thay đổi cái nhìn, họ đã sám hối. Họ khám phá ra rằng quyền hành đích thực nằm trong tay con trẻ vừa mới giáng sinh tại hang đá Bê-lem: đây cũng là cuộc tỏ mình ra của Đức Kitô, một cuộc Hiển Linh.
Xưa nay, người ta vẫn muốn trình bày niềm tin vào Đức Giêsu Kitô tựa như lòng tin của người dân quê mùa, chất phác, ngược hẳn với niềm tin do hiểu biết, suy tư... Theo cách nhìn này, Tin Mừng dường như chỉ dành cho những người ngu dốt, đần độn.
Đúng ra, đây chỉ là một vấn đề giả. Cuộc gặp gỡ với Đức Kitô không phải là một hoạt động dựa trên chỉ số thông minh, nhưng do thái độ sẵn sàng đón tiếp của tâm hồn. Tin Mừng luôn được loan báo cho mọi người, không ai bị loại trừ, thế nhưng, chỉ những ai có tâm hồn rộng mở mới có thể hiểu được.
Những người nghe được Tin Mừng là những người khát khao tìm kiếm và sẵn sàng cất bước lên đường. Những người cứ nghỉ yên trong kiến thức của mình, trong quyền hành và sự giàu có của mình, đó là những người điếc.
Món quà đẹp nhất và quý giá nhất các đạo sĩ đem đến để tặng Đức Giêsu, chính là con đường họ đã đi, chính là niềm tin vào ngôi sao, chính là thái độ nhận ra mình thiếu sót và yếu đuối, mặc dù họ đang có rất nhiều thứ.
Khởi đầu từ những người nghèo
Đọc lại những trình thuật Tin Mừng về cuộc giáng sinh của Đức Kitô, người ta thấy được một chi tiết khá thú vị: những người nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế là những người chăn chiên, cụ già Si-mê-on, các đạo sĩ. Ngoại trừ ông cụ Si-mê-on, những người kia không phải là những người được chọn trước, và cũng không chuẩn bị gì. Ngược lại, những người không nhìn nhận Đức Giêsu lại là những nhà thông thái, những người được lựa chọn trước và được chuẩn bị rất kỹ để đón tiếp Đấng Cứu Thế: chính họ đã chỉ cho các đạo sĩ biết rõ về nơi Đấng Cứu Thế giáng sinh.
Tại sao thế?
Những nhà thông thái biết quá nhiều, nhưng chỉ biết thôi chứ không hiểu. Ngược lại, những người chăn chiên và các đạo sĩ tuy không biết nhiều nhưng họ có khả năng hiểu, vì họ sẵn sàng và khao khát kiếm tìm. Sau này Đức Giêsu sẽ nói: ""Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mặc khải cho những người bé mọn." "(Mt 11,25)
Có học thức, đó chưa phải là điều kiện cần thiết để hiểu biết những mầu nhiêm về Thiên Chúa, còn một điều khác cần hơn, đó là phải nhận rằng mình còn thiếu sót. Tính kiêu ngạo là một thứ màn tối dầy đặc che khuất ánh sáng, còn thái độ khiêm tốn là cửa ngõ để đón nhận ánh sáng.
Ngoài ra, khi thuật lại câu chuyện các đạo sĩ từ phương Đông tìm đến với Đức Giêsu, tác giả Mát-thêu muốn nói đến ơn gọi phỗ quát của Tin Mừng. Các nhà lãnh đạo tại Giê-ru-sa-lem đã từ khước, không nhìn nhận Đấng Cứu Thế, thì đây các dân ngoại lại đón tiếp Người. Ngay từ giai đoạn đầu trong cuộc sống của Đức Giêsu, sức mạnh truyền giáo của giao ước mới đã được bày tỏ, và sẽ lan mãi đến toàn thế giới. Đến cuối sách Tin Mừng, tác giả Mát-thêu ghi lại huấn lệnh cuối cùng của Đấng Phục Sinh: ""Anh em hãy đi đến với muôn dân... để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy." "(Mt 29,19-20). Những dân ngoại ấy hiện đã có mặt tại hang đá, qua hình ảnh ba đạo sĩ từ phương Đông đến.
Như thế, Tin Mừng được trao tặng cho tất cả mọi người, bởi vì họ đều được Thiên Chúa yêu thương trong Đức Kitô. Mọi người đều được mời đến gặp Đức Giêsu tại hang đá, miễn là họ có được tâm hồn nghèo khó và thái độ sẵn sàng. Và từ hang đá, mỗi người cũng nhận được lệnh đem Tin Mừng đến mọi miền của thế giới, của tâm hồn con người.
Các đạo sĩ của hôm nay
Các đạo sĩ của ngày hôm nay là ai? Ngày nay, ai là những người từ xa đến để nhận ra Đức Giêsu ở giữa những người nghèo?
Các đạo sĩ của thế kỷ XXI có thể là những người chúng ta đã gặp đây đó. Họ là những người nam cũng như nữ, biết bỏ lại kho tàng của mình (văn minh, hiểu biết...) để phục vụ những người nghèo, nhất là những trẻ em. Họ là những người đã đi theo một ánh sao, đã nhận ra rằng người nghèo chính là hình ảnh của Đức Kitô. Họ là những người luôn có thái độ sẵn sàng đón tiếp người khác, và biết sử dụng những điều kiện mình đang có để đem lại niềm vui cho người khác. Họ là những người sung sướng khi được hưởng những tiện nghi trong đời sống; nhưng họ cảm thấy hạnh phúc hơn, sung sướng hơn khi từ bỏ những tiện nghi của riêng mình để làm cho người khác được sống xứng đáng hơn.
Những con người như thế, chúng ta gặp rất nhiều. Đời sống của họ là một cuộc Hiển Linh của Đức Kitô, hay nói cách khác, Đức Kitô dùng cuộc đời của họ để bày tỏ cho thế giới về chính Người.
Phần chúng ta, chúng ta sẽ đem gì đến trước hang đá của Đức Giêsu? Đời sống của chúng ta có phải là sự diễn tả về Đức Giêsu? Đời sống của chúng ta có phải là một cuộc Hiển Linh của Đức Kitô?
Những câu hỏi như thế được nêu lên không phải chỉ một lần. Mỗi năm, vào mùa Giáng Sinh, chúng ta lại được nhắc nhở về sứ điệp ấy. Mỗi năm chúng ta lại bắt đầu lên đường bởi vì nhận thấy rằng có nhiều lần chúng ta đã bỏ dở hành trình, đã từ chối yêu mến.
Hãy dành một phút thinh lặng để suy niệm và cầu nguyện trước hang đá. Hãy cùng với các nhà đạo sĩ lên đường tìm đến hang đá, và phục lạy. Hãy dâng cho Con Trẻ món quà quý giá nhất là chính đời sống của chúng ta.
115. Ánh sáng Lời Chúa – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Vào lúc 1 giờ kém 12 phút sáng ngày 1/9/85, nhà hải dương học nổi tiếng Robert Ballard chợt phát hiện trên màn sóng vị trí của chiếc tàu Titanic bị chôn vùi dưới làn nước xanh thẳm của Bắc Đại Tây Dương cách đây ¾ thế kỷ.
Khi xác tàu được tìm thấy thì cũng là lúc tất cả những con số thống kê liên quan đến chiếc Titanic đã được đưa ra ánh sáng. Sau đây là một vài số liệu được ghi nhận:
- Chiều dài của chiếc tàu là 269 mét
- Chi phí cho việc đóng tàu là 178 triệu đô la (tính theo thời giá hiện nay)
- Thời gian sử dụng là 5 ngày
- Từ lúc đụng băng trôi cho đến khi chìm hoàn toàn là 2 giờ 40 phút
- Tổng số hành khách và thuỷ thủ là 2223; số người sống sót: 706
Vé hạng nhất là 705 đô la
Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là số ống nhòm dành cho hai người trực tại vọng gác là zêrô. Chính con số zêrô này mà người ta không thấy được xa, không phát hiện sớm được tảng băng trôi để rồi tai hoạ đã ập tới.
Cuộc đời con người như một chiếc tàu ngoài khơi, đang hướng đến bến bờ của bình an và hạnh phúc. Nếu không thấy xa phía đàng trước, nếu không có những phương tiện giúp định vị thì rồi những giòng xoáy, bão lốc, hay băng trôi sẽ nhận chìm nó. Cần thiết biết bao những chiếc ống nhòm. Cần biết bao một tia sáng soi chiếu để thấy được hướng đi, đích tới, và trở ngại phải vượt qua.
Vấn đề là trong đời sống tâm linh đâu là ánh sáng soi chiếu đường đi? Cái gì có tác dụng như những chiếc ống nhòm giúp ta thấy xa trên hải trình ngàn dặm đây?
Tôi chợt nhớ đến bài hát Alleluia của Cha Thành Tâm với lời nhạc “Alleluia, Lời Chúa dẫn soi con đường đi,” và trong bài Lắng Nghe Tiếng Chúa của Nguyễn Duy mà lời nhạc sau đây đã mang lại cho tôi một chìa khoá: “Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước…”
Thế ra trong cõi mù tối của tâm linh hay giữa sóng cả ba đào đang hoành hành dày xéo, Lời Chúa sẽ là phương thế dẫn đường soi lối giúp người ta đến với bến bờ. Đoạn Tin Mừng trong Chúa Nhật Lễ Hiển linh là một lời xác nhận cho chân lý đó.
Ba nhà đạo sĩ trong cuộc hành trình đi tìm ý nghĩa của cuộc đời, đương đầu với biết bao khó nhọc: băng qua đồi, leo qua núi, vượt qua cả vùng hoang dại của sa mạc Trung đông với khí hậu khắc nghiệt, ngày thì nóng cháy da, đêm lại lạnh thấu xương. Địa đã không lợi mà thiên cũng chẳng thời. Một ánh sáng sao dẫn lối thì nay lại biến mất. Lạc lối. Mù mờ. Không còn phương hướng. Chẳng biết mình phải đi về đâu.
Không thất vọng bỏ cuộc, các ông vẫn dò hỏi tìm tòi. Cuối cùng, may thay, người ta đã chỉ cho các ông nơi cần đến.
Điểm đáng chú ý là không phải những kinh sư, ký lục hay thượng tế đã trả lời cho sự tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ, nhưng là Kinh Thánh. Chính Thánh Kinh đã chỉ cho giới lãnh đạo Do Thái, và qua họ, nói cho ba người từ phương đông biết chân lý và ý nghĩa cuộc đời nằm ở nơi đâu. Từ Kinh Thánh, các đạo sĩ biết được rằng “Nơi Bêlem, thuộc đất Giuđa sẽ xuất hiện vị cứu tinh, Đấng sẽ chăn dắt Israel.” Và họ đã tiếp tục lên đường, nhắm hướng Thánh kinh đã chỉ mà tiến bước, để rồi cuối cùng tìm ra lẽ sống, thấy được giá trị và ý nghĩa cuộc đời mình nơi một con người có tên Giêsu.
Đúng là “Lời Chúa sáng soi con đường đi,” “Lời Chúa đổi mới cho cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho trần ai.” Nhưng thử hỏi tôi đã biết lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho đời mình chưa? Tôi có hay đọc Kinh Thánh để tìm hướng đi giữa những giong tố của cuộc sống? Nhưng, tôi đã có cuốn Kinh Thánh chưa đã chứ?
E rằng lắm khi bỏ ra năm chục, một trăm để mua đôi giày, chiếc áo sao dễ quá, nhưng để mua một cuốn Thánh Kinh hay những sách báo đạo đức giá 10 đồng sao không dễ chút nào. Nhiều lúc xem phim, nghe nhạc 2, 3 giờ liền mà chẳng thấy mệt mỏi gì, nhưng đọc các sách nhà đạo 5, 10 phút sao thấy ngại ngùng khó khăn quá.
Nếu ý thức và thái độ như thế, làm sao tâm hồn tôi có thể vượt qua được sóng ngàn, tránh khỏi các băng trôi để tiến đến bến bờ bình an được.
Không nhình vào Lời Chúa để rồi nhờ ánh sáng từ đó dẫn lối chắc chắn thuyền đời tôi sẽ lênh đênh bất định, nếu không muốn nói là dễ bị chìm đắm trước những phong ba của cuộc đời.
Nhưng nếu tôi quyết tâm từ nay sẽ lắng nghe tiếng Chúa hơn qua Thánh Kinh, sẽ tìm đọc lời Ngài qua các sách báo thiêng liêng đạo đức, và sẽ suy tư học hỏi ý Ngài qua mọi biến cố hằng ngày, thì chắc chắn tự đáy tâm hồn sẽ vang lên khúc hát hạnh phúc: “Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước. Lời Ngài được chất ngất niềm vui, trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi. Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho trần ai.”
116. Những ước mơ cao cả
(Suy niệm của Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR)
Sáng ngày 26 tháng 11 năm 1994, đông đảo giáo dân của địa phận Paterson thuộc tiểu bang New Jersey đã vui mừng sung sướng và bồi hồi chứng kiến biến cố có một không hai trong lịch sử Giáo hội: lễ truyền chức linh mục cho một thầy mù, Michael Joly.
Số là sau lần giải phẩu bướu não khẩn cấp lúc 5 tuổi, thần kinh thị giác của bé Michael đã bị hư hại nặng nề. Thế giới Michael dần dần bị một bức màn đen bao phủ. Cuối cùng, bé bị mù cả hai mắt.
Thế nhưng, từ trong bức màn đen tăm tối đó đã bừng lên một ước mơ. Michael mơ ước được trở thành linh mục để minh chứng cho tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Thế nhưng mơ ước là một chuyện, còn thực hiện ước mơ lại là chuyện khác.
Đối với người bình thường, quan sát một biến cố, phân tích một sự kiện, đoán định chính xác một vấn đề đã không phải dễ dàng chi, đàng này anh Michael lại là một con người mù loà. Thành ra mộng ước của anh quả là táo bạo và xa vời, nếu không nói là chẳng thực tế chút nào.
Thế nhưng với ý chí sắt đá cộng với ơn Chúa chan hoà, anh Michael đã đấu tranh để lướt thắng bao thử thách chông gai trên con đường thực hiện ước mộng làm linh mục kia. Michael tâm sự thế này: "Khó khăn lớn nhất của tôi là việc đọc các sách triết và thần học." Mù thì đọc sách sao được!
Nhưng rồi với sự kiên nhẫn tìm tòi, anh đã phát hiện rằng computer có khả năng ghi nhận tất cả các chữ trong một cuốn sách qua máy scanner, rồi cũng chính computer sẽ đọc chúng lớn tiếng qua bộ phận chuyển âm. Và thế là anh Michael đã không bỏ lỡ cơ hội để biến ước mơ thánh thiện của mình thành hiện thực. Kết quả, anh học xong chương trình triết học và thần học và được phong chức linh mục, phục vụ Giáo hội tại địa phận Paterson.
Lùi về quá khứ cách đây 2000 năm, trên thế gian cũng từng xuất hiện những con người ôm ấp bao mộng ước thánh thiện. Họ đã cất công vượt bao gian nan để đạt đến đích cùng. Đó là ba nhà đạo sĩ hay còn được gọi là ba vua.
Mơ ước của họ là được thấy Đức Kitô, "Vua dân Do thái." Ba vua được biết đến như ba chiêm tinh gia, những người chuyên nhìn ngắm sao trời để đoán biết những biến chuyển của thế giới và con người. Thế nên khi vừa phát hiện một ngôi sao lạ và biết ngôi sao ấy báo hiệu một Đấng Cứu Thế vừa mới sinh ra cho nhân loại, tức thì ba ông lên đường. Họ ra đi với mục đích và khát mong duy nhất: tìm gặp Đấng Cứu Thế mới hạ sinh.
Mơ ước là thế, nhưng đạt được ước mơ lại là chuyện khác. Họ phải băng qua nhiều đồi, vượt qua nhiều núi, lại còn phải tiến vào vùng sa mạc hoang dại Trung Đông với khí hậu khắc nghiệt: ngày nóng cháy da, đêm lạnh thấu xương.
Địa đã bất lợi mà thiên cũng chẳng thời. Dưới đất bao khó khăn trắc trở mà trên trời còn như muốn gây thêm gian nan để thử lòng người. Ấy là có một ngôi sao dẫn lối thì nay lại biến mất. Mất sao dẫn đường thì có khác chi người đang sáng bỗng dưng bị mù. Thế nhưng, dù gặp bao gian nan, dù thiên không thời địa không lợi, dù hoang mang trắc trở vì lạc mất sao, ba nhà đạo sĩ vẫn quyết tâm thực hiện ước mơ. Họ vẫn tìm kiếm hỏi han. Câu hỏi "Vua dân Do thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?" đã bộc bạch trọn niềm khao khát được thấy Đức Kitô của họ.
Với những ai thành tâm tìm Chúa, Ngài chẳng để thất vọng bao giờ. Ba vua thiết tha tìm kiếm Đấng Cứu Thế và Ngài đã chẳng để họ về không. Ngài đã cho ánh sao tái hiện. Ngài làm cho họ "hết sức vui mừng." Ngài tỏ mình ra và họ quì gối bái phục.
Cuối cùng, họ đã đạt được ước mơ.
Thế ra, có những người biết dùng tài năng kiến thức để đi tìm Chúa như ba chiêm tinh gia; có người biết tận dụng khoa học kỹ thuật tân tiến làm ánh sao dẫn lối để đạt đến mộng ước cao cả của đời mình như Michael Joly. Không biết tôi có dùng kiến thức, tài năng, khoa học kỹ thuật trong cuộc sống để tìm gặp Đức Kitô chăng, hay tôi đã dùng bao thứ ấy để làm mù loà tâm hồn và méo mó hướng đi cuộc đời?
Phải chăng, thay vì dùng computer hay TV như những phương tiện học hỏi để biết Chúa hơn và phục vụ Ngài nhiệt thành hơn, tôi lại dùng chúng để tiêu tốn thời gian và tìm xem những điều không nên?
Phải chăng đang khi có những người biết dùng kiến thức và khoa học để truyền đạo, dẫn lối những người u mê đến với Tin mừng Đức Giêsu, tôi lại dùng những thứ đó để làm cho niềm tin và hình ảnh Thiên Chúa nhạt nhoà trong bao tâm hồn?
Có nhiều người đang trên đường tìm kiếm. Song mục tiêu kiếm tìm của họ không phải là Chúa mà là tiền bạc, của cải, danh vọng, xác thịt, đam mê... Phải chăng họ không nhận ra giá trị trường tồn và niềm vui tuyệt đối chính là Chúa; hay đời họ đang mù tối vì thiếu ánh sao soi đường?
Sau 2000 năm kể từ ngày ánh sao lạ xuất hiện, vẫn còn cần lắm những ánh sao đưa đường cho bao tâm hồn lạc lối niềm tin hôm nay. Bạn và tôi đang được mời gọi làm nên những ánh sao giữa thế giới vật chất và sa đoạ này.
Có không ít người vẫn đang thắc mắc: "Vua dân Do thái hiện đang ở đâu?"
117. Mỗi người là một vì sao của Hài Nhi Giêsu
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Lễ Chúa Giáng Sinh là một sự kiện rất quan trọng và vĩ đại trong lịch sử loài người. Vĩ đại bởi vì được khởi đi từ chính Thiên Chúa do lòng yêu thương vô hạn của Người. Quan trọng bởi vì Đức Giêsu chính là Ánh Sáng đến để soi vào trong bóng tối tội lỗi và giải thoát muôn dân khỏi ách tử thần. Hồng ân này không phải chỉ dành riêng cho một thành phần nào, hay cụ thể là độc quyền của dân Israel, mà là cho toàn nhân loại. Việc Chúa tỏ mình ra cho các nhà Đạo Sĩ qua ánh sao lạ dẫn đường và hành trình của các ngài tìm đến để bái lạy Hài Nhi là một dấu chứng về ơn cứu độ phổ quát được ban cho toàn thể nhân loại.
Vì vậy, hôm nay, chúng ta mừng lễ Hiển Linh, tức là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Có thể nói, lễ này được gọi là lễ Giáng Sinh cho dân ngoại.
1. Các Đạo Sĩ là ai?
Vào thời bấy giờ, thuộc vùng Lưỡng Hà gồm các nước: Iran, Irak và xa hơn một chút có các nước như Afganistan và Ấn Độ. Các vùng này phát triển những nền văn minh, khoa học kỹ thuật tương đối rực rỡ thời bấy giờ. Song song với những phát minh khoa học là những tôn giáo lớn và huyền bí. Trong bối cảnh đó, những nhà hiền triết xuất hiện trong triều đình, nơi đô thị và cả chốn rừng sâu. Họ là những người truy tầm chân lý, khám phá những giá trị tâm linh và chú tâm đến những văn hóa có tính nhân sinh quan trong thiên nhiên, cuộc sống và qua những biến cố.
Bản thân họ là những người công chính, hướng thiện và tôn trọng sự thật, mặc dù chưa biết Chúa là ai. Thật vậy, họ đã dùng khả năng Thiên phú để khám phá và đi sâu vào thế giới tâm linh. Họ thường quan sát bầu trời qua các tinh tú để hiểu được Thiên ý và Thiên mệnh của con người. Những người đó, người ta gọi họ là các nhà Đạo Sĩ hay Chiêm Tinh hoặc vua.
Khi Chúa Giêsu Giáng Sinh, Ngài đã tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ qua dấu lạ ngôi sao. Ánh sao đó đã trở nên biển chỉ đường để dẫn các Đạo Sĩ đến gặp Hài Nhi Giêsu mới sinh tại Belem. Chúa đã dùng các ông như là những nhân chứng để loan báo cho muôn dân biết Ngài là Ánh Sáng thật, Ánh Sáng đã chiếu soi muôn dân.
Như vậy, nếu trước Công Nguyên, vào khoảng năm 750 đến năm 150, có các tiên tri như Isaia, Giêrêmia, Êzêkiel và Đaniel đã lần lượt loan báo về biến cố vĩ đại này rằng: "Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi", thì sau khi Đức Giêsu Gáng Sinh, có 3 Đạo Sĩ Đông Phương là những người đã nhận ra Ánh Sáng kỳ diệu này và đã đến để bái thờ. Sự hiện diện của các ngài chính là một lời chứng cho mọi người rằng: Đức Giêsu là ánh sáng soi cho muôn dân; Là Chúa các chúa; là Vua các vua; là Thủ Lãnh của cả nhân loại.
Các ngài đến để thực hiện những gì đã được loan báo trước đó trong Cựu Ước. Thật vậy: "Muôn dân muôn nước sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước".
2. Hành trình tìm Chúa của các Đạo Sĩ
Khi đã lần theo dấu vết ngôi sao lạ dẫn đường, các nhà Đạo Sĩ đã gặp phải không ít khó khăn trên hành trình đó như ánh sao bỗng vụt lặn không còn dẫn đường chỉ lối nữa, họ phải hỏi thăm... nhưng thật không may cho các Đạo Sĩ, họ hỏi thăm ngay phải con cáo già Hêrôđê, vì thế, lập tức họ là những đối tượng truy sát đầu tiên trong tâm trí của vị vua tàn ác này dưới những lời tưởng chừng như ngọt ngào. Câu hỏi: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Đây cũng chính là khởi đầu của một hành trình gian khó và đầy nguy hiểm đến với các Đạo Sĩ.
Việc các Đạo Sĩ tìm đến với Hài Nhi Giêsu hôm nay đã ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã loan báo mà bài đọc I vừa nhắc lại: "Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi[...]. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa". Sự kiện Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ là dấu chứng rõ ràng rằng: "nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô".
Quả thật, hôm nay các Đạo Sĩ đã trở thành những chứng nhân của Chúa. Họ đã được Chúa thương mạc khải để ngôi sao dẫn đường. Họ cũng đã nhạy bén để tìm ra những dấu chỉ và tin tưởng đi tìm chân lý. Và, họ cũng đã gặp được Đấng là khởi đầu và cùng đích của con người cũng như thế giới, nên họ đã dâng những lễ phẩm thật ý nghĩa.
Trước tiên là vàng:
Vàng được xếp vào hàng kim loại vua của các loại kim loại. Vàng là loại quý hiếm, nên dâng về cho Vua các vua là điều hợp lý. Khi dâng vàng cho Chúa, ngầm hiểu rằng: Đức Giêsu là Đấng "sinh ra để làm vua". Tuy nhiên là một vị vua hiền từ, nhân hậu và chết vì yêu.
Sau đó là nhũ hương:
Nhũ hương thường được dùng trong những việc thờ phượng. Khi đốt lên, hương và khói bay cao được ví như lời kinh cầu nguyện bay lên trời. Trên trời là nơi được hiểu là chốn của các thần minh. Và, dần dần, người ta hiểu rằng nhũ hương chính là biểu tượng cho Thiên tính của Đức Giêsu.
Cuối cùng là mộc dược:
Khi nói đến mộc dược, người ta nghĩ ngay đến việc dùng để xông hay ướp xác lúc an táng. Khi cắt nghĩa về mộc dược, người ta thường ám chỉ về nhân tính của Đức Giêsu. Nếu nhũ hương ám chỉ Thiên Tính, thì mộc dược muốn nói về nhân tính của Đức Giêsu.
Như vậy, việc dâng cho Chúa vàng, nhũ hương và mộc dược, các đạo sĩ đã xác nhận và làm chứng rằng Đức Giêsu là Vua. Ngài là con Chúa Cha, và do lòng yêu thương Thiên Chúa đã trao ban chính Con Một của mình. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật. Đồng thời, Ngài cũng là con người như chúng ta, Ngài đến để yêu thương và cứu chuộc hết mọi người.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Khi nói về lễ Hiển Linh, chúng ta nghĩ ngay lễ này là lễ ánh sáng. Còn hiểu theo nghĩa thần học thì đây là lễ Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ, hay còn gọi là lễ Giáng Sinh cho dân ngoại.
Thật vậy, hôm nay, Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, không trừ một ai. Ai cũng cần phải được cứu độ. Tuy nhiên, nhiều lúc, chúng ta nghĩ chỉ có chúng ta mới được cứu độ, còn những người không cùng niềm tin với chúng ta thì không được cứu độ. Đức Giêsu là độc quyền sở hữu của chúng ta, còn những người khác không được đụng hay nghĩ tới... Thực ra, nhiều người không phải là Công Giáo, nhưng họ cũng sống tốt, thậm chí còn hơn cả chúng ta nữa. Đôi khi chúng ta là đạo gốc nhưng lại bị loại ra ngoài hoặc cố tình không nhận ra Chúa như Hêrôđê. Thật vậy: "Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài" (Mt 8,11-12).
Tình trạng này thật đúng khi có dịp đi đến những trung tâm hành hương. Nếu quan sát, chúng ta thấy những người lương dân... họ sùng kính Đức Mẹ, các thánh hay các vị tử đạo còn hơn chúng ta. Ngược lại, người Công Giáo thì lại cho rằng, mình là con ruột của Chúa, nên thế nào cũng được ơn, vì vậy không cần phải biểu lộ ra bề ngoài, mà là đạo tại tâm. Nói vậy có thể đúng với quan điểm, cung cách và lựa chọn của một số cá nhân. Tuy nhiên, cũng cần phải xem lại, vì nếu không, đây chỉ là cách ngụy biện, là bình phong che lấp đi bản chất ươn lười của chúng ta.
Khi suy niệm đến đây, chúng ta nhớ lại lời Chúa nói: "Chính các con là ánh sáng cho trần gian" (Mt 5,14). Và nếu đã là ánh sáng thì phải chiếu tỏa ra như Chúa dạy: "Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người ở trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,15-16).
Mỗi người chúng ta cũng chính là những vì sao soi đường dẫn lỗi cho người khác đến với Chúa: "Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời"(Pl 2,15).
Sao của chúng ta hôm nay không phải là sao: "bóng đá"; "ca nhạc"; "đua xe"; "ăn chơi "; "hận thù"..., nhưng chúng ta phải là những "siêu sao", tức là vượt lên trên tất cả những thứ sao bình thường. Phải trở nên "siêu sao" thì mới tỏa sáng cho mọi sao khác, nếu không chúng ta chỉ có thể chiếu sáng cho những "fan" hâm mộ chúng ta mà thôi. Hãy là "siêu sao", của "tình yêu"; "tha thứ"; "hy vọng"; "công bình"; "bác ái" và cuối cùng chính là sao "đạo đức". Thật vậy, Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa ẩn mình. nhưng Ngài muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta , bởi vì "Thiên Chúa là tình yêu"(1Ga 4,18).
Trong cuộc sống thường ngày của mỗi chúng ta, từ lời nói, hành động và việc làm, chúng ta hãy biểu lộ ra cho mọi người thấy chỉ có một động lực là tình yêu, chỉ có một hành động là tình yêu, và cũng chỉ có một mục đích là tình yêu. Xác tín như thế, ấy là vì chúng ta đang thực hiện lời Chúa dạy: "Cứ dấu này mà mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa, đó là chúng ta yêu thương nhau". Tiếp nối lời giáo huấn của Đức Giêsu, thánh Phaolô cũng khuyên nhủ tín hữu ở Philípphê: "Giữa thế hệ sa đoạ này, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2, 15).
Lạy Chúa, Đông Phương vẫn được coi là huyền bí, là nơi có những suy niệm siêu hình và tinh tế. Xin Chúa hãy thánh hóa Đông Phương và đem những người thành tâm thiện chí về với Giáo Hội. Xin cũng cho chúng con biết ý thức ơn cứu độ mà Đức Giêsu đem lại là ơn cứu độ phổ quát, vì thế, mỗi người chúng con phải trở nên sao sáng dẫn đường cho người khác đến với Chúa. Amen.
118. Khát khao và nhạy bén sẽ được gặp Chúa
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Lễ Giáng Sinh đã đem lại cho chúng ta niềm vui mừng khôn xiết, bởi vì qua biến cố Đức Giêsu Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã tự hạ để cho con người được nâng lên, tức là Thiên Chúa đã làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Vì thế, niềm vui của chúng ta chính là được giao hòa, liên đới và ngay cả đụng chạm tới Thiên Chúa qua Người Con Chí Ái của Người, điều mà trước đó không ai dám nghĩ tới.
Tuy nhiên, niềm vui ấy không chỉ dành riêng cho chúng ta, mà là cho hết mọi người, mọi nơi và mọi thời.
Mặc khải này được thể hiện rõ trong phụng vụ lễ Hiển Linh hôm nay.
1. Ơn cứu độ phổ quát
Khi nói đến lễ Hiển Linh, chúng ta hiểu ngay ý nghĩa thần học của nó, đó là lễ Chúa Tỏ Mình. Vì thế, phụng vụ ngày nay hướng chiều về tên gọi Hiển Linh hơn là Ba Vua như trước kia.
Khi Thiên Chúa mặc khải cho các Đạo Sĩ qua ánh sao lạ và dẫn đường đến kính viếng Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa muốn cho mọi người đi vào mối tương quan cứu độ, chứ không chỉ dành riêng cho một nhóm người hay một dân tộc nào, mà là cho muôn dân. Việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ đã phá tan não trạng độc tôn đặc lợi của dân tộc Dothái. Biến cố này cũng loan báo cho mọi người thấy rằng: ơn cứu độ không bị giới hạn bởi chủng tộc, màu da, sắc áo, hay tiếng nói…. Không! Thiên Chúa đã vượt lên trên tất cả, để lòng thương xót và ơn cứu độ của Ngài đến với muôn người.
Khi hiểu Lễ Hiển Linh là Lễ Chúa Tỏ Mình ra cho dân ngoại, sẽ giúp cho chúng ta hiểu rằng: tất cả những ai khao khát và sẵn sàng mở rộng tâm hồn để đón nhận Tin Mừng cứu độ, thì họ cũng được nên đồng thừa tự, cùng một thân thể và cùng thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô (x. Ep 3,6).
Chính sự khao khát ơn cứu độ đến da riết, nên khi Ánh Sao của Thiên Chúa xuất hiện trên bầu trời, các nhà Đạo Sĩ ngày đêm miệt mài nghiên cứu và đã tìm ra chân lý, đó là sự xuất hiện của Vị Vua người Israel mới sinh. Khi đã xác quyết như vậy, các ngài đã để lại sau lưng danh vọng, quyền bính, giàu sang và đã lên đường với tinh thần hy sinh…, để mong cho được gặp Hài Nhi Giêsu.
Như vậy, ta có thể nhận định: Ánh Sao của Thiên Chúa đã có một chỗ đứng đặc biệt trong tâm hồn của các Đạo Sĩ. Nói cách khác, Ánh Sao của Chúa đã tương hợp được với tâm hồn của các ngài. Vì thế, các ngài đã không ngần ngại lên đường để diện kiến Đấng là nguồn Ánh Sáng, là Chúa các chúa, Vua các vua.
Sự lựa chọn này đã đi ngược hoàn toàn với lối sống và lựa chọn của vua Hêrôđê.
Lẽ ra vua Hêrôđê phải là người am hiểu và mau mắn đón nhận Tin Mừng cứu độ này trước hết, bởi vì một phần do trách nhiệm, một phần do khoảng cách địa lý quá gần gũi, hơn nữa, ông là người Dothái, nên những điều đã nói về Đức Giêsu được tiên báo trong Kinh Thánh, ông cũng nắm trong lòng bàn tay!
Tuy nhiên, khác với các Đạo Sĩ, Hêrôđê đã khước từ Ánh Sáng, chối bỏ Ánh Sáng và chuộng cho mình bóng tối của sự ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ…. Vì thế, thật đúng với lời nhận định của thánh Gioan trong Tin Mừng thứ 4, ngài viết: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Quả thật, từ vua Hêrôđê đến các vị lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, không phải họ không biết Đức Giêsu hay không khao khát kiếm tìm Ngài. Tuy nhiên, động lực và mục đích của họ hoàn toàn khác nhau. Điều này đã thấy rõ trong Kinh Thánh!
Còn chúng ta ngày hôm nay đi tìm Chúa như thế nào?
2. Chúng ta đi tìm Chúa với mục đích gì?
Có lẽ trong cộng đoàn đang hiện diện nơi đây, không ai lại không một lần hay có khi rất rất nhều lần lên đường đi tìm Chúa! Tuy nhiên, cũng biết bao lần chúng ta đi tìm mà không gặp, gõ mà không thấy, nên chẳng lạ gì khi vẫn còn đó biết bao nhiêu người cứ “lơ lơ lửng lửng”; “chân không đạp đất, đầu không đội trời…!”.
Tại sao vậy? Thưa đơn giản, đó là chúng ta đi tìm Chúa theo kiểu gặp chăng hay chớ, gặp cũng được, không gặp cũng chẳng sao, tìm cho có, tìm theo phong trào hay hiệu ứng đám đông.
Hoặc đôi khi chúng ta đi tìm Chúa với một tâm hồn ngổn ngang, đủ mọi thứ, nào là: ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo và thực dụng…. Vì thế, việc không gặp được Chúa là chuyện bình thường, bởi lẽ Người không ở những nơi đó.
Chúng ta cũng có thể đã đi tìm Chúa với một tâm hồn trống rỗng, hoang vu, không định hướng và cũng chẳng ý thức. Vì thế, những dấu chỉ và biến cố vẫn thường xảy ra, nhưng nó đến rồi lại đi mà chẳng hề đọng lại nơi tâm hồn chúng ta là mấy nếu không muốn nói như “nước đổ đầu vịt” hay “nước đổ lá khoai!”. Vì thế, chúng ta đã bỏ lỡ biết bao cơ hội yêu thương mà Thiên Chúa vẫn hằng ngày dành cho ta.
Như vậy, muốn gặp được Chúa, chúng ta phải có tâm tình như ba nhà Đạo Sĩ, đó là:
Trước tiên, nhạy bén với các dấu chỉ và cần có một đức tin mạnh mẽ khi đã khám phá ra ý định của Thiên Chúa và mau mắn thi hành.
Thứ đến: cần có một tâm hồn khao khát cháy bỏng để mong sao cho được gặp Chúa. Phải chấp nhận một cuộc lên đường và sẵn sàng để lại biết bao kế hoạch, dự phóng…, chấp nhận hy sinh và khó khăn.
Cuối cùng, đến với Thiên Chúa bằng một tâm hồn khiêm nhường như các Đạo Sĩ. Các ngài lên đường để đi tìm Hài Nhi mới sinh, gặp được rồi, họ đã phủ phục tôn thờ trong sự khiêm tốn cũng như thể hiện lòng mến qua việc dâng tiến Hài Nhi những báu vật.
Trên đây chính là những con đường tâm linh của các Đạo Sĩ được hòa quyện vào với con đường vật lý trên hành trình đi tìm Chúa. Thấy được sự khao khát và mong mỏi ơn cứu độ, nên Thiên Chúa đã ân thưởng các ngài và đã cho các ngài được toại nguyện.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Bài học được rút ra từ sứ điệp Lời Chúa hôm nay rất phong phú. Tuy nhiên, hình ảnh ngôi sao lạ dẫn đường đóng vai trò rất quan trọng trong hành trình đi tìm Chúa của các Đạo Sĩ. Nhờ ánh sao dẫn lối soi đường mà các Đạo Sĩ đã gặp được Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ.
Vì thế, thiết nghĩ hơn bao giờ hết, mỗi người chúng ta cũng hãy trở thành ánh sao soi đường cho người khác đến gặp Thiên Chúa để họ cũng được cứu độ.
Thật vậy:
Nếu là vợ chồng, chúng ta được mời gọi trở nên ánh sáng của sự thủy chung, yêu thương, để đẩy lui bóng tối của sự thất tín và bội ước quên thề.
Nếu là cha mẹ, chúng ta được mời gọi trở thành ánh sao gương mẫu, trách nhiệm trong việc giáo dục nhân bản cũng như đời sống đạo đức, thiêng liêng, để đẩy lùi bóng đêm của sự vô trách nhiệm, và gương mù gương xấu.
Nếu là con cái, chúng ta được mời gọi trở nên ánh sao của sự vâng phục, chu toàn bổn phận với gia đình, bố mẹ và người trên…, để đẩy lùi bóng đêm của sự lêu lổng, ăn chơi, trác táng.
Với hàng xóm láng giềng, chúng ta được mời gọi trở thành ánh sao của sự liên đới, cảm thông, bác ái và yêu thương, để đẩy lui bóng đêm của sự dửng dưng, vô cảm.
Như vậy, một khi mọi người trong gia đình đều ý thức về đời sống chứng tá qua việc nêu gương sáng cho những người xung quanh, thì chắc chắn gia đình của chúng ta sẽ trở nên như một ánh sao lạ, qua đó, người khác sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa. Và một cách gián tiếp, chúng ta cũng sẽ trở thành ánh sao soi sáng và dẫn đưa nhiều người khác về với Chúa ngang qua đời sống đạo hạnh của mỗi người.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay, Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ để mặc khải ơn cứu độ cho muôn dân. Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương các Đạo Sĩ, đó là luôn nhạy bén với ơn Chúa và sẵn sàng từ bỏ mọi sự để lên đường tìm gặp Chúa. Amen.
119. Ơn cứu độ cho muôn dân - Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy có nhiều lần Đức Giêsu nói về mạc khải. Tức là Thiên Chúa dùng nhiều thể nhiều cách để tỏ lộ cho con người biết về chính Ngài.
Nói cách khác, Thiên Chúa không tự mạc khải mình ra cho nhân loại, thì con người có cố gắng thế nào cũng không thể biết gì về Ngài được!
Hôm nay, Giáo Hội long trọng mừng lễ Hiển Linh, lễ này, trước kia gọi là lễ Ba Vua.
Lễ Hiển Linh mang một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người, và tỏ mình ra cho nhân loại qua ba nhà Đạo Sĩ dưới một “ngôi sao lạ”.
1. Ý nghĩa “ngôi sao lạ”
Với người Á Đông, theo quan niệm từ ngàn xưa, mỗi khi xuất hiện một ngôi sao lạ trên bầu trời, thì dưới trần, một nhân vật sẽ được chiếu mạng. Đây cũng là lý do khởi điểm của môn chiêm tinh học thời bấy giờ.
Ba nhà thông thái mà Tin Mừng hôm nay nhắc tới, các ngài là những nhà chiêm tinh và thiên văn học, vì thế, công việc chính yếu của các ngài là nghiên cứu về những dấu lạ trên bầu trời bằng kiến thức khoa học và kinh nghiệm.
Khi thấy điềm lạ xuất hiện trên không trung qua vì sao lạ, với khả năng chuyên môn và ơn trên soi sáng, các Đạo Sĩ biết rõ ngôi sao lạ ấy là dấu hiệu loan báo về Đấng Cứu Thế đã giáng trần, vì thế, Đấng mà muôn dân mong đợi cũng là Đấng mà các Đạo Sĩ đang khao khát đợi trông, nên các ngài đã lên đường để đi tìm.
Khi đến Belem, các ngài đã tiến vào triều đình nơi vua Hêrôđê trị vì và mang hai câu hỏi để đệ trình lên vị vua sở tại: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người" (Mt 2,2).
Khi hỏi vua Hêrôđê như vậy, các ngài đã chứng minh sự mạc khải của Thiên Chúa cho mình và thể hiện niềm xác tín mạnh mẽ vào Đấng Cứu Thế, nay đã đến và ở giữa nhân loại, quả đúng với lời tiên báo: “Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17).
Chính sự mong mỏi, khao khát và niềm tin của các Đạo Sĩ đặt nơi Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ, thế nên, dù đường xa dặm thẳm, dù mệt nhọc khó khăn, phải băng rừng vượt biển, trèo đèo lội suối, dãi nắng dầm mưa, lặn lội đêm ngày, nhưng các ngài đã không quản ngại để cùng nhau đi tìm cho thấy “Đấng Mêsia xuất thân từ dòng dõi vua Đavít” để phủ phục tôn thờ và dâng tặng những kỷ vật quý giá gồm vàng, nhũ hương và mộc dược.
Qua việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ hôm nay, chúng ta nhận thấy: lễ Hiển Linh mở ra cho dân ngoại một chân trời mới với biết bao hy vọng! Điều mà dân Dothái từ xưa đến nay luôn nghĩ chỉ có mình mới được cứu độ, thì với sự tỏ mình ra của Đức Giêsu cho các nhà chiêm tinh chứng minh cho nhân loại thấy ơn cứu độ không thể bị đóng khung cho một quốc gia, một dân tộc, hay một nhóm người nào, mà là cho hết mọi người, mọi nơi và mọi thời, để “... tất cả mọi người đều được chia sẻ cùng một quyền thừa kế, họ trở nên một phần của cùng một thân thể”.
2. Sứ điệp Lời Chúa
Mừng lễ Hiển Linh hôm nay, sứ điệp Lời Chúa gợi mở cho chúng ta thấy:
Nếu các đạo sĩ Đông Phương đã nhờ ngôi sao lạ dẫn đường để đến Belem và gặp được Hài Nhi Giêsu, thì mỗi người chúng ta khi đã lãnh nhận ánh sáng đến từ Thiên Chúa, qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng soi đường cho người khác đến với Chúa như lời dạy của Đức Giêsu: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14); hay như lời nhắc nhở của thánh Phaolô: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15).
Chúa không bao giờ chấp nhận chúng ta ngồi ù lỳ trong bóng tối và nguyền rủa bóng đêm! Không! Bởi vì: “Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,1516). Ánh sáng mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta chiếu tỏa chính là đời sống bác ái, yêu thương và liên đới; sống công bình và làm chứng cho sự thật...
Ngày hôm nay, trong đời sống đạo, nhiều khi thay vì chiếu sáng, chúng ta lại ưa chuộng bóng đêm khi mang trong mình sự ích kỷ như Hêrôđê! Sợ mất quyền, mất chức, sợ mất miếng cơm manh áo, hay sợ liên lụy, phiền hà cách này, cách khác, mà không dám nhìn nhận sự thật hay làm chứng và sống cho chân lý!
Mặt khác, sự kiêu ngạo, hóng hách và tự tôn khi cho rằng mình mới xứng đáng được Chúa thương bởi vì mình xuất thân từ một gia đình đạo hạnh, nề nếp, lễ giáo gia phong... còn những kẻ đã vướng vào vòng lao lý của tội lỗi một thời, hay không cùng niềm tin với mình thì không bao giờ được Thiên Chúa đoái thương và cứu độ! Tuy nhiên, việc Thiên Chúa tỏ mình cho các Đạo Sĩ là những người dân ngoại hôm nay sẽ cật vấn lương tâm của chúng ta nếu đã có lần chúng ta an tâm tự tại để yên bề như những người Pharisêu, Luật Sĩ, Kinh Sư khi có thẻ kinh trên tay, quanh cổ, nơi gấu áo và tự cho mình được quyền đặc tuyển, thì hôm nay cần phải xem lại, bởi vì ơn cứu độ là một ơn nhưng không mà Thiên Chúa ban cho ai là tùy ý của Ngài. Mặt khác, những khái niệm đạo đức do chính mình đặt ra và mặc cho nó một tiêu chuẩn rồi uốn nắn, gán ghép Thiên Chúa phải theo thiển ý của mình... những thứ ấy không đủ để đảm bảo phần rỗi, vì nó không được xây dựng trên tình yêu và lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con được nhạy bén và nhận biết Chúa qua các dấu chỉ, nhất là qua Lời Chúa. Xin ban cho chúng con có được lòng khiêm tốn và yêu mến Chúa như các Đạo Sĩ. Và, xin ban cho chúng con tránh xa thái độ ích kỷ, tàn ác của vua Hêrôđê khi xưa. Amen.
120. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo bài Tin Mừng, những kẻ gặp được Đức Giêsu là người có đạo hay ngoại đạo? Tại sao? Bạn có rút ra được kết luận gì không?
2. Có Kinh Thánh, giáo huấn của Chúa và Giáo Hội trong tay, điều đó đã đủ để ta gặp Chúa chưa? Còn thiếu điều gì nữa?
3. Trong thời đại này, ta có thể tìm gặp Chúa ở đâu? trong nhà thờ? trong phụng vụ? trong các bí tích? hay nơi những người anh em chung quanh ta? Theo tinh thần của Tin Mừng, thì Chúa muốn ta gặp Ngài ở đâu hơn?
Suy niệm
1. Người ngoại cũng được vào Nước Trời
Ngày xưa, những người theo đạo Do Thái quan niệm chỉ có những người theo đạo Do Thái, nghĩa là có chịu phép cắt bì mới được cứu rỗi. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy quan niệm ấy của họ: “Có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng: "Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ"“ (Cv 15,1). Ngày nay, nhiều người Kitô hữu cũng có quan niệm tương tự như thế. Nhưng tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay mạc khải một sự thật hoàn toàn ngược lại quan niệm ấy.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy chính những người Do Thái – mặc dù biết Đấng Cứu Thế sinh ra tại đâu – lại không thèm tìm kiếm Đức Giêsu mới sinh ra. Những người tìm kiếm Ngài và đã thấy Ngài, thờ lạy Ngài và dâng tặng vật cho Ngài lại là dân ngoại từ tận đâu đâu đến. Kinh Thánh còn cho ta biết người Do Thái chẳng những không tìm kiếm Đức Giêsu, mà còn bách hại Ngài nữa. Vì thế, Nước Trời vốn ưu tiên cho người Do Thái, nhưng vì họ từ chối bằng thái độ lãnh đạm, thậm chí chống đối, nên đã được đem đến cho dân ngoại: “Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại” (Cv 13,46). Và lịch sử cho thấy dân ngoại vô số người đã vào Nước Trời – mà dấu chỉ là Giáo Hội – đang khi người Do Thái lại đứng ở ngoài. Thật đúng với câu Đức Giêsu nói: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8,11-12). Đức Giêsu cũng đã dùng nhiều dụ ngôn để nói lên sự thật này: xem Mt 21,28-32 (Hai người con kẻ nói vâng người nói không), Mt 21,33-46 (Những thợ vườn nho sát nhân), Mt 22,1-14 (Tiệc cưới).
2. Bài học cho người Kitô hữu hôm nay
a) Có Kinh Thánh và giáo lý trong tay… không đủ!
Điều trớ trêu trong bài Tin Mừng hôm nay là người Do Thái – đặc biệt những tư tế và luật sĩ – có Kinh Thánh trong tay, nên họ biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra ở đâu, và lúc nào họ cũng tỏ ra mong chờ Đấng ấy đến. Thế nhưng những người gặp được đấng Cứu Thế – các đạo sĩ và mục đồng – lại là những kẻ chẳng biết gì về Kinh Thánh. Điều ấy chẳng làm cho chúng ta suy nghĩ sao?
Người Kitô hữu hôm nay có đủ mọi phương tiện để được cứu rỗi: Kinh Thánh (Cựu và Tân Ước), giáo lý, giáo huấn Giáo Hội (các văn kiện Tòa Thánh), các sách thần học, tu đức, luân lý, rồi các bí tích, các giờ phụng vụ… Nhưng hãy coi chừng kẻo lịch sử lại lập lại “y trang” như cách đây hơn 2000 năm. Vì bài Tin Mừng cho thấy: để gặp được Đấng Cứu Thế, có Kinh Thánh trong tay không đủ, mà còn phải nhạy bén để biết thời điềm, đồng thời thật sự lên đường tìm kiếm Ngài. Người Do Thái – cụ thể là các tư tế và luật sĩ – có nhiều điều kiện để gặp Ngài hơn các đạo sĩ (có Kinh Thánh, ở gần nơi Ngài sinh ra, được các đạo sĩ báo về ngôi sao của Ngài), nhưng đã không lên đường tìm kiếm Ngài. Họ muốn yên thân với những tập tục đạo đức của họ, với cách giữ đạo cổ truyền của họ, và họ nghĩ rằng Đấng Cứu Thế sẽ chủ động đến để gặp họ, đem sự giải phóng đến cho họ. Nhưng sự thật đã xảy ra không phải như vậy.
b) Điều cốt yếu là tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và tha nhân
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi người Kitô hữu xét lại xem: cách sống đạo của chúng ta có giúp chúng ta đến gặp Chúa hay không, nghĩa là có thể đem lại ơn cứu độ cho chúng ta hay không. Chúng ta đừng an tâm tưởng rằng cứ giữ những tập tục đạo đức truyền thống cho tốt là bảo đảm vào được Nước Trời. Như thế không đủ! Điều cốt yếu để vào được Nước Trời không chỉ là tin vào Đức Giêsu mà còn phải thể hiện niềm tin ấy bằng việc sống theo lời Ngài: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13: 34). Nghĩa là chúng ta phải chứng tỏ được tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mà tình yêu đối với Thiên Chúa lại được thể hiện qua tình yêu đối với tha nhân: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
c) Tình yêu phải được thể hiện thành hành động thật sự
Giấy thông hành để vào Nước Trời chính là tình yêu, mà phải là tình yêu đích thực. Không ai thiếu tình yêu mà vào Nước Trời được, vì Nước Trời là Nước của Tình Yêu. Tình yêu đích thực tự bản chất là phải được thể hiện thành hành động. Nếu “đức tin không có hành động thì là đức tin chết” (Gc 2,17), thì cũng vậy, tình yêu không có hành động là tình yêu giả hiệu. Với tình yêu giả hiệu, chúng ta không thể vào Nước Trời được.
Nhưng làm sao ta dám nói là ta có tình yêu đích thực đối với anh em mình khi họ lâm nạn mà ta lại khoanh tay đứng nhìn? Làm sao tình yêu của ta là đích thực được khi ta thấy rõ ràng anh em mình đang chịu bất công mà ta lại không chịu lên tiếng hay can thiệp, nhất là khi tiếng nói của ta có thể rất hữu hiệu? Nếu ta thấy anh em mình chịu bất công tỏ tường mà vì muốn yên thân ta lại làm chứng với mọi người rằng đó không phải là bất công, thì tình yêu của ta là chân thực sao được? Nếu cách hành động của ta là như thế, thì dù ta có tuân thủ giữ những tập tục truyền thống trong tôn giáo một cách hoàn hảo, không chê vào đâu được, chúng ta vẫn luôn luôn ở ngoài Nước Trời.
d) Cần cảnh giác với thứ đạo đức hương nguyện, thiếu việc làm
Tệ hơn nữa, là khi chính chúng ta đã không chịu thể hiện tình yêu, mà lại cổ võ một thứ đạo đức không việc làm, luôn luôn đề cao việc đọc kinh cầu nguyện, dâng thánh lễ… mà không hề nhấn mạnh bổn phận phải dấn thân cho anh em, phải quan tâm mưu cầu hạnh phúc cho những người chung quanh, biến cải xã hội nên công bằng và tốt đẹp hơn, thì phải chăng chúng ta đang tiếp tay cho kẻ ác ru ngủ quần chúng, làm tê liệt sức đấu tranh cho công bằng xã hội của họ? Phải chăng chúng ta đang biến tôn giáo của chúng ta thành “thuốc phiện” thật sự? Chúng ta quên rằng “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành” (Mt 23,23). Và có thể chúng ta miệng thì nói về Nước Trời, nhưng thật sự ta lại dẫn quần chúng đến một nơi khác vì những giáo huấn của ta khác hẳn với tinh thần Tin Mừng? Đức Giêsu nói: “Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người” (Mt 23,15), liệu câu này có đúng với ta chăng? Vì nhiều khi cứ để họ ngoại đạo, họ lại quan tâm đến việc thể hiện tình yêu với tha nhân hơn khi họ vào đạo? Đến khi vào đạo, họ lại nghe lời ta chỉ biết quan tâm tới những tập tục đạo đức cổ truyền?
Trái lại, những người không có Kinh Thánh trong tay, không có giáo lý hay giáo huấn của Giáo Hội, không có bí tích, nhưng họ lại có tình yêu đích thực, tức có giấy thông hành để vào Nước Trời. Rất có thể họ lại vào Nước Trời trước chúng ta, là đối tượng ưu tiên của Nước Trời, là những kẻ lúc nào cũng nói về Nước Trời mà không hành động cho Nước Trời! Thánh Phao-lô nói: “Người ta được Thiên Chúa coi là công chính, không phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật” (Rm 2,13), và “nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao” (Rm 2,26). Bài Tin Mừng hôm nay và nhiều dụ ngôn của Đức Giêsu cho chúng ta thấy viễn cảnh ấy! Và đó cũng là một lời cảnh cáo chúng ta!
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi chúng con làm chuyện hết sức khờ dại. Chúng con luôn luôn đề cao đạo của mình trước mặt mọi người, nhưng chính chúng con lại chẳng sống tinh thần đạo ấy. Đang khi có nhiều kẻ ngoại giáo lại thật sự sống được tinh thần ấy. Việc đề cao tôn giáo của chúng con, tự nó là một điều rất tốt, nhưng nhiều khi lại xuất phát từ một khuynh hướng kiêu ngạo tập thể chứ không phải là tình yêu. Vì nếu nó xuất phát từ tình yêu đích thực, thì chúng con đã phải thể hiện tình yêu ấy bằng sự dấn thân đích thực cho những anh em đang chịu khốn khổ của mình. Sự im lặng trước bất công, sự thụ động trước cảnh khốn cùng của đồng loại chứng tỏ chúng con chưa có tình yêu đích thực. Vì thế, việc đề cao tôn giáo của chúng con chỉ là một hình thức kiêu căng tập thể, là điều Cha rất ghét. Xin cho chúng con biết sống đích thực tinh thần đạo của mình trước khi đề cao nó, để sự đề cao ấy có giá trị đích thực làm sáng danh Cha. Amen.
121. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Các thượng tế và kinh sư Do Thái biết rõ Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu lại không đến gặp Ngài, còn các nhà chiêm tinh ở mãi tận đâu đâu, phải nhờ các thượng tế và kinh sư Do Thái chỉ cho, thì lại gặp được Ngài. Tại sao lại có chuyện mỉa mai và nghịch lý như vậy?
2. Rút kinh nghiệm từ bài Tin Mừng thì để gặp được Thiên Chúa, điều quan trọng nhất là gì? Cần phải có tôn giáo chân chính, hay phải có thiện chí và quyết tâm đi tìm Ngài? Cái nào là yếu tố quyết định để gặp được Ngài?
3. Động lực gì khiến vua Hêrôđê muốn giết hài nhi Giêsu, cho dù biết hài nhi ấy là người của Thiên Chúa? Tuy Kinh Thánh không đề cập đến, nhưng ta thử đoán xem các thượng tế và kinh sư Do Thái – với bản chất của họ như ta đã thấy trong các Tin Mừng – đã có thái độ nào trước tội ác của Hêrôđê: can đảm ngăn cản nhà vua hay mặc kệ Đấng Cứu Thế mà họ mong chờ ra sao thì ra? Suy tư gợi ý: Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ba hạng người khác nhau với ba thái độ khác nhau đối với Đức Giêsu mới sinh ra. Trước hết là các nhà chiêm tinh đến từ phương Đông, sau là các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem, và cuối cùng là vua Hêrôđê.
Suy Niệm
1. Thái độ của các nhà chiêm tinh đông phương
Các nhà chiêm tinh được nói đến như những người thuộc dân ngoại, không phải là người Do Thái giáo. Họ đại diện cho các dân tộc, các quốc gia trên thế giới đến thờ lạy Đức Giêsu, Đấng trong tương lai và vĩnh cửu sẽ là vua của toàn thể thế giới và vũ trụ. Thái độ của các nhà chiêm tinh là thái độ của những người tìm kiếm, khắc khoải đối với Thiên Chúa, với tha nhân, với chân lý, công lý và tình thương. Và chính vì họ quyết tâm lên đường và ra công tìm kiếm nên họ đã gặp, đúng như Đức Giêsu nói: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7,8). Khi ngôi sao biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ không nản chí bỏ cuộc, vẫn tiếp tục tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng tìm kiếm: “Các ngươi tìm Ta thì các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta” (Gr 29,13); “Kẻ yêu Ta sẽ được Ta yêu lại, người tìm Ta ắt sẽ gặp Ta” (Cn 8,17).
2. Thái độ của các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem
Các thượng tế và kinh sư Do Thái là những bậc thông thái, hiểu biết Kinh Thánh, thông thạo các lẽ đạo của tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập. Vì thế, họ đại diện cho những người có chính đạo. Họ là những người có Kinh Thánh trong tay, nắm vững những kiến thức thần học, họ rao giảng và bảo vệ chân lý của Thiên Chúa. Nhưng khi Đức Giêsu đến, những hiểu biết rộng rãi và sâu xa của họ chẳng giúp ích gì cho họ trong việc tìm gặp Ngài. Họ biết rất rõ Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem, vì Kinh Thánh cho biết như thế. Nhưng họ biết để mà biết, để mà dạy người khác, để mà tự hào rằng mình hiểu biết, chứ không phải biết để áp dụng vào đời sống, để đem ra thực hành. Vì thế, cái biết của họ trở nên vô ích cho họ.
Cũng vậy, rất nhiều Kitô hữu hiểu biết rất sâu xa về Thiên Chúa, về chân lý, nhưng họ biết chỉ để biết, để khoe, để dạy người khác, để rao giảng, chứ không phải để áp dụng sự hiểu biết ấy vào đời sống thực tế. Vì thế, sự hiểu biết ấy không đem lại sự cứu rỗi cho họ. Đức Giêsu nói: “Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá… Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát” (Mt 7,24.26). “Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21); “Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em” (Ga 13,17); “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28). Dụ ngôn người gieo giống (Lc 8,11-15) cho thấy những người nhận được Lời Chúa mà không đem áp dụng vào đời sống thực tế cũng giống như những mảnh đất “vệ đường”, đầy “đá sỏi”, đầy “bụi gai”, khiến Lời Chúa không phát triển được. Còn những ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống như mảnh đất mầu mỡ khiến Lời Chúa sinh hoa kết trái.
3. Bài học cho những ai đang theo chính đạo
Câu chuyện về hai mẫu người trên cho chúng ta bài học quí giá. Những người tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa cùng với chân lý, công lý và tình thương trong tay, đồng thời ngủ say và an tâm trong sự lầm tưởng ấy, họ sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài và thực thi được những giá trị kia. Vì Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương là những thực tại sống động, không phải thứ đồ vật tĩnh lặng có thể nắm được trong tay, nên chỉ có thể tìm kiếm và gặp được trong từng thời điểm, chứ không thể nắm bắt một lần cho mãi mãi. Cho nên muốn gặp Thiên Chúa, muốn sống trong chân lý, công lý và tình thương, ta phải không ngừng lên đường tìm kiếm, ra sức thực hiện trong từng thời điểm. Ngừng tìm kiếm, ngừng nỗ lực, thì những thực tại cần thiết ấy sẽ vuột khỏi ta ngay, và sự ngừng nghỉ ấy sẽ tạo cho ta một ảo tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương ở trong tay. Trong khi ấy, thực tế là ta đang xa rời Thiên Chúa và thường hành động ngược lại với chân lý, công lý và tình thương. Thật vậy, những ai dù đang theo chính đạo, tự hào tự mãn về chính đạo của mình, tưởng mình đang nắm được chân lý trong tay, nhưng trong thực tế lại không sống đạo của mình, lại còn khinh chê người khác, họ sẽ trở thành những kẻ tự lừa dối chính mình: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1,22). Những ai chỉ biết rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính bản thân mình lại không thèm áp dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh Phao-lô: “Tôi phải bắt thân thể tôi chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại bỏ” (1Cr 9,27).
Chuyện các nhà chiêm tinh – mà truyền thống Giáo Hội coi là đại diện cho người ngoại và các dân tộc – cho thấy: dù là người ngoại giáo hay không có tôn giáo chân chính, nhưng nếu người ta thật sự nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì họ sẽ gặp được Ngài, nếu thật sự muốn thực thi chân lý, công lý và tình thương thì họ sẽ thực hiện được. Còn những người có tôn giáo chân chính, nhưng lại thờ ơ với việc tìm kiếm Thiên Chúa, với việc thực thi chân lý, công lý và tình thương, người ấy sẽ chẳng gặp được Ngài, và trong người ấy không có chân lý, công lý và tình thương. Tôn giáo chân chính được ví như một chiếc xe hơi tốt, có thể giúp ta đi đến nơi cần đến một cách an toàn, nhanh chóng và bảo đảm. Còn các tôn giáo khác như những loại xe kém hơn. Nhưng có đi đến nơi hay không, không tùy thuộc vào loại xe cho bằng ý chí quyết tâm muốn đi đến nơi. Người không có xe, phải đi bộ mà quyết tâm đi thì chắc chắn sẽ tới nơi, còn có xe tốt và bảo đảm đến đâu, nhưng chính bản thân lại không quyết tâm đi, thì không thể đến nơi cần đến được. Thiên Chúa vẫn luôn luôn tôn trọng đồng thời đòi hỏi sự tự do và quyết định của con người.
4. Thái độ của vua Hêrôđê, nhà cầm quyền
Nói tới Hêrôđê, ta thấy ông có một nỗi sợ hãi khi nghe các nhà chiêm tinh cho biết: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh”. Ông sợ hài nhi mới sinh ấy sẽ lật đổ vương quyền của ông. Và dù biết hài nhi ấy đến từ Thiên Chúa, ông vẫn quyết tâm trừ khử. Như thế, tính tham quyền cố vị – ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội – có thể làm người ta mất hết lương tri, sẵn sàng gây nên tội ác, hay ít ra là im lặng để mặc sự ác phát triển. Hêrôđê quyết tâm tìm giết con trẻ Giêsu bằng cách “sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống” (Mt 2,16). Tin Mừng không nói đến thái độ của các thượng tế và kinh sư trước tội ác của nhà cầm quyền. Như đã nói trên, sự hiểu biết của họ về việc sinh ra của Đấng Cứu Thế chỉ là thứ hiểu biết để mà hiểu biết, để mà rao giảng, chứ không hề làm cho họ trở nên lo lắng cho số phận của Đấng Cứu Thế hài nhi. Đối với họ, sinh mạng của Đấng Cứu Thế chẳng là gì cả, chuyện quan trọng đối với họ là sự an toàn bản thân và giữ cho vững những “chiếc ghế” của họ trong tôn giáo Do Thái. Theo họ, lên tiếng để làm gì cho liên lụy đến bản thân, cho mất quan hệ tốt đẹp với nhà cầm quyền? Im lặng cho mọi sự qua đi, bất chấp tốt xấu, đó không phải là thái độ của những ngôn sứ hay mục tử đích thật. Nếu họ sẵn sàng “bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến” (Ga 10,12) thì họ cũng sẵn sàng im lặng bỏ mặc Đấng Cứu Thế mà họ rao giảng ra sao thì ra, dẫu có nguy hiểm đến tính mạng.
Cầu nguyện
Lạy Cha, con tưởng cứ theo chính đạo do Cha sáng lập là bảo đảm được cứu rỗi. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, kẻ ngoại giáo quyết tâm tìm kiếm Cha – là chân lý, công lý và tình thương – thì lại bảo đảm gặp được Cha hơn là người có chính đạo mà lãnh đạm với Cha. Xin Cha đừng để con say ngủ trong chính đạo mà thờ ơ với những gì là chân lý, công lý và tình thương. Amen.
122. Truyền giáo
(Suy niệm của Lm Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Trước đây chúng ta quen gọi lễ hôm nay là lễ Ba Vua. Các ông ấy có phải là vua không? Không phải, họ chỉ là những nhà quý phái thuộc về hoàng tộc, vì nếu họ là vua thì không lý gì mà vua Hê-rô-đê lại không biết đến xuất xứ của họ. Đàng khác, nếu họ là vua thì không thể ra đi âm thầm như vậy, mà phải có tiền hô hậu hét với nhiều người hộ tống và với lễ nghi ngoại giao đàng hoàng. Một lý do nữa chứng tỏ họ không phải là vua, đó là căn cứ vào nghề nghiệp của họ, là nghề thiên văn. Ở vào thời đó chỉ có các nhà quý tộc mới ưa thích và chuyên về thiên văn. Tóm lại, họ chỉ là các đạo sĩ, học rộng, hiểu biết nhiều về chiêm tinh, nên có thể gọi họ là những nhà chiêm tinh như thuật lại trong Tin Mừng.
Một điều nữa, có ba ông hay nhiều hơn? Tại Xy-ri và Ác-mê-ni, người ta nói có 12 ông, chúng ta thường kể có ba ông, hoặc là căn cứ vào ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, hoặc là vì lễ vật tiến dâng có ba thứ là vàng, mộc dược và nhũ hương. Nhưng theo chuyện kể, họ đã gây ảnh hưởng xôn xao cho cả thành Giê-ru-sa-lem, thì có lẽ đông hơn số ba. Tin Mừng chỉ nói “có mấy nhà chiêm tinh”, tức là ở số nhiều, chứ không nói rõ bao nhiêu. Đến thế kỷ IX, người ta coi như quả quyết có ba ông và đặt tên cho một ông là Gát-pa, đại diện cho dân da vàng, một ông là Ban-tha-sa, đại diện cho dân da đen, một ông là Men-ki-o, đại diện cho dân da trắng. Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, có ba ông hay nhiều hơn, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa, khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại, từ xa xôi, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu cách gọi Ba Vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay phụng vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Thực vậy, Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra, cụ thể ở đây Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài Do Thái. Đúng vậy, Thiên Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Do Thái, Ngài còn tỏ mình cho các dân tộc khác, vì Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai. Đối với các nhà chiêm tinh phương Đông là đại diện cho dân ngoại, Ngài đã dùng một ngôi sao lạ để mời họ lên đường đi gặp Đấng Cứu Độ. Họ đã sẵn sàng mang theo lễ vật lên đường theo ánh sao để đi tìm Chúa, không quản gian nan vất vả, không ngại đường xa vô định, không sợ phải hy sinh công sức, thời giờ và tiền bạc, không nản chí thất vọng khi gặp trở ngại dọc đường. Chính vì đầy thiện chí như vậy nên cuối cùng họ đã gặp được Chúa.
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài bằng nhiều cách khác nhau, Ngài vẫn làm sáng lên muôn ánh sao, không phải ở trên trời cao, nhưng ở trong lòng người. Ánh sao đó có thể là một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt, khát vọng sự thật, tự do, ấm no, hạnh phúc...Ánh sao đưa con người lên đường tìm kiếm, nếu có thiện chí họ sẽ gặp được Chúa.
Đối với chúng ta cũng vậy, dù chúng ta đã gặp Chúa, dù chúng ta đã được rửa tội, dù chúng ta đã gia nhập Giáo hội, chúng ta vẫn còn phải đi tìm Chúa, cuộc đời chúng ta luôn là một cuộc lên đường theo ánh sao, và Chúa vẫn luôn gửi tới chúng ta nhiều dấu chỉ như những ánh sao để chỉ dẫn cho chúng ta. Ánh sao đó có thể là những biến cố vui buồn của cuộc sống, có thể là những người sống quanh chúng ta, có thể là một lời dạy dỗ, nhủ khuyên, có thể là một gương sáng chúng ta được nghe, được thấy. Nhưng muốn nhìn những điều tốt đẹp đó như ánh sao của Chúa, chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn như những thửa đất đã cày bừa dọn sạch gai góc, sỏi đá, sẵn sàng đón nhận hạt giống tốt. Phải biết tìm hiểu ý Chúa nơi mỗi biến cố trong cuộc sống và cố gắng thực hiện những gợi ý Chúa gửi tới.
Đàng khác, chúng ta vừa là người đi tìm kiếm vừa là ánh sao cho người khác đi tìm Chúa. Đúng vậy, mỗi Kitô hữu luôn phải là một ánh sao: lời nói, việc làm, cách xử thế của mỗi người phải nên gương mẫu cho bạn bè, cho người còn xa cách Chúa. Một nụ vười, một ánh mắt, một lời khích lệ, một sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ… là những ánh sao đưa anh em về với Chúa. Như vậy, lễ Hiển Linh cũng nhắc nhở chúng ta về việc truyền giáo.
Xưa kia, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho các nhà chiêm tinh bằng ánh sao lạ, chính nhờ ánh sao ấy các ông đã đi tìm và gặp thấy Chúa Giêsu giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, cũng như Đức Kitô đã mời gọi các môn đệ cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả ấy. Vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi trở thành những ánh sao cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày của mình, để trong sinh hoạt bình thường ấy, người ta có thể gặp được những tín hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh sao của cho đi, của quên mình, của bác ái, của phục vụ… những ánh sao đó có sức tỏa sáng giúp ngưới ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài.
123. Ngôi sao sáng
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Hiển Linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra. Cụ thể ở đây là Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc ngoài Do Thái, qua các đạo sĩ phương Đông mà trước kia chúng ta quen gọi là ba vua. Khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho loài người thì thường Chúa dùng những hình ảnh khả giác, tức là những hình ảnh mà giác quan con người có thể nhận biết được. Chẳng hạn: lửa trong bụi gai đối với ông Mô-sê; cột mây cột lửa đối với dân Do Thái...Có khi Chúa lấy hình người nam như trường hợp với ông Áp-ra-ham, hay chỉ có tiếng nói như trường hợp với Xa-mu-en v.v...
Ở đây Chúa tỏ mình ra cho các đạo sĩ phương Đông xa xôi chưa biết Chúa, Chúa dùng ngôi sao. Một hiện tương phù hợp với khuynh hướng và sự hiểu biết của họ. Người ta đã bàn tán quá nhiều về ngôi sao lạ mà các đạo sĩ phương Đông đã thấy và người ta tìm cách đồng hóa với ngôi sao nọ ngôi sao kia. Có người cho đó là một ngôi sao bình thường, tự nhiên xuất hiện, tạm biến đi, rồi lại xuất hiện, như sao chổi chẳng hạn, mấy chục năm xuất hiện một lần. Ông Kép-lơ, một nhà thiên văn nổi tiếng, sống ở thế kỷ VII, cho rằng: ngôi sao đó là hiện tượng do Mộc Tinh và Thổ Tinh giao nhau ở đường hoàng đạo, chòm Song Ngư. Hiện tượng này ông Kép-lơ tính đã xảy ra vào năm thứ sáu trước công nguyên, vào đúng thời kỳ Chúa Giêsu giáng sinh, và ông quả quyết đó chính là ngôi sao đã dẫn đường cho ba đạo sĩ. Có người lại cho rằng: đây là một loại sao Nô-va, nghĩa là sao bị vỡ ra và cháy sáng trong một khoảng thời gian. Các nhà thiên văn tính ra trên giải ngân hà, một năm có 30 ngôi sao băng như vây...Tất cả những ý kiến trên chỉ là giả thuyết mà thôi, vì không hợp với hoàn cảnh của ngôi sao trong Tin Mừng, bởi vì bất cứ ngôi sao nào trong thiên nhiên cũng không thể phù hợp với ngôi sao trong Tin Mừng. Chỉ có những người không biết Tin Mừng hay không biết thiên văn mới tìm cách giải thích như thế. Không một ngôi sao nào có thể làm được như ngôi sao lạ trong Tin Mừng: xuất hiện, đi trước dẫn đường, vụt biến mất, rồi lại xuất hiện dẫn đường cho các đạo sĩ, và sau cùng dừng lại ngay nơi có Chúa Giêsu trú ngụ.
Ngôi sao này là một dấu hiệu lạ lùng, bất ngờ Chúa dùng để tỏ mình ra cho các đạo sĩ, khiến họ phải lên đường phiêu lưu, tìm một "Đấng nào đó" mà họ đoán rằng phải quan trọng lắm. Với một dấu hiệu không rõ rệt, không chắc chắn, không đầy đủ là ngôi sao lạ, thế mà các đạo sĩ đã nhất định ra đi tìm "vua mới". Đúng là "trên vạn nẻo đường" biết bắt đầu đi về đâu? Thực là "đáy biển mò kim", và thực là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm. Nhưng bất chấp tất cả mọi nguy hiểm, mọi khó khăn, các ông kiên quyết dõi theo ánh sao thực hiện lòng tin của mình. Sau cùng, các ông đã tìm đến nơi. Các ông không gặp thấy một cung điện nguy nga, không gặp thấy một trẻ sơ sinh nằm trong nhung lụa, mà chỉ thấy một hài nhi đơn sơ, bình thường như mọi hài nhi khác. Các ông đi tìm vua Do Thái mà lại chỉ gặp một hài nhi nghèo. Nhưng không vì thế mà các ông thất vọng. Ngược lại, các ông vẫn tin. Và lòng tin đó được biểu lộ cụ thể bằng việc phủ phục xuống một cách khiêm tốn để thờ lạy và dâng lễ vật.
Câu chuyện các đạo sĩ này vẫn luôn luôn hợp thời và có giá trị cho mọi người. Bởi vì cuộc đời của chúng ta ở trần gian luôn phải đi tìm kiếm Chúa và sống vai trò "ngôi sao dẫn lối" cho người khác. Mặc dầu đã được gia nhập cộng đồng Giáo Hội, chúng ta vẫn phải đi tìm kiếm Chúa, tìm kiếm suốt đời, vì chúng ta chưa hoàn toàn nhận được Chúa cho trọn, chúng ta vẫn còn có thể lạc mất và xa lìa Chúa. Chúng ta hãy theo tinh thần thiện chí của các đạo sĩ mà chịu khó tìm hiểu. Chúng ta có thể tìm hiểu Chúa trong tạo vật thiên nhiên, trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời, trong những người sống chung quanh, và ngay trong chính lòng mình. Tất cả đều là dấu chỉ của Chúa. Đời là cuốn Kinh Thánh ấy, mỗi ngày chúng ta viết lên một hàng chữ, mỗi tuần một trang, mỗi tháng một đoạn, mỗi năm một cuốn, và hết đời là chép xong toàn bộ.
Chúng ta vừa là người tìm kiếm vừa là ánh sao soi cho người khác đi tìm kiếm Chúa. Cuộc đời của chúng ta bên kẻ khác chỉ có ý nghĩa khi nào sự hiện diện của chúng ta là một lời mời gọi, dẫn đưa người khác cùng với chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta chỉ sống trọn vẹn ý nghĩa đời con Chúa khi cuộc đời chúng ta là một ánh sao dẫn lối cho anh chị em chúng ta đến với Chúa.
Người ta nói: có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt. Không, không có ai là ngôi sao xấu. Tất cả đều là ngôi sao tốt. Trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng, một vai trò nào đó. Vì thế, không ai được tự ty mặc cảm, chán nản thất vọng. Cũng không ai được tự tôn tự phụ, huênh hoang... Chúng ta hãy sống thực sự là một con người, hơn nữa, thực sự là một người con Chúa.
124. Chúa tỏ mình – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam để nói về việc các nhà chiêm tinh phương Đông tìm đến Bê-lem viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ mặc phẩm phục như các vị đế vương, và xác định là ba người, vì có ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến dâng có ba thứ rõ ràng là vàng, nhũ hương và mộc dược như Tin Mừng thuật lại. Cứ thế, theo truyền thống, Ba Vua trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay bao nhiêu vị, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại từ xa, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu tên gọi Ba Vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất bản gần đây, một linh mục đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: có một người đạo đức kia ước ao được xem thấy Chúa trước khi chết, ngày ngày bà ăn chay, cầu nguyện để ước nguyện này được Chúa nhận lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc mơ, bà được Chúa cho biết sẽ đến thăm bà, suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và trang hoàng nhà cửa để đón rước Chúa, thế nhưng bà chờ mãi mà không thấy Chúa đến.
Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa hỏi: tại sao bà không tiếp đón Ngài? Người đàn bà trả lời bà đã chờ đợi Chúa ở cửa trước. Chúa cho bà biết Chúa đã chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại chờ đợi Chúa ở cửa sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có tiếng Chúa hỏi tại sao bà không đón tiếp Chúa, bởi vì Ngài đến qua các cửa sổ. Suốt ngày hôm sau, người đàn bà hết ra cửa trước lại về cửa sau và nhìn qua các cửa sổ, nhưng bà cũng không hề thấy tăm hơi của Chúa. Đêm đến, bà lại nghe có tiếng nói của Chúa, và lần này Chúa bảo bà hãy tìm Ngài bên giếng sau nhà. Cũng thế, người đàn bà đã chạy ra bờ giếng, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. Không còn đủ kiên nhẫn nữa, bà đã trách Chúa tại sao lại chơi trò cút bắt với bà. Bấy giờ Chúa mới nói: “Nếu con định đón rước Ta ở một nơi nào đó thì mãi mãi sẽ không bao giờ thấy Ta ở đâu cả, thay vì tìm kiếm khắp nơi, con hãy mở mắt tâm hồn và con sẽ thấy Ta”.
Đêm đó, người đàn bà không còn nghe thấy tiếng Chúa nữa, nhưng chung quanh mình, bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc, nhưng chính lúc đó, khi con mắt tâm hồn bà đã được mở rộng, bà đã nhìn thấy Chúa ở khắp mọi nơi. Đúng vậy, chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm hồn mà thôi, nếu tâm hồn chúng ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch, nghĩa là không bị ngăn chặn bởi bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê, ích kỷ, tiền bạc…thì chúng ta có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi người chúng ta gặp gỡ.
Xưa kia Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh bằng ánh sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đã đi tìm và đã gặp được Chúa Giêsu giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, cũng như Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả ấy, vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi trở thành ánh sao cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày của mình, để trong sinh hoạt bình thường ấy, người ta có thể gặp được những tín hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh sao của cho đi, của quên mình, của bác ái, của phục vụ…những ánh sao đó có sức tỏa sáng, giúp người ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài.
125. Suy niệm của Lm. Đaminh Hương Quất
TÔN TRỌNG CHÂN LÝ - LƯƠNG TRI SẼ DẪN TA GẶP ĐẤNG CỨU THẾ
Hiển linh là màu nhiệm Thiên Chúa tỏ bản tính thần linh của Người ra cho mắt phàm tục của loài người được thấy. Từ rất xa xưa (khoảng 525- 520 TCN), ngôn sứ Isaia đã tiên báo (bài đọc 1); Thánh Mátthêu qua bài Tin Mừng đã đề cao dân ngoại nhờ lý trí tự nhiên đã nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế. Thánh Phaolo tóm tắt: màu nhiệm chưa hề được tỏ lộ, thì nay được mạc khải cho Lương dân cũng là người cùng được thừa tự, đồng thừa hưởng Lời Hứa trong Đức Kitô nhờ Tin Mừng (bài đọc 2) [1]
Đấng Cứu thế đã Giáng sinh. Ánh sáng Cứu độ của Thiên Chúa đã chiếu tỏa trên trần gian. Đây là Tin vui chung cho cả loài người. Sau khi báo tin Chúa Giêsu Giáng cho các mục đồng, đại diện cho dân Do Thái, Thiên Chúa liền tỏ mình cho muôn dân qua ngôi sao lạ.
Thánh sử Mátthêu cho biết có ba nhà Đạo sĩ từ phương đông, nhờ dấu chỉ sao lạ trên bầu trời họ nhận ra Đấng Kitô, vua các vua mới chào đời. Họ đã tức tốc mang các tặng phẩm qúy giá đến tận nơi để bái thờ vua Hài nhi Giêsu.
Vâng, chỉ qua dấu hiệu sao lạ các nhà Đạo sĩ nhận ra Đấng cứu thế mới giáng trần và nhìn lễ vật tiến dâng Vương Nhi Giêsu (vàng, mộc dược, nhũ hương) cũng đủ cho thấy các vị đạo sĩ này là những người học cao, hiểu rộng, đặc biệt giỏi về khoa chiêm tinh (nay gọi khoa thiên văn học), có địa vị uy tín, thuộc hàng giầu sang trong xã hội.
Có tiền, có quyền, có trình độ hơn người nhưng các nhà đạo sĩ không hống hách, kiêu căng trái lại họ sống đạo đức, biết dùng tài trí của Chúa ban ấy để tìm sống điều thiện, có lòng khao khát đi tìm Đấng Chí Tôn để tôn thờ. Khoa học chân chính, không mâu thuẫn với tôn giáo. Nhà khoa học thành tâm, khiêm tốn sẽ dẫn đến Đấng Tạo Hóa. Quả thật, phần lớn những nhà khoa học làm nên nền văn minh nhân loại trong quá khứ và hiện đang đều có niềm tin tôn giáo.
Ba nhà Đạo sĩ đại diện cho Lương dân, những người thành tâm thiện chí nhưng chưa biết Đấng cứu thế.
Lương dân chưa có mạc khải của Thiên Chúa qua Kinh Thánh như Dân Chúa thời cũ (Do Thái), Dân Chúa mới (Kitô giáo), song với lý trí tự nhiên lòng thiện tâm (lương tri), kiên trì theo lẽ phải, tức biết tôn trọng chân lý khách quan trong thiên nhiên cũng như trong đời sống xã hội vẫn có thể nhận biết được Thiên Chúa, dẫu còn hạn chế. (x. Rm 1,19-20)[2].
Một Ngôi sao lạ xuất hiện, ai cũng nhìn thấy song không phải ai cũng nhận ra ‘dấu chỉ’ Đấng Cứu Thế Giáng sinh. Ba nhà đạo sĩ nhận ra ngoài kiến thức sâu rộng, họ có một Trái tim, khao khát truy tìm Chân - Thiện - Mỹ, biết tôn trọng và theo chân lý khách quan.
Nói về tôn trọng Sự thật, nhất là Chân lý tôn giáo do Thiên Chúa mạc khải mà chính Chúa Giêsu hiện thân, liên hệ với thực tại thật đáng báo động.
Ở thời hậu hiện đại mà chúng ta đang sống, một trong những căn bệnh nguy hiểm hay vấn nạn chết người, có thể làm băng hoại xã hội đó là lối sống vô cảm, thờ ơ, xem thường chân lý khách quan, phổ quát, nhất là chân lý siêu vượt trên cái tầm thường vật chất, trần thế.
Đấy là lối sống hời hợt, cảm tính, coi mình là vũ trụ là thước đo các giá trị. Cái đúng cái sai, tiêu chuẩn Chân- Thiện- Mỹ không còn theo giá trị khách quan mà hoàn toàn lệ thuộc vào cảm tính tương đối của cá nhân. Cái tôi thích, tôi yêu, cái tôi quan tâm thì là cái đúng- cái tốt- cái đẹp; ngay cả Chân lý tuyệt đối mà Thiên Chúa mạc khải cũng thế.
Chúa Giêsu là Đường- Sự thật- Sự sống, là tiêu chuẩn- thước đo; đồng thời là nền tảng xây dựng nên Hòa bình- Hạnh phúc đích thực đời này và đời sau. Trong lối sống vô cảm, theo cảm tính thì …quên đi nhé (!) Một bộ phim Hàn mình thích, dễ dàng bỏ cả Thánh lễ Chúa Nhật (bổn phận tối thiểu của Kitô hữu đạo đức); bê bối trong bổn phận gia đình…
Đứng trước vấn đề có lập trường rõ ràng, yêu ghét phân minh dù sao vẫn còn hy vọng. Ghét là mặt trái của yêu; Phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa- đời sau thực chất còn quan tâm đến Thiên Chúa, đời sau dù đứng ở mặt tương phản dưới góc độ nào đó vẫn còn hy vọng hơn thái độ không yêu không ghét; dửng dưng, vô cảm theo kiểu ““Tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc” (ca từ bài hát một thời top ten).
Lùi lại lịch sử một chút…
Trong thế kỷ 19- 20, nhân loại chứng kiến tri thức con người phát triển như rầm rộ, đặt con người lag trung tâm vũ trụ, đề cao lý trí, đến độ duy trí, coi khoa học có thể giải quyết tất cả, cả vấn đề Thiên Chúa… Dẫu vậy con người vẫn còn tôn trọng quy luật khách quan trong tự nhiên với khả trí mình; tôn trọng quyền làm người, đề cao dân quyền, tự do. Về tư tưởng, dẫu có ‘triết gia’ tuyên bố ‘Thiên Chúa chết rồi!’, được nhiều người ủng hộ… dù sao vấn đề Thiên Chúa vẫn còn sự quan tâm.
Sang thế kỷ 20, các xu hướng thái quá trên có lẽ đưa đến hệ quả: xuất hiện chủ thuyết biện chứng Duy vật- Vô thần (loại bỏ tôn giáo, coi tôn giáo như thuốc phiệt làm người u mê) kết hợp với đấu tranh bạo lực đã lộng hành, đã lôi kéo rộng khắp trái đất, đã vi phạm nghiêm trọng đến quyền làm người, nếu không muốn nói gây ra nhiều tội ác, bất công… đến độ Nghị Viện Châu âu xếp vào tội ác chống nhân loại.
(Nói thêm: Mặc dù Duy vật- vô thần biện chứng, có người coi là Triết học, song tôi coi đây là một học thuyết lệch lạc, chứ không phải Triết học, bởi Triết học truy tìm sự khôn ngoan, suy tư về sự hiện hữu của thể nhân linh, hướng dẫn con người yêu quý hơn chân- thiện- mỹ, ít là trên bình diện nhân bản).
Như thế, đứng trước vấn đề còn lập trường rõ ràng, yêu ghét phân minh dù sao vẫn còn hy vọng. Ghét là mặt trái của yêu; Phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa- đời sau thực chất còn quan tâm đến Thiên Chúa, đời sau dù đứng ở mặt tương phản. Phủ nhận cũng là mặt trái của sự quan tâm.
Và như thế vẫn còn hy vọng về với chính lộ- chân lý dễ hơn loại vô cảm, dửng dưng, yêu ghét theo cảm tính cá nhân mau qua và hay thay đổi.
Vô thần lý thuyết không đáng ngại bằng vô thần thực tiễn. Không ít Kitô hữu, sống như không có Thiên Chúa.
Vì sống vô cảm, theo cảm tính cá nhân, nhất là thờ ơ với Tin Mừng, về đời sau, về đời sống tinh thần… nên xu hướng chọn lựa cho cuộc sống hiện tại xem ra cũng tầm thường, xoàng xoàng, thiếu lý tưởng cao quý, thiếu bên vững.
Thật đáng buồn, mới rồi Google, trang tìm kiếm nổi tiếng- phổ thông nhất hiện nay, thống kê 10 từ tìm kiếm nhất Việt Nam trong năm 2015 toàn liên quan đến giải trí, như bài hát gì, phim gì (đơn cử bài ‘đâu phải chuyện vừa’; phim ‘cô dấu 8 tuổi’…) trong khi các nước khác trên thế giới, nhất là các nước văn minh người ta chú ý tìm kiếm các đề tài thiết thực với nhân sinh, quyền lợi chính đáng: kinh tế, chính trị- tự do- nhân quyền- dân chủ…
(Nói thêm: cũng trang mạng này thống kê, năm 2009 VN đạt quán quân thế giới về tìm kiếm từ ‘sex’).
Cũng liên quan đến xu hướng sống xem ra ‘chưa chuẩn’ trong xã hội ta, gần ta hơn. Mùa Seagame vừa qua, đội tuyển VN thua trong trận bán kết, bị loại khỏi vòng chung kết. Thắng thua trong thể thao là chuyện bình thường, hết sức bình thường. Ta thấy gì nơi các fan hâm mộ: khóc lóc thảm thiết, nước mắt và nước mắt…
Khóc đội nhà thua cũng chuyện bình thường, chẳng có gì đáng trách nếu không cùng dịp này ngư trường ta bị ‘tàu lạ’ xâm chiếm, Ngư Dân ta bị chúng cướp, đánh đập dã man, thậm chí có cả án mạng (chuyện đã- đang và sẽ còn thường xuyên xảy ra). Đây là những vấn đề lớn đến chủ quyền dân tộc, đến quyền sống con người song lại ít thấy nước mắt quan tâm. Đến độ, một tờ báo chính thống phải thốt: ‘Nước mắt cho bóng đá, nước mắt nào cho ngư dân?”
Thống kê trên, hiện trạng trên cho thấy điều gì mà người VN, phần lớn là giới trẻ quan tâm, phản ánh rõ lối sống, lối suy nghĩ nào đang phổ biến phổ biến tại quê hương đất nước ta?
Phải chăng đó là hệ quá đáng báo động cho xu thế vô cảm, sống hời hợt dửng dưng, cảm tính, thiếu lý tưởng, thiếu chiều sâu, trong đo có cả con em chúng ta?
Xu thế sống thờ ơ, vô cảm, theo chủ nghĩa ‘makeno’ xem ra ngày càng thịnh phát, nhất là trong giới trẻ. Sống hời hợt, cảm tính, thiếu lý tưởng, thiếu chiều sâu, nhất là những vấn đề thiết yếu đời sống con người, trong đó đặc biệt những vấn đề liên quan đến phần Linh hồn… hệ quả tất yếu thế nào, câu trả xin nhường cho mỗi chúng ta, nhất là Bạn trẻ.
Đức Thánh Cha Phanxico trong Sứ điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới- 2016, có chủ đề trực diện vấn nạn thời đại: “Vượt Qua Vô Cảm Và Dành Hòa Bình”, nhất là trong Năm Thánh Lòng Chúa thương xót. Ngài nói “Vô cảm với Thiên Chúa dẫn đến vô cảm với Tha nhân, sau đó đến Môi trường”. Ngài nhấn mạnh: “Thương xót là tâm điểm nơi Thiên Chúa và do đó cũng là tâm điểm của tất cả con cái Ngài nhắm đến”; Ngài kêu gọi việc xây dựng - đóng góp cho Hòa bình thế giới khởi đi từ Gia đình.
Chúa Giêsu Hiển linh, lương dân nhận biết Chúa khởi đi từ Ánh sao lạ. Trong cuộc sống, trong môi trường làm việc, xin Chúa ban cho mỗi người trong chúng ta, cách riêng các Bạn trẻ là Ánh Sao của Chúa để người khác nhận ra Tin Mừng cứu độ là chính Chúa Giêsu.
Ngôi sao tỏa sáng được là nhờ đón nhận ánh mặt trời, Trong Giáo hội Hiệp thông và Sứ vụ, xin cho chúng con luôn biết nối nguồn Ánh sáng Chân - Thiện - Mỹ là chính.
Muốn được như thế, xin Chúa tiêu diệt nơi chúng con lối sống thờ ơ, vô cảm, ích kỷ nhất là đối với Tin Mừng Cứu độ. Amen.
‘Vinh danh Thiên Chúa trên trời/ Bình an dưới thế cho người thiện tâm’.
------------------
1) Lm. Phaolo Nguyễn Văn Đông, Tin Mừng Chúa Nhật Năm C, tr.54-55
2) x. Những con đường giúp Con người nhận biết Thiên Chúa, Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo (số 31-35)
126. Muốn gặp Chúa.
Hôm nay Giáo hội mừng kính việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại (Mt 2, 1-12). Ngay từ giây phút đầu tiên hạ sinh tin vui Thiên Chúa hạ sinh đã được loan báo cho các mục đồng và họ đã đến chiêm bái Người. Hôm nay thì đến lượt ba nhà đạo sĩ từ phương đông xa xôi đến kính thờ. Dấu chỉ ánh sao mà ba nhà đạo sĩ dõi theo để tìm ra Ấu Chúa có khó tìm lắm không? Nếu không thì tại sao lại chỉ có ba đạo sĩ nơi xa xôi này?
Tin Mừng theo Thánh Mathêu ghi lại việc ba đạo sĩ nhìn thấy ánh sao của vua Do Thái xuất hiện bên phương Đông và các ông đã theo ánh sao đất Do Thái, đến hoàng cung để hỏi về dấu chỉ ánh sao. Nghe tin ấy vua Hêrôđê và dân Giêrusalem đều xôn xao và họ cũng tìm ra được lời giải đáp là ở Bêlem. Nhưng không vì thế mà họ đi tìm Chúa. Chỉ có ba đạo sĩ ra đi và họ đã được toại nguyện là nhận ra Ấu Chúa (x Mt 2, 1-12). Qua đoạn Tin Mừng này cho tôi hai suy nghĩ về việc muốn gặp được Chúa.
Muốn gặp được Chúa phải có tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn. Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa làm người không chọn cho mình nơi hoàng cung, lầu các....mà chọn cho mình một người Mẹ là một thôn nữ bình thường ở làng Nagiareth, chọn cho mình một người cha cũng bình thường, chọn cho mình sống trong một gia đình bình thường.... tới lúc hạ sinh Người không tỏ lộ mình ra cho những bậc vua chúa, quan quyền nhưng Người chọn các mục đồng để tỏ lộ Người đã giáng sinh, và hôm nay là các đạo sĩ. Tại sao Chúa lại chọn thế? Theo tôi vì các mục đồng là những người đơn sơ khi nghe Thiên Thần loan tin thì đã mau mắn đến bái thờ, các đạo sĩ khi thấy ánh sao lạ thì đã dõi theo ánh sao mà đến chiêm bái Hài Nhi. Đời sống người Kitô hữu chúng ta tuy mang danh là Kitô hữu nhưng có nhiều lúc ta lạc mất Chúa do những ham muốn, những tự phụ, những tính toán, những cách đặt vấn đề của chúng ta. Chúa thì luôn hiện diện nhưng những thứ đó đã làm mờ hình ảnh Thiên Chúa khiến ta khó nhận ra. Chúa Giêsu đã từng nói "ai không nên như trẻ nhỏ thì chẳng được vào Nước Trời". Thế nên muốn được gặp Chúa trước hết phải có tâm hồn đơn sơ khiêm tốn. Có thấy mình thiếu thốn, có thấy mình cần Chúa thì Chúa mới có thể lấp đầy.
Muốn gặp Chúa phải kiên nhẫn đi tìm. Các đạo sĩ đã rất gian nan để tìm đến nước Do Thái, có những lúc lạc mất ánh sao nhưng không vì thế mà họ nản lòng. Họ dùng đủ mọi cách để tìm cho được Hài Nhi. Và Chúa đã không phụ lòng họ. Có lẽ ánh sao không chỉ là dấu chỉ cho ba nhà đạo sĩ mà thôi nhưng chỉ có ba đạo sĩ tìm ra Chúa. Bằng chứng là vua Hêrôđê và cả thành Giêrusalem xôn xao nhưng không ai đi tìm như ba đạo sĩ. Chúa Giêsu nói:"Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho". Ơn gọi của chúng ta là ơn gọi nên thánh, nên thánh là được ở bên Chúa, nên giống Chúa. Theo Chúa không phải một ngày một lúc nhưng đòi hỏi ta luôn nép mình luôn trong tình thương Chúa cho dù có lúc ta như lạc lối nhưng với sự kiên trì chắc chắn ta sẽ gặp được Ngài như ba đạo sĩ.
Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho ba đạo sĩ phương Đông, cho lương dân cho thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa không là độc quyền của dân tộc hay quốc gia nào nhưng là phổ quát cho mọi dân tộc, mọi người. Vì thế, ta có nhiệm vụ là làm sáng lên trong ta ơn cứu độ của Thiên Chúa cho anh chị em chưa nhận biết Chúa (Ba đạo sĩ dù được ánh sao chỉ đường nhưng phải nhờ đến dân Do Thái và Thánh Kinh mới tìm ra được Vì Cứu Tinh). Các đạo sĩ đã dâng vàng, nhũ hương và mộc dược cho Chúa Hài Đồng tượng trưng cho Vương Quyền, Thiên Tính và Khổ Nạn của Chúa Giêsu, nay chúng ta đến với Chúa ta có gì dâng Chúa, Chúa muốn đón nhận tất cả những ai đến với Chúa với tâm lòng thành thật khiêm tốn, cho dù có những vết thâm tím của những lần lưu lạc nhưng tin chắc rằng Chúa sẽ đón nhận, chữa lành và thêm sức cho ta vững bước về cùng Chúa.
127. Tôi đi tìm Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Minh Vận)
Một ngày kia, có một vị Hoàng Đế cùng với đoàn cận vệ vào rừng săn nai. Đang lúc hứng thú rượt theo con mồi, thì bỗng nhiên nghe tiếng hát từ đâu vọng lại, tiếng hát thật véo von thánh thót làm say mê đoàn người săn bắn, đến nỗi khiến họ quên cả con mồi, để rồi cùng nhau đi tìm gặp cho được vị danh ca nào đó đang náu ẩn đâu đây. Sau một hồi lâu kiếm tìm, họ đã gặp, nhưng không phải một danh ca như họ thường lầm tưởng, mà trái lại, một người thanh niên có thân mình tiều tụy xanh xao gầy còm, áo quần rách rưới nghèo nàn đang ngây ngất, sốt sắng như một Thiên Thần, dâng lời ca tiếng hát ngợi khen Thiên Chúa trong một túp lều tranh xiêu vẹo. Một điều làm cho đoàn người săn bắn phải sửng sốt, là thấy người thanh niên có thân xác đau thương đó, lại luôn tỏ ra lòng đầy hoan lạc hạnh phúc. Vì quá bỡ ngỡ, vị Hoàng Đế cất tiếng hỏi: "Ông tới đây làm gì?" Vị Ẩn Sĩ không trực tiếp trả lời, nhưng hỏi lại: "Vậy thưa ngài, ngài tới đây làm gì?" Vị Hoàng Đế đáp lại: "Trẫm tới đây để săn thú vật". Bấy giờ vị Ẩn Sĩ mới tỏ ra sung sướng đáp lời: "Thưa ngài, còn tôi, tôi đến đây tìm kiếm Thiên Chúa!"
Tại sao con người có thân xác đau thương ấy lại tỏ ra lòng đầy vui sướng, vang lên những lời ca tiếng hát khiến cho người nghe phải say mê khoái thú? Phải chăng vị Ẩn Sĩ đó đã cảm nghiệm được niềm hoan lạc, khi thấy chẳng bao lâu nữa, bức tường thân xác sụp xuống và Thầy sẽ gặp được Chúa, Đấng mà suốt đời Thầy hằng phụng sự và khao khát kiếm tìm, để được thỏa lòng yêu mến Ngài!
I. CHÚNG TÔI TÌM ĐẾN TRIỀU BÁI NGÀI
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng Lễ Hiển Linh, là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc mà đại diện là ba nhà bác học. Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, tường thuật lại việc các nhà bác học từ Đông Phương tìm đến Jerusalem thăm dò tin tức: "Vua người Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Vì chúng tôi nhận thấy ngôi sao của Người ở Phương Đông, và chúng tôi tìm đến để triều bái Người" (Mt 2:2). Được tin đó, Vua Herođê và dân thành Jerusalem đều xôn xao náo động. Vua tỏ ra rất hoảng hối lo sợ, cấp tốc triệu tập các vị Đại Giáo Trưởng và các Luật Sĩ, những nhà thông Kinh Thánh, để điều tra cho biết nơi Đức Kitô sinh ra. Sau khi được nghe các nhà thông Kinh Thánh cho biết, Đức Kitô sinh hạ tại Belem theo như lời tiên tri đã báo trước. Vua liền ngầm triệu tập các nhà bác học lại, hỏi han cặn kẽ, rồi phái họ đi và căn dặn: "Các khanh hãy đi, điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo lại cho trẫm, để cả trẫm cũng đến triều bái Ngài!" (Mt 2:8).
Nhưng với tấm lòng đơn thành sùng mộ, các nhà bác học đã tìm gặp được Chúa như lòng mong ước, họ tin kính Hài Nhi là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Vị Cứu Tinh nhân loại hằng trông đợi, họ phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật triều bái Ngài, họ được mãn nguyện vì đã gặp được Đấng là nguồn Ơn Cứu Độ, là sự sống, là an bình và hạnh phúc.
Trái lại, Hêrođê với tâm ý nham hiểm, ông muốn tìm kiếm Ngài, không vì tin yêu ngưỡng mộ, nhưng vì thù ghét muốn tiêu diệt Ngài, vì sợ ngai vàng của ông sắp sụp đỗ, nên ông đã không xứng đáng gặp được Ngài. Do đó, ông đã nổi cơn xung giận, phạm thêm một tội ác tầy trời, là truyền giết chết tất cả các nam hài nhi từ hai tuổi trở xuống trong thành Belem và các vùng phụ cận để hả cơn tức giận, với hy vọng tiêu diệt được cả Đức Vua mới sinh. Hêrođê đã phải tuyệt vọng, sống bất an và đã bị lịch sử muôn đời nguyền rủa.
II. MỤC ĐÍCH CUỘC SỐNG TRÊN TRẦN GIAN
Mục đích con người sống trên trần gian là để tìm gặp Thiên Chúa, Đấng làm thỏa mãn mọi khát vọng, Đấng là Chân Thiện Mỹ, là Hạnh Phúc vĩnh cửu, đáng mọi loài thụ tạo trên trời dưới thế khát mong tìm kiếm.
Nhưng nếu con người chỉ tới khu rừng trần gian này "Để Săn Thú Vật" là tình, tiền, tài, danh vọng, chức quyền thì chắc chắn không bao giờ họ được mãn nguyện! Biết bao người đã hao tốn bao công sức trong suốt cả cuộc đời, với bao nhiêu xảo kế quỉ quyệt lừa đảo, để hy vọng đạt được những tham vọng ngông cuồng thiên đàng dương thế... Nhưng sau cùng, họ khác nào như kẻ vồ bóng, càng vồ bóng càng thoát khỏi vòng tay họ, và họ đã phải tuyệt vọng, lại phải mang hận suốt đời. Cái hậu quả tai hại của những con người cuồng tín, tin theo thuyết vô thần cộng sản trên 70 năm qua tại Nga Sô, đã là một bằng chứng thật cụ thể và chua cay.
Trái lại, nếu con người sống trên trần gian như là đường đưa tới cùng đích, họ sử dụng của cải đời này như phương tiện để đi tìm gặp Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ được mãn nguyện. Chính Chúa đã truyền dạy và hứa ban: "Các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự Công Chính của Người trước, rồi mọi sự khác Người sẽ ban cho các con sau cách dư dật" (Mt 6:33).
III. CHÚNG TA ĐÃ GẶP ĐƯỌC CHÚA CHƯA
Là con cái Chúa, chúng ta đã "Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và Sự Công Chính của Người trước", là đặt Chúa làm cùng đích tối thượng và tối hậu, là hạnh phúc vĩnh cửu, là gia nghiệp đời đời, là Đấng chúng ta hằng khao khát kiếm tìm; hay chúng ta còn đặt tiền, tình, tài, danh, lợi, thú hơn Thiên Chúa? Nếu chúng ta đã thực sự đặt Chúa trên hết, đã chu toàn thánh ý Người, đi đúng theo đường lối Chúa chỉ định, chắc chắn chúng ta sẽ gặp được Chúa, chúng ta sẽ được hạnh phúc và được thỏa mãn mọi ước nguyện trong Chúa, vì chính Chúa là Nguồn Hạnh Phúc của chúng ta.
Là những linh hồn đã tình nguyện làm tông đồ rao giảng sứ điệp Tin Mừng của Chúa cho mọi người, chinh phục tha nhân về với Chúa để họ cũng được hưởng Ơn Cứu Độ của Chúa, chúng ta đã thực sự tìm gặp được Chúa, cảm nghiệm được niềm an vui hạnh phúc nơi một mình Chúa, chỉ khát khao chu toàn thánh ý Chúa, muốn điều Chúa muốn, làm điều Chúa muốn và chỉ có một ước vọng duy nhất làm vui lòng Chúa?
Hay trái lại, chúng ta còn đặt chính mình làm cùng đích, hoặc đặt bất cứ tham vọng trần gian nào hơn Chúa, trái với sứ mạng tông đồ của chúng ta?
Kết Luận
Chúa Cha đã ban Con Một Người cho nhân loại qua tay Mẹ Maria. Do đó, không một ai trong nhân loại được nhận biết Chúa và được diễm phúc lãnh nhận Ngài ngoài Mẹ Maria. Các nhà bác học Đông Phương là những người thành tâm thiện chí, các mục tử Belem là những người chất phác quê mùa, đơn sơ khiêm tốn đã nhận ra Chúa, được diễm phúc lãnh nhận Ngài do tay Mẹ Maria trao ban.
Xin cho mỗi người chúng ta cũng được tâm hồn đơn thành khiêm tốn, để đáng được Mẹ Maria tỏ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu Con Mẹ nơi tha nhân, nơi các công trình sáng tạo của Người, nơi mọi biến cố may rủi của cuộc sống, để chúng ta luôn được nếm hưởng hạnh phúc của những tâm hồn đơn thành khiêm tốn như các Thánh, những người con ngoan thảo của Chúa và Mẹ.
128. Dâng tấm lòng con
Ngày nào đó bước lên chuyến xe khách thử hỏi hai người cùng đi tơí một địa điểm chắc chắn ta sẽ nghe được hai mục đích khác nhau. Cũng vậy, Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay sẽ cho thấy hai thái độ khác nhau của việc tìm kiếm Chúa Giêsu Hài Đồng.
Với các Hiền sĩ từ phương Đông, họ đi tìm trong thái độ thật lòng và khiêm tốn. Họ đã lặn lội từ phương xa theo ánh sao lạ dẫn đường. Vàng, nhũ hương và mộc dược là những lễ vật họ mang theo để dâng tiến Chúa Hài đồng. Vàng là thứ dành riêng cho vua. Nhũ hương chỉ đặc biệt một mình vị thượng tế sử dụng. Còn mộc dược là thứ để dành cho việc ướp xác. Những lễ vật này chứng tỏ các vị ấy phần nào đã công nhận thân thế và sự nghiệp thật của Hài nhi Giêsu. Hài nhi Giêsu chính là vị Vua Messia mà muôn dân đang trông đợi. Cũng chính Người sau này sẽ dùng cái chết của mình làm hy tế dâng lên Chúa Cha đền thay tội lỗi muôn dân.
Ngược với các Hiền sĩ là thái độ tò mò và ghen ghét của vua Hêrôđê. Vì sợ mất quyền ảnh hưởng nên vừa nghe các Hiền sĩ hỏi thăm, ông hết sức bối rối đến nỗi làm cho cả thành Giêrusalem xôn xao. Câu nói: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người" thật sự chỉ là ác ý. Trong tâm trí ông luôn bị ám ảnh đến sự mất ngôi. Vì thế, ông sẵn sàng làm mọi cách để tiêu diệt những ai có ảnh hưởng đến vị thế ấy. Bằng chứng rỏ ràng, sau đó ông đã ra lệnh giết tất cả trẻ em Do thái từ hai tuổi trở xuống ở Bêlem và các vùng lân cận. (Mt 2, 16)
Thật vậy, ông bà ta thường nói: "Dò sông dò biển dể dò. Nào ai lấy thước mà đo lòng người." Cùng một biến cố Hài nhi Giêsu nhưng trước mắt ta đã thấy hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau. Từ đó đã đưa đến hai kết quả cũng khác nhau. Các Hiền sĩ đã được ngôi sao dẫn đường đi đến chiêm ngắm Hài nhi Giêsu. Còn Vua Hêrôđê không được ai chỉ đường đến Bêlem thì làm sao chiêm ngắm.
Biến cố Ngôi Hai nhập thể là sự thật. Đây cũng chính là một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo. Chỉ những ai biết để cho mình bé mọn trước Chúa thì sẽ được biết nhữnng điều cao cả (Mt 11, 25). Chỉ cần ta hết lòng dâng cho Người thì sẽ được Người ban thêm cho (Mt 25, 29). Hãy tha thiết nài xin Hài nhi Giêsu cho ta biết khao khát và thật lòng đi tìm chân lý trong cuộc sống.
129. Đấng cứu chuộc muôn dân
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Những người đã đọc trước tiên bài Tin Mừng chúng ta vưa nghe xong, là những Kitô hữu người Do-thái. Dù đã trở lại Kitô giáo, tâm tình và cách suy tư của họ vẫn còn bị ảnh hưởng nặng quan điểm của Do-thái giáo. Vì thế đối với những tín hữu này, là cả một điều vô cùng lạ lùng và bỡ ngỡ, khi nghe đọc: Các nhà Phù thủy (Magie) từ phương đông xa xôi đã đến để thờ lạy “vua Do-thái”. Ðối với họ, những người Phù thủy là những kẻ ngoại đạo, họ không được phép liên hệ, vì những người đó - cũng tương tự như những Chiêm tinh gia - thực hành những điều bị tôn giáo họ cấm đoán, như bói toán, bùa chú. Những Phù thủy là những người xa lạ, là những kẻ dạy những điều mê tin dị đoan nhảm nhí, vâng, là những kẻ thù nghịch với đức tin.
Thế nhưng bây giờ, chính những người đó đã đến Giê-ru-sa-lem và nói: “Một ngôi sao lạ đã dẫn đường chúng tôi đến đây! Vị tân vương của người Do-thái mới sinh ra ở đâu?” Họ đã làm đảo lộn và làm điên đầu những người bảo vệ đức tin và gìn giữ trật tự tôn giáo tại Do-thái. Nhưng chính những người này, dù thông thạo Kinh Thánh và theo lẽ thường là phải biết được cách rõ ràng biến cố đã xảy ra, cũng chỉ có thể nói được tên của nơi chốn có thể xảy ra biến cố, chứ nhiều hơn cũng đành bó tay. Còn bạo vương Hê-rô-đê thì chỉ nhìn thấy trước mắt một sự đe dọa nguy hiểm cho vương quyền của y. Vì thế, với mánh khóe xảo quyệt, y đã tìm cách lợi dụng sự hiểu biết của ba vị đạo sĩ ngoại giáo để thi hành thâm ý ích kỷ và độc ác của y. Qua đó, chúng ta thấy rằng, trong khi những người ngoại giáo - được hướng dẫn bởi một ngôi sao - đã tìm gặp được điều Kinh Thánh mặc khải, còn những người “tín hữu” lại không hề hay biết gì cả.
Ðúng vậy, về phương diện thần học, điều làm cho chúng ta phải ngạc nhiên trong đoạn văn này là: Những người ngoại giáo đã được kêu mời đến cùng Ðức Kitô. Và qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ, họ đã nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa và đã quì gối tôn thờ. Còn những gì họ mang đến để kính dâng lên như lễ vật của mình, đã nói lên ý nghĩ và sự đánh giá của họ về Hài Nhi: Họ mang đến vàng. Vàng là một thứ kim loại quý hiếm. Nó sáng bóng như mặt trời. Ðó là một thứ kim loại dành để các vị vua khắc ấn hình ảnh của mình trên đó. Vậy, họ mang vàng đến như lễ vật dâng lên vị Ấu Chúa, Ðấng sẽ in đậm hình ảnh mình trên cả vũ trụ.
Món quà thứ hai là nhũ hương. Ðó là một loại hương liệu quý. Khi những hạt nhũ hương được đốt cháy, thì tỏa ra một làn khói trắng bốc thẳng lên cao với một mùi thơm dịu dàng. Mùi hương thơm bay tỏa ra và làm cho cả một vùng không khí thơm ngào ngạt. làn khói là tượng trưng cho sự hiện diện đầy huyền nhiệm của Thiên Chúa. Làn khói cuộn tròn, lan ra chung quanh và bốc lên cao, như muốn nối kết phía dưới thấp với phía trên cao, nối kết đất với trời.
Còn món quà thứ ba là mộc dược, một thứ rễ cây đắng, một vị thuốc chữa bệnh. Món quà muốn biểu hiệu cho sứ mệnh của Hài Nhi trong máng cỏ: Người sẽ hàn gắn và chữa lành mọi bệnh tật tâm linh và cả bệnh tật thể xác của con người, cũng như mang lại cho họ sự cứu rỗi!
Với những lễ vật đó, ba người ngoại giáo muốn bày tỏ lòng tôn kính và sự xác tín của họ: Ðức Kitô là Vua và là Ðấng Cứu Thế cho tất cả mọi người và mọi dân nước. Ðó là điều được đề cập tới ở đây, trong phần đầu của Tin Mừng theo thánh Má-thêu. Và tiếp đến trong phần cuối của bản Tin Mừng lại được thánh sử kết thúc bằng câu: “Các con hãy làm cho tất cả mọi người trở thành môn đệ của Thầy và hãy rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần!”
Bởi vì, Thiên Chúa là Vua, một Ðức Vua đầy tình phụ tử; Còn Chúa Con thuộc về Thiên Chúa và là Thiên Chúa; Người tác động trong cuộc sống chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Ðó chính là sứ điệp của ngày lễ hôm nay. Hay nói cách khác, ngày lễ Hiển Linh phải là một sứ điệp vui mừng cho chúng ta, vì nó bày tỏ cho chúng ta một sự thật là tất cả chúng ta - không phân biệt màu da, chủng tộc, văn hóa hay tôn giáo - đều có thể trở thành môn đệ Ðức Kitô. Bởi vậy, chớ gì những người còn ở “ngoài cuộc”, chưa nhập vào đoàn môn đệ Ðức Kitô - dù do họ là người ngoại giáo hay do họ đi lạc đường - hãy biết nỗ lực tìm kiếm một cách nghiêm chỉnh con đường dẫn đến cùng Ðức Kitô, Ðấng duy nhất có thể ban cho con người sự cứu rỗi sau cùng. Và sự nỗ lực đó không chỉ họ, những người còn “đứng ngoài”, phải có, nhưng cả chúng ta nữa, những người vẫn nghĩ mình đã “ở trong cuộc” rồi, cũng phải luôn luôn cố gắng không ngừng.
Những điều chúng ta vừa nói trên có thể giúp chúng ta đi tới ba suy tư:
Chúng ta cần phải giữ cho tư tưởng của mình được khoan dung và cởi mở; không đoán xét những người lạ mặt hoặc coi khinh họ hoặc kết án những con đường họ đi là lệch lạc; bởi lẽ, rất có thể là họ đã được một ngôi sao lạ dẫn đường, còn chúng ta lại không nhìn thấy được ngôi sao đó hoặc nhìn thấy, nhưng lại không nhận ra được.
Chúng ta được cảnh tỉnh: Những người có quyền bính và trách nhiệm xưa kia đã bị sai lầm. Mặc dù họ đã biết chính xác được địa danh, nơi Vị Tân Vương được sinh ra, và chẳng những họ không muốn đi đến kính viếng và thờ lạy Người, nhưng họ còn bày tỏ thái độ thù nghịch chống lại Vị Tân Vương mới sinh ra nữa. Khi trong một cộng đoàn đức tin mà Ðức Kitô không còn được nghiêm chỉnh tìm kiếm, thì cộng đoàn đó sẽ trở thành trò hề cho thiên hạ và là một cản trở cho Tin Mừng. Chúng ta cần phải nghiêm chỉnh. Vì chỉ khi chúng ta nghiêm chỉnh tìm hiểu điều Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta, bấy giờ chúng ta mới trở thành những vị đạo sĩ, những người “khôn ngoan”, biết tìm kiếm Ðức Kitô.
Và điều thức ba được nói cho chúng ta, đó là: Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải mang lễ vật đến dâng lên Người. Vì qua các lễ vật đó, chúng ta có thể nói lên Ðức Kitô có ý nghĩa gì đối với chúng ta, một cách rõ rệt hơn là bằng lời nói suông.
Nhưng chúng ta cần phải mang theo những lễ vật nào?
Theo thiển ý, tôi nghĩ rằng, có hai lễ vật chúng ta cần mang theo để dâng lên Ðức Kitô:
Lễ vật thứ nhất là: Thời giờ! Vâng, thời giờ là một lễ vật quan trọng nhất. Chúng ta hãy dùng thời giờ để đi tìm kiếm Ðức Chúa và để qui hướng cuộc sống mình theo gương sống của Người.
Lễ vật thứ hai đối với tôi cũng quan trọng tương tự, đó là: Chúng ta cần phải thật lòng quan tâm tới những người phải sống một cuộc sống tương tự như Ðức Giêsu, tức những người nghèo hèn, những người phải hằng ngày chân lấm tay bùn, những người bị coi là loại người “vô tích sự” trong con mắt người đời!
Ðó chính là bài học thực tế nhất chúng ta có thể rút tỉa ra được từ đại lễ Chúa Hiển Linh hôm nay! Amen.
130. Thái độ của con người đối với Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Bài Phúc Âm tường thuật sự xuất hiện của các Đạo Sĩ đi tìm Đấng Thiên Sai là đề tài khiến các nhà thần học Kitô giáo qua mọi thời đại phải suy nghĩ. Các Giáo Phụ dạy là có ba vị Đạo Sĩ, tức ba vị đại diện cho ba lục địa trong thời cổ đại lúc bấy giờ: Âu Châu, Á Châu và Phi Châu. Còn Úc Châu và Mỹ Châu vào thời đó chưa được khám phá ra. Các ngài cho rằng qua ba vị Đạo Sĩ, lời Thánh Kinh “mọi dân nước trên mặt đất sẽ được nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” hoàn toàn được nên trọn.
- Các Đạo Sĩ là dẫn chứng cụ thể cho việc tất cả mọi người trên khắp trái đất đi tìm kiếm Đấng Cứu Thế.
- Các Luật Sĩ người Do-thái là biểu tượng cho tất cả những ai thông hiểu mọi giáo lý về đức tin, nhưng lại không muốn động tay động chân ra sức thực hành đức tin. Vậy họ là biểu tượng của sự thờ ơ lạnh lùng và cố chấp.
- Cuối cùng các Giáo Phụ coi Hê-rô-đê là hiện thân cho tất cả những ai ham hố chức quyền danh vọng, những kẻ chỉ vì quyền lợi và phẩm hàm của mình, đã sẵn sàng thực hiện bất cứ thủ đoạn nào, trước hết họ tìm mọi cách hạ bệ và tiêu diệt một cách dã man các đối thủ của mình, bất cứ là ai, dù cho đó chỉ là một đứa trẻ vừa mới được sinh ra từ dòng giống hoàng tộc, cũng không được tha.
Sự phân định con người làm ba loại như thế, tức: Những kẻ thành tâm tìm kiếm chân lý - những kẻ thờ ơ hững hờ - những kẻ ham hố quyền hành - vẫn luôn giữ nguyên giá trị của nó trong suốt dòng lịch sử qua mọi thời đại và mãi cho đến ngày nay.
Vâng, ngày nay giữa các dân tộc trên khắp thế giới vẫn luôn có cả hàng triệu “đạo sĩ” đã và đang can đảm bỏ lại “nhà cửa và quê hương vô đạo” của mình để đi theo ánh sáng của “ngôi sao đức tin” hướng dẫn, tìm về với Đức Kitô trong lòng Giáo Hội của Người. Trên khắp các lục địa, đặc biệt ở Á và Phi Châu, số tân tòng được lãnh nhận bí tích Rửa Tội mỗi ngày mỗi tăng. Ở Châu Mỹ La-tinh, các Kitô hữu mạnh mẽ tranh đấu cách ôn hòa cho sự canh tân xã hội, chính trị và tín ngưỡng. Trong khi đó ở các nước chủ trương vô thần hay thù địch với Kitô giáo, mặc dầu hằng ngày phải đối mặt với những bắt bớ, đàn áp và kỳ thị, số người trưởng thành nói chung và số thanh thiếu niên nói riêng coi việc đi tìm kiếm Thiên Chúa như một khát vọng to lớn của đời họ vẫn tăng triển.
Trong khi đó, ở mọi thời đại bao giờ cũng có những kẻ trí thức, thông hiểu luật lệ và giáo lý, những lý thuyết gia Kitô giáo hững hờ khô khan, những kẻ luôn có thể cắt nghĩa rành mạch từng câu từng chữ về giáo lý, về đức tin, nhưng lại không hề quan tâm tới việc rút tỉa cho cuộc sống của riêng mình những hệ luận và những quyết định thích ứng. Vâng, đã có bao nhiêu Kitô hữu đã trở nên mệt mỏi và ù lì trong đức tin. Đó là những Kitô hữu đi tìm cho mình những vũ trụ quan thoải mái và không muốn đi tìm kiếm Đức Kitô nữa, vì họ cho rằng họ đã tìm gặp Người rồi. Phải chăng cuộc sống đức tin hằng ngày của chúng ta cũng đã bao lần trở nên mệt mỏi như thế? Phải chăng chúng ta đã nói về Đạo rất nhiều, nhưng lại sống Đạo rất ít? Phải chăng các tổ chức và các hội đoàn trong các giáo xứ thì không thiếu, nhưng lại có rất ít người có được hứng khởi, lòng nhiệt thành và hăng hái thực thi đúng đắn tinh thần của các tổ chức và của các hội đoàn thánh thiện đó?
Sau cùng, xưa kia cũng như ngày nay bao giờ cũng có những cuộc chiến của những kẻ có thế quyền lực chống lại Kitô giáo và chống lại các Kitô hữu. Họ là những người có quyền thế và không bao giờ chấp nhận những kẻ khác còn có quyền thế hơn mình hay ngang hàng với mình. Đó là những nhà độc tài hay những tập đoàn, đảng phái chuyên chính ở khắp nơi trên thế giới, và để bảo vệ quyền hành, họ luôn nắm trọn các phương tiện truyền thông trong tay để độc quyền chi phối dư luận theo chiều hướng chủ quan và lệch lạc của họ. Điều làm cho họ lo sợ nhất, đó là quyền bính của một Trẻ Sơ Sinh vừa đến trong trần gian để làm chứng cho sự thật và cho tình yêu chân chính. Bởi vậy, những kẻ hay những tập đoàn độc tài chuyên chính đó đã làm đủ mọi cách để loại bỏ sức mạnh của tinh thần bằng những khủng bố thể lý hay bằng những cuộc áp đảo và đe dọa về mặt tâm lý.
Tất cả ba lớp người - những người thành tâm tìm kiếm chân lý - những người thờ ơ hững hờ - những người nắm quyền lực đầy tham vọng - vẫn luôn hiện diện và cùng đồng hành với chúng ta trong cuộc sống đức tin và trên đường tìm kiếm Đức Kitô. Đức Kitô vẫn luôn là mục đích tìm kiếm của ba nhà Đạo Sĩ từ Phương đông và của tất cả những ai muốn bước theo vết chân của các ngài. Nhưng đồng thời Đức Kitô cũng chính là Đấng bị các thầy thông luật và những kẻ nối tiếp họ qua mọi thời đại tẩy chay chối từ, họ là những kẻ thông hiểu hết mọi góc cạnh, mọi ý nghĩa của chân lý, nhưng lại không chịu chấp nhận chân lý và không sống theo chân lý, không quì gối tôn thờ Đấng là Chân Lý Tuyệt Đối. Sau cùng, Đức Kitô cũng là Đấng bị Hê-rô-đê và tất cả những kẻ nắm giữ quyền hành đầy tham vọng tìm mọi cách để bắt bớ và tiêu diệt. Đức Giêsu Kitô luôn hiện diện một cách vô hình giữa lòng lịch sử nhân loại. Người là mốc giới phân định giữa sự cứu rỗi và sự hư mất, giữa hạnh phúc và sự bất hạnh, giữa Thiên đàng và hỏa ngục. Trước ngai tòa Đức Giêsu, dù dưới bất cứ hình thức nào, chỉ có sự tôn thờ hay chối từ, chứ không hề có thái độ trung lập được.
Các Giáo Phụ xưa cũng hiểu rõ Kinh Thánh và các ngài đã biết rất rõ, không có gì có thể bảo đảm chắc chắn được rằng ba Đạo Sĩ là ba vị vua cả. Tuy vậy, trong các bức tranh người ta thường trình bày các nhà Đạo Sĩ với mũ triều thiên đội trên đầu và khoác y phục của các bậc vương giả. Nhưng đối với chúng ta dữ kiện ba nhà Đạo Sĩ có phải là ba vị vua hay không, chuyện đó không quan trọng. Thật ra không có gì xứng đáng với phẩm hàm vương giả của con người hơn là việc con người biết can đảm lên đường tìm kiếm chân lý, và rồi biết quì gối kính thờ tình yêu nhập thể của Thiên Chúa.
Hôm nay, tất cả chúng ta cũng như các nhà Đạo Sĩ xưa kia, sấp mình bái thờ Con Trẻ nằm trong máng cỏ để nhận diện được tình yêu trọng đại của Thiên Chúa đã hiện thân hữu hình giữa loài người chúng ta.
131. Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại
"Các đạo sĩ bước vào nhà, thấy Hài nhi và thân mẫu là Bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người, rồi mở tráp lấy vàng nhử hương và mộc dược mà dâng lên..." (Mt 2, 11)
Câu chuyện Phúc âm của ngày lễ Hiển linh hôm nay thật lạ lùng, lạ lùng không phải vì chỉ có thánh Matthêu ghi lại, nhưng chính là vì nội dung của câu chuyện này. Ba nhà chiêm tinh từ đâu xa lắc bên xứ Á rập, Ba Tư, nơi người ta rất quan tâm về khoa chiêm tinh, đã nhận thấy sao lạ hiện ra; họ đã bỏ mọi sự để đi tìm vị vua của ánh sao lạ đó. Cuối cùng họ đã tìm gặp và họ đã thờ lạy, bỏ công bao lâu nay đi tìm kiếm... Câu chuyện lạ lùng y như câu chuyện thần tiên; vậy mà chính Kinh thánh ghi lại cho chúng ta cách chi tiết như vậy. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. Truyền thuyết cho ta biết ba nhà đạo sĩ có tên gọi là: Gaspar, Balthasar và Melchior. Nhờ ánh sao dẫn đường, ba đạo sĩ đã gặp Chúa và đã quỳ xuống thờ lạy Người. Sự việc này được coi như cuộc Hiển linh (tỏ mình ra) cho bất luận là ai, không phải chỉ một mình dân tộc Do thái.
Khi ba đạo sĩ vừa đến Giêrusalem, ngôi sao dẫn đường biến mất; họ đành phải đi hỏi thăm các thày thư ký, các thông luật, các thượng tế và cả Hêrôđê nữa. Lúc đó Phúc âm ghi, cả thành đều xôn xao. Vua Hêrôđê bối rối. Thái độ bối rối của ông vua này không phải vì không biết Vua dân do thái sinh ra ở đâu, nhưng đó chỉ là vì sợ chiếc ngai vàng của ông bị lung lay khi hay tin Vua dân do thái chào đời.... Khi các đạo sĩ được cho biết rồi, họ ra đi và đã gặp Vua mới sinh. Họ đã sụp lạy và dâng lên Người: vàng - nhủ hương và mộc dược... Ba món lễ vật này, chính là để tỏ lòng tôn kính. Vàng chỉ vương quyền của đức Kitô; nhủ hương chỉ thiên tính; mộc dược chỉ cuộc tử nạn sau này.
b. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho ta hai ý suy niệm:
* Hình ảnh cuộc hành trình đi tìm Chúa Hài nhi của ba nhà đạo sĩ, cũng chính là hành trình cuộc đời mỗi người chúng ta, hôm nay. Thật vậy, việc tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm Thiên Chúa của con người ở mọi thời đại đều giống nhau. Khi xưa, ba nhà đạo sĩ đã không ngại bỏ nhà cữa, gia đình, nệm ấm chăn êm, lao đao vất vả, để đi đến chân trời vô định mà tìm kiếm Vua mới sinh. Công việc xem ra không chút hi vọng gì! Vậy mà cuối cùng họ đạt được ý nguyện. Hành trình đức tin chúng ta cũng tương tợ như thế. Trên đường đi, gặp khó khăn cản trở, đó là điều tất nhiên. Ba nhà đạo sĩ đầy quả cãm, kiên trung; chính vì thế họ đạt được thành công trọn vẹn, là gặp Đấng Cứu thế. Cuộc hành trình đức tin, cũng dài và cũng không êm ả như vậy. Vì thế nó đòi hỏi ta phải can đãm, kiên trì sống theo Lời Chúa, hiệp nhất với Ngài ngay trong cuộc sống ở đời này. Có như vậy mới đạt tới đích là gặp gở Đấng Cứu thế như ba nhà đạo sĩ.....
* danh từ: Hiển linh có nghĩa: Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, đại diện chính là ba nhà đạo sĩ. Lẻ ra người được Thiên Chúa tỏ mình ra trước tiên phải là dân tộc Do Thái, vì từ Cựu Ước, họ đã lãnh nhận lời hứa trở thành dân thánh của Chúa, và Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Tinh sinh ra từ dân tộc này. Điều này muốn nói lên: ơn cứu rổi là dành cho tất cả mọi người, không riêng dân tộc Do thái. Chính vì thế, Con Thiên Chúa giáng sinh hôm nay, là cho mọi người, không phân biệt ai cả. Tại sao các kinh sư, thượng tế lại không được đón nhận hồng ân này...
c/. Gợi ý suy niệm:
* Lễ Hiển Linh chính là để nói lên Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, không phải chỉ dân tộc Do thái. Mừng lễ Hiển linh, ta có suy nghỉ nào đây? Ta có muốn TC tỏ mình ra cho chính ta không?
* Các nhà chiêm tinh đã lặn lội vất vã ngày đêm, để tìm đến và thờ lạy Chúa Hài nhi. Khi nhận ra dấu chỉ Chúa mạc khải, họ sẵn sàng bỏ tất cả, gia đình, vợ con, quê hương để đi tìm Vua mới sinh. Còn ta thì sao? Ta có sẵn lòng bỏ tất cả để theo Vua Giêsu không?
132. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Theo dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn tỏ mình ra cho con người. Ngài tỏ mình ra nhằm mục đích cho con người biết ý định của Ngài, là muốn cho con người được tham dự vào sự sống đời đời của Ngài.
Nhiều lần Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho con người bằng lời nói: Ngài nói với ông Mô-sê, nói với các tiên tri. Sau đó, Mô-sê và các tiên tri nói lại với dân chúng. Chẳng hạn, Ngài nói với Mô-sê về ý định của Ngài là muốn đưa dân Is-ra-en thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập để về Đất Hứa. Mô-sê đi nói điều đó cho dân chúng biết (x. Xh 6,1-13).
Nhiều lần Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho con người bằng hành động: Chẳng hạn, Ngài cho nước Biển đỏ dựng đứng như bức tường thành để dân Is-ra-en đi qua (x. Xh 14, 15-31) hay cho mưa diêm sinh và lửa từ trời thiêu đốt thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra vì tội lỗi của họ (x. St 19,1-29)…
Ngài còn tỏ mình ta theo từng giai đoạn khác nhau của lịch sử cứu độ: Vào năm 1850 (TCN), Ngài tỏ mình ra cho ông Áp-ra-ham và thử lòng trung thành của ông qua việc đòi ông hiến tế đứa con duy nhất là I-xa-ác. Ông Áp-ra-ham đã vâng nghe và làm đúng như lời Thiên Chúa, nhưng được Thiên thần can ngăn. Thấy được lòng trung thành của ông, nên Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông một dân tộc, một dòng dõi đông đúc như sao trên trời và như cát ngoài bãi biển (x. St 22,1-19); vào năm 1250 (TCN), Ngài tỏ mình ra cho ông Mô-sê qua bụi cây bốc cháy và cho ông biết Ngài là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp, tổ phụ người Do Thái và ý định của Ngài là đưa dân Ít-ra-en ra khỏi ách thống trị nô lệ Ai-cập (x. Xh 3, 1-22); vào năm 1000 (TCN), qua Na-than, Thiên Chúa hứa với vua Đa-vít rằng Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi của ông (x. 2Sm 7,11-16); từ năm 721 (TCN), Thiên Chúa tiếp tục nói với dân chúng qua các tiên tri như I-sai-a, A-mốt, Hô-sê, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en…; Cuối cùng, Thiên Chúa tỏ mình ra cách trọn vẹn nơi Đức Giêsu Ki-tô. Vì thế, ngày lễ Giáng sinh là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân Do Thái. Chính các Thiên thần báo tin cho các mục đồng rằng: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.” (Lc 2,11). Còn ngày lễ Hiển linh mà chúng ta mừng kính hôm nay gọi là ngày lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại qua ngôi sao dẫn đường. Rồi, ông Si-mê-on nhận ra trẻ Hài nhi là Đấng Cứu Thế nhờ Thánh Thần linh hứng (x. 2,22-28). Bà An-na cũng được ơn nói tiên tri về Hài Nhi cho mọi người (x. Lc 2,36-38).
Trong ba năm đời sống công khai, Đức Giêsu cũng tỏ mình ra cho các môn đệ và dân chúng bằng lời nói và các phép lạ Ngài làm. Ngài cho biết: Ngài là ai? Thiên Chúa là Đấng nào? Thiên Chúa có mấy ngôi? Nhiệm vụ của từng Ngôi như thế nào? Ngài còn mạc khải cho biết nhiều điều liên quan đến Thiên Chúa, đến thế giới thiêng liêng, đến số phận đời đời của con người và vũ trụ này. Sau ba năm đời sống công khai, Ngài đã chịu chết, sống lại và lên trời. Đến ngày tận cùng của thế giới, Ngài lại ngự đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Như vậy, nếu không có những lần Thiên Chúa tỏ mình ra, nếu không có Đức Giêsu mặc khải thì con người sẽ không biết Thiên Chúa là ai, ý định của Ngài như thế nào. Cũng vậy, các mục đồng sẽ không biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế nếu không được các Thiên thần loan báo. Các đạo sỹ cũng không biết Đức Giêsu nếu không có ngôi sao dẫn đường chỉ lối. Các tông đồ sẽ không biết về Thiên Chúa và các phẩm tính của Ngài nếu Đức Giêsu không mạc khải cho họ. Mỗi người kitô hữu chúng ta sẽ không biết Đức Giêsu Ki-tô nếu Giáo hội, cha mẹ, thầy cô giáo lý viên…không dạy dỗ chúng ta. Những người ngoại giáo sẽ không biết về Đức Giêsu Ki-tô nếu người kitô hữu không nói cho họ biết.
Vì thế, ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn muốn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại qua trung gian các kitô hữu. Ngài tỏ mình ra qua lời nói và hành động của chúng ta. Chúng ta có thể giới thiệu về Chúa bằng lời nói như Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê đã làm. Chúng ta có thể giới thiệu về Chúa bằng việc làm bác ái yêu thương như Mẹ Tê-rê-xa Cal-cut-ta đã làm. Trong bài đọc I hôm nay, ngôn sứ I-sai-a mời gọi chúng ta “Hãy tỏa sáng ra” (Is 60,1). Chúng ta hãy “tỏa sáng” giáo huấn của Đức Giêsu cho hết thảy mọi người: hãy tỏa sáng tình thương tới những nơi có oán ghét hận thù; hãy tỏa sáng sự thứ tha tới những nơi có khinh khi nhục mạ; hãy tỏa sáng sự hòa giải tới những nơi đang có mâu thuẫn bất đồng; hãy tỏa sáng chân lý tới những nơi có giả dối sai lầm; hãy tỏa sáng đức tin tới những nơi đang có hoàn nghi ngờ vực; hãy tỏa sáng niềm hy vọng tới những nơi đang có nản chí sờn lòng; hãy đem ánh sáng vào những nơi đang có bóng tối mây mù; hãy tỏa sáng niềm an vui vào những nơi đang có u sầu buồn bã.
Làm được như vậy, mọi người sẽ nhận biết Thiên Chúa là Đấng nào hay ít nữa là họ biết chúng ta là con cái của Ngài. Câu chuyện sau đây làm chứng cho chúng ta thấy điều đó: Một buổi tối lạnh lẽo trong kỳ nghỉ lễ, có một cậu bé độ sáu bảy tuổi đứng bên ngoài một tủ kính bầy hàng của một cửa hiệu. Cậu bé không có giầy, quần áo thì rách rưới bẩn thỉu.
Một phụ nữ đi ngang qua và chợt nhìn thấy cậu bé. Bà đọc thấy được một niềm mong ước trong đôi mắt xanh xao của em. Bà cầm tay em dắt vào cửa hiệu, rồi mua cho em một đôi giầy mới, một bộ đồ mới ấm áp.
Sau đó, cả hai đi ra khỏi cửa hiệu và người phụ nữ nói với cậu bé: “Bây giờ về nhà, chúc cháu hưởng một kỳ lễ vui vẻ.” Cậu bé ngước nhìn bà và hỏi: “Bà có phải là Thượng Đế không?” Người phụ nữ mỉm cười và trả lời: “Không phải đâu cháu, ta chỉ là một trong những người con của Ngài mà thôi.” Bấy giờ cậu bé mới reo lên: “Cháu biết là thế nào bà cũng phải có họ với Thượng Đế mà.” (Bài viết có sử dụng dữ liệu trên Internet).
Ước mong rằng lời nói và việc làm của chúng ta giúp người khác nhận ra Thiên Chúa. Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, vì yêu thương nhân loại chúng con nên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng con nhận biết Chúa. Xin cho chúng con luôn tin yêu Chúa. Xin cho chúng con biết dùng lời nói và việc làm để giới thiệu về Chúa cho anh chị em mình. Amen.
133. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội mừng lễ Chúa Hiển Linh. Hiển linh có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra.
Đây là biến cố Thiên Chúa tỏ mình ra cho các nhà chiêm tinh. Qua bài Tin mừng Thánh Mathêu còn cho chúng ta biết, trên hành trình tìm Chúa của các nhà chiêm tinh còn có ánh sao lạ, vua Hêrôđê, các thượng tế, các kinh sư và những người Do Thái. Mỗi nhân vật đều phản ánh cuộc sống của con người qua mọi thời đại và có lẽ phảng phất hình ảnh của mỗi người chúng ta.
1. Hình ảnh các nhà chiêm tinh?
Các nhà chiêm tinh hay còn gọi là Ba Vua. Họ là thành phần thuộc dân ngoại. Chắc chắn cuộc sống của họ có đầy đủ mọi thứ vật chất, nhưng họ luôn cảm thấy trống vắng về đời sống tâm linh, họ khát khao chân lý. Khát khao của họ cũng là khát khao của con người qua mọi thời đại. Nhưng có điều đáng trân quý nơi các nhà chiêm tinh, đó là họ biết tìm kiếm chân lý, trong khi rất nhiều người khát khao chân lý nhưng không cố gắng đi tìm. Nhờ lòng khát khao và nhờ quyết tâm đi tìm kiếm chân lý nên các nhà chiêm tinh đã nhận ra “ánh sao lạ”. Theo họ, “ánh sao lạ” là dấu chỉ của vị vua mới sinh ra. Họ đã vội vã khăn gói lên đường. Sau cuộc hành trành dài đầy khó khăn vất vả, họ đã gặp được Đấng Cứu Thế. Họ thờ lạy và tiến dâng Ngài: Vàng, Nhũ Hương và Mộc Dược.
Sau khi gặp Hài Nhi Giêsu, họ không trở lại với Hêrôđê nhưng đi lối khác mà về xứ sở mình(x. Mt 2,12). Không trở lại với Hêrôđê tức là không trở lại con đường cũ, con đường qúa khứ tội lỗi. Đi lối khác có nghĩa là thay đổi nếp sống tốt hơn. Tương truyền cho rằng, sau này họ trở thành những vị tông đồ loan báo Tin mừng cho nhiều dân nước.
Qua ánh sao lạ, các nhà chiêm tinh đã nhận ra Chúa Hài Nhi. Qua Lời Chúa, qua các bí tích, qua những người nghèo khổ, những người già cả neo đơn, bệnh tật…chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Chúa không? Sau khi gặp gỡ Chúa, các nhà chiêm tinh đã thay đổi đời sống tốt hơn. Bao nhiêu lần chúng ta gặp gỡ Chúa qua các bí tích nhất là bí tích Giao hòa và bí tích Thánh Thể, đời sống đạo của chúng ta hiện nay như thế nào, có tốt hơn không?
2. Hình ảnh Ngôi Sao?
Là vật vô tri vô giác nhưng ngôi sao lạ đã được nhân cách hóa và đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hành trình tìm Chúa của các nhà chiêm tinh, đó là vai trò dẫn đường cho họ đến gặp Chúa Hài Nhi. Ngày hôm nay, vẫn còn đó rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa biết Đức Kitô là ai? Đạo công giáo là gì? Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15). Ngôi sao thì phải chiếu sáng. Chúng ta hãy là ngôi sao chiếu sáng để dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Bề trên là ánh sao dẫn đường cho bề dưới. Cha xứ là ánh sao dẫn đường cho giáo dân. Thầy cô giáo lý viên là ánh sáng dẫn đường cho học sinh. Cha mẹ là ánh sáng dẫn đường cho con cái. Vợ chồng là ánh sáng dẫn đường cho nhau. Người kitô hữu là ánh sáng dẫn đường cho lương dân. Chúng ta không chỉ chiếu sáng bằng những kiến thức học được từ các lớp Giáo lý mà cần phải chiếu sáng bằng chính đời sống đạo của chúng ta. Chiếu sáng về đời sống công bằng bác ái yêu thương. Chiếu sáng về đời sống đức tin, cậy, mến. Chiếu sáng về việc tôn trọng sự sống. Chiếu sáng về đời sống thuỷ chung. Chiếu sáng về niềm hy vọng vào sự sống đời sau. Chiếu sáng về lòng thương xót của Chúa cho mỗi người chúng ta gặp gỡ hằng ngày.
3. Hình ảnh Vua Hêrôđê?
Vua Hêrôđê là một bạo chúa, ông đã giết vợ là Mariamne và giết cả bốn đứa con trai của mình là: Anlexandra, Antipater, Alexander và Aristobulus. Với chủ trương “giết nhầm hơn bỏ sót”, cho nên hễ nghi ngờ ai có thể làm lung lay ngai vàng của ông thì ông quyết tâm giết cho bằng được. Chính vì lý do đó, cho nên khi các nhà chiêm tinh đến hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên(Mt 2, 2). Ông liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu (x. Mt 2, 4-6). Họ cho biết: “tại Bê-lem, miền Giuđê”. Ông bí mật phái các nhà chiêm tinh đi tìm và bảo họ khi tìm được phải báo lại cho nhà vua biết để vua cũng đến thờ lạy Người. Ông nói thế không phải để gặp và thờ lạy Người nhưng là để tìm cách giết Người. Bằng chứng là sau khi không thấy các nhà chiêm tinh quay lại, nhà vua đã ra lệnh giết tất cả các con trẻ từ hai tuổi trở xuống ở Bêlem và các vùng phụ cận.
Hình ảnh của vua Hêrôđê cũng là hình ảnh của rất nhiều người trong xã hội qua mọi thời đại. Đó là những người cha người mẹ vì ích kỷ mà tàn nhẫn giết chết những đứa con chưa mở mắt chào đời. Đó là những cá nhân, tập thể vì lợi ích của phe nhóm cho phép phá thai dưới nhiều hình thức khác nhau. Đó là nạn buôn bán, bạo hành, xâm hại tình dục và muôn vàn tội ác khác người lớn gây ra cho trẻ em, không cho chúng sống đúng với nhân phẩm, sống đúng với một con người.
4. Hình ảnh các thượng tế, các kinh sư và những người Do Thái
Họ thuộc dân riêng Chúa chọn. Họ thông hiểu Kinh Thánh. Họ biết vị vua mới sinh ra ở đâu. Nhưng họ không chịu tiếp nhận. Họ không chịu đi tìm. Đúng như Tin mừng theo Thánh Gioan: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”(Ga 1,11).Ngày hôm nay vẫn có rất nhiều người am hiểu kiến thức Kinh Thánh, kiến thức giáo lý nhưng họ không gặp được Chúa, họ không tin Chúa. Đó là những những cán bộ cộng sản phụ trách về vấn đề tôn giáo. Đó là những người chỉ tìm hiểu Kinh thánh để làm luận án luận văn. Thực tế cho thấy có những người dự tòng học giáo lý rất giỏi, điểm thi rất cao nhưng họ chỉ học để lấy vợ lấy chồng chứ họ không sống đạo. Thậm chí, con em trong giáo xứ chúng ta tham gia học giáo lý rất đông, nhưng các giờ kinh lễ ở nhà thờ lại rất ít. Như vậy, có sự chênh lệch rất lớn giữa học và hành, giữa biết và mến. Người ta thường nói “Vô tri bất mộ”, không biết thì không mến đó là điều thiệt thòi lớn cho con người, nhưng nếu biết mà không mến thì lại là một điều tệ hại hơn.
Chúng ta vừa lướt qua các nhân vật mà Thánh Mathêu đề cập trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Mỗi chúng ta thử kiểm điểm xem nhân vật nào có mặt trong đời sống của tôi: Các nhà chiêm tinh? Ánh sao dẫn đường? Vua Hêrôđê? Các thượng tế, các kinh sư và những người Do Thái? Nếu tôi giống Hêrôđê: hãy thống hối ăn năn tội ác đã gây ra, hãy loại bỏ tính tham quyền cố vị, sự độc ác nhẫn tâm ra khỏi con người của mình. Nếu tôi giống các thượng tế, các kinh sư và những người Do Thái: hãy đưa những kiến thức đã học được áp dụng vào đời sống đạo. Hãy luôn đi tìm Chúa và khát khao gặp Ngài như các nhà Chiêm tinh. Hãy là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ cho chúng con vì có những lúc chúng con vẫn là hiện thân của các thượng tế, các kinh sư và những người Do Thái, thậm chí là một Hêrôđê độc ác. Xin giúp chúng con luôn khát khao đi tìm Chúa như các nhà chiêm tinh. Xin giúp chúng con trở thành những ánh sao yêu thương, công bằng, tha thứ…để dẫn đường cho nhiều người trở về với Chúa. Amen.
134. Suy niệm của nhóm Đồng Hành
Chi Tiết Hay
(c.1) Thượng Viện La-Mã phong cho Hêrôđê làm Vua dân Do-thái vào năm 40 trước công nguyên. Ông ta là một chính trị gia nhiều mưu mô, tàn nhẫn ngay cả với gia đình, và nổi tiếng về xây cất nhiều công trình đồ sộ. Khi các chiêm tinh gia tìm hỏi "Vua dân Do Thái" là tước hiệu của chính ông, ông sợ có kẻ cướp ngai vàng.
(c.1 và 11) Tiếng "nhà chiêm tinh" không lột hết ý nghiã. Các vị này còn biết giải thích giấc mộng và làm tư tế trong đền thờ xứ Ba-tư. Các món quà của họ có vẻ là sản phẩm của Ả-rập. Vì có 3 món quà, nên tục truyền thành 3 chiêm tinh gia. Họ được đặt tên là Caspar, Balthasar, và Melchior, và Caspar trở thành da đen. Các ngài đại diện cho toàn thể dân ngoại từ khắp nơi.
(c.5) Bêlem là một thành nhỏ quãng 5 dặm về phía nam của Giêrusalem, và là quê của vua Đa-vít. Dấu Chúa sanh ở đây chỉ rằng Ngài là dòng vương giả.
(c.11). Ý nghĩa các tặng vật:
- Vàng: kim loại quý trong triều đình. Chúa là vua. - Nhũ hương: thường dùng trong việc tế tự. Khói hương bay lên như những lời khấn nguyện. Chúa Giêsu là Chúa. - Mộc dược: để tẩm liệm xác chết. Chúa là người, đấng chịu chết để cứu thiên hạ.
Một Điểm Chính
Các nhà chiêm tinh từ khắp thế giới dến bái lạy Chúa, còn Hêrôđê chỉ kiếm cớ bái lạy để tìm giết Chúa. Chuyện các nhà chiêm tinh ngoại giáo ở đầu Phúc Âm liên quan trực tiếp tới cảnh kết thúc của Phúc Âm này, khi các môn đệ bái lạy Chúa và Chúa sai các ngài "làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (28:17-20).
Suy Niệm
* Tôi nhận ra Chúa bằng dấu nàỏ Tôi cảm thấy sao khi nhận ra các dấu ấỵ Rồi tôi làm gì? * Tôi đã tìm và đã thấy Chúa chưa? Ngài ra sao? Ngài nói gì? * Tôi tặng Chúa lễ vật gì? Chúa phản ứng ra sao?
Chi Tiết Hay
* Bêlem, nơi Chúa sinh ra là một thôn làng nhỏ cách Giê-ru-sa-lem 6 dặm về phía nam.
* Israel thời ấy bị đế quốc Rô-ma đô hộ. Hêrôđê được Rô-ma bổ nhiệm cai trị xứ Pa-lét-tin. Ông nổi tiếng là người tàn bạo.
* Dân chúng thời đó tin rằng mỗi người có một ngôi sao chiếu mệnh.
* Ba nhà đạo sĩ đến từ vùng Tiểu Á. Họ là những người thông thái. Sở trường của họ là nghiên cứu về khoa chiêm tinh và được xem là cố vấn của nhà vua về đời và đạo. Họ theo ánh sao đi tìm sự xuất hiện của một Đấng Cứu Thế.
* Ý nghĩa của lễ vật: 1. Vàng - Thời xưa, vàng có tính cách quý báu và cao sang, chỉ dành cho vua chúa. Vàng có ý nói hài đồng Giêsu là Vua. 2. Nhũ Hương - Trầm hương chỉ dùng trong việc tế lễ. Hơn thế nửa, trầm hương ở đây nói lên sự ca ngợi và thờ lạy. Trầm hương có ý nói Chúa hài đồng là Thiên Chúa. 3. Mộc Dược - Mộc dược dùng để chữa lành người bệnh và tẩm liệm thi thể người chết thời đó. Mộc dược nói lên nhân tính của hài nhi và cái chết sau này của Chúa Giêsu.
Một Điểm Chính
Sự viếng thăm của ba nhà chiêm tinh được coi là cách Thiên Chúa dùng để tỏ mình ra cho nhân loại. Chúa mời gọi mọi người, cả Do thái lẫn người ngoại giáo, cùng đến nhận lãnh ơn cứu độ.
Suy Niệm
1. Tôi nghĩ gì về ba nhà chiêm tinh gia? Điều gì ở họ làm tôi xúc động nhất?
2. Tôi có lễ vật gì tặng Chúa Hài Đồng nếu Ngài sinh ra ngày hôm nay?
3. Chúa sinh ra nơi máng cỏ và tỏ mình ra với ba nhà chiêm tinh thông thái và nhiều mục đồng dốt nát. Là một Kitô hữu, tôi đã "tỏ mình" ra như thế nào với mọi người chung quanh tôi? Tôi có khinh bỉ những ai không bằng tôi (địa vị, học thức, tài chánh, kiến thức...)?
4. Sau khi gặp Chúa rồi, ba nhà chiêm tinh trở về bằng lối khác. "Gặp Chúa" qua đức tin, tôi đã chọn con đường nào trong cuộc sống hằng ngày?
5. Chúa đã kêu gọi ba nhà chiêm tinh bằng một dấu hiệu quen thuộc với họ trong ngành của họ, một ngôi sao. Trong đời sống và việc làm thường nhật, để hiểu Thánh Ý Chúa, tôi đã nhận ra dấu hiệu nào?
6. Ba nhà chiêm tinh nhận thấy Chúa qua hình ảnh một hài nhi nằm trong máng cỏ. Lối sống của tôi đã thể hiện hình ảnh nào để cho mọi người thấy được Chúa ở trong tôi?
135. Tìm kiếm Chúa
Các nhà chiêm tinh từ phương Đông phát hiện ngôi sao lạ và các ông nhận ra là có một vị Vua mới sinh ra nên các ông vội vả mang lễ vật lên đường tìm kiếm để thờ lạy vị Vua mới sinh ấy. Hành trình của các nhà chiêm tinh thật vất vả, các ông phải lặn lội đường xa theo dấu ngôi sao lạ mà đi. Đến Giêrusalem thì ngôi sao lạ biến mất, các ông phải tìm hỏi khắp nơi làm xáo trộn cả thành Giêrusalem, làm cho Vua Hêrôđê vô cùng bối rối: "Nhà Vua liền triệu tập tất cả các Thượng tế và Kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu". Họ trả lời: "Tại Bêlem, miền Giuđa, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Belem, miền Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-el dân Ta sẽ ra đời". Các nhà chiêm tinh lại tiếp tục lên đường theo hướng Bêlem, miền Giuđa. Đến nơi, "họ vào nhà, thấy Hài Nhi với Mẹ Người là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến".
Trong sách Giáo Lý Công giáo số 27 và 35 dạy: "Tận đáy lòng, con người khao khát tìm kiếm Thiên Chúa vì con người được tạo dựng do Thiên Chúa,... vànhờ những năng lực của mình, con người có thể nhận biết sự hiện hữu của một Thiên Chúa...và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm gặp chân lý và hạnh phúc...". Và trong Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Rôma dạy "Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa thì thật là hiển nhiên trước mắt họ...". Các nhà chiêm tinh nhờ vào sự hiểu biết của mình mà nhận ra Vị Vua mới sinh và mau mắn lên đường tìm gặp Ngài. Các nhà chiêm tinh đã dùng khả năng Chúa ban để đi tìm kiếm Ngài. Ngược lại, các Thượng tế và Kinh sư nhờ đọc sách Thánh mà biết được vị Vua sẽ sinh ra tại làng Bêlem nhưng không tìm kiếm Ngài, những điều các Thượng tế và Kinh sư biết được trong sách Thánh chẳng đem lại ích lợi gì cho các ông, vì các ông không tìm Chúa.
Thật trớ trêu thay, các nhà chiêm tinh không hiểu biết kinh thánh nhưng nhờ vào sự hiểu biết thiên văn mà nhận ra vị Vua xuất hiện, rồi đến với Ngài. Còn các Thượng tế và Kinh sư thì không. Đúng là "kẻ trước hết sẽ nên sau hết, kẻ sau hết sẽ trở nên trước hết".
Mỗi Kitô hữu chúng ta hãy xét mình lại, dù chúng ta đã đã được rửa tội, dù chúng ta đã lãnh nhận các Bí tích, nhưng chúng ta có chân thành tìm kiếm Chúa mỗi ngày trong cuộc sống không? Chúng ta có có dùng khả năng Chúa ban để tìm Chúa như các nhà chiêm tinh không hay chúng ta lại an tâm vì mình đã được rửa tội, đã được nghe Lời Chúa và lãnh các bí tích rồi không cần tìm kiếm Chúa nữa như thế chúng ta giống các Thượng tế và Kinh sư xưa.
Các nhà chiêm tinh đã không quản ngại đường xa vất vả, không ngại tốn thời gian, không ngại tốn của cải, gặp khó khăn trở ngại họ không hề chùng bước thối lui, họ cố gắng vượt qua tất cả để gặp được Chúa hài nhi.
Chúng ta có được thái độ như thế không? Đường xá xa xôi có làm chúng ta ngại đến nhà thờ tham dự thánh lễ không? thời gian đọc kinh, cầu nguyện, dự lễ có làm cho chúng ta ngán ngại không? Những khó khăn, buồn phiền, thất mùa, thiên tai có làm cho chúng ta chậm bước chân đến với Chúa không? Một chút thử thách đó có làm cho chúng ta "thay lòng đổi dạ" với Chúa không? Chúng ta có tin vào quy luật "sau cơn mưa trời lại sáng" để luôn vững niềm tin vào Chúa không?
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết hết lòng tìm Chúa trong mọi sự như lời Chúa dạy: "tiên vàn hãy tìm những sự trên trời còn mọi việc khác Chúa sẽ ban cho".
136. Lễ vật
Các nhà bác học đã dâng tiến cho Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để chỉ Hài Nhi Giêsu là vua, nhũ hương để chỉ Hài Nhi Giêsu là Chúa và mộc dược để chỉ đến cái chết đau khổ của Hài Nhi Giêsu sau này… Thế nhưng những lễ vật này có ý nghĩa gì đối với chúng ta.
Trước hết là vàng. Vàng nói lên lòng yêu mến của chúng ta, một lòng yêu mến tinh ròng, cao cả và mãnh liệt như lời Ngài đã xác định:
- Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.
Đồng thời thánh Phaolô còn nhấn mạnh:
- Ai có thể phân rẽ tôi ra khỏi lòng yêu mến đối với Đức Kitô, dù bắt bớ, dù tù đày, dù đòn vọt, dù đói khát cũng không thể nào được.
Vàng còn làm lên sự trung kiên của chúng ta, không vì một lý do, một hoàn cảnh nào mà bị chao đảo, mà bị lung lay để rồi đi đến chỗ phản bội. Hãy trung thành với Chúa cho đến chết, vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Sau hết, vàng còn nói nói lên sự chân thật của chúng ta. Thực vậy, chúng ta có thể lừa dối kẽ khác chứ chẳng thể nào lừa dối được Thiên Chúa. Con người thời nay thường thích hóa trang, thường thích đeo mặt nạ. Nhưng người Kitô hữu phải luôn biểu lộ con người và bộ mặt thật của mình. Phải là một thứ vàng ròng chứ không phải là một thứ vàng dổm.
Tiếp đến là nhũ hương. Nhũ hương nói lên tâm tình thờ lạy của chúng ta đối với Đức Kitô. Thực vậy, trong những nghi thức phụng vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc Phúc âm, khi dâng Mình Thánh, khi chầu Thánh Thể.
Qua hình ảnh nhũ hương chúng ta tìm thấy một niềm tin tưởng mãnh liệt vào bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô. Đây không phải là một niềm tin tưởng có tính cách giáo điều hay lý thuyết mà là một niềm tin tưởng sống động và mãnh liệt, vì Đức Kitô là Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta và trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, cũng như đang giảng dạy chúng ta qua lời Ngài trong Phúc âm.
Nhũ hương còn là tượng trưng cho tâm tình kinh nguyện, như thánh vịnh đã viết:
- Lạy Chúa, xin cho lời con nguyện cầu tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa.
Sự cầu nguyện là một việc làm riêng tư, một sự kết hợp giữa tâm hồn chúng ta với Thiên Chúa, nó xuất phát tự cõi lòng, tự con tim chúng ta. Đồng thời sự cầu nguyện còn mang tính cách cộng đồng vì lời nguyện đẹp lòng Chúa hơn cả là lời nguyện của Giáo Hội và với Giáo Hội, vì qua lời nguyện của Giáo Hội chúng ta tìm thấy lời nguyện của Đức Kitô, là đầu của nhiệm thể.
Sau cùng là mộc dược. Mộc dược là niềm tin tưởng vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ được tái diễn qua lễ dâng trên bàn thờ:
- Mỗi khi anh em ăn bánh này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Ngài trở lại.
Chính vì thế, thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta:
- Anh em hãy mang lấy dấu tích của Đức Kitô nơi thân xác anh em.
Vì thế, mộc dược có ý nói tới việc hy sinh hãm mình, như lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Tiếp đến, mộc dược còn nói lên những hy sinh trong cuộc sống. Hãy chấp nhận những khổ đau vì lòng yêu mến Chúa và hãy dâng tiến Chúa như một lễ vật nhỏ mọn, bấy giờ những đau khổ của chúng ta sẽ trở nên là một góp phần vào những đau khổ của Đức Kitô, là những giọt máu tử đạo chúng ta có thể đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và tự hỏi: Chúng ta đã dâng gì để làm lễ vật cho Chúa Hài Nhi hay chưa?
137. Ngôi sao
Dựa vào câu chuyện các nhà hiền sĩ bước theo ngôi sao lạ để tìm đến Bé Giêsu, người Việt công giáo chúng ta thường treo lồng đèn ngôi sao mỗi độ Giáng Sinh về. Người công giáo Mỹ thì không làm lồng đèn, nhưng lại đính ngôi sao lên chóp cây Noel, như ánh sáng trên chóp đỉnh cây sự sống. Lồng đèn Việt, hay ngôi sao trên chóp cây thông Mỹ nhắc chúng ta nhớ đến Bé Giêsu là ánh sáng muôn dân: Chư dân sẽ lần bước tìm về ánh sáng của Ngươi. Và các vua hướng về ánh bình minh rạng ngời trên Ngươi.
Là Nhiệm Thể của Đức Kitô, Giáo Hội trở nên ánh sáng của muôn dân. Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tháp nhập vào Nhiệm Thể Đức Kitô, không phải chúng ta sống nữa, nhưng là chính Chúa Giêsu sống trong ta (Gl 2,20). Chúng ta có bổn phận phải trở nên ánh sáng cho con em, học trò, bạn bè của chúng ta. Chúng ta không thể sung sướng, thỏa mãn, an vui ôm lấy ngôi sao, chỉ đính lên chóp cây thông trong nhà mình, chỉ nhà mình hưởng, nhưng phải là lồng đèn chiếu sáng, đem treo ngoài ngõ, cho người khác chung hưởng nguồn vui của ơn cứu sống Thiên Chúa đã ban qua Con của Người: Chính anh chị em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che dấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng ụp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người. Cũng vậy, ánh sáng của anh chị em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh chị em làm, mà tôn vinh Cha của anh chị em, Đấng ngự trên trời (Mt 5,14-16). Chúng ta đã trở nên ngôi sao, và chúng ta phải sống cho xứng là ngôi sao lạ dẫn lối cho lương dân đến cùng Bé Giêsu: Con em, học sinh, bạn bè sẽ lần bước tìm về ánh sáng của Chúa Kitô. Và họ sẽ hướng về ánh bình minh rạng ngời trên chúng ta.
Cũng như ngôi sao lạ trong chuyện ba vua, lắm khi ngôi sao của chúng ta cũng biến mất, tịt luôn. Là thân phận con người, ai mà không quên sót, phạm tội, hay ngã lòng. Nhưng Thiên Chúa vẫn hằng tin nhờ con người yêu đuối chúng ta. Chúng ta chỉ cần trông cậy vào ơn thánh, rồi gắng xuất đầu lộ diện trở lại, như ngôi sao lạ đã hiện ra lại cho các nhà hiền sĩ trong Tin Mừng: Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Nếu bạn đã tạm ngưng làm tông đồ, làm giáo lý viên... thì nay xin mời bạn tái xuất giang hồ nhe. Hãy dấn thân trở lại. Hãy là ngôi sao lạ cho người chung quanh. Trông thấy bạn trở lại, họ sẽ mừng rỡ vô cùng. Bạn và tôi, chúng ta được mời gọi làm ngôi sao lạ, không phải để cho con em, học trò, bạn bè chiêm ngắm mình, rồi trầm trồ ca ngợi, nhưng là để dẫn con em, học sinh, bạn bè đến NHÀ HÀI NHI. Và một khi các nhà hiền sĩ đã vào NHÀ BÉ GIÊSU đã gặp Ngài, gặp Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se, thì không còn ai nhắc đến ngôi sao nữa. Đời tông đồ của chúng ta cũng thế: phải quy về Kitô, và chỉ quy về Kitô. Ơn giáo dục của chúng ta chỉ là sứ mạng dẫn trẻ đến cùng Chúa Giêsu. Nếu chúng ta cứ đứng chình ình ra đó, thu hút trẻ đến với mình, thì cũng có thể chúng ta thành công trong một thời gian ngắn. Nhưng chúng ta sẽ như những sao xẹt. Trái lại, nếu chúng ta biết lui vào quên lãng sau khi dẫn trẻ vào Nhà của Chúa Giêsu, thì chúng ta sẽ được Ngài biến thành sao lạ, cho sáng chói giữa muôn vì sao:Những ai giảng dạy đường công chính cho nhiều người sẽ muôn đời sáng chói như tinh sao. Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa là cùng đích, chỉ có Chúa là nguồn gốc mọi ơn tông đồ.
138. Ngôi sao hy vọng
Tại nước Camơrun ở Phi Châu, có một vùng đất tên là Fontem, dân số khoảng 20 ngàn người, là một bộ lạc bị đe dọa tuyệt chủng vì nhiều thứ bệnh, nhất là bệnh ngủ và bệnh giun chỉ.
Tộc trưởng của bộ lạc Fontem đã đi cầu cứu nhiều nước và nhiều tôn giáo nhưng không kết quả. Cuối cùng, ông đã đến với Đức cha Peters thuộc giáo phận Buca ở Camơrun, đặt vào tay ngài một số tiền và nói: “Bộ lạc chúng tôi chẳng tốt lành gì để đáng được Chúa thương nhận lời, vậy chúng tôi xin Đức cha và các tín hữu của ngài cầu cùng Chúa cho chúng tôi. Hy vọng Chúa sẽ nhận lời”.
Đức Cha Peeters và giáo dân của người không chỉ cầu nguyện mà còn hành động. Họ chung tay góp sức làm cho bộ lạc Fontem ngày càng tốt đẹp hơn. Khởi đầu là 2 bác sĩ, 1 bác sĩ thú y, cùng với 3 phụ nữ thuộc phong trào Giáo dân Hoạt động cho thế giới được Hiệp nhất trong Yêu thương.
Ngày nay, bộ lạc Fontem đã hoàn toàn đổi mới. Xưa kia là rừng thiêng nước độc thì nay là phố xá đô hội. Điều bất ngờ là chính thành phố này lại là chiếc nôi của một phong trào Giáo dân Thiện nguyện tới phục vụ ở rất nhiều nước tại Phi Châu. Số người xin học đạo và gia nhập Giáo hội nhiều vô kể.
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện”. Các nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh sao lạ, và đã mau mắn lên đường trong niềm hy vọng tràn đầy. Vâng, chính trong niềm hy vọng tràn đầy mà tộc trưởng Fontem đã hăng hái đến với Đức cha Peeters như ánh sao hy vọng. Ong hy vọng bộ lạc của ông sẽ thoát cảnh bệnh tật và nghèo đói, ông hy vọng dân tộc mình sẽ bước theo kịp văn minh tiến bộ của nhân loại. Cuối cùng, hoa hy vọng đã khai mùa mở cánh. Bộ lạc của ông đã được ngôi sao hy vọng tỏa sáng để họ không chỉ đến với nền văn minh khoa học mà còn tiến bước vào nền văn minh tình thương.
Ngôn sứ Isaia đã nói: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.
Ánh sáng bừng lên chiếu rọi, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy Vọng của muôn dân. Kể từ khi nguyên tổ phạm tội, ánh hào quang của địa đàng vụt tắt, nhân loại mò mẫm trong bóng đêm tội lỗi, mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian.
Ngôi Sao Hy Vọng đã xuất hiện ở trời Đông, và sẽ không bao giờ lặn đi.
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ, trong đó có tất cả chúng ta.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối của chúng ta, thì Người cũng muốn chúng ta sẽ là những ánh sao, luôn chiếu tỏa niềm tin yêu và hy vọng nơi con người.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không bao giờ thất vọng về con người, cho dù con người thất trung phản bội, thì chúng ta cũng đừng bao giờ thất vọng về chính mình.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không hề để ai phải thất vọng khi trông cậy nơi Người, thì chúng ta cũng đừng bao giờ để một nỗi thất vọng nào chạm được đến anh em.
Tuy Ngôi Sao Hy Vọng xuất hiện ở Phương Đông đã 2000 năm qua, nhưng tại Á Châu này tỷ lệ những người được Ngôi Sao chiếu rọi mới chỉ có 10,4o/o. Đó là nỗi thao thức của Giáo hội và cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bày tỏ trong Tông Huấn “Giáo hội tại Á Châu” như sau: “Những kẻ tin vào Chúa Kitô vẫn là một thiểu số bé nhỏ trong lục địa mênh mông và đông dân nhất này. Nhưng không phải là một thiểu số nhút nhát, họ sống đức tin cách sống động đầy hy vọng và ban sức sống, mà chỉ có duy nhất tình yêu, mới có thể mang lại”.
“Tham vọng duy nhất của Giáo hội là tiếp tục sứ mạng phục vụ và yêu thương của mình, để tất cả dân Á Châu “có sự sống và sống dồi dào”.
139. Món quà trao tặng
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Nhìn vào các hang đá, ngoài những nhân vật quen thuộc như Chúa Giêsu Hài đồng, Đức Maria, thánh Giuse, mấy mục đồng… Chúng ta còn thấy ba người mặc phẩm phục như những ông vua, tay mang lễ vật, đang khúm núm rất trịnh trọng trước hài nhi mới sinh. Họ là ai? Họ từ đâu đến? Họ thuộc nước nào? Tại sao họ có mặt ở đây?
Theo mẫu đối thoại thánh Matthêu kể lại trong Tin Mừng, người ta truyền tụng nhau và gọi họ là ba vua. Nhưng thực sự Tin Mừng không nói thế mà chỉ gọi họ là các nhà chiêm tinh, tức là các ông lớn, những nhà thông thái, chuyên nghiên cứu thiên văn, nghiên cứu các ngôi sao để cố vấn cho nhà vua trong vấn đề chính trị.
Có nhiều người lại đặt ra vấn đề: các ông này có thật không hay chỉ là một huyền thoại? Cho đến nay, ngoài phạm vi tôn giáo, chưa có một nguồn tài liệu nào khẳng định rõ ràng dứt khoát. Ở vùng Trung Đông có rất nhiều nước kể chuyện này và được coi như một chuyện cổ tích. Nhưng đối với chúng ta, dựa vào Tin Mừng, thì sự hiện diện của ba vị này ở hang đá Bêlem là chuyện có thực. Nhưng các ông từ đâu đến thì chúng ta không thể căn cứ vào đâu mà xác quyết. Có một điều chắc chắn là cũng chỉ ở trong vùng Trung Đông thôi. Tuy nhiên, những chi tiết đó không quan trọng, điều quan trọng nhất là bài học mà các vị này để lại cho chúng ta.
Trước hết, cuộc hành trình của các nhà chiêm tinh được xem là hình ảnh cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Với một dấu hiệu không chắc chắn, không rõ rệt là một ngôi sao, các ông đã lên đường tìm kiếm sự thật. Với tấm lòng yêu chuộng sự thật, các ông đã miệt mài tìm kiếm cho đến khi biết được sự thật và gặp được Chúa Giêsu. Cuộc đời của chúng ta cũng phải luôn đi tìm Chúa. Dù chúng ta đã có đức tin, nhưng lòng tin của chúng ta có những lúc bị chao đảo, bị thử thách vì những khó khăn, đau khổ của cuộc sống. Nhưng dù hoàn cảnh thế nào, chúng ta vẫn kiên quyết giữ đức tin và sống đức tin.
Chúng ta phải sống bằng đức tin chứ không thể sống bằng tình cảm. Trong tình cảm có vui có buồn. Nhưng vui buồn lúc có lúc không. Nếu chúng ta chỉ dựa vào niềm vui và khi vui mới khiến chúng ta tin. Vậy khi hết niềm vui thì sao? Lòng tin của chúng ta sẽ bị suy giảm. Hay khi gặp những chuyện buồn thì sao? Chúng ta còn tin không? Vì thế, chúng ta phải sống bằng niềm tin vững chắc, không lệ thuộc vào ai, cũng không lệ thuộc vào hoàn cảnh.
Hơn nữa, đức tin của chúng ta phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có việc làm là một đức tin chết”. Chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin và có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.
Thứ hai, các vị này đã dâng cho Chúa Hài đồng vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba loại lễ vật đặc biệt và quí giá nhất của Đông phương. Nhưng những lễ vật vô tri kia chỉ là dấu hiệu biểu lộ tâm hồn của họ, chứng tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính và yêu mến của họ đối với Chúa Hài đồng.
Văn sĩ Dô-ơ-den-sen (Joergensen), người Đan Mạch đã nghĩ ra một câu chuyện minh họa cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ông đã tưởng tượng ra một vị chiêm tinh thứ tư. Vị này đến gặp Chúa Giêsu hài đồng sau ba vị kia. Gặp Chúa, nhưng ông rất buồn vì không còn gì để dâng tặng cho Ngài. Trước khi lên đường, ông đem theo ba viên ngọc quí giá. Dọc đường, ông gặp một cụ già đói nghèo, ông tặng viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai thương lượng với chúng để chuộc cô gái. Cuối cùng, khi đến Bêlem, ông gặp một người lính do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ ba cho anh ta và thuyết phục anh ta từ bỏ hành động gian ác. Đến khi gặp được Chúa Hài đồng, ông chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nhưng thật lạ lùng, Chúa Giêsu đưa hai tay ra và mỉm cười nói với ông: “Con đã dâng cho Ta món quà quí giá nhất. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân”.
Chúa Giêsu đã nói: “Bất cứ điều gì các con làm cho người khác là làm cho chính Ta”. Chúng ta vẫn luôn gặp Chúa trong cuộc sống hằng ngày qua những anh chị em sống với chúng ta, và tất cả những gì chúng ta làm cho họ là chúng ta làm cho chính Chúa. Như vậy, lễ vật làm hài lòng Chúa nhất chính là những gì chúng ta trao tặng cho tha nhân.
140. Hành trình đức tin
Truyện kể trong một khu rừng kia có con cáo mù bị lạc đường. Đamg lúc lo âu sốt ruột, đột nhiên nghe tiếng bước xa xa đến gần, con cáo vội vàng hỏi trong vui sướng:
- Chào anh bạn, xin hỏi đường về nhà tôi đi bằng cách nào?
- Anh không thấy đường sao?
- Thấy thì còn hỏi anh làm gì.
Đối phương lần chần một chút rồi trả lời:
- Được rồi, anh đi với tôi. Con cáo đi sau lưng anh bạn ấy, bảo sao nghe vậy. Đi không bao lâu, hai đứa tập tễnh tiến vào ngõ cụt, đi mãi mà không ra khỏi đó, cuối cùng con cáo chịu không nổi phải thốt lên.
- Anh dẫn đường nhưng rốt cuộc anh dẫn như thế nào đấy chứ?
Hồi lâu, chỉ nghe đối phương biết lỗi nói: Xin lỗi bởi vì tôi cũng mù như anh vậy. (Hàn Lâm Tử)
Câu chuyện trên cho ta thấy con cáo mù rất muốn tìm đường về nhà, chắc chắn là nó rất lo lắng bối rối và sợ lắm. Khi gặp được người bạn dẫn đường thì cáo mừng lắm, nhưng cuối cùng thì cả hai đều bị đi vào ngõ cụt vì không có ai thấy ánh sáng thấy đường để mà đi. Trong cuốc sống rất có thể chúng ta đang là một con cáo mù, vì không biết mở mắt ra để đón lấy ánh sáng. Chúng ta không khác gì dân thành Giêrusalem xưa, trong cùng một cảnh ngộ mà các nhà đạo sĩ từ phương xa lại nhìn thấy ánh sáng để đi tìm Đấng Cứu Thế. Còn họ thì lo mãi mê yêu đời, sống cuộc sống hưởng thụ, vui chơi với tất cả tiện nghi, một cuộc sống không thiếu thốn sự gì. Ngày nay với nên khoa học tiên tiến, đưa con người đến ánh sáng hiện đại nhưng lại đẩy họ vào ánh sáng tội lỗi; biết những nơi ăn chơi thác loạn mà không bao giờ tìm tới nhà thờ, ham thích nhảy múa ca hát mà không bao giờ biết dùng lời kinh cầu nguyện dâng lên Chúa. Các đại gia dám bỏ ra hàng triệu dollar để ăn chơi trác táng, mà không dám bỏ ra 500 đồng để làm việc bác ái... rất nhiều, còn rất nhiều việc làm của chúng ta đang ở trong bóng tối, ngôi sao sáng của Chúa vẫn đang sẵn sàng chiếu tỏa ánh sáng, chỉ cần chúng ta đừng vô tình, đừng dửng dưng nữa mà hãy quyết tâm bằng cả thiện chí đứng lên và bước ra khỏi đời sống tầm thường đó, cùng đi với các đạo sĩ theo ánh sao lạ dẫn đường tìm Đấng Cứu Thế.
Con cáo mù không về nhà được vì người bạn dẫn đường cũng bị mù. Nhiệm vụ truyền giáo là công việc của tất cả những người Kitô hữu, đó là dẫn mọi người "bị mù" tìm gặp ánh sáng Chúa Kitô. Con đường truyền giáo hoàn toàn không dễ như ta tưởng, nếu không khéo ta cũng giống như người bạn của con cáo mù, không những đưa bạn về không được mà cả mình cũng không thể về. Điều cần thiết là mỗi người chúng ta phải là ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và trong tâm hồn những người thiện chí vì như Chúa Giêsu đã nói: "Các con là ánh sáng trần gian" ( Mt 5, 14). Khi nghe câu nói đó, tôi nhận ra ngay một điều là Thiên Chúa muốn gởi đến cho chúng ta một thông điệp truyền giáo và ngay lúc này chúng ta phải là muối là ánh sáng.
Ánh sáng Tin Mừng đã được rao giảng hơn 2000 năm, nhưng cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la bát ngát. Đặc biệt là trong cánh đồng truyền giáo ở Việt Nam , còn rất nhiều người đang mò mẫm tìm đường đi. Do đó, chúng ta phải là ngôi sao dẫn đường cho anh chị em lương dân, ở giữa họ với một con tim cởi mở và yêu thương. Nhất là qua đời sống hàng ngày họ sẽ tìm gặp được Hài Nhi trong hành động của chúng ta.
Chúng ta cũng rất dễ rơi vào thái độ dửng dưng với lời kêu gọi của Giáo hội, cứ nghĩ nếu ta không làm thì vẫn còn người khác làm. Nếu ai cũng nghĩ như ta thì làm gì có các nhà truyền giáo, làm gì có hạt giống Tin Mừng nào được gieo ở Việt Nam và chúng ta vẫn là con cáo mù vẫn chưa tìm được đường về nhà. Nhưng ngược lại, nếu tất cả các tín hữu Việt Nam nghe theo lời mời gọi truyền giáo, và mau mắn đáp trả thì Hội Thánh Chúa đã có những bước tiến rất xa. Vậy ta hãy ý thức mình vẫn là một hạt cát quan trọng trong sa mạc truyền giáo của Chúa.
Lạy Chúa, Xin giúp con trở thành một ánh sao soi đường, dẫn lối cho những người xung quanh trên bước đường tìm gặp Chúa.
141. Tìm kiếm
Có một giai thoại nói rằng không chỉ có ba nhà đạo sĩ, mà đến bốn vị. Tên của vị thứ tư là Artaban. Ông cũng nhìn thấy ngôi sao và đã quyết định dõi theo ngôi sao, ông mang đi một viên hồng ngọc, một viên ngọc bích và một viên kim cương làm quà biếu vị Vua mới. Ba người đồng hành là Caspar, Melchior, và Balthasar đang chờ đợi ông tại một điểm hẹn. Tuy nhiên, trên đường đến đó, ông gặp một người bị thương nằm bên vệ đường. Ông đưa vào quán trọ, và săn sóc người đó.
Cuối cùng, khi đến điểm hẹn, ông phát hiện rằng những người bạn đồng hành của ông đã bỏ đi rồi. Vì cần có một con lạc đà và những đồ dự trữ để vượt qua sa mạc, nên ông đã bán đi một viên ngọc bích để mua những thứ đó. Khi gần đến Bêlem, một lần nữa, ông lại đến quá trễ, Đức Maria và thánh Giuse đã đưa con trẻ trốn sang Ai cập, để lẩn tránh những tên giết người của vua Hêrôđê.
Trong ngôi nhà mà ông đang tá túc, có một đứa bé trai lên 1 tuổi. Bà mẹ rất lo sợ cho mạng sống của con trai bà. Vào một buổi tối, quân lính đến gõ cửa, Artaban đi ra gặp họ. Ông lấy viên hồng ngọc hối lộ cho quân lính không vào nhà, và đã cứu thoát được đứa trẻ. Bà mẹ rất đỗi vui mừng. Tuy nhiên, Artaban lại buồn rầu bởi vì lúc bấy giờ, ông chỉ còn lại một viên kim cương duy nhất để làm quà biếu vị Vua mà thôi.
Trong suốt những năm sau đó, ông đã đi nhiều nơi để tìm kiếm vị Vua. Nhưng dường như ông luôn luôn đến trễ. Khoảng 30 năm sau, ông đến Giêrusalem. Bấy giờ, ông đã già yếu kiệt sức, và mất nhuệ khí. Ngay hôm ông đến đó, thì có một số người bị đóng đinh. Ông kinh hãi khi nghe tin rằng Đức Giêsu ở trong số những người đi xử tử. Ông vội vàng đến ngọn đồi nơi diễn ra cuộc hành quyết. Có lẽ với viên kim cương, ông có thể cứu thoát được mạng sống của Đức Giêsu.
Tuy nhiên, trên đường đến đồi Can-va-riô, ông gặp một cô gái đang chạy trốn một toán lính. Cha của cô gái đó đã bị mắc lừa những khoản nợ lớn, và cô gái bị bán đi làm nô lệ. Artaban lấy viên kim cương của ông ra, đưa cho quân lính, và cô gái đó đã được thả cho đi. Nhưng bây giờ, ông phải đến gặp vị Vua với hai bàn tay trắng.
Ngay sau đó, bầu trời bắt đầu tối tăm u ám. Một trận động đất rung chuyển mặt đất. Các nhà cửa bắt đầu bị lay động. Những viên ngói trên mái nhà bắt đầu bay vèo vèo. Một trong những viên ngói đó rơi trúng vào đầu của Artaban. Ông gắng sức vật lộn với vết thương chết người đó. Nhưng ông đã chết trước khi đến gần được ngọn đồi nơi diễn ra cuộc hành quyết. Ông không bao giờ gặp gỡ được vị Vua.
Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, Artaban luôn luôn có vị Vua của ông. Trong suốt những năm tháng đó, ông đã mang vị Vua này trong tâm trí và cõi lòng của ông. Vị Vua này đã truyền lại cho ông những hành động đầy yêu thương, quảng đại, và đã soi sáng cho cuộc hành trình của ông đầy ý nghĩa và hy vọng.
Artaban đã tìm thấy vị Vua của mình, bởi vì người nào, thực sự tìm kiếm Thiên Chúa, thì đã tìm thấy Người rồi. Artaban là một gương mẫu của lòng tin. Những ai tin tưởng và yêu mến Đức Giêsu thì đều được thay đổi: họ hành động và sống một cách khác hẳn.
142. Lễ Hiển Linh - Lm. Munachi Ezeogu
Trong một buổi sáng lạnh lẽo, ba người làm nghề hái dừa đang sưởi ấm quanh đống lửa. Khi ấy, hai người trong bọn họ tranh luận với nhau để so sánh xem đạo của ai là đạo thật. Okoro, người cao tuổi nhất trong bọn chỉ ngồi yên lặng nghe hai người kia tranh luận. Đột nhiên, hai người kia quay sang nói với Okoro rằng: “Quyết định dùm chúng tôi, Okoro. Tôn giáo nào đúng?” Okoro vuốt râu, ngẫm nghĩ và nói: “Các anh nên biết rằng, có ba lối để đi từ đây lên xưởng ép dầu. Anh có thể đi thẳng lên đồi, đấy là lối ngắn nhất nhưng phải leo dốc cao nhất. Anh có thể đi quanh bên phải của ngọn đồi, lối ấy không xa nhưng đường gập ghềnh và nhiều ổ gà lồi lõm. Hoặc là anh có thể đi quanh bên trái của ngọn đồi, đấy là đường xa nhất nhưng lại là lối đi dễ nhất”. Okoro nói thêm rằng: “Các anh nên biết rằng, khi các anh đến nơi, người chủ không hỏi các anh đến bằng cách nào. Ông ta chỉ hỏi hoa quả các anh mang đến có tươi tốt không?”
Trong những câu chuyện kể về Đức Giêsu sinh ra, có hai nhóm người đến kính viếng hài nhi mới sinh, đó là mục đồng và ba vua. Tại sao giáo hội không có lễ kính các mục đồng để tưởng nhớ việc họ đã kính viếng Chúa Hài Đồng, nhưng hôm nay giáo hội lại đặc biệt cử hành lễ Hiển Linh để kính nhớ ngày ba vua kính viếng Hài Nhi Giêsu? Bởi vì sự viếng thăm của ba vua là một bất ngờ. Các mục đồng biết được việc Chúa sinh ra là do các thiên thần trực tiếp hiện đến trong đêm vắng để báo tin. Đấy là sự bày tỏ tự nhiên và hầu hết mọi người trong chúng ta đều lãnh hội được. Về phần ba vua thì khác, họ biết tin Chúa sinh ra là do họ quan sát một ánh sao. Ngôi sao chẳng nói với họ điều gì. Họ đã phải tự tìm hiểu dấu hiệu tự nhiên của ánh sao để biết ý nghĩa và nơi mà ánh sao đã dẫn đưa họ đến. Nếu chúng ta nhớ rằng, ba vua là những người thờ lạy thiên nhiên, sùng bái tạo vật qua việc quan sát sự di chuyển của tinh tú và các thiên thể Chúa tạo dựng, thì chúng ta sẽ thấy rằng việc ba vua chiêm bái Hài Nhi Giêsu là một thách đố cho niềm tin của chúng ta.
Như những người hái dừa, người theo đạo thường tin rằng chỉ có truyền thống tôn giáo của mình mới đúng là đường đến với Chúa. Đây là điều chúng ta thường nghe khi đề cập đến lời của Đức Giêsu: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Gioan 14:6). Chúng ta vội vã kết luận rằng con đường của Chúa tương đương với truyền thống tôn giáo của mình. Nhưng sấm ngôn của Chúa cảnh cáo chúng ta về những diễn giải hạn hẹp ấy rằng: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Isaia 55:8); đấy là lý do làm cho chúng ta ngỡ ngàng về việc ba vua kính viếng Chuá Hài Đồng, và là câu chuyện lạ thường để cho chúng ta biết rằng Chúa không giới hạn bất kỳ một truyền thống tôn giáo nào.
Nên để ý xem có bao nhiêu truyền thống tôn giáo khác nhau tìm biết Con Thiên Chúa giáng trần. Bọn mục đồng, bị xem là hạng người dơ bẩn không đáng được vào Đền Thờ cầu nguyện nếu không trải qua thời kỳ thanh tẩy; họ đã tìm biết Chúa qua các thiên thần trực tiếp hiện ra báo tin. Ba vua đã tìm biết Chúa bằng sự quan sát ánh sao. Và các kinh sư của vua Hêrôđê thì tìm biết Chúa qua sách ngôn sứ. Thị ứng, ánh sao, sách thánh... Nhiều cách khác nhau nhưng đã đưa đến một chân lý. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là bất cứ truyền thống tôn giáo nào cũng tốt lành như nhau. Thánh Matthêu cho chúng ta biết rằng khi ánh sao dẫn lối đến Giêrusalem thì tắt, và ba vua đã phải nhờ các kinh sư chỉ lối đến Bê-Lem. Tuy rằng đã có ánh sáng tự nhiên của ánh sao, ba vua vẫn cần ánh sáng siêu nhiên của sách thánh, để cuối cùng tìm đến được với Chúa.
Vậy câu hỏi chính của câu chuyện là: “Ai đã thật sự tìm biết Chúa Giêsu?” Vua Hêrôđê và các kinh sư, người có ánh sáng siêu nhiên là kinh thánh nhưng lại không tìm thấy Chúa, nhưng ba vua là những người đi theo ánh sáng tự nhiên của ánh sao đã có thể tìm ra Chúa. Tại sao? Vì giới cầm quyền Do-Thái có được chân lý tỏ ra trong sách thánh nhưng họ đã không tin theo. Họ đã không bước đi trong ánh sáng của thánh kinh. Còn ba vua thì khác, họ chỉ biết ánh sao và bước theo ánh sao dẫn lối. Việc có được chân lý không quan trọng cho bằng làm thế nào để chuẩn bị bước đi trong ánh sáng của chân lý ấy mà chúng ta đang nhận biết. Thà rằng chúng ta có ánh sao mờ dẫn lối, còn hơn là có được ánh sáng siêu nhiên chói chan của thánh kinh mà chúng ta lại sao lãng, hững hờ.
Là Kitô hữu, chúng ta hằng tin rằng chính tôn giáo cho ta có con đường công chính. Nhưng điều ấy có đem lại bổ ích gì nếu chúng ta không bước đi theo con đường công chính ấy. Những người sùng bái thiên nhiên hoặc kẻ không biết Chúa, họ chỉ biết thành tâm quyết chí theo ánh sáng mờ ảo của thiên nhiên; họ có thể đến với Chúa Giêsu trước những Kitô hữu hằng tán tụng Thiên Chúa, nhưng không bước đi trong đức tin. Đấy thật là một thách đố mà chúng ta cần đối diện trong câu chuyện ba vua, những người đã tìm và đã gặp được Chúa.
143. Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR)
Không mấy ngạc nhiên là trong thời đại khoa học và lý luận này, người ta đều quan tâm nhiều đến tinh tú, chiêm tinh, tướng số tử vi. Ai nấy đều hài lòng khi đọc thấy trước một điều gì ngoạn mục sắp xẩy đến. Hành trình của ba Đạo sĩ theo ánh sao trời đi qua bao đồi núi sa mạc đã làm xôn xao tâm hồn chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình cũng có những vì sao riêng cho mình dõi theo, một con đường riêng mà chỉ một mình chúng ta được kêu gọi dấn bước.
Khi ba vị đạo sĩ tìm thấy Hài Nhi Giêsu, bằng đôi mắt đức tin, các ngài có thể nhận ra qua dáng vẻ bên ngoài của trẻ bé này Ánh Sáng Thiên Chúa đã đến trần gian. Từ đó về sau, các ngài không còn được sao trời dẫn đường nữa, mà là được soi đường dẫn lối bằng chính Ánh Sáng của Hài Nhi ấy, Đấng mà các ngài nhận ra là Đấng Cứu Chuộc Trần Thế. Chúng ta cũng được trao ban đôi mắt đức tin để giúp chúng ta tiếp tục hành trình trong khi chúng ta theo Chúa trên khắp nẻo đường đời, kể cả những khi băng qua những lối mòn hoang vắng của cô đơn, đau đớn thất bại và bệnh tật...
Có một cái gì đó tuyệt đẹp trong câu chuyện Ba Vua. Ba Đạo Sĩ năm xưa đại diện cho tất cả chúng ta trên con đường thiêng liêng kéo dài suốt cuộc đời. Chúng ta đây sẽ là ba đạo sĩ của thời nay, có nhiệm vụ làm cho cả và thế giới nhận biết Đức Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Nhiệm vụ đặc biệt của chúng ta là làm cho mọi người sẵn sàng rộng mở tâm hồn đón tiếp Lời Chúa để có thể nhận ra Chúa Giêsu dọc theo mọi nẻo đường đời. Đức Giêsu cần chúng ta cộng tác để nối dài công trình của Người.
Ba vị đạo sĩ xưa kia đã không đến với Chúa với bàn tay trắng, nhưng mỗi người một món quà đặc tuyển để nói lên lý do mục đích tìm kiếm của các ông. Ngày nay chúng ta cũng không được phép đến với Chúa với bàn tay không. Tuy chúng ta không có vàng, nhũ hương, và mộc dược, nhưng chúng ta có thể dâng cho Người món quà của chính chúng ta là cả nhân loại tháp nhập với Đức Kitô. Dâng hiến bản thân là một món quà quí giá không bao giờ hao mòn.
Hôm nay Giáo Hội mong muốn tất cả chúng ta vui mừng, vì đây là ngày công bố cho cả thế giới rằng Đức Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc mọi người, và ảnh hưởng của ơn cứu chuộc ấy không giới hạn vào bất cứ nền văn hoá nào.
Lễ Giáng Sinh đã tạo ra hai cuộc hành trình: một hành trình tới Bêlem, và một hành trình trở về quê nhà bằng con đường khác. Tất cả chúng ta hiện đang trên đường trở về quê trời. Đã một lần tìm đến Bêlem trong đời, chúng ta hy vọng rằng vào cuối cuộc hành trình cuộc đời, chúng ta sẽ lại gặp nhau nhờ Đức Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
144. Ngôi Sao phương đông
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
“Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem miền Giuđê thời Vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2).
Các nhà chiêm tinh Đông phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” (Mk 5,1). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người.
Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia.
Câu chuyện lời chúc phúc của Bilơam rất ly kỳ được kể trong Sách Dân Số chương 22-24.
Trên đường tiến về miền đất hứa, dân của Môsê đã giao tranh với nhiều lân bang. Đoàn dân nhỏ bé ấy lại có sức mạnh đánh đâu thắng đó. Các nước lân bang đều run sợ. Người Môáp khiếp sợ. Vua người Môáp sai sứ đến với Bilơam thuộc đất dân Ammon để xin ông này nguyền rủa dân Israel “may ra nhờ thế ta có thể đánh bại được nó và đuổi nó ra khỏi lãnh thổ của ta”. Các sứ giả lên đường tìm gặp Bilơam để trao cho ông lời sấm “chúc dữ” dân Israel. Bilơam mời các sứ giả nghỉ qua đêm để ông thỉnh ý Đức Chúa. Sáng hôm sau, Bilơam nói cùng các sứ giả rằng ông không thể làm theo yêu cầu của vua Môáp được. Nhưng đến lần thứ hai, dưới tác động của Thiên Chúa “cứ chỗi dậy, đi với chúng, nhưng chỉ được làm điều Ta bảo ngươi”, ông chấp nhận ra đi với các sứ giả vua Môáp. Bilơam đến miền đất dân Môáp để chúc dữ cho dân Israel trên lưng một con lừa cái và đi cùng với hai chú tiểu đồng. Trên đường đến với vua Môáp, con lừa của Bilơam thấy Thần sứ của Thiên Chúa đứng cản đường cùng với thanh gươm cầm sẵn trong tay. Thấy thế, con lừa cái bèn tránh đường đi xuống ruộng. Bilơam đánh đập con lừa và bắt nó phải đi trên đường. Khi đến con đường mòn hai bên đều xây tường, con lừa cái khi thấy Thần sứ liền ép sát vào tường làm cho chân của Bilơam bị cọ sát trầy xước. Tức giận ông lại đánh con lừa cách thậm tệ. Nhưng đến khi đến đoạn đường hẹp không thể nào đi được nữa vì Thần sứ chận đứng, con lừa đành phải nằm bẹp xuống chân ông Bilơam. Thấy vậy, Bilơam càng tức giận. Ông nổi nóng dùng gậy tới tấp đánh con lừa. Đến lúc này, con lừa lên tiếng: “Tôi đã làm gì ông mà ông đã đánh tôi đến ba lần”. Bilơam nhìn lên thì thấy Thần sứ Thiên Chúa thì run sợ. Theo hướng dẫn của Thần sứ Thiên Chúa, Bilơam đến với vua Môáp nhưng không phải để chúc dữ cho dân Israel mà là chúc phúc. Trong bài diễn văn chúc phúc đó, Bilơam đã tiên báo về Ngôi sao xuất hiện trong nhà Giuđa:”Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24, 17).
Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Đó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước.
Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng. Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Vua phái các vị ấy đi và dặn “xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi để tôi cùng đến bái lạy Người”. Họ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.
Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị Cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì Dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.
Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.
Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời.
Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo hội, qua các bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.
Hôm nay, không có ngôi sao đông phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.". Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).
Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao? Thánh Gioan giải thích: “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy.
Trong đời sống xã hội hôm nay, có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực. Ngôi sao nhạc Rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá…thôi thì đủ các loại sao! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà cũng tự nhận mình là sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là “siêu sao”!
Trong phạm vi tôn giáo, ta thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho những người chung quanh, nhưng chỉ dám nhận mình là tôi tớ vô dụng ( Lc 17,10). Thời nay, Mẹ Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la cũng là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời.
Ngôi sao đông phương dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi và tiến dâng lệ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng sáng lên niềm tin. Chính Chúa Giêsu là ngôi sao mai dẫn chúng ta đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Người Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu để chiếu lên làn ánh sáng hy vọng, ánh sáng tin yêu, ánh sáng công bình bác ái. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.
145. Khiêm nhường để nhận biết Chúa.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An)
Chu kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng Vụ cử hành việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng là hai lễ lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh. Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do-thái. Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Gaspar, Melchior và Balthasar là ba nhà Đạo Sĩ nổi tiếng ở Đông Phương được mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bê-lem, xứ Giu-đê để thờ lạy Đấng Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.
Chúng ta cùng dừng lại nơi Hang đá Bê-lem có Hài Nhi Giêsu để suy niệm về sự lạ lùng của cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa các Mục Đồng, các Đạo Sĩ với Đấng Cứu Thế. Chỉ có các Mục Đồng, các Đạo Sĩ tìm gặp được Chúa. Có các Thiên thần, có một ngôi sao rực rỡ trong ánh sáng thần linh chiếu sáng cho họ. Đức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.
Khi các Mục Đồng canh giũ chiên ở ngọn đồi Bê-lem, họ bỡ ngỡ vì vẻ đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa (Lc 2, 10-12). Còn các Đạo Sĩ ở bên kia xứ Ma-đi-an và Ba-tư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Đó là các Mục Đồng và các Đạo Sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.
Các Mục Đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Đêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết Đấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong Hang đá Bê-lem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Đấng Chăn Chiên của họ
Các Đạo Sĩ tìm gặp Đấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Đối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba Đạo Sĩ làm cho họ lên đường khám phá.
Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các Đạo Sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Đến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các Đạo Sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Khôn Ngoan.
Chỉ có các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: Các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các Kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc (Đức Cha Bùi Tuần).
Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri... nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hê-rô-đê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các Mục Đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các Đạo Sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo Hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.
Điều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các Đạo Sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.
Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong Hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong Hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các Mục Đồng và các Đạo Sĩ quỳ gối, có lẽ các Đạo Sĩ ghen với các Mục Đồng vì con đường của các Mục Đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Bước vào ngàn năm mới, Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.
Các Thượng Tế, các Kinh Sư thông hiểu Thánh Kinh, họ cắt nghĩa cho Hê-rô-đê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Đấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các Đạo Sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua các Bí Tích, qua cuộc sống hàng ngày. Để gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.
146. Suy niệm của Lm Jude Siciliano
Những tư tưởng đầu tiên xuất hiện trong đầu óc tôi khi suy gẫm về lễ Chúa Hiển linh là các đạo sĩ phương đông và bài thơ tôi rất ưng ý: "Cuộc hành trình của các đạo sĩ " của thi sĩ T. S. Eliot. Thi sĩ đã nối kết sự sinh ra và cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu, sự sống và cuộc hành trình về cõi vĩnh hằng của các đạo sĩ. Bài thơ là tự truyện của một trong ba đạo sĩ với những dòng cuối cùng như sau:
"Tôi nhớ lại, tất cả những điều đó đã xảy ra lâu rồi. Nhưng nếu được đi con đường cũ lần nữa, tôi sẽ cất bước ra đi. Phải chăng bằng chính nó mà người ta được dẫn đến cái chết hoặc sự sống thiêng liêng? Chắc chắn đã có một sự hạ sinh chẳng nghi ngờ gì nữa. Chính tôi đã chứng kiến sinh nở và cái chết nhiều lần. Tôi nghĩ chúng khác nhau. Nhưng lần này sự sinh ra là một biến cố quá ư nhức nhối. Nó giống như giây phút hấp hối đầy cay đắng cho mọi người. Nó là tử thần, là cái chết của chúng ta. Chúng tôi đã trở về các vương quốc của mình. Nhưng chẳng được an vui trong niềm tin cũ. Chúng tôi cảm thấy bồn chồn, chung quanh toàn người xa lạ, bám víu vào các ngẫu tượng của họ. Chúng tôi thà chết cho niềm tin này. Như thế chẳng sung sướng, hạnh phúc hơn sao?"
Để có thể lên đường, Các đạo sĩ đã phải giã từ gia đình, xóm làng, ngai vàng, quang cảnh quen thuộc ấm cúng để đến miền đất hoàn toàn xa lạ, đầy khó khăn, nguy hiểm, bất định. Như thế, cuộc hành trình của họ không thuần tuý vật chất. Nó đòi hỏi cả tinh thần. Sự thay đổi không nguyên về nơi chốn mà cả về phần tâm linh. Những gì là quen thuộc, bây giờ trở nên xa lạ. Những kinh nghiệm của các đạo sĩ phương Đông cũng là những kinh nghiệm của chúng ta, nếu muốn lên đường tìm kiếm Thiên Chúa nhập thể. Ngay cả khi chúng ta vẫn ở lại nơi chốn cũ, không phải khăn gói dõi theo một ngôi sao thể lý nào. Nói chung mọi cuộc đời chân chính đều đòi hỏi thay đổi liên tục. Sơ cứng não trạng là chết chóc về phần tâm linh. Hãy dời bỏ những gì đang mục rữa và can đảm đối mặt với cái mới, cái bất trắc. Đó là quy luật biện chứng của trời đất, vũ trụ. Chúng ta không có lựa chọn nào khác. Nguyên tử luôn luôn chuyển động. Bám vào quá khứ là không có tương lai. Vậy dầu muốn dầu không, hãy để quá khứ trôi vào dĩ vãng.
Dĩ nhiên, cần một núi can đảm để dám chấp nhận cái mới, và hứng chịu hậu quả của nó. Thánh Augustinô nói: "Chúng ta không hề có một thành trì vững bền ở thế gian" (De civitate Dei). Ngài nói về cuộc đời bây giờ và mai hậu. Do đó, dầu ở đời này, chúng ta sống cố định trong một thành thị, làng mạc hay một ngôi nhà suốt cuộc đời, chúng ta vẫn luôn đi trên một hành trình vô tận và người bạn cùng đi là Đổi Thay. Nói một cách cụ thể, nhân loại toàn là những kẻ mục tử, cắm lều tại nơi nào đó, rồi lại nhổ lều bỏ đi đến nơi khác xa lạ, liên tục di chuyển, liên tục làm mới từ đầu. Cho nên, chúng ta nhận các đạo sĩ làm tổ sư là hợp lý. Bởi các vị cũng liên tục là khách hành hương. Không hành hương chúng ta bắt đầu rữa nát! Tự mãn là vô lý, bởi loài người đang ở trong tiến trình hoàn thiện: Homo fit, non est (người ta sinh ra để hoàn thiện, không phải đã hoàn thiện rồi). Châm ngôn khôn ngoan của người xưa là thế. Cuộc hành trình của các đạo sĩ có vài đặc điểm rõ nét. Thứ nhất, họ không bị ép buộc phải ra đi, mà đã tự ý lựa chọn cuộc viễn trinh. Họ là những kẻ tìm kiếm. Thứ hai, họ đã nhìn lên trời, nghe trong lòng có tiếng gọi, trông thấy một viễn tượng lạ và một lời hứa hẹn mơ hồ. Họ mạnh dạn cất bước ra đi vào nơi bất định để được gặp "Vua Do thái mới sinh ra."
Cuộc sống mỗi người chúng ta cũng là một tiến trình tìm kiếm chân lý và sự thiện! Chúng ta đang ở giai đoạn nào, địa điểm nào đây? Cái gì đã thúc đẩy chúng ta tới đây? Cuộc viễn chinh của chúng ta đúng hướng hay đã chệch đường? Coi chừng chúng ta chạy nhanh lắm, nhưng trật đường rồi, do đó càng chạy càng xa mục tiêu chẳng bao giờ tới đích,. Con đường của chúng ta là hy sinh hay hưởng thụ? Mới đây một chị bạn đã viết cho tôi một lá thư dài đầy an ủi. Chị kể rằng hôm tháng ba vừa qua, chị phải trải qua một cuộc giải phẫu ung thư. Một cuộc hành trình dài đầy gian khổ mà chị chẳng muốn, chồng chị, các con, các cháu chị cũng chẳng ưa! Họ lo lắng từng giây phút về sự chữa chạy, về sức khoẻ của chị. Nhưng chị chỉ nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong những ngày đen tối đó. Ngôi sao dẫn đưa các đạo sĩ đến gặp "Vua Do thái mới sinh" là ánh sáng duy nhất hướng dẫn chị và gia đình vượt bể khổ trần gian. Cho nên giờ này tôi cũng ước ao ngôi sao hay ánh sáng đó dẫn dắt mỗi linh hồn và cộng đoàn trên hành trình riêng của mình. Chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa nếu ánh sáng đó lại là Đức Kitô chúng ta cử hành trong thánh lễ này. Bằng không, nếu ánh sáng đó cần thay đổi hoặc làm cho sáng hơn thì xin Chúa Giêsu Thánh Thể thực hiện công việc đó tức ngự vào linh hồn mỗi người tràn đầy hơn trong buổi thờ phượng ngày hôm nay. Bởi lẽ vắng Ngài là vắng sự sáng và sự sống (When the Lord went out the light and the life went out, too!).
Ngược lại, chúng ta chỉ kinh nghiệm những biến động xôn xao như hôn quân Hêrôđê mà thôi! Tưởng rằng mình đang làm theo thánh ý Chúa, phân biệt tỏ tường đâu là lành thánh, đâu là sa đoạ, mà kì thực chỉ là ổn định trong những cái giả tạo, không muốn ra khỏi tổ kén của mình để có được sự thay đổi cần thiết. Cách đây ít lâu, tôi có cơ hội quen biết một doanh nhân danh tiếng, 50 tuổi đời, đã dời bỏ công việc nhiều lợi lộc của mình để trở thành một giáo viên quèn cho mấy đứa nhóc trong làng. Ông nói để có được ý nghĩa, tức một dấu ấn cho thế hệ tương lai. Ông muốn cuộc đời ông phải là một cái gì khác, giá trị hơn tiền bạc nhiều. Tôi lại gặp một thanh niên học thức, có bằng cấp cao, tốt nghiệp nhiều trường kỹ thuật, người ta đề nghị anh một vài vị trí béo bở trong các xí nghiệp, nhưng anh đã quyết định ghi tên vào chủng viện để trở thành mục sư cho giới trẻ. Người thứ ba là một goá phụ, bà đứng dậy từ đau thương của mình, thành lập một nhóm thăm viếng kẻ liệt, nhất là các tang gia, cống hiến cho họ một "ngôi sao", an ủi họ trong những giây phút đen tối và tuyệt vọng. Không giống Hêrôđê chỉ tra hỏi xuông về con trẻ Giêsu, những người này và muôn vàn linh hồn tốt lành khác đã quyết tâm bó gói lên đường dõi theo vì sao chỉ đạo bước vào cõi vô định, những miền đất xa xôi, những tương lai mờ mịt, đòi hỏi nhiều đổi thay và hy sinh. Tuy nhiên, cách nào đó, họ đã tìm thấy "Đấng cứu thế mới sinh" và dâng lên Ngài những lễ vật mọn hèn của lòng mình. Không liều lĩnh, họ chẳng có hạnh phúc như vậy.
Đến đây, một loại người lữ hành khác nẩy ra trong tâm trí tôi. Số là ban sáng tôi nhận được một gói bưu phẩm gởi từ địa phận Austin, Mỹ, do văn phòng mục vụ Tây Ban Nha chuyển. Trong gói đồ có lá thơ của Đức Giám Mục Thomas Wenski (phát ngôn viên của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ) về tuần lễ "Di dân ". Tuần lễ từ Chúa Nhật mồng 5 đến 11 tháng Giêng, 2003. Lá thơ cho biết: tổng số Di dân trên thế giới là hơn 15 triệu. Một con số khủng khiếp. Hầu hết phải tạm trú trong các lều vải và trước mắt chẳng có giải pháp khả thi nào để ổn định họ. Trong khi đó quốc hội Hoa Kỳ chỉ nhận 70 ngàn người cho năm 2002. Năm 2003 chỉ phỏng 40 ngàn.
Các người nhập cư hợp pháp cũng như bất hợp pháp phải trốn chạy khỏi quê hương mình vì lý do an minh hay đói khổ. Nhưng khi đến nước này lại bị các chủ nhân ông khai thác, bóc lột sức lao động. Các Giám mục nêu ra những khốn khổ của họ như tính dễ bị tổn thương, sợ hãi bị phát giác và trục xuất, xa cách gia đình lâu dài, bị các cư dân địa phương nghi ngờ, kì thị trong cách đối xử hay thù ghét, kể cả hành hung. Sau biến cố 11.9.2001 hiện tượng bài ngoại gia tăng cường độ trên khắp nước Mỹ. Chủ đề của tuần lễ Di dân năm nay là: Tất cả anh chị em mới đến đều là quà tặng cho chúng ta. Rõ ràng chủ đề có liên quan chặt chẽ với ngày lễ hôm nay, và Đức giám mục Wenski đã muốn làm rõ tính kế thừa giữa các đạo sĩ cũ và mới. Phúc âm thách đố tín hữu Hoa kỳ nhìn thấy trong các di dân gương mặt của Chúa Giêsu và như vậy chấp nhận họ là ruột thịt với mình. Rất nhiều người nhập cư có đạo Công giáo, chia sẻ đức tin và trách nhiệm với chúng ta, làm cho giáo hội địa phương thăng tiến mạnh mẽ cả phẩm lẫn lượng. Nói chung, hầu hết những ai đến nước Mỹ để tìm kiếm tự do và cơ hội kinh tế tốt đều làm giàu cho quốc gia này rất nhiều. Một khi chúng ta gạt bỏ được sợ hãi, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó, khỏi cần minh chứng.
Thường thường những di dân hoặc người tầm trú cảm thấy rất cô đơn trên đất lạ. Họ phải trải qua những kinh nghiệm tâm lý tai hại như nhút nhát, sợ sệt, sốc văn hoá, vật lộn để sống còn với các nhóm dân thiểu số khác, tranh dành viện trợ của các hội từ thiện, cộng đồng tôn giáo, hay của chính phủ. Vì thế, hội đồng Giám mục đề nghị thiết lập chương trình tiếp đón tại các giáo xứ. Nghĩa là, tại các giáo hội địa phương có những nhóm mục vụ, các uỷ ban phụng vụ, chăm lo bác ái, xã hội, công lý, đón tiếp... để nâng đỡ những người mới đến. Mỗi địa phận cũng nên có văn phòng Di dân để chỉ đạo các hoạt động trên cho hiệu quả. Riêng về mục vụ các bí tích, thánh lễ phải được chú tâm đặc biệt hơn, bởi đa số di dân chưa thông thạo ngôn ngữ địa phương nơi họ đến cư ngụ. Cũng nên tổ chức các buổi viếng thămi, uống trà chung, huấn nghệ cho các thanh niên thiếu nữ để họ có thể dần dần tự lập và hội nhập với kinh tế, văn hoá chung. Tóm lại, nên giúp đỡ các người mới tới tối đa theo khả năng có thể, đừng để họ cảm thấy lẻ loi, bị bỏ rơi. Noi gương Các đạo sĩ, chúng ta dõi theo ngôi sao dẫn đàng, mạnh dạn bước tới những chân trời mới của lòng yêu thương, bác ái.
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp đỡ chúng con nhận ra Chúa trong những thân phận lạc loài, những người di cư, các kẻ chạy trốn nghèo đói, chiến tranh, áp bức, truy nã...
Xin cho chúng con biết vui vẻ đón tiếp họ như đón tiếp chính Chúa. Xin cho chúng con nhận ra ơn Chúa trong họ, bất kể là ai phiêu bạt đến xứ sở này.
Giải phóng chúng con khỏi ích kỷ, sợ hãi và biết chia sẻ với họ nguồn tài nguyên phong phú Chúa ban cho đất nước chúng con, để một mai chúng con được nghe Chúa phán: "Nào những kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến vui hưởng Vương quốc... vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn..." (Mt 25).
Chúng con cầu xin trong danh thánh Chúa Cha, qua quyền năng Chúa Thánh thần. Amen.
147. Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP
(Lm Hoàng Vinh, OP chuyển ngữ)
SẴN SÀNG CUỘC HÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI ĐỨC KITÔ
Có phải quý vị rất vui khi nhận thiệp Giáng sinh phải không? Đôi khi, một cánh thiệp Giáng sinh là thời gian duy nhất chúng ta nghe ngóng tin từ bạn bè và những người quen. Nếu quý vị giống như tôi, khi mùa Giáng sinh qua đi, quý vị sẽ bỏ hết những tấm thiệp vào thùng rác. Nhưng chí ít là chúng ta cũng đọc qua những lời cầu chúc, những thông điệp bên trong cánh thiệp và liếc qua quang cảnh Chúa giáng thế ở mặt trước những tấm thiệp.
Những hình ảnh trình bày thật đáng yêu này có vẻ như bình an và trật tự - không giống như cuộc sống chúng ta. Có chuồng bò, trẻ thơ, đôi vợ chồng trẻ, mục đồng, gia súc và các Đạo sỹ (Làm thế nào mà những "vị khách quý phái" kia lại đến nơi nhanh thế nhỉ?) Mỗi nhân vật đóng một vai trò trong toàn bối cảnh này, cứ như thể được một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp sắp xếp bố cục ở xưởng chụp ảnh vậy. Nhưng chúng ta hãy cứ để việc trình bày hình ảnh cho những nghệ sỹ, những người có thông điệp riêng của mình để bày tỏ.
Ngay cả một người bình thường đọc bài Tin mừng ngày hôm nay cũng nhận ra rằng thánh Matthêu không vẽ một bức tranh bình dị và trật tự trong trình thuật của ngài. Nhưng đó chẳng có gì là không đúng cả. Ngài có vẻ như muốn dựng lên cảnh tượng như thế để phá vỡ những suy nghĩ thoải mái và sự bình lặng của chúng ta, để có thể kéo chúng ta ra khỏi sự mộng tưởng và giúp chúng ta lắng nghe tin mừng. Cuối cùng thì, việc sinh ra được cho là đã diễn ra nơi chuồng bò lừa (hay hang đá), làm sao có thể thoải mái tiện nghi cho đức Maria được? Như chúng ta đã nói với nhau (vào đêm Giáng sinh) rằng mục đồng là những người bị tôn giáo và xã hội xem thường. Tuy nhiên, họ vẫn có vai trò trong câu chuyện này.
Hôm nay chúng ta có những Đạo sỹ, những người này cũng không thích hợp trong một tấm thiệp thánh. Trong tranh vẽ, các Đạo sỹ thường mặc những trang phục của vua chúa, mang những món quà quý giá cùng với đoàn tùy tùng xứng với bậc đế vương. Nhưng những vị khách này lại hoàn toàn ngược lại, chẳng giống vua chúa tí nào. Những vị Đạo sỹ trông giống những nhà chiêm tinh hơn, giống như những mục tử vi quý vị thường đọc thấy ở những trang cuối trong một số tờ báo. Họ nhìn sao và đưa ra những dự đoán. Chúng ta sẽ thấy buồn cười về những bản đối chiếu hiện đại của họ, khi đọc to những lá tử vi ngày nay. Nhưng không mấy ai trong chúng ta, những người siêng năng đi lễ lại rất xem trọng những thứ này. Vì thế, những ai ưa thích cách trình bày của thiệp Giáng sinh sẽ thấy câu chuyện này quả là lộn xộn.
Theo lòng đạo đức thời Chúa Giêsu, người Dothái trung thành, các Đạo sỹ thuộc tầng lớp thấp kém trong nấc thang tôn giáo và xã hội, cũng như những mục đồng. Những người nhiệt thành được nói cho biết là nên tránh gặp những Đạo sỹ, vì họ bị xem là những người thờ ngẫu tượng. Họ có vẻ cũng không sáng sủa gì cho mấy! Điều gì đã khiến những Đạo sỹ này đến với vị vua Hêrôđê đói khát quyền lực này để hỏi về nơi mà vị vua mới đã sinh ra? (Vua dân Dothái mới sinh ở đâu?) Phải chăng họ không hề biết rằng vua Hêrôđê tẩy trừ bất cứ ai đe dọa đến ngai vàng của ông sao? Hêrôđê giả bộ quan tâm và nói với các vị Đạo sỹ: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." Đó là những gì mà Hêrôđê hoàn toàn không có ý định thực hiện - bái lạy. Thay vì vậy, ông ta đã tàn sát những bé trai mới sinh ở Bêlem để loại trừ bất kỳ nguy cơ cạnh tranh nào đến ngai vàng của ông ta.
Nếu một người Dothái giáo trở lại đạo Công giáo nói về bản trình thuật này, họ có thể sẽ cố gắng kiểm chứng lại câu chuyện. Tại sao không? Có thể họ nghe thấy âm vang của tin mừng trong câu truyện, và thay vì đưa nó ra khỏi truyền thống, thì họ sẽ quyết định để câu truyện này trong truyền thống vì câu chuyện này phản ánh chính tin mừng mà họ ôm ấp.
Từ "Hiển Linh" nguyên nghĩa tiếng Hilạp là "biểu lộ, khải hiện" hay "tiền hiện". Trong bài tin mừng hôm nay, hiển linh không duy ám chỉ đức Giêsu là ai mà còn cho thấy trước sứ điệp tin mừng. Nếu như các mục đồng và những dấu chỉ huyền diệu từ Phương Đông được chào đón trong buổi đầu câu chuyện cuộc đời của đức Giêsu, thì ai còn có thể bị loại trừ ra bên ngoài? Giáo hội tiên khởi đã có tất cả mọi "lớp người" trong cộng đoàn chứ không giống với Giáo hội chúng ta ngày nay. Liệu có ai dám loại trừ một người nào hay một nhóm nào ra khỏi cộng đồng, nếu như các mục đồng và những nhà Đạo sỹ đã được ghi danh ngay đầu câu chuyện về đức Giêsu?
Hãy nhìn quanh cộng đoàn phụng vụ hôm nay. Ai đang ở trong? Có ai bị loại ra ngoài, hay bị đối xử như hạng hai trong chúng ta không? Có thể là một cuộc "tỏ lộ" cho chúng ta nếu chúng ta ngồi xuống bên cạnh người kém nổi bật hay những thành viên nhỏ bé của cộng đoàn và lắng nghe cảm nghiệm của họ như thế nào về việc là một thành viên của xứ đạo chúng ta. Liệu họ có thấy đó là một "chính sách mở cửa", hay họ bị loại trừ? Hiển linh là một đại lễ của Giáo hội và đó cũng là một đại lễ về căn tính của chính Giáo hội. Vậy đâu là "tỏ lộ" về xứ đạo của chúng mà đại lễ hôm nay cho thấy và thúc bách chúng ta thực hiện?
Câu chuyện của các Đạo sỹ là bản tường thuật về một hành trình. Có những người đang thắc mắc, tìm kiếm thêm trong cuộc đời họ. Nếu họ mãn nguyện với những sự việc vốn dĩ như thế, những Đạo sỹ sẽ không lên đường. Nhưng, như chúng ta đã biết, họ lên đường với ánh sao trong đêm tối. mọi sự biến chuyển trong đời họ, vì Thiên Chúa đã cho họ thấy một ánh sáng. Họ không nhất thiết phải theo ánh sáng đó. Họ có quyền chọn ở yên đó và mãn nguyện với địa vị của họ. Vẫn luôn như thế, Thiên Chúa đi bước trước. Lúc nào Chúa cũng làm vậy. Sự ngạc nhiên mà trình thuật hài nhi này muốn tỏ ra là Thiên Chúa không muốn chọn chỉ một vài người và những người công chính mới nhận ra ánh sang mà Ngài đã nhóm lên giữa đêm đen. Có lẽ, đó là cách mà chúng ta thường làm. Nhưng, vòng tay Chúa rộng hơn vòng tay của chúng ta rất nhiều, và Thiên Chúa ôm toàn thể vũ trụ vào lòng. Vì thế, các mục đồng được hướng dẫn tới nơi Hài nhi Giêsu, cả các Đạo sỹ và chúng ta nữa.
Như các Đạo sỹ, chúng ta cũng là những người đang trên cuộc hành trình. Đó là nguyên do chúng ta tự họp nơi đây đề làm việc thờ phượng. Nếu có thời gian, mỗi người chúng ta có thể kể về câu chuyện đức tin của riêng mình. Tường thuật về hành trình của chúng ta. Chúng ta có thể không nhớ được ngày ấy, nhưng Thiên Chúa đã khởi sự nơi cha mẹ chúng ta, nơi cha mẹ đỡ đầu đã đưa chúng ta đến giếng rửa tội. Vì họ, chúng ta bắt đầu hành trình đến với đức Kitô. Những người khác trong chúng ta, đến với đức tin khi đã trưởng thành, được vẽ lên bởi ánh sáng đã chiếu vào bóng tối của chúng ta nhờ những chứng tá và mẫu gương của một số người đặc biệt trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta nhìn thấy ánh sáng chiếu qua họ, chúng ta đứng lên và biến cuộc đời mình thành nguồn nước trao ban sự sống. Chúng ta không thỏa mãn những gì chúng ta là và quyết định lần theo "ánh sao" xuất hiện cho chúng ta. Như những Đạo sỹ, chúng ta khởi đầu cuộc hành trình dẫn chúng ta đến với đức Kitô.
Đây là cuộc hành trình mà nhiều người cần thực hiện. Như trẻ nhỏ học cách khởi đầu đức tin của mình từ cha mẹ và các lớp giáo lý; hay như người lớn, học qua suốt thời gian dự tòng. Họ biết cách trả lời câu hỏi căn bản về đức tin của mình và có thể là những người mộ đạo. Thế nhưng, ở cấp độ đó chỉ như một thái độ tôn giáo chứ không phải là tương quan đức tin thực sự. Họ biết về Thiên Chúa nhưng không thể được nói cho biết Chúa - không phải một Thiên Chúa yêu thương và đại lượng mà đức Giêsu đến để mạc khải cho chúng ta biết. Họ còn phải trải qua một hành trình dài để khám phá ra một Thiên Chúa dịu dàng và hay động lòng trắc ẩn, được bộc lộ cho chúng ta qua đức Giêsu. Mặc khải chưa dừng lại, nó vẫn đang dần hé mở. Chúng ta, giống như các vị Đạo sỹ, có sẵn lòng tiếp tục hành trình hôm nay không, hay chúng ta bị mắc kẹt nơi cuộc sống đức tin của chúng ta?
Quý vị đã bao giờ nghe người ta nói rằng, họ khát khao có được một đức tin như họ có thời còn nhỏ? Vâng, chúng ta là những người lớn và không còn nữa môi trường an toàn và ấm áp mà mỗi chúng ta có thời còn nhỏ. Nhưng, chúng ta phải đối diện với hàng đống những vấn đề và thử thách - vài người trong chúng ta phải đối diện với những vấn đề quá lớn. Thế nhưng, chúng ta vẫn được ánh sáng Chúa soi dẫn luôn và chúng ta vẫn sẵn lòng tiến lên trên cuộc hành trình của mình theo bất cứ nẻo đường nào Chúa muốn gọi chúng ta theo. Trên hết, như những nhà Đạo sỹ, chúng ta đang tìm kiếm và tin tưởng vào ánh sáng chúng ta đã nhìn thấy là đức Kitô. Amen.
148. Món quà của Artaban - Lm. Mark Link, SJ
Chủ đề: "Món quà to tát nhất dâng lên cho Vua các vua chính là cuộc sống đầy tình yêu thành tín và phụng sự tha nhân"
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề The Other Wise Man (Một nhà đạo sĩ khác), kể về nhân vật thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị vua vừa sinh ra. Nhân vật này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban mang theo một túi đựng đá quí để dâng tặng Ấu vương. Thế nhưng trên đường đến gặp 3 vị thông thái kia để cùng đi, Artaban lại dừng chân để giúp một người nghèo khổ và thế là ông ta bỏ mất cơ hội theo kịp các vị kia. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục kiên trì dừng lại giúp đỡ những ai gặp khốn khó. Cuối cùng, ông cho đi tất cả số đá quí của mình. Kết cuộc là Artaban đã trở nên già nua nghèo khổ. Và ông chẳng bao giờ thực hiện được giấc mơ gặp được vị vua các vua để đặt túi đá quí của ông dưới chân Ngài.
Câu chuyện The Other Wise Man có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây quả là một câu chuyện đáng buồn vì nó kể chuyện một người chưa thực hiện được giấc mộng lớn của đời mình. Nhưng may thay câu chuyện đã không kết thúc ở đây. Một ngày kia Artaban đang ở trong thành Giêrusalem, cả thành phố đầy xôn xao, náo nhiệt vì nhà cầm quyền sắp sửa hành hình một tội nhân. Khi Artaban nhìn thấy tội nhân, trái tim ông đập lên thình thịch. Linh tính báo cho ông biết đây chính là vua các vì vua mà ông đã suốt đời tìm kiếm. Nhìn cảnh tượng trước mắt Artanban cảm thấy trái tim như bị tan vỡ ra, nhất là vì ông chẳng có thể làm được gì để giúp đỡ vị vua ấy. Thế nhưng thật kỳ diệu thay khi Artanban nghe tiếng vị vua ấy nói cùng ông:
"Này Artanban, đừng buồn khổ nữa. Suốt đời ông đã từng giúp đỡ Ta. Khi Ta đói ông đã cho Ta ăn, Ta khát, ông đã cho ta uống, Ta trần trụi ông đã cho Ta mặc, Ta là khách lạ, ông đã đón ta vào nhà".
***
Câu chuyện về Artanban cũng là câu chuyện của nhiều người thời đại này. Giống như Artanban, khi bắt đầu vào đời, nhiều người cũng đã từng mơ ước làm được một điều gì cao cả. Nhưng thời gian trôi qua, những hoàn cảnh dồn dập xảy đến vượt quá khả năng kiếm soát của họ khiến họ không thực hiện được những giấc mơ của mình, để rồi cuối cùng những ước mơ ấy tan biến đi. Chẳng hạn như một thiếu nữ đã từng mơ ước đi theo nghề thương mại hoặc mỹ thuật, nhưng trước khi bắt đầu nghề nghiệp của mình thì cô lại gặp và lấy một người đàn ông nào đó. Chẳng bao lâu sau, họ bắt đầu cuộc sống gia đình, thế là mộng ước của thiếu phụ ấy dần dần nhạt mờ giống như trường hợp của Artanban. Thiếu phụ ấy cuối cùng chỉ còn biết dâng trọn thời giờ cho cái gia đình trẻ trung của mình.
Câu chuyện này có thể kết thúc ở đây, và nếu thế, đây là một câu chuyện đáng buồn, vì nó kể chuyện một phụ nữ chưa bao giờ thực hiện được hoài bão lớn lao của đời mình. Tuy nhiên, câu chuyện không kết thúc ở đây. Nó chỉ kết thúc vào một ngày trong tương lai, khi Chúa Giêsu nói với người phụ nữ điều Ngài đã nói với Artanban: "Suốt đời con đã giúp đỡ Ta; điều gì con làm cho gia đình con, chính là con làm cho Ta".
Hoặc chúng ta hãy xét đến trường hợp một thanh nhiên có tài. Chàng mơ ước leo lên được địa vị cao trong công ty của chàng. Vì thế chàng làm việc chăm chỉ và hy sinh mọi thứ. Thế nhưng đột nhiên xảy ra sự cố trục trặc gây cản trở bước tiến của chàng dù chàng chẳng hề lầm lỗi chi, đó chẳng qua là việc xui xẻo mà thôi. Tuy vậy, chàng thanh niên vẫn tiếp tục sống lương thiện, làm việc chăm chỉ và trung tín. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây là một chuyện buồn, vì nó đề cập đến một chàng trai không bao giờ thực hiện được giấc mộng to tát của đời mình. Thế nhưng câu chuyện không kết thúc ở đây. Nó sẽ chỉ kết thúc vào lúc Chúa Giêsu nói với chàng ta điều mà Ngài đã nói với Artanban: "Suốt đời con đã giúp đỡ Ta, vì điều gì con đã làm một cách lương thiện và trung tín, tức là con đã làm cho Ta".
Ngoài ra ta còn có thể nêu ra một câu chuyện có thực về một thanh niên tên là Tony. Chàng du lịch khắp thế giới và xuất hiện thường xuyên trên sân khấu lẫn truyền hình với tư cách là tay trống trong một nhóm ca nhạc nổi tiếng khắp thế giới. Rồi một ngày nọ, Tony cảm thấy được Chúa gọi làm linh mục. Khi chàng rời bỏ nhóm ca nhạc để vào chủng viện. Nhiều người cho rằng chàng là kẻ điên khùng. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu như vậy thì đây là một câu chuyện buồn về một gã thanh niên để cho mộng ước vuột khỏi tầm tay mình. Tuy nhiên câu chuyện không kết thúc ở đây. Hiện Tony đang làm linh mục tại gíao phận Dallas. Chàng sống rất hạnh phúc. Một ngày kia, Chúa Giêsu cũng sẽ nói với chàng như đã từng nói với Artanban: "Hỡi Tony, suốt đời con đã giúp đỡ Ta, điều gì con làm cho giáo dân trong xứ, chính là con đã làm cho Ta".
Như thế, Lễ Ba Vua nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều có một món quà để dâng tặng cho vị vua các Vua. Và câu chuyện "Một nhà đạo sĩ khác" (The Other wise Man) nhắc chúng ta nhớ rằng món quà của chúng ta còn quí giá hơn những món quà của Ba Vua, bởi vì món quà chúng ta dâng không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần như vàng, như nhũ hương, mộc dược, mà chính là món quà liên lỉ của tình yêu và tinh thần phục vụ tha nhân. Nhiều người sẽ cho rằng chúng ta điên rồ khi tặng dâng những món quà này, nhưng chẳng qua là vì họ không biết được màn cuối của câu chuyện khi mà Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với Artanban: "Hãy đến đây, hỡi những người được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng vương quốc dành sẵn cho các con từ thuở khai thiên lập địa, vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã đón tiếp Ta. Vì bất cứ điều gì các ngươi làm cho một trong những kẻ bé mọn này…. của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25: 34-35-40).
Chúng ta hãy kết thúc với lời "nguyện xin lòng quảng đại" của thánh Ignatio de Loyola:
Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phục vụ Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không hề tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác ngoài việc biết mình đã thi hành Thánh Ý Chúa. Amen".
149. Món quà của các Đạo Sĩ - Lm Mark Link
Những tặng phẩm là nhũ hương, mộc dược và vàng ám chỉ thần tính, nhân tính và vương quyền của Đức Giêsu.
William Sydney Porter, một nhà văn Mỹ chuyên viết chuyện ngắn sống vào giữa thế kỷ này. Ông rất nổi tiếng qua bút hiệu O. Henry của ông. Ông được độc giả nhớ đặc biệt là do ông luôn luôn kết thúc các câu chuyện của ông bằng cách gây ngạc nhiên hứng thú. Một trong những câu chuyện nổi tiếng của ông lấy tựa đề từ ý nghĩa của đại lễ hôm nay. Câu chuyện đó nhan đề “Món quà của vị đạo sĩ”. Nói về một cặp vợ chồng trẻ tên Jim và Dela. Họ nghèo tiền của nhưng rất giàu tình thương đối với nhau.
Giáng sinh sắp tới, Dela tự hỏi phải làm quà Giáng Sinh cho Jim bằng món gì đây. Nàng muốn tặng chàng, nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế nàng nẩy sinh một sáng kiến. Nàng có một bộ tóc dài rất đẹp. Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc của nàng và đem bán để mua cho Jim sợi giây đồng hồ. Hôm áp lễ giáng sinh, nàng từ phố về, trên tay mang một chiếc hộp rất đẹp, trong đó có sợi giây đeo đồng hồ làm bằng vàng, mà nàng vừa đổi bằng mái tóc của nàng. Bỗng nhiên, Dela chợt cảm thấy lo lắng nàng tự hỏi Jim rất yêu quí mái tóc dài của nàng, và nàng tự hỏi không hiểu chàng có buồn phiền vì nàng cắt và bán nó đi không. Chỉ có thời gian mới trả lời nàng thôi.
Dela leo nốt đợt cầu thang cuối cùng dẫn đến căn hộ nhỏ của hai đứa nàng. Nàng mở cửa và thấy Jim đang đợi nàng. Trong tay chàng có một cái hộp gói lại thật đẹp đựng món quà chàng mua cho nàng. Khi Jim nhìn thấy mái tóc ngắn của Dela, chàng bắt đầu rươm rướm nước mắt. Nhưng chàng không nói gì cả. Chàng cố cầm những giọt lệ của mình và tặng nàng chiếc hộp. Khi Dela mở hộp ra, nàng không thể tin vào mắt mình được. Trong hộp có một bộ lược rất đẹp để nàng chải mái tóc thướt tha của nàng. Và khi Jim mở món quà của mình ra, chàng cũng khó mà tin được đôi mắt của chàng. Trong hộp có một sợi giây đồng hồ rất đẹp dùng cho chiếc đồng hồ bằng vàng của chàng. Chỉ lúc đó Dela mới nhận ra rằng Jim đã bán chiếc đồng hồ bằng vàng để mua cho nàng những cái lược để nàng chải tóc.
Có những người nghĩ rằng kết thúc của câu chuyện tuy gây ngạc nhiên nhưng bi thảm quá. Còn đa số cho rằng kết thúc như thế rất đẹp. điều làm cho kết thúc đó đẹp không phải là những món quà mà là tình yêu được những món quà đó biểu tượng và nói lên.
***
Câu chuyện đó dẫn chúng ta trở về với việc mừng kính lễ Hiển Linh hôm nay, cũng gọi là Lễ Ba Vua (tức 3 nhà đạo sĩ). Tôi không hiểu rõ tại sao O. Henry lại đề tựa cho câu chuyện ấy là “Món quà của nhà Đạo Sĩ”. Có lẽ vì những món quà của các đạo sĩ cũng đầy những ý nghĩa thâm sâu như thế. Chúng ta hãy suy nghĩ về ý nghĩa của những món quà ấy.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng mộc dược. Thời xưa, người ta dùng mộc dược để ướp xác người chết trước khi đem đi mai táng. Chẳng hạn, vào sáng sớm ngày đầu tuần, các phụ nữa đã đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì mộc dược có tương quan đến sự chết, nên nó tượng trưng sự yếu đuối, dễ bị thương tổn của con người.
Vì thế món quà bằng mộc dược tượng trưng cho nhân tính của Đức Giêsu. Nó nói với chúng ta rằng Đức Giêsu cũng có những yếu đuối, mỏng giòn, dễ bị thương tổn vì ngài là người. Cũng như chúng ta, Ngài cảm nghiệm được toàn bộ mọi thứ cảm xúc của con người, vui, buồn, sợ hãi, thất vọng, cô đơn.,…Ngài cũng không khác gì chúng ta, ngoại trừ tội lỗi mà thôi.
Bây giờ chúng ta nói về nhũ hương. Ngày xưa, người ta dùng nhũ hương trong việc phụng tự tôn giáo hương thơm và làn khói bay lên trời cao, khiến họ liên tưởng đến các vị thần linh và thần tính của các ngài. Vì thế, món quà bằng nhũ hương tượng trưng cho Thượng Đế tính của Đức Giêsu. Thánh Phaolô đã nói về Thượng Đế tính của Ngài trong thư gởi cho cộng đoàn giáo dân ở Philipphê: “Đức Giêsu vốn bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài…. Đã trở nên giống người phàm, và chấp nhận vâng phục mọi đàng cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao cả nhất trên trời” (Pl 2,6-9)
Cuối cùng chúng ta nói tới vàng. Ngày xưa, người ta coi vàng là vua của mọi thứ kim loại. Vì thế, vàng tượng trưng cho đức vua. Nhà vua là vị thủ lãnh ở bên trên tất cả. Ông vua lý tưởng thì lãnh đạo bằng tình thương. Đối với dân chúng, ông bảo đảm là mình có chính nghĩa. Ông làm cho người khác ủng hộ. cộng tác với ông nhờ chính nghĩa của mình. Đức Giêsu chính là một vị vua như thế. Ngài lãnh đạo bằng tình thương. Ngài bảo đảm có chính nghĩa khi thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian. Và Ngài thôi thúc mọi người cộng tác với Ngài trong công việc ấy. Điều đó dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của ngày lễ Hiển Linh hôm nay.
Hiện nay trong nhiều quốc gia, lễ Hiển Linh được mừng long trọng hơn lễ Giáng sinh. Sở dĩ như thế là vì lễ này mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra với thế giới ngoại giáo. Cũng y như lễ Giáng Sinh mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra đặc biệt với những người Do Thái, thì lễ Hiển Linh mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra đặc biệt với dân ngoại. Vì thế, lễ này là “Lễ của Chư Dân”.
Những gì được Đức Giêsu khởi sự trong thời của Ngài thì cũng phải được chúng ta tiếp tục trong thời của chúng ta. Nếu Đức Giêsu phải được rao giảng cho mọi dân mọi nước, thì việc rao giảng đó phải được thực hiện bằng chính những cố gắng của chúng ta. Chúng ta phải loan báo cho mọi dân tộc trên thế giới biết “Tin Mừng” này là Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã mặc lấy xác thịt và sống giữa chúng ta chúng ta phải nói cho họ biết rằng Đức Giêsu đã đi vào lịch sử không phải chỉ để cứu độ người Do Thái vào thời của Ngài, mà cứu độ tất cả mọi dân tộc, mọi quốc gia trong mọi thời đại nữa.
Đức Giêsu đến để lập Nước Trời tại trần gian, để lập nên một thế giới mới, thế giới mà trong đó không còn đau khổ, buồn phiền nữa, thế giới mà trong đó những người nghèo khổ sẽ tìm được những người bạn chân tình, yêu thương, nơi mà trước đó họ chỉ tìm thấy những người xa lạ lạnh nhạt. đó chính là “Tin Mừng” mà chúng ta phải loan báo cho thế giới. Đó là sứ điệp thực tiễn của lễ Hiển Linh hôm nay. Đó là một sứ điệp kêu gọi mỗi người chúng ta phải hành động.
Tôi xin kết thúc bài giảng hôm nay bằng bài thơ của một thi sĩ vô danh. Bài thơ này tóm tắt sứ điệp của lễ Hiển Linh hôm nay bằng một hình ảnh rất sống động.
“Khi bài ca của các thiên thần ngừng bặt,
khi ngôi sao trên bầu trời đã biến mất,
khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà,
khi các mục đồng cùng đàn súc vật đã trở về,
thì công việc Giáng sinh mới bắt đầu
“Để tìm lại những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đã gẫy đổ,
để người đói được ăn no,
để tù nhân được giải phóng,
để các nước xây dựng lại,
để đem lại hoà bình cho mọi người,
và để hoà nhạc bằng trái tim”.
150. Tiến dâng lễ vật
Anh chị em thân mến.
Trong khung cảnh của ngày lễ khánh thành nhà thờ, nhiều người cùng tiến bước lên đường, hướng về cùng một nơi, đó là nơi mà ngôi nhà thờ mới được hoàn thành. Những người này đã được báo tin qua những cánh thiệp mời, qua những lời tha thiết. Những người tới đây cùng hoà chung niềm vui của biết bao người, cùng tận hưởng niềm vui chung với sự chuẩn bị thật chu đáo, bằng công sức, của cải vật chất mà họ gọi là lễ vật. Còn những người không có mặt thì sao? Có phải không được biết gì hết không?
Có người không hay biết gì hết về ngày lễ hôm nay, nên họ không thể đến được. Có người biết rất rỏ ngày giờ và lý do của ngày lễ, nhưng họ không được mời trực tiếp, nên họ không thể hoà niềm vui chung. Nhưng cũng có những người biết rỏ và được báo tin, được mời gọi tha thiết, vậy mà giờ này họ cũng không có mặt để hoà cùng niềm vui với mọi người. Sự vắng mặt với đầy đủ lý do, có khi chính đáng, cũng có khi không chính đáng. Có những người cũng lên đường nhưng lại không đến nơi được. Có những người không cảm thấy vui cùng niềm vui với mọi người nên họ cũng không đến.
Những nhà đạo sĩ từ phương xa họ nhận được lời mời, họ vui mừng chuẩn bị hành trang lên đường, họ vui mừng vì lễ vật của họ đã được trao một nơi thật xứng đáng, họ càng vui mừng hơn khi họ đã hoà được niềm vui của mọi người và Thiên Chúa.
Những người Do Thái, những người kinh thành và cả Hêrôđê đã nhận được lời mời trước tiên. Họ lại tính toán hơn thiệt, họ không dám lên đường, vì họ sợ. Trước tiên họ sợ cực khổ cho bản thân; họ không muốn vất vã để đến với người khác, vì họ quen ở yên một chỗ để người khác đến với họ và cung phụng cho họ. Tiếp đến họ sợ mất đi danh vọng mà họ cố công để tìm kiếm được, nên giờ đây họ không muốn từ bỏ nó. Họ cũng sợ mất đi những của cải vật chất mà họ rất trân trọng, vì họ sợ phải tiến dâng lễ vật, họ không muốn từ bỏ. Họ còn sợ mất đi bản thân mình vì họ quá coi trọng bản thân và yêu quý nó. Nên họ tìm cách phá đi sự việc mà họ lo sợ. Nhưng họ đâu biết rằng: những gì là của Thiên Chúa thì con người không thể làm gì được. Chính vì thế họ luôn sống trong lo sợ, họ không thể có được niềm vui.
Niềm vui chỉ đến được với những tâm hồn thư thái, biết từ bỏ và cho đi, còn với những tâm hồn luôn tính toán và so đo thì khó mà tìm được niềm vui.
Trong cuộc sống đời người, chúng ta cũng mãi miết đi tìm, nhưng chúng ta có tìm được gì không? Giờ đây, mỗi người để một ít phút suy tư, nhìn lại quãng đời đã qua.... Chúng ta đã từng được mời gọi đến với Chúa, trở về với Chúa, mời gọi sống trong niềm vui của Ngài. Chúng ta càng biết rất rõ mình phải làm gì và chuẩn bị những gì.
Có nhiều lúc trong cuộc sống, chúng cũng cảm thấy hối hận về những việc mình làm cho người khác, hối hận về những bất công, về sự ích kỷ chỉ biết lo cho mình mà quên đi những lời kêu than của người chung quanh, không nhìn thấy nỗi đau xé lòng mà mình gây nên cho họ. Nhưng nỗi lo sợ lại nỗi lên: sợ mất danh dự, mất uy tín, mất thời giờ, tiền bạc.... nên đến giờ nầy, chúng ta vẫn không tìm được niềm vui trong Chúa. Con người của bao nhiêu năm vẫn không khá hơn mà trái lại, có khi giờ nầy, mình còn nham hiểm độc hại hơn trước. Đó có phải là chúng ta lập lại công việc mà ngày xưa vua Hêrôđê và những người kinh thành Jerusalem đã đối xử với Chúa Giêsu và các nhà đạo sĩ phương xa sao?
Nếu có lần trong cuộc sống, chúng ta biết nới rộng vòng tay yêu thương để ban phát cho những người kêu cầu đến. Đó là lúc chúng ta nhận ra được lời mời gọi và cất bước lên đường với những lễ vật trong tay. Nếu chúng ta nhận thấy được những lỗi lầm thiếu sót của mình mà sẵn sàng sữa đỗi cho tốt hơn, nếu chúng ta biết sống quảng đại, để biết thông cảm và tha thứ thì thật hạnh phúc cho chúng ta, vì khi đó chúng ta tìm găp được Chúa và dâng lên Ngài lễ vật mà chính bản thân đã chuẩn bị bằng cả cuộc đời.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được sáng suốt để biết lắng nghe lời mời gọi và đáp lại cho xứng đáng.
151. Ở phía sau mọi sự: Thiên Chúa
Hầu như tất cả những người lính khi đến Trung Đông để chiến đấu đều cảm nghiệm được vẻ tuyệt mỹ về ban đêm khi nhìn lên bầu trời trong đêm. Chân trời được trải rộng từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, và đượm đầy những ngôi sao kim cương lóng lánh mà không bị một chút ảnh hưởng nào của đèn đuốc.
Hôm nay mừng Lễ Hiển Linh hoặc còn gọi là Lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại được đại diện bằng ba nhà chiêm tinh. Có lẽ thời đó, ba nhà chiêm tinh cũng đã nhìn lên bầu trời đen tuyền rực rỡ đầy sao để học hỏi về thiên văn. Tuy họ không biết gì về khoa học thiên văn như chúng ta thời nay một cách rõ rệt, nhưng một điều mà họ đã bắt gặp là sự xuất hiện của một ngôi sao lạ.
Khi chúng ta đọc Sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy Thiên Chúa tạo dựng nên trời đất một cách lạ lùng. Ngón tay của Ngài đã tạo dựng nên bầu trời và sắp đặt trong đó những vì sao lấp lánh xoay vần theo định luật của chúng. Chúng ta có thể suy ra rằng tác giả sách Sáng Thế Ký đã nhìn lên bầu trời và nhận ra cảnh đẹp lộng lẫy của nó, và từ từ suy ra sự hiện diện của Thiên Chúa và uy quyền của Ngài.
Chúng ta ngày nay cũng nhận ra vẻ uy linh đó trong tất cả mọi sự hiện hữu trong vũ trụ này. Chúng ta biết rằng tất cả mọi sự trong vũ trụ đều được Thiên Chúa quan phòng từ sự di chuyển các hành tinh cho đến sự mọc lên một ngọn cỏ nhỏ bé.
Phía sau ổ bánh mì là bột lúa mạch,
Phía sau bột lúa mạch là cái máy xay bột,
Phía sau cái máy xay bột là lúa mạch và mưa gió,
Phía sau nữa là mặt trời... Thiên Chúa
Các nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem và hỏi Vua Hêrôđê: Vua mới sinh ở đâu... Chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của Ngài ở Phương Đông (Mt 1:2). Cũng thế, phía sau của ngôi sao là sự quan phòng của Thiên Chúa.
Khi ba nhà chiêm tinh lúng túng không biết đi đâu để tìm kiếm Vua mới sinh ở Giêrusalem thì ngôi sao lạ lại xuất hiện và dẫn họ đến nơi ở của Vua mới sinh... Cũng thế, phía sau Chúa Hài Đồng, Đức Mẹ, và Thánh Giuse là Thánh ý của Chúa Cha.
Cuộc Giáng Sinh của Chúa Kitô nói cho chúng ta rằng ở giữa tâm điểm của vũ trụ có một Đấng Toàn Năng đang hiện hữu một cách thật sự.
Sự hiện hữu của Thiên Chúa nói cho chúng ta rằng trong giây phút hiện tại không chỉ bao gồm bằng những sự việc và những gì gọi là "đẹp đẽ" nhưng còn có những sự việc "xấu xa" đang xảy ra khắp nơi. Cho dù thế nào đi nữa, chúng ta biết rằng ở đằng sau mọi sự đều có sự hiện diện quan phòng của Thiên Chúa Toàn Năng.
Các nhà chiêm tinh đã hớn hở vui mừng đến gặp Chúa Hài Đồng và họ quì xuống sụp lạy Ngài. Hôm nay, chúng ta tụ tập trong Thánh Đường này và chúng ta cũng làm như các nhà chiêm tinh, chúng ta tìm đến gặp Chúa Hài Đồng và thờ lạy Ngài. Tuy nhiên, chúng ta không thể cứ ở lại nơi Thánh Đường để thờ lạy Ngài, nhưng chúng ta còn phải ra đi để đem Tin Mừng ơn cứu độ đến cho những người khác để họ cũng biết đến để thờ lạy Chúa Hài Đồng. Chúng ta hãy nói cho thế giới biết rằng ở đằng sau tất cả mọi sự là ngón tay quan phòng của Đấng Toàn Năng.
152. Dân ngoại đứng trước Đức Vua của người Do thái
(Suy niệm của Lm. FX Vũ Phan Long)
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề.
1.- Ngữ cảnh
Chương 2 của Tin Mừng Mátthêu là một bài tường thuật đầy đủ, hoàn toàn dễ hiểu dù không có chương 1. Chính điểm này cho thấy có nhiều tài liệu có trước Mt được ráp nối với nhau. Đề tài “sự hoàn tất các sấm ngôn” cũng được nhắc tới đều đặn (x. 2,6.15.18.23). Có bốn truyện kết cấu chặt chẽ với nhau tạo nên diễn tiến của chương này, nhưng dường như các biến cố ấy đã được chọn cho phù hợp với các bản văn ngôn sứ mà truyện được xây dựng xoay quanh. Các sấm ngôn này đều có một đăc điểm chung là nhấn mạnh trên một hoàn cảnh địa dư. Trong chương này, chúng ta lại có thể phân biệt ra hai khối, nhưng khối thứ nhất được liên kết với khối thứ hai bằng nhiều từ móc, và nếu không có khối thứ nhất, thì không thể hiểu được khối thứ hai:
- 2,1-12: Truyện kể nhiều chi tiết; những nhân vật chính là các nhà chiêm tinh; ngôi sao là phương tiện Thiên Chúa dùng để hướng dẫn các vị này.
- 2,13-23: Ít chi tiết kể truyện, và chỉ nhắm cho thấy các bản văn ngôn sứ được hoàn tất; nhân vật chính là Giuse (không hề được nhắc tới trong phân đoạn trước); Giuse được thiên thần Chúa ban lệnh trong mộng (y như trong 1,18-25).
Về phương diện truyện kể, vua Hêrôđê là sợi dây liên kết hai phân đoạn.
Chương 2 đưa vào một đề tài quan trọng của TM Mt: người Do Thái khước từ ơn cứu độ Đức Kitô ban tặng, còn Lương dân thì đón nhận. Vua Hêrôđê, hoàng tử Áckhêlao và dân chúng Giêrusalem tượng trưng cho người Do Thái; các nhà chiêm tinh tượng trưng cho Dân ngoại. Dân ngoại sẽ chiếm chỗ mà người Do Thái bỏ trống trong lòng dân Thiên Chúa, khi họ không chịu tin. Dân ngoại sẽ là dân Israel chân chính của thời đại cuối cùng, được kêu gọi chia sẻ hạnh phúc của cuộc sống tương lai. Hai chuyển động tương phản này chạy xuyên suốt cả chương 2 cũng như xuyên suốt cả Tin Mừng cho đến cuộc Khổ nạn (x. 27,39-44.54). Nhìn như thế, có thể nói truyện các nhà chiêm tinh tóm tắt toàn thể Tin Mừng Matthêu.
Về việc các nhà chiêm tinh đến Bêlem, chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi không dễ trả lời: Các ngài từ đâu đến? Các ngài đã thấy xuất hiện ngôi sao gì? Làm thế nào mà các ngài nhận ra đó là ngôi sao của Đấng Mêsia? Tại sao vua Hêrôđê không xử sự theo cách hợp lý hơn?
Cũng như trong nhiều đoạn khác của Tin Mừng, thay vì đặt ra những câu hỏi về những chuyện không được nói tới, chúng ta nên để ý đến những gì đã được nói ra. Sau khi bảng gia phả đã cho thấy Đức Giêsu cắm rễ trong lịch sử dân Israel, và bản văn về nguồn gốc đích thực của Người đã chỉ nói đến những người có liên can trực tiếp, ở đây tác giả giúp chúng ta nhìn xem cách tiếp đón Đức Giêsu của những người mà vì họ Đức Giêsu đã đến. Tác giả không nêu ra một hành động nào của Hài Nhi, Đức Maria và Giuse. Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và người ta, và đều nhắm tới Hài Nhi. Trong quan hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra ba nhóm người: các nhà chiêm tinh, các kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động công khai của Đức Giêsu và lời loan báo hậu Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và phục sinh cũng được vây quanh bởi những hạng người như thế. Nhận biết trong niềm vui, lãnh đạm không quan tâm và bách hại liên tục, ba yếu tố này đi theo mọi giai đoạn của cuộc đời Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể được chia ra làm hai phần, với một đoạn Mở:
1) Mở (cc. 1-2): Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh.
2) Phần 1 (cc. 3-9a): Gặp gỡ Hêrôđê, vị vua “giả hiệu” của người Do Thái. Cốt lõi là sấm ngôn về Đấng Mêsia.
3) Phần 2 (cc. 9b-12): Gặp gỡ Ấu Vương “chân chính” tại Bêlem. Cốt lõi là hành vi tôn thờ Đấng Mêsia.
3.- Vài điểm chú giải
- Bêlem (Bêthlehem) miền Giuđê (1): Bêlem (Bêthlehem) có nghĩa là “nhà bánh mì”, hoặc cũng có thể là “nhà của thần Lah(a)mu” (thần của dân Akkad). Thành này cách Giêrusalem 7 cây số về phía nam, là quê hương của Bôát, của Isai (Giêsê), và nhất là của vua Đavít (x.1 Sm 16; 20,6). Xem Lc 2,4.11; Ga 7,42. Tác giả nói rằng Bêlem thuộc miền Giuđê không chỉ là vì trong Cựu Ước, có một Bêlem thuộc Dơvulun (x. Gs 19,15), nhưng là vì ngài còn lặp lại (c. 5; x. c. 6) nhằm nêu bật chủ đề của ngài: Đức Giêsu, vua người Do Thái, xuất thân từ miền Giuđê, và cũng tại Giuđê mà Người sẽ bị giết.
- Vua Hêrôđê (Cả): Vua này cai trị miền Giuđê (năm 37-4 tCN). Bởi vì ông xuất thân từ miền Iđumê, ở về phía nam xứ Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa Hy Lạp, nên ông bị người Do Thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng. Đến cuối đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do đó, đất nước đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn.
- Đức Giêsu ra đời: Cộng đoàn tín hữu tiên khởi lúc đầu không có thứ lịch như ngày nay đang được sử dụng hầu như khắp nơi: chia thành hai phần trước và sau cuộc chào đời của Đức Giêsu. Thời ấy, người ta tính năm dựa theo các Đại hội thế vận Hy Lạp (Đại hội đầu tiên được tổ chức năm 776 tCN), hoặc dựa theo năm thành lập thành Rôma (ngày 21-4-753 tCN), hoặc dựa theo những hoàng đế cai trị ở Rôma. Sau một thời gian, các Kitô hữu có thói quen tính thời gian khởi đi từ hoàng đế Điôclêtianô (284-305 CN), ông này đã bách hại họ tàn khốc, và họ gọi thời này là kỷ nguyên các thánh tử đạo. Kiểu lịch chúng ta đang sử dụng hiện nay là do văn sĩ Denys le Petit xác định, ông này sống tại Rôma vào tiền bán thế kỷ vi (mất trước năm 555). Để cho những năm cứu độ không phải gọi bằng tên của bạo chúa bách hại, Denys thay thế kỷ nguyên các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên Đức Kitô. Ông là người đầu tiên cho kỷ nguyên Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào đời của Đức Kitô, mà theo các tính toán của ông, ngày ấy là ngày 25 tháng 12 năm 753 sau khi Rôma được thành lập. Theo TM Mt, “Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì” (2,1), mà chúng ta biết rằng vua Hêrôđê qua đời vào năm 750 của thành Rôma. Như vậy, cuộc chào đời của Đức Giêsu phải được đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm: hẳn là Đức Giêsu đã ra đời vào thời gian giữa năm 8 và 6 tCN.
- mấy nhà chiêm tinh (HL. magos): Đây là những vị hiền giả Đông phương, thông thạo chiêm tinh. Rất có thể họ là những nhà chiêm tinh Babylon, đã được tiếp xúc với trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do Thái. Có thể họ sống bên kia bờ sông Giođan, nên có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với thế giới Do Thái. Dưới ảnh hưởng của Tv 72,10; Is 49,7; 60,10, truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là những vị vua. Bởi vì có ba loại lễ vật, người ta cho rằng họ là ba vị (thế kỷ v), và còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior (thế kỷ viii). Sang thế kỷ xiv, ông Gaspar được coi là một người da đen…
- chúng tôi đã thấy vì sao (2): Vào thời thượng cổ, người ta thường cho rằng cuọc chào đời của các nhân vật quan trọng được loan báo bởi các ngôi sao mới. Các nhà chiêm tinh cho rằng họ có thể đoán được vận mệnh của người ta nhờ quan sát chuyển động của các tinh tú. Do Thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên sai vào ngôi sao được nói tới ở sách Dân số (24,17). Có thể nói, vào thời Đức Giêsu và các Tin Mừng, ngôi sao là hình ảnh ưu tiên để tượng trưng Đấng Mêsia, đặc biệt Đấng Mêsia vương giả, xuất thân từ nhà Đavít.
- xuất hiện (2): Người ta đã tìm cách xác định ngôi sao ấy là một hiện tượng thiên văn hay là một ngôi sao chổi. Thật ra nỗ lực này cũng không đưa đến đâu, bởi vì hoặc tác giả Mtmuốn kể lại một hiện tượng lạ lùng duy nhất trong lịch sử, hoặc chi tiết này chỉ là một đặc điểm văn chương, được gợi hứng bởi Kinh Thánh, nhưng không có hiện tượng tương ứng thế giới vật lý, nên cố gắng tìm ra một giải thích tự nhiên đều là chuyện vô ích.
- Cả thành Giêrusalem (3): Đây là một kiểu nói phóng đại, như để báo trước việc toàn dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu (x. 21,10). Một sự tương phản đáng kinh ngạc: những người ngoại giáo, được hướng dẫn bởi những kiến thức hời hợt, pha trộn mê tín dị đoan, đã đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa, thực hiện một hành trình và điều tra kỹ lưỡng, để có thể bái kiến vị tân vương; ngược lại, các nhà lãnh đạo Do Thái có ánh sáng Kinh Thánh, lại chỉ phản ứng bằng sự sợ hãi và vô tâm (cc. 4-6).
- Các thượng tế (archiereis, 4): Archiereis đây là các thành viên của các gia đình mà vào lúc quy định nào đó, vua Hêrôđê có thể chọn ra người mà bổ nhiệm làm thượng tế.
- kinh sư trong dân (4): dịch sát grammateis tou laou là “các kinh sư của dân chúng”: một kiểu nói phóng đại.
- Phần ngươi, ngươi đâu phải (6): Câu trích này là một tổng hợp Mk 5,1-3 với 2 Sm 5,2 theo cách rất độc đáo, không tương ứng với bản văn Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy Lạp. Tác giả đã đưa những thay đổi đó vào với mục tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với trạng từ oudamôs(Pháp: pas du tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha, ngài cho thấy ngài chú tâm đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo của ngài: sau khi Đức Giêsu đã chào đời, Bêlem không còn có thể là một thành không đáng kể nữa. Nghịch lý lạ lùng: các kinh sư loan báo nơi Đấng Mêsia chào đời cho những người ngoại giáo (dù sao, họ cũng vẫn là những cái máng chính thức truyền đạt mạc khải mà!), thế mà họ lại không thể nhận ra được Người!
- mừng rỡ vô cùng (10): Niềm vui của các nhà chiêm tinh được nhấn mạnh (so với Lc 2,10). Trong TM Mt, đây là niềm vui của những quốc gia ngoại giáo đã khám phá ra nơi Đức Giêsu ơn cứu độ họ vẫn trông chờ cách mơ hồ. Đối lại với niềm vui này là sự bối rối hoang mang của vua Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như sau đó là cơn giận dữ điên cuồng của nhà vua (c. 16). Cũng có thể so sánh niềm vui lớn lao của các phụ nữ vào sáng ngày Phục Sinh (28,8) với cơn kinh hoàng của đám lính canh khiến họ ra như chết (28,4).
- Họ vào nhà (11): Tác giả nối kết chặt chẽ niềm vui của những người ngoại giáo và việc họ đi vào “nhà”, là hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người ta gặp được Đức Kitô và bái thờ Người.
- hài nhi và thân mẫu: Công thức này được nhắc lại ở các câu 13, 14, 20 và 21, là do tác giả cố tình chọn để nhắc lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh (1,18-25).
- sấp mình thờ lạy (= bái lạy: cc. 2.8.11): “Bái lạy” hay “sấp mình thờ lạy” (proskyneô) được tác giả Mt dùng động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57 lần). Đây là hành vi sấp mình trên nền nhà để tôn thờ thần thánh hoặc những người có địa vị cao, chẳng hạn các vua. Tác giả Mt hầu như chỉ dùng động từ này để diễn tả lòng tôn kính đối với Đức Giêsu bởi những người khẩn cầu (8,2; 9,18; 15,25; x. 20,20) và bởi các môn đệ (14,33: liên kết với việc tuyên xưng niềm tin vào Con Thiên Chúa), đặc biệt dành cho Đấng Phục Sinh (28,9.17).
- lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến: Sau khi bái lạy một vị vua, thường có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật này đều xứng đáng với một vị vua: x. Tv 72,15 (vàng); Is 60,6 (vàng và nhũ hương); Tv 45,8 (xức mộc dược cho vua); Dc 3,6 (nhũ hương và mộc dược). Truyền thống các Giáo Phụ coi các lễ vật này là những biểu tượng về vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc dược) của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh (1-2)
Chỉ trong một câu duy nhất, tác giả đã giới thiệu được khung cảnh địa lý, hoàn cảnh chính trị, và các nhân vật sẽ được đề cập đến trong bản văn. Chủ đề của chương 2, “vương quyền của Đấng Mêsia”, đã được gián tiếp gợi lên qua tước hiệu “vua” gán cho Hêrôđê, một danh từ liên tục được nhắc lại suốt bài này.
Chủ đề lại được nêu lên trong câu hỏi của các nhà chiêm tinh (c. 2). Các vị này là những nhà chiêm tinh văn, chứ không phải là “vua”. Đặc biệt trong môi trường Mêsôpôtamia, hai ngành thiên văn và chiêm tinh đã có từ lâu đời và rất được trọng dụng. Các biến cố xảy ra trên bầu trời và trong thế giới loài người được coi là có liên hệ chặt chẽ với nhau. Người ta xác tín rằng ai hiểu các hiện tượng của bầu trời thì cũng hiểu lịch sử loài người và có thể ban các lời khuyên và những định hướng về lịch sử này. Các nhà chiêm tinh này có khả năng giải thích các giấc mộng và thấy trước tương lai bằng cách nhìn xem các vì tinh tú và quan sát cánh chim bay. Các vị cũng có khả năng biện phân ra ý muốn của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, làm thế nào mà các nhà chiêm tinh vừa ngoại quốc vừa ngoại giáo lại có thể đi tìm vua dân Do Thái như thế, trên đất Paléttina? Vào thời cổ, có một niềm tin nói rằng cuộc chào đời của một nhân vật quan trọng sẽ được báo cho biết bởi một ngôi sao trên trời. Trong lãnh vực nghiên cứu của họ, các nhà chiêm tinh nhận được một thông tin cho biết Đấng Mêsia đã chào đời và họ được thúc đẩy lên đường. Các nhà chiêm tinh đã thấy ngôi sao được Kinh Thánh nhắc tới, chứ không phải là một ngôi sao chổi hay một ngôi sao nào trong bầu trời vật lý. Các vị biết rằng, một đàng, Ds 24,17 khẳng định về Đấng Mêsia xuất thân từ nhà Giacóp, đàng khác, có một truyền thống song song, dựa trên Ds 24,7 (bản dịch Hy Lạp LXX), khẳng định rằng Đấng Mêsia sẽ trị vì trên nhiều dân tộc. Các vị biết rằng dân Do Thái đang chờ đợi Đấng Mêsia. Từ thời Lưu đày Babylon, đã có nhiều người Do Thái sống trên đất Mêsôpôtamia; nhờ họ, người ta biết tôn giáo và các niềm chờ mong Do Thái.
Khi kể câu truyện Các nhà chiêm tinh, tác giả Mátthêu không quan tâm đến cuộc hành trình của các vị ấy; ngài chỉ chú ý đến cuộc đối đầu của các vị ấy với vua Hêrôđê. Ngài cũng muốn nói với chúng ta rằng cuối cùng Đấng giải phóng nhà Giacóp đã tới. Các nhà chiêm tinh nhận ra Người và thờ lạy Người. Đức Giêsu chính là ngôi sao ấy. Chúng ta đọc diễn tiến câu truyện.
Đến Giêrusalem, các vị ấy tưởng là đã đạt mục tiêu, nhưng lại được gửi đi đến một nơi khác. Nhưng bây giờ các vị ấy đã biết mục tiêu cách chính xác hơn. Các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh (x. 23,2t), đã có thể suy ra là Đấng Mêsia chào đời tại Bêlem xứ Giuđê. Trong Mk 5,1-3, Đấng Mêsia được giới thiệu như là Thủ Lãnh và Mục tử của dânIsrael. Người sẽ chỉ cho dân Người biết con đường ngay thẳng và sẽ lo lắng chăm sóc họ, như một mục tử săn sóc các chiên mình. Chúng ta lưu ý là các nhà chiêm tinh hỏi nơi sinh của “vua dân Do Thái”, chứ không phải là “vua Israel”. Các kinh sư của dân (Mt 2,4) được Đấng Mêsia đến chiếu cố, đã ở lại Giêrusalem; trong khi đó, các nhà chiêm tinh, là những người ngoại giáo, đã kiên trì theo đuổi mục tiêu, họ tiếp tục cuộc hành trình.
Hai phần sau đây tương ứng với hai “chương trình xung đột” (cũng có trong cc. 13-23) tác giả muốn tường thuật: sự đối lập giữa hai nơi, Bêlem/Nadarét và Giêrusalem; một bên là chiến lược của vua Hêrôđê tại Giêrusalem, bên kia là chiến lược của Thiên Chúa; vua Hêrôđê không những đối lập với Đức Giêsu, mà cũng đối lập với các nhà chiêm tinh nữa. Sự đối lập giữa hai vị vua được nêu bật bởi ngôi sao: ngôi sao không được nhắc đến ở Giêrusalem, nhưng dẫn đường cho các nhà chiêm tinh sau khi họ rời Giêsusalem.
* Gặp gỡ Hêrôđê, vị vua “giả hiệu” của người Do Thái (3-9a)
Sự việc xảy ra ở đền vua Hêrôđê gián tiếp giới thiệu Đấng Mêsia vương giả bằng câu sấmMk 5,1-3 kết hợp với 2 Sm 5,2. Bây giờ vua Hêrôđê và “cả thành Giêrusalem” được đặt trong thế đối lập với các nhà chiêm tinh. Phản ứng bối rối dao động của họ là một bằng chứng cho thấy họ hiểu tính nghiêm trọng của hoàn cảnh. Vua Hêrôđê và toàn dân Giêrusalem thuộc nhóm loại trừ vị tân ấu vương.
Một vài điểm không thật (vua Hêrôđê và dân Giêrusalem không ưa gì nhau nên hẳn là dân chúng hẳn phải vui mừng khi biết Đấng Mêsia vừa chào đời thì mới hợp lý – Nhà vua phải hỏi về nơi Đấng Mêsia sinh ra, mà nơi này thì mọi người đều biết, vậy mà không một ai tò mò đi với các nhà chiêm tinh đến Bêlem cả – Vua Hêrôđê triệu tập toàn thể Thượng Hội Đồng Do Thái chỉ để xin một thông tin – Ngôi sao chỉ đúng nhà của Đức Giêsu – Dân cư Giêrusalem “xôn xao”…) khiến nhiều tác giả cho rằng đây chỉ là một sáng tác văn chương mà thôi. Nhưng dù được tưởng tượng hay không, câu chuyện này minh họa thật rõ việc dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu và Dân ngoại đón tiếp Người. Đối với tác giả Mt, Giêrusalem là thành sẽ xảy ra cuộc đóng đinh; dân Giêrusalem là những người sẽ nói về cuối quyển Tin Mừng, “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (27,25). Sự bối rối của vua Hêrôđê và dân Giêrusalem ở đây báo trước thái độ thù nghịch trong cuộc Thương Khó (x. 27,11.29.37.42). Ở đây, vua Hêrôđê, các thượng tế và kinh sư đã hiểu “Vua dân Do Thái” chính là “Đấng Kitô [Mêsia]”.
Câu trả lời về “Đức Vua dân Do Thái” là câu trích Mk 5,1, nhưng tác giả đặt trên môi các kinh sư, chứ không dùng công thức về hoàn tất Lời Chúa. Câu này cung cấp một nền móng Cựu Ước cho khởi đầu cuộc đời của Đức Giêsu về mặt lịch sử và tiểu sử. Nhưng đây không phải là điều ngài quan tâm đầu tiên. Điều ngài chú ý hơn, đó là dùng hai lần từ “Giuđa” và thêm 2 Sm 5,2 (x. 1 Sbn 11,2) vào với từ móc laos (“dân chúng”) để khẳng định quan điểm chống Do Thái của ngài: các kinh sư Do Thái nhìn nhận rằng đây là vấn đề về vị mục tử thiên sai vẫn từng mong đợi của dân Thiên Chúa là Israel, nhưng họ không rút ra các hệ luận; vì vậy họ gián tiếp trở thành đồng lõa của vua Hêrôđê.
Thế là vua Hêrôđê “hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện”. Câu 7 này đưa chúng ta đến với câu 16 được viết tương tự. Độc giả có linh cảm một chuyện chẳng lành sắp xảy ra, khi thấy nhà vua hỏi chi tiết về nơi Hài Nhi ở. Câu trả lời chính là sự tàn bạo bí hiểm của nhà vua được chứng tỏ sau đó. Câu 8 lại cho độc giả nhận ra nhà vua là một kẻ đạo đức giả. Đồng thời, nền tảng của c. 12 được cung cấp: vua Hêrôđê muốn kéo các nhà chiêm tinh vào trò chơi của ông; nhưng ý định xấu xa của ông sẽ bị Thiên Chúa can thiệp tiêu hủy.
* Gặp gỡ Ấu Vương “chân chính” tại Bêlem (9-12)
Các nhà chiêm tinh ra đi ngay ban đêm, không phải vì đó là thói tục của Đông phương, nhưng để tác giả lại có cơ hội nói về ngôi sao. Tại đây, độc giả lại nhận ra Thiên Chúa ra tay hướng dẫn toàn thể biến cố, và được mời gọi chia sẻ niềm vui chan hòa các nhà chiêm tinh đang trải nghiệm.
Chủ đề của bài Tin Mừng được trình bày rõ ràng qua việc các nhà chiêm tinh bái lạy Hài Nhi Giêsu và dâng các lễ vật (c. 11). Đây mới là vị vua chân chính mà muôn dân vẫn trông đợi, dù tước “vua” không hề được dùng mà gọi Người. Nhưng chủ đề “vị vua thật” chạy xuyên suốt bản văn do các từ ngữ (“Vua dân Do Thái”: c. 2; “vì sao của Người”: cc. 2.7.9.10; “vua Hêrôđê: c. 3; “Hêrôđê”: cc. 7.12; “bái lạy”: c. 8; “nhà vua”: c. 9) và các cụm từ (“vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời”: c. 6; “sấp mình thờ lạy”: c. 11; “lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến”: c. 11)[1] liên hệ.
Các nhà chiêm tinh, là những người khôn ngoan và giàu kinh nghiệm, đã phủ phục (proskyneô) trước Hài Nhi, một trẻ sơ sinh không hề tỏ ra có chút uy hùng hay quyền lực gì. Đây là cách người Đông phương nhìn nhận Đấng có quyền trên mình, mình lệ thuộc phần nào hay hoàn toàn vào đấng ấy (là vua chúa hay thần linh). Nhưng chúng ta nhớ Đức Giêsu đã được giới thiệu là “con cháu vua Đavít” (1,1), “Con Thiên Chúa” (x. 1,21; 2,15) và Emmanuel (1,23). Hài Nhi không nói gì với các vị ấy và cũng chẳng cho các vị ấy món gì cả. Các vị không thấy vẻ huy hoàng chúa tể của Người, cũng chẳng trải nghiệm về quyền lực của Người, nhưng các vị nhận biết Người nhờ lòng tin. Tác giả bỏ qua ông Giuse để nêu bật địa vị đặc biệt của bà Maria theo chiều hướng của Mt 1,18-25. Các lễ vật quý giá (vàng, nhũ hương và mộc dược) các vị dâng là một dấu chỉ khác chứng tỏ các vị nhìn nhận Hài Nhi là Chúa tể.
Chủ đề được khóa lại với tên “Hêrôđê”, vị vua đương trị, được nhắc lại lần nữa và với việc các nhà chiêm tinh từ biệt Hài Nhi. Vua Hêrôđê đã muốn nối kết các nhà chiêm tinh vào các kế hoạch của ông, và các kế hoạch này là thế nào thì cuộc sát hại các hài nhi Bêlem sẽ cho biết; và hẳn là các nhà chiêm tinh sẽ chịu cùng một số phận như các hài nhi. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã can thiệp, để đưa các nhà chiêm tinh về quê theo đường khác.
+ Kết luận
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề. Hai bên đều tiến đi, để rồi đến cuối con đường, một bên được hưởng niềm vui cứu độ, một bên co quắp lại trong thái độ thù nghịch. Chỉ khi vương quyền của con người biết nhìn nhận mình phát xuất từ vương quyền của Thiên Chúa, khi đó mới có sự “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Truyện này gây ra hai ấn tượng. Một bên, chúng ta muốn coi toàn bộ như một huyền thoại: cuộc hành trình dài ngày của các nhà chiêm tinh, ngôi sao dẫn đường, nỗi bối rối của nhà vua và toàn thể dân thành Giêrusalem, mưu mô của vua Hêrôđê, cuối cùng lệnh của Thiên Chúa ban cho các nhà chiêm tinh trong mộng, tất cả những nét này khiến chúng ta có ấn tượng là truyện không thật. Nhưng ngược lại, nếu so sánh truyện này với những gì ta biết về vua Hêrôđê và xứ Paléttina thời ấy, chúng ta lại phải nhìn nhận truyện có màu sắc lịch sử: sự lưu tâm của các nhà chiêm tinh phương Đông về một vị vua cứu thế và những cơn điên khùng bệnh tật của vua Hêrôđê hoàn toàn phù hợp với truyện. Nhưng “đúng” không nhất thiết là “thật” về lịch sử. Cho dù các biến cố đã xảy ra thật, các truyện trong chương 2 Mt cũng không mang tính lịch sử theo nghĩa hẹp. Dường như tác giả đã sử dụng thể văn midrash haggada để giải thích các sự kiện có thật hầu rút ra một áp dụng Kinh Thánh, để đi tới việc ca tụng Thiên Chúa, khám phá ra một mạc khải về những chương trình của Thiên Chúa trong quá khứ và cho tương lai, nhằm xây dựng cọng đoàn.
2. Có những điểm “khôi hài” trong bài: Sự khôn ngoan của Dân ngoại mà người Do Thái vẫn loại trừ hoặc khinh bỉ cũng có thể đưa người ta đến với Đức Kitô. Đấy là khi các nhà chiêm tinh đến đền vua Hêrôđê và hỏi về nơi trú ngụ của “Đức Vua mới sinh”. Đàng khác, chính một vị vua gian ác ngoại quốc (vì Hêrôđê thuộc gốc dân Iđumê) cũng có thể trở thành trung gian cung cấp cho người ta những thông tin chính xác. Đấy là khi vua Hêrôđê triệu tập các thượng tế và kinh sư lại để hỏi cho biết Đấng Kitô sinh ra ở đâu.
3. Có hai chuyển động ngược chiều trong bài: Vua Hêrôđê càng ngày càng co quắp lại trong thái độ cứng tin và từ khước, và cùng với nhà vua là Thượng Hội Đồng Do Thái và dân Giêrusalem, còn các nhà chiêm tinh thì đã từ những bước mò mẫm mơ hồ đi đến chỗ bày tỏ tất cả lòng tin kính đối với Đấng Mêsia. Vì thế sau đó, các vị “đã đi lối khác mà về xứ mình” (c. 12). Cũng nên dừng lại suy nghĩ về lối ứng xử của các kinh sư: họ đã có thể trích và giải thích đúng Kinh Thánh, nhưng họ không hề lên đường. Thánh Âutinh bảo rằng họ là “những cột cây số”; họ chỉ đúng đường, nhưng họ không di chuyển!
4. Các nhà chiêm tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao” dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù.
5. Các nhà chiêm tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa, ở đây được các nhà chiêm tinh diễn tả ra trong tình trạng tinh trong. Dựa vào ba lễ vật, qua các thời đại, người ta đã tưởng tượng là có ba nhà chiêm tinh, có tên rõ ràng, một vị trẻ tuổi, một vị đứng tuổi và một vị đã già; một vị là người châu Á, một vị là người châu Âu và một vị châu Phi. Cách làm này không tương ứng với chữ viết của bản văn nhưng phù hợp với tinh thần của Tin Mừng. Tất cả các lứa tuổi và con người của mọi châu lục đều đạt tới mục tiêu khi gặp Hài Nhi này, nhất là khi nhìn nhận Người là Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người đã đến cho mọi người, cho người trẻ cũng như cho người già, cho người thông thái cũng như người chất phác ít học, cho mọi màu da và mọi lối sống, để giúp họ nhận biết Thiên Chúa là Cha và đưa vào cuộc đời họ một ánh sáng chói chan. Như các nhà chiêm tinh, loài người không được để mình đi trệch đường về với Đức Giêsu, mà phải để cho Thiên Chúa hướng dẫn, cho đến khi tới đích.
6. Phải chăng nên gỡ bỏ các ngôi sao tại các máng cỏ? Không cần! Chúng ta cứ việc ngắm nhìn ngôi sao ấy, cứ chỉ cho con em thấy, nhưng bảo các em rằng ngôi sao đích thật là Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng soi chiếu mọi dân tộc. Cũng giải thích cho chúng biết rằng các nhà chiêm tinh là đại diện cho các dân tộc trên thế giới đang để cho sứ điệp hòa bình và tình yêu của Đức Giêsu hướng dẫn. Họ chính là hình ảnh của Hội Thánh, được tạo nên do các dân tộc thuộc mọi giống nòi và mọi ngôn ngữ. Trở nên một thành viên của Hội Thánh không có nghĩa là đánh mất hoặc bỏ đi chân tính của mình, không có nghĩa là phải quy phục một thứ “đồng nhất” giả tạo và bất công. Các dân tộc cần phải duy trì nền văn hóa của họ và làm giàu cho Hội Thánh bằng nền văn hóa riêng này.
153. Đức Kitô ở đâu?
Mùa Giáng sinh nào tôi cũng rảo qua các Nhà thờ để xem hang đá. Thôi thì đủ loại, đủ cỡ, đủ hình dạng, màu sắc. Có cái rất hoành tráng, trang trí cầu kỳ, từ những vật dụng đắt tiền; nhưng cũng có cái làm từ phế liệu. Đặc biệt nhất là bộ tượng. Ngoài những bộ tượng theo truyền thống Do thái, còn có cả những bộ tượng người Tàu, người Mông Cổ, Ả rập, Châu Âu và cũng không thiếu những bộ tượng người Việt với trang phục khăn đóng - áo dài hay khăn rằn - áo bà ba rặt nam bộ. Nói chung, Tin Mừng đi đến dân tộc nào thì hang đá và các nhân vật trong hang đá mang hình ảnh dân tộc đó. Người thiết kế muốn diễn tả hình ảnh Thiên Chúa thật giống với người bản địa. Điều nầy chắc không làm Thiên Chúa phiền lòng bởi từ trời cao Ngài đã xuống trần chẳng phải là để cho gần con người sao?
Nhưng đáng buồn thay. Trong khi Thiên Chúa đang cố gắng rút ngắn khoảng cách cách giữa Ngài và con người, thì con người lại hững hờ không muốn đón nhận thiện ý đó. Dân tộc mà lẽ ra phải mở tiệc tưng bừng để đón Sinh Nhật Vua Trời thì lại lạnh lùng từ chối. Vua Hêrôđê tỏ ra quan tâm, ân cần với các nhà hiền sĩ Đông phương: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tần về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bài lại Người" (Mt 2,8). Hoàn toàn không phải vì ý tốt mà là muốn giết Chúa Giêsu để níu giữ ngai vàng sắp đổ của mình.
Vào lễ Hiển Linh năm nào ta cũng nghe câu chuyện ba nhà Đạo Sĩ đi theo ngôi sao tìm Chúa. Rồi sau đó dâng lễ vật lên Chúa Hài Đồng. Cảnh tượng thật xúc động! Càng xúc động hơn khi biết rằng cả ba nhà Đạo Sĩ đều là dân ngoại - một dân tộc không biết gì về Thiên Chúa lại được Thiên Chúa tỏ mình ra. Còn dân Do thái đã không hề biết chuyện gì đang xảy ra. "Nay mầu nhiệm được mạc khải là các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp" (Ep 3,6).
Nói vậy, chẳng phải là Thiên Chúa thiên lệch, cho người nầy không cho người khác, nhưng bởi dân Do Thái thiếu lòng tin đó thôi. Hơn thế, chẳng đời nào Ngài lại bỏ đứa con mà Ngài đã từng cưu mang.
Ba nhà đạo sĩ vất vả lên đường tìm Chúa. Họ đã phải luôn miệng hỏi: "Đức Giêsu - Vua dân Do thái mới giáng sinh ở đâu?". Ngày nay, ta không còn vất vả nữa, vì Chúa đã được các nhà truyền giáo đem đến tận tay chúng ta rồi. Chúng ta chẳng còn phải nghi ngờ Đức Giêsu là ai, sinh ra ở đâu nữa. Nhưng liệu chúng ta có giống dân Do Thái xưa không? Thấy đó, nhưng không thể nào tin được? Ngày Rửa Tội ta được xếp vào hàng con cái Chúa. Ngày chịu phép Thêm Sức ta được mời gọi lên đường làm chứng, rao giảng Nước Chúa. Nhưng chính bản thân chúng ta cũng chưa một lần thể hiện được lòng tin của mình thì làm sao chúng ta có thể giới thiệu được một Đức Giêsu bé nhỏ, trần trụi, nghèo nàn đó cho trần gian? Hãy mạnh mẽ đi theo hướng khác mà trở về nhà mình, đừng ù lì trong những lề thói ấu trĩ, ích kỷ của chính mình nữa. Hãy đứng dậy lên đường giới thiệu Đức Kitô bằng đời sống yêu thương của mình.
Hơn 2000 năm qua, Đức Giêsu vẫn giáng sinh mỗi ngày trong trần gian. Ngài không chỉ giáng sinh nơi hang đá Bêlem thuộc xứ Palestine, trong dòng tộc Đavit nữa; mà Ngài hiện diện trong từng con người cụ thể trên khắp hành tinh nầy, trong tất cả mọi sắc tộc, trong mọi nền văn hóa. Ngài ở giữa chúng ta qua Bí tích Thánh thể. Ngài còn ở trong chính ngôi nhà tồi tàn, rách nát của một vùng quê nào đó. Ngài đang bị cầm tù, đang cô đơn trong những nhà dưỡng lão, những trại mồ côi, bệnh viện, trại tập trung. Ngài là em bé bị lạm dụng sức lao động, đang ngày đêm giơ tay cầu cứu sự giúp đỡ. Ngài là những công nhân cần có những đồng lương xứng hợp. Ngài là những nạn nhân của những cuộc xung đột, chạy đua vũ trang, hay của những chế độ độc tài, bất công, nghèo đói... Bạn không cần phải đi qua tận thánh địa xa xôi để mong gặp Chúa, mà bạn hãy đi ra khỏi lòng mình. Ra khỏi những ích kỷ, tư lợi, đam mê thấp hèn của chính bạn. Rồi bạn sẽ gặp Đức Kitô ngay thôi. Ngài đang hiện diện ngay trước mặt bạn đấy!
154. Sân khấu cuộc đời
Chúng ta vừa mừng sinh nhật lần thứ 2020 của Đức Giêsu. Nói đến lần thứ 2020, thì có nghĩa là phải có lần thứ nhất. Như vậy, chúng ta lấy mốc thời gian nào để tính là năm thứ nhất. Câu trả lời là dựa vào năm Đức Giêsu sinh ra. Như vậy, biến cố Đức Giêsu ra đời là khởi đầu của một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại. Dù ngày hôm nay, các chuyên viên có tính lại là năm Chúa Giêsu sinh ra không phải là năm thứ 1, nhưng Ngài được sinh ra vào khoảng năm thứ 6 trước Công nguyên. Đấy là vì ông Denise thuộc thời Trung cổ tính sai. Dẫu vậy, nhưng trong tâm trí của ông Denise và cũng như của tất cả nhân loại đều lấy ngày Chúa Giêsu giáng sinh là trung tâm của lịch sử. Ngài đã bước vào lịch sử của nhân loại và làm xoay chiều lịch sử ấy. Ngài mặc cho lịch sử trần tục của con người một ý nghĩa mới, lịch sử cứu độ. Từ đây, Thiên Chúa đã làm người và ở với con người. Thiên Chúa đã từ trời cao xuống trần gian để cho con người trần gian được bước lên trời. Đất với trời đã giao duyên!
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh, nghĩa là chúng ta mừng kính việc Đức Giêsu bày tỏ vinh quang của Ngài cho 3 nhà đạo sĩ Đông phương và cũng là cho tất cả chúng ta. Nhưng biến cố ấy thay vì trở thành niềm vui cho hết nhân loại thì lại trở thành tin buồn và thảm hoạ cho một số người. Tại làm sao lại có chuyện ấy xảy ra? Có phải vinh quang của Thiên Chúa không có sức mang lại hạnh phúc cho con người không? Có phải Thiên Chúa đã chịu thua sự nhẫn tâm của con người rồi chăng? Ngày Chúa Giêsu sinh ra, các Thiên thần đồng thanh tung hô rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương", nhưng xem ra việc Chúa Giáng trần chỉ mang lại tai hoạ cho con người mà thôi!
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình yêu. Ngài yêu thương hết thảy con người cho dẫu rằng con người có nhận ra điều đó hay không? Chúa không muốn biến con người thành những cổ máy Robot, nên đã trao cho họ tự do. Và vì lạm dụng tự do, nên con người đã chống lại Thiên Chúa; coi Thiên Chúa như đối thủ của mình, như người tranh giành hạnh phúc của mình. Thật là một điều đáng buồn cho con người.
Chúa Giêsu vẫn sinh ra cho con người dẫu rằng con người có đón tiếp Ngài hay không? Và quả thực, con người đã chối từ Ngài ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc đời dương thế của Ngài. Nhưng Ngài chấp nhận tất cả và chịu sinh ra trong cảnh nghèo nàn nhất của kiếp người. Nhà bảo sanh là chuồng bò, chiếc nôi là máng cỏ, thời tiết là giữa mùa Đông giá rét run người. Người ta không muốn đón tiếp Chúa vì Chúa đến trong thân phận của người nghèo khổ và quá âm thầm.
Hơn nữa, ngày mà Chúa tỏ vinh quang cho nhân loại thì lại trở thành ngày buồn thảm: Hêrôđê bối rối vì sợ bị chiếm ngôi, các gia đình có con trẻ từ 2 tuổi trở xuống ở vùng Giuđêa và các vùng lân cận phải một trận khóc than thảm thiết vì con trẻ của họ bị giết! Lý do là vì sự độc ác của con người, cụ thể là vua Hêrôđê. Vua Hêrôđê là đại diện cho tất cả những con người ham hố quyền lực trên thế giới. Họ sẵn sàng gây ra bao nhiêu đau khổ, chết chóc cho nhân loại để bảo vệ uy quyền cho mình. Ngày nào trên thế giới còn có những con người ham hố quyền lực thì ngày đó nhân loại còn phải chịu đau khổ và chết chóc.
Sân khấu lịch sử cuộc đời còn có vai của những con người trong vai các kinh sư và luật sĩ. Họ thông thạo Thánh kinh, biết rõ nhiều vấn đề nhưng họ sợ cực khổ, sợ mất mát, ngại hy sinh nên đem những hiểu biết của mình chôn vùi trong tủ kính. Vì thế, những hiểu biết của họ không giúp ích gì cho ai và cũng chẳng mang lại lợi ích gì cho bản thân họ. Họ là hạt giống có lớp vỏ vàng óng. Họ cố bảo vệ lớp vỏ của mình cho thật đẹp và không chịu làm trở thành thân phận của hạt giống, phải chịu thối đi để sinh ra trăm nghìn bông hạt mới. Vì thế, mãi mãi họ là hạt lúa cô đơn, hạt lúa vàng vô ích và sẽ có ngày sẽ hư mất.
Nhưng cũng may là thế giới này cũng còn có những con người khát khao tìm kiếm chân lý như 3 nhà Đạo sĩ Phương Đông. Nếu không, thì cuộc đời này sẽ biến thành nghĩa trang lạnh lùng, đầy dẫy những xác chết, và trái tim con người sẽ hoá đá! Hình ảnh 3 nhà Đạo sĩ Phương Đông trở thành mẫu mực cho những ai khao khát sự thật và sự sống. Khi nhận ra được ánh sáng chân lý rồi, thì họ không ngần ngại hy sinh, sẵn sàng chịu cực khổ, mất mát và nguy hiểm để lên đường tìm kiếm. Và những cố gắng của họ đã được đền bù xứng đáng. Họ đã được Thiên Chúa đong đầy sự khao khát của họ. Vì "Phúc cho ai biết khao khát nên trọn lành và tìm kiếm chân lý, vì họ sẽ được Thiên Chúa ban cho được đầy no".
Mừng lễ Chúa Hiển Linh hôm nay, chúng ta hãy tự kiểm lại chính mình xem chúng ta đang có trong mình hình ảnh của ai? Của Hêrôđê, của những Kinh sư hay của ba nhà Đạo sĩ Phương Đông? Chúng ta có phải là những người đang ham hố quyền lực để sẵn sàng tiêu diệt, loại trừ người khác để bảo vệ uy thế và chỗ đứng cho mình không? Hay chúng ta lại là những người Kinh sư, thông thạo Thánh kinh, biết rất nhiều về Lời Chúa nhưng lại không làm theo và không màng gì đến những Lời ấy? Hay chúng ta là những Nhà Đạo sĩ đang khao khát và kiếm tìm chân lý, để khi nhận ra được chân lý đang soi dẫn cuộc đời của mình thì sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan, hy sinh mọi sự để lên đường tìm kiếm chân lý? Phúc cho chúng ta nếu chúng ta đang mang trong mình hình ảnh của những nhà Đạo sĩ Phương Đông ngày xưa!
155. Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh
(Suy niệm của Lm. John Trần Khả)
Một người bị rơi xuống một thung lũng sâu tối tăm. Ông ta cố gắng tìm cách để trèo lên nhưng quá khó khăn không thể tự mình trèo lên để ra khỏi cái hang tối tăm đó. Khổng Tử đi ngang qua nhìn thấy người đó ở dưới thung lũng bèn nói, "Thật đáng tiếc, giá nó nghe lời giáo huấn khôn ngoan của ta thì nó đâu có phải rơi xuống cái thung lũng tối tăm đó!" Và rồi đức Khổng Tử tiếp tục lên đường.
Sau đó thì Đức Phật đi ngang qua và cũng trông thấy người đó dưới thung lũng bóng tối. Đức Phật liền nói, "Thật tội nghiệp giá hắn ta lên được trên này có thể ta sẽ giúp đỡ hắn." Và sau đó thì Đức Phật cũng tiếp tục lên đường.
Sau cùng thì Đức Giêsu đi ngang qua. Ngài nhìn thấy người đàn ông cố gắng trong vô vọng và bất lực dưới thung lũng tối tăm. Ngài thương cảm và liền nhẩy xuống để cứu ông ta lên. (Jack Mcardle "Incarnation", 150 More Stories for Preachers and Teachers # 98).
Ý Nghĩa Hiển Linh
Lễ Hiển Linh có nghĩa là ngày lễ kỷ niệm việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại qua việc Chúa Giêsu Kitô sinh xuống làm người ở giữa nhân loại. Tiên tri Isaiah trong bài đọc thứ nhất công bố rằng Thiên Chúa sẽ xuất hiện cách rõ ràng sáng tỏ. Vinh quang của Thiên Chúa sẽ xuất hiện và chư dân sẽ tìm về sự sáng. Tất cả sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa. Bài trích thư gởi tín hữu Ephêsô trong bài đọc hai xác nhận rằng những lời tiên tri và mặc khải của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Ngài là nguyên nhân cho sự đoàn kết hợp nhất của mọi dân tộc. Bài Phúc âm kể lại câu truyện ba nhà Đạo sỹ từ Đông phương nhận ra ngôi sao lạ, và họ đã tìm đến Giêrusalem hỏi thăm, "Vua người Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?" Họ đã tìm đến để thờ lạy tôn phục và dâng lên Người lễ vật của họ bởi vì họ đã lâu ngày dầy công tìm hiểu và họ nhận ra danh tánh của Hài Nhi Giêsu nơi Bethlehem là ai.
Thiên Chúa Hiện Diện
Văn hóa thời xưa nhận ra Thiên Chúa và quyền lực của Ngài qua thiên nhiên, nơi bão gió, sắm sét, mặt trời, mặt trăng và tinh tú sao trời, cây cối cổ thụ, sông núi biển khơi. Nhiều nơi tôn thờ thần núi, thần sông, thần cây, thần cá, thần đá... Những người Hy Lạp và La mã cổ xưa tìm Thiên Chúa qua những huyền bí và những giấc mơ thần tiên. Văn hóa Đông phương tìm Thiên Chúa qua năng lực của tâm lý linh thiêng nơi con người, và qua vận mệnh tướng số. Người Do Thái tôn thờ một Thiên Chúa qua lịch sử của dân tộc. Và từ Do Thái Giáo, Kitô giáo trở nên một tôn giáo có đặc tính riêng tin tưởng rằng Thiên Chúa đã bày tỏ chính Ngài qua việc Đức Giêsu Kitô sinh hạ làm người. Qua nhiều thời đại, con người đã suy nghĩ tìm hiểu lý do và ý nghĩa của việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Nhưng Mầu nhiệm Đức Giêsu Con Thiên Chúa xuống thế làm người chỉ có thể hiểu được qua lăng kính tình yêu. Đức Giêsu Kitô là dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Ngài thương yêu nhân loại và Ngài xuống thế làm người để cứu nhân loại. Chúng ta có nhận ra Đấng Cứu Thế và tình yêu của Ngài dành cho chúng ta hay không?
Thấy Hài Nhi
Khi những nhà đạo sỹ đến Bethlehem và nhìn thấy Hài Nhi Giêsu, chắc hẳn họ đã không nhìn thấy một em bé có hào quang lộng lẫy và ánh sáng tỏa chiếu khác thường để nói cho họ biết đó là Vua trời đất và là Con Thiên Chúa. Trái lại bằng con mắt nhân loại, họ cũng chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng như một em bé đơn sơ yếu đuối, bọc trong khăn nằm trong máng cỏ. Họ chỉ nhận ra Hài nhi Giêsu là Con Thiên Chúa, là ánh sáng thế gian nhờ con mắt của đức tin.
Chúng ta thấy có một sự liên hệ gần gũi thật đẹp với những nhà Đạo Sỹ. Họ đại diện cho chúng ta là những người ở các thế hệ sau vẫn tiếp tục trong cuộc hành trình đức tin đi tìm gặp Đấng Cứu thế. Từ đâu đó lóe lên trong chúng ta một sự hiểu biết và một ước muốn đi tìm chân lý. Chúng ta cũng là những người đang nhìn và bước đi trong ánh sáng đức tin trong mọi nẻo đường của cuộc đời, khi vui cũng như khi buồn, khi cô đơn đau khổ cũng như lúc hạnh phúc vui tươi; khi thành công cũng như lúc thất bại; khi khỏe mạnh cũng như lúc yếu đau. Chúng ta đang là những nhà đạo sỹ, những người khôn ngoan của thời đại đi tìm gặp Đấng Cứu Thế và làm sáng tỏ sự hiện diện của Ngài trong thế giới. Chúng ta có vai trò phải đóng và nghĩa vụ phải chu toàn; đó là làm sáng tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi nẻo đường của cuộc sống bằng cách luôn biết tìm hiểu và đón nhận Ngôi Lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa cần sự cộng tác của chúng ta để tiếp tục công việc của Ngài. Thêm vào đó, những nhà Đạo Sỹ khôn ngoan đã không đến gặp Chúa với đôi bàn tay trắng, nhưng họ đã đến với những lễ vật đặc biệt quý giá biểu tượng cho sự dấn thân và quy phục của họ đối với Con Thiên Chúa. Chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa lễ vật bằng sự dấn thân hy sinh của chính chúng ta và những sản vật do tay chân và công sức của chúng ta để nói lên sự quy phục đối với Đức Kitô Đấng Cứu Thế của chúng ta.
Lời Mời Gọi của Lễ Hiển Linh
Do đó, Lễ Hiển Linh không phải là chỉ là lễ nói lên tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại mà thôi; trái lại lễ Hiển Linh cũng còn là một lời mời gọi chúng ta chiếu tỏa tình yêu của Thiên Chúa nơi cuộc sống của mỗi người. Là con cái của Thiên Chúa và là anh chị em của Đức Giêsu, chúng ta được kêu gọi trở nên chính sự bày tỏ của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình yêu. Do đó bằng một cách nào đó, tất cả mọi tình yêu đều bày tỏ Thiên Chúa. Đây chính là lý do và ý nghĩa làm Kitô hữu: Bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa qua việc chúng ta dấn thân quyết tâm sống yêu thương. Thiên Chúa vẫn luôn luôn vô hình cho tới khi được chúng ta bày tỏ Ngài qua những cử chỉ và lối sống yêu thương của chúng ta đối với nhau.
Bạn và tôi chúng ta có bằng lòng chấp nhận cái ách làm Kitô hữu như thế hay không? Chúng ta có bằng lòng làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa được bày tỏ qua lối sống yêu thương hay không?
156. Chú giải của William Barclay
NƠI VUA RA ĐỜI (Mt 2, 1-2)
Đây là một thị trấn cách Giêrusalem mười cây số về phía nam. Thời xưa nó còn được gọi là Êprát hoặc Éprata. Tên “Bêlem” có nghĩa là “nhà bánh”. Bêlem nằm ở một vùng quê mầu mỡ nên tên đó rất xứng hợp, nó đứng trên ngọn đồi đá vôi cao hơn, có hai đỉnh hai bên, ở giữa lõm xuống như yên ngựa. Từ vị trí đó Bêlem trông như một thị trấn đặt giữa một đại hí trường do những núi đồi tạo dáng.
Bêlem có một lịch sử lâu đời, đó là nơi Giacóp chôn cất Rakhen, vợ ông, và dựng một bia tưởng niệm bên mộ (St 48,7; 35,20). Đó cũng là nơi Rút đã sống và gặp Bôô (R 1,22) và từ Bêlem, Rút có thể thấy vùng đất Môáp, quê hương mình, ở bên kia sông Giođan. Nhưng trên hết, Bêlem là nhà và thành của Đavít (1Sm 16,1; 17,12; 20,6), chính Đavít đã thèm khát được uống nước tại giếng của Bêlem khi ông còn lưu lạc trốn tránh trên các núi (2Sm 23,14.15)
Trong những ngày sau đó, ta đọc thấy Rơkhápam xây đắp thành lũy cho Bêlem (2Sb 11,6). Nhưng trong sử của Israel và trong tâm trí của dân chúng, Bêlem là thành của vua Đavít. Chính từ dòng dõi nhà Đavít mà Thiên Chúa ban Đấng Cứu Độ uy hùng đến với dân Ngài như tiên tri Mikha đã nói: “Hỡi Bêlem, Éprata, ngươi nhỏ nhất trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện cho ta một Đấng cai trị trong Israel, gốc tích của Ngài là bởi từ đời xưa, từ trước vô cùng” (Mk 5,1).
Tại Bêlem, thành Đavít, người Do Thái đã trông đợi dòng dõi vua Đavít sinh ra và cũng tại đó họ trông đợi Đấng được xức dầu của Thiên Chúa đến trong thế gian, và thật, Đấng đó đã đến.
Bức tranh của chuồng bò và máng cỏ, nơi Chúa Giêsu hạ sinh là bức tranh được ghi khắc sâu đậm trong tâm trí chúng ta, dù có thể bức tranh không hoàn toàn chính xác. Justin Martyr, một trong các giáo phụ đầu tiên sống khoảng năm 150 SCN, xuất thân từ một vùng gần Bêlem cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã sinh ra trong một hang đá gần làng Bêlem (Justin Martyr: Đối thoại với Trypho 78, 304) và điều này có thể đúng. Nhà cửa ở Bêlem được cất ở trên dốc núi đá vôi, họ cũng thường làm chuồng bò nơi hang đá đẽo lõm vào trong ở phía dưới căn nhà. Rất có thể Chúa Giêsu đã giáng sinh trong chuồng bò như vậy.
Ngày nay ở Bêlem vẫn còn một hang đá như thế và được xem là nơi Chúa Giêsu giáng sinh. Tại đó Giáo Hội đã xây “Thánh Đường Chúa Giáng Sinh”. Từ lâu hang đá đó được kể là nơi Chúa Giêsu giáng sinh, vì thế vào đời hoàng đế Rôma Hadrian trị vì, ông ta cố ý làm mất tính cách thiêng liêng của nơi đó bằng cách dựng nên một miếu thờ thần ngoại Adonis trên đó. Khi cả đế quốc Rôma tin theo Kitô giáo vào đầu thế kỷ thứ tư, hoàng đế Constantin đã xây cất một đền thờ. Bên dưới bàn thờ chính có một đền thờ lớn vẫn còn đến ngày nay. H. V. Morton tả lại chuyến đi thăm thánh đường Chúa Giáng Sinh tại Bêlem. Ông đến một bức tường lớn, ở đó có một cửa rất thấp, đến nỗi một người lùn cũng phải khom lưng mới vào được. Bên kia bức tường là đền thờ. Bên dưới bàn thờ chính có một hang đá. Khi khách hành hương viếng nơi thánh vào hang đá sẽ thấy một cái động nhỏ, tối, dài 14 thước và ngang 4 thước được thắp sáng bởi 53 ngọn đèn bằng bạc và trên nền có một ngôi sao, chung quanh ngôi sao có bảng đề bằng tiếng Latinh “Đây là nơi Chúa Giêsu sinh bởi trinh nữ Maria”. Khi Chúa vinh hiển nhập thế, Ngài sinh ra trong một hang đá, nơi người ta dùng làm nơi nghỉ cho đàn gia súc. Hang đá ấy nay được ở trong thánh đường Chúa Giáng Sinh tại Bêlem. Có thể đúng là hang đá đó, cũng có thể không, không ai biết chắc. Nhưng có một điều lý thú trong biểu tượng này là thánh đường xây trên hang đá có một cái cửa rất thấp đến nỗi ai muốn vào phải cúi khom người xuống. Bất cứ ai muốn đến cùng Hài Nhi Giêsu đều phải quỳ gối khiêm cung.
LÒNG TÔN SÙNG TỪ PHƯƠNG ĐÔNG
Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông tìm đến tỏ lòng tôn kính Ngài. Danh hiệu của những người này là Magi, một chữ rất khó dịch. Theo Herodotus (1,101,132), Magi nguyên là một chi phái Mêđi. Người Mêđi là một phần dân thuộc đế quốc Ba Tư. Họ cố gắng lật đổ người Ba Tư đem chính quyền về cho người Mêđi. Mưu toan thất bại, từ đó người Magi từ bỏ mọi tham vọng về quyền hành hoặc uy tín và trở nên chi phái tư tế. Các Magi đối với dân Ba Tư cũng giống như người Lêvi đối với dân Israel vậy. Họ trở thành thầy dạy và giáo dục cho các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không được dâng lễ vật nếu không có một Magi hiện diện, họ là người của sự thánh thiện và khôn ngoan. Những người Magi này rất giỏi về triết học, y khoa và khoa học tự nhiên. Họ cũng là những thầy bói và người giải mộng. Về sau, chữ Magi càng ngày càng mang nghĩa thấp kém hơn và trở thành chữ thầy bói, phù thủy và lang băm, như Êlyma, thuật sĩ (Cv 13,6.8), Simon người được mệnh danh là thuật sĩ (Cv 8,9-11). Nhưng các Magi không như vậy, họ là những bậc thánh, cũng là những nhà hiền triết đi tìm chân lý.
Vào thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào các vì sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của tầng trời dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự việc đặc biệt nào đó.
Chúng ta không biết các Magi này đã thấy ngôi sao sáng nào, có nhiều ý kiến về việc này. Chừng mười một năm trước Công nguyên, sao chổi Halley xuất hiện sáng rực trên các tầng trời. Đến khoảng năm 7 trước Công nguyên, Mộc Tinh và Thổ Tinh xáp lại tạo nên ánh sáng chói lọi. Năm 5 tới năm 2 trước Công nguyên, cũng có những hiện tượng thiên văn kỳ lạ. Trong những năm này vào ngày đầu tiên của tháng Mesori Ai Cập, ngôi sao Sirius gọi là Thiên Lang (sao chó) hiện ra, sáng chói rực rỡ lạ thường lúc mặt trời mọc. Ngày nay tên Mesori có nghĩa là “sự ra đời của một vương tử”. Đối với các nhà chiêm tinh xưa, một ngôi sao như thế chắc hàm ý sự ra đời của một đại vương. Chúng ta không biết các Magi đã thấy ngôi sao nào, nhưng họ chuyên xem sao nên ánh sáng lạ xuất hiện trên trời báo cho họ biết một vị vua đã đến thế gian.
Đối với chúng ta, dường như việc những người này từ phương Đông lên đường đi tìm vua là một việc khác thường. Nhưng thật lạ lùng ngay lúc Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới bấy giờ cũng có sự ngưỡng vọng kỳ lạ về một vị vua sẽ đến. Ngay các sử gia Rôma cũng biết rõ điều này, sau đó không lâu, nhằm thời hoàng đế Vespasian, sử gia Suetonius đã viết: “Khắp phương Đông có một niềm tin là vào thời đó nhất định có người từ Giuđa đến cai trị thế giới” (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng nói đến niềm tin đó: “Có một xác tín rằng trong chính thời gian này phương Đông trở nên hùng mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu” (Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: “Vào khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất” (Josephus, Những Cuộc Chiến Tranh của người Do Thái 6,5). Sau đó không lâu, chúng ta thấy Tiridates, vua xứ Ácmêni, đi thăm hoàng đế Nêrô tại Rôma có đem Magi theo (Suetonius, Đời sống Nêrô 13,1). Chúng ta thấy các Magi tại Athène dâng lễ vật cho nhà hiền triết Plato (Seneca, Các Thư Tín 58,31). Hầu như cùng lúc Chúa Giêsu giáng sinh, chúng ta thấy hoàng đế Augustus của đế quốc Rôma được chúc tụng như là vị cứu tinh của thế giới, và thi hào Virgil của Rôma, sáng tác Bài Hát Đối Thứ Tư, được mệnh danh là bài hát đối về Đấng Cứu Thế, ca tụng thời hoàng kim sắp đến. Chúng ta không nên nghĩ rằng câu chuyện các Magi tìm đến máng cỏ chỉ là một huyền thoại dễ thương, nhưng chính đó là một biến cố đã xảy ra trong thế giới cổ. Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian đang tha thiết trông đợi. Loài người thật đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới.
NHÀ VUA XẢO QUYỆT (Mt 2, 3-9)
Vua Hêrôđê nghe tin các nhà chiêm tinh từ phương Đông đến và họ đang tìm kiếm một con trẻ mới sinh ra làm vua người Do Thái. Vua nào mà chẳng lo lắng khi nghe báo cáo có một hài nhi sinh ra để chiếm ngôi mình. Nhưng Hêrôđê lại còn lo lắng gấp bội.
Hêrôđê nửa là Do Thái, nửa là Êđôm, trong huyết quản của nhà vua có dòng máu Êđôm. Vua là một lợi khí đắc lực cho người Rôma trong những cuộc chiến tranh và nội chiến ở Palestin, được người Rôma tin dùng. Hêrôđê được chỉ định làm tổng đốc năm 47 TCN. Năm 40 TCN, Hêrôđê được phong làm vua và cai trị đến năm 4 TCN. Ông nắm quyền khá lâu và được gọi là Hêrôđê đại đế và rất xứng đáng với danh hiệu ấy. Ông là người duy nhất ở Palestin đã thành công trong việc trị an và đem lại trật tự cho một xứ hỗn loạn. Ông là nhà kiến trúc đại tài, chính ông đã xây đền thờ Giêrusalem. Có thể ông cũng là một người rộng lượng. Trong thời khó khăn, ông miễn thuế cho dân và trong cơn đói kém năm 25 TCN, ông đã cho nấu chảy cái đĩa vàng lớn của mình để mua ngũ cốc phát cho dân đói khổ. Nhưng Hêrôđê có một cá tính kinh khủng, ông đa nghi một cách điên khùng, ông là người luôn luôn ngờ vực, càng về già ông càng đa nghi đến độ có kẻ đã gọi ông là “già sát nhân”. Ông nghi ai là đối thủ tranh chấp quyền hành thì người ấy bị loại trừ ngay. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander Aristobulus cũng bị ông sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus đã cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôđê còn an toàn hơn làm con trai ông ta” (câu nói bằng tiếng Hy Lạp dí dỏm hơn, vì tiếng Hy Lạp hus là con heo và huios là con trai). Bản chất man rợ cay đắng và cong quẹo của Hêrôđê được thấy rõ hơn trong những chuẩn bị của ông trước khi qua đời. Khi được bảy mươi tuổi biết mình sắp chết, ông rút về thành Giêrikhô, thành xinh đẹp nhất của ông, rồi truyền lệnh bắt một số người nổi danh nhất trong thành Giêrusalem, bịa đặt tội trạng và hạ ngục. Ông truyền lệnh phải giết hết những người ấy khi ông lâm chung. Ông nói cách tàn nhẫn rằng vì ông biết khi ông chết chẳng ai thèm than khóc, nên nhất định phải làm sao cho có nước mắt đổ ra lúc ông chết. Rõ ràng một người như thế sẽ cảm thấy thế nào khi hay tin một hài nhi sinh ra để làm vua. Ông bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao dao động, vì Giêrusalem thừa biết những bước mà Hêrôđê sẽ thực hiện để chận đứng câu chuyện và loại trừ hài nhi ấy. Giêrusalem biết rõ Hêrôđê và Giêrusalem rùng mình chờ đợi phản ứng không tránh được của Hêrôđê.
Hêrôđê triệu tập các thầy cả thượng phẩm và các Kinh sư. Các Kinh sư là những người thông thạo về kinh điển và luật. Các thầy cả gồm hai hạng người. Một là những thầy cựu thượng phẩm. Chức thầy cả thượng phẩm được giới hạn trong một vài gia đình. Hai là dòng tư tế quý phái, thành viên của những gia đình tuyển lựa này được gọi là các thầy cả thượng phẩm. Hêrôđê triệu tập giới quý tộc tôn giáo cùng các học giả thời bấy giờ mà hỏi họ theo lời Kinh Thánh Đấng được xức dầu của Thiên Chúa phải sinh tại đâu. Họ trưng dẫn Mk 5,1 cho vua. Hêrôđê cho vời các nhà chiêm tinh đến, nhờ họ đi điều tra kỹ lưỡng về con trẻ mới sinh ra và nói rằng ông cũng muốn đến để tôn kính Hài Nhi, nhưng thật sự ước ao duy nhất của lòng ông là thủ tiêu ngay Hài Nhi đó.
Ngay khi Chúa Giêsu mới giáng sinh thì đã có ba nhóm người tiêu biểu cho ba thái độ chung cho cả nhân loại đối với Chúa Giêsu trong suốt lịch sử, ba thái độ đó là:
(1) Phản ứng của vua Hêrôđê: ganh ghét và thù địch. Hêrôđê sợ Hài Nhi sẽ can thiệp vào đời sống của kinh đô, vào quyền thế và ảnh hưởng của mình. Bởi vậy, thôi thúc đầu tiên trong ông là giết Ngài. Ngày nay cũng vậy vẫn còn nhiều người vui mừng tiêu diệt Chúa Giêsu, vì họ chỉ thấy Ngài là người xen vào đời sống họ, không cho họ làm theo điều mình thích nên họ muốn giết Ngài. Người nào chỉ ước ao làm theo ý thích của riêng mình thì không bao giờ cần Chúa Giêsu. Kitô hữu là người không làm theo ý mình nhưng phó dâng đời sống để làm điều Chúa Giêsu ưa thích.
(2) Phản ứng của các tư tế và các Kinh sư: hoàn toàn dửng dưng, đối với họ chẳng có chuyện gì thay đổi. Họ chỉ quan tâm đến lễ nghi tế tự trong đền thờ và những thảo luận về luật, đến nỗi họ hoàn toàn không để ý gì đến Chúa Giêsu. Ngài chẳng có nghĩa gì đối với họ. Ngày nay vẫn còn những người chỉ quan tâm đến việc riêng mình đến nỗi Chúa Giêsu trở thành vô nghĩa. Câu hỏi đau thương qua đấng ngôn sứ vẫn còn được nhắc lại “Hỡi mọi người đi qua, há chẳng lấy làm quan hệ sao?” (Ac 1,12)
(3) Phản ứng của các nhà chiêm tinh: Với thái độ thành tâm thờ phượng, họ ao ước được đặt nơi chân Chúa Giêsu những tặng vật cao quý nhất. Khi một người đã nhận ra tình yêu bao la của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu thì chắc phải đắm chìm trong sự kinh ngạc, kính mến và ca ngợi Ngài.
LỄ VẬT DÂNG CHÚA GIÊSU (Mt 2, 10-12)
Theo ánh sao, các nhà chiêm tinh lại tìm được đường đến Bêlem.
Có một huyền thoại dễ thương kể lại khi ngôi sao ấy đã hoàn thành chức năng dẫn đường, thì rơi xuống một cái giếng tại Bêlem, ngôi sao vẫn còn đó và đôi khi những người có lòng trong sạch vẫn còn thấy nó.
Những huyền thoại về sau cũng thường rất bận tâm về các nhà chiêm tinh. Truyền thuyết phương Đông đầu tiên nói có 12 vị. Nhưng ngày nay hầu như ba vị là truyền thuyết phổ thông nhất. Tân Ước không nói rõ có ba vị, nhưng ý đó hẳn là do ba lễ vật của họ. Các huyền thoại về sau tôn họ là những vị vua, lại còn xưng danh họ là Gaspar, Melchior và Balthasar. Huyền thoại về sau nữa mô tả hình dạng cá nhân và phân biệt lễ vật của mỗi người dâng lên cho chính Chúa Giêsu. Melchior là ông già tóc hoa râm, có bộ râu dài là người đã dâng vàng. Gaspar còn trẻ không râu, mặt đỏ đã dâng nhũ hương. Balthasar da đen, mới để râu, là người đã dâng mộc dược. Ngay từ những ngày đầu người ta đã thấy mỗi lễ vật các nhà chiêm tinh dâng lên đều tương ứng với đặc điểm của Chúa Giêsu và công việc của Ngài.
(1) Vàng là lễ vật dâng cho vua. Seneca cho chúng ta biết chẳng ai được vào chầu vua mà không có lễ vật. Vàng, vua của mọi kim loại xứng hợp với lễ vật con người dâng cho vua. Cũng vậy, Chúa Giêsu là Đấng “Sinh ra để làm Vua”. Nhưng Ngài không cai trị bằng vũ lực, mà bằng tình yêu, và Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập giá.
Chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu là Vua. Chúng ta không thể gặp Ngài bằng vai ngang hàng, nhưng phải gặp Ngài với thái độ vâng phục trọn vẹn. Nelson, vị đô đốc lừng danh bao giờ cũng đãi ngộ kẻ thù chiến bại của mình cách nhân từ và lễ độ. Sau một trận thủy chiến đắc thắng, vị đô đốc bại trận được đưa lên soái hạm của Nelson, vào sàn lái của tàu Nelson. Biết Nelson nổi tiếng về phép lịch sự, suy nghĩ có thể lợi dụng điều đó, vị đô đốc bại trận tiến ngang qua sàn lái, bàn tay chìa ra như tiến lên bắt tay với người ngang hàng. Nhưng tay Nelson vẫn giữ ở bên mình. Ông bảo: “Ngài hãy nạp gươm trước, sau đó hãy đưa tay”. Trước khi kết thân với Chúa Giêsu, chúng ta phải quy phục Ngài.
(2) Nhũ hương là lễ vật cho thầy tế lễ. Trong việc thờ phượng nơi đền thờ và trong việc dâng lễ vật, người ta thường xông một hương liệu là nhũ hương có mùi thơm dịu. Chức vụ của thầy tế lễ là mở đường cho loài người đến với Thiên Chúa. Tiếng Latinh, chữ thầy tế lễ là ‘pontifex’ có nghĩa ‘người bắc cầu’. Thầy tế lễ là người bắc cầu giữa loài người và Thiên Chúa, đó là điều Chúa Giêsu làm, Ngài làm cho loài người có thể đến được với Thiên Chúa.
(3) Mộc dược là lễ vật cho người phải chết. Mộc dược là hương liệu để xông xác người chết. Holman Hunt có một bức tranh nổi tiếng về Chúa Giêsu. Bức tranh mô tả Chúa Giêsu tại trước cửa xưởng thợ mộc ở Nagiarét, Ngài vẫn còn thanh niên. Nắng chiều còn trên hiên cửa, thanh niên Giêsu đứng đó, duỗi tay và vươn vai vì tứ chi mệt mỏi sau một ngày lao động. Người đứng đó với cánh tay giơ ra, phía sau, mặt trời sắp lặn in bóng Ngài trên tường. Bóng đó là hình thập giá. Đằng sau, bà Maria đang đứng, đôi mắt hiện rõ nét lo âu về thảm kịch sẽ xảy đến cho con mình khi bà thấy bóng thập giá. Chúa Giêsu đã đến trong thế gian để sống cho loài người và cuối cùng để chết cho loài người. Ngài đến để ban cho loài người sự sống và sự chết của Ngài.
Vàng là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là Vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và sau hết Ngài là Chúa Cứu Thế cao cả của loài người.
157. Chú giải mục vụ của Claude Tassin
CÁC ĐẠO SĨ
Đoạn Tin Mừng đề cập đến các vị đạo sĩ gắn kết với đoạn trước bằng cái tên “Giêsu”. Ngoài ra, Mt 1,23 đã loan báo rằng trinh nữ “sẽ sinh hạ”; còn ở 2,2 các đạo sĩ vấn hỏi: vua dân Do Thái “đã sinh hạ” ở đâu. Tuy sự thể đã quá hiển nhiên như vậy rồi, truyền thống kể lại ở đoạn Mt 2,1-12 lại chắc chắn có trước thời Matthêu; ví dụ: như việc không đề cập gì đến sự hiện diện của Giuse (x. c.11) mặc dù ở Mt 1,18-25 lại nói nhiều đến Giuse.
Ý nghĩa phong phú của đoạn này nằm ở chỗ chứa đựng rất nhiều câu ám chỉ. Trước hết ta nên dựa vào bố cục của đoạn văn, căn cứ vai trò của ngôi sao lạ mà chia nó thành hai phần để phác họa rõ nét hơn sự đối kháng giữa thái độ của các đạo sĩ với thái độ của Hêrôđê.
Trong phần đầu (1-8) tấn tuồng được hình thành:
Câu 1-2: các đạo sĩ quan sát thấy một ngôi sao loan báo sự ra đời của vua dân Do Thái và họ phải đến kính viếng. Văn bản chỉ nói rằng ngôi sao đã chỉ đường cho họ, thế thôi. Họ đi đến Giêrusalem, trung tâm của thế giới Do Thái, và hỏi ra vị vua này ở đâu?
Câu 3-6: Ở Giêrusalem, Hêrôđê vua dân Do Thái và toàn thể công nghị (thượng tế và luật sĩ) tập thể đại diện cho dân Do Thái đặc trách việc chú giải Kinh Thánh, đã nghiên cứu những lời tiên báo về Đấng Mêsia. Hơn cả ngôi sao, Kinh Thánh mới là cuốn chỉ nam dẫn đường cho các đạo sĩ.
Câu 7-8: Giới chức Do Thái giải thích rất chính xác các lời tiên tri nhưng không hề ra tay hành động. Còn bản thân Hêrôđê lúc nào cũng e ngại một đối thủ xuất hiện nên đã ghi nhớ điều mặc khải này như đoạn sau sẽ cho thấy.
Phần hai (9-12) tấn tuồng được diễn:
Câu 9-11: Các đạo sĩ lại được ngôi sao hướng dẫn đến tận chỗ ở của Đấng Mêsia sau khi họ được Kinh Thánh soi rọi.
Câu 12: Mưu mô giết chóc của Hêrôđê bị thất bại bởi vì Thiên Chúa lại ra tay can thiệp một lần nữa “các đạo sĩ trở về xứ qua một lối khác”.
Ngoài ra bản văn còn cho ta những chìa khóa khác nếu ta nghiên cứu kỹ lưỡng các nhân vật (các đạo sĩ, Hêrôđê), dấu hiệu ngôi sao và câu trích dẫn (c.6)
1. Các đạo sĩ: Vừa là những bậc thông thái lại là những nhà thuật sĩ, các “đạo sĩ” Đông Phương hành nghề bói toán, y học, chiêm tinh và giải mộng. Trước đó, Môsê đã từng đụng độ họ ở cung điện vua Pharaon, sau này các tông đồ cũng đôi lần gặp phải các nhân vật nhóm này (x. Cv 8,9; 13,8). Kinh Thánh không yêu thích gì họ. Và chỉ có dân ngoại mới làm đạo sĩ bởi vì ở xứ Israel, “phù thủy” là nghề bị cấm chỉ.
Các vị đạo sĩ trong Mt 2 đến từ Đông Phương bởi vì các thuật sĩ Đông Phương nổi tiếng hơn, nhất là các người Chaldé xứ Babylone. Matthêu không nói rõ họ thuộc dân xứ nào. Những lễ vật họ mang theo gợi ta đoán là xứ Ả Rập. Cũng có thể là xứ Ba Tư. Theo hai tác giả La tinh, khoảng năm 66 có các đạo sĩ Ba Tư tuân theo các ngôi sao chỉ đường, đã đến Rôma để triều yết hoàng đế Neron, khi trở về họ chắc rồi cũng “đi theo lối khác”. Tuy nhiên, Matthêu không dẫn dắt các đạo sĩ đến với Neron mà là đến với Chúa Giêsu và cũng rất mỉa mai khi xảy ra sự thể là: đang khi giới hữu trách Do Thái hằng được Kinh Thánh soi sáng lại không biết cách làm thì các đạo sĩ ngoại giáo chỉ dựa vào hiểu biết khoa học chứ không phải do Kinh Thánh soi sáng hoặc do tuân giữ Kinh Thánh lại làm được: đó là bài học truyền giáo đầu tiên của tác giả Tin Mừng.
Giáo Hội Đông Phương cho rằng có ba vị đạo sĩ (dựa vào số món quà đem theo) và gọi họ là ba vua. Sự tôn vinh này khá phổ biến trong Cựu Ước. Thực vậy, theo Thánh Vịnh 72, 10-15 thì các kẻ cầm đầu các dân nước đến dâng hiến châu báu xứ sở lên cho Đấng Mêsia. Nhưng Matthêu không gọi họ là vua: họ là những dân ngoại khiêm hạ nhất đã đến với Đức Kitô.
2. Ngôi sao lạ: Chắc chắn tác giả Tin Mừng sẽ giật mình khi biết rằng hậu thế mình đã ra công cất sức truy tìm những giả thuyết để xác định cho được tinh vân nào hoặc sao chổi nào có lẽ đã xuất hiện vào thời Chúa Giêsu. Ngôi sao của Matthêu không phải là vì tinh tú mọc trên bầu trời, mà là ở trong Kinh Thánh (Theo Ds 24,17 thì sẽ có ngày “ngôi sao nhà Giacóp” sẽ mọc lên. Và dân Do Thái ở thế kỷ I đã áp dụng lời tiên tri này cho Đấng Mêsia. Hình ảnh tượng trưng đó rất phù hợp với câu chuyện về các đạo sĩ ở đây). Bởi vì lời tiên báo trong Ds 24 cho dân Israel không phải do một tiên tri Israel nói ra mà bởi Balaam, một kẻ ngoại mà truyền thống vẫn coi ông ta như là kẻ giải mộng, nghĩa là một “đạo sĩ”.
3. Hêrôđê: Khi Chúa Giêsu ra đời, triều đại Hêrôđê đại đế (năm 37-4 trước Công nguyên) đã chấm dứt. Ta biết rằng Denys bé nhỏ, một tu sĩ sống vào thế kỷ VII đã sai lầm khi xây dựng bộ lịch ngày nay. Đúng ra, Chúa Giêsu ra đời vào năm thứ bảy hoặc thứ sáu “trước khi Chúa Giêsu Kitô ra đời”. Bấy giờ, Hêrôđê rất sợ kẻ chiếm ngôi đến độ y đã ra lệnh xử giảo ngay cả một số con cái mình: các kẻ đương thời đã khôi hài với nhau rằng: thà rằng làm con heo (hus theo tiếng Hy Lạp) của Hêrôđê hơn là làm con đẻ (huios) của y. Tóm lại, những gì ở đây Matthêu gán cho nhân vật Hêrôđê đều cảm hứng từ thực tế. Nhưng một phần thì đoạn kể về các thuật sĩ mang tính biểu tượng và mặt khác lúc bấy giờ người ta lại không hề biết sự ra đời của Chúa Giêsu nhưng cuộc tàn sát ở Bêlem chắc chắn có để lại dấu ấn trong lịch sử Do Thái, đều là những sự kiện thực tế. Hình tượng nhân vật Hêrôđê được truyền thống Tin Mừng xét theo hai cách:
a) Đàng sau lời sứ thần báo tin cho Giuse đúng là một việc khả thi, giống như lời báo tin của Thiên Chúa cho người cha tương lai của Môsê vậy. Nhưng lại có truyền thuyết Do Thái cổ xưa khác, cũng thuật lại một giấc mộng làm Pharaon lo lắng và được các thuật sĩ cắt nghĩa như sau: một Hài Nhi sẽ sinh ra nơi dân Hy Bá Lai, nó sẽ triệt hạ xứ Ai Cập. Chính vì vậy mà Pharaon đã ra sắc chỉ tàn sát mọi con trai đầu lòng của người Hy Bá Lai (x. Xh 1,15). Chịu ảnh hưởng của truyền thống này, ở đây Chúa Giêsu xuất hiện như một Môsê mới và Hêrôđê đóng vai vị vua tàn ác nhưng chỉ chuốc lấy thất bại.
b) Mặt khác, trong đoạn tường thuật này, Hêrôđê được bao quanh bởi “toàn thể Giêrusalem” (c.3) và các quan chức Do Thái giáo (tư tế, luật sĩ: c.4). Như thế cuộc khổ nạn và những kẻ chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu đã được dựng lên ở đây rồi vậy.
4. Lời tiên tri của Mikha (c.6): Đáp lại câu hỏi ở c.2 “Vua dân Do Thái sinh hạ ở đâu?”. Dựa vào lời nói của các tư tế và luật sĩ (thực ra là của Matthêu), bằng cách trưng ra “bố trí” sẵn những câu trích dẫn Cựu Ước. Matthêu đã trích Mk 5,1-3 và phối kết với 2Sm 5,2 “Ngươi sẽ là mục tử chăn dắt Israel dân Ta” đó chính là lời hứa đối với Đavít. Ta cũng cần nói thêm rằng tiên tri Mikha nối kết với câu Is 7,14 đã được trích ra ở trên. Như thế, lời tiên báo được sắp xếp lại như vậy có ý nghĩa gì?
a) Trung thành với Mikha, và ít lạc quan về tương lai của Giêrusalem, Matthêu đã tôn vinh làng Bêlem đơn hèn, vì đó chính là ngôi làng của Đấng sẽ trở nên Mêsia cho những kẻ bé mọn (x. Mt 11,25-30).
b) Nhận chân giá trị của thành vua Đavít và lời hứa ban cho vị vua này (2Sm 5,2) nối kết tầm quan trọng của tổ phụ Đavít của Chúa Giêsu như đã nhấn mạnh trong Mt 1.
c) Nếu Chúa Giêsu phải là “mục tử dân Israel” (một tước hiệu gán cho chính Thiên Chúa x. Tv 80,2) và nếu Giêrusalem đã khước từ Đấng chăn dắt mình, vậy thì lời tiên tri làm sao nên trọn được? Đó chính là toàn bộ thảm kịch của sứ vụ Đức Kitô.
Toàn bộ nét biểu trưng đoạn đã biến Tin Mừng về ba vị đạo sĩ thành một Tin Mừng thu nhỏ lại: vua Đavít mới, Môsê mới ngày kia sẽ rao giảng trên núi, Người mục tử bị chê bỏ (cf. Mt 26,31) bởi những kẻ kêu gào phải giết Ngài đi, rồi chế nhạo “Vua dân Do Thái” trên đồi Calvariô (cf. Mt 27,37) để rồi đến một ngày vang dội lệnh truyền khẩn thiết này “hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân”.
Câu hỏi cốt lõi của đoạn này là: Ở ĐÂU? Những chuỗi kế đến sẽ liệt kê (Mt 28,19) thêm Ai Cập, Rama, Galilê, Nagiarét trong số nhiều địa điểm có ý nghĩa của cuộc sống đời Đấng Mêsia.
158. Chú giải của Noel Quesson
Khi Đức Giêsu ra đời lại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì.
Đó chỉ là những từ duy nhất, rất ngắn ngủi mà Matthêu dùng để nói về lễ Giáng sinh. Ít thật! Thực sự, Matthêu có vẻ chú ý quá ít đến biến cố đơn thuần, khác với Luca. Trái lại, một cách rõ rệt, Matthêu chủ ý trình bày với các độc giả của mình ý nghĩa của sự sinh ra. Và ông cho họ hiểu ý nghĩa trong câu truyện này về các nhà chiêm tinh... chính câu truyện được triển khai tối đa, và được trình bày, nếu chúng ta lưu ý, như một thứ dẫn nhập cho toàn bộ Tin Mừng theo Thánh Matthêu.
Thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?”
Matthêu so sánh, như hai chất nổ, hai danh hiệu:Vua Hêrôđê... vua dân Do Thái. Câu hỏi này mà những người nước ngoài sắp nhắc lại trên các phố phường chật hẹp ở Giêrusalem, đã vang đến tai những người Do Thái như một sự mỉa mai cay độc. Người ta hiểu rằng nó cũng làm cho Hêrôđê vốn đa nghi phải giao động. Qua lịch sử, người ta biết rằng cả đời ông bị ám ảnh vì sợ mất quyền bính, và ông thấy chỗ nào cũng có âm mưu, nên chỉ luôn luôn sống trong các thành lũy, và cho giết chết ba người con trai, bà mẹ vợ và thậm chí chính người vợ riêng của mình.
Đấy là về chuyện lịch sử. Nhưng ý nghĩa mà Matthêu dành cho danh hiệu “Vua dân Do Thái" này lại sâu xa hơn nhiều; Nước Trời sẽ là một trong những đề tài ông ưa thích. Matthêu, ngay từ đầu loan báo về Đức Vua của Vương quốc này. Ngay trang đầu trong sách Tin Mừng của ông, có một vương miện đang tranh chấp: ai thực sự là "vua" dân Do Thái? Hêrôđê, một nhà vua chuyên chế, hiếu sát và tàn bạo? Hay là Giêsu, người bé nhỏ, yếu hèn, không có vũ khí sẽ chết như nạn nhân vô tội? Chính ở trang cuối cùng sách Tin Mừng của mình, theo một phương thức viết hàm ý quen dùng trong văn chương Sê-mít, mà Matthêu đã đặt lại cho Đức Giêsu "Vua dân Do Thái" này. Những binh lính sẽ nói "Ngự tâu, Vua dân Do Thái" (Mt 27,29). Philatô sẽ cho ghi "Này là Vua dân Do Thái" ở trên đầu Đức Giêsu chịu khổ hình thập giá, để chỉ rõ cái "lý do khiến người bị kết án" (Mt 27,37). Tất cả các kinh sư và đại giáo trưởng sẽ cười nhạo "Nếu y là Vua dân Do Thái, thì y cứ xuống khỏi thập giá đi" (Mt 27,37).
Từ khi sinh ra, Thánh Matthêu gợi ý, Đức Giêsu chỉ là một vua khiêm tốn, hình ảnh của "Người đầy tớ chịu đau khổ" của Isaia vị vua này sẽ chỉ cưỡi trên lưng lừa (Mt 21,5) trong cuộc khải hoàn chóng qua với những tàu lá, vị vua đến không Phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ (Mt 20,28), và sẽ yêu cầu các bạn hữu của mình "đừng thống trị, mà hãy làm cho mình trở thành những đầy tớ" (Mt 20,25-26). Vương quyền của vị vua này không thuộc về thế gian này, nó không hề giống vương quyền của Hêrôđê: nó chỉ được tiết lộ một cách nghịch lý trong ngày Người thụ nạn, chúng ta sẽ hàm ý gì dưới những từ lặp lại trong lời kinh của chúng ta: "Xin cho Nước Cha trị đến!"...Người trị đến với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh đến muôn muôn thế kỷ".
Chúng tôi đã trông thấy vì sao của Người xuất hiện.
Ngày nay, Giáo Hội so sánh câu truyện Hiển Linh này với bản văn của Isaia được chọn lựa giữa vô số bản văn Kinh Thánh loan báo Đấng Mêsia đến như một ánh sáng. "Hãy đứng lên hỡi Giêrusalem, ánh sáng của người đã đến và vinh quang của Đức Chúa xuất hiện trên ngươi. Hãy nhìn xem: bóng tối lại bao trùm mặt đất, nhưng Đức Chúa xuất hiện trên ngươi, và vinh quang của Người chiếu tỏ trên ngươi. Các dân nước sẽ tiến về phía ánh sáng của ngươi, và các vua, về phía luống sáng bình minh ngươi (Is 60,1-6) Người ta nhớ lại ánh sáng của Đấng Cứu Độ được hát vào Mùa Vọng và trong lễ đêm Giáng sinh: Người đi trong bóng tối đã trông thấy xuất hiện một ánh sáng lớn lao, bởi vì một Hài Nhi đãsinh ra cho chúng ta" (Is 9,1-5).
Trong chủ đề về ngôi sao, có cả một ý nghĩa mà Thánh Phêrô chỉ rõ khi người nói về đức tin như “sao Mai xuất hiện trong lòng chúng ta” (2Pr 1,19). Ngôi sao tượng trưng cho ánh sáng của Chúa, ân sủng của Chúa, tác động của Chúa trong tâm trí của mọi người, và dẫn dắt mọi người hướng về Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa nhìn ngắm với tình yêu những nhà chiêm tinh ngoại giáo tiến về Đức Giêsu. Trong đời tôi, cũng có một ơn hướng dẫn tôi khám phá ra Đức Giêsu. Tôi có can đảm đi theo ơn đó cho đến nơi mà ơn huệ hướng dẫn tôi không? Xin hãy dẫn dắt con trong ánh sáng này một bước, một bước, chỉ một bước hướng tới Chúa!
Và chúng tôi đến bái lạy Người.
"Bái lạy". Động từ này được Matthêu sử dụng ba lần trên trang này chỉ thái độ sâu xa của các nhà chiêm tinh ngoại giáo này. Họ đến để thờ lạy. Còn tôi? Đôi khi tôi có bái lạy không? Trước cái gì? Trước ai? Tôi gán cho một ý nghĩa gì về việc bái lạy của tôi lúc dâng Thánh Thể trong thánh lễ không? Nhiều bạn trẻ ngày nay, tìm lại được cái cử chỉ bái lạy lớn lao, ở đó có người nhận biết sự bé mọn của mình, đã hoàn toàn phục dài trên mặt đất trong lòng tôn thờ của tất cả vạn vật.
Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân Israel lại.
Giữa câu truyện Hiển Linh, Matthêu đưa ra hai thái độ mà cháng ta luôn luôn thấy lại trong sách Tin Mừng cha ông: "Một đàng là sự khước từ của các lãnh tụ chính trị và tôn giáo Do Thái. Đáng lẽ họ phải là những người đầu tiên nhận ra Đấng Mêsia Thế mà, họ làm gì? họ sợ hãi, họ lo âu. Họ không động tĩnh. Ngay từ đầu họ tìm giết Đức Giêsu. Người ta tưởng đã nghe thấy tiếng kêu buồn rầu to lớn Đức Giêsu thốt ra về Giêrusalem: "Khốn thay! Các kinh sư và các Pharisêu... Hỡi Giêrusalem! Giêrusalem! Ngạo giết chết những người ta sai đến với ngươi bao nhiêu lần ta đã muốn tập hợp các con cái ta! Và các người đã không muốn" (Mt 23,27-37).
Đàng khác, trái lại, sự "đón tiếp" của những nhà chiêm tinh ngoại giáo. Dù không được chuẩn bị bao nhiêu để nhận biết Đấng Mêsia, chính họ lại đi tìm kiếm Người, họ năng động, và không chút lo âu, họ cảm thấy "một nỗi vui mừng lớn lao Người ta tưởng chừng nghe thấy câu kết luận của sách Tin Mừng Matthêu: Các ông hãy đi và hãy làm cho tất cả các dân nước trở thành môn đệ (Mt 28,19).
Thực ra, trang Tin Mừng này, trong những thế kỷ đầu tiên, được dành để cố giải thích cho các Kitô hữu gốc Do Thái (Matthêu muốn nói trực tiếp cho chính họ) hiểu tại sao Giáo Hội gồm có đa số là những Kitô hữu gốc ngoại giáo khi mà Thiên Chúa lại gắn bó quá mạnh mẽ với Do Thái. Mátthêu, chứng minh, nơi Giêsu. một Đấng Cứu Độ được mong đợi. Người đến vì tất cả mọi người: và nước Do Thái mới gồm có những người Do Thái hay ngoại giáo, bái lạy trước Đức Giêsu. Điều đó được tất cả những lại phát ngôn "có tính chất phổ độ" loan báo trước: Giêrusalem phải trở nên kinh đô của tất cả các dân tộc. "Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Saba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60,1-6). Người ta nhớ đến, bên Israel. nữ hoàng Saba, đến từ xa, bà đã lên Giêrusalem để gặp gỡ Salômôn. Thánh Vịnh 71, được hát ngày lễ Hiển Linh, lặp lại cùng một chủ đề của phần mở đầu: "Các vua xứ Tacsi và các hải đảo sẽ mang các tặng phẩm đến". Và cũng chính Matthêu sẽ nói lại trong sách Tin Mừng của ông rằng các dân tộc "sẽ đến từ Phương Đông và Phương Tây, an phần vào bữa tiệc với Abraham" (Mt 8,11). Một lần nũa, người ta thấy sách Tin Mừng này được cấu tạo như thế nào. Vâng, các "nhà chiêm tinh" tượng trưng cho tất cả những người ngoại giáo (và những người không tin) ở mọi thời đại Và trong những từ này, chúng ta không đưa vào đó một ý nghĩa xấu nào cả. trái lại!trong số các bạn bè của chúng ta, có đông người như thế, tất cả những người này hoàn toàn chân thành trong các xác tín của họ, họ có một cuộc sống ngay thẳng, có một ý thức về công lý, và về việc phục vụ tha nhân, họ có một đời sống gia đình gương mẫu, và làm trọn một cách hoàn hảo những nghĩa vụ nghề nghiệp của họ. Dẫu vậy, họ không biết Đức Giêsu Kitô theo nghĩa mạnh.
Lễ Hiển Linh là lễ của tất cả những người không biết Đức Giêsu, của tất cả những người có niềm tin khác với chúng ta. Và Thiên Chúa yêu mến họ, soi sáng cho họ, Thiên Chúa dùng ân điển vô hình để lôi kéo họ đến với Người. Nhưng, chúng ta, chúng ta phê phán họ như thế nào?
Và đây là điều ngôn sứ đã viết: "Phần ngươi, hỡi Bêlem. miến đất Giu-đa,... vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời".
Tại sao, hãy nói cho tôi hay, ngôi sao lại không trực tiếp dẫn lối những nhà chiêm tinh, nếu phải làm, đến Bêlem, gần Đức Giêsu? Tại sao có đường vòng qua Giêrusalem, qua các "kinh sư và thượng tế” Bởi vì Thiên Chúa trung thành với những lời Người hứa, và vì, nếu ơn cứu độ được đưa đến cho tất cả mọi người, thì ơn đó đến qua trung gian những người Do Thái (Rm 9, 10-11).
Họ mở bảo tráp, lấy tặng vật mà dâng tiến.. Họ đi lối khác mà về xứ mình...
Việc thờ phường là một trong những chức năng chính yếu của Giáo Hội: sự thờ phượng thật, chính là dâng tiến lên Thiên Chúa kết quả lao động của con người và của đất. Như vậy cuối cùng tất cả mọi giá trị mà nhờ đó các nền văn minh sinh tồn được. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời: một con đường mới mở ra... Tin Mừng vui biết bao, lạy Chúa!
159. Chú giải của Fiches Dominicales
BỊ DÂN NGƯỜI TỪ CHỐI KHI MỚI SINH RA,
ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC DÂN NGOẠI TIN NHẬN
LÀ VUA KHẮP THIÊN HẠ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đọc lại dưới ánh sáng Phục sinh...
Luca đã thuật lại việc các mục đồng đến viếng thăm hang đá, bài tường thuật ấy ăn nhịp với quan điểm lựa chọn người nghèo của ông. Về phần Matthêu, ông này kể lại chuyến thăm viếng của các vị Đạo sĩ, bởi ngay từ những trang đầu của Tin Mừng, họ đại diện cho những vùng đất xa xôi mà Đấng Phục Sinh sẽ sai các môn đệ đến, trong lần gặp gỡ cuối cùng ở Galilê: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành Môn đệ... " (Mt 28,19).
Bên dưới cái bề ngoài có vẻ ngây ngô trẻ con kia, đoạn Tin Mừng về các vị Đạo sĩ rất quen thuộc này thực ra đã được hình thành một cách tài tình, bằng một thứ nghệ thuật ngôn ngữ biểu tượng hoàn hảo, và chứa đầy những ẩn dụ của Cựu Ước mà nó hoàn tất: dưới ánh sáng của Phục sinh, tác giả Tin Mừng đã tìm về nguồn gốc lai lịch của Đức Giêsu, cho chúng ta khám phá thấy dưới dạng còn mới tiềm ẩn, những gì rồi đây sẽ hiện tỏ trọn vẹn trong cuộc đởi và biến cố vượt qua của Người.
A. Marchadour lưu ý chúng ta: "Tác giả Kinh Thánh, không cố bận tâm về tính xác thực lịch sử như chúng ta ngày nay, là những kẻ đầu óc mang nặng chủ nghĩa thực nghiệm. Nên nhớ tất cả những trình thuật về thời thơ ấu của Chúa đều được biên soạn từ các dữ kiện xảy ra về sau, được đưa vào muộn màng sau này. Phải đọc lại quá khứ dưới ánh sáng của hiện tại, tầm quan trọng của Kinh Thánh như là những "Lời tiên tri”, vẻ huy hoàng của biên cố vượt qua, tất cả đều tỏ cho thấy căn tính đích thực của Đức Giêsu. Tất cả cho phép chúng ta hiểu rằng các trình thuật thơ ấu đều đã được viết lại và tính xác thực lịch sử không phải là bận tâm hàng đầu của tác giả Kinh Thánh" (Les dossiers de la Bible, số 44, tr.5).
2. Một tường thuật sử dụng ý nghĩa biểu tượng của những đối lập:
Người đọc dễ dàng nhận ra được ngay hai phía đối lập nhau:
1. Phía thứ nhất có khung cảnh là đền thờ Giêrusalem, nơi triều đình của Hêrôđê.
Các Đạo sĩ có thể là những nhà chiêm tinh xứ Babylon, chuyên tìm đọc những bí ẩn của những vì sao - đã lên đường đi Giêrusalem, trái tim của thế giới Do Thái, để đến bái lạy "Đức Vua dân Do Thái”, bởi thấy sao của Người xuất hiện loan báo (c.1 và 2).
- Tuy nhiên, để gặp được Đấng họ tìm kiếm, ngôi sao lạ kia không đủ. Các ông cần đến sự trợ giúp của dân Do Thái và Kinh Thánh của họ.
Khi được các vị đạo sĩ đến hỏi, Hêrôđê và thành phần lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem quay sang tra cứu các lời sấm liên can đến Đấng Mêsia (c.3 và 6).
Để trả lời cho các vị khách phương xa này, nhóm cầm quyền Do Thái đã chú giải một cách chính xác lời các Ngôn Sứ, nhưng vẫn ở lại trong thành Giêrusalem (c.7 và 8).
2. Phía thứ hai ở tại Bêlem, nơi Đức Vua Giêsu đang chờ đón các vị đạo sĩ.
- Được Kinh Thánh chỉ dẫn lại, các vị đạo sĩ tìm thấy lại ngôi sao lạ. Lần này, nó đưa các ông đến với Đấng Mêsia ở Bêlem (c.9 và 10).
- Đến nơi họ gặp được Chúa Giêsu và sấp mình bái lạy Người, rồi dâng tiến Người những bảo vật quý giá nhất của xứ sở mình, đó là "vàng, nhũ hương và mộc dược" (c.11).
Hêrôđê thì chỉ nuôi những ý đồ giết người, nhưng không thành do sự can thiệp của Thiên Chúa: "được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên các vị đạo sĩ đã đi lối khác mà về xứ mình" (c. 12).
Nếu phân tích kỹ hơn, người ta sẽ phát hiện thấy một bộ ba những cặp đối lập nhau - một lời báo trước về khổ nạn – làm thành cái khung của câu chuyện:
1. Giêrusalem, trung tâm chính trị và tôn giáo, đã khước từ Đấng đến để hoàn tất những lời hứa, đối chọi với Bêlem, nơi hạ sinh của Con Vua Đavid các ngôn sứ từng loan báo.
2. Các đầu mục dân lsrael (các thượng tế và kinh sư hợp thành thượng Hội Đồng, cơ quan thẩm quyền đại diện cho Do Thái giáo) là những kẻ tự cho mình là hiểu biết Kinh Thánh, nhưng lại tỏ ra bất lực không thể ra đi, rời bỏ khỏi nơi ở của mình là Giêrusalem, họ đối chọi với các vị đạo sĩ ngoại giáo đã biết tìm kiếm, lên đường và sau cùng đã tìm thấy. Trong lúc phía bên kia “bối rối, xôn xao" thì phía bên này "mừng rỡ vô cùng”.
3. Hêrôđê, kẻ được tác giả gọi là "vua”, và là kẻ chỉ nơm nớp cho ngai báu của mình, đối chọi với Hài Nhi Bêlem, Đấng thật sự là vua: - Nơi Người đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia 60 (bài đọc I), loan báo ngày mà dân ngoại lũ lượt tiến về Giêrusalem, mang theo vô vàn châu báu để triều cống. Nơi Người đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Mica 5,1 nói đến Bêlem như là nơi sinh của Đấng Mêsia: "Phần ngươi, hỡi Bêlem, nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Giuđa. Chính tự nơi người sẽ xuất hiện cho Ta, Vị có mệnh thống lĩnh Israel”.
Nơi Người đã ứng nghiệm lời tiên tri của Balaam, một người ngoại giáo, trong sách Dân Số 24, báo trước sẽ có một ngày xuất hiện "một ngôi sao mọc lên từ Giacob”.
Như thế, qua nét tinh tế của bố cục và lối viết của mình, câu chuyện đã công bố cho thấy căn tính nhiệm mầu của Đức Giêsu, loan báo sứ mạng của Người, báo trước việc Người sẽ bị những đầu mục của dân Người chối từ, cũng như sự kiện dân ngoại sẽ tìm đến với Hội Thánh. Tắt một lời, nói theo kiểu của Claude Tassin, chúng ta đang có ở đây một thứ "Tin Mừng ở dạng thu nhỏ”.
Được đặt lại trong toàn bộ Tin Mừng của Matthêu, ý nghĩa của đoạn văn sẽ trở nên sáng tỏ. Francois Brossier tóm tắt như sau: "Những kẻ đáng ra phải đón nhận Đấng Mêsia do Thiên Chúa gởi đến, lại không nhận biết người, bởi đầu óc chúng đã ra cằn cỗi. Đang khi đó, chính những dân ngoại lại đón nhận và tôn thờ Người. Sự chối từ nơi phần lớn dân Israel và thái độ đón nhận nơi dân ngoại, một chủ đề sẽ bàng bạc trong khắp cả Tin Mừng, đó là điều đang được minh nhiên công bố ở đây" (Le Monde de La Bible, số 85, trang 18).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Chúng ta có để mình được Phúc Âm hoá bởi chính Tin Mừng mà chúng ta có bổn phận phải loan báo?”
(T.Sintas, trong "Parole de Dieu pour la méditation et l'homélie", Médiaspaul, tr.27).
"Nơi chúng ta, là Giáo Hội, hôm nay, được ký thác một ánh sáng có khả năng soi dẫn đường đi nước bước cho tất cả những ai đi tìm Đức Giêsu. Điều đó chẳng do bởi nhân đức thánh thiện của chúng ta, cũng chẳng do bởi đời sống tốt lành hay đức tin cá nhân của chúng ta. Tất cả chỉ vì đó là sứ mạng chúng ta đã nhận lãnh từ nơi Đức Kitô. Những gì chúng ta phải loan báo không có cơ sở chân lý từ chính bản thân chúng ta, nhưng duy nhất từ Đấng đã giao phó sứ mạng ấy cho chúng ta. Sức mạnh của việc Phúc âm hoá đến từ Thiên Chúa. Đừng chờ đến khi nào nên thánh rồi mới thi hành nhiệm vụ. Một cách đơn sơ, khiêm tốn, chúng ta hãy để mình được phúc âm hoá bởi chính Tin Mừng mà chúng ta có bổn phận phải loan báo".
2. Bạn có biết rõ câu chuyện về Balaam và con lừa của ông ta chưa?
(H.Denis, trong "100 mots pour dire la soi", Desclée de Brouwer, tr. 71-72).
"Không có hang đá nào mà lại không có ngôi sao. Chẳng có lễ Hiển Linh nào mà lại thiếu vắng vì sao lạ ấy... Nhưng sự thực mà nói, bạn có biết rõ hay không câu chuyện về Balaam? Người ta không biết đích xác nó xảy ra khi nào (sách Dân Số, ch. 22- 24), nếu không phải là vào khoảng giai đoạn cuối cuộc xâm nhập của Israel vào Đất Hứa, không xa thành Giêricô bao nhiêu. Những người dân xứ Moab kinh hoàng trước sức tiến của Israel. Họ tìm đến với một người tên Balaam nào đó, có lẽ là một thầy bói, để nhờ ông ta trù ẻo cho Israel (vào thời đó, người ta còn tin vào hiệu năng hầu như ma thuật của những lời trù ẻo).
Được Thiên Chúa can ngăn trong giấc mộng, lúc đầu Balaam từ chối, rồi sau đó lại quyết định lên đường và cưỡi con lừa cái của mình. Thiên Chúa liền nổi giận và hiện ra cho con lừa dưới dạng một Thần sứ với gươm tuốt trần cầm tay. Con lừa tránh sang một bên đường và phóng xuống ruộng. Balaam đánh đập và hành tội con vật. Nó lại chui vào một khúc đường trũng và hẹp, vô phương tới lui hay nhúc nhích bên này bên kia. Con lừa đáng thương quỵ xuống dưới làn roi tới tấp. Lúc ấy, Thiên Chúa cho nó mở miệng nói: nó trách móc Balaam đã đối xử với nó sao quá tàn nhẫn. Phút chốc, Balaam nhìn ra được vị thần sứ với lưỡi gươm trần, ông quì xuống sấp mặt bái lạy. Sau đó, ông được tiếp tục ra đi, nhưng với một điều kiện: chỉ được phép nói trước mặt các thù địch của Israel điều Thần sứ bảo nói! Thế là cái ông Balaam của chúng ta xổ ra một tràng những lời chúc phúc cho Israel: “Làm sao tôi sẽ trù ẻo kẻ Thiên Chúa không cho trù ẻo? Ai nào đếm được số đông của Giacob và Israel? Một ngôi sao mọc lên từ Giacob và một vương tướng xuất từ Israel sẽ đập tan Moab lẫn Eđom? Câu chuyện là như thế, trong đó có nói đến một con lừa biết nói, y như trong chuyện ngụ ngôn của La Fontaine.
Đó cũng còn là lời loan báo trong trời đất về ánh huy hoàng của Đấng Mêsia: "Một ngôi sao mọc lên từ Giacob”. Rồi đây chẳng bao lâu. các nhà đạo sĩ sẽ công bố cái âm hưởng vang vọng khắp địa cầu của cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu. Từ nay, trong Người, toàn thể nhân loại, đã được chúc phúc.
Tôi muốn nghĩ rằng ngôi sao của Noel bắt đầu từ chuyện một con lừa cái bị kiệt sức và quỵ ngã, là kẻ đầu tiên nhận thức được tầm mức lớn lao của biến cố. Đúng thế, nhân loại vừa được sinh ra dưới một ngôi sao tốt, ngôi sao của Đức Giêsu.
160. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CÁC ĐẠO SĨ
I. Thật và không thật.
Câu chuyện này gây ra 2 cảm tưởng trái ngược nhau: (a) một đàng có những chi tiết khiến ta nghĩ rằng đây là một chuyện hoang đường, giả tạo, chẳng hạn: cuộc hành trình dài của các đạo sĩ, ngôi sao lạ di chuyển dẫn đường rồi cuối cùng chỉ đúng vào chỗ Thánh Gia đang ở, cả thành Giêrusalem khi hay tin có vua mới sinh ra lẽ ra phải vui mừng mà sao lại bối rối. Hêrôđê phải triệu tập tất cả các thầy thượng tế để hỏi một câu rất dễ, mọi người đều biết nơi Hài Nhi sinh ra trong khi Hêrôđê không biết, sao chẳng ai tò mò đi theo các đạo sĩ để xem Hài Nhi v.v. (b) nhưng đàng khác có nhiều chi tiết rất hợp với lịch sử, như quan tâm của các chiêm tinh gia phương đông về một vì vua cứu thế, những hồi nổi cơn bất ngờ của Hêrôđê...
Những nét không thật và những nét thật ấy khiến chúng ta nghĩ rằng tác giả không chủ ý viết một bài tường thuật đúng nghĩa, mà chỉ muốn viết một bản văn để diễn tả quan điểm thần học của mình. Trong mục đích đó, tác giả đã xử dụng văn thể Midrash (xem lại trang 19, số III,4): tường thuật một sự kiện có thật nhưng giải nghĩa thoáng rộng nhằm đưa ra một bài học cho độc giả.
II. Vấn đề đặt ra bài học của Matthêu
- Trong cộng đoàn của Matthêu mà đa số là Kitô hữu gốc Do Thái, người ta rất thắc mắc về sự kiện tại sao trong khi lương dân thì đón nhận Đức Giêsu Kitô, còn dân Chúa chọn lại từ chối Ngài.
- Matthêu viết chuyện này (theo văn thể Midrash) nhằm đưa ra câu trả lời: Tại vì lương dân ngoan ngoãn với Thiên Chúa hơn, chẳng hạn các đạo sĩ. Họ chỉ có hiểu biết rất đơn sơ tự nhiên (chiêm tinh), nhưng nhờ ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của Chúa (biểu tượng là ngôi sao lạ), nên đã được dẫn tới đức tin vào hài nhi Giêsu. Ngược lại, các thủ lãnh tôn giáo của người do thái cùng với Hêrôđê, mặc dù đã có Sách thánh trong tay (họ biết rõ là hài nhi sẽ sinh tại Bêlem) nhưng vẫn không tin. Sự kiện Đức Giêsu được lương dân tin thờ gợi nhớ đến lời của ngôn sứ Isaia (49,23 và 60,3-6), cũng như Tv 72,10-15.
- Matthêu vừa giải đáp thắc mắc của cộng đoàn, vừa xoáy sâu hơn vào luận đề chung của mình trong cả 2 chương nhập đề:
. Bảng gia phả chứng minh sự châm rễ của Đức Giêsu vào lịch sử dân biệt tuyển.
. Câu chuyện báo tin cho Giuse cho thấy tính siêu việt của Đức Giêsu.
. Câu chuyện các đạo sĩ này cho thấy tính vương giả của Ngài, đồng thời hé mở cái nghịch lý vẫn thấy xuất hiện tới lui nhiều lần trong tác phẩm: dân Chúa đã không chấp nhận Ngài.
III. Giải thích một số chi tiết
- Bêlem: ở 7km phía Nam Giêrusalem, là quê quán của Booz, Jessé và nhất là của Đavít (1S 16 20,6).
- Hêrôđê: Đây là Hêrôđê Cả, trấn nhậm miền Judée (37-4 trước công nguyên). Sử sách làm chứng rằng vào những năm cuối đời, ông nghi ngờ mọi người có ý đồ lật đổ ông, vì thế mà ông không ngại ra tay tàn sát tất cả những ai mà ông nghi là sắp làm hại ông, kể cả những người trong gia đình ông.
- Đạo sĩ: Có lẽ đây là những nhà chiêm tinh ngoại đạo nhưng có tiếp xúc với đạo Do Thái và cùng chia sẻ một số niềm tin của Do Thái, trong đó có niềm tin vào Đấng Messia sắp đến. Họ sống ở phía bờ bên kia sông Jordan. Từ thế kỷ V, người ta cho rằng họ là những vị vua số lượng là 3. Đến thế kỷ 8 người ta còn đặt cho các ông những tên là Gaspar, Balthasar và Melchior.
- Vua Do Thái mới sinh ở đâu? Matthêu nhấn mạnh đến tính vương giả của Đức Giêsu. Đồng thời Matthêu cũng cho thấy một nét mỉa mai: chính lương dân nhận ra tính vương giả này và nói cho dân Do Thái hay.
- Ngôi sao: Do Thái giáo dựa vào Dc 24,17: "Một ngôi sao sẽ xuất ra từ nhà Giacóp, một vương trướng sẽ chổi dậy từ nhà Israel" để tin rằng sự xuất hiện một ngôi sao lạ là dấu chỉ Đấng Messia đến.
- Chúng tôi đến thờ lạy Ngài: Động từ "thờ lạy" (preskunêô) được Cựu Ước thường dùng để chỉ việc lương dân đến tôn thờ Giavê trong Đền Thờ. Matthêu dùng động từ này có ngụ ý nói đến tính đại đồng của ơn cứu rỗi mà Đức Giêsu mang đến.
- Cả thành Giêrusalem bối rối: chi tiết này rõ ràng là phóng đại. Matthêu phóng đại như vậy để diễn tả ý tưởng cả một phần lớn dân Do Thái từ chối Đức Giêsu. Chi tiết này càng làm nổi bật cái nghịch lý mà ta đã nói ở trên.
- cc 4-5: không nhằm chúng minh sự ngu dốt của Hêrôđê, cũng không chứng minh sự thông thái của các ký lục và thượng tế, mà đơn giản Matthêu chỉ dùng mấy câu này để dẫn vào câu Sách Thánh mà Matthêu sắp trích dẫn sau đó.
- c 6: Matthêu trích dẫn phối hợp Mt 5,1-3 và 2S 5,2 để trình bày Đức Giêsu là một vua Đavít mới.
- c 10: Niềm vui của các đạo sĩ: "Các ông vui mừng hớn hở". So sánh với Lc 2,10 (Tin vui vĩ đại). Đó là niềm vui to lớn của lương dân khi thấy Đức Giêsu mang đến cho họ ơn cứu rỗi mà bấy lâu nay họ khao khát chờ mong.
- c 11: Cử chỉ của các đạo sĩ cho thấy vừa tính vương giả vừa tính thần linh của Đức Giêsu. Các lễ vật (vàng, hương và mộc dược) là những lễ vật được dâng cho bậc vương giả (xem Tv 72,15 vàng, Is 60,6 vàng và hương, Tv 45,8 mộc dược).
Kết luận
Nghịch lý đã khởi sự diễn ra; Hêrôđê và các thủ lãnh tôn giáo cùng với phần đông dân do thái đã khước từ Đức Giêsu, nhưng lương dân thì lại đến triều bái và tôn thờ Ngài, cũng giống như cộng đoàn Kitô đang tập hợp chung quanh Đức Giêsu phục sinh. Như thế thì lời của ngôn sứ Isaia đã được thực hiện (Is 60 và 62): đông đảo lương dân kéo đến Giêrusalem mới, một Giêrusalem sáng ngời vinh quang Thiên Chúa.
161. Một chút quà dâng tiến Hài Nhi
(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)
Câu chuyện về ba đạo sĩ vượt đường xa vạn dặm dậng tiến Chúa Hài Nhi vàng, mộc dược và nhũ hương chỉ được ghi lại qua thánh Matthêo. Cả ba quà tặng qúy giá kia tượng trưng toàn bộ đời sống con nguời về vật chất và cả về tâm linh phải được nhìn qua lăng kính của những người khách lạ rất khôn ngoan đến từ phương Đông. Ngày xưa, và ngay cả ngày nay cũng thế, phương Đông tượng trưng cho những gì lạc hậu, chậm tiến và nhất là lạc giáo.
Lễ Ba Vua là dịp cảnh tỉnh những người nặng đầu óc cục bộ chủ quan chỉ môi miệng hào nhoáng thờ phượng Thiên Chúa nhưng lòng dạ lại dẫy đầy những tính toán vật chất thế trần. Đây cũng là cơ hội để chúng ta khiêm cung nhận chân tinh thần đạo đức và lòng bác ái vị tha nơi các tôn giáo khác cũng như truyền thống văn hoá từ những dân tộc, quốc gia trên khắp cùng thế giới.
Soren Kierkegaard, trong "Only a Rumor" viết rằng dẫu cho những đại giáo trưởng và luật sĩ đã có thể biết đích xác ngày giờ và nơi chốn Con Thiên Chúa giáng lâm, họ đã không buồn theo bước ba đạo sĩ phương Đông. Có thể chúng ta cũng thế! Lắm khi chúng ta thông suốt ngọn nguồn điều răn giáo lý, thuộc nằm lòng từng chữ từng kinh nhưng vẫn không buồn lê buớc có lẽ vì đôi chân đã chĩu nặng những phấn bụi đường đời!
Thật là một nghịch lý khôn cùng, Kierkegaard chua chát nhận xét. Ba Vua chỉ mới nghe đồn thôi mà họ đã vội vã ra đi, còn những nhà thông thái kia vẫn không một mảy may biến động. Và ai sẽ tìm đuợc chân lý? Những người khách lạ từ phuơng Đông xa xôi kia? Hay những người địa phương ung dung tự mãn với một chút kiến thức nhỏ nhoi hạn hẹp nơi mình? Và từ những hạn hẹp nhỏ nhoi kia đưa đến một cuộc thảm sát dã man thương tâm nhất trong lịch sử con người.
Ngay từ lúc mới mở mắt chào đời, Hài Nhi Giêsu đã hiểu đuợc rằng từ đây số phận Người đã gắn chặt cùng những kẻ khốn cùng nhất trong những kẻ khốn cùng. Những em bé thơ ngây trong trắng thành Bêlem đã là những thánh tử đạo tiên khởi của toàn nhân loại chỉ vì Thiên Chúa, ngay từ giây phút đầu tiên nhập thể, đã thách thức những quyền thần thế lực dương trần.
Hành động kinh khiếp kia của Hêrôđê nhắc nhở rằng suốt cuộc đời của Chúa Giêsu từ hang Bêlem âm u đến đồi Golgotha trống vắng, Người đã thở hơi đầu tiên với bò lừa và đã trút hơi thở cuối cùng bên hai tên tử tội. Và vì Hêrôđê, Người đã đồng hoá cùng những người phải lìa bỏ quê cha đất tổ vì bạo chúa bạo quyền. Người đã tha phuơng cầu thực nên những đau đớn họ đã tủi nhục kinh qua, Người đã sống, đã từng...
Joy Carroll Wallis đã viết là quyền uy và tình thương của Thiên Chúa đã biểu hiện thật tận cùng trong những kẻ đói nghèo nhưng rất khao khát tự do hoà bình công lý. Trong những kẻ đói nghèo kia, có hàng triệu triệu nguời tỵ nạn. Và những thuyền nhân mang hai chữ Việt Nam. Hãy đừng mặc cảm tự ti về thân phận và danh xưng tỵ nạn của mình, nhưng hãy hãnh diện với tước hiệu rơm rác kia, vì chính rơm rác cùng các mục đồng và ba đạo sĩ phương Đông đuợc gần Chúa Hài Nhi trước nhất. Và đó cũng là món quà hiếm quý nên dâng tiến lên Đấng Cứu Tinh.
162. Suy niệm của Lm. Đan Vinh
ÁNH SAO LẠ DẪN ĐƯỜNG GIÚP LƯƠNG DÂN GẶP GỠ CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA:
Ý CHÍNH:
Qua ánh sao lạ, Thiên Chúa đã soi sáng cho các đạo sĩ tìm đến thờ lạy Con Chúa mới giáng sinh, đang khi vua chúa và các đầu mục dân Do thái lại tỏ thái độ thờ ơ, thậm chí còn thù ghét cố tình hãm hại Người.
CHÚ THÍCH:
- C 1-2: +Bê-lem: Một thị trấn nhỏ bé nằm cách thủ đô Giê-ru-sa-lem khoảng 7 cây số về phía Nam. Thị trấn này tuy nhỏ bé nhưng rất danh tiếng, vì là quê hương của vua Đa-vít. Bê-lem còn được Ngôn sứ Mi-kha tuyên sấm là nơi mà Đấng Cứu Thế sẽ ra đời (x. Mk 5,1). +Mấy nhà chiêm tinh: Là những đạo sĩ hay chiêm tinh gia đã từng đọc Thánh Kinh của Do thái giáo nên có sự hiểu biết về việc Đấng Thiên Sai sắp xuất hiện và muốn được gặp gỡ Người. Dựa vào lễ vật các ngài mang theo là những đặc sản của xứ Arabi, nên người ta đóan các ngài từ xứ Arabi mà đến. Đồng thời dựa vào số lễ vật, người ta cho rằng có 3 vị. Đến thế kỷ VIII, có người còn kể rõ tên của ba vị đạo sĩ ấy là: Men-ki-o (Melchior), Ban-thơ-da (Balthezar) và Gát-pa (Gaspar), đại diện cho ba châu lục thời bấy giờ là châu Âu (da trắng), châu Á (da vàng) và châu Phi (da đen).
- C 11-12: +Vàng, nhũ hương và mộc dược: Các giáo phụ đã giải thích: Vàng ám chỉ tước vị Vua; Nhũ hương chỉ chức vụ Thượng tế; Mộc dược chỉ con đường cứu thế của Đấng Thiên Sai chọn là sẽ bị giết chết trên thập giá và được mai táng trong mồ. Tuy nhiên, ngày nay có người lại giải thích về ý nghĩa của ba lễ vật được các đạo sĩ dâng lên Hài Nhi Cứu Thế như sau: Vàng tượng trưng đức Tin vào Thiên tính của Đấng Thiên Sai; Nhũ hương tượng trưng đức Cậy là lời cầu nguyện như hương trầm bay lên để tôn vinh Chúa; Mộc dược tượng trưng cho đức Mến là những hy sinh và quyết tâm từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa.
CÂU HỎI: 1-Bạn biết gì về thành Bê-lem? 2-Chiêm tinh gia là hạng người thế nào? 3-Các ngài từ đâu đến và gồm bao nhiêu vị? 4-Ba lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược được dâng cho hài nhi Cứu Thế có ý nghĩa ra sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Thánh Phao-lô dạy các tín hữu: “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15b).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Món quà của Artaban.
HĂNG-RI VĂNG ĐAI-KƠ (Henry Van Dyke) có thuật lại câu chuyện nhan đề: “CÒN MỘT NHÀ ĐẠO SĨ KHÁC NỮA”, kể về nhân vật thứ tư là người lẽ ra đã cùng ba nhà đạo sĩ đi tìm Vua dân Do thái mới sinh. Nhân vật này tên là Ar-ta-ban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Ar-ta-ban có mang theo một túi đựng những viên kim cương để dâng tặng cho vị ấu vương. Thế nhưng trên đường đến điểm hẹn, Ar-ta-ban đã phải dừng chân để giúp đỡ một người nghèo đói nằm bên vệ đường. Do đó khi đến nơi thì ông không còn thấy ba vị kia đâu. Dù vậy, ông vẫn kiên trì tiếp tục cuộc hành trình đi tìm Vua Cứu Thế. Trên đường tìm kiến, mỗi lần gặp một người khốn khổ, ông lại bán đi một viên kim cương để giúp đỡ. Sau nhiều năm, Ar-ta-ban đã dần dần trở thành một lão già ốm yếu, thế mà ông vẫn chưa gặp được Vua Do thái như lòng hằng mong ước.
Rồi 33 năm sau, khi đang trọ trong thành Giê-ru-sa-lem, Ar-ta-ban thấy cả thành xôn xao náo động vì cái tin nhà cầm quyền đang đem một tội nhân đi hành hình thập giá. Ar-ta-ban tò mò hoà theo dòng người đi xem. Khi nhìn thấy tội nhân đang vác cây thập tự bị té ngã nhiều lần, linh tính cho biết đó chính là vị Vua Cứu Thế mà ông hằng tìm kiếm. Ong liền đi theo Người trên đường thương khó. Rồi khi tội nhân bị đóng đinh và bị treo trên thập giá, Ông muốn đến gần ôm lấy vị Vua kia, nhưng không thể được vì bị bọn lính canh ngăn cản. Bỗng chốc Ar-ta-ban thấy vị Vua mở mắt ra nhìn ông và ông nghe thấy có tiếng thì thầm bên tai rằng: “Này Ar-ta-ban, con đừng buồn nữa. Ta cám ơn con vì bao năm qua đã nhiều lần con tặng quà cho Ta. Nhiều lần Ta đói con đã cho bánh ăn, Ta khát con đã cho nước uống, Ta rách rưới con đã cho đồ mặc, Ta là khách lạ con đã đón ta vào nhà ở trọ…”.
Nghe những lời ấy, Ar-ta-ban cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui. Ông hiểu rằng: Các món quà xưa nay ông đã chia sẻ cho người nghèo là ông đã dâng tặng cho chính Vua Giêsu Cứu Thế. Món quà đó không nhất thiết phải là tiền bạc vật chất, nhưng còn là tình người, là sự thông cảm với những ai đang bị đau khổ, là thái độ khiêm tốn sẵn sàng phục vụ tha nhân vô vụ lợi.
2) Thái độ khiêm tốn phục vụ là ánh sao lạ dẫn đường hôm nay:
Vào một buổi chiều mùa đông, một người ngoại quốc tuổi trung niên lái xe trên con đường đèo vắng vẻ ở miền Trung Việt Nam. Đến một khúc quanh, phát hiện thấy một chiếc xe hơi chết máy đang nằm trên đường, gần bên là bốn người gồm hai vợ chồng và 2 đứa con nết mặt lo âu, vì đây là đoạn đường thường hay xảy ra cướp bóc. Do biết sửa xe hơi, nên người đàn ông ngoại quốc đã dừng xe mau mắn đến bên đề nghị giúp đõ khiến mọi người đều an tâm vui vẻ. Chiếc xe bị hỏng nặng khiến ông phải vất vả tháo rời nhiều bộ phận trong máy, thậm chí có lúc phải chui cả xuống gầm xe. Hai giờ sau thì chiếc xe đã nổ máy khiến mọi người đều mừng rỡ. Hai vợ chồng muốn trả công nhưng ông kia không lấy công. Cuối cùng họ đã xin địa chỉ và một tuần sau, hai vợ chồng có dịp đến thăm thì mới hay người đàn ông ngoại quốc giúp họ sửa xe hôm trước chính là một giám mục Công Giáo. Sau đó do nể phục nên cả gia đình đều xin theo đạo. Chính thái độ khiêm tốn phục vụ vô vụ lợi của vị giám mục người ngoại quốc đã trở thành ánh sao dẫn đường giúp cả gia đình lương dân nhận biết tin thờ Chúa.
3) Hãy biết cảm thông chia sẻ cơm áo vật chất với người nghèo khổ:
Có một bé gái đi theo mẹ đi viếng hang đá tại nhà thờ. Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ: Tại sao họ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏ để Chúa phải nằm trong máng cỏ tội nghiệp Chúa quá phải không mẹ? Do có tấm lòng nhân ái và sự quan tâm thực sự đến hài nhi Giêsu, nên cô bé đã cảm nhận được nhu cầu của cuộc sống.
Sự kiện Chúa Giêsu sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy được tâm tư và sự cảm thông của nhiều người. Chúa đến trong nghèo hèn để mời gọi chúng ta hãy biết mở lòng chia sẻ tâm tình vật chất với những người cùng khổ nghèo đói bất hạnh. Nhu cầu thực tế của cuộc sống là miếng cơm manh áo và một chỗ nương thân. Chúa kêu gọi chúng ta hãy mở lòng cảm thông với người nghèo gần bên: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."(Mt 25, 40).
3. THẢO LUẬN: 1) Tại sao dân ngoại từ phương trời xa đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế, đang khi các nhà kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở gần Bê-lem lại không gặp được Người? 2) Trong môi trường sống và làm việc hiện tại, bạn cần phải làm gì để chiếu sáng giúp anh em lương dân nhận biết và tin theo Đức Giêsu?
4. SUY NIỆM:
Lễ Hiển Linh theo truyền thống, được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng. Dịp Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự biểu lộ thần tính của Con Chúa cho Dân Ngoại. Các ngài là những đạo sĩ hay chiêm tinh gia đã từng đọc Thánh Kinh của Do thái giáo nên có sự hiểu biết về việc Đấng Thiên Sai sắp xuất hiện và muốn được gặp gỡ Người. Dựa vào lễ vật các ngài mang theo là những đặc sản của xứ Arabi, nên người ta đóan các ngài từ xứ Arabi mà đến. Đồng thời dựa vào số lễ vật, người ta cho rằng có 3 vị. Đến thế kỷ VIII, có người còn kể rõ tên của ba vị đạo sĩ ấy là: Men-ki-o (Melchior), Ban-thơ-da (Balthezar) và Gát-pa (Gaspar), đại diện cho ba châu lục thời bấy giờ là châu Âu (da trắng), châu Á (da vàng) và châu Phi (da đen).
1) Một số nét tương phản trong bài Tin Mừng hôm nay:
- Giữa thủ đô Giêrusalem và thị trấn Belem: Giêrusalem là thủ đô hoa lệ, là trung tâm về chính trị và văn hoá của nước Do thái, nhưng lại từ chối tiếp nhận Hài Nhi Cứu thế, đang khi Bêlem chỉ là một thị trấn nhỏ bé nghèo nàn lại đón tiếp Đấng Cứu thế giáng sinh.
- Giữa những người Do thái giáo và lương dân: Các Tư tế và Kinh sư thông thạo Kinh thánh, nhưng lại lười biếng không dám dấn thân lên đường, nên họ đã không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba vị Đạo Sĩ là những dân ngoại không hiểu biết Kinh thánh, nhưng lại có thái độ cầu thị, luôn tìm tòi và sẵn sàng dấn thân lên đường, nên đã gặp được Đấng Cứu Thế.
- Giữa vua thế tục và Vua Thiên Sai: Hêrôđê được gọi là vua, nhưng lại lo âu vì sợ bị Đấng Cứu Thế đến sẽ cướp mất ngai vàng của mình, nên ông đã tìm cách bắt bớ tiêu diệt Người. Còn Đức Giêsu Vua Thiên Sai lại chấp nhận lối sống khó nghèo, luôn mở rộng vòng tay để đón tiếp hết mọi người. Người không thích đóng khung đạo của Người trong cơ chế luật lệ cứng nhắc như đạo Do thái, nhưng Người luôn tỏ ra mềm dẻo khi tuyên bố: “Ngày sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” (Mc 2,27). Người không đến trong cung vàng điện ngọc sang trọng như một bậc vua chúa, nhưng chọn đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người không đến như một ông vua trần thế cao sang, nhưng đến với hình hài của một hài nhi yếu đuối nghèo hèn: ”Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,7).
2) Điều kiện để gặp được Chúa: Tất cả những tương phản ấy cho thấy: Không phải cứ mang danh người có đạo là đương nhiên chúng ta sẽ gặp đựơc Chúa; Không phải cứ có sự hiểu biết giáo lý Kinh thánh là đương nhiên chúng ta sẽ gặp được Chúa. Muốn gặp được Chúa, chúng ta phải thành tâm thiện chí đi tìm và hăng hái dấn thân lên đường như ba vị đạo sĩ hôm nay.
- Ba đạo sĩ là những người ngoại giáo ở rất xa, nhưng luôn để tâm tìm kiếm dấu lạ trên bầu trời, và đã sớm nhận ra sự xuất hiện của một ngôi sao lạ của Đấng Cứu Thế.
- Việc đi theo ngôi sao lạ cũng đòi các đạo sĩ phải quyết tâm cao: rời bỏ nhà, giã từ người thân với những tiện nghi, chấp nhận cảnh thiếu thốn trong cuộc hành trình dài. Khi ngôi sao biến mất, các Ngài không nản chí bỏ cuộc, nhưng tìm hỏi trong đền vua, và cuối cùng nhờ quyết tâm cao như vậy, các ngài đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế tại thị trấn Belem.
- Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Ngày nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta cũng phải là một ngôi sao lạ loan báo lòng Chúa thương xót, giúp dẫn đưa những người thiện chí tìm gặp Chúa. Mỗi người chúng ta phải là một ngôi sao sáng về sự công bình và bác ái. Hãy chiếu ánh sáng ấm áp của tình người đối với mọi hạng người trong xã hội. Qua đó, anh em lương dân sẽ nhận biết và tin yêu Chúa chính là nguồn sáng đích thật.
3) Lời Chúa là ánh sao chỉ đường cho chúng ta: Tác giả sách thánh vịnh đã khẳng định như sau: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Tv 119, câu 105). Chúa Giêsu cũng đã đồng hóa với người nghèo hèn: "Tất cả những gì anh em làm cho một người trong những anh em hèn mọn nhất của Ta đây là làm cho chính Ta." (Mt 25, 40). Những lời Chúa phán chính là ánh sáng giúp chúng ta nhận ra Chúa đang hiện thân trong tha nhân, đặc biệt trong những người nghèo hèn, đau khổ… để khuyến khích chúng ta phục vụ họ. Lễ vật của chúng ta hôm nay dâng Chúa không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược như các đạo sĩ xưa, nhưng là bộ quần áo, chén cơm, sách vở bút mực cho người nghèo, hay là sự ân cần săn sóc người bệnh tật già cả neo đơn chung quanh chúng ta.
4) Ánh sao lạ giữa đời thường: Mỗi Ki-tô hữu phải là một ánh sao lạ thể hiện qua cử chỉ, lời nói, việc làm: Chỉ cần một nụ cười vui vẻ, một ánh mắt thân thiện, một lời khen đúng lúc, một việc phục vụ khiêm hạ của chúng ta cũng có thể phát ra ánh sáng giống như ánh sao lạ trên bầu trời đêm cho các đạo sĩ xưa, như lời thánh Phao-lô: “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15b). Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể là những vì sao sáng thực sự khi chúng ta biết làm cho mình lu mờ đi để Ngôi Sao Mai là Đức Ki-tô có thể tỏa sáng trong chúng ta và trong lòng mọi người (x. Kh 2,28).
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời mặt trăng, và các lọai ánh sáng phát xuất từ các nguồn năng lượng khác nhau trên mặt đất. Tạ ơn Chúa đã gọi chúng con là “Ánh sáng cho trần gian”. Đây là một niềm vinh dự nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm rất nặng nề của chúng con. Xin cho ánh sáng của chúng con có sức đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng ra khỏi những người chung quanh. Xin cho chúng con luôn duy trì ngọn lửa tin yêu đã được Chúa thắp sáng trong lòng chúng con, và sẵn sàng làm theo Lời Chúa dạy qua từng phút giây của cuộc sống hằng ngày.
- Lạy Chúa. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn đang tiếp diễn trên thế gian và ngay trong lòng mỗi người chúng con. Ước chi chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối tội ác, mà còn biết làm cho ngọn đèn đức tin trong chúng con luôn cháy sáng đức ái, để cả trái đất này đều được ngập tràn ánh sáng tìn yêu của Chúa, nhờ đó sẽ giúp mọi người nhận biết tin yêu Chúa và được chia hạnh phúc Nước Trời với chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
163. Dõi theo ánh sao
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Dõi theo ánh sao các nhà đạo sĩ đã mau mắn lên đường trong hy vọng tràn đầy." Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện " ( Mt 2,2 ). Các nhà đạo sĩ sau khi gặp Hêrôđê,các Ngài đã ra đi và cũng ánh sao đó lại xuất hiện, dẫn lối chỉ đường cho các Ngài đến hang đá Bêlem tìm gặp Hài Đồng Giêsu. Tin Mừng viết rõ, các Ngài dâng Hài Đồng Giêsu những đặc sản quí giá của địa phương là vàng, nhũ hương và mộc dược ( Mt 2, 11 ).
Ngôn sứ Isaia viết:"Dân đang lần bước trong tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi "( Is 9,1 ). Ánh sáng chiếu soi là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy Vọng cho muôn dân, muôn nước. Quả thật, từ khi ông bà Adam và Evà phạm tội, nhân loại chìm trong tối tăm của khổ đau và sự chết. Con người tưởng rằng không bao giờ có thể thoát khỏi bóng tối của đau khổ, của tối tăm, của sự chết. Nhân loại vì nguyên tổ phạm tội luôn dò dẫm, lần mò trong bóng tối tăm, mong chờ,mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian, soi chiếu thế giới. Ngôi Sao Hy Vọng,một Ngôi Sao lạ xuất hiện ở phương trời Đông, và sẽ không bao giờ lặn. Lễ Hiển Linh là lễ Con Thiên Chúa đến trần gian không chỉ dành riêng cho Dân Do Thái nhưng là tỏ mình cho mọi người, cho dân ngoại. Đại diện là ba nhà đạo sĩ trong đó có tất cả mọi người chúng ta. Ngộ giả Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối của chúng ta thì Người cũng muốn mỗi người chúng ta phải trở thành những ánh sao soi chiếu người khác. Chúa luôn yêu thương, trung tín với con người dù cho con người thất trung, phản bội. Do đó, con người đừng bao giờ thất vọng về chính mình. Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Sao Hy Vọng đã không bao giờ làm ai thất vọng, chúng ta cũng đừng bao giờ để ai thất vọng vì chúng ta.
Ngôi sao xưa đã dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ Phương Đông đến gặp Chúa nơi hang đá Bêlem và rồi các nhà đạo sĩ đã gặp được Vua Trời Đất. Các Ngài vui mừng, phấn khởi. Tin Mừng không thấy ghi lại một câu nói nào của ba nhà đạo sĩ hay câu nói nào của Mẹ Maria hoặc thánh cả Giuse. Nhưng chúng ta có thể ngầm hiểu chính sự im lặng thánh của Mẹ Maria, của thánh cả Giuse và ngay sự im lặng của ba nhà đạo sĩ đã nói lên giờ phút linh thiêng Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại mà ba nhà đạo sĩ là đại diện mọi người. Sự im lặng thánh diễn tả việc các nhà đạo sĩ cung chiêm Chúa cả Trời Đất với tất cả lòng yêu mến, kính trọng và tin cậy của họ nơi Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô đã tỏ mình ra cho mọi dân tộc, Ngài đem an bình, hạnh phúc và ơn cứu độ đến cho mọi người. Chúa đã tỏ mình ra từ lâu nhưng thực tế còn biết bao người chưa nhận biết Chúa, còn biết bao người chưa thấy Ngôi Sao Hy Vọng dù rằng Ngôi Sao vẫn cứ luẩn quẩn trên bầu trời để dẫn đưa con người tìm gặp Chúa. Thế giới ngày nay văn minh, khoa học kỹ thuật tiến bộ, nhưng còn biết bao người chưa nhận ra Ngôi Sao dẫn đường để tìm gặp Chúa. Ngôi sao xưa đã dẫn các nhà đạo sĩ phương Đông tìm ra được nơi Chúa sinh ra và họ đã cung chiêm, bái lạy Hài Đồng Giêsu. Xin cho Ngôi Sao xưa vẫn là Ngôi sao ngày nay đang dẫn mọi người đến với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Ngôi Sao Hy Vọng, xin giúp nhiều người, mọi người nhận ra Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng để tất cả như ba nhà đạo sĩ mau mắn đến thờ lạy Vua Giêsu. Xin cho chúng con trở thành những Ngôi Sao lạ để dẫn đường cho nhiều người tìm gặp Chúa. Amen.
164. Dõi theo ánh sao
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Cứ mỗi lần mừng lễ Hiển Linh, tôi lại mường tượng một ánh sao hiện ra trên bầu trời và như ba nhà đạo sĩ dõi theo ánh sao đó dẫn họ tới hang đá Bêlem tìm gặp Hài Đồng Giêsu. Rồi có một dạo khi ánh hỏa châu còn lóe trên nhiều nơi, tôi lại nghĩ đường đi tới Chúa có muôn vạn nẻo, nhưng chỉ có một con đường duy nhất để thấy và gặp được Chúa là con đường hẹp, con đường thập giá.
Năm xưa ấy, cách đây hơn 2.000 năm, có một ánh sao lung linh thắp sáng dẫn đường, chỉ lối cho ba nhà đạo sĩ đi tìm Con-Thiên-Chúa-Làm-Người. Ánh sao ấy theo như Tin Mừng Mt 2,1-12 viết cứ ẩn hiện và rồi dừng ngay nơi hang đá Bêlem để ba nhà đạo sĩ tới cung chiêm Vua Giêsu.Thoạt đầu, họ đến Giêrusalem và hỏi: " Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi bái lạy Người " ( Mt 2, 2 ). Hêrôđê bối rối trước tin báo của ba nhà đạo sĩ. Ông lo âu và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao, náo động.Sở dĩ Hêrôđê sợ sệt, bối rối, âu lo vì Ông là con cáo già e sợ uy quyền, ngai vàng của mình sẽ bị lung lay. Ông rất sợ bị lật đổ khi nghe tin Chúa Giêsu sinh ra. Giêrusalem không đón nhận Chúa dù rằng: " Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa mọi người" ( Ga 1, 14 ). Vâng, cả Hêrôđê và cả dân kinh thành Giêrusalem đều không được Thiên Chúa soi sáng, đều không được Chúa Thánh Thần tác động. Họ không thể nhận ra Hài Đồng Giêsu là Vua nhưng là Vua Hòa Bình:" Nước của Ngài không thuộc thế gian này ". Do đó, họ xao xuyến, hoang mang đến cùng tột. Hêrôđê và triều thần của Ông, cùng bàn dân thiên hạ vẫn không hiểu Hài Đồng Giêsu với hình hài một trẻ thơ, khiêm hạ, khó nghèo, Hài nhi ấy chỉ là Vua theo nghĩa thiêng liêng: Ngài là Chúa muôn loài, muôn vật, Ngài là Vua vũ trụ và vua con người.Do đó, Hêrôđê sợ hãi mất ngôi vì Ông nghĩ nông cạn, hời hợt theo cái nhìn trần gian. Thay vì đón chờ, đi tìm để cung chiêm, thờ lạy Vua Giêsu.Hêrôđê lại cho triệu hồi tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô sinh ra ở đâu ( Mt 2, 4 ). Hêrôđê hỏi kỹ càng không phải để đến tìm gặp Chúa để thờ lạy Chúa nhưng để mưu đồ tiêu diệt một vị Vua thiêng liêng mà Ông lầm tưởng là sẽ đứng lên để chiếm đoạt ngôi báu của Ông. Chính vì thế, khi Ông bị các nhà đạo sĩ không trở lại nữa, Ông đã nổi cơn thịnh nộ ra lệnh cho tru diệt hết những trẻ em từ hai tuổi trở xuống.Ông tưởng làm thế là thoát được món nợ và ngai báu của Ông sẽ vững bền thiên thu...Ông đã lầm và Ông đã quá ác độc.Ông đã là con người thật tầm thường. Ba nhà đạo sĩ lại theo ánh sao và gặp được Hài Đồng Giêsu.
Chúa đã dùng ánh sao lạ để dẫn đưa ba nhà đạo sĩ phương Đông tới hang đá Bêlem để gặp Hài Đồng Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Với ơn soi sáng của Thiên Chúa, với sự tác động của Chúa Thánh Thần, tất cả như bừng sáng vì họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu của Người là bà Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến ( Mt 2, 11 ). Thiên Chúa đã dùng một ánh sao để dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ tìm gặp Người. Thiên Chúa cũng dùng các thiên thần để báo tin cho các mục đồng tới Bêlem để gặp Con-Thiên-Chúa-Làm-Người. Ba nhà đạo sĩ phương Đông đã thực sự gặp được Chúa bởi vì họ có lòng thành, tâm hồn trong sạch, đôi bàn tay tinh khiết. Họ đã thương Chúa, kính Chúa thực tình và họ đã cung tiến, dâng cho Chúa những báu vật của quê hương họ. Họ đã được Chúa đoái thương và chấp nhận.
Xưa chúa tỏ mình ra bằng ngôi sao lạ để các nhà đạo sĩ tìm được nơi Chúa sinh ra. Ngày nay, Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại bằng nhiều kiểu, nhiều cách. Chúa đã nói với con người, với loài người, với thế giới qua vẻ đẹp của vũ trụ, qua những khám phá, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, những cử chỉ, những thái độ thành tâm thiện chí của con người. Chúa vẫn đi tìm con người hơn là con người đi tìm Chúa. Bao kỳ công của thế giới, bao vẻ đẹp của vũ trụ là bấy nhiêu ánh sao dẫn đường chỉ lối để con người tìm gặp được Chúa. Bao nhiêu cử chỉ tế nhị, thân thiện, bao nhiêu việc bác ái là bấy nhiêu ngôi sao lạ đưa đường dẫn lối để con người đi tìm gặp Chúa.
Hãy bừng sáng Giêrusalem...Hãy bừng sáng, đây là lời khuyên người môn đệ Chúa hãy làm lan tỏa niềm vui được thấy Chúa cho những người chung quanh. Hãy trở nên men, nên muối cho đời, hãy trở nên men đạo đức cho thế giới, cho mọi người. Người môn đệ Chúa phải chiếu sáng cuộc hành trình đức tin của người khác như ngôi sao lạ Bêlem, ngôi sao mà ba nhà đạo sĩ thấy thì hết sức vui mừng vì họ tìm được Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy tỏ ra cho chúng con thấy được Chúa như xưa Chúa đã dùng ánh sao Bêlem để dẫn đường chỉ lối cho ba nhà đạo sĩ gặp được Chúa Cứu Thế. Amen.
165. Nhũ hương, mộc dược và vàng
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại. Ngày nay trên thế giới, nhiều nước đã mừng lễ Hiển Linh lớn hơn cả lễ Chúa Giáng Sinh. Bởi vì, lễ Hiển Linh là lễ Chúa Giêsu tự tỏ mình ra cho những dân ngoại giáo nghĩa là lễ Của Chư Dân.
Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay, chúng ta hiểu rõ hơn về ba nhà Đạo sĩ từ Phương Đông đi tìm gặp Hài Nhi theo sự chỉ dẫn của Ngôi Sao lạ. Tuy nhiên, Tin Mừng của thánh Matthêu cho cho chúng ta đối chiếu giữa: Hêrôđê và Hài Nhi Giêsu. Đồng thời đối chiếu giữa các Thượng tế, Kinh sư và Ba nhà Đạo sĩ. Thực tế mà nói, Hêrôđê là một vị vua đầy quyền lực, giầu có và được sự che chở, nâng đỡ của Đế Quốc La Mã. Ông luôn sợ bị Đế Quốc La Mã bỏ rơi. Mặc dầu đầy uy quyền, nhiều người run sợ trước quyền lực của Ông nhưng Hêrôđê tự mình cũng đang run sợ trước một con người: Hài Nhi Giêsu. Hêrôđê dù chưa biết con trẻ này là ai nhưng khi nghe các nhà Đạo sĩ báo tin, Ông mất ăn mất ngủ vì sọ vương quyền của Ông bị lung lay.Nên, Ông và cả thành Giêrusalem xôn xao. Và rồi ý định điên rồ của Ông được nhen nhóm, Ông ra lệnh tru diệt tất cả các con trai đầu lòng của người Do Thái ở Bê Lem và các vùng phụ cận, Làm như thế, Ông an tâm vì tưởng đã tiêu diệt được Chúa Giêsu. Ông đã hành động khát máu, điên rồ. Chính tại Giêrusalem, nơi đã sát hại các ngôn sứ thì cũng tại Giêrusalem mấy chục năm sau, họ cũng treo Chúa Giêsu trên Thập giá. Vâng, các Thượng tế và các Kinh sư theo lệnh của Hêrôđê đang lật hết sách này tới sách kia, lịc sử này tới lịch sử khác để biện minh cho chính họ vì tại Bêlem đã đản sinh Đấng Cứu Thế mà họ không hay không biết. Té ra Chúa đang hiện diện trước họ nhưng họ không thể nhân ra Ngài vì Ngài quá khó nghèo, không hào nhoáng, không ở nơi cung điện vua, lầu son gác tiếc, nên họ không thể nhìn ra Ngài vì họ không có đức tin, không có đôi mắt tinh tường vv...Đối lập vớ họ, ba nhà Đạo sĩ hay nói kiểu nôm na từ xưa là ba Vua, những người ở phương xa, là khách thập phương, họ cứ đi theo ánh sao, trên đường đi họ đã gặp biết bao gian truân, bao nhiêu khó khăn, họ cứ kiên trì, bền chí vững lòng tiến về phía trước. Cuối cùng họ đã gặp được Hài Nhi Giêsu. Với tấm lòng cung kính mến yêu, họ đã phủ phục thờ lạy Hài Đồng Giêsu. Với lòng tôn kính họ đã nhận ra thần tính của Hài Đồng Giêsu và rồi, họ đã dâng cho Chúa Hài Nhi Vàng, Nhũ Hương và Mộc Dược là những sản vật quí của nước họ. Ba sản vật này vàng để tôn vinh Chúa là vua. Nhũ hương để khẳng định Chúa là Thiên Chúa và Mộc dược để loan báo cái chết và phục sinh của Chúa.
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra với loài người, tự giới thiệu với loài người. Chúa Giêsu đã rao giảng Tin Mừng, loan báo Tin Mừng là chính Ngài thời Ngài sống, ngày nay chúng ta cũng phải tiếp tục rao giảng, tiếp tục loan báo cho mọi người biết Tin Mừng là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã mặc xác phàm, hạ sinh làm người và sống giữa chúng ta. Đức Giêsu đã đi vào lịch sử, đã cứu độ không chỉ người Do Thái vào thời Ngài sinh ra nhưng Ngài cứu độ mọi người, mọi dân tộc, mọi quốc gia trong mọi thời đại.
Chúa Giêsu đã đến trần gian ban an bình cho con người. Ngài đã thiết lập Nước Trời tại trần gian, Ngài đã thiết lập một thế giới mới, một thế giới trong đó mọi đau khổ, mọi buồn phiền không còn nữa, thế giới mà ngôn sứ Isaia đã loan báo: sói sống chung với chiên, sư tử sống chung với nai, với cheo, với mang vv...Thế giới mà trẻ nhỏ thọc vào hang rắn độc cũng không sợ rắn độc cắn vv...Đó là viễn tượng của một thế giới hoàn toàn hòa bình. Thế giới trong đó những người nghèo sẽ được quan tâm giúp đỡ, những người đau khổ sẽ tìm thấy những người bạn chân tình, yêu thương. Đây là Tin Mừng mà tất cả chúng ta phải loan truyền cho thế giới. Đó là sứ điệp của lễ Hiển Linh mà chúng ta phải loan báo, rao giảng.
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn chỉ đường dẫn lối chúng ta bằng những ánh sao. Những ngôi sao chỉ đường không phải ở trên trời cao. Nhưng là những ánh sao Chúa gieo vào lòng con người. Mọi Kitô hữu phải trung thành đi theo những ánh sáng đó trong cuộc hành trình đức tin đầy cam go thử thách, đầy mạo hiểm như ba nhà Đạo sĩ xưa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn trung thành với đức tin ngày chúng con lãnh nhận bí tích rửa tội. Xin cho ngôi sao lạ đã dẫn đường ba nhà Đạo sĩ đến Bêlem để gặp Hài Đồng Giêsu, luôn xuất hiện trên đường chúng con đi để dẫn đường chỉ lối cho chúng con đến gặp Chúa.Xin cho chúng con biết thắp lên những ngọn lửa sáng để chiếu sáng mọi người. Xin cho ngọn lửa đức tin chúng con luôn bừng sáng để nhiều người nhận ra Chúa nơi chúng con. Amen.
166. Chúa tỏ mình ra - Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Bầu trời xem ra như vẫn có muôn vàn tinh tú đang lấp lánh và hình như vẫn có một ngôi sao lạ đâu đó đang dẫn đường cho những kẻ thành tâm thiện chí đến Bêlem để thờ phượng, cung chiêm Hài Đồng Giêsu. Năm xưa cũng như nay, ba nhà đạo sĩ phương Đông vẫn dõi theo ánh sao để tìm gặp Đấng Cứu Thế Giêsu. Các mục đồng đêm Giáng Sinh chỉ đơn thuần đến thờ lạy Chúa, dâng cho Ngài đôi lễ vật đơn sơ. Những chú mụcđồng khó nghèo, rách rưới không có vàng, hương và mộc dược. Họ chỉ có tấm lòng và rồi người trước, kẻ sau, người giầu, người nghèo, kẻ sang, kẻ hèn đã tiếp bước tới thờ lạy Chúa Giêsu. Đó là hình ảnh của Hội Thánh chúa Kitô ở trần gian gồm mọi thành phần xã hội, gồm đủ mầu da, tiếng nói.
Việc Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại được thánh Matthêu tường thuật cách tỉ mỉ, chi tiết trong Tin Mừng của Ngài. Muốn hiểu việc Chúa được đón nhận ra sao, chúng ta phải đặt mình trong hoàn cảnh của Tin Mừng kể lại. Quả thực những Kitô hữu đầu tiên đều là những người Do thái cũ trở lại. Họ có cái nhìn khép kín về đạo, về ơn cứu độ. Họ cứ tưởng rằng ơn cứu rỗi chỉ được tặng ban cho người Do Thái và Chúa Giêsu cũng chỉ là món quà quí giá Thiên Chúa trao ban cho dân tộc Do Thái mà thôi. Họ chưa ra khỏi quan niệm khép kín, cục bộ để hiểu rằng ơn cứu độ được Chúa ban cho mọi người. Thánh Matthêu là một người Do Thái làm nghề thu thuế, một cái nghề bị xã hội Do Thái khinh miệt, cho là tội lỗi vì làm tay sai cho ngoại bang, bóc lột nhân dân, bóc lột người đồng hương. Bị khinh khi, loại trừ nhưng thánh Matthêu được Chúa chọn làm tông đồ. Chúa yêu thương Matthêu như ông Giakêu, như người phụ nữ ngoại tình, như người nữ bên bờ thành giếng Giacóp. Ơn cứu độ được ban cho mọi người, mọi dân tộc trên thế giới. Các mục đồng xưa là người Do Thái đang canh giữ đàn chiên ngoài đồng không, mông quạnh, đã nghe lời loan báo của các Thiên Thần,tới kính bái Ngôi Hai làm người và rồi dõi theo ánh sao lạ dẫn đường ba nhà đạo sĩ phương Đông cũng tới thờ lạy Hài Đồng Giêsu. Do đó, lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại và cho mọi người.
Tin Mừng của thánh Matthêu thuật lại câu chuyện ba vị đạo sĩ ngoại quốc từ phương Đông nhận ra ánh sao và dõi theo ánh sao lạ để tới Bêlem thờ lạy Chúa Hài Đồng Giêsu với những lễ vật quí giá: vàng, nhũ hương và mộc dược.Thánh Matthêu cũng muốn gợi lên cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Bầu trời lúc đó quả có nhiều sao và ngôi sao lạ vẫn có đó nhưng biết bao nhiêu người giờ đó, lúc đó nào đâu có nhận ra ánh sao lạ lùng, đặc biệt là những kinh sư, các biệt phái, các nhà thông luật nào đâu có nhận ra ánh sao khác thường. Họ đóng kín cửa lòng, đóng kín con tim để không bao giờ có thể nhận ra dấu chỉ tìm kiếm Đức Giêsu. Hêrôđê lại càng rối mù khi nghe các nhà đạo sĩ thuật lại ánh sao lạ và rồi khi nghe những nhà chiêm tinh mách bảo vua về một ngôi sao lạ lùng, và nhất là khi thấy các nhà đạo sĩ không quay trở lại báo cáo cho ông về Hài Nhi Giêsu, vua Hêrôđê lại càng bối rối, lại càng ích kỷ, sợ mất ngôi, mất chức thay vì tìm kiếm ánh sao để đến gặp gỡ Giêsu, ông lại càng mù và mù hơn nữa để ra chiếu chỉ giết sạch các con trai đầu lòng của người Do thái ở Bêlem và các vùng phụ cận. Vâng, bầu trời ngày nay nhiều đêm cũng lấp lánh, dát đầy sao, nhưng thử đã mấy ai nhận ra những dấu chỉ để đến cung chiêm Giêsu hoặc nhận ra những chân lý mà Thiên Chúa muốn vén lộ, tỏ bầy ra cho chúng ta, hoặc ý Chúa phải thực hiện bằng tình yêu thương bác ái đối với những người chúng ta gặp gỡ mỗi ngày. Những ngôi sao lạ vẫn là chúng ta tìm ra sự có mặt của Thiên Chúa nơi mọi biến cố, nơi mọi người chúng ta đang gặp gỡ. Trình thuật của thánh Matthêu về ba nhà đạo sĩ và cuộc gặp gỡ Hài Nhi Giêsu ngang qua ánh sao lạ vẫn còn cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Ba nhà đạo sĩ đã gặp được Chúa, họ không trở lại với Hêrôđê, không trở lại con đường cũ, con đường hận thù, con đường gây tội ác nữa. Ngày nay, được làm con Chúa, được đổi mới chúng ta đừng quay lại con đường cũ, con đường tội lỗi nữa mà chúng ta hãy thẳng tiến trong niềm tin để tiến bước.
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã cho ánh sao lạ dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ tới tìm gặp Chúa, xin Chúa hãy mở lòng chúng con để chúng con luôn sẵn sàng nhận ra Chúa nơi mọi biến cố của cuộc đời.
167. Đi theo ánh sao lạ - Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Con Thiên Chúa nhập thể, nhập thế giáng sinh làm người qua cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, đã tỏ mình ra cho các nhà đạo sĩ phương Đông, những người được dân Israen xếp vào hàng dân ngoại. Mà quả thật các nhà đạo sĩ này chưa biết Chúa, là những con người ở ngoài theo cách đánh giá của những người Israen xưa. Do đó, lễ Hiển Linh một cách nào đó được coi như là lễ Giáng sinh của người ngoại. Tuy nhiên, phụng vụ ngày lễ hôm nay lại cho chúng ta hiểu hơn về cái bi đát của chương trình cứu độ của Thiên Chúa, điều mà thánh sử Gioan đã tóm tắt trong chương đầu Tin Mừng của Ngài: " Ngài đã đến nơi nhà của Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận, không đón tiếp Ngài".
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay, đặc biệt ngôn sứ Isaia đã tiên báo Đấng Cứu Thế đến trần gian này với lời lẽ đầy vui tươi, hạnh phúc và tưng bừng. Giêrusalem bừng sáng và là trung tâm của ánh sáng, thu hút, lôi kéo muôn dân về Giêrusalem với muôn vàn lễ vật để kính tiến Đấng cứu tinh khi Ngài ngự đến, khi Ngài xuất hiện.Nhưng cái nghịch lý và thật trớ trêu thay lời ngôn sứ Isaia loan báo đã không xẩy ra đúng như người ta cảm nhận, mà khi ánh sáng chiếu trên Giêrusalem thì chỉ có những người ngoại nhận ra và tìm tới để bái chào Hài Nhi Giêsu, còn dân trong thành Giêrusalem thì lại thờ ơ lãnh đạm.
Với một ánh sao soi đường, một ánh sao sáng khác với những ánh mắt hỏa châu vụt lên để con người tìm kiếm giết chóc, hận thù, để con người sống chiến tranh, chia rẽ. Một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời đầy sao sáng, có gì khác lạ đối với nhiều người, có gì khác lạ với những người được coi là có đạo, ngoan đạo lúc đó? Tuy nhiên, tất cả cuộc hành trình rất diệu kỳ, rất lạ lùng đều được các nhà đạo sĩ khởi đi từ ngôi sao lạ ấy. Ba nhà đạo sĩ phương Đông đêm ấy đã nhìn lên trời, họ đã nhìn thấy và nhận ra ánh sáng, ngôi của Hài Nhi Giêsu. Họ đã đem theo những sản phẩm của địa phương là Vàng, Hương, Mộc dược, rồi nong nả dõi theo và đi theo ngôi lạ để tìm gặp Hài Nhi Giêsu. Đêm ấy, chắc chắn đã có nhiều người, đã có muôn người cũng đã ngước mắt nhìn lên trời nhưng họ không thể nào nhận ra ngôi sao lạ giữa muôn vàn ngôi sao khác và vì thế, họ đã chẳng nhận ra Đấng cứu tinh đã tới giữa gian trần này để đem ơn cứu độ và hạnh phúc cho con người.
Muôn thời và mọi thời, ngày nay biết mấy người đã nhận ra những dấu chỉ tình thương của Chúa qua những biến cố, những sự kiện, những vụ việc xẩy ra trên thế giới, trong xã hội, nơi gia đình vv...Và như thế, con người đâu có nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa, nhận ra con người đầy nhân ái của Đấng cứu tinh Giêsu.
Ba nhà đạo sĩ đã nhận ra ánh sao lạ và họ đã ra đi tới nơi họ chưa thể biết được. Trong cuộc hành trình ấy, Tin Mừng cho biết họ đã gặp biết bao thử thách, cam go, cạm bẫy. Ngôi sao lúc hiện lúc ẩn, họ đã phải hỏi những người không quen biết. Và họ đã gặp biết bao khó khăn. Một Hêrôđê nham hiểm nấp dưới bóng ân cần và lời nhẹ nhàng, dụ dỗ đường mật. Cuối cùng, ba nhà đạo sĩ cũng đã tới nơi hang đá Bêlem va gặp Hai nhi Giêsu bé nhỏ, yếu ớt, mong manh. Họ đã sụp xuống thờ lạy Vua Tình Yêu và dâng cho Chúa Hài Nhi những sản phẩm địa phương thật quí giá.
Vâng, những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó, các kinh sư, tư tế, luật sĩ đã tự cho mình là thông hiểu lề luật, hiểu thấu đáo Kinh thánh nhưng thực tế họ đã đặt họ ra ngoài lề vì chính sự thông hiểu của họ đã tố cáo họ, đã lên án họ.Những kẻ bị coi là ở ngoài, là vô đạo lại nhìn thấy và nhận ra Chúa trong dấu chỉ của một ánh ngôi, một ngôi sao.
Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại là lễ Giáng Sinh của dân ngoại. Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay là Kitô hữu chúng ta có dám mạnh dạn nhận ra Chúa và nong nả chóng vánh lên đường tìm gặp chúa như ba nhà đạo sĩ phương Đông hay chúng ta tự đặt mình vào nhóm những thương tế, kinh sư, tư tế mà nhắm mắt làm ngơ trước sự thực hiển nhiên là Đấng cứu thế đã đang hiện diện nơi họ?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mau mắn nhận ra Chúa và chóng vánh đi tìm gặp Chúa để thờ lạy và cung kính bái chào. Amen.
168. Hai hướng dẫn viên – Lm. Phan Văn Lợi
Năm 2000, năm bản lề giữa hai thiên niên kỷ, được đánh dấu bởi cuộc Toàn xá của Giáo Hội Công giáo toàn cầu. Riêng tại Việt Nam, nó còn được đánh dấu bằng việc đứng lên của các tôn giáo để ôn hòa đòi lại cho mình tự do trong sinh hoạt và độc lập trong tổ chức. Những lời kêu gọi khẩn thiết của các vị lãnh đạo tinh thần như thầy Thích Quảng Độ bên Phật giáo, cụ Lê Quang Liêm bên Hòa Hảo, cha Chân Tín và cha Nguyễn Văn Lý bên Công giáo v.v..., tất cả đã như một ánh sao soi đường cho lắm tâm hồn chìm đắm trong u tối của thái độ ù lì, nhẫn nhục, cam chịu, quen với việc "xin" quyền lực thế tục vô thần ban cho cái mà họ không có như việc tuyển sinh, huấn luyện, tấn phong, bổ nhiệm các chức sắc của đạo. Những lời kêu gọi đó cũng như một tiếng chuông cảnh tỉnh những kẻ độc tài chỉ muốn biến các tổ chức tôn giáo thành công cụ cho mình bằng những biện pháp hành chánh nghiệt ngã, thậm chí bằng bạo lực. Cho tới lúc này đây, những tiếng nói can đảm này đang bị coi là một sự đe dọa bởi quyền lực cũng như đang gặp phải sự thờ ơ nơi lắm con người lẽ ra phải biết mình cần được giải phóng để chu toàn sứ mệnh tôn giáo của mình cách đích thực. Phải chăng sự kiện trong bài Tin Mừng lễ Hiển Linh hôm nay lại được tái diễn?
Một chuyên gia Thánh Kinh đã viết rằng: "Trình thuật các Nhà Chiêm tinh xuất hiện như một hợp tuyển nhỏ gồm nhiều bản văn Thánh Kinh làm nên cho chúng ta một suy niệm tuyệt tác về Lời Thiên Chúa. Trong đó, ta dễ dàng nhận ra các nhân vật và biến cố lịch sử cổ xưa của Israen. Thi ca, lịch sử, thần học, bút chiến và hộ giáo góp phần biến câu chuyện này thành một bản văn phong phú và quan trọng của giáo lý sơ thủy, có chủ đích chính yếu là kêu gọi lương dân đến với đức tin".
Trình thuật được viết theo một thể văn hết sức đặc biệt mà ta không nên coi là lịch sử thuần túy, để hiểu nó đến từng chi tiết mặt chữ. Nó vừa dựa trên một số dữ kiện lịch sử đương thời (nhân vật Hêrôđê với tính khí đa nghi và tàn ác chẳng hạn), vừa báo trước nhiều chủ đề tương lai trong Tin Mừng Mátthêu (tuyển dân từ khước Đức Giêsu đang lúc lương dân lại đón nhận Người) theo kiểu khúc dạo đầu của một cuốn phim hay một bản nhạc.
1. Hướng dẫn viên của vũ trụ và của lý trí
Mở màn sân khấu, ta thấy các chiêm tinh gia (hay còn gọi là đạo sĩ) bước vào. Họ hợp thành thế giới Đông phương, thế giới ngoại lai xa lạ đối với chính Kinh Thánh. Chẳng những tượng trưng cho cả một khu vực văn hóa và chủng tộc, họ còn hiện thân cho nỗi chờ mong Đấng Mêsia của nhân loại, tọa độ đích thật của cuộc sống con người. Quả thế, mọi con đường mà không dẫn đến nhà thờ, mọi hành vi mà không quy về việc tạ ơn, mọi thực tại mà không trở thành Thánh Thể thì hỏi còn đâu ý nghĩa? Nữ hoàng Sơ-va vốn đã đi tìm khôn ngoan tại Giêrusalem từ Salomon và các chiêm tinh gia Mêđi hay Lưỡng Hà tiến về Thành thánh tìm một ông vua-cứu thế, cả hai bên đều là hiện thân cho nỗi khắc khoải muôn thuở của con người vốn chỉ có thể tìm thấy an bình trong Thiên Chúa.
Và chính vũ trụ với ngôn ngữ im lặng của nó (Tv 19) là hướng dẫn viên thứ nhất trong cuộc kiếm tìm này. Quả thế, ngôi sao đã chiếm chỗ lớn biết bao trong suy tư của các chiêm tinh gia đoán điềm giải mộng. Thường hiện diện như dấu chỉ huyền thoại tiên báo cuộc đản sinh của các vĩ nhân, vua chúa, thần linh trong thế giới cổ từ đông sang tây (hoàng đế Alịchsơn, Augustô của La-Hy hay thần Agni của Ấn giáo...), hướng dẫn viên sáng ngời đó có một ý nghĩa xác định trong Thánh Kinh.
Khi viết trang này, Mátthêu đã hiểu rõ nó và ngầm sử dụng một bản văn Kinh Thánh thời danh được Do thái giáo coi như chìa khóa giải mã bí mật Đấng Mêsia. Bilơam, một thầy bói aram hay ammônít gì đó, được vua Balác mời đến để nguyền rủa Israen, đã chỉ có thể thốt lên những lời chúc phúc và buột miệng: "Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc, tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên: một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israen" (Ds 24,17). Một bản văn Do thái giáo thời danh (bản 70) đã dịch câu đó thành: "Một vì vua xuất hiện từ Giacóp, một đấng Mêsia trỗi dậy từ Israen". Ngôi sao do đó ngày càng trở thành biểu tượng của vua mêsia, nên sách Khải huyền sẽ gọi Đức Kitô như "Sao Mai" là vì vậy (Kh 2,28; 22,16). Thật thế, ánh sáng là hậu cảnh trong mọi cuộc xuất hiện của đấng Mêsia, như Isaia đã hát trong thánh thi tuyệt diệu về Đấng Emmanuen của mình: "Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi" (9,1). Ánh sáng tiêu diệt bóng tối, biểu tượng của hư vô (x. St 1,2) lẫn chết chóc, và ban khởi đầu cho một cuộc sáng tạo mới.
2. Hướng dẫn viên của mạc khải
Bên cạnh hướng dẫn viên của vũ trụ và của "lý trí" là ngôi sao, một hướng dẫn viên được xếp vào loại "những công trình của Thiên Chúa" (Rm 1,20), có một hướng dẫn viên thứ hai, mang tính thần học và biệt loại hơn, đó là Kinh Thánh, được chứng nhận trong trường hợp chúng ta bởi đoạn văn thời danh của Mikha 5, được Mátthêu biên soạn lại: "Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israen dân Ta sẽ ra đời". Chính Israen là người thụ thác sự hướng dẫn sáng tỏ hơn này của ngôi sao; tuy nhiên, vì đóng kín trong thái độ dửng dưng và đần độn, Israen đã không biết đọc hiểu ý nghĩa sâu xa của nó. Nên vị mục tử/lãnh tụ được sai đến với đoàn chiên lạc của nhà Israen sẽ chỉ được khám phá bởi những những ngoại, "đến từ Đông phương" và được cho ngồi vào bàn tiệc trong niềm vui hiệp thông với Thiên Chúa. Thật thế, Mátthêu nêu bật niềm vui lớn lao ("họ mừng rỡ vô cùng") các đạo sĩ có khi đón nhận mạc khải dành cho họ. Trái lại, ở hậu cảnh, dần dần nổi rõ biểu tượng của sự từ chối, được hiện thân trong một ông vua khác, Hêrôđê, và "cả thành Giêrusalem cùng với ông" (c. 3). Israen chủng tộc chẳng còn là "Israen thật của Thiên Chúa"; việc thuộc một cộng đoàn nhờ huyết thống và truyền thống, việc ghi vào sổ một giáo hội không đủ để được cứu rỗi.
Giờ đây mọi chú ý đều hướng về những "tín hữu mới và thật", các đạo sĩ. Họ đi vào cung điện khiêm tốn của vị vua mới sinh "nhà", (c. 11), thấy ở giữa là Đức Kitô và mẹ của Người. Họ sấp mình thờ lạy Người trong cử chỉ tôn thờ của phụng vụ Kitô giáo chứ không chỉ trong cử chỉ sùng bái kiểu đông phương. Các lễ vật của họ, điển hình của miền Lưỡi liềm phì nhiêu, phản ảnh lối đọc lại của Kitô giáo đối với bài ca vĩ đại làm nên bài đọc thứ nhất hôm nay: "Lạc đà từng đàn che rợp đất..., tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60,6). Hoặc là lối đọc lại thánh vịnh đáp ca 72,10: "Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Ả-rập, Sơ-va, cũng đều tới tiến dâng lễ vật. Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng...".
"Sau đó họ đã về xứ mình" (c.12): cuộc phiêu lưu của những tín hữu ngoại giáo đầu tiên này chấm dứt, nhưng câu chuyện của họ là một biểu hiệu đối với tất cả những ai, qua các thế kỷ, nhờ sự hướng dẫn của lý trí và lời Thiên Chúa, đi tìm Thiên Chúa với tấm lòng đơn sơ. Những ngoại và những người nghèo (các mục tử) là những công dân ưu đãi của Vương quốc được Đức Giêsu thiết lập tại Bêlem.
169. Lễ Hiển Linh - Lm. Augustine, SJ.
Một trong những trại tù binh lớn nhất mà người Nhật thiết lập cuối thế chiến thứ hai là trại tù bên bờ sông Quế (Kwei river) thuộc tỉnh Kanchanaburi của Thái Lan. Nơi đây đã có tới 12 ngàn tù binh bị chết vì bệnh tật và bị đối xử tàn bạo trong khi họ phải xây dựng một tuyến đường xe lửa.
Kẻ Thù Số Một
Đám tù nhân bị cưỡng bức lao động dưới cơn nóng có khi lên tới 490C. Đầu trần, chân đất họ vác từng thúng đất đá trên vai, để xây dựng cho xong toàn bộ tuyến đường sắt đã được chỉ định. Đúng là cảnh màn trời chiếu đất theo nghĩa đen, vì họ nằm ngủ trên đất không chăn chiếu. Nhưng kẻ thù số một không phải là cai tù hoặc bọn lính gác, cũng không phải là cuộc sống gian khổ, mà là chính bản thân họ. Theo lời kể lại của tác giả Ngô Văn Đông (Ernest Gordon) trong cuốn "Ngang qua thung lũng sông Quế" thì vì quá sợ, đám tù binh nói trên mắc chứng hoang tưởng. Họ cư xử với nhau theo luật rừng, lại còn trộm cắp của nhau, ngờ vực và chỉ điểm lẫn nhau. Họ trở nên trò cười đối với bọn lính gác. Bởi lẽ trước kia họ là binh hùng tướng mạnh mà nay trở nên hèn nhát và phá hoại nhau!
Điều Không Thể Xảy Ra Đã Xảy Ra
Thế rồi một điều xem ra không thể xảy ra đã xảy ra. Số là có hai người trong đám tù nhân đứng ra tổ chức cho các bạn tù thành những nhóm học hỏi Kinh Thánh. Điều lạ lùng là đám tù nhân qua đó khám phá ra Chúa Giêsu hiện đang sống động giữa họ. Người hiểu rõ hoàn cảnh của họ. Chính Người cùng chung số phận với họ để cứu họ khỏi cảnh lầm than. Người đã từng chịu đói khát, từng bị phản bội, từng nếm những lằn roi quất trên lưng và cuối cùng bị người ta giết chết. Chính vì Người luôn kết hợp với Cha trong kế hoạch cứu nhân độ thế nên Thiên Chúa đã siêu tôn và đặt Người làm Chúa của mọi người và mọi sự. Thế là tất cả những điều liên quan tới Chúa Giêsu, về con người của Người, về những gì Người nói, những việc Người làm đều tràn đầy ý nghĩa và trở nên sống động đối với chính họ. Đám tù nhân không còn cho rằng họ là nạn nhân của một tấn bi kịch độc ác nữa. Họ không còn chỉ điểm, không còn phá hoại lẫn nhau nữa. Họ biểu lộ việc hoán cải tự thâm sâu như thấy rõ qua những lời cầu nguyện tự phát. Họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau nhiều hơn là cho chính mình. Họ chỉ ước mong để đỡ bị gò bó hầu tự do chia sẻ cho nhau nhiều hơn trong cuộc sống. Dần dà, cả trại được biến đổi đến nỗi không chỉ đám lính Nhật canh gác phải lấy làm lạ mà chính các tù binh cũng hết sức ngạc nhiên!
Khác Biệt Giữa Sự Chết Và Sự Sống
Một đêm nọ, sau cuộc họp với nhóm học hỏi Kinh Thánh, tác giả Ngô Văn Đông khập khiễng bước về căn trại của ông. Đang lúc lần mò trong bóng đêm, ông bỗng nghe có tiếng người ca hát. Ông nhận thấy có người đang dùng một mảnh gỗ gõ vào một chiếc lon thiếc để giữ nhịp. Tiếng mảnh gỗ gõ vào lon thiếc cùng với tiếng hát khiến cho bóng đêm tự nhiên trở nên có sự sống. Điều khác biệt giữa tiếng hát vui tươi lúc đó và cái lặng thinh chết chóc của những tháng trước đó giống hệt điều khác biệt giữa sự sống và sự chết, giữa một đám người chia rẽ phá hoại nhau và một lớp người có Chúa Giêsu Phục Sinh linh hoạt ở giữa họ.
Nhưng thử hỏi trong dịp lễ kính Chúa Hiển Linh sau No-en, mà đề cập tới Chúa Phục Sinh sợ có quá sớm chăng? Chúa Hiển Linh là gì? Người bày tỏ bản thân Người cho ta như thế nào ở giữa xã hội ta đang sống?
Một Mầu Nhiệm Duy Nhất
Thực ra, chỉ vào khoảng 375, hai lễ lớn là Sinh Nhật trong Giáo Hội Roma và Hiển Linh trong Giáo Hội Đông Phương mới xuất hiện trong nền phụng tự Kitô giáo. Trước đó, các Kitô hữu chỉ cử hành một mầu nhiệm duy nhất là sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, mỗi tuần vào ngày Chúa Nhật và mỗi năm vào mùa Phục Sinh. Nhưng điểm phát xuất của cả hai lễ Giáng Sinh và Hiển Linh cũng là việc nhìn nhận Chúa Giêsu là nguồn bất diệt của một mùa xuân phong phú. Roma cử hành lễ sinh nhật của Chúa vào ngày 25 tháng 12. Đó là ngày Xuân Phân của Tây Phương, nên được chọn để mừng biến cố sinh ra của Đấng là Ánh Sáng thế gian. Hôm đó dân ngoại thờ thần mặt trời mà họ tin là "Mặt trời bất diệt" vượt lên từ bóng tối của mùa Đông. Còn người Kitô chọn ngày đó để mừng Chúa giáng trần, nào chẳng phải là để nhìn nhận Người mới là Mặt Trời bất diệt duy nhất đó sao? (x Lc 1,78). Riêng ở Ai Cập, dân ngoại mừng lễ Xuân Phân vào ngày 6 tháng 1. Nhiều nghi lễ ngoại giáo được tổ chức vào ngày đó. Cho nên để tránh cho người Công Giáo khỏi vướng mắc vào dịp đó, Giáo Hội Đông Phương ở đây chọn ngày 6 tháng 1 làm lễ mừng Chúa Hiển Linh. Điều đặc biệt là người Ai Cập sống lệ thuộc nhiều vào sông Nil phì nhiêu, tựa như dân Việt ta lệ thuộc nhiều vào hai con sông Hồng Hà và Cửu Long. Cho nên điều dễ hiểu là người Công Giáo Ai Cập chọn mừng Chúa tỏ thần tính của Người bên bờ sông Giođan thay vì mừng Người sinh ra trong cảnh cơ hàn của Bêlem lạnh lẽo. Họ chọn cảnh "Đức Giêsu vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người." (Mt 3,16-17). Lễ Hiển Linh mà người Ai Cập mừng đã mau chóng được tất cả Giáo Hội Đông Phương mừng theo.
Nhưng trang Tin Mừng Mátthêu 2,1-12, kể lại việc các đạo sĩ từ phương Đông xa xôi tới thờ lạy Hài Nhi Giêsu sinh ra tại Bêlem, không thể không lôi cuốn niềm ngưỡng mộ của người Kitô mà đa số có gốc dân ngoại. Các đạo sĩ này quả thực là tổ phụ của họ, đã trở nên hoa trái đầu mùa của dân ngoại khi Tin Mừng được loan báo. Các đạo sĩ ấy đại diện toàn thể dân ngoại trong việc tôn vinh Con bà Maria, cũng là Con của Thiên Chúa.
Sau này khi lễ Chúa Hiển Linh được cử hành rộng rãi ở xứ Galia của Pháp Quốc sau này, người ta còn mô tả việc Chúa Hiển Linh qua việc Người khiêm nhường chịu phép rửa của Gioan, và qua việc Người tỏ mình ra tại Cana với điều nhấn mạnh là "Chúa tỏ vinh quang của Người ra, và các môn đệ tin vào Người" (Ga 2,11)
Như vậy việc Thiên Chúa tỏ thần tính của Người ra nơi Đức Giêsu bao gồm biết bao là biến cố và mầu nhiệm trong đời Người. Các biến cố hay đúng hơn, các mầu nhiệm của đời Người, được mừng kính dọc theo năm phụng vụ thực ra chỉ là "những phương diện khác nhau của mầu nhiệm phục sinh duy nhất của Người" (Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1171).
Thánh Linh Thực Hiện Mầu Nhiệm Duy Nhất của Chúa Giêsu
"Phụng vụ Kitô giáo không chỉ nhắc nhở những biến cố cứu độ, nhưng còn hiện thực hoá những biến cố đó. Do đó mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô được cử hành nhưng không lặp lại, tuy chúng ta lặp lại nhiều lần cuộc cử hành. Mỗi lần cử hành phụng vụ, Thánh Linh lại đổ ơn chan hoà. Ngài hiện thực hoá mầu nhiệm duy nhất của Đức Kitô." (Ibid., sô 1104).
Câu chuyện nói trên của tác giả Ngô Văn Đông gợi ý cho ta thấy chút nào đó về việc Thiên Chúa tỏ thần tính của Người trong một hoàn cảnh hết sức bi đát. Đó là hoàn cảnh của những tù nhân vì quá sợ hãi nên mắc bệnh hoang tưởng. Họ chỉ điểm lẫn nhau và trở nên những kẻ thù của nhau! Chính trong hoàn cảnh cùng cực đó Lời Chúa được cử hành nơi những nhóm học hỏi Kinh thánh. Và điều lạ lùng là chính Chúa Giêsu với mầu nhiệm Phụx Sinh duy nhất của Người, hiện diện một cách vô hình, nhưng tác động một cách hữu hình qua việc Người biến đổi những con người cụ thể.
* Trước hết, Người ban cho các nhóm tù nhân học hỏi Kinh Thánh ánh sáng đức tin để trí hiểu của họ thấy được Người đang sống động ở giữa họ. Họ phần nào giống như các đạo sĩ được ban cho ơn "thấy vì sao của Đức Vua dân Do Thái xuất hiện bên phương Đông nên đến bái lạy Người" (c.2 và 9).
Chúa Giêsu Tự Hiến Để Cứu Họ
* Người ban cho họ chính bản thân Người tự hiến để cứu họ khỏi cảnh lầm than mà họ đang phải gánh chịu một cách vô vọng. Do đó đám tù nhân không còn cho rằng họ là nạn nhân của một tấn bi kịch độc ác nữa. Ở đây các tù nhân phần nào giống như các đạo sĩ được báo mộng (c.12) để khỏi trở về con đường cũ họ vẫn theo. Tức là các tù nhân không còn trở về với nếp sống ngờ vực và phá hoại lẫn nhau nữa.
Nhất là các tù nhân được ban cho ơn đáp lại tình yêu Chúa ban một cách quảng đại. Họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau nhiều hơn là cho chính mình. Họ ước mong được tự do chia sẻ cho nhau nhiều hơn trong cuộc sống. Họ phần nào noi gương các đạo sĩ đã quảng đại dâng Hài Nhi Giêsu những lễ vật quý báu họ mang theo (c.11)
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn thấy qua việc học hỏi và chia sẻ Kinh Thánh, những nhóm tù nhân trong câu chuyện của tác giả Ngô Văn Đông, được thay đổi về phương diện nào mà bạn cho là đáng kể nhất?
2. Bạn nghĩ tại sao các tù nhân trong câu chuyện của tác giả Ngô Văn Đông, thấy Chúa Giêsu hiểu rõ hoàn cảnh của họ? Chính bạn có kinh nghiệm nào về việc Chúa Giêsu gần gũi trong hoàn cảnh sống của bạn?
02/01 Gioan làm chứng về Chúa Giêsu.
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Gioan làm chứng về Chúa Giêsu.
Thứ Bảy – Thánh Baxiliô Cả và thánh Grêgôriô Nazianzênô. Lễ nhớ.
"Có một Ðấng sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi"
* Thánh Baxiliô sinh tại Xêdarê miền Capađôxia năm 330, trong một gia đình Kitô giáo. Vốn là người tinh thông văn học lại nổi tiếng nhân đức, ban đầu thánh nhân chọn cuộc đời đan tu. Đến năm 370, người được cắt đặt làm giám mục cai quản nơi người sinh trưởng. Người tích cực chống lại giáo phái Ariô, viết nhiều tác phẩm. Đặc biệt, người đã soạn thảo những quy luật cho đời sống đan tu, mà cho đến bây giờ, nhiều đan sĩ đông phương vẫn còn tuân giữ. Người hết sức chăm lo cho người nghèo. Người qua đời ngày 1 tháng Giêng năm 379.
* Thánh Grêgôriô cũng sinh năm 330 gần thành Nadien. Người đi rất nhiều nơi để học hỏi, người đã kết thân với thánh Baxiliô, đã chọn cuộc sống tu hành, nhưng sau đó thụ phong linh mục, rồi được chọn làm giám mục. Năm 381 người được đặt lên cai quản giáo phận thành Công-tăng-ti-nô-pô-li; tuy nhiên, 18 tháng sau, vì có sự chia rẽ và bè phái trong địa phận, người lui về thành Nadien và qua đời tại đó ngày 25 tháng Giêng năm 389 hay 390. Hậu thế thường gọi thánh nhân là nhà thần học vì người vừa am tường đạo lý cao siêu, vừa có tài hùng biện.
LỜI CHÚA: Ga 1,19-28
Ðây là chứng của Gioan, khi những người Do thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các Thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Ðấng Kitô". Họ liền hỏi: "Như vậy là thế nào? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia". "Hay ông là một đấng tiên tri?" Gioan đáp: "Không phải". Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?" Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo". Và những người đã được sai đến đều thuộc nhóm biệt phái. Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không là Elia, hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?" Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Việc này xảy ra tại Betania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Có một vị đang ở giữa các ông
Suy niệm :
Người ta chỉ lớn lên khi ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm về mình.
Người ta chỉ lớn hết mức khi không còn coi mình là trung tâm.
Trung tâm được đặt nơi Thiên Chúa và tha nhân.
Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng
trong con cái loài người, không ai lớn hơn ông Gioan Tẩy Giả (x. Mt 11,11).
Gioan lớn vì ông là vị ngôn sứ giới thiệu trực tiếp Đấng Mêsia là Đức Giêsu,
một điều mà không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước được diễm phúc làm.
Nhưng Gioan cũng lớn vì ông đã chấp nhận nhỏ đi:
“Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3, 30).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cách Gioan làm mình nhỏ lại.
Khi Gioan đã nổi tiếng bởi lối sống khắc khổ và lời giảng mạnh mẽ,
thì người Do Thái, người Pharisêu, sai các tư tế và các thầy Lêvi
từ Giêrusalem đến với Gioan đang làm phép rửa ở bên kia sông Giođan.
Họ muốn biết ông Gioan là ai.
Gioan đã không nhận mình là Đấng Kitô, hay Êlia tái giáng (Ml 4,5),
hay vị Ngôn Sứ cao cả đã được ông Môsê loan báo (Tl 18, 15.18),
mặc dù có người đã nghĩ ông là như vậy.
Những lời từ chối của Gioan càng lúc càng ngắn hơn và sắc hơn.
“Tôi không phải là Đức Kitô. - Tôi không phải là. - Không.”
Gioan từ chối những chức danh mà nhiều người thèm muốn.,
bởi lẽ ông biết rõ mình là ai.
Khi bị bắt buộc phải đưa ra một câu trả lời về con người của mình,
Gioan đã chọn câu của ngôn sứ Isaia (40, 3).
“Tôi là tiếng người hô trong hoang địa.
Hãy sửa cho thẳng con đường của Chúa.”
Gioan nhận mình chỉ là người dọn đường cho một Đấng đến sau,
Đấng ấy là người ông không xứng đáng cởi quai dép.
Cởi quai dép của chủ là việc chỉ dành cho người nô lệ thấp kém nhất.
Gioan là người làm chứng tuyệt vời về ánh sáng (Ga 1, 7-8).
Ông là “tiếng” làm chứng cho “Lời” là Con Một Thiên Chúa.
Cám ơn Gioan vì nhờ ông mà ta gặp được Ánh Sáng thật.
Cám ơn Gioan vì tiếng của ông dẫn ta đến với Lời của Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Augustinô)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Ở LẠI TRONG CHÚA
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người luôn đi tìm sự sống. Nhưng không phải ai cũng biết đường. Sự sống chỉ có trong Thiên Chúa. Nên thánh Gio-an dạy ta hãy ở lại trong Chúa.: “Chính anh em sẽ ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha. Và đây là điều mà chính đức Ki-tô đã hứa ban cho chúng ta: sự sống đời đời”. Ma quỉ là cha sự dối trá luôn cám dỗ con người rời xa Chúa. Như E-và. Thánh Gio-an nhấn mạnh điều này để tín hữu khỏi lầm lạc: “Tôi viết cho anh em những điều ấy để nói về những kẻ tìm cách làm cho anh em đi lạc đường”. Vì thế phải chết. Ta cần biết phân biệt. Chúa đã ban cho ta Thần Khí. Để ta nhận biết sự thật: “Nhưng vì dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự- mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá- thì theo như dầu ấy đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Người”.
Thánh Gio-an Tẩy giả là người tràn đầy Thần Khí. Nên ngài có phân định rõ ràng. Ngài biết mình không là gì. Dù bấy giờ ngài đã nổi danh, được nhiều người mến mộ. Thậm chí người ta còn coi ngài là Đấng Cứu Thế. Nhưng thánh nhân kiên quyết phủ nhận. Ba lần nói “không” để phủ nhận mọi phù hoa ảo ảnh. Ngài nhận tự bản thân mình chẳng là gì. Có là gì là ở trong Thiên Chúa. Phủ nhận mình là khẳng định Thiên Chúa. Ra khỏi bản thân để ở trong Thiên Chúa. Nhờ ở trong Thiên Chúa mà có tất cả.
Vì ở trong Thiên Chúa nên thánh Gio-an luôn ở trong chương trình của Thiên Chúa. Ở trong chương trình của Thiên Chúa nên thánh Gio-an luôn giữ đúng vai trò của mình. Là tiếng cho Ngôi Lời: “Tôi chỉ là tiếng người hô trong hoang địa”. Là người đi mở đường cho Đấng Cứu Thế: “Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi”. Là phù rể cho chàng rể. Là hình bóng báo trước Thiên Chúa: “Tôi đây làm phép rửa trong nước”. Nhưng Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Là tiền hô đi trước đại vương: “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”.
Nhờ ở lại trong Thiên Chúa, Gio-an đã làm tròn nhiệm vụ. Nên ngài trở nên cao trọng nhất trong số nam nhân. Và đóng góp phần quan trọng cho công cuộc Cứu Thế thành công. Đem lại ân phúc lớn lao cho mọi người.
Suy Niệm 3: Lời Chứng Của Gioan
Con người thường mang tâm trạng thích được khen, người nhận lời khen cảm thấy tâm hồn thoải mái, vui tươi, phấn khởi. Ðó là một nghệ thuật để khuyến khích người khác hăng hái tiếp tục công việc họ đang làm ngày càng khá hơn. Trong gia đình, người chồng khen người vợ biết trang hoàng căn phòng lịch sự, sáng sủa, đơn sơ sẽ làm cho người vợ thương mến người chồng hơn, hoặc người chồng được vợ khen là biết chọn màu áo trang nhã, tiệm may vừa khít trông đẹp, phải chăng tình thương nồng ấm, đậm đà giữa vợ chồng trong gia đình càng tăng thêm hạnh phúc hơn.
Nếu một người nhân viên trong sở làm, người giám đốc mỉm cười khen một cách thành thực là anh đi làm rất đúng giờ có phải là một ích lợi lớn lao cho anh, vì được ông chủ để ý đến mình và biết đâu anh ta nhờ đó mà siêng năng, chăm chỉ hơn trong công việc của mình. Cho nên, khen là một điều nên thực hiện khi có thể đối với nhau. Tuy nhiên, điểm tác hại sâu xa nhất là khen hời, khen quá hóa nịnh là chuyện không nên. Người ta không có mà chúng ta đưa lên tận mây xanh làm họ mở mắt không ra, không nhìn thấy khả năng thực sự của mình và làm họ cứ ảo tưởng nghĩ rằng mình giỏi thật, đó thật là một chuyện nguy hiểm và là chuyện tâm lý bình thường của con người. Có một điểm nữa là từ đó con người ưa nói quá về mình. Chúng ta không có nhưng người ta nịnh gán cho mọi thứ tài giỏi hay ho, chúng ta cũng cứ nhận bừa lấy và trở thành như là của mình để rồi cứ nhận tiếp những lời khen quá đáng như thế.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Gioan Tẩy Giả đã cho chúng ta một bài học trung thực về chính cuộc đời của ông. Khi những người Do Thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông là ai? Ngụ ý của họ là muốn biết Gioan có phải là Ðức Kitô, Ðấng phải đến chăng? Gioan xác nhận ngay: "Tôi không phải là Ðức Kitô". Ðức Kitô thì chắc hẳn Gioan không dám tự nhận nhưng ông có thể nhận mình là Elia được, vì có ai biết được Elia đâu, người ta chỉ nghe truyền thuyết là Elia không chết, ông ngồi trên xe lửa mà về trời và sau này ông sẽ trở lại. Nhưng Gioan Tẩy Giả cũng không nhận mình là Elia và ngay cả người ta hỏi: "Ông có phải là một tiên tri không?" vì Gioan cũng làm nhiều điều lạ, ông kêu gọi mọi người ăn năn hối cải và người ta đến rất đông để nhận lãnh phép rửa do ông ban cho. Ông cũng có thể nhận mình là một tiên tri nào đó thì có ai biết đến, thế nhưng ông vẫn trả lời:"Tôi không phải là một tiên tri" mà ông tự nhận như sau: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hãy sửa đường cho ngay thẳng để Chúa đi", như lời tiên tri Isaia đã loan báo.
Một con người thấp hèn với địa vị khiêm tốn, nào ai trong chúng ta chấp nhận được tinh thần như Gioan Tẩy Giả. Và còn hơn thế nữa, Gioan đã nhìn nhận con người kém cỏi của mình so với Ðấng Cứu Thế mà ông đang rao giảng: "Ðấng sẽ đến sau tôi nhưng tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Ngài". Một câu nói khác mà Chúa Giêsu đưa ra để cho chúng ta noi gương, Chúa Giêsu đã nói: Khi vào bàn tiệc hãy ngồi chỗ rốt hết để sau đó người ta mời mình lên nơi cao có phải vinh dự hơn không?" Còn nếu chúng ta ngồi vào chỗ nhất, chỗ nhì thì sau đó người ta sẽ lại đến nói với chúng ta: "Xin nhường chỗ cho vị này" có phải là chúng ta xấu hổ mà ngồi lui xuống dưới chăng.
Khi người khác nhờ chúng ta một việc gì trong khả năng mà chúng ta có thể làm được thì chúng ta sẽ giúp họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn khiêm tốn nói: "Nếu không có gì trở ngại, tôi sẽ làm giúp cho anh", hay "theo khả năng của tôi, tôi hy vọng giúp được anh". Nói thế không hẳn là chúng ta thiếu tự tin hay không sốt sắng sẵn sàng trong những công việc người khác nhờ chúng ta. Nhưng nói như vậy là chúng ta nói lên sự tế nhị, sự khiêm tốn trong khả năng Thiên Chúa ban cho mỗi người trong chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con bắt chước thánh Gioan Tẩy Giả có một tinh thần khiêm nhu, ôn hòa để qua cuộc sống của chúng con, mọi người nhận ra được khuôn mặt nhân hậu, từ ái bao la của Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 4: Ngài đang ở giữa anh em.
Vào một đêm trăng. Thích Ca ngồi giữa các đệ tử, ngài lấy ngón tay chỉ mặt trăng và nói: “Kia là mặt trăng, cứ ngó theo ngón tay ta thì thấy, nhưng đừng tưởng ngón tay ta là mặt trăng”.
Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến một cuộc đối thoại tương tự giữa Gioan Tẩy giả và những biệt phái đến từ Yêrusalem. Họ đặt ra ba hình ảnh về về Gioan. Trước hết, họ hỏi ông có phải là Đấng Kitô không? Thật thế, người Do Thái đã và vẫn còn mong đợi Đấng Kitô, nhưng không ai có ý niệm đích xác về Ngài: kẻ thì nghĩ đó là Đấng đem hòa bình đến cho nhân loại, người thì cho đó là Đấng đến thiết lập sự công chính, một số đông hy vọng đó là vị anh hùng sẽ lãnh đạo dân Do Thái đi chinh phục toàn thế giới, có người còn hình dung đó là một siêu nhân đến từ Thiên Chúa. Câu trả lời phủ định của Gioan ngầm hiểu rằng Đấng Kitô không phải là người như các ông nghĩ, nhưng nếu chịu khám phá, các ông sẽ nhận ra Ngài đang ở giữa các ông.
Họ lại hỏi ông có phải là Êlia mà theo tục truyền đã được đưa về trời cách kỳ diệu và bây giờ lại xuất hiện không? Người Do Thái vẫn tin rằng trước khi Đấng Kitô đến. Êlia phải trở lại để chuẩn bị cho thế giới đón nhận Ngài, nhất là sẽ phong vương cho Ngài để được gọi là Kitô. Nhưng Gioan đã chân thành nhận mình không phải là Êlia.
Cuối cùng họ hỏi ông có phải là tiên tri không? Hỏi như vậy là vì có lời trong sách Thứ luật: “Thiên Chúa sẽ cho nổi dậy một tiên tri như ta” (18,15). Người Do Thái có khi hiểu lầm và áp dụng vào Đấng Cứu thế (Cv 6,k4), có khi cho đó là một đại tiên tri, như Isaia, Yêrêmia (Mc 8,28), nhưng Gioan lại từ chối và cho mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc: “Hãy dọn đường Chúa”.
Gioan đã làm chứng cho Chúa trong sự khiêm tốn. Người Kitô hữu cũng phải làm chứng cho Chúa về nhiều phương diện: không những giơ ngón tay chỉ Chúa Giêsu cho người khác, mà còn phải là chứng nhân bằng chính cuộc sống nữa. Đó là sứ mạng cao cả mà chúng ta cần nhiều ơn Chúa để có thể chu toàn trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Suy Niệm 5: KHIÊM TỐN KHI LÀM CHỨNG NHÂN CHO CHÚA (Ga 1,19-28)
Có một linh mục đã cao niên nổi tiếng là đạo đức. Trong một dịp nọ, ngài bị một bà nói xấu, bôi nhọ đến danh thơm tiếng tốt của ngài. Bà ta vu khống những chuyện xấu xa mà trong cuộc đời của ngài chưa hề có! Khi chuyện đến tai ngài, ngài chỉ nhắm mắt lại và âm thầm trong lời cầu nguyện, đồng thời ngài vẫn tỏ vẻ vui tươi và hăng say trong mọi công việc.
Đến một hôm, chính người nói xấu đến để xin lỗi ngài, ngài chỉ tươi cười và nói: “Tôi không biết bà là người nói những điều đó cho tôi, nhưng kể từ khi tôi biết chuyện đến giờ, tôi không bao giờ quên cầu nguyện cho người đã nói những điều đó và tôi hy vọng người đó được bình an. Hôm nay, lời cầu nguyện của tôi được thành hiện thực, tôi rất vui mừng và tạ ơn Chúa, xin Chúa tiếp tục chúc lành cho bà”.
Sau cuộc gặp gỡ đó, người phụ nữ đã một thời buông ra những lời độc địa không thương tiếc đến người đã sinh thành và nuôi dưỡng mình trong đời sống đức tin, nay nhờ tấm lòng bao dung, đại lượng, nhân hậu của ngài, bà ta đã sám hối và thay đổi đời sống, siêng năng cầu nguyện và hy sinh hơn trước nhiều.
Hôm nay, Lời Chúa đề cập đến cuộc đối thoại giữa Gioan Tẩy Giả và một số Tư tế và thầy Lêvi, họ đặt ra cho Gioan những câu hỏi liên quan đến thân thế và sứ vụ của ông. Họ nói: ông có phải là Đấng Kitô, hay Êlia, hoặc có phải là tiên tri nào đó không? Cả ba câu hỏi đều bị Gioan phủ nhận. Ông chỉ nhận mình là người dọn đường cho Đức Chúa, khi Ngài đến, ông không đáng cởi giây dép cho Ngài. Như vậy, Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế trong sự khiêm tốn, ngài không nghĩ đến thân thế và uy tín của mình để tìm cách nổi nang, nhưng khiêm tốn nhận mình là tôi tớ, đến để phục vụ cho con người và sứ vụ của Đấng Thiên Sai.
Trong cuộc sống hiện nay, nhiều người nghĩ rằng: truyền giáo là phải làm những chuyện lớn lao vĩ đại, hay đưa ra những kế hoạch kếch xù, vĩ mô, những khái niệm trìu tượng mang tính xuyên thời đại... Nhưng chúng ta quên mất một điều, những thứ đó nhiều khi làm cho con người ngày hôm nay: “Kính nhi viễn chi”. Nhưng sự khiêm tốn, hiền hậu, nhân từ sẽ làm lay động lòng người và có sức cải hóa, biến đổi con người hôm nay cách dễ dàng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho hình ảnh, lời nói và cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Giả được hiện tại hóa trong đời sống đạo của chúng con và trong công cuộc loan báo Chúa cho anh chị em xung quanh. Amen.
Ngọc Biển SSP
01/01 Maria ghi nhớ và suy niệm.
- Viết bởi 01/01 Maria ghi nhớ và suy niệm.
Maria ghi nhớ và suy niệm.
Thứ Sáu. Cuối tuần Bát Nhật Giáng Sinh – THÁNH MARIA MẸ THIÊN CHÚA. Lễ Trọng. – Ngày thế giới cầu nguyện cho Hòa Bình.
"Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi... và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giêsu".
LỜI CHÚA: Lc 2, 16-21
Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
LỄ ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA
Lời Chúa: Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21
Suy Niệm 1: Ghi nhớ và suy niệm trong lòng
Suy niệm:
Làm người ai cũng cần có mẹ.
Mẹ là người cưu mang, sinh ra và dưỡng nuôi con cho khôn lớn.
Khi Con Thiên Chúa làm người, mang lấy trọn phận người,
Ngài cũng cần một người mẹ, như bao người khác.
Mẹ Maria là thiếu nữ, là trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn,
Để thụ thai và sinh hạ Con Một Thiên Chúa.
Khi Công Đồng Êphêsô (năm 431) gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa,
Công Đồng không có ý dạy
Đức Mẹ sinh ra Chúa Cha hay Chúa Thánh Thần.
Đức Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu,
Mà Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể,
Nên Mẹ thực sự là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos).
Chắc Mẹ Maria không thể hiểu hết và hiểu ngay
Màu nhiệm lớn lao mà Mẹ đang cưu mang trong dạ.
Khi các mục đồng kể lại những điều huy hoàng họ nghe thấy ở Belem,
Mẹ Maria ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong tim mình.
Để đi vào mầu nhiệm cách sâu xa, cần ơn soi sáng của Chúa,
Nhưng cũng cần thái độ chiêm niệm, nghiền ngẫm trong lặng thinh.
Chúng ta thường để ý đến biến cố Truyền Tin và biến cố Giáng Sinh,
biến cố Ngôi Lời bắt đầu hiện hữu trong lòng mẹ và biến cố chào đời.
Nhưng chúng ta không được quên chín tháng Mẹ cưu mang người Con.
Con Thiên Chúa đã lớn lên từ từ trong lòng Mẹ như các thai nhi khác.
Muốn sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay,
Chúng ta cũng cần nhiều thời gian để cưu mang Ngài trong cuộc đời ta,
để Ngài trở nên đủ cứng cáp khi chào đời.
Chúng ta cũng phải chấp nhận cả sự đau đớn khi sinh hạ.
Bước qua một Năm Mới, mở trang đầu của cuốn lịch mới,
Chúng ta mong những điều mới mẻ tốt lành xảy đến cho mình
Và muốn tặng cho nhau một câu chúc đầy ý nghĩa:
“Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6, 26)
Cầu nguyện :
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Ðức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Ðức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Ðức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Thánh Ý Thiên Chúa.
Giáo Hội Công giáo có một lòng sùng kính Mẹ Maria một cách đặc biệt. Mẹ đã được ca ngợi trong phụng vụ với nhiều tước hiệu khác nhau. Một trong những tước hiệu tuyệt vời nhất, đó là tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu này phát sinh từ niềm tin của Giáo Hội nơi Chúa Giêsu, người con sinh ra từ cung lòng Mẹ, là Con Thiên Chúa làm người. Ngài là người nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa.
Đoạn Tin mừng sáng hôm nay ghi lại quang cảnh các mục đồng đã được chứng kiến tại Bêlem trong đêm Chúa Giáng sinh. Một quang cảnh xem ra thật bình thường: Một hài nhi vấn tã đặt nằm trong máng cỏ bên cạnh Mẹ Maria và thánh Giuse. Nhưng đoạn Tin mừng cũng gợi lên một cái gì khác thường khiến cho Mẹ Maria đã phải ghi nhớ và suy niệm trong lòng.
Quả thật, Tin mừng đã nhiều lần nói đến mối quan hệ giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh cho thấy mối quan hệ ấy không phải chỉ là mối quan hệ theo huyết thống. Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu không phải chỉ vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu tại hang đá Bêlem, đã bú mớm và nuôi dưỡng Ngài tại Nagiarét, mà hơn thế nữa vì Mẹ chính là người đã lắng nghe và thực hiện lời Chúa.
Trước những việc lạ lùng Chúa đã làm và nhất là trước giáo huấn của Ngài, một người phụ nữ đã ca tụng người mẹ đã cưu mang Ngài và đã cho Ngài bú. Nhưng Chúa Giêsu đã mời người phụ nữ ấy đi xa hơn điều bà đang nghĩ.
Đối với Chúa Giêsu, sợi dây thắt chặt Ngài với Đức Maria, đó chính là lòng tin, lòng mến được thể hiện một cách cụ thể qua việc lắng nghe và thực hiện lời Chúa.
Một lần khác, có người nhắc nhở với Chúa Giêsu là có Mẹ và anh em Ngài tới kiếm Ngài. Chúa Giêsu đã lợi dụng dịp này để cho người ta thấy mối quan hệ Ngài chờ đợi nơi mọi người đó chính là lòng tin, sự đồng tâm nhất trí với hành động và lời giảng dạy của Ngài. Đối với Chúa Giêsu không có sự biệt đãi theo huyết thống, theo nhãn hiệu, theo tước vị hay theo một tiêu chuẩn nào người ta có thể lãnh nhận một cách máy móc.
Đã hơn một lần người Do Thái được gọi vào cương vị là con cái Abraham, nhưng Ngài đã thẳng thắn trả lời với họ: Cương vị ấy không hơn gì một hòn đá. Người ta cũng đã nại vào tước vị là dân riêng của Chúa, của giao ước, nhưng Chúa Giêsu cũng đã cho thấy việc nại vào tước vị ấy quả là uổng công. Chẳng phải vì Ngài muốn đi ngược lại với những gì Cha Ngài đã giao ước, mà vì Ngài muốn đi vào cái cốt lõi của giao ước: Thực hiện thánh ý của Thiên Chúa.
Mối quan hệ chính yếu Chúa Giêsu muốn thiết lập, đó chính là mối quan hệ của việc thực thi lời Chúa, bất luận người đó là ai, dù là người Samaria mà dân Do Thái vốn coi rẻ, cho là hạng lai căng, lạc đạo, nhưng đã biết chăm sóc cho kẻ bị cướp đánh trọng thương, vứt bỏ bên lề đường, hay đã cho kẻ đói có cái ăn, kẻ khát có cái uống, kẻ trần truồng có cái mặc. Những việc làm nằm trong ý của Chúa thì người đó đã ở trong quan hệ cứu chuộc với Chúa.
Mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cũng nhìn lại mối quan hệ của chúng ta đối với Đức Kitô. Bí tích Rửa tội và tất cả những bí tích chúng ta lãnh nhận một cách máy móc không đủ để đặt chúng ta vào trong quan hệ với Đức Kitô. Mang danh hiệu là người Kitô hữu, có tên trong sổ rửa tội mà thôi chưa đủ, bởi vì chúng ta chỉ thực sự gắn bó với Ngài khi lắng nghe và thực thi ý Chúa, bởi vì như lời Chúa đã khẳng định: Chỉ kẻ nào làm theo thánh ý Thiên Chúa, thì mới là mẹ, là anh chị em với Ngài mà thôi.
Suy Niệm 3: Mẹ Thiên Chúa.
Có một cô gái, sau khi tham dự một khóa tĩnh tâm, đã kể lại về đời mình như sau: Ngay từ hồi còn bé, tôi đã lâm vào một tình trạng lo âu sợ hãi. Cố gắng lớn lao nhất của tôi hiện nay là vượt thắng nỗi lo âu sợ hãi ấy. Tất cả đều do người mẹ.
Phải, ngay từ những thánh năm ấu thơ, không hiểu vì lý do gì, bà luôn đối xử với tôi một cách nghiệt ngã. Hết đánh đập lại đe loi, khiến tôi bị mặc cảm. Và nỗi lo âu sợ hãi cùng với thời gian cứ tăng lên mãi. Cho đến hôm rồi, sau khi nghe một bài giảng, tôi tình cờ bước vào nhà thờ. Ở đó có bức tượng Mẹ Maria, và đó là lần đầu tiên tôi nhìn ngắm bức tượng Mẹ thật kỹ.
Thoạt tiên, tôi bực bội, giận dữ muốn bỏ ngay ra ngoài, nhưng rồi một cái gì đó đã lôi kéo tôi đến quỳ dưới chân Mẹ. Úp mặt vào lòng bàn tay và tôi đã khóc. Sau đó, tôi cảm thấy tâm hồn mình nhẹ nhõm và mong ước được làm một đứa trẻ, một người con bé bỏng, đầy tin tưởng và phó thác. Đồng thời tôi cũng cảm nhận được tình yêu mà Mẹ Maria đã dành cho tôi, khiến tôi muốn thực sự tha thứ cho người mẹ ruột của tôi những gì đã xảy ra trong dĩ vãng.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào tâm tình của ngày lễ kính Mẹ Thiên Chúa và chúng ta sẽ suy nghĩ về hai điểm.
Điểm thứ nhất: Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà ngài còn là mẹ thật của mỗi người chúng ta nữa. Từ trời cao, Mẹ luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời.
Điểm thứ hai: Đức Maria cũng chính là khuôn mẫu để chúng ta noi theo, nhất là về thái độ tín thác vào Chúa.
Thực vậy, khi sứ thần báo tin Mẹ sẽ sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, mặc dù biết rằng việc này có thể làm cho thánh Giuse buồn phiền và lo nghĩ, nhưng Mẹ vẫn vững tin và phó thác vào Chúa. Rồi khi nghe các mục đồng kể lại lời các thiên thần. Mặc dù không hiểu lắm, nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Khi nghe ông già Simeon nói tiên tri: Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu trái tim Bà. Lần này Mẹ Maria cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa lời tiên tri, nhưng Mẹ vẫn phó thác vào Chúa. Rồi khi tìm thấy Chúa và nghe Chúa trả lời: Mẹ không biết con phải lo việc Cha con sao? Một lần nữa Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ vẫn tin tưởng nơi Chúa.
Và ngày nay, Mẹ luôn sẵn sàng giúp chúng ta sống tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa. Chẳng hạn là những bậc cha mẹ, chúng ta đã cặn kẽ dạy bảo, ra sức làm gương sáng mà con cái vẫn khô khan nguội lạnh ngang bướng Và như vậy, chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta làm điều này.
Là một thanh niên, chúng ta lo lắng về tương lai, không hiểu những dự tính của mình là gì và sẽ đi về đâu? Chúng ta đã bàn bạc, đã cầu nguyện mà sao vẫn còn mù mịt. Vậy thì hãy tiếp tục cầu nguyện và phó thác, chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta trong việc này.
Là một người đang chao đảo về đức tin với bao nhiêu những thắc mắc, những khó hiểu. Mặc dù đã cầu nguyện nhưng chúng ta vẫn hoài nghi liệu có Chúa hay không? Vậy thì hãy cầu nguyện và phó thác Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta thực hiện điều này.
Lạy Đức Maria, là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng con, xin hãy giúp con trong mọi cảnh huống của cuộc đời.
Suy Niệm 4: Mẹ Thiên Chúa
Có một nhóm giáo dân trong một thành phố nhỏ quyết định làm một máng cỏ giáng sinh ở công trường. Họ đi xin những người hảo tâm giúp đỡ. Đứng đầu danh sách những người hảo tâm là ông chủ bút một tờ tuần báo địa phương. Ông ta ủng hộ việc này cho tới lúc cha sở phát biểu. Nhiều người, nhất là trẻ em sẽ phấn khởi nhìn thấy Chúa Hài Nhi, Đức Mẹ, thánh Giuse và cả những con vật nữa, ở đây ngay tại trung tâm thành phố. Thế nhưng, ông chủ bút liền kêu to:
- Không, phải bỏ Đức Mẹ đi, đừng có bày đặt lắm chuyện làm chi.
Cha sở nghe vậy bèn nói với ông ta:
- Ông bảo gì vậy? Ông thử nói cho tôi hay: Một người sinh ra mà lại không do người mẹ, thì tôi sẽ đồng ý bỏ Đức Mẹ. Đức Mẹ phải ở với Con mình trong công trường thành phố. Tại sao không?
Đúng thế, Mẹ đã ở với Chúa Giêsu ngay từ lúc Ngài được dựng thai cho tới khi Ngài lên trời và Mẹ còn liên kết với Ngài trong suốt dòng lịch sử. Vì thế, chúng ta không thể tưởng nghĩ tới Chúa Giêsu mà không tưởng nghĩ Mẹ Ngài. Cũng như chúng ta không thể tưởng nghĩ đến một em bé mà không tưởng nghĩ đến người mẹ của em.
Chúa Giêsu là người thật nhưng cũng là Thiên Chúa thật. Đức Maria là Mẹ của Thiên Chúa làm người, theo ý nghĩa là con trẻ Mẹ sinh ra có bản tính Thiên Chúa và bản tính con người.
Ngày đầu năm dương lịch, Giáo hội muốn chúng ta tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Bởi vì không ai xứng đáng được gọi là mẹ sự sống cho bằng Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã ban sự sống nhân loại cho Chúa Giêsu, Đấng đã nói: Tôi đến cho người ta được sống và sống dồi dào. Một đời sống thể lý tốt đẹp hơn, một đời sống tinh thần tốt đẹp hơn. Điều đó sẽ làm cho mọi người được hạnh phúc trong năm mới. Chúng ta phải chú trọng giá trị của sự sống. Những vụ tàn sát, những tai nạn xe cộ, những cuộc chiến và đói kém đã cướp đi hàng trăm ngàn cuộc sống. Sự sống đã trở thành rẻ mạt. Một cuộc nghiên cứu mới đây cho biết: trẻ em Hoa Kỳ ở vào tuổi 17 đã xem 18.000 vụ tàn sát qua truyền hình. Đồng thời trong năm mới này có biết bao nhiêu bà mẹ, thay vì cho con cái mình sự sống, thì đã giết chúng bằng những vụ phá thai. Vì thế, chúng ta cần đến một người mẹ cao siêu để chấm dứt sự tàn sát này. Bước sang năm mới, Mẹ Thiên Chúa làm người, sẵn sàng cứu giúp mọi bà mẹ để trao ban sự sống thay vì huỷ diệt nó đi. Mẹ cũng sẵn sàng xin được nơi người Con của mình một sự sống tinh thần mạnh mẽ hơn, một sự sống được tiếp tục ngay cả sau cái chết thể xác. Sự sống mà người Con của Mẹ đã ban cho chúng ta một cách dồi dào trong thánh lễ và trong các bí tích. Một sự sống ngập tràn hạnh phúc mà chúng ta sẽ cầu chúc cho nhau trong năm mới này.
Suy Niệm 4: Mẹ Thiên Chúa.
Trong một bài giảng, vị linh mục đã nêu lên câu hỏi.
- Vậy Đức Maria là ai?
Mọi người đều thinh lặng không một ai đã trả lời. Ngài lại hỏi thêm một lần nữa:
- Vậy ai có thể nói cho tôi hay Đức Maria là ai?
Sau cùng một bà già đã trả lời:
- Thưa cha, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Vị linh mục nói:
- Đúng lắm, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, nhưng tôi muốn biết ngài còn là ai nữa?
Tiếp theo là những câu trả lời khác nhau:
- Mẹ là Nữ vương thiên đàng, là nơi ẩn náu của kẻ tội lỗi…
Vị linh mục mỉm cười và bảo:
- Đúng lắm, tất cả đều đúng nhưng chưa đủ, bởi vì Đức Maria còn là Mẹ tôi nữa.
Vâng, Đức Maria là Mẹ chúng ta. Trên thế gian, chúng ta không một ai đã yêu thương chúng ta, không một ai đã sẵn sàng lắng nghe chúng ta kêu cầu, cảm thông và giúp đỡ chúng ta trong mọi hoàn cảnh như Mẹ.
Hôm nay, ngày đầu năm dương lịch, chúng ta mừng kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta phó thác năm mới này cho Mẹ để xin Me nâng đỡ chở che.
Sở dĩ chúng ta biết Đức Maria là Me Thiên Chúa, bởi vì Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Đồng thời chúng ta cũng tin rằng Chúa Giêsu vừa là người vừa là Thiên Chúa. Bởi đó, một khi đã là Mẹ của Chúa Giêsu, thì Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa làm người. Không ai được nói rằng Đức Maria đã sinh ra thiên tính của Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta chỉ đơn giản tuyên xưng rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng vừa là người lại vừa là Thiên Chúa. Từ đó chúng ta có thể đi tới một kết luận quan trọng như sau:
Vì là Mẹ của Thiên Chúa làm người cho nên Đức Maria cũng là Mẹ thật của mỗi người chúng ta. Trong lòng Giáo hội, gia đình của Thiên Chúa thì Đức Kitô là anh cả còn chúng ta là những người em. Một khi Đức Maria đã là Mẹ của Chúa Giêsu thì ngài cũng là Mẹ của chúng ta nữa.
Vậy chúng ta phải làm gì để khởi đầu cho năm mới 2008 này? Nếu không có Mẹ Maria thì không có sự sống. Vì thế, ngay cả Chúa Giêsu cũng phải có Mẹ. Nếu cuộc sống con người khởi đầu từ người mẹ, thì mỗi chặng đường đời của chúng ta., chẳng hạn một năm mới, cũng khởi đầu với Đức Maria: Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
Người mẹ đón nhận con mình mỗi buổi sáng, Đức Maria đón nhận chúng ta ngày đầu năm, Mẹ nghiêng mình trên chúng ta, nuôi dưỡng, bao bọc và chạy chữa chúng ta cùng với biết bao biểu lộ của yêu thương và trìu mến.
Người mẹ làm cho ngày mới của đứa con có một ý nghĩa, thì Đức Maria cũng làm cho năm mới của chúng ta có một ý nghĩa.
Để kết luận chúng ta hãy xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta hôm nay, ngày đầu năm mới và suốt cả những tháng ngày kế tiếp, để trong năm mới nay, chúng ta sẽ sống gắn bó với Chúa và Mẹ. Như thế, năm mới này sẽ là một năm bình an và hạnh phúc. Đó cũng là lời cầu chúc tôi xin gửi đến với anh chị em.
Suy Niệm 5: Nữ Vương Hòa Bình
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cầu nguyện cho nền hòa bình thế giới, và chúng ta chính thức bước vào năm mới 2012.
Khởi đầu thế kỷ 21, chúng ta đã được chứng giám việc khủng bố chiếm máy bay và đâm vào tòa tháp đôi tại Nữu Ước. Rồi từ đó, chiến tranh bùng nổ tại Afghanistan, tại Irak, khủng bố dường như có mặt ở khắp nơi. Và gần đây những cuộc thử hạt nhân ở Iran và Triều Tiên, đã làm cho thế giới nóng lên vì hận thù, vì chiến tranh.
Chính vì thế, trong tinh thần liên đới và ý thức rằng: Hòa bình là một hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta hãy hiệp ý cầu nguyện cho yêu thương được ngự trị, cho oán thù được tiêu tan, cho mọi người biết tha thứ và yêu thương nhau như chính bản thân mình. Tất cả những ý nguyện ấy như một âm vang của lời kinh hòa bình: Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Lời kinh này là của thánh Phanxicô Assie, một người được cả thế giới chọn làm biểu tượng của hòa bình, bởi vì ngài là một người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa. Có lẽ ai trong chúng ta cũng còn nhớ cái giai thoại sau đây:
Vì đã đem hết gia tài phân phát cho kẻ nghèo đói, nên ngài đã bị người cha đem ra tòa, đòi phải từ bỏ mọi tài sản mà gia đình muốn để lại. Không một chút do dự, Phanxicô đã trút bỏ áo quần để trả lại cho người cha như một biểu tượng của tài sản cuối cùng mà ngài nhận được từ gia đình. Và cũng từ đó, Phanxicô đã trở thành người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa.
Thế nhưng, ngài có tất cả mọi sự, bởi vì ngài có Thiên Chúa làm gia nghiệp. Một khi đã có Thiên Chúa thì ngài cũng có được niềm vui trọn vẹn. Cho nên, ngài không những có sự bình thản trong tâm hồn mà còn có sự hòa hợp với người khác và ngay cả với thiên nhiên. Hòa bình trong chính bản thân, hòa bình với tha nhân đó chính là cái lý tưởng mà ngài đã để lại cho thế giới.
Chúng ta cũng hãy chiêm ngưỡng Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Giáo hội có thói quen cử hành ngày hòa bình thế giới vào ngày đầu năm dương lịch kính Mẹ Thiên Chúa. Sở dĩ chúng ta gọi Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình, bởi vì Mẹ là người nữ tì khiêm hạ và khó nghèo của Thiên Chúa. Mẹ đã trút bỏ mọi sự để trở thành trống rỗng và rồi được chính Thiên Chúa lấp đầy.
Như thế, người xây dựng hòa bình là người được Thiên Chúa lấp đầy tâm hồn mình. Cũng như Mẹ Maria và thánh Phanxicô, chúng ta cũng được mời gọi trút bỏ mọi sự. Tinh thần nghèo khó đích thực cũng chính là một thể hiện của tinh thần hòa bình. Bởi vì, khi con người không còn màng đến bất cứ một thứ riêng tư nào, khi con người không còn muốn chiếm hữu bất cứ một thứ của cải nào, thì lúc đó con người có thể bình thản đến với Chúa và với anh em.
Hòa bình là một cuộc ra đi không ngừng và ra đi là để đến với Thiên Chúa và đến với người khác, bằng tha thứ, bằng yêu thương, bằng giúp đỡ.
Bởi vì, Như lời thiên thần đã hát vang trong đêm Giáng sinh: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Suy Niệm 6: Mẹ Thiên Chúa.
Có một chàng thanh niên sống bê tha và tội lỗi. Anh cảm thấy chán nản và tuyệt vọng... Trong cơn khủng hoảng ấy, tình cờ anh đã bước vào một ngôi nhà thờ và đến ngồi trước tượng Đức Mẹ. Anh không thuộc một lời kinh nào để cầu nguyện và anh cũng chẳng biết Đức Mẹ là ai. Vì thế anh đã thốt lên:
- Nếu Ngài quả thực hiện diện nơi đây, thì xin hãy làm cho con được tin.
Bỗng dưng như có một làn gió mát thổi vào tâm hồn và anh cảm thấy được bình an và sau đó đã làm lại cuộc đời mình.
Từ câu chuyện trên chúng ta nhận thấy Mẹ Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà còn là mẹ của mỗi người chúng ta. Mẹ hằng yêu thương, chăm sóc và giúp đỡ chúng ta.
Khi sinh Đức Kitô, thì đồng thời, Mẹ cũng sinh ra một nhân loại mới, như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai Con Ngài xuống thế, sinh làm con một người nữ và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới luật đó, hầu chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa.
Và Công đồng Vat. II đã diễn tả: qua mầu nhiệm nhập thể, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người. Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa và yêu thương bằng trái tim loài người. Sinh ra từ lòng Đức Trinh Nữ Maria, Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta, hoàn toàn giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Đức Maria là mẹ chúng ta, nên Mẹ luôn nâng đỡ bầu cử cho chúng ta trước mặt Chúa. Không biết đến Mẹ là không biết đến món quà quí giá mà Thiên Chúa đã ban tặng, đó chính là tình mẫu tử của Mẹ Maria đối với chúng ta.
Điều này khiến chúng ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với niềm hy vọng mới, với cuộc đời mới, là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại. Năm cũ đã qua rồi, năm mới như trang giấy mở rộng trước mắt chúng ta. Thật là thích hợp khi Giáo Hội chọn ngày đầu năm để mừng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Sự kiện này nhắc chúng ta nhớ đến tình mẫu tử của Me, nhớ đó chúng ta có được niềm hy vọng mới và cuộc đời mới.
Nếu chúng ta đang tìm cho mình một hướng đi trong năm mới, thiết thưởng không một hướng đi nào vừa bảo đảm lại vừa tốt đẹp cho bằng hãy chạy đến với Đức Maria. Với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có đủ khả năng để bầu cử và giúp đỡ chúng ta. Với địa vị làm mẹ chúng ta, ẹ có dư tình thương, để sẵn sàng thực hiện những điều chúng ta van xin, vì vậy chúng ta vốn thường đọc:
- Xưa nay chưa từng nghe nói có người nào chạy đến kêu xin cùng Mẹ mà Mẹ chẳng nhận lời.
Hay như thánh Bernado cũng đã bảo:
- Kêu xin Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm được lạc lối.
Bởi đó trong giây phút linh thiêng này, chúng ta hãy đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở và nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
Suy Niệm 7: Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình.
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Từ xưa, khi mừng lễ Giáng Sinh, Giáo Hội vẫn chú tâm đến Đức Maria và không ngừng chiêm ngắm khuôn mặt của Đức Mẹ bên cạnh máng cỏ Hài Nhi Giêsu.
Nhưng ngày đầu năm dương lịch hôm nay, Giáo Hội mừng kính đặc biệt Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho hoà bình thế giới.
Thưa anh chị em,
Nhìn vào hang đá, ai lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa Nhập Thể làm người, là con của Đức Maria. Thiên Chúa hằng hữu, tự mình mà có và không ai sinh ra Ngài. Nhưng nay Thiên Chúa đã sinh làm người, sinh bởi một người nữ, một người mẹ. Đức Maria đã sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Giáo Hội luôn kêu cầu Mẹ: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời”.
Trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những gì liên hệ đến Con của mình và suy đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào không tự hỏi về tương lai của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không suy nghĩ về danh “Giêsu” (Chúa Cứu) mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để gọi Con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: “Bà sẽ gọi Con Trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu vua Đavít, cha Ngài, và Ngài sẽ cai trị trong nhà Giacob đến muôn đời”. Những lời đó không đơn giản dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú. Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng.
Anh chị em thân mến,
Chính lúc một người mẹ trần gian gọi Thiên Chúa bằng con, thì trên trời các thiên thần ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa thương”. Con Thiên Chúa gọi một người nữ bằng mẹ, để tất cả những ai sinh ra bởi người nữ, dù ở địa vị nào, giai cấp nào, đều được gọi Thiên Chúa là Cha và gọi nhau là anh em. Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người để làm “ôTrưởngam giữa một đoàn em đông đúc” (Rm 8,29) và “không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì tất cả chỉ là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28).
Trong lòng Trinh Nữ Maria, Thiên Chúa và con người đã gặp lại nhau, và con người đã gặp lại con người. Đó là vinh danh Thiên Chúa trên trời. Đó cũng là hoà bình dưới đất cho loài người. Vì thế, hôm nay được chọn làm ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Hoà Bình. Chủ đề của sứ điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình năm nay (1996) là: “Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình”. Thế giới chúng ta, kể cả thế giới của các tôn giáo, là thế giới của người lớn, của những kẻ thích làm lớn. Thế giới của chúng ta là thế giới mà trẻ thơ bị xua đuổi, bị loại trừ, nhiều khi ngay từ khi chúng mới chỉ là những bào thai, và nếu như không kịp bị huỷ hoại, thì cũng bị bỏ rơi khi mới chào đời. Còn những em nào lớn lên, thì sẽ bị khai thác bóc lột, kể cả khai thác trong cái “kỹ nghệ” tội ác, đó “du lịch tình dục”.
Đức Thánh Cha đã viết: “Những gì xảy ra cho Hài Nhi Giêsu ở Bêlem cũng đang xảy ra cho các trẻ em trên khắp thế giới. Có biết bao trẻ em đang là nạn nhân của đói khổ, của chiến tranh, đang bị cha mẹ bỏ rơi, đang sống cảnh màn trời chiếu đất, đang đau khổ vì biết bao hình thức bạo động và xung đột của người lớn”.
Để có một vài con số cụ thể, chúng ta chỉ cần lắng nghe báo cáo của tổ chức Nhi Đồng Quốc Tế (UNICEF) về tình trạng trẻ em trên thế giới năm 1995 như sau: “Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 đang có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì chiến tranh, từ 4 đến 5 triệu tật nguyền, hơn 5 triệu sống trong các trại tỵ nạn, trên 12 triệu sống cảnh không nhà không cửa”. Bản báo cáo ước tính cần phải có ít nhất 34 tỷ Mỹ kim mới có thể đảm bảo các nhu cầu về dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục cho các trẻ em trên khắp thế giới.
Đức Thánh Cha kêu gọi người lớn chúng ta “Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình”. Tương lai hoà bình của trẻ em phải là một vấn đề chiến lược của thế giới, vấn đề chính sách của quốc gia. Các nhà lãnh đạo thế giới và các nhà cầm quyền quốc gia phải chịu trách nhiệm trước nhân loại và dân tộc mình về thảm trạng của các trẻ em.
Tuy nhiên, chính những người Kitô hữu cũng cần phải ý thức rằng, với tư cách là cha mẹ, là anh chị em, là người thân trong gia đình, tất cả chúng ta đều là những người trước tiên có trách nhiệm đối với con em chúng ta. Sống cho con cái, nuôi dưỡng và giáo dục chúng nên người, đó là trách nhiệm hàng đầu của bậc cha mẹ để tạo cho trẻ em một tương lai hoà bình.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta hãy suy nghĩ về tương lai hoà bình của các trẻ em như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng về những gì liên hệ đến Con của Mẹ. Mẹ suy nghĩ về Danh “Giêsu” có nghĩa là “Cứu Thế”. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người trong năm mới, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta thấy mình là anh em với nhau (x. Bđ 2), để sống yêu thương nhau, cùng nhau xây dựng tương lai hoà bình và hạnh phúc cho mọi người anh em.
Suy Niệm 8: Cưu mang và sinh hạ một thế giới mới
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hôm nay các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một con người mới.
Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là một thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá. Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng ngôi sao đến thờ lạy Chúa.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa và với nhau.
Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ, Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền hoà bình viên mãn.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước? Từ chính bạn hay từ người khác?
2. Thế giới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà?
3. Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?
Suy Niệm 9: Nhân loại mới
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ngày đầu năm mới là một ngày thiêng liêng. Ai cũng mong ước năm mới mọi sự sẽ đổi mới. Sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong cuộc sống. Nhất là được sống bình an. Các bài Sách Thánh đặc biệt bài Tin mừng hôm nay mời gọi ta hãy tìm đổi mới trong Chúa Giêsu. Chính Người sinh ra một nhân loại mới. Đó là nhân loại được chúc phúc, được cứu độ và sống trong an bình.
Đó là một nhân loại được chúc phúc. Khi Chúa Giêsu ra đời nhân loại được chúc phúc. Có nhiều dấu hiệu loan báo phúc lành của Chúa. Một làn ánh sáng từ trời soi sáng cánh đồng Bêlem. Xuất hiện muôn vàn thiên sứ hát mừng trên trời cao. Chúa Giêsu đem phúc lành của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Chúa Giêsu chính là phúc lành tuyệt hảo của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Mang lấy bản tính nhân loại, Chúa Giêsu làm cho nhân loại được chúc phúc bằng những phúc lành phong phú nhất của Thiên Chúa.
Đó là một nhân loại được cứu độ. Con trẻ được đặt tên là Giêsu. Tên Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Chúa Giêsu đi vào tận những tù ngục giam hãm để giải cứu con người. Người sinh ra làm một trẻ thơ để nâng đỡ những con người bé nhỏ. Người sinh trong cảnh thiếu thốn để nâng lên những ai nghèo hèn. Người bị bạo vương Hêrôđê săn đuổi để đứng về phía những người bị áp bức. Người sinh ra trong chuồng súc vật tăm tối để trân trọng những ai bị loại trừ. Người là Con Thiên Chúa xuống thế làm người để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Thật là một cuộc đổi mới không ai có thể ngờ tới.
Đó là một nhân loại sống trong hòa bình. Đêm Chúa Giáng Sinh trời đất giao hòa. Trời Bêlem sáng lên. Thiên nhiên trở nên xinh đẹp. Các thiên thần làm đầy không gian bằng những bài ca tuyệt diệu của cõi thiên đàng. Các mục đồng vui tươi hớn hở loan truyền tin vui. Cả một bầu khí hòa bình tỏa ra chung quanh Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến tái lập trật tự. Trật tự đó là con người và vạn vật vâng phục Thiên Chúa. Luật lệ phát xuất từ con người luôn gây ra tranh chấp. Vì con người chỉ nghĩ đến tư lợi hạn hẹp của riêng mình. Mọi luật lệ muốn công bằng và lâu bền phải qui về Thiên Chúa. Thiên Chúa ban hòa bình thực sự. Hòa bình trong công lý. Công lý là những người bé nhỏ, yếu ớt phải được tôn trọng. Chúa Giêsu tự nguyện làm trẻ nhỏ sơ sinh chính là một nền hòa bình trong vâng phục Thiên Chúa và là công lý kêu gọi kính trọng bảo vệ những kẻ yếu hèn.
Hòa bình như thế không phải là một trật tự im lìm. Trật tự im lìm chỉ có trong nghĩa địa hay nhà tù. Đó là trật tự chết chóc, tàn lụi. Trái lại hòa bình là một năng động, là một sức sống, là sự phấn đấu không ngừng.
Ta hãy chiêm ngắm tấm gương của các mục đồng. Các mục đồng đã biết lắng nghe sứ điệp hòa bình dù giữa đêm hôm mùa đông đang say ngủ. Nghe biết sứ điệp hòa bình rồi, các mục đồng vội vã đi tìm Chúa Giêsu là nguồn mạch hòa bình, dù phải bỏ giấc ngủ, dù phải đi ngoài trời lạnh giá. Sau khi gặp Chúa, các mục đồng ra đi loan truyền sứ địêp hòa bình cho mọi người. Đó chính là những phấn đấu không ngừng cho hòa bình.
Chúng ta đặt năm mới này vào tay Đức Mẹ. Xưa Đức Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế mở đầu một nhân loại mới, nay xin Đức Mẹ cũng cho năm mới này được chúc phúc, được cứu độ và được hòa bình. Chúng ta cũng cầu nguyện cho mọi người biết noi gương mục đồng, luôn lắng nghe sứ điệp hòa bình, luôn phấn đấu đi tìm đến nguồn mạch hòa bình và luôn phấn khởi loan tin mừng hòa bình.
Lạy Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
Suy Niệm 10: Nữ Vương Hoà Bình
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một bà mẹ có người con trai bỏ mình trong chiến tranh. Bà không thể nào quên được người con đó. Nỗi sầu thương cứ mãi mãi vương vấn tâm hồn bà. Bà luôn cầu nguyện để được gặp lại con, dù chỉ trong năm phút.
Một hôm, Chúa sai thiên thần báo cho bà chuẩn bị gặp lại con. Những giọt lệ bỗng biến thành niềm vui, bà thúc giục thiên thần cho bà gặp lại con ngay. Nhưng thiên thần bảo bà:
- Bà hãy bình tĩnh. Con bà đã là một người trưởng thành. Con bà đã chết 30 năm nay, bà muốn gặp nó vào tuổi nào: như một người lính chiến ngoài mặt trận, hoặc như một đứa bé chạy nhảy trên sân trường, hay như một em bé nép mình trong lòng bà?
Không do dự, bà muốn được gặp lại con như một đứa trẻ nhỏ đến xin lỗi bà vì đã không ngoan, một đứa bé yếu đuối, nước mắt chảy ràn rụa chạy đến và ngả vào lòng bà. Đó là hình ảnh mà bà không thể nào quên được về đứa con của bà.
Anh chị em thân mến,
Trong mùa Giáng Sinh, chúng ta có dịp chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ. Chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Giêsu mà quên Đức Maria bên cạnh Ngài. Chào đời như một hài nhi, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài cần có một người mẹ để được cưu mang, được sinh ra, được lớn lên như một con người. Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa lễ Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Chủ đề của ngày Hoà Bình Thế Giới năm nay cũng đề cập đến vai trò của người phụ nữ, người mẹ: “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình”.
Nhìn vào hang đá, ai lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa nhập thể làm người, là con của Đức Maria. Trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Đức Maria đã có một vai trò đặc biệt, vì Người được chọn làm Mẹ Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa. Thiên Chúa hằng hữu, tự hữu, không ai sinh ra Thiên Chúa. Nhưng nay, Thiên Chúa đã sinh ra làm người. Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật, nên Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa. Ở những thế Kỷ III-V, có những lạc giáo phủ nhận tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, khiến phụng vụ nhấn mạnh hơn đến tước hiệu nầy.
Chúng ta đừng sợ tước hiệu nầy xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả. Ngài đã chấp nhận giáng trần để trở nên hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhân mọi luật lệ sinh sống, đau khổ và tử nạn, thì sao ta lại sợ nói phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của một người mẹ? Ngài đã gọi chúng ta là anh em và muốn là bạn hữu của mọi người, và chúng ta lấy đó làm vinh dự, thì chúng ta càng không có lý khi không muốn tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Suy nghĩ kỹ, chúng ta chỉ có thể thấy đây là một vinh dự lớn lao cho một người trong loài người chúng ta: Mẹ Maria. Chúng ta phải hân hoan chúc tụng Mẹ là Đấng đầy ơn phúc: “Thánh Maria, Đức Mẹ chúa Trời”.
Trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những điều về Con và suy đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào nào không tự hỏi về tương lai của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về việc các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không suy nghĩ về danh “Giêsu” mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để gọi con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: “Bà sẽ gọi con trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít, Cha Ngài và Ngài sẽ cai trị trong nhà Giacóp đến muôn đời”. Những lời đó không đơn giản, dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú, Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng.
Hôm nay, các mục đồng lại kể thêm về các lời của thiên sứ. Hài Nhi trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế, các thiên thần đã xướng ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Như vậy, Giêsu, Con của Đức Maria thực hiện lời tiên tri hứa cùng nhà Đavít. Ngài sẽ đem lại hoà bình cho Dân Chúa và vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Maria hôm nay gẫm suy những điều ấy. Đấng Cứu Thế đem lại hoà bình, và Vua Hoà Bình. Nhưng tại sao trên thế giới hiện nay vẫn còn chiến tranh, tranh chấp, xung đột? Vì vậy, Đức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta hằng năm vào ngày đầu năm Dương lịch nầy hãy suy nghĩ và cầu nguyện cho hoà bình thế giới. “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình”, đó là chủ đề được Đức Thánh Cha chọn cho ngày Hoà Bình Thế Giới năm 1995. Với chủ đề nầy, người ta muốn trước tiên công nhận vai trò không thể thiếu mà người phụ nữ có thể đóng góp cho hoà bình, như qua việc thường xuyên giáo dục giới trẻ, hay qua sự chống đối những hoàn cảnh bạo lực thường xảy ra. Qua chủ đề nầy, Đức Giáo Hoàng cũng ước ao vọng lên một lời mời cấp bách, thôi thúc các chị em phụ nữ này càng trở thành những người xây dựng không mệt mỏi trong khuôn khổ gia đình mình cũng như trong các tổ chức xã hội.
Thưa anh chị em,
Đất nước chúng ta đã thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn nhiệm vụ phải suy nghĩ về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói còn gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, đổ vỡ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là khí thở của mọi người trên thế giới. Chúng ta đóng góp được gì? Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Người suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân (X.Bđ.1) và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau (X. Bđ.2), để sống hoà thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình. Yêu hoà nình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. Hoà bình đòi phải phấn đấu và đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong này Thế Giới Hoà Bình hôm nay và là ngày lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho chúng ta, cho các gia đình, cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
Suy Niệm 11: Lễ Mẹ Thiên Chúa
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Đối với Giáo Hội Chính Thống, tước hiệu nổi bật nhất của Mẹ là "Mẹ Thiên Chúa", trong khi đó đối với Giáo Hội Công Giáo, Mẹ Maria trước tiên là Mẹ của loài người.
Hai khía cạnh này của Mẹ Maria được làm nổi bật qua phụng vụ và nghệ thuật của hai Giáo Hội. Một bên những bức ảnh Icon của Giáo Hội Chính Thộng làm cho người ta nghĩ đến Đức Mẹ như một vị thần ngự trị trên Thiên Quốc hơn là người phàm. Đàng khác, trong Giáo Hội Công Giáo các bức tranh và tượng ảnh về Mẹ Maria xem ra nhấn mạnh đến khía cạnh nhân loại của Mẹ. Khía cạnh nhân loại này thường được chọn làm chân dung của Đức Mẹ. Như vậy, trong việc tôn kính chính thức của Giáo Hội cũng như trong tâm tình của người bình dân, tính siêu việt lẫn nhân trần của Mẹ Maria đều được nêu bật.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trân trọng cả hai truyền thống tôn kính này đối với Mẹ Maria. Ngài kêu gọi Âu Châu hãy thở bằng hai buồng phổi, một của Đông Phương, một của Tây Phương. Một sự dung hòa như thế mới có thể bảo tồn được sự tôn kính đúng đắn dành cho Mẹ Chúa Giêsu.
Trong Phúc Âm thánh Luca, thánh sử nói về các mục đồng như sau: "Họ liền hối hả ra đi, đến nơi họ gặp thấy bà Maria cùng với Giuse và Hài Nhi được bọc trong khăn, đặt trong máng cỏ" (Lc 2,16). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh thì đây là một cuộc cách mạng thinh lặng. Thật thế, lần đầu tiên trong Kinh Thánh người ta thấy tên của người Mẹ đặt trước tên của người Cha. Đây không phải là một đoạn tuyệt với truyền thống "trọng nam khinh nữ" của người Do Thái, nhưng tác giả muốn sắp xếp như thế để nói lên tầm quan trọng của người phụ nữ là Mẹ Maria.
Trong Phúc Âm (Mc 10,14), thánh sử ghi lại thái độ của Chúa Giêsu đối với trẻ em, Chúa Giêsu nói như sau: "Hãy để trẻ em đến với Ta và đừng xua đuổi chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai nên giống như chúng. Ta bảo các ngươi, ai không đón nhận Nước Trời như một trẻ em thì sẽ không được vào trong Nước ấy".
Nhưng nên giống như trẻ em là gì nếu không phải là quay trở lại với Mẹ, tín thác nơi Mẹ. Một số nhà thần bí trong Giáo Hội xem đây như là một lời khuyến dụ kín đáo của Chúa Giêsu. Phải chăng Ngài chẳng muốn chúng ta tìm đến với Đấng vì là Mẹ của Con Người, cũng là Mẹ của tất cả mọi người. Dù sao một trong những nghịch lý lớn nhất mà Tin Mừng đề ra là tiến đến trong đời sống thiêng liêng không phải là luật tiến hóa mà là luật của cải hóa.
Các cuộc Đức Mẹ hiện ra của thời hiện đại đã bắt đầu vào năm 1830, tại một cộng đoàn của Dòng Bác Ái Vinh Sơn tại đường Du Bac ở Paris Pháp Quốc, Đức Mẹ đã hiện ra cho thánh nữ Catherine Labouré và ủy thác cho thánh nữ quảng bá việc tôn kính ảnh Đức Mẹ hay làm phép lạ. Lời kinh được truyền phải đọc trong việc tôn kính ảnh Đức Mẹ có nội dung như sau: "Lạy Đức Maria, là Đấng đã được cưu mang mà không vướng mắc tội lỗi, xin cầu cho chúng con là những kẻ có tội chạy đến cùng Mẹ". Nhờ việc này mà giúp cho Giáo Hội định tín về Đức Mẹ Vô Nhiễm vào năm 1854. Thật ra, đây cũng chỉ là một tước hiệu mà Đức Mẹ đã tự xưng khi hiện ra cho Bernadetta ở hang đá Lộ Đức nước Pháp vào năm 1858.
Thật thế, nếu Mẹ Maria là tạo vật duy nhất trong nhân loại đã được cưu mang mà không mang tỳ vết của tội lỗi, bởi vì tội nguyên tổ là một thực tế chứ không phải là một huyền thoại. Vào thời ấy, cùng với những khám phá và tiến bộ trong lãnh vực khoa học, con người thời đại xác tín một cách kiêu hãnh rằng: khoa học, văn hóa và kỹ thuật rồi ra sẽ biến thế giới thành một thứ thiên đàng trần gian, như vậy nó sẽ khử trừ mọi ý niệm về tội Nguyên Tổ. Với khả năng vô tận của mình, rồi ra con người sẽ tự cứu lấy mình chứ không cần phải trông chờ có một đấng cứu thế nào cả.
Thế nhưng, lịch sử đã diễn ra không như con người của thời đại mơ tưởng, thứ nhân bản chủ nghĩa chối bỏ cái siêu việt của con người đều dẫn đến sự tự hủy cho con người. Hai trận thế chiến là sự hiện hữu hùng hồn nhất về sự hủy hoại con người.
Như vậy, sứ điệp mà Đức Mẹ muốn nhắn gởi cho con người thời đại qua các cuộc hiện ra kể từ năm 1830, trước hết là một sứ điệp về chính tội lỗi của con người. Vì thế, việc tôn kính Đức Mẹ có giá trị giải phóng con người. Dù vậy, Giáo Hội không bao giờ áp đặt việc tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa, nhưng để tùy cảm xúc và sáng kiến của mỗi người tín hữu. Dĩ nhiên, Đức Giáo Hoàng, hàng Giáo Phẩm, các tác giả về tu đức có thể khuyên nhủ các giáo hữu chạy đến với Mẹ Thiên Chúa bằng nhiều hình thức tôn kính khác nhau.
Dựa trên kinh nghiệm ngàn đời của mình, Giáo Hội khuyên các tín hữu tôn kính Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội không bao giờ buộc phải tôn kính Mẹ Maria, sẽ không bao giờ Giáo Hội buộc tôn kính các lần hiện ra của Đức Mẹ, cho dù Giáo Hội công nhận các việc hiện ra đó. Giáo Hội sẽ không bao giờ áp đặt các việc tôn kính như lần chuỗi, đi hành hương như là việc làm cần thiết cho ơn cứu rỗi. Giáo Hội sẽ không bao giờ xem là lạc đạo hay có tội khi một tín hữu không tham dự cuộc rước kiệu Đức Mẹ, hay một cuộc hành hương đến nơi Đức Mẹ hiện ra. Giáo Hội sẽ không bao giờ chối bỏ ơn cứu rỗi mà các Giáo Hội khác xây dựng trên niềm tin Kitô của họ, như trong các Giáo Hội Tin Lành.
Như vậy, việc tôn kính đối với Mẹ Maria không được nhìn theo phạm trù cần thiết mà là theo phạm trù tự do, không thuộc về lề luật mà thuộc về tình yêu. Chính tính cách tự do ấy lại càng làm nổi bật sự thu hút và những ân huệ đặc biệt của lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa xem ra không muốn áp đặt lòng tôn kính dành cho Mẹ, bởi vì Mẹ vốn là người sống âm thầm, Mẹ cất giữ mọi sự và suy niệm trong lòng. Thánh Luca đã hai lần ghi lại như thế trong cùng một chương. Mẹ quả thật nói ít, hay đúng hơn Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ, nhưng nhìn cho kỹ thì chính Mẹ lại là người gợi hứng cho Kinh Thánh.
Dĩ nhiên, với sự kín đáo và thinh lặng của Mẹ, các nhà chuyên môn Kinh Thánh đều đồng ý rằng: Các chương nói về đời tư Chúa Giêsu kể từ khi Chúa Giêsu sinh ra thì chính Mẹ là người duy nhất đã biết thời thơ ấu của Chúa Giêsu và kể lại cho cộng đồng tiên khởi. Nhưng vẫn thái độ kín đáo và thinh lặng cố hữu, Mẹ luôn đứng ở đàng sau, chỉ có những ai biết tìm đến và lắng nghe mới có thể nhận ra được sự hiện diện và tầm quan trọng của Mẹ trong Giáo Hội. Đó chính là ý nghĩa của việc tôn kính Mẹ Maria mà các tín hữu Kitô đã dành cho Mẹ ngay từ thời Giáo Hội sơ khai.
Suy Niệm 12: Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
(Bài giảng của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, 01.01.2010)
Trong ngày đầu năm mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích thực của chúng ta! Hướng về tất cả anh chị em đang qui tụ nơi đây, đại diện cho mọi dân tộc trên thế giới, đại diện cho Giáo hội Rôma và Giáo hội hoàn vũ, đại diện cho các linh mục và tín hữu, cũng như tất cả mọi người đang hiệp thông với chúng ta qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình, tôi muốn lặp lại lời cầu chúc của Cựu Ước: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em (x. Ds 6,26). Dưới ánh sáng Lời Chúa, hôm nay, tôi muốn triển khai đề tài: dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người, đề tài này cống hiến cho chúng ta chìa khóa để giải thích những vấn nạn hòa bình trên thế giới.
Trong bài đọc I – trích từ sách Dân số và trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta đã nghe một vài cách diễn tả ẩn dụ về dung mạo của Thiên Chúa: “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em (Ds 6,25); “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 66/67,2-3). Dung mạo diễn tả rõ ràng nhất về con người, qua đó tình cảm, suy nghĩ và những ý định sâu kín trong tâm hồn được bày tỏ. Thiên Chúa vô hình, theo bản tính của Ngài, nhưng Kinh Thánh vẫn ‘gán’ cho Ngài một “dung mạo”. Trong Kinh Thánh, kiểu nói “tỏ dung nhan” diễn tả lòng nhân từ của Thiên Chúa, trong khi cách nói Thiên Chúa “ẩn mặt” ám chỉ Thiên Chúa nổi giận. Sách Xuất Hành nói: “Đức Chúa đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11), Ngài hứa sẽ luôn luôn ở bên ông: “Dung nhan của Ta sẽ đi cùng ngươi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 33,14). Các Thánh Vịnh diễn tả, các tín hữu là những người tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa (x. Tv 26/27,8; 104/105,4). Trong cử hành phượng tự, các Thánh Vịnh diễn tả nỗi khát khao của con người được chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa (Tv 42,3), “người chính trực” sẽ được “chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa” (Tv 10/11,7).
Có thể đọc toàn bộ Thánh Kinh như là một quá trình tiệm tiến, qua đó Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài ra cho con người và Ngài đã bày tỏ một cách trọn vẹn trong Chúa Giêsu Kitô. “Khi đến thời viên mãn – trong bài đọc II thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta – Thiên Chúa đã sai Con của Ngài (Gl 4,4) và ngay lập tức thánh Tông Đồ nói thêm “sinh bởi người phụ nữ và sinh dưới chế độ lề luật”. Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria. Vì lý do đó, chúng ta tôn kính Đức Maria với tước hiệu cao trọng nhất “Mẹ Thiên Chúa”. Đức Maria đã gìn giữ trong tâm hồn mầu nhiệm thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và Mẹ là người đầu tiên được chiêm ngưỡng dung mạo Thiên Chúa, Đấng đã trở thành người phàm trong lòng Mẹ. Người mẹ có mối tương quan đặc biệt, duy nhất và đôi khi độc quyền với đứa trẻ mới được sinh ra. Dung mạo đầu tiên mà đứa trẻ nhìn thấy là người mẹ, cái nhìn này quyết định mối tương quan của đứa trẻ với cuộc sống, với chính nó, với người khác và với Thiên Chúa. Cái nhìn này cũng quyết định tại sao đứa trẻ có thể trở thành “người con của hòa bình” (Lc 10,6).
Trong truyền thống Bizantinô, giữa nhiều bức họa Đức Trinh Nữ Maria, có một bức họa được gọi là Đức Maria “ngọt ngào, êm dịu”, trong bức họa đó gương mặt của Hài Nhi Giêsu áp sát gương mặt Đức Maria. Hài Nhi Giêsu nhìn Mẹ Maria. Đối với chúng ta, bức họa này qui chiếu về Đức Maria, người đã cầu nguyện liên lỉ và hằng tuân giữ Lời Chúa, qui chiếu về sự “êm ái, ngọt ngào” của Thiên Chúa từ trời cao đã giáng trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên tay. Trong bức họa này, chúng ta có thể chiêm ngắm một vài nét phác họa nào đó về chính Thiên Chúa: dấu chỉ tình yêu vô biên, vì tình yêu đó Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Nhưng bức họa này cũng cho chúng ta biết, trong Đức Maria, dung mạo của Giáo hội chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Kitô cho chúng ta và cho toàn thế giới; qua Đức Maria, Giáo hội gửi đến mỗi người Tin Mừng: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con cái” (Gl 4,7) – như chúng ta nghe đọc trong thư của thánh Phaolô.
Anh em Giám mục, Linh mục, quí vị Đại sứ và các bạn thân mến! Suy tư về mầu nhiệm dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người là con đường ưu tiên dẫn đến hòa bình. Thật vậy, con đường này khởi đầu bằng cái nhìn tôn trọng con người, nhìn nhận phẩm giá của người khác dù người đó thuộc bất cứ mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ hay tôn giáo nào. Nhưng ai, nếu không phải là Thiên Chúa có khả năng bảo đảm một cách “sâu xa nhất” dung mạo của con người? Thật ra, chỉ khi nào chúng ta có Thiên Chúa trong tâm hồn, chúng ta mới có thể đón nhận dung mạo của người anh em xứng hợp với phẩm giá của họ, nghĩa là không phải như phương tiện nhưng như là mục đích, không phải như đối thủ hay kẻ thù nhưng như một “cái tôi” khác của chính tôi, một khía cạnh không cùng của mầu nhiệm con người. Nhận thức của chúng ta về thế giới, đặc biệt về anh chị em đồng loại, căn bản phụ thuộc vào sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta. Đây là một sự “cộng hưởng”: Ai có tâm hồn vô cảm, người ấy không thể nhận ra những giá trị cao cả nơi anh chị em của mình. Trái lại, nếu chúng ta cư ngụ trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Ngài trong thiên nhiên, đặc biệt nơi anh chị em, mặc dù, đôi khi dung mạo của con người đã bị méo mó do sự dữ, do đời sống khó khăn, khiến chúng ta không thể nhận ra sự “hiển dung” của Thiên Chúa nơi dung mạo anh chị em của mình. Hơn nữa, để hiểu nhau và tôn trọng nhau như là anh chị em, chúng ta cần phải liên hệ đến dung mạo của Thiên Chúa, cha chung của tất cả chúng ta, Đấng đã yêu mến tất cả chúng ta ngay cả khi chúng ta còn nhiều sai lỗi và bất toàn.
Khi còn nhỏ tuổi, điều quan trọng đối với trẻ em là được giáo dục biết tôn trọng người khác, ngay cả sự khác biệt của họ. Trong các lớp học phổ thông qui tụ trẻ em đến từ nhiều quốc gia, ngay cả trong các lớp học mà các em cùng chung một quốc gia, dung mạo của các em như là một lời tiên báo về viễn ảnh một nhân loại mà chúng ta gọi là: gia đình của mọi gia đình, hay gia đình nhân loại. Những em nhỏ tuổi hơn trong số những em này lại là những em gợi lên trong chúng ta mối tình huynh đệ ngọt ngào, êm dịu nhất dù giữa các em có sự khác biệt, chúng khóc cười như nhau, chúng có nhu cầu như nhau, chúng liên kết với nhau một cách tự nhiên, chúng chơi chung với nhau… Dung mạo của trẻ thơ như là một phản ánh dự phóng của Thiên Chúa đối với thế giới. Tại sao chúng ta làm mất đi nụ cười của chúng? Tại sao chúng ta làm vẩn đục trái tim của chúng? Rất tiếc, bức họa Đức Maria “êm dịu” đang hiện diện giữa hình ảnh của biết bao nhiêu trẻ em cũng như mẹ của các em đang đau khổ vì chiến tranh và bạo lực. Họ bị biến thành những người lưu vong, tị nạn, bị bó buộc phải di cư. Dung mạo của họ bị hủy hoại vì đói khát và bệnh tật, bị biến dạng vì đau khổ và thất vọng. Dung mạo của các trẻ em vô tội là hồi chuông báo động không lời đối với trách nhiệm của chúng ta. Đối diện với hoàn cảnh của trẻ em vô phương tự vệ, tất cả những lý lẽ sai trái biện minh cho chiến tranh và bạo lực không có lý do đứng vững. Chúng ta phải xây dựng hòa bình bằng cách loại bỏ mọi loại vũ khí, cùng nhau xây dựng một thế giới xứng hợp hơn với nhân phẩm con người.
Trong sứ điệp của tôi nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ XLIII: “Nếu bạn muốn xây dựng hòa bình, bạn hãy bảo tồn thiên nhiên”, sứ điệp đặt trọng tâm trên phương diện dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người. Thật vậy, chúng ta có thể khẳng định, con người có khả năng tôn trọng thiên nhiên bằng cách thấu hiểu thiên nhiên, nếu không con người sẽ không tôn trọng chính mình và những sự vật chung quanh mình, không tôn trọng môi trường sống và không tôn trọng thiên nhiên. Ai biết nhận ra trong vũ trụ, những phản ánh dung mạo vô hình của Đấng Tạo Hóa, người đó sẽ yêu mến thiên nhiên và nhận ra được những giá trị biểu tượng của chúng. Đặc biệt, trong các Thánh Vịnh, chứa đựng những chứng từ rất phong phú về mối tương quan giữa con người với thiên nhiên: trời đất, biển khơi, núi đồi, sông ngòi, sinh vật….Tác giả thánh vịnh đã thốt lên: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104/103,24).
Đặc biệt, phương diện “dung mạo” mời gọi chúng ta dừng lại trên đề tài mà trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới, tôi đã gọi là “môi sinh của nhân loại”. Có một mối liên hệ mật thiết giữa việc tôn trọng con người và bảo tồn thiên nhiên. “Trách nhiệm đối với thiên nhiên bắt nguồn từ trách nhiệm đối với từng người và đối với toàn thể nhân loại” (số 12). Nếu con người không được tôn trọng, môi trường sống của con người cũng không được tôn trọng; nếu văn hóa hướng đến chủ nghĩa hư vô, nếu không đề ra những chương trình cụ hành động cụ thể, nếu như không thực hiện những chương trình đã đề ra, thiên nhiên sẽ bị hủy hoại. Thật vậy, có một mối liên hệ hỗ tương giữa dung mạo của Thiên Chúa và “dung mạo” của môi sinh: “Khi môi sinh của nhân loại được tôn trọng trong đời sống xã hội, môi trường sinh thái được bảo tồn” (nt; Bác Ái Trong Chân Lý, s. 51). Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giáo dục về môi sinh, cũng như thúc đẩy truyền thông một cách sâu rộng hơn về “trách nhiệm đối với môi sinh”, đặt nền tảng trên việc tôn trọng con người, quyền lợi và những nghĩa vụ căn bản của họ. Chỉ có như thế, nỗ lực đối với môi sinh mới có thể thực sự mang lại hòa bình và xây dựng hòa bình.
Anh chị em thân mến, trong mùa Giáng sinh, chúng ta nghe một thánh vịnh, giữa nhiều thánh vịnh khác, diễn tả việc Chúa đến đã biến đổi thiên nhiên và khai mở một lễ hội của vũ trụ. Thánh vịnh này khơi mào với lời mời gọi toàn thể vũ trụ hãy dâng lời ca ngợi Chúa: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu” (Tv 95/96,1). Nhưng có một điều chắc chắn, lời kêu gọi này hướng đến niềm vui của toàn thể nhân loại: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ, hỡi cây cối rừng xanh (Tv 95/96,11-12). Ngày lễ của đức tin trở thành ngày lễ của con người và của thiên nhiên. Lễ giáng sinh diễn tả ý nghĩa đó, qua việc trang trí cây cối, đường xá, nhà cửa. Tất cả trở nên rực rỡ vì Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta. Đức Trinh Nữ Maria tỏ Hài Nhi Giêsu cho các mục đồng đang vui mừng, hân hoan ca tụng Thiên Chúa (x. Lc 2,20). Giáo hội tiếp tục giới thiệu mầu nhiệm đó cho con người mọi thời, bày tỏ cho họ dung mạo của Thiên Chúa, với ân phúc của Ngài, họ có thể tiến bước trên con đường hòa bình.
+ Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
Suy Niệm 13: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”
(Lm. Tạ Duy Tuyền)
Mỗi khi đọc kinh kính mừng, chúng ta đều thưa lên cùng Mẹ: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Khi chúng ta thưa cùng Mẹ điều đó, là chúng ta ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình thường hay sa đi ngã lại trong những lầm lỗi tội lỗi. Đồng thời cũng nói lên sự phó thác cậy trông nơi Mẹ, là Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ chúng ta.
Vâng, khi nhập thể làm người Chúa Giê-su cũng được sinh ra từ một người mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa Giê-su dường như luôn có bóng dáng của mẹ hiện diện để khích lệ, an ủi, nhất là trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹ đã ở bên Chúa, cùng hiệp thông trong đau khổ với Chúa để cứu độ trần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống trong tình mẫu tử của Mẹ, Chúa Giê-su đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa nói với Gioan: “Đây là Mẹ của con”, và thánh kinh đã ghi lại: “kể từ lúc đó, người môn đệ Chúa yêu đã đón Mẹ về nhà của mình”.
Thánh Gioan đã đại diện cho nhân loại để nhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Từ nay Mẹ sẽ tiếp tục nâng đỡ chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục yêu thương chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta để chăm sóc, lo lắng và chở che cuộc đời chúng ta. Chúng ta có thể cảm nghiệm về tình Mẹ Thiên quốc qua hình ảnh người mẹ trần thế. Mẹ trần thế yêu thương con đến nỗi dám đánh mất chính mình cho con được lớn lên thế nào, thì người mẹ thiên quốc cũng lo cái lo của con cái dưới thế, cũng đau vời đau đau của nhân loại, cũng sẵn sàng làm tất cả đế cứu vớt nhân loại lầm than. Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc lòng bài ca dao “Con cò ăn đêm” mà các bà mẹ thường hay hát ru con:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi vào
Tôi có lòng nào ông hãy xào măng
Có xào thì xào nước trong
Đừng xào nước đục đau lòng cò con”
Bài thơ thật ngắn gọn nhưng diễn tả về tình yêu của một người mẹ đơn côi, lặn lội nơi bến chợ, bất chấp tất cả khó khăn cực nhọc để kiếm tiền nuôi con, kể cả việc phải đi ăn đêm. Nếu số phận có đun rủi bà phải rơi xuống hố sâu lầm lỗi, bà sẵn sàng chịu mọi sự trừng phạt miễn là ông trời hãy thương lấy đàn con, gìn giữ nó được sống trong danh dự mà đoạn kết đã diễn tả: “Đừng xào nước đục đau lòng cò con”. Nghĩa là người mẹ sẵn sàng chịu mọi oan ức, mọi niềm đắng cay, nhưng miễn sao con của bà đừng bị người đời trừng phạt bởi lầm lỗi của bà, đừng bị người đời khinh chê vì những đoạn trường đắng cay của mẹ.
Tình yêu của người mẹ là thế! Bà sẵn sàng hy sinh tất cả miền là đoàn con được hạnh phúc. Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ là Đức Maria, Mẹ của Chúa Giê-su đã được ban cho chúng ta qua thánh Gioan. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết đón Mẹ về nhà cuộc đời chúng ta, để chia sẻ những vui buồn trong gia đình chúng ta. Ước gì chúng ta biết trân trọng gìn giữ Mẹ như bảo ngọc châu báu mà Chúa đã ban cho chúng ta, đừng để mất Mẹ, vì mất Mẹ là mất cả bầu trời. Ước gì mỗi người chúng ta biết tin tưởng phó dâng cuộc sống gia đình của mình cho Mẹ và biết dành một vài giây phút trong ngày để thưa lên cùng Mẹ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa cầu cho chúng con hôm nay và trong giờ lâm tử. Amen.
Suy Niệm 14: Lễ Mẹ Thiên Chúa
Ðối với Giáo Hội Chính Thống, tước hiệu nổi bật nhất của Mẹ là "Mẹ Thiên Chúa", trong khi đó đối với Giáo Hội Công Giáo, Mẹ Maria trước tiên là Mẹ của loài người.
Hai khía cạnh này của Mẹ Maria được làm nổi bật qua phụng vụ và nghệ thuật của hai Giáo Hội. Một bên những bức ảnh Icon của Giáo Hội Chính Thộng làm cho người ta nghĩ đến Ðức Mẹ như một vị thần ngự trị trên Thiên Quốc hơn là người phàm. Ðàng khác, trong Giáo Hội Công Giáo các bức tranh và tượng ảnh về Mẹ Maria xem ra nhấn mạnh đến khía cạnh nhân loại của Mẹ. Khía cạnh nhân loại này thường được chọn làm chân dung của Ðức Mẹ. Như vậy, trong việc tôn kính chính thức của Giáo Hội cũng như trong tâm tình của người bình dân, tính siêu việt lẫn nhân trần của Mẹ Maria đều được nêu bật.
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trân trọng cả hai truyền thống tôn kính này đối với Mẹ Maria. Ngài kêu gọi Âu Châu hãy thở bằng hai buồng phổi, một của Ðông Phương, một của Tây Phương. Một sự dung hòa như thế mới có thể bảo tồn được sự tôn kính đúng đắn dành cho Mẹ Chúa Giêsu.
Trong Phúc Âm thánh Luca, thánh sử nói về các mục đồng như sau: "Họ liền hối hả ra đi, đến nơi họ gặp thấy bà Maria cùng với Giuse và Hài Nhi được bọc trong khăn, đặt trong máng cỏ" (Lc 2,16). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh thì đây là một cuộc cách mạng thinh lặng. Thật thế, lần đầu tiên trong Kinh Thánh người ta thấy tên của người Mẹ đặt trước tên của người Cha. Ðây không phải là một đoạn tuyệt với truyền thống "trọng nam khinh nữ" của người Do Thái, nhưng tác giả muốn sắp xếp như thế để nói lên tầm quan trọng của người phụ nữ là Mẹ Maria.
Trong Phúc Âm (Mc 10,14), thánh sử ghi lại thái độ của Chúa Giêsu đối với trẻ em, Chúa Giêsu nói như sau: "Hãy để trẻ em đến với Ta và đừng xua đuổi chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai nên giống như chúng. Ta bảo các ngươi, ai không đón nhận Nước Trời như một trẻ em thì sẽ không được vào trong Nước ấy".
Nhưng nên giống như trẻ em là gì nếu không phải là quay trở lại với Mẹ, tín thác nơi Mẹ. Một số nhà thần bí trong Giáo Hội xem đây như là một lời khuyến dụ kín đáo của Chúa Giêsu. Phải chăng Ngài chẳng muốn chúng ta tìm đến với Ðấng vì là Mẹ của Con Người, cũng là Mẹ của tất cả mọi người. Dù sao một trong những nghịch lý lớn nhất mà Tin Mừng đề ra là tiến đến trong đời sống thiêng liêng không phải là luật tiến hóa mà là luật của cải hóa.
Các cuộc Ðức Mẹ hiện ra của thời hiện đại đã bắt đầu vào năm 1830, tại một cộng đoàn của Dòng Bác Ái Vinh Sơn tại đường Du Bac ở Paris Pháp Quốc, Ðức Mẹ đã hiện ra cho thánh nữ Catherine Labouré và ủy thác cho thánh nữ quảng bá việc tôn kính ảnh Ðức Mẹ hay làm phép lạ. Lời kinh được truyền phải đọc trong việc tôn kính ảnh Ðức Mẹ có nội dung như sau: "Lạy Ðức Maria, là Ðấng đã được cưu mang mà không vướng mắc tội lỗi, xin cầu cho chúng con là những kẻ có tội chạy đến cùng Mẹ". Nhờ việc này mà giúp cho Giáo Hội định tín về Ðức Mẹ Vô Nhiễm vào năm 1854. Thật ra, đây cũng chỉ là một tước hiệu mà Ðức Mẹ đã tự xưng khi hiện ra cho Bernadetta ở hang đá Lộ Ðức nước Pháp vào năm 1858.
Thật thế, nếu Mẹ Maria là tạo vật duy nhất trong nhân loại đã được cưu mang mà không mang tỳ vết của tội lỗi, bởi vì tội nguyên tổ là một thực tế chứ không phải là một huyền thoại. Vào thời ấy, cùng với những khám phá và tiến bộ trong lãnh vực khoa học, con người thời đại xác tín một cách kiêu hãnh rằng: khoa học, văn hóa và kỹ thuật rồi ra sẽ biến thế giới thành một thứ thiên đàng trần gian, như vậy nó sẽ khử trừ mọi ý niệm về tội Nguyên Tổ. Với khả năng vô tận của mình, rồi ra con người sẽ tự cứu lấy mình chứ không cần phải trông chờ có một đấng cứu thế nào cả.
Thế nhưng, lịch sử đã diễn ra không như con người của thời đại mơ tưởng, thứ nhân bản chủ nghĩa chối bỏ cái siêu việt của con người đều dẫn đến sự tự hủy cho con người. Hai trận thế chiến là sự hiện hữu hùng hồn nhất về sự hủy hoại con người.
Như vậy, sứ điệp mà Ðức Mẹ muốn nhắn gởi cho con người thời đại qua các cuộc hiện ra kể từ năm 1830, trước hết là một sứ điệp về chính tội lỗi của con người. Vì thế, việc tôn kính Ðức Mẹ có giá trị giải phóng con người. Dù vậy, Giáo Hội không bao giờ áp đặt việc tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa, nhưng để tùy cảm xúc và sáng kiến của mỗi người tín hữu. Dĩ nhiên, Ðức Giáo Hoàng, hàng Giáo Phẩm, các tác giả về tu đức có thể khuyên nhủ các giáo hữu chạy đến với Mẹ Thiên Chúa bằng nhiều hình thức tôn kính khác nhau.
Dựa trên kinh nghiệm ngàn đời của mình, Giáo Hội khuyên các tín hữu tôn kính Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội không bao giờ buộc phải tôn kính Mẹ Maria, sẽ không bao giờ Giáo Hội buộc tôn kính các lần hiện ra của Ðức Mẹ, cho dù Giáo Hội công nhận các việc hiện ra đó. Giáo Hội sẽ không bao giờ áp đặt các việc tôn kính như lần chuỗi, đi hành hương như là việc làm cần thiết cho ơn cứu rỗi. Giáo Hội sẽ không bao giờ xem là lạc đạo hay có tội khi một tín hữu không tham dự cuộc rước kiệu Ðức Mẹ, hay một cuộc hành hương đến nơi Ðức Mẹ hiện ra. Giáo Hội sẽ không bao giờ chối bỏ ơn cứu rỗi mà các Giáo Hội khác xây dựng trên niềm tin Kitô của họ, như trong các Giáo Hội Tin Lành.
Như vậy, việc tôn kính đối với Mẹ Maria không được nhìn theo phạm trù cần thiết mà là theo phạm trù tự do, không thuộc về lề luật mà thuộc về tình yêu. Chính tính cách tự do ấy lại càng làm nổi bật sự thu hút và những ân huệ đặc biệt của lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa xem ra không muốn áp đặt lòng tôn kính dành cho Mẹ, bởi vì Mẹ vốn là người sống âm thầm, Mẹ cất giữ mọi sự và suy niệm trong lòng. Thánh Luca đã hai lần ghi lại như thế trong cùng một chương. Mẹ quả thật nói ít, hay đúng hơn Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ, nhưng nhìn cho kỹ thì chính Mẹ lại là người gợi hứng cho Kinh Thánh.
Dĩ nhiên, với sự kín đáo và thinh lặng của Mẹ, các nhà chuyên môn Kinh Thánh đều đồng ý rằng: Các chương nói về đời tư Chúa Giêsu kể từ khi Chúa Giêsu sinh ra thì chính Mẹ là người duy nhất đã biết thời thơ ấu của Chúa Giêsu và kể lại cho cộng đồng tiên khởi. Nhưng vẫn thái độ kín đáo và thinh lặng cố hữu, Mẹ luôn đứng ở đàng sau, chỉ có những ai biết tìm đến và lắng nghe mới có thể nhận ra được sự hiện diện và tầm quan trọng của Mẹ trong Giáo Hội. Ðó chính là ý nghĩa của việc tôn kính Mẹ Maria mà các tín hữu Kitô đã dành cho Mẹ ngay từ thời Giáo Hội sơ khai.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 15:. Nhân loại mới
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tám ngày sau khi sinh, Chúa Giêsu được dâng vào đền thờ, chịu phép cắt bì và được đặt tên theo luật Do thái. Đối với người Do thái, tên là người. Vì thế việc đặt tên có ý nghĩa quan trọng. Giêsu có nghĩa là Thiên-Chúa-cứu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Con người không thể sinh ra Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa tự nguyện làm con loài người. Nhờ đó Đức Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Sinh ra Chúa Giêsu, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới để cứu nhân loại cũ do bà Evà sinh ra, đã hư hỏng vì tội lỗi.
Đức Mẹ sinh ra nhân loại mới. Bà Evà sinh ra nhân loại cũ. Nhân loại cũ được sinh ra từ đất thấp. Thiên Chúa muốn nâng con người lên trời cao. Nhưng đất thấp lôi kéo con người chìm xuống. Vì thế con người đã từ địa vị con cái rơi xuống thân phận nô lệ. Trái lại, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới. Nhân loại mới sinh xuống từ trời cao. Chúa Giêsu là Adam mới, từ trời hạ mình xuống để nâng con người lên. Giải thoát khỏi tình trạng nô lệ. Phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa.
Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc. Bà Evà sinh con do lời chúc dữ. Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã tuyên án cho bà Evà: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con.” (St 3,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc như lời Thiên sứ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng.” Và bà thánh Êlizabeth nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” (Lc 1,42).
Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Bà Evà sinh con do xác thịt. Như lời Thiên Chúa nói: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi.” (St 1,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Như lời Thiên thần truyền: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà... vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1,35). Nếu nhân loại cũ được sinh ra theo xác thịt thì nhân loại mới được sinh ra “không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,13).
Đức Mẹ quảng đại sinh ra người con quên mình. Bà Evà ích kỷ sinh ra Cain là đứa con ham hố. Vì muốn chiếm vị trí trung tâm, nó đã đẩy em là Abel ra vùng ngoại vi. Loại trừ em. Giết chết em. Trái lại, Đức Mẹ quảng đại sinh ra một người con quên mình. Chúa Giêsu là người anh cả, từ bỏ vị trí trung tâm, đi ra vùng ngoại biên nghèo khổ. Người tự hiến mạng sống, để đưa chúng ta là đàn em trở lại vị trí trung tâm, trong cung lòng Thiên Chúa.
Đức Mẹ mở lòng đón nhận sinh ra một thế giới huynh đệ. Bà Evà đóng kín vào bản thân, sinh ra những đứa con chia rẽ bất hoà. Tháp babel khiến cộng đồng nhân loại tan rã. Trái lại, Đức Mẹ mở lòng đón nhận, nên đã sinh ra Chúa Giêsu là nhân loại mới sống chan hòa tình huynh đệ. Đón tiếp mục đồng là những người nghèo khổ. Đón tiếp ba vua là những người xa lạ. Để tất cả trở thành anh em một nhà.
Đức Mẹ vâng phục sinh người con hiếu thảo. Bà Evà phản loạn sinh ra những đứa con bất hiếu, chối bỏ Thiên Chúa là Cha. Trái lại, Đức Mẹ vâng phục nên đã sinh Chúa Giêsu là người con hiếu thảo. Nhờ luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu qui tụ người muôn nước sống hài hoà dưới mái nhà Cha chung trên trời. Và nhờ đó ta được hưởng hạnh phúc với Chúa như lời thư Galát: “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cùng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.”
Ngày đầu năm ta mong ước những điều mới mẻ. Nhưng thế giới chỉ đổi mới khi có những con người mới. Điều quan trọng là bản thân ta đổi mới. Chính vì thế Giáo hội cầu bình an và đặt năm mới trong bàn tay Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.
Như xưa Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu, khởi đầu nhân loại mới, nay xin Mẹ cũng sinh lại chúng ta. Để chúng ta trở nên con người mới. Vượt thoát những tầm thường ti tiện của đất thấp, để được sinh lại thanh thoát từ trời cao. Thoát khỏi lời chúc dữ để được sinh lại tràn đầy ân sủng do lời chúc phúc. Thoát khỏi ràng buộc của xác thịt nặng nề để được sinh lại trong Thần Khí tự do.
Con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô sẽ biết quảng đại cho đi. Biết ra đi đến những miền ngoại biên, gặp gỡ những anh em bị loại trừ, đưa con người trở về vị trí trung tâm. Con người mới sẽ biết mở lòng đón nhận mọi anh em dù khác biệt. Xây dựng thế giới thành một gia đình thân thương, biến thế giới thành một mái nhà chung bình an hạnh phúc. Mọi người trở thành anh em con cùng một Cha trên trời.
Như thế nhân loại được đặt trong bàn tay Thiên Chúa. Và thế giới được chúc phúc như lời Chúa hứa trong sách Dân Số: “Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” Đó chính là nhân loại mới. Đó chính là trời mới đất mới. Đó chính là niềm bình an hạnh phúc ta mơ ước.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa sinh xuống trần để mở ra kỷ nguyên mới. Xin cho con biết sinh lại thành con người mới. Để góp phần xây dựng thế giới an bình hạnh phúc trong tình huynh đệ chân thành. Amen.
Suy Niệm 16: Thinh lặng và lắng nghe
Một chàng thanh niên nọ có tính khoe khoang. Ngày kia sắm được một chiếc áo mới, từ sáng sớm anh ta đã mặc chiếc áo đó và đứng ở ngã ba đường. Kẻ qua, người lại rất đông, thế nhưng chẳng có ai chú ý đến và khen anh lấy một tiếng. Cuối cùng, có một người đàn ông đến gần anh và bảo: “Anh có thấy con bò của tôi bị lạc chạy qua đây không? “Được dịp có người hỏi đến mình, anh trả lời: “Tôi mặc chiếc áo này từ sáng đến giờ, mà chẳng thấy con bò nào chạy qua đây cả”.
Thái độ trên đây của người thanh niên trái hẳn với thái độ của Đức Maria, như bài Tin mừng hôm nay thuật lại: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đức Maria đã thinh lặng không chỉ lúc này, nhưng trong suốt cuộc đời Người. Được làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng chung quanh Người, chẳng có mấy ai biết đến tước hiệu này. Nếu vinh quang Thiên Chúa xuất hiện và các mục đồng không ngớt lời ngợi khen thì Người chỉ ghi nhớ và suy niệm trong lòng. Tại Cana, Người đã nhẹ nhàng báo cho Chúa Giêsu biết bữa tiệc không còn rượu nữa. Trong cuộc đời công khai của Chúa, Người đã âm thầm theo bước chân con. Và bên Thánh giá, trong nỗi đau đớn tột cùng, Người đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng của con. Có thể nói Người đã sống tâm tình của một nữ tì khiêm tốn, Người chỉ muốn được phục vụ trong âm thầm, còn vinh quang danh dự thì Người xin dành cho người khác.
Trong một thế giới có quá nhiều tiếng động: tiếng động của bom đạn, của tranh chấp, của bạo lực, chúng ta hãy bắt chước thái độ thinh lặng và lắng nghe của Đức Maria, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được bình an trong tâm hồn và tạo được hoà khí trong tương quan với tha nhân.
17. ÔI DIỆU KỲ THAY ĐẤNG LÀ MẸ THIÊN CHÚA! (Lc 2, 16-21)
Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa đã trở thành quen thuộc và cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo. Tuy nhiên, qua tước hiệu này, nhiều người cho rằng đây là một điều ngược ngạo, phạm thượng, lộng ngôn, bởi vì dựa trên suy tư của con người, một thụ tạo thì không thể trở thành mẹ của Đấng tạo thành được! Hơn nữa, xét theo góc độ tự nhiên, Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu về mặt nhân tính, còn thiên tính thì Đức Giêsu là Ngôi Lời, có từ đời đời. Mặt khác, Mẹ cũng không sinh ra Thiên Chúa Ba Ngôi!
Vậy khi người Công Giáo tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, liệu có phải là điều trái khuấy và thái quá không? Đâu là nguyên lý khi Giáo Hội tuyên tín và mời gọi con cái của mình tôn kính Mẹ Maria như vậy?
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Trước tiên, chúng ta cần khởi đi từ góc độ tự nhiên: đã là con người, ai cũng phải được sinh ra bởi người phụ nữ. Vì thế, không ai hiện hữu trên trần gian này mà lại không có một người mẹ. Đây là quy luật mà Thiên Chúa đã an bài quan phòng. Dù bạn là vua chúa hay bậc thứ dân; dù là giàu hay nghèo... tắt một lời, bạn có là ai đi chăng nữa thì vẫn không thể khác đi được!
Ai là người sinh thành ra ta, người đó là mẹ ta. Mặc dù mẹ chỉ sinh ra chúng ta về mặt thể xác, nhưng trên phương diện toàn thể, mẹ là mẹ của “nhân linh ư vạn vật”, tức là mẹ theo nghĩa cả xác và hồn.
Theo cách hiểu trên, chúng ta sẽ đi thêm một bước nữa để thấy việc Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa như thế nào?
Khi Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của mình cho nhân loại, thì Người cũng muốn để con của mình được sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì thế, Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Maria và trang bị cho Mẹ ân sủng kỳ diệu, để Mẹ trở nên Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, cũng như nhiều ân huệ khác nữa...
Tất cả đều chuẩn bị cho Mẹ xứng đáng đảm nhận hồng ân cao quý là trở thành người cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế làm người. Đặc ân kỳ diệu này đã được thánh Bonaventura ca tụng: “Chức làm Mẹ Thiên Chúa là to lớn phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho một loài thụ tạo”; và được bà Isave thốt lên: “Bởi đâu tôi được ơn trọng này là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi” (Lc 1,43).
Tuy Mẹ Maria chỉ sinh ra Đức Giêsu về mặt tự nhiên, thể lý, tức là nhân tính, Mẹ không phải là người tác sinh Thiên Tính nơi Đức Giêsu, nhưng Mẹ lại được gọi là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì nơi Ngôi Vị Đức Giêsu, về mặt Thiên Tính, thì từ đời đời Ngài đã là Ngôi Lời Thiên Chúa, nay nhờ sự kết hợp của Mẹ Maria, bản tính tự nhiên kết hợp với bản tính siêu nhiên, trở thành Ngôi Vị cực thánh là Thiên Chúa Ngôi Hai làm người.
Vì thế, dù Mẹ là Mẹ theo bản tính nhân loại, nhưng cũng là Mẹ Thiên Chúa, bởi lẽ Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Là người thật, Ngài giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; là Thiên Chúa thật, Ngài có từ đời đời, Ngài là Đấng Tự Hữu, cùng bản thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Như vậy, những gì thuộc về nhân tính nơi Đức Giêsu thì cũng thuộc về Thiên Tính nơi Ngôi Lời Thiên Chúa. Mẹ Maria sinh ra Đức Giêsu thì cũng sinh ra “Đấng Thiên Chúa làm người”.
Đây là đặc ân cao trọng vượt trên hết mọi loài thụ tạo. Thánh Tôma Aquynô đã nói về vai trò cao trọng của Mẹ như sau: “Tước vị Mẹ Thiên Chúa cao trọng hầu như vô cùng, vì Thiên Chúa không thể không cất nhắc Đức Mẹ lên bậc tốt lành và cao sang hơn được nữa” (St. Th q.25,a. 6ad 4). Vì thế, Mẹ xứng đáng muôn đời ca tụng là: “Đấng đầy ơn phúc”; vì “có Chúa ở cùng” cách đặc biệt.
Quyền thế của Đấng là Mẹ Thiên Chúa
Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ trở thành Nữ Hoàng Thiên Quốc. Nếu Đức Giêsu là vua trên khắp cõi trần gian và Thiên Quốc, thì Mẹ Maria cũng có uy quyền phổ quát trong tương quan là Nữ Tỳ của Thiên Chúa Cha, thân mẫu Đấng Cứu Thế và bạn nghĩa thiết của Chúa Thánh Thần. Vì thế, uy quyền và uy lực của Mẹ trước tòa Chúa thật lớn lao, không ai trên trần gian và Thiên Quốc ngoài Thiên Chúa có thể sánh bằng! Bởi lẽ Vương Quyền của Đức Giêsu lớn lao vô hạn, tồn tại qua muôn ngàn thế hệ, thì chức vị làm Mẹ của Thiên Chúa cũng tùy vào đó và trải dài cũng vô tận.
Nhờ tước vị cao sang quyền thế đó, Mẹ Maria đã trở thành Evà mới, phát sinh Đấng Cứu Thế là nguồn sự sống, thay cho Evà cũ đã đưa nhân loại đến chỗ diệt vong.
Mặt khác, Mẹ trở thành người chuyển cầu hữu hiệu cho nhân loại mỗi khi chúng ta chạy đến với Mẹ.
Sống sứ điệp ngày lễ
Mặc dù vai trò và tước vị của Mẹ Maria rất cao trọng, nhưng Mẹ luôn luôn khiêm tốn trong thân phận của một Nữ Tỳ Thiên Chúa. Mẫu gương này của Mẹ mời gọi chúng ta hãy biết khiêm nhường, bởi vì chúng ta có là gì thì cũng đều do tình thương của Thiên Chúa chứ không phải do tài đức hay công khó của mình.
Mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta còn được mời gọi cùng nhau xây dựng hòa bình, bởi vì Đức Maria là Mẹ của Đức Giêsu, mà Đức Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình, là Chúa của bình an. Lời hát của các thiên thần trong đêm giáng sinh đã mặc khải cho chúng ta biết sứ vụ của Đức Giêsu: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Vì thế, chúng ta là con cái của Mẹ trong nhiệm thể Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi chiến tranh, xây dựng tình huynh đệ, sống liên đới và trách nhiệm với con người cũng như xã hội hôm nay; cùng nắm tay nhau để xây dựng một nền văn minh tình thương và sự sống.
Hôm nay cũng là ngày đầu năm Dương Lịch, chúng ta hãy xin Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, ban cho mỗi người chúng ta được an vui hạnh phúc, mạnh khỏe xác hồn, nhất là luôn có lòng mến Chúa và yêu tha nhân như Mẹ, để năm mới này tràn đầy tình thương và lòng nhân ái nơi môi trường và cuộc sống của chúng ta. Amen.
Ngọc Biển SSP
18. Nữ Vương Hoà Bình
Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa kính Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới.
Đất nước chúng ta đã thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn có nhiệm vụ phải suy nghĩ về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, những đổ vỡ về vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là hơi thở của mọi người trên thế giới. Vậy chúng ta đóng góp được gì?
Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Ngài suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau, để sống hòa thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình.
Yêu hòa bình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. hòa bình đòi hỏi phải phấn đấu, phải đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình, nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong ngày cấu nguyện cho Hoà Bình Thế Giới hôm nay và cũng là ngày lễ kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho bản thân chúng ta, cho gia đình chúng ta, cũng như cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
19. Mẹ Thiên Chúa
Tước hiệu Đức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo Hội. Đây là một tước hiệu xứng hợp ơn mọi tước hiệu khi nói về Đức Trinh Nữ Maria.
Vào thế kỷ V, Nestôriô đã nổi lên chống đối tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Theo Nestôriô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ của Đức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một cuộc xung đột lớn đã xảy ra trong Giáo Hội xoay quanh việc Ngôi Hai nhập thể. Thế nên, vào năm 431, Hội Thánh đã triệu tập Công đồng Ephêsô dưới sự chủ toạ của thánh Cyrillô, các nghị phụ trong công đồng này đã tuyên bố cất chức Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của ông ta. Công đồng Ephêsô đã định tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì thực sự Mẹ đã sinh ra Con-Thiên-Chúa-làm-người.
Bắt đầu từ công đồng Ephêsô tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa đã trở thành tước hiệu chính thức của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là tước hiệu trổi vượt trên mọi tước hiệu mà Giáo Hội đã ca tụng và tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria. Thánh công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Tín lý về Hội Thánh đã viết: “Từ những thời xa xưa, Đức Trinh Nữ đã được tôn kính dưới tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Người trong mọi cơn gian nan khốn khố”. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã viết khi lập thánh lễ kính trọng thể Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa ngày 11.10 nhân dịp kỷ niệm 1500 năm công đồng Ephêsô vào năm 1931: “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa”.
Hôm nay, Giáo Hội dành ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho thế giới hoà bình trùng vào ngày kính trọng thể Đức Maria Mẹ Thiên Chúa như lời Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết trong tông huấn Marialis Cultus, khi người dời thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01.01 mỗi năm như sau: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng Giêng với ngày thứ tám sau lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới hoà bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hoà bình đã phát sinh trong lòng nhiều người”.
Lạy Vua Hoà Bình mới sinh, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hoà Bình, xin ban cho nhân loại và mỗi người chúng con sự hoà bình đích thực và ơn an bình trong mỗi tâm hồn.
20. Mẹ Thiên Chúa
(Gm. Arthur Tonne)
Ngày 20 tháng giêng 1961 John Kennedy làm Tổng Thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Một người Công Giáo đầu tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Kennedy, cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy thề nhậm chức và trở thành Tổng Thống thì Rose Kennedy trở thành Mẹ của Tổng Thống. Khi bà sinh John vào năm 1917, Bà đã cho đất nước Hoa kỳ một con người mà sau này làm Tổng Thống. Bà không sinh ra một con người Tổng Thống. Nhưng thật sự và đúng là mẹ của một Tổng Thống.
Một cách tương tự, nhưng không y hệt như thế, chúng ta xưng tụng Đức Nữ đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu Kitô đấng vừa là Thiên Chúa vừa là Người. Đức Maria không sinh ra Chúa là Chúa. Đức Maria cũng không phải là Chúa hay Bà Chúa. Mẹ là một con người có hạn, được vinh dự dâng hiến bản tính nhân loại cho Ngôi Con trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua Mẹ, Đức Giêsu là một người thật và cũng là Thiên Chúa thật. Đó là chân lý chúng ta mừng lễ hôm nay. Ngày đầu năm dương lịch. Tại sao chúng ta công khai tung hô Maria là Mẹ Thiên Chúa ngay sát lễ giáng sinh? Lý do rất tự nhiên khi chúng ta thăm một em bé mới sinh, dễ nhiệm chúng ta muốn biết sức khoẻ của em, Em nặng mấy ký và em giống ai. Thế rồi bao giờ chúng ta cũng muốn biết về sức khoẻ của người Mẹ. Cả tuần nay chúng ta ngắm nhìn Chúa Hài Đồng trong Máng cỏ. Hôm nay chúng ta có lý do hướng về Mẹ của Ngài.
Một lý do khác nữa: trong ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau năm mới vui tươi, hạnh phúc. Nghĩa là chúng ta hy vọng và cầu xin cho bạn bè, những người thân yêu được một năm thánh thiện để họ biết Chúa Kitô nhiều hơn, yêu mến người nồng nàn hơn và phụng sự người trung thành hơn như Đức Mẹ đã làm. Để được như vậy không có gì giúp ta, hơn sự thúc đẩy và trợ giúp của Người Mẹ ấy, Chúa Giêsu và tôn kính mẹ, Người cũng muốn chúng ta yêu và Tôn kính Mẹ của Người.
Chúng ta có thể gợi một so sánh nữa; John Kennedy đã tham dự Thánh lễ vào buổi sáng ông nhậm chức. Ông làm thế để cám ơn Mẹ ông. Bà đã dự Thánh lễ mỗi ngày từ khi bà kết hôn. Mẹ Tổng Thống Kennedy đã chứng kiến cái chết rùng rợn của con bà, cũng thế Mẹ Thiên Chúa cũng chứng kiến cảnh tượng đóng đinh ghê sợ của Con Mẹ. Cái chết của Chúa Kitô được tái diễn trên bàn thờ này mọi ngày. Chúng ta hãy làm cho Thánh lễ thêm quan trọng hơn trong ngày đầu năm này và bạn sẽ Thánh và hạnh phúc trọn một năm. Hãy xin Thiên Chúa, nhờ Thánh lễ này cho bạn và những người thân yêu của bạn sự phù giúp bạn cần, để làm cho năm nay hạnh phúc.
Bạn đặc biệt để ý tới lời kinh nguyện Thánh Thể II “xin cho chúng con xứng đáng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa” sau Thánh lễ bạn hãy tìm tới máng cỏ và nhớ tới Mẹ Thiên Chúa. Mẹ sẽ thực hiện lời chúc mừng và cầu xin của tôi cho tất cả các bạn.
Năm mới hạnh phúc cho mọi người. Amen.
21. Tại sao lại ‘Mẹ Thiên Chúa’?
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đặt ra cho mình câu hỏi này, tôi không có ý đi vào cuộc tranh luận thần học hay tín lý đâu, đơn giản là vì tôi luôn bị ám ảnh bởi câu khảng định của Đức Giêsu khi có người lên tiếng ca ngợi địa vị dành cho con người nào được diễm phúc làm người mẹ sinh hạ và dưỡng nuôi Ngài: “Đúng ra phải nói rằng: phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:27-28). Và tôi vẫn thường tự hỏi: tại sao lắng nghe và tuân giữ Lời lại quan trọng hơn cả làm Mẹ Thiên Chúa? Hơn nữa có liên quan gì giữa hai điều này xem ra chẳng liên quan gì với nhau?
Lời Chúa trong bài Tin Mừng mời gọi tôi trở lại chiêm ngắm cảnh hang Bê-lem, một cảnh tượng quá đơn sơ nhưng có điều gì đó cần phải được khám phá. Trong suốt những ngày này, Maria đã chẳng chỉ suy đi nghĩ lại trong lòng các điều đó là gì? “Đến nơi, các mục đồng gặp bà Maria, ông Giu-se, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Tôi nhận ra cái diễm phúc lớn hơn hết của con người được cái đặc ân cưu mang trong lòng dạ chín tháng, sinh hạ, rồi ôm ẵm trên tay, cho bú mớm và nuôi dưỡng Hài Nhị nhỏ bé này chính là được trở thành nhân vật gần gũi, được chạm tới, được chiêm ngắm trực diện hơn ai hết một Thiên Chúa làm người để cứu độ, một Thiên Chúa đang tỏ hiện lòng từ bi thương xót của Ngài cách quá cụ thể và độc đáo. Không trách gì mà Maria đã “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.
Phải chăng khi nói ‘nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa’, Đức Giêsu đã muốn ám chỉ điều này? Lời Thiên Chúa chắc hẳn không phải chỉ là một vài giáo điều luân lý hay một học thuyết cao siêu nào đó (như giới luật mến Chúa yêu người chẳng hạn), mà phải là điều mà, qua sự hiện diện trần thế trong hình hài một trẻ sơ sinh cũng như qua cái chết thập giá, Ngài đã và đang không ngừng nói lên: Thiên Chúa yêu thương con người! Rõ ràng là Maria đang ‘nghe’ điều này qua các diễn biến tuần tự xảy ra tại Bê-lem, và nghe cách chăm chú với tất cả cõi lòng của một phụ nữ làm mẹ, nghe với tất cả tâm trí của một nữ tì khiêm hạ, để khi có dịp sẽ cất lên thành bài ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa , Đấng cứu độ tôi… Người đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn…” (Lc 1:46-48)
Và Maria cũng đang ‘tuân giữ’, qua việc đón nhận cách trọn vẹn và tham gia cách tích cực, việc Thiên Chúa tỏ hiện lòng thương xót cứu độ của Ngài. Đón nhận nào sâu xa và trọn vẹn cho bằng với trọn cả tâm trì và cõi lòng: tâm trí Maria đã nhảy mừng và lòng dạ Maria đã cưu mang; và có tham gia nào thực tế cho bằng người mẹ đã cưu mang để đem tình thương cứu độ đó trao ban lại cho toàn thể nhân loại? Maria đã làm được điều đó và làm cách xuất sắc hơn hết thảy mọi người trong tư thế một người mẹ. Đức Giêsu có lẽ đã ám chỉ điều này khi Người lên tiếng: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?... Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3:31-35). Được làm Mẹ Thiên Chúa sướng và hạnh phúc thật, nhưng với Giêsu và Maria, đó không phải là một địa vị, một đặc ân, nhưng là một tư thế trước Tin Mừng cứu độ. Và hình như Đức Giêsu cũng muốn mỗi người chúng ta tham gia vào cái ‘vinh dự’ đó thì phải, đơn giản là vì mỗi Kitô hữu đều phải có một tư thế của riêng của mình trước Tin Mừng cứu độ: mỗi người đều phải biết ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ của lòng thương xót theo cách thức của mình.
Tôi biết dòng Salêdiêng Don Bosco có tham vọng muốn các hội viên của mình phải trở thành ‘dấu chỉ và người mang tình thương của Chúa đến cho các thanh thiếu niên’. Rõ ràng Tu Hội muốn họ trở thành ‘mẹ’ của các trẻ bị bỏ rơi, đồng thời cũng trở thành mẹ của Thiên Chúa nữa (theo định nghĩa ‘mẹ’ của Đức Giêsu). Có lẽ vì vậy mà nhà dòng muốn họ cùng Mẹ Phù Hộ đồng hành trên con đường ơn gọi chăng; không phải chỉ vì những trợ giúp đỡ nâng bên ngoài, nhưng nhất là trong nội dung của chính ơn gọi họ: cứu vớt các thanh thiếu niên. Và nếu tôi không lầm thì theo nội dung đó, Đức Giêsu còn muốn mọi Kitô hữu chúng ta, trong đó chắc chắn có cả tôi và bạn nữa, cùng trở thành ‘mẹ’ của Người. Phải chăng đó là ‘ý đồ’ của Người, khi trên thập giá Người đã trao phó nhân loại, qua đại diện là Gio-an, cho Maria và muốn chúng ta nhận người làm mẹ mình không? “Thưa bà, đây là con của bà… Đây là mẹ của anh!” (Ga 19:26-27)
Lạy Mẹ Maria - Mẹ Thiên Chúa, xin hãy giúp con biết như Mẹ ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ đầy từ tâm. Xin cho con khi mừng kính Mẹ dưới danh hiệu cao đẹp này, cũng được tham gia vào nghĩa vụ trở thành ‘mẹ của Đức Kitô’ cho những ai chưa được biết tới tình yêu thương của Chúa. Và cũng xin cho con trung thành với ơn gọi Kitô hữu và Sa-lê-diêng của con trong tất cả chiều kích sâu sắc nhất của nó. Amen.
22. Mẹ Thiên Chúa – Mẹ chúng ta
(Anmai)
Mở lại những trang thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Galát ta bắt gặp tâm tình hết sức dễ thương của Ngài.
Mở đầu thư, Thánh Phaolô khẳng định ngay: Tôi là Phaolô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng không phải nhờ một người nào, nhưng bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi chết trỗi dậy, tôi và mọi anh em đang ở với tôi, kính gửi các Hội Thánh miền Galát.
Cuộc đời, ơn gọi Tông Đồ của Phaolô rõ ràng như ta thấy đó, không phải tự loài người hay do loài người nhưng là bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha.
Rõ ràng, sinh ra bởi phàm nhân, bởi cha bởi mẹ của Ngài nhưng thánh Phaolô quả quyết như thế bởi vì ngài tin như thế.
Và rồi, mở lại những trang Thánh Kinh Cựu Ước, ta không thể nào quên được hình ảnh của Ápraham - cha của những kẻ tin.
Ta biết Ápraham có hai người con. Hai người con, một người được sinh ra bởi người mẹ là người nô lệ còn người kia là người tự do. Con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên; còn con của người mẹ tự do thì sinh ra nhờ lời hứa. Câu chuyện đó ngụ ý rằng: hai người đàn bà là hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi Sinai, thì sinh ra nô lệ: đó là Haga. Haga chỉ núi Sinai trong miền Ảrập, và tương đương với Giêrusalem, thành này cùng với các con đều là nô lệ. Còn Giêrusalem thượng giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta.
Mẹ của lời hứa được Thiên Chúa tuyển chọn bởi tình thương của Ngài.
Con của lời hứa mà Thiên Chúa trong Cựu Ước là là con của Giao Ước cũ. Giao Ước mới là Đấng Cứu Độ trần gian được sinh ra trong cung lòng của một trinh nữ có tên là Maria.
Trong trình thuật tin mừng rất ngắn, Thánh Luca thuật lại cho ta rất chi tiết về người trinh nữ có tên là Maria đó: "Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ". (Lc 2, 16)
Đích thị rằng Maria chính là Mẹ của Hài Nhi, Mẹ của Đấng Cứu Độ và cũng là Mẹ Thiên Chúa nhờ đặc ân mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ.
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Con của Mẹ là Thiên Chúa. Mẹ chỉ là Mẹ trong trật tự sản sinh nhân loại, nhưng Con mà Mẹ thụ thai và hạ sinh là Thiên Chúa, nên Mẹ phải được gọi là Mẹ Thiên Chúa.
Tín lý này đã được thánh Luca minh hoạ rõ ràng trong trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe..
Từ thế kỷ II đã được các thánh Giáo phụ Inhaxiô Antiokia, Irênêô, Cyrillô Alexandria, Augustinô, Epiphanô diễn giải sâu rộng để đối phó với lạc thuyết của các bè rối Gnosticism, Docetism. Thánh Gioan Tông đồ loan báo chứng thực rõ ràng rằng ngài đã từng mắt thấy, tai nghe và đụng chạm tới Chúa Giêsu là Ngôi Lời hằng sống đã xuất hiện.
Trong khi đó các bè rối đó vẫn nói Chúa Giêsu chỉ là ảo tượng. Lạc thuyết này muốn phá đổ tự nền tảng công cuộc Cứu chuộc của Chúa Kitô. Vì thế, các Giáo phụ dựa trên tín lý phẩm chức Thiên mẫu của Mẹ Maria để phá tan lạc thuyết này rằng Đức Trinh Nữ không thể là Mẹ nếu không có Con. Và Người không có Con, nếu Chúa Giêsu chỉ là một bóng ma. Giáo phụ Tertulianô bác bỏ Marcion người lạc giáo: "Mục đích phủ nhận thân xác Chúa Kitô, ông chối bỏ việc Người sinh ra. Hay là để chối bỏ việc Người sinh ra, ông phủ nhận thân xác Chúa. Thân xác và sự đản sinh làm chứng lẫn nhau: Không có sự đản sinh thì cũng không có thân xác. Hoặc là không có thân xác thì không có sự đản sinh.
Thế kỷ III và thế kỷ IV, các thánh Giáo phụ đều đồng thanh cao rao chúc tụng Mẹ Thiên Chúa. Năm 325, Công đồng Nicêa I lên án lạc giáo Ariô, đồng thời định tín Ngôi Lời đồng bản thể với Đức Chúa Cha, và đặt kinh Tin kính (gọi là kinh Tin kính Nicêa đọc trong thánh lễ). Tín điều này chứng minh Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, cùng với tín lý Mẹ Thiên Chúa của các thánh Giáo phụ sẽ mở đường cho tín điều Mẹ Thiên Chúa của Công đồng Ephêsô sau này.
Công đồng Vatican II (1962-1965) dạy: "Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa ... Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô".
Nhờ Giáo huấn của Giáo Hội và lời giảng dạy của các Thánh giáo phụ, các Thánh tiến sĩ và các nhà thần học, giáo dân trong khắp Giáo Hội mỗi ngày thêm vững tin tín điều Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa là Mẹ của Lời Hứa, Mẹ của Giao Ước mới, Mẹ của Ơn Cứu Độ trần gian mà Thiên Chúa đã hứa, đã trao ban cho con người tự ngàn xưa qua miệng các ngôn sứ, cách riêng qua những khẳng định của các thánh, đặc biệt nơi các thánh tông đồ.
Thánh Phao lô đã khẳng định với ta về Giao Ước mới: Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.
Không chỉ ở đây, trong nhiều đoạn thư, thánh Phaolô cũng đã khẳng định về ơn nghĩa tử mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta:
“Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô”. (Ep 1, 4-5)
“Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”. (Rm 8, 29. 29)
Trước khi tạo thành vũ trụ, Cha đã tiền định cho chúng con làm “nghĩa tử”. Nhưng Cha không muốn chúng con chỉ hưởng quyền đồng thừa kế với Đức Giê-su (Rm 8, 17) mà còn muốn chúng con nên giống Cha (Ep 1, 4), nên đồng hình đồng dạng với Người Con Ruột của Cha (Rm 8, 29)
"Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô. Để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”. (Ep 1, 4-6)
Ta thấy Thánh Gioan tông đồ cũng đã khẳng định về ân huệ làm con mà Thiên Chúa dành cho chúng ta:
“Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”. (Ga 1, 12.13)
“Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biêt chúng ta, là vì thế gian đã không biêt Người. Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biêt rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. (1 Ga 3, 1-2).
Trước khi có trời đất này Cha đã chọn ta để ta trở nên tinh tuyền thánh thiện. Trước khi ta có mặt trên hành tinh này, Cha đã tiền định cho ta làm con Cha. Cho nên không phải vì ta có công trạng gì mà Cha thương ta. Cha yêu ta chỉ do lòng nhân ái của Cha, chỉ do tình thương nhưng không của Cha, bởi vì Cha là tình yêu. Cha thương ta bởi vì ta ở trong người Con Chí Ái là Đức Kitô. Vì Cha thương ta mà ta trở thành quý giá trước mặt Cha.
Ân huệ lớn nhất đời của ta phải chăng đó là được làm con của Mẹ Maria, là em của anh Hai Giêsu ?
Theo Gioan, chúng ta được làm con em Chúa Giêsu, là con của Mẹ Maria thì ta phải tin (Ga 1, 12) và phải yêu (1 Ga 4, 7).
Nhìn lại cuộc đời của Mẹ Maria ngày hôm nay mà ta tôn kính với đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Mẹ - như Giáo Hội cũng như các môn đệ đã xác tín - chúng ta lại thấy rằng cả cuộc đời của Mẹ vẫn gói ghém trong niềm tin và tình yêu với Thiên Chúa. Mẹ tin yêu Chúa bằng cả cuộc đời, bằng cả tấm lòng, bằng cả con người, bằng cả tâm hồn của mẹ.
Trang Tin Mừng rất ngắn Thánh Luca điểm lại cho ta về Mẹ rất độc đáo, rất dễ thương và cũng rất đáng để ta suy nghĩ: còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Và, cả cuộc đời, Mẹ sống trong lắng đọng để Mẹ suy đi nghĩ lại tình yêu, lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ để Mẹ được ơn là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Đấng Cứu Độ.
Ngày hôm nay, Mừng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ta lại được mời gọi nhìn lại đời ta. Ta được Thiên Chúa trao ban ân huệ làm con của Lời Hứa, của Đấng Cứu Độ trần gian và là em của anh Trưởng Giêsu. Mẹ Maria dù được là Mẹ Thiên Chúa đó nhưng Mẹ
"Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Mẹ Maria khiêm hạ, lắng đọng để tin yêu và phó thác cuộc đời trong tay Chúa dù Mẹ là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Ơn Cứu Độ.
Chúng ta là nghĩa tử của anh Trưởng Giêsu, cũng là con của Mẹ Maria.
Người ta vẫn thường nói: "Mẹ nào con nấy !". Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của ta đó luôn suy niệm Lời Chúa, suy niệm tình thương mà Thiên Chúa tuôn đổ trên Mẹ. Dù ai nói ngả nói nghiêng và thậm chí chà đạp, phỉ báng Mẹ, chê cười nhưng Mẹ vẫn lặng lẽ để suy đi nghĩ lại tình thương và ân huệ của Chúa dành cho Mẹ. Ta có suy đi nghĩ lại trong lòng ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta hay không ?
Khi ta ồn ào náo động, khi ta hơn thua tranh giành, khi ta bấu víu vào thế gian cũng là khi ta không nhận ra Ơn Cứu Độ, không nhận ra Thiên Chúa là Chúa và là Chủ của cuộc đời ta. Khi ấy, ta cũng chẳng là con của Mẹ.
Ta vẫn gọi Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ta vẫn nói Mẹ là Mẹ của ta nhưng để lời gọi, lời nói, lời tuyên tín đó được trọn hảo, được thể hiện bằng cách ta sống tâm tình mà Mẹ đã sống đó là suy đi nghĩ lại ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta.
Xin Mẹ thêm ơn cho ta để ta cũng biết sống giữa cuộc đời đầy bon chen, sóng gió này mà lòng vẫn bình tâm để lặng lẽ, để suy đi nghĩ lại ân huệ Chúa ban cho ta như Mẹ.
23. Lễ Mẹ Thiên Chúa
Giây phút long trọng nhất trong đời Đức Mẹ là giây phút Ngôi Hai xuống thai trong lòng Đức Mẹ. Từ giây phút ấy, Đức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa: Đây là tín điều Công đồng Êphêsô đã tuyên bố ngay thời kỳ Giáo Hội sơ khai.
- Ta phải hiểu chân lý này thế nào?
Đức Maria không phải là Mẹ sinh ra Thiên Chúa tự hữu hằng có đời đời, không phải là mẹ cá nhân kết hợp với Thiên Chúa, cũng không phải là mẹ bản tính loài người có hồn xác của Chúa Giêsu, mà chỉ là Mẹ thân xác Chúa Giêsu; cũng như các bà mẹ khác chỉ sinh con về phần xác không sinh ra linh hồn đứa con. Văn hóa Đông phương cũng xác nhận điều này: cha mẹ sinh con trời sinh tính. Tính không phải là tính nết thường, nhưng có ý sâu sắc hơn, đó là bản tính, tính mệnh “Thiên mệnh chi vị tính” - Tính trời phú cho đó là linh hồn.
Tuy các bà chỉ sinh thân xác đứa con, nhưng cũng thực là mẹ đứa con. Cũng vậy, Đức Mẹ, tuy chỉ sinh thân xác Chúa Giêsu, nhưng cũng thực là mẹ Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Năm 431 công đồng Ephesô đã long trọng tuyên bố: “Nếu ai chối Đức Giêsu là Thiên Chúa, và bởi đó chối Đức Thánh nữ Đồng trinh Maria là Mẹ Thiên Chúa vì người đã sinh ra thân xác Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, thì bị vạ tuyệt thông.” Thật là vinh phúc cao trọng nhất cho Đức Mẹ, không ai trong loài người sánh ví được. Chính vì thế Giáo Hội đã mừng lễ này vào ngày thứ nhất trong năm, đứng đầu các lễ các thánh.
- Hạnh phúc đó do đâu?
Hoàn toàn do Thiên Chúa ban “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”
Thiên Chúa không muốn dựng nên thân xác thần hiện nào khác, nhưng dùng chính thân xác từ trong loài người để cứu độ loài người. Ví như muốn cứu người ăn mày có hai cách: một là cho tiền, gạo để ăn chơi nhàn rỗi, hai là dạy cho họ có công ăn việc làm để họ dùng chính khả năng họ làm ăn. Cách thứ hai rất khó nhưng chắc chắn có giá trị lâu dài và giá trị tự do hưởng ứng của họ. Cũng thế, Thiên Chúa đã dùng chính khả năng con người trong Đức Mẹ hợp tác với Chúa để cứu loài người.
Tới đây, chúng ta hiểu được một chút sự lạ lùng của Thiên Chúa cứu độ loài người với sự tham gia của Đức Mẹ. Đức Mẹ đã trọn đời dâng hiến toàn thân cho Chúa, một thân xác đồng trinh, vô nhiễm nguyên tội để Ngôi Hai xuống thế làm người cứu chuộc chúng ta, một sự lạ lùng gấp bội phép lạ bánh hóa nhiều, và giống như Chúa đã dùng bánh và rượu để biến thành Mình và Máu Thánh Chúa.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, xin cho cha mẹ chúng con hiểu biết thiên chức cao trọng làm cha mẹ, tuy chỉ sinh con phần xác ở đời này, nhưng lại được làm cha mẹ cả phần hồn, phần thiêng liêng đến muôn đời. Xin cho các ngài biết cố gắng giáo dục con cháu "ngày càng lớn lên, mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và được ân nghĩa cùng Thiên Chúa" như Chúa Giêsu con Mẹ. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Đức Mẹ dâng lòng mến, dâng sự hy sinh hàng ngày lên Chúa nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ biến đổi con người chúng con nên con thảo của Mẹ, xứng đáng được ơn phúc cứu độ muôn đời của Chúa Giêsu Con Mẹ.
24. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tám ngày sau lễ sinh nhật của Đức Giêsu Chúa chúng ta, Giáo hội mời gọi con cái mình cử hành lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa với tất cả lòng kính trọng và biết ơn, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.
Đức Maria đã được các giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói: "Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ". Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nên tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: "Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ" và " Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa".
Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã gán cho Đức Maria tước hiệu là "Mẹ Thiên Chúa", tuyên dương Mẹ là " Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể ". Như thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) đã viết: "Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô".
Khi giáo chủ Constantinople là Nettôriô công khai chối bỏ thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, thì Công đồng Chung Êphêsô (431) đã đuợc triệu tập và tuyên bố tín điều "Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa". Đó là danh xưng cao trọng nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công đồng Vaticanô II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau: "Không có gì lạ, nếu các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là "Đầy ơn phước" (Lc. 1,28). (GH.59).
Thánh Phaolô viết: "Khi đã đến lúc thời gian đầy đủ, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử... mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa" (Gl 4, 4-7). Như thế, chúng ta dưỡng tử của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Đức Kitô nhờ ơn Thiên Chúa. Lại nữa, Hội Thánh là Thân Thể của Chúa Kitô, Đức Maria đã là Mẹ Chúa Kitô, Đấng là Đầu của Thân Thể, thì Mẹ cũng là Mẹ của Thân Thể, Mẹ Hội Thánh, Hội Thánh được cấu thành bởi những con người chúng ta, nên Mẹ cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. Vì thế trong Giáo Hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian" (GH.62)
Ngày 21/11/1964, Đức Phaolô VI long trọng tuyên bố Đức Maria Là Mẹ Hội Thánh: "Để vinh danh Đức Trinh Nữ và để chúng ta được an ủi, chúng tôi tuyên bố Rất Thánh Maria là Mẹ Hội Thánh, tức là Mẹ của toàn thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân lẫn mục tử, thành phần gọi Người là một Người Mẹ rất yêu dấu; và vì thế chúng tôi truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo hãy dâng lên Mẹ Thiên Chúa một niềm kính tôn hơn nữa và hãy nguyện cầu cùng Người bằng tên gọi rất ngọt ngào này". Và việc Đức Phaolô VI đã "công bố" và "truyền" làm như thế không phải chỉ bằng một văn kiện, mà là bằng lời nói sống động ngay trước mặt toàn thể hàng giáo phẩm thế giới đang tham dự Công Đồng Chung bấy giờ, thành phần đại diện cho toàn thể Dân Chúa.
Đó là những lý do Giáo Hội thúc dục con cái mình cầu nguyện với Mẹ: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử". Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc.
Trong ngày đầu năm mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình (Is 9, 5) sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích thực của chúng ta! Chúng ta mượn lời sách Dân Số mà cầu chúc cho nhau: "Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em" (x. Ds 6,26). Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Vì tình yêu Thiên Chúa đã "ban Người Con duy nhất của Ngài" cho nhân loại (Ga 3,16). Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria.
Thiên Chúa từ trời cao đã giáng trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên tay. Mẹ bồng Hài Nhi Giêsu, con nhìn mẹ và mẹ nhìn con âu yếm. Đức Maria trong thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, và là Mẹ chúng ta, luôn đồng hành để dẫn chúng ta về với Thiên Chúa. Bước theo Mẹ trong cuộc sống của lòng tin bằng thái độ tín thác vào Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Ngài, chúng ta sẽ được Mẹ dìu đưa đến với Chúa, đến Nước Trời. Mẹ mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận Chúa Giêsu, cưu mang Người bằng cách lắng nghe và sống theo Lời Người, để thực sự trở nên người có phúc, người thân của Chúa như Mẹ.
Mừng lễ Mẹ hôm nay, với trọn niềm tin tưởng, mến yêu, chúng ta hãy phó thác cho Mẹ thế giới này, đất nước ta, gia đình ta. Hãy để Mẹ hiện diện để yêu thương, chăm sóc và dẫn dắt chúng ta sống theo ý Chúa. Hãy hết lòng yêu Mẹ bằng tình con thảo hiếu!
Nhờ Mẹ cầu bầu, xin cho cuộc đời mỗi nguời chúng ta được đổ đầy bình an của Chúa trong năm mới này, để chúng ta cũng trở nên những người xây đắp an bình cho gia đình, cho mọi người bằng đời sống tin yêu phó thác vào Chúa và quên mình phục vụ tha nhân như Mẹ. Ước gì chúng ta không chỉ thành khẩn thưa lên với Mẹ bằng lời, mà bằng trọn cả con tim và cuộc sống chúng ta: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con, là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen."
25. "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời"
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Mỗi khi đọc kinh kính mừng, chúng ta đều thưa lên cùng Mẹ: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Khi chúng ta thưa cùng Mẹ điều đó, là chúng ta ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình thường hay sa đi ngã lại trong những lầm lỗi tội lỗi. Đồng thời cũng nói lên sự phó thác cậy trông nơi Mẹ, là Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ chúng ta.
Vâng, khi nhập thể làm người Chúa Giêsu cũng được sinh ra từ một người mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa Giêsu dường như luôn có bóng dáng của mẹ hiện diện để khích lệ, an ủi, nhất là trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹ đã ở bên Chúa, cùng hiệp thông trong đau khổ với Chúa để cứu độ trần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống trong tình mẫu tử của Mẹ, Chúa Giêsu đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa nói với Gioan: "Đây là Mẹ của con", và thánh kinh đã ghi lại: "kể từ lúc đó, người môn đệ Chúa yêu đã đón Mẹ về nhà của mình".
Thánh Gioan đã đại diện cho nhân loại để nhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Từ nay Mẹ sẽ tiếp tục nâng đỡ chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục yêu thương chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta để chăm sóc, lo lắng và chở che cuộc đời chúng ta. Chúng ta có thể cảm nghiệm về tình Mẹ Thiên quốc qua hình ảnh người mẹ trần thế. Mẹ trần thế yêu thương con đến nỗi dám đánh mất chính mình cho con được lớn lên thế nào, thì người mẹ thiên quốc cũng lo cái lo của con cái dưới thế, cũng đau vời đau đau của nhân loại, cũng sẵn sàng làm tất cả đế cứu vớt nhân loại lầm than. Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc lòng bài ca dao "Con cò ăn đêm" mà các bà mẹ thường hay hát ru con:
"Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi vào
Tôi có lòng nào ông hãy xào măng
Có xào thì xào nước trong
Đừng xào nước đục đau lòng cò con"
Bài thơ thật ngắn gọn nhưng diễn tả về tình yêu của một người mẹ đơn côi, lặn lội nơi bến chợ, bất chấp tất cả khó khăn cực nhọc để kiếm tiền nuôi con, kể cả việc phải đi ăn đêm. Nếu số phận có đun rủi bà phải rơi xuống hố sâu lầm lỗi, bà sẵn sàng chịu mọi sự trừng phạt miễn là ông trời hãy thương lấy đàn con, gìn giữ nó được sống trong danh dự mà đoạn kết đã diễn tả: "Đừng xào nước đục đau lòng cò con". Nghĩa là người mẹ sẵn sàng chịu mọi oan ức, mọi niềm đắng cay, nhưng miễn sao con của bà đừng bị người đời trừng phạt bởi lầm lỗi của bà, đừng bị người đời khinh chê vì những đoạn trường đắng cay của mẹ.
Tình yêu của người mẹ là thế! Bà sẵn sàng hy sinh tất cả miền là đoàn con được hạnh phúc. Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ là Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu đã được ban cho chúng ta qua thánh Gioan. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết đón Mẹ về nhà cuộc đời chúng ta, để chia sẻ những vui buồn trong gia đình chúng ta. Ước gì chúng ta biết trân trọng gìn giữ Mẹ như bảo ngọc châu báu mà Chúa đã ban cho chúng ta, đừng để mất Mẹ, vì mất Mẹ là mất cả bầu trời. Ước gì mỗi người chúng ta biết tin tưởng phó dâng cuộc sống gia đình của mình cho Mẹ và biết dành một vài giây phút trong ngày để thưa lên cùng Mẹ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa cầu cho chúng con hôm nay và trong giờ lâm tử. Amen.
26. Hồng ân
Đêm 22.06.443 tại thành Êphêsô có một cuộc rước đuốc vĩ đại, đoàn rước muôn người như một vừa đi diễu hành vừa tung hô vang trời: “Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Tại sao có cuộc rước đuốc này? Là vì Nettôriô, giám mục giáo chủ thành Côntăngtinốp chối Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa, vì Đức Maria không sinh ra thần tính của Chúa Giêsu mà chỉ sinh ra nhân tính là một dụng cụ của thần tính, nghĩa là Đức Kitô chỉ là một người được phúc tiền định mặc lấy thiên tính, trở nên đền thờ của Ngôi Lời. Như vậy, Nettôriô đã phân tách Ngôi Lời ra khỏi Đức Kitô, và phân chia Ngôi Hai nhập thể thành hai ngôi vị riêng biệt, được lồng vào nhau, rồi ông chủ trương: chỉ nên gọi Đức Maria là Mẹ Đức Kitô chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa.
Trước chủ trương của Nettôriô, Công đồng chung được triệu tập tại Êphêsô để giải quyết vấn đề. 160 nghị phụ là các giám mục của Ai Cập, Palestine, Tiểu á và đại diện của Rôma là thánh Xirilô chủ toạ. Sau một ngày hội họp và tranh luận, công đồng đã cách chức Nettôriô và tuyên bố chủ trương của ông là sai lầm, là lạc thuyết, đồng thời Công đồng chấp nhận bản dự thảo của thánh Xirilô và tuyên bố: Đức Kitô tuy có hai bản tính nhưng chỉ là một ngôi, cho nên Đức Maria là Mẹ Đức Kitô thì cũng là Mẹ Thiên Chúa, Công đồng khẳng định dứt khoát: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Sau khi Công đồng đã xác định tước hiệu này, các tín hữu phấn khởi vui mừng kéo nhau ra các đường phố vang lời ngợi khen Đức Mẹ, tung hô các nghị phụ và cầm đuốc sáng dẫn đưa các ngài về nhà. Đồng thời, để mừng kính và đánh dấu thành quả của Công đồng, kinh “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội” đã được sáng tác vào dịp này và được Đức Giáo Hoàng Xêléttin chấp nhận.
Như vậy, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, là một tín điều, một chân lý đức tin. Để Đức Maria thực sự được gọi là Mẹ Thiên Chúa thì những điều kiện ắt có và đủ là: ngài phải thực sự sinh một người con, và người con này từ giây phút đầu hiện hữu làm người đã là Con Thiên Chúa hoặc Ngôi Lời, mà thực vậy, Đức Maria thực sự có đủ những điều kiện đó. Nói khác đi, Chúa Giêsu là người thật và cũng là Thiên Chúa thật, bởi thế, nếu Đức Maria là Mẹ thật của Chúa Giêsu, thì ngài cũng là Mẹ thật của Thiên Chúa.
Như vậy, vì có mầu nhiệm Đức Kitô mà có mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa. Mầu nhiệm này gắn liền với Con Thiên Chúa làm người. Trong lịch sử Giáo Hội, chỉ sau khi xác định chân tướng Chúa Giêsu Kitô, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, Giáo Hội mới xác định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Nếu Chúa Kitô chỉ là Thiên Chúa thôi thì không làm gì có “Mẹ Thiên Chúa” như một “siêu Thiên Chúa”. Hay nếu Chúa Kitô chỉ là người thôi, cho dù là:siêu nhân” đi nữa, thì Đức Maria càng không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Cho nên, ngày nay chúng ta tuyên xưng đức tin mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa là bởi vì mầu nhiệm ấy gắn liền với mầu nhiệm nhập thể, như trong kinh Tin kính: “Ngài là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật… Ngài đã từ trời xuống thế bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người”. Chúng ta tin nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa chính là vì chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đức Maria sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu cao cả, một đặc ân tuyệt vời mà không ai dám nghĩ tới, kể cả chính Đức Mẹ. Mọi tước hiệu và các đặc ân khác được ban cho Đức Mẹ như vô nhiễm nguyên tội, đồng trinh trọn đời, hồn xác lên trời chỉ là những đòi hỏi bắt buộc phải có, hay là những hiệu quả tất nhiên của chức vụ Mẹ Thiên Chúa độc đáo này. Thánh Bônaventura đã nói: “Chức Mẹ Thiên Chúa là một ơn vĩ đại phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho loài thụ tạo. Ơn ấy Ngài đã ban cho Đức Maria”, “Thiên Chúa có thể mở rộng thêm bầu trời, có thể làm cho trái đất lớn thêm ra, có thể tạo dựng một thế giới vĩ đại hơn, nhưng Thiên Chúa không thể tạo dựng một người Mẹ Thiên Chúa cao sang hơn được nữa, vì muốn vậy phải có một Con Thiên Chúa cao trọng hơn nữa, điều đó không thể nào có được”. Thánh Tôma Tiến sĩ nói thêm: “Tước vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria cao trọng hầu như vô cùng, vì Thiên Chúa không thể cất nhắc ai lên bậc tốt lành và cao sang hơn nữa, chức mẹ Thiên Chúa hầu như đã tới biên giới vô cùng”.
Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, Đức Mẹ có uy quyền đáng kính nể, đó là điều thông thường và dễ hiểu, bởi vì một người mẹ nào có con làm lớn và nhiều quyền, thì người mẹ đó cũng có nhiều uy quyền và được mọi người kính nể. Đàng khác, trên đời này chúng ta chỉ trông cậy người nào có thế và có lòng, vì có hai yếu tố đó họ sẽ giúp chúng ta đạt được những điều chúng ta mong muốn. Đức Maria có cả hai yếu tố đó và có một cách tuyệt vời. Đức Mẹ có thế, vì là Mẹ Thiên Chúa, chẳng có sự gì Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta mà không được. Đức Mẹ lại có lòng, tấm lòng của một bà mẹ, hoàn hảo hơn hết người mẹ. Vì thế, chúng ta hãy đến với Đức Mẹ và năng cầu xin mẹ cứu giúp.
Hôm nay là ngày tân niên, ngày đầu của một năm mới, chúng ta hãy trao năm mới này, trao con người và cuộc đời chúng ta trong vòng tay từ mẫu của Mẹ, xin Mẹ ban bình an và cho chúng ta thêm tuổi thêm khôn ngoan, thêm nhân đức, thêm sự nghiệp đức tin trước mặt Thiên Chúa và mọi người.
27. Thân Mẫu Của Vua Hòa Bình
(Yvon Daigneault)
Hình ảnh đẹp nhất về hòa bình là hình ảnh một phụ nữ âu yếm bồng con. Và hình ảnh hung bạo nhất của chiến tranh là hình ảnh một phụ nữ khóc than bên xác của con mình, nạn nhân của bất cứ loại vũ khí nào.
Khi Thiên Chúa muốn mặc khải cho chúng ta rằng Ngài đến mặc khải công trình cứu độ mà Ngài thực hiện để “làm cho chúng ta trở thành con cái Ngài”, thì Ngài đã hiến dâng chính mình như một trẻ thơ được bồng ẵm trong tay âu yếm của một phụ nữ, Đức Maria, thân mẫu Ngài.
Trong lễ này, ta hãy chiêm ngưỡng Đức Maria thân mẫu Chúa Giêsu, vua hòa bình, như Lời Chúa trình bày cho chúng ta.
Tình mẫu tử của Đức Maria.
Tin Mừng gợi lên một cách kín đáo nhưng đúng đắn thực tại tình mẫu tử của Đức Maria. Chỉ hai nét đã đủ, trong ấy mọi người phụ nữ làm mẹ sẽ nhận ra được mình: lo lắng cho hài nhi và liên lỉ chú ý đến những biến cố trong cuộc đời của con.
Việc Chúa Giêsu sinh ra đã không làm cho Đức Maria ngạc nhiên. Người đã giúp đỡ bà chị họ Êlisabet và có lẽ nhiều người phụ nữ khác trong làng nữa. Người biết phải săn sóc, âu yếm, an ủi trẻ sơ sinh như thế nào. Và, như tất cả những người mẹ chất chứa trong ký ức của lòng mình vô số kỷ niệm từ những đứa con bà đã cưu mang và đã sinh hạ, Đức Maria nhớ tất cả những gì đã xảy ra liên quan đến Chúa Giêsu. Người ta nhìn thấy Mẹ đầy hạnh phúc sâu xa, đầy vinh dự mà tất cả mọi người mẹ đều có.
Nhưng tình mẫu tử của Đức Maria khác biệt với tình mẫu tử của những người mẹ khác. Tin Mừng cho ta hiểu điều này qua một chi tiết khiến cho nhiều Kitô hữu đầu tiên và cả chúng ta nữa phải ngạc nhiên: Đức Maria và thánh Giuse đã không tự mình đặt tên cho con trẻ. Trẻ này, mặc dù sinh bởi Đức Maria nhưng là Con Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa khi đặt tên cho con trẻ sinh bởi Đức Maria, đã khẳng định mình là Cha. Đức Maria và thánh Giuse chấp nhận mầu nhiệm lớn lao này liên quan đến Con của mình. Hai đấng tôn trọng Ngài và muốn cho người ta tôn trọng Ngài khi đón tiếp các mục đồng tò mò và phấn khởi tìm đến trước một trẻ sơ sinh trong dòng họ vua Đavít.
Thời hòa bình.
Thánh Phaolô, người đầu tiên trong Thánh Kinh Tân Ước nói đến Đức Maria, đã khẳng định việc người làm mẹ, việc này chứng tỏ thực tại của ơn cứu độ.
Việc Đức Maria làm mẹ khai mạc thời đại mới, thời đại ân sủng. Người phụ nữ đầu tiên sinh con đã khai mạc lịch sử nhân loại. Vào những lúc khác, trong lịch sử Cựu Ước, mỗi giai đoạn mới lại được mở ra bằng một việc sinh con. Mẹ của Môsê sinh ra ông, bà Rút sinh ra tổ tiên của Đavít và của Chúa Giêsu. Bà Anna sinh Samuel, bà Êlisabet sinh Gioan Tẩy Giả. Việc Đức Maria sinh con, công trình của ân sủng chứ không phải của xác thịt, là biến cố mở đầu ơn cứu độ mà Thiên Chúa muốn ban cho loài người.
Việc làm mẹ này cũng mang một tính cách đặc biệt. Nó được loan báo bởi tiếng kêu: Hòa bình cho nhân loại! Nó bày tỏ công cuộc hòa bình, bởi vì hết thảy mọi người được mời gọi đến hòa giải với Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu sinh bởi Đức Maria. Cho đến tận thế tính cách làm Mẹ của Đức Maria vẫn là hình ảnh mà Thiên Chúa để lại hầu giúp chúng ta thực hiện công việc hòa bình giữa chúng ta.
Kết luận.
Khi kết thúc việc cử hành thánh lễ này chúng ta sẽ thưa với Chúa về niềm hãnh diện của chúng ta khi nghĩ đến Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta cũng hiểu rằng chúng ta phải đi đến tận cùng niềm hãnh diện đó; là con cái, chúng ta thưa Lạy Cha với Thiên Chúa, vậy trong năm mới này chúng ta có thể sống bình an với nhau không?
28. Tuyệt vời
(Lm. Đỗ Vân Lực)
Đón chào năm mới, chắc chắn có nhiều thái độ khác nhau. Người trẻ vui mừng vì càng thêm tuổi, càng thêm cao lớn. Người già có lẽ đón xuân với nhiều e ngại, dè dặt. E ngại không phải chỉ vì ngày tháng còn lại, nhưng còn vì thấy mái tóc và nét mặt ngày càng biến đổi mau lẹ. Bao nhiêu người đã muốn che dấu nỗi e ngại đó bằng những đợt nhuộm tóc hàng tháng. Người giàu có hơn lại đi căng da mặt mỗi năm. Ít nhất mỗi người đều cố gắng giữ mãi tuổi xuân hay làm cho mình trẻ lại bằng những mỹ phẩm. Ngày nay, thẩm mỹ viện không phải chỉ đón tiếp nữ giới. Cả phái mày râu cũng bước vô đó để sửa cằm, mắt, mũi và... đổi giống nữa.
Ai cũng muốn trẻ đẹp mãi. Nhưng vẻ đẹp đích thực là gì? Giá trị con người nằm ở chỗ nào? Nhìn lên Mẹ Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng ta mới thấy tất cả vẻ đẹp, giá trị và sự sống đích thực của con người.
Từ ngày còn ngồi trên gối mẹ, chúng ta đã đọc: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời...” Trí khôn chúng ta còn quá non nớt và khờ dại, làm sao hiểu được mầu nhiệm cao sâu đó? Cho tới bây giờ, chúng ta vẫn không thấu hiểu những gì chúng ta vẫn đọc hằng ngày. Vậy mà, Mẹ Maria vẫn ban ơn và cầu bầu cho chúng ta.
Mặc dù tội lỗi, chúng ta vẫn được Chúa thương ban cho chúng ta cầu khẩn Mẹ với danh hiệu cực thánh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời...” Càng tội lỗi, chúng ta càng đáng được Mẹ đoái thương. Sở dĩ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, vì Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa làm người để cứu chuộc chúng ta. Mẹ đã ban cho Chúa một thân xác để có thể sống và trở nên giống chúng ta hoàn toàn. Bởi thế, khi tuyên xưng Đức Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin chắc chắn về mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đàng khác, khi cầu nguyện với Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, chúng ta còn tin chắc sẽ được Thiên Chúa cứu độ.
Nhận tước hiệu Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ muốn chứng minh cho mọi người biết Con Thiên Chúa có một thân xác đích thực do Thánh Linh tạo dựng trong lòng Mẹ. Đàng khác, Mẹ muốn cứu tất cả nhân loại. Với chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ chỉ muốn nói thực tế Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa như lời sứ thần truyền tin. Từ giờ phút đó, Mẹ nghiễm nhiên trở thành Đức Mẹ Thiên Chúa. Tín điều này đã được công đồng Êphêsô tuyên tín năm 431. Cả Giáo Hội Đông và Tây đều tôn kính và trân trọng tước vị cao cả đó của Mẹ.
Tin như thế, Giáo hội không mù quáng, như nhiều người lầm tưởng. Họ tưởng Đức Mẹ sinh ra bản tính và ngôi vị Thiên Chúa. Nếu thế, Thiên Chúa không còn là nguyên ủy của mọi nguyên ủy nữa. Chẳng lẽ Thiên Chúa còn phải lệ thuộc như vậy? Đúng ra, chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa chỉ liên hệ tới Ngôi Hai, chứ không bao trùm cả Ngôi Nhất và Ngôi Ba. Cả bản tính Thiên Chúa, Mẹ cũng không đụng chạm tới được. Nhưng vì sinh ra con người Đức Giêsu, gồm Ngôi Lời, Thiên tính và nhân tính, nên Mẹ xứng đáng được tôn phong làm Thánh Mẫu Thiên Chúa.
Tước hiệu đó cao trọng vô cùng, nhưng không đủ hấp dẫn Mẹ đến nỗi Mẹ quên tất cả mọi sự. Mẹ không muốn đổi danh dự của một trinh nữ lấy tước hiệu đó. Tới khi được thiên thần bảo đảm Thánh Thần sẽ hành động tất cả, Mẹ mới khiêm tốn thưa lời xin vâng. Cử chỉ đó đã khiến Mẹ được Thiên Chúa quý trọng và nâng cao Mẹ vượt trên các thiên thần và các thánh trên trời.
Mẹ quả là một con người biết tự trọng và có trách nhiệm về những việc xảy ra. Chính vì thế, nơi cung lòng Mẹ, đất trời đã gặp gỡ và tấu lên ca khúc bình an. Một cuộc hiệp thông lớn lao đã diễn ra ngay trong lòng Mẹ. Có một nhân vị vô cùng cao trọng đang giang tay nối người anh em nhân loại với Thiên Chúa là Cha. Nếu Mẹ không cương trực và khiêm cung chấp nhận sinh Con Thiên Chúa, làm sao có một nhân vị làm trung gian nối đất trời như vậy?
Từ ngày Chúa Nhập Thể, con người trở thành “trung tâm của hòa bình.” Bởi thế, “tôn trọng con người” là “thăng tiến hòa bình.” (Bênêđictô XVI) Đúng thế, trước khi Chúa làm người, không ai có thể nối kết đất trời và dẫn con người đi vào cuộc hiệp thông và hòa giải với Thiên Chúa và với con người. Trong công cuộc hòa giải lớn lao này, Mẹ Maria đã đóng một vai trò rất quan trọng. Nếu Mẹ không cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, chắc chắn Mẹ cũng không thể trở thành Thánh Mẫu Thiên Chúa. Nhưng ngay khi Mẹ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ trở thành Nữ Vương Hòa Bình, vì cung lòng Mẹ đã cưu mang Thái Tử Hòa Bình là Con Thiên Chúa.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã thương cho con nhận biết và tin thật Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thiên Chúa và Nữ Vương Hòa Bình. Xin cho con trung thành và siêng năng kêu cầu “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời” suốt cuộc đời con để hòa bình luôn ngự trị trên khắp hoàn cầu. Amen.
29. Nữ Vương Hòa Bình
Ngày đầu năm mới và cũng là ngày Quốc Tế Hòa Bình, Giáo Hội hân hoan cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Hoàng Tử Bình An, là hòa bình đích thực của nhân loại.
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con của Ngài sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mariađã được nâng lên địa vị là Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội muốn đặt lễ hôm nay lên hàng đầu của năm tháng ngày giờ.
1. Ý nghĩa của Truyền Tin.
Tại sao một thiếu nữ nhỏ bé sống ở làng nghèo Nadaret lại trở thành Mẹ Thiên Chúa? Nhìn về mặt bề ngoài, Mẹ Maria không có gì nổi bật so với những người phụ nữ thời ấy. Tên Maria là một tên rất phổ biến, giống như tên Tuyết, Cúc, Đào…trong giới phụ nữ Việt Nam. Mẹ Maria người làng Nadaret (Lc 1,26), một làng rất tầm thường như sau này Nathanael nhận xét: “Từ Nadaret làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46).
Để có câu trả lời, cần tìm về ý nghĩa của biến cố Truyền Tin. Thi sĩ Hàn Mặc Tử viết bài thơ ‘Ave Maria’ bất hủ từ câu chuyện này.
Hỡi Sứ thần Thiên Chúa, Gabriel.
Khi Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ.
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú.
Người có nghe náo động cả muôn trời.
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời.
Để ca tụng bằng hương hoa sáng láng.
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng.
Một đêm xuân là rất đỗi anh linh.
Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp.
Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập.
Cả Hàn Giang, cả màu sắc thiên không.
Lút linh hồn và ám ảnh hương lòng.
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyền ước.
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước.
Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm…
Sứ thần Gabriel đến Nadaret chào thôn nữ Maria:“Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Ba tiếng “Đầy-ân-sủng” gộp lại trở thành như là tên gọi riêng của Đức Maria. Mẹ được tràn đầy ân sủng. Mẹ luôn luôn có Thiên Chúa ở cùng. Không có giây phút nào mà Mẹ không có Thiên Chúa với mình. Không có giây phút nào mà Mẹ không trọn vẹn thuộc về Chúa. Không có bất cứ dấu vết tội lỗi chen vào giữa Mẹ và Thiên Chúa (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Tại sao Thiên thần nói với Maria: hãy vui lên?. Lời mời gọi này nhắc lại lời Ngôn sứ Xôphônia thế kỷ thứ VI báo tin ngày cứu độ cho Israel: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi…Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng” (Xp 3,14-17). Sứ thần Gabriel cũng mời gọi Đức Maria hãy vui lên vì giờ cứu độ của Thiên Chúa đã đến. Sứ thần trình bày: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Đức Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavit tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacop đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,31-33).
Là một tâm hồn luôn luôn nghiền ngẫm Kinh thánh, chắc hẳn Đức Maria nhớ lại Lời Chúa đã dùng Ngôn sứ Nathan mà thề hứa với vua Đavit xưa. Nhưng điều mà Mẹ không bao giờ nghĩ tới là mình có thể có vai trò gì trong việc thực hiện lời tiên tri ấy. Chuyện “không thể” được đầu tiên là làm sao mình sinh con được vì đã quyết “không biết đến chuyện vợ chồng” để sống trọn vẹn cho một mình Thiên Chúa mà thôi. Sau khi được Sứ thần giải thích rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Maria khiêm nhường thưa lại: ‘Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Và thế là Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong lòng Đức Trinh Nữ. Và thế là Đức Maria khiêm nhường đã trở thành thánh mẫu của Thiên Chúa.
Mẹ được Thiên Chúa sủng ái, và được trở nên cao trọng, vì Mẹ khiêm nhường. Đức khiêm nhường dẫn Mẹ đến chỗ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa.Trong bài Magnificat, chính Đức Mẹ đã nói về mình rằng:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Chúa đoái thương nhìn tới.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường
Đức Mẹ thuộc truyền thống những người nghèo khó, hèn mọn được Thiên Chúa che chở cách riêng. CĐ Vaticanô II trong hiến chế tín lý về Giáo hội đã dạy: “Đức Maria đứng đầu trong hàng ngũ những người khiêm nhường và nghèo khó của Chúa vẫn mong đợi và lãnh nhận ơn cứu độ với lòng tin tưởng” (số 55).
Từ biến cố Truyền tin, qua lời đáp xin vâng của Mẹ, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng dạ Mẹ. Đức Maria trở thành Mẹ Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Giáo hội đã tuyên bố Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, Người có ngôi vị duy nhất trong hai bản tính. Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Thiên Chúa làm người, nên là Mẹ của Thiên Chúa. Công đồng Êphêsô 431 đã minh định điều ấy khi tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Đức Maria đã trở thành Mẹ của Chúa qua thái độ khiêm nhường và lời đáp xin vâng phát xuất từ lòng tin của Mẹ. Do đó, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta không chỉ hiểu chức làm mẹ đó chỉ thuộc về thân xác mà thôi, nhưng nhìn nhận Đức Maria là Mẹ do hành vi tin hoàn toàn tự do của Ngài, như bà Êlisabet đã thốt lên: “Phúc cho em vì đã tin những lời Chúa phán”. Chúa Giêsu có lần đã tuyên bố: “Mẹ và anh em Ta là những ai biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa” (Lc 8,21).
2. Tín điều Mẹ Thiên Chúa
Mẹ Thiên Chúa trở thành một tín điều và là mầu nhiệm của đức tin Công Giáo. Tước hiệu này đã trở nên một phần vĩnh viễn trong những kinh tuyên xưng đức tin và trong phụng vụ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo.
Tín điều Mẹ Thiên Chúa được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh.
Tiên tri Isaia loan báo: “một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Đức Maria sinh ra Đấng Emmanuel, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Lời tiên tri được thực hiện khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria: "Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu... Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa." (Lc 1,31-35).
Thánh Phaolô viết: ‘Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật” (Gal 4,14). Trong Tin mừng Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2,1 ; 19,26), và trong Tin mừng Luca, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đến thăm bà Elidabet (1,43).
Các Kitô hữu thời sơ khai được các Tông Đồ hướng dẫn, luôn có một niềm tin vững chắc vào thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như Kinh Tin Kính của các Tông Đồ.
Tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô Antiochia, tin yêu và truyền dạy.
Công Đồng Êphêsô năm 431 tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Công Đồng Constantinople III (680-681) xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.
Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10.
Đức Piô XII, đã thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.
Công Đồng Vaticanô II dành chương VIII trong Hiến Chế Lumen Gentium, nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang ngày 1 tháng 1 hàng năm.
Thánh Lễ thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội. Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, linh mục chủ tế đọc: Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc: Cùng với Đưc Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa...
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…” là lời kinh được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu Mẹ Chúa Trời được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe, trên giường bệnh... Càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ.
30. Nữ Vương Hòa Bình
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Giáo Hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm Dương lịch, cũng là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới như một nhắc nhớ việc chiêm ngưỡng Mẹ là một Tạo Vật mới tinh tuyền của Thiên Chúa, một Evà mới khởi đầu một thời đại mới, một tạo dựng mới. Kỷ nguyên cứu độ đã khởi sự qua việc Chúa Giêsu nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ sau lời xin vâng. Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để bắt đầu kỷ nguyên cứu độ. Nếu Evà cũ đã bất tuân để vùi lấp con người trong khổ đau và sự chết, thì Đức Mẹ với tâm tình xin vâng đã đưa Chúa Giêsu đến với nhân loại mang lại sự sống và tình yêu. Từ đây nhân loại sẽ bước đi trong ánh sáng cứu độ. Chúa Giêsu vị Vua Thái Bình, Hoàng Tử Bình An đã đi vào lòng thế giới, để thiết lập vương quốc Nước Trời qua Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người.” (Marialis Cultus, số 5).Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình, đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha. Mẹ Maria luôn gắn bó, hợp tác, hiệp công với Con của mình nên đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn thế giới. Mẹ đã đóng góp cả cuộc đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi.Chủ đề Sứ điệp Hòa Bình năm nay là “Không còn nô lệ nữa, nhưng chỉ còn tình huynh đệ với nhau”. ĐTC Phanxicô viết: “Việc quay trở về với Đức Kitô, bắt đầu một cuộc sống là người môn đệ trong Đức Kitô, làm nên một sự tái sinh (x. 2Cr 5,17; 1Pt 1,3) vốn tái tạo lại tình huynh đệ như là mối dây nền tảng của đời sống gia đình và đời sống xã hội” (Sứ điệp ngày Thế Giới Hòa Bình 2015).
Đức Mẹ khuyên mọi tín hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra để lại lời nhắn nhủ dưới hình thức của huấn lệnh là: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo nhau và chuỗi Mân Côi được đặt như là một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp người ta đạt được hòa bình. Chính trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Ở đâu kinh Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: “Nữ Vương ban sự bình an cầu cho chúng con”.
Lễ Mẹ Thiên Chúa kết thúc tuần Bát Nhật Giáng Sinh làm tỏa sáng vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu cứu độ. Ngôi Hai đã vâng phục nhập thể cứu độ nhân loại. Với tiếng xin vâng, Đức Maria làm Mẹ Ngôi Lời nhập thể và làm Mẹ hết thảy những ai được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Lạy Mẹ Maria Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Xin cho chúng con luôn biết noi gương Mẹ, gắn bó cùng Chúa trọn đời. Amen.
31. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa
(Lm. Munachi Ezeogu)
Trong Anh ngữ, tháng một (January) là đặt theo tên của một vị thần La-Mã, vị thần này có hai mặt, một mặt nhìn về quá khứ và một mặt hướng đến tương lai. Thật vậy, đây là thời điểm để cho chúng ta nhìn lại một năm đã qua và hướng về một năm mới trước mặt. Một năm đã qua đi, tôi đã làm được những gì, và gặt hái được những gì? Tôi đã tận dụng thời gian ấy để thăng tiến trong những ước nguyện và mục tiêu trong cuộc sống của mình như thế nào? Tôi có dùng những thời gian qua để nâng cao mục đích của sự hiện hữu của tôi không? Tôi có thể làm tốt hơn năm ngoái theo cách sử dụng thời giờ cho những đòi hỏi của việc làm, của gia đình, của bạn bè, của xã hội, và sự đòi hỏi của đời sống tâm linh của riêng tôi? Tôi đã gặt hái được gì và điều gì đã không thành tựu trong năm qua? Làm thế nào để tôi củng cố được những thành tựu trong năm qua đồng thời đảo ngược những thất bại và mất mát trong năm mới? Qua sự kiểm điểm chính mình bằng những câu hỏi nêu trên, chúng ta nhận ra rằng sự kiểm điểm ấy sẽ đưa chúng ta tìm được mục đích và những quyết tâm cải hóa trong năm mới.
Có người nói với chúng ta rằng: mình chẳng cần phải có quyết tâm cải đổi trong năm mới. Đừng tin họ! Chúng ta phải định mục tiêu cho chính chúng ta và đề ra những cải đổi cần thiết tóm gọn trong những điều chúng ta đã kiểm điểm. Chúng ta cần phải kiểm điểm đời sống của chúng ta hằng năm, vì như triết gia Socrates nói, cuộc đời không có kiểm điểm là cuộc đời không đáng sống.
Báo chí ngày nay đầy rẫy những quyết tâm cải cách cho cá nhân hoặc tập thể. Hầu hết những điều ấy thường chỉ là những mong ước hơn là quyết tâm. Sự khác biệt giữa mong ước và quyết tâm như thế nào? Mong ước là nhận ra được mục đích người ta muốn đạt được, quyết tâm cải cách là định rõ từng bước người ta phải tiến hành để đạt được mục đích. Sự mong ước: đây là điểm tôi muốn đạt, còn quyết tâm thì nói: đây là lề lối tôi sẽ áp dụng, đây là những điều tôi sẽ làm để đạt được thành qủa. Người hay mong ước thì nói rằng: “Tôi muốn thi đậu trong năm nay” và người có quyết tâm thì nói: “Tôi sẽ dành ra một tiếng đồng hồ mỗi ngày để học cho đậu cuộc thi này”. Người hay mong ước thì nói: “Năm nay, tôi sẽ có thêm sự an bình và thương yêu trong gia đình tôi” còn người có quyết tâm thì nói: “Tôi sẽ dành nhiều thì giờ hơn nữa cho gia đình, nơi bàn ăn hơn là vội vã để xem truyền hình, để chúng tôi có dịp tìm hiểu và thông cảm nhau hơn”. Người hay mong ước thì nói: “Năm nay, tôi sẽ sống một đời sống kết hợp với Chúa” còn người có quyết tâm thì nói: “Hằng ngày, tôi sẽ dành ra thời gian này để cầu nguyện và nghe lời Chúa”. Sự khác biệt giữa mong ước và quyết tâm là: Chúng ta có chuẩn bị để làm những gì có thể làm được để tạo ước mơ thành sự thật chưa? Chúng ta có chuẩn bị để trả giá cho những điều mình sắp làm chưa?
Đoạn phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy Đức Maria là gương mẫu của cuộc sống mới trong Chúa Kitô, cuộc sống mà tất cả chúng ta mong ước cho mình trong năm mới. Chúng ta thấy rằng Đức Maria đã được chuẩn bị để làm những công việc cho mục đích tạo cuộc sống mới này. Đức Maria đã làm gì? Chúng ta đọc thấy rằng khi các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, họ nói rằng các thiên thần đã báo tin cho họ biết. “Nhưng Đức Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Luca 2:19). Lại nữa, sau khi tìm được thiếu niên Giêsu trong đền thờ, chúng ta cũng được nghe rằng “Riêng Đức Mẹ thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Luca 2:51). Đức Maria là người đàn bà đã tôn kính lời Chúa, đã trân qúy lời Chúa và đã dành thời giờ để suy niệm Lời của Chúa. Thật ra, sự thánh thiện của Đức Maria đã thông phần với hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta cũng không quên rằng: Đức Maria đã cần phải dành nhiều nỗ lực để được đồng cộng tác trong ân sủng của Thiên Chúa. Người đã suy niệm Lời Chúa để nhận biết những điều Chúa đã nói với mình trong từng giai đoạn của đời mình, cuộc đời được làm tôi tớ của Chúa.
Hai thí dụ kể trên về Đức Maria đã suy niệm, cân nhắc lời Chúa, như sau khi các mục đồng đến thờ lạy Chúa Hài Đồng và sau khi tìm được Chúa Giêsu trong đền thờ, cho thấy rằng Đức Maria đã tìm ra lời Chúa trong sự mặc khải thiêng liêng (lời của thiên thần báo cho mục đồng) và trong kinh nghiệm của chính Người (khi gặp lại Con trong đền thờ). Tương tự như vậy, ngày nay Chúa nói với chúng ta qua sự mặc khải thiêng liêng (kinh thánh, các bài giảng, những điều giảng dậy của Hội Thánh) ngay cả qua những kinh nghiệm cá nhân, nếu chúng ta dành thì giờ để suy gẫm như Đức Maria đã làm.
Cho dù chúng ta đang ở trong tình huống nào, một sự khốn khó, một điều bất như ý, trước một quyết định khó khăn – Chúa có phương thức giải quyết, Chúa có giải đáp đúng đắn cho chúng ta. Hãy kể những điều ấy cho Chúa nghe trong lời kinh nguyện, nhưng cũng lắng nghe những gì Chúa nói với chúng ta. Cầu nguyện là đối thoại với Chúa, nhưng đôi khi chúng ta chỉ muốn nhấc điện thoại đọc lên một chuỗi những khó khăn của mình cho Chúa nghe và cúp điện thoại để không nghe những gì Chúa muốn nói với chúng ta. Hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm lắng nghe tiếng Chúa, trân qúy và suy niệm trong lòng. Từ đấy chúng ta sẽ có thể nhận biết những cải hóa cần thiết cho cuộc sống mới kết hợp với Chuá.
32. Mẹ tất cả mọi người
(Lm. Mark Link)
Chủ đề: "Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà còn là Mẹ của hết thảy chúng ta."
Cách đây nhiều năm, Fulton Oursler là biên tập viên của một tạp chí nội địa được các độc giả hoan nghênh nhiệt liệt, câu chuyện đàng sau sự thành công của anh rất hấp dẫn. Nhưng câu chuyện anh tìm kiếm Thiên Chúa còn hấp dẫn hơn nữa.
Với tư cách một phóng viên cho tờ báo Baltimore American, đã dự những buổi họp của giáo phái Methodist, các hội nghị của gíao phái Baptist, và những buổi sinh hoạt ngoài trời. Anh cùng dự cả những buổi họp để chờ các vong hồn xuất hiện trong phòng tối. Anh nói: “vào tuổi 30, ngoài những chuyện ấy ra, tôi còn tự nhận mình là người theo thuyết bất khả tri (agnostic). Nhưng thay vì tìm được bình an, sự vô tín ngưỡng khiến anh cảm thấy tâm hồn mình hoàn toàn trống trải và bất hạnh. Sự trống trải bất hạnh ấy về sau lại biến thành một nỗi u uất gặm nhấm tâm hồn anh. Thế rồi một ngày kia, cơn khủng hoảng trầm trọng đó đã làm cho gia đình anh phải lo sợ. Anh cần được cứu giúp. Nhưng sự cứu giúp mà anh cần là một thứ cứu giúp mà bạn bè anh không thể làm được cho anh. Anh không biết cầu cứu ai, kể cả Thượng Đế, vì anh có tin vào Ngài đâu.
Tại New York, vào một ngày lộng gío, anh rảo bước trên đại lộ Thứ Năm. Tới nhà thờ chính toà, anh dừng lại, ngắm nhìn ngôi giáo đường và suy nghĩ. Anh đang tuyệt vọng. Mấy phút sau, anh định thần lại bước lên các bậc thang, vào bên trong nhà thờ và ngồi xuống, sau một vài phút tập trung tư tưởng, anh cúi đầu xuống và xin Thiên Chúa ban đức tin cho anh. Anh ngồi đó một lát rồi đứng dậy. Anh tới gian nhà nguyện của Đức Mẹ ở trong giáo đường. Anh bước vào trong, quì gối xuống, và cầu nguyện như sau:
“Mười phút nữa hay sớm hơn, tôi có thể thay đổi ý định, tôi có thể chế diễu tất cả những việc này và lại trở lại với sự sai lầm của tôi. Vì thế xin đừng chú ý đến tôi nữa. Vì trong giây phút ngắn ngủi này, tôi cảm thấy tâm hồn bình an. Đây là cố gắng lớn nhất của tôi, xin Ngài hãy khấng nhận và quên đi những gì khác. Và nếu Ngài thực sự có mặt tại đây xin hãy cứu giúp tôi”.
Vào giây phút đó, anh nói, bắt đầu có một sự biến đổi kỳ lạ trong cuộc đời anh. Cuối cùng, sự biến đổi đó đã khiến anh trở nên một Kitô hữu có một niềm tin tưởng sâu xa.
***
Việc Fulton Oursler tìm kiếm Thiên Chúa đã kết thúc tại một giáo đường. Đời sống tâm linh và cuộc sống mới của anh bắt đầu tại một nhà nguyện dâng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Thật là một nơi thích hợp cho sự việc đó. Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa. Ngài còn là Mẹ của toàn nhân loại về mặt tâm linh. Vì khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu, Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới. Thánh Phaolô diễn tả mầu nhiệm đó trong bài đọc II như sau:
“Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống, sinh làm con một người nữ, và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới chế độ lề luật đó, hầu chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa… và vì bạn là con của Thiên Chúa, nên Ngài sẽ cho bạn tất cả những gì Ngài dành cho con cái Ngài”.
Bàn luận về mầu nhiệm cao cả này, Hiến Chế về Giáo hội trong thế giới ngày nay của công đồng Vatican II nói:
“Qua mầu nhiệm nhập thể, một cách nào đó, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người, Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa, và yêu thương bằng trái tim loài người, sinh từ lòng Đức Maria Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta hoàn toàn giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi”.
Thật vậy, khi Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới, vì thế Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà ngài còn là Mẹ tất cả mọi người chúng ta nữa.
Vì Đức Mẹ là Mẹ chúng ta, nên ngài là một trạng sư bào chữa cho chúng ta rất hữu hiệu trên trời. Không biết Đức Maria là mẹ mình, chính là không biết đến món quà mà Thiên Chúa ban tặng chúng ta, tức tình mẫu tử của Đức Maria dành cho chúng ta.
Điều đó khiến chúng ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với hy vọng mới. Năm mới với cuộc đời mới. Năm mới là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại.
Năm ngoái là quá khứ, đã qua rồi. Năm nay vừa mới sinh ra và ở trước mặt ta. Đó là món quà Thiên Chúa tặng chúng ta. Những gì chúng ta làm được với món quà ấy, chính là món quà mà chúng ta sẽ dâng lên Thiên Chúa. Thật là thích hợp khi Giáo hội chọn ngày đầu năm để mừng kính lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Vì điều đó nhắc nhở chúng ta rằng tình mẫu tử của Đức Maria mà bạn và tôi được Thiên Chúa ban cho một đời sống hoàn toàn mới, một niềm hy vọng mới, thứ hy vọng mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban tặng. Nếu chúng ta đang tìm một quyết định cho năm mới này thì không có một quyết định nào tốt đẹp hơn là tạo cho Đức Maria một vai trò quan trọng hơn trong đời sống chúng ta. Và một trong những cách để thực hiện quyết định đó là thực hiện bằng cầu nguyện.
Chúng ta có thể xin Đức Maria bầu cử cho chúng ta như Ngài đã từng bầu cử cho biết bao những đứa con khác của Ngài trong lịch sử. Một cách đơn giản để thực hiện điều đó là cầu nguyện hằng ngày bằng bài kinh đặc biệt kính Đức Maria, tức kinh Kính Mừng. Một cách khác để làm điều đó là bắt chước cách cầu nguyện của chính Đức Maria. Trước hết, Ngài cầu nguyện bằng cách suy niệm về hoạt động của Thiên Chúa, không phải chỉ ở trong lịch sử loài người, mà ở ngay trong cuộc sống của Ngài nữa. Thánh Luca đã cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này vào cuối bài tường thuật của Ngài về việc Đức Giêsu sinh ra: “Maria ghi nhớ tất cả những chuyện ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19). Một cách cầu nguyện khác nữa của Đức Maria là nói với Thiên Chúa cách hồn nhiên những gì xuất phát từ trái tim Ngài. Thánh Luca cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này khi mô tả Đức Maria cầu nguyện trong cuộc viếng thăm bà Isave. Chúng ta hãy dùng lời kinh ấy để kết thúc bài giảng hôm nay. Xin mời anh chị em im lặng cùng cầu nguyện với tôi:
“Linh hồn tôi tán dương Thiên Chúa,
Thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi,
Ngài đã đoái thương đến tôi, là tôi tớ thấp hèn của Ngài
“Kể từ nay muôn đời sẽ khen tôi có phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại.
“Ngài đã giơ cánh tay thần lực nâng những người hèn mọn lên …
“Ngài đã giữ lời đã phán hứa với các tổ phụ…
“Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abrham và dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc 1: 46-55)
33. Là mẹ và là khuôn mẫu
(Mark Link)
Chủ đề: Đức Maria là Mẹ chúng ta, và cũng là khuôn mẫu dạy chúng ta phải tin tưởng vào Chúa như thế nào.
Có một linh mục được mời tới giảng phòng cho một khoá tĩnh tâm. Các cô gái nọ trao cho ngài một lá thư, ngài liền bỏ vào túi nhưng rồi quên béng đi. Sau khóa tĩnh tâm, ngài tìm thấy lá thư ấy. Ngài mở ra và đọc thấy những dòng sau đây; “Con bị bệnh tâm thần và được điều trị suốt 8 tháng nay. Sự kiện này con chỉ cho vài người thân biết thôi. Số là khi còn bé, con bị lâm vào một tâm trạng sợ hãi khủng khiếp vì bị người khác căm ghét, hành hạ, bạc đãi, nỗ lực lớn lao nhất của con hiện nay là thắng vượt và chuyển biến nỗi sợ hãi ấy. Con không cần nhắc đến từng chi tiết nhưng tựu trung nỗi sợ ấy là do nơi người mẹ của con… con có ác cảm với mọi khái niệm về người mẹ đến nỗi con quyết tâm khước từ tình yêu của Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Sau khi nghe bài giảng của cha trong tuần tĩnh tâm, con đi bộ ra ngoài, lòng cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Con cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng phó thác được… con muốn khóc to lên, nhưng suốt mấy tháng trời vẫn không khóc được… chắc cha cũng biết căn nhà nhỏ bé, tròn tròn gần cạnh nghĩa trang chứ? Con đã đến đó vì tò mò và con mở cửa bước vào. Khi nhìn vào trong, lòng con cảm thấy sợ hãi. Ở đây có tượng Đức Mẹ Maria. Cảm giác đầu tiên của con là muốn giận dữ bỏ đi ngay, nhưng rồi có cái gì đó đã từ từ lôi kéo con đến quì dưới chân Ngài. Và con đã quì gối xuống vừa gục vào vạt áo dài của Ngài vừa khóc, sau đó, con cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng trong trắng, và mong ước, mình được là một đứa trẻ, một người con đầy tin tưởng và phó thác… hơn thế nữa, con còn cảm nhận được tình yêu của một người mẹ dành cho con khiến con nẩy sinh một ước muốn thực sự là tha thứ cho mẹ ruột của mình”.
Câu chuyện cảm động trên gợi lên những hình ảnh tuyệt hảo cho chúng ta trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta mừng hôm nay. Lễ này nêu bật hai điểm về Đức Maria. Thứ nhất: Đức Maria là Mẹ chúng ta. Ngài không chỉ là mẹ Chúa Giêsu, Đấng sống cách đây hơn 2000 năm. Ngài còn là Mẹ chúng ta nữa. Từ trời cao, Ngài vẫn mong muốn giúp đỡ chúng ta như một người Mẹ. Thứ đến, Đức Maria cũng là khuôn mẫu của chúng ta. Chúng ta phải tôn sùng và bắt chước ngài. Ở đây, chúng ta chỉ cần nêu ra một nét đặc trưng nơi Đức Mẹ, đó là Mẹ tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa. Khi thiên sứ báo cho mẹ biết mẹ sẽ sinh con trai bởi phép Chúa Thánh Thần, thì Mẹ hiểu ngay rằng việc này có thể sẽ khiến Thánh Giuse cắt đứt quan hệ bạn đính hôn với Mẹ - và điều này chỉ chút xíu nữa là đã thực sự xảy ra - Thế nhưng Mẹ vẫn vững tin vào chúa. Khi nghe mục đồng kể lại lời các Thiên thần, Mẹ cũng không hiểu, nhưng lần nữa, Ngài vẫn tín thác vào Chúa, về sau, khi Mẹ và Thánh Giuse đem hài nhi Giêsu vào đền thờ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ: “Sầu khổ sẽ như một mũi gươm nhọn đâm thâu qua trái tim bà” (Lc 3: 35). Lần này, Mẹ Maria cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa lời trên nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Rồi khi lên mười hai tuổi, Đức Giêsu ở lại trong đền thờ. Lúc gặp lại Đức Giêsu, Mẹ Maria hỏi Ngài lý do tại sao, Ngài đáp lại: “Mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con sao? một lần nữa, Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ cẫn cứ tín thác vào Chúa.
Ngày nay Mẹ Maria có thể giúp chúng ta biết tín thác vào Chúa. Xin hãy nhớ lại câu chuyện cô gái trong khoá tĩnh tâm nọ. Cô ta đã phải trải qua một Kinh nghiệm thời thơ ấu đầy kinh hãi khiến cô mất hẳn niềm tin. Cô muốn tin tưởng trở lại nhưng không thể được. Thế rồi, một ngày nọ, hoàn toàn do tình cờ, cô đã quì xuống dưới chân Mẹ Maria và quyết định cầu nguyện với Ngài. Chúng ta hãy nhắc lại chính những lời của cô ta. “Con đã cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá tan đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng và phó thác được”. Đức Maria đã nhận lời cô cầu xin và cô đã tìm được niềm tin.
Và Đức Maria cũng có thể giúp chúng ta tin tưởng phó thác giống như Ngài từng giúp cô gái nói trên. Chẳng hạn, chúng ta là bậc cha mẹ biết quan tâm đến con cái mình. Nhưng xảy ra là chúng chẳng còn chịu đi dâng lễ, hoặc chúng theo gương những bạn bè xấu cho dầu chúng ta đã cầu nguyện, đã làm gương sáng, đã giải thích cho chúng hiểu. Thế là chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Đức Maria sẽ gíup chúng ta làm điều này. Hoặc có thể chúng ta vẫn không chắc chắn về dự tính của mình và cũng có Chúa muốn chúng ta làm gì. Chúng ta đã bàn bạc với cha mẹ và những vị cố vấn, đã cầu xin ơn Chúa hướng dẫn, thế mà chúng ta vẫn còn tối tăm mờ mịt. Vậy thì chúng ta chỉ còn biết tiếp tục cầu nguyện và phó thác vào Chúa. Đức Maria sẽ giúp chúng ta trong việc này. Hoặc chúng ta là một người đang suy tư về đức tin của mình. Chúng ta lo âu vì biết rằng đức tin mình vẫn còn yếu kém, chúng ta đã cầu xin Chúa giúp nhưng xem ra Ngài vẫn chưa nhậm lời, để rồi chúng ta bị rơi vào thắc mắc chẳng hiểu Ngài có hay không nữa. Thế là chúng ta chả còn làm gì được ngoài việc tiếp tục cầu nguyện và phó thác cho Chúa. Mẹ Maria sẽ gíup chúng ta thực hiện điều này.
Lễ hôm nay nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Maria là khuôn mẫu, đồng thời là mẹ của chúng ta, trong lúc nguy khốn, chúng ta cần hướng về Ngài để van xin Ngài trợ gíup. Ngài hằng ao ước cứu giúp chúng ta miễn là chúng ta biết kêu cầu Ngài. Nếu muốn tìm một giải pháp cho năm mới thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy quyết định dành cho Đức Mẹ Maria một vai trò to tát hơn trong cuộc đời chúng ta.
Chúng ta hãy kết thúc với kinh nguyện hằng ngày mà thánh Bernard vẫn thường dâng cho Đức Maria.
“Lạy Trinh Nữ Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu gíup mà Mẹ chẳng nhậm lời…. Nhân vì niềm tin cậy ấy, chúng con hướng về Mẹ, ôi Mẹ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh, chúng là những tội nhân khốn khổ xin đến trình diện trước Mẹ, Lạy Mẹ Ngôi Lời nhập thể xin đừng ngoảnh mặt đi mà hãy đoái thương lắng nghe và khấn nhậm lời chúng con. Amen.
34. Mẹ mẫu gương
(Lm Micae Vũ An Lộc)
Thế giới đang sống có 7 kỳ quan thế giới. Mỗi kỳ quan đều toát lên vẻ đẹp, nét hùng vĩ và sự tuyệt tác của thiên nhiên. Ấy là những kỳ quan gắn liền với thế giới hữu hình. Người ta còn khám phá ra một kỳ quan trong thế giới vô hình, ấy là lòng mẹ: công đức trời bể, âm thầm, lặng lẽ, vất vả, lao nhọc nhưng toát lên một vai trò, vị trí vô cùng to lớn trong đời sống gia đình. Và người ta gọi đó là kỳ quan thứ 8 của thế giới này. Ngày hôm nay, khởi đầu của một năm mới, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm vai trò và sứ vụ của “kỳ quan thứ 8” của mọi kỳ quan này. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Một mẫu gương về ân phúc và sự mẫu mực trong đời sống hàng ngày.
Phúc đức tại mẫu, văn hóa Việt nam chúng ta vẫn luôn đề cao vai trò của người mẹ trong gia đình. Tương lai của đứa con phụ thuộc rất nhiều vào sự giáo dưỡng của người mẹ. Sự chăm chỉ, thầm lặng, hy sinh vì gia đình của người phụ nữ trong đời sống hằng ngày, ấy là một ân phúc cho gia đình. Đức Maria hẳn phải là một ân phúc cho nhân loại chúng ta. Ân phúc vì Mẹ đã được diễm phúc, đặc ân cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa. Ân phúc vì Mẹ đã khiêm nhường, suy đi, ngẫm lại trước hồng ân cao cả này mà trong nhiều “biến cố”, Mẹ muốn như dừng bước, chối từ, thế nhưng Mẹ đã một đời Xin vâng, để đem ân phúc đến cho nhân loại chúng ta. Mẹ đã sống đẹp trong những trắc trở, tận tụy, âm thầm để cộng tác với Thiên Chúa hầu đưa đến cho con người chúng ta ân phúc tuyệt vời cao cả nhất đó chính là Đức Giê-su Ki-tô, Thái Tử Bình An, Đấng Hòa Bình cho nhân thế.
Bên cạnh đó, Đức Maria còn là một mẫu gương trong sinh hoạt hàng ngày. Trong đời sống vật chất, gia đình Nagiaret vẫn được coi là biểu tượng của những gia đình nghèo. Thế nhưng, trong đời sống tinh thần, tổ ấm thánh gia vẫn được coi là biểu tượng của sự kính trên nhường dưới, đối nhân xử thế, khéo léo nhẹ nhàng với tương quan lối xóm. Trong những sinh hoạt đời thường đó, hẳn Mẹ Maria phải là một mẫu mực cho chồng cho con. Mẫu mực cho chồng vì Mẹ đã cũng phải gạt đi tự ái, quên đi “sự kiện” mà thánh Giuse muốn âm thầm bỏ đi. Mẫu mực cho con vì tình mẫu tử đã giúp mẹ vượt thắng những thử thách hằng ngày để cộng tác, xây dựng và làm cho Nước Chúa mau trị đến ngay cả “trước lúc khi sinh, trong khi sinh và thậm chí ngay cả sau khi sinh Ngôi Hai Thiên Chúa”. Vượt lên trên những trắc trở đó, Mẹ đã trở nên mẫu mực của sự tin tưởng, phó thác, một mực trung thành tuyệt đối với Thánh Ý Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, khởi đầu ngày mới của một năm mới, mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng vào lời chuyển cầu của Mẹ cho thế giới chúng ta đang sống luôn được Bình An. Chúng ta cũng không quên từng người mẹ thân yêu của chúng ta. Có thể nói họ cũng là những Maria trong đời sống hàng ngày cho gia đình. Xin cho những người mẹ cũng biết “suy đi ngẫm lại” và “hằng ghi nhớ” mọi giáo huấn của Chúa và Hội thánh để mỗi người mẹ xứng đáng là “ân phúc và mẫu gương” trong và cho gia đình. Amen.
35. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa, đó là phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công đồng Vaticano II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau:
- “Không có gì lạ, nếu các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là “Đầy ơn phườc” (Lc. 1,28). (GH.59).
- “Được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh Vô nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài cách trọn vẹn hơn” (GH.59).
- “Đức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm Mẹ... Thật vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu chuộc không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời... Vì thế trong Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian” (GH.62)
Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc. Trong buổi Truyền Tin, chính sứ thần Gabriel đã quả quyết: “Người sẽ thụ thai và sinh con... trẻ sẽ sắp sinh sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1,31-35). Được Thánh Thần linh hứng, bà Elisabeth cũng đã lên tiếng: “Bởi đâu tôi được thế này, là mẹ Chúa tôi đến với tôi” (Lc1,43). Niềm tin vào chức phẩm cao quí là Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã có từ đầu Giáo hội. Chính thánh Phaolô đã viết: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người Nữ” (Gl 4,4).
Tiếp tục niềm tin đã có từ đầu, các tín hữu còn xác tín hơn nữa do biến cố dẫn tới những xác quyết chắc chắn của Công đồng chung Ephêsô (năm 413). Nestoriô khi ấy bác bỏ tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, ông chỉ chấp thuận Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, vì Ngài chỉ sinh ra xác thể Chúa Kitô thôi, chống lại lời rao giảng của Giám mục Nestoriô, khoảng hai trăm Giám mục đã họp tại Ephêsô ngày 22.6.431, dưới quyền chủ tọa của Thánh Cyrillô thành Alexandrioa. Công đồng này kết án Nestoriô và tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Toàn thể dân thành đã công khai bày tỏ niềm hân hoan trước thành quả này. Họ tổ chức rước đuốc để mừng các nghị phụ công đồng. Cũng từ công đồng này mà có phần sau của kinh Kính mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”.
Hợp với niềm hân hoan của dân Chúa dịp công đồng Êphêsô bế mạc, niềm tôn kính dâng lên Mẹ Thiên Chúa ngày một thêm sâu đậm. Vua Giuse Emmanuel nước Bồ Đáo Nha đã xin ông được đặc ân mừng lễ Mẹ Thiên Chúa. Thánh bộ nghi lễ đã ban bố sắc lệnh thiết lập ngày 22 tháng giêng năm 1751 và ấn định vào Chúa nhật đầu tháng năm. Từ đó nhiều nước cũng được hưởng đặc ân này. Năm 1931, dịp kỷ niệm 1500 năm, công đồng Ephêsô, Đ.G.H Piô XI đã lập lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, kính trọng thể trong khắp Giáo hội vào ngày 11 tháng 10. Chính Đức giáo hoàng Piô XI đã viết:
- “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa (Lux Veritatis 1931).
Năm 1962, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã chọn lễ kính Mẹ Thiên Chúa làm ngày khai mạc công đồng Vaticanô II.
Đức giáo hoàng Phaolô VI dời ngày lễ vào đầu năm dương lịch, việc dời ngày kính này vào ngày thế giới Hòa Bình, nhấn mạnh thêm ý nghĩa lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa hôm nay. Đức giáo hoàng Phaolô VI viết:
- “Khi canh tân mùa Giáng sinh, mọi người phải chú ý đến việc tái lập lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1 tháng giêng, đúng phụng vụ Roma từ xưa, nhằm tôn kính việc Đức Maria góp phần vào mầu nhiệm cứu rỗi và tôn vinh địa vị đặc biệt, khiến cho “Mẹ rất thánh, đáng tiếp nhận Nguồn sống cho chúng tôi”. Lễ này cũng là dịp rất tốt để chúng ta tôn thờ Vua Hòa Bình mới sinh, và nghe lại lời chúc hoà bình của các thiên sứ (Lc 2,14), để cầu Chúa, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình, ban cho ta ơn cao cả nhất là Hòa bình. Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 1 tháng giêng với ngày thứ tám giáp Lễ Giáng sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới hòa bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều Người” (ĐGH Phaolô VI. Marialis Cultus, số 5b)
36. Mẹ Thiên Chúa
(Lm. Cao Thế Bình)
Kính thưa qúi ông bà anh chị em, mỗi một người hiện hữu trên trần gian này, ai lại là người không có mẹ - cha, có điều là người mẹ đó tuyệt vời hay còn có nhiều khuyết điểm. Và nếu được quyền chọn lựa thì ai lại không muốn chọn cho mình một người mẹ tuyệt hảo, nhưng đây là điều ngoài tầm tay của con người. Còn Thiên Chúa thì sao? NGài có quyền tuyển chọn một người người mẹ tuyệt trần nhất để làm Mẹ Chúa cứu thế.
Hôm nay ngày đầu năm, Giáo Hội đặt: lễ Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, sao Giáo Hội lại đặt lễ này vào ngày thứ nhất của năm mới để làm gì, nếu không phải là để mọi người và thế giới nhìn vào Đức Maria như là là sự bình an và niềm hy vọng; vì Mẹ đã đêm đến cho nhân loại ông Vua thái bình, mà chúng ta chiêm ngắm tuần trước trong đêm Giáng Sinh. Mẹ là kiểu mẫu của người sống đức tin. Vâng, Đức Maria là một tuyệt tác tuyệt diệu của Thiên Chúa; vì Thiên Chúa cần một người Mẹ như thế để làm Mẹ của Ngôi Hai Đấng cứu thế. Mẹ Maria mà chúng ta cùng với GH hôm nay mừng kính tước hiệu: Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, đó là phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mọi đặc ân khác Chúa đã dành cho Mẹ.
Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, đó là một tín điều được công bố ngày 22- 6- 431 bởi công đồng Êphêsô, dưới quyền chủ tọa của thánh Cyrillô thành Alexandria, cũng từ Công Đồng này mà ta có phần sau của kinh kính mừng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.
Với tước hiệu Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, chắc không khỏi một số người thắc mắc: Thiên Chúa là Đấng quyền năng cao cả, tự hữu, không có ai cao cả hơn Thiên Chúa nữa, thế mà chúng ta lại nói: Đức Maria là mẹ Thiên Chúa, như vậy nghĩa là làm sao? Vâng, như tín lý dạy chúng ta rằng: Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu, xét về bản tính nhân loại thì Ngài lại hiện hữu trong thời gian qua việc Ngài được Đức Mẹ sinh ra.
Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật, nên Đức Maria cũng được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta đừng sợ tước hiệu này xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả, vì Ngài đã chấp nhận giáng trần sinh bởi một người nữ để trở nên hoàn toàn như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, thì sao ta lại sợ xúc phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của Mẹ Maria? Ở đây ta có thể chưng ra một thí dụ na ná để chúng ta dễ hiểu: chẳng hạn, ta lấy hình ảnh tổng thống công giáo đầu tiên là ông Kennedy, tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Vào ngày 20-01- 1961, khi ông trở thành tổng thống thì trên phương diện điều hành đất nước, ông là người có chức quyền cao hơn tất cả mọi người dân Hoa Kỳ, kể cả cha mẹ, ông bà nội, ông bà ngoại nữa; thế mà trong mối tương quan máu mủ gia đình thì ông lại là con của ông bà Rose Kennedy.
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, được sinh ra bởi người mẹ, việc sinh nở này do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Và Chúa Giêsu mặc lấy hai bản tính; bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại, hai bản tính này kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong một con người là Đức Giêsu Kitô, mà Chúa Giêsu lại được chính Đức Maria sinh ra. Như vậy Đức Mẹ là mẹ đích thực của Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa và như thế Đức Mẹ cũng là Mẹ Thiên Chúa, như lời của Kinh Thánh ghi lại lời chào của sứ thần Gariel: “Kính chào bà đầy ơn phúc Thiên Chúa ở cùng bà”, rồi lại nữa: “Trẻ mà bà sinh ra được gọi là thánh, là con Thiên Chúa” (Lc 1, 31-35). Rồi trong thơ Galata thánh Phaolo viết: “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người nữ”. ( Gl 4,4). Bài Tin Mừng của thánh Luca ghi lại: “Các mục đồng vội vã ra đi đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi họ trở về miệng tung hô ca ngợi Thiên Chúa” ( Lc 2,16.21).
Mừng lễ Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội lấy ngày lễ này đặt vào ngày đầu năm, ý của Giáo Hội là mong muốn con cái mình đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở và nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Ngày đầu năm, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, truyền thống này đã được Đức Giáo Hoàng Phaolo VI muốn, khi mừng lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm thì cũng cầu mong thế giới được hòa bình. Đức Maria là Mẹ của Hoàng Tử bình an nên chi, Giáo Hội nhìn lên Mẹ để cầu xin Mẹ mang Vị Vua Hoà Bình đến cho thế giới, cho mỗi người; nhất là gia đình và thế giới ngày hôm nay có qúa nhiều sự đe doạ, sống trong lo âu, sợ hãi. Cho nên, hơn bao giờ hết, gia đình và thế giới hôm nay cần phải chạy đến với Mẹ, để xin Mẹ mang Chúa của sự bình an đến cho loài người.
Anh chị em thân mến, mỗi dịp Giáng Sinh về là dịp giúp chúng ta hơn nữa để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, đồng thời khi chúng ta chiêm ngắm Vị Vua Thái Hoà, thì bên cạnh Vị Vua đó là: Đức Maria, người mẹ nhân từ, hiền dịu, yêu thương. Như vậy, ngày đầu năm chúng ta đến đây để hợp tiếng ca mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ lòng tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Ước gì chúng ta chiêm ngưỡng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và cũng là Mẹ của chúng ta, lòng chúng ta phải luôn hân hoan vui mừng vì Thiên Chúa đã ban đặc ân này cho Mẹ.
Mong sao, sau khi dâng thánh lễ, ra về, lòng mỗi người vui mừng phấn khởi như các mục đồng xưa, để loan báo tin mừng, tin vui nước trời đã thực hiện cho loài người nơi Thánh Tử Giêsu con yêu dấu của Mẹ Maria. Tin mừng, tin vui đó phải được thể hiện nơi mỗi người bằng sự niềm nở, vui tươi, tin tưởng, phó thác cuộc đời của mình theo chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, như Đức Maria luôn tìm và vâng theo thánh ý Chúa, cho dẫu gặp những hoàn cảnh khó khăn, bi đác không thể hiểu được, nhưng Mẹ luôn tín thác vào Thiên Chúa và chương trình của Ngài, qua sự lắng nghe và xin vâng.
Xin Mẹ Maria giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn suy gẫm lời Chúa như Mẹ, để lời của Chúa sinh hoa qủa dồi dào trong lòng mỗi người chúng con. Đặc biệt là ngày đầu năm này, chúng con cần phải có tâm tình như Mẹ, sống tin tưởng phó thác tất cả mọi sự cho chương trình của Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng con. Amen.
37. Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời
(Noel Quesson)
Ngày 1 tháng 1, trong khi chúng ta chúc nhau "năm tốt lành", Giáo Hội mừng lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Và chúng ta ước nguyện đi xa hơn vào huyền nhiệm Đức Kitô. Bởi vì mỗi lần Giáo Hội nói với chúng ta về Đức Maria, chính là để nói về Đức Giêsu. Chúng ta có khẳng định quá đán, khi chúng ta nói, trong kinh Kính Mừng Maria: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa? phải chăng một tạo vật có thể là mẹ Thiên Chúa? Phải Chăng Thiên Chúa lại sinh ra từ một người đàn bà, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai hôm nay (Gl 4,4).
Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Các mục đồng hết sức đơn thành, ở những vùng sườn đồi Bêlem, chạy vội đến để xác minh sứ điệp mà thiên thần truyền cho họ: "một Đấng Cứu độ được sinh ra cho các ngươi; Người là Đức Kitô và là Chúa". Chính là Hài Nhi mang ba danh hiệu ấy mà họ tìm đến. Ba danh hiệu trang trọng, thuộc về Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ, Đấng chịu Xức Dầu, Đức Chúa.
Như vậy, điều đáng chú ý nhiều hớn nữa là Luca dường như xem thường Hài nhi, khi trưng dẫn Người cuối cùng; và cũng đặt người đàn ông, ông Giuse, xuống thứ hai vào thời mà người đàn bà không có giá trị ngang bằng. "Họ khám phá ra Maria". Trong cái viễn tượng đảo lộn này, có một cuộc cách mạng thần học và nhân bản nho nhỏ.
Maria! Danh hiệu của bà là Mẹ Thiên Chúa đã chỉ được xác định ở Công đồng Êphêsô năm 430. Nhưng từ rất lâu, lòng sùng kính bình dân đã dám gọi Đức Maria là "theotokos" "Mẹ Thiên Chúa". Và vào thời đó khi các giám mục chính thức công nhận danh hiệu này, thì cả thành phố Êphêsô hoan hỉ và xuống phố lúc nữa đêm để rước đuốc mừng lễ. Cái mà các nhà thần học tìm kiếm, về mặt trí thức, từ bốn thế kỷ qua, thì về bản chất nó đã được sống nơi tất cả những người chỉ biết đơn sơ lắng nghe Tin Mừng. Các Công đồng chỉ có vai trò xác định bằng ngôn ngữ khoa học những điều đã gợi ra từ trong Tân ước. Ngoài ra còn phải đợi đến hai mươi năm nữa, thì Công đồng Can-xê-đoan sau cùng năm 451 mới xác định huyền nhiệm của Đức Giêsu và Đức Maria. Đây là văn bản tín điều, văn bản nổi tiếng nhất của lịch sử các Cồng đồng: "Tất cả, chúng tôi đồng lòng tuyên xưng, một Chúa Con độc nhất và luôn luôn là một. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn toàn về thiên tính, hoàn toàn về nhân tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu thành bới một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha do thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước các thế kỷ theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tính: một và cùng một Chúa Ki tô duy nhất. Con độc nhất, mà chúng ta phải nhận biết trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân ly, không tách biệt". Đấy là tấm giấy chứng minh kỳ diệu và rõ rệt về Đức Giêsu Nagiarét, và Mẹ Người Đức Maria.
Họ tìm ra Bà Maria và ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Cần phải lặp lại những từ này sau khi đã nghe xác định trang trọng về Đức tin. Như thế chúng ta hiện đứng trước một trong hai phương diện của Đức Giêsu, nhân tính thực của Người. Các mục đồng trông chờ tìm thấy một Đấng Cứu độ Kitô Chúa (Lc 2.11), và chỉ tìm thấy có thế: một Hài nhi trong chuồng bò lừa, đặt trong máng cỏ dành cho súc vật, một Hài Nhi trên nệm rơm! Thiên Chúa lập tức tự mạc khải như một vị hoàn toàn khác: thoạt đầu, Người khác với cái mà ta tưởng tượng về Người. Người đã hiện ra như quá gần gũi, ngay từ đầu. Người mang tính người đến nỗi nhiều người không nhận ra Người, chính vì Người bị che khuất đối với người thân tín nhất của nhân loại chúng ta.
Vâng, Giao ước giữa Thiên Chúa và con người mà Cựu ước, Tân ước nói tới, ngay từ đầu, không huyênh hoang, đã nói với chúng ta là nó đi đến đâu: hợp nhất không thể xé bỏ được, không lẫn lộn, không phân ly, không tách biệt.
Tất cả thái độ tôn giáo được hâm chứa như mầm mống trong điều mạc khải này: người ta không thể miệt thị vật chất, thân xác, từ khi Thiên Chúa "nhập thể" trong cung lòng trinh nữ Maria. Không có cái gì là phàm tục. Tất cả đều trở nên linh thánh, nghĩa là đôi khi hoàn toàn "nhân bản" và hoàn toàn "thiên bản": lớn lên chín tháng trong bụng mẹ, sinh ra, ngủ nghỉ, ăn uống, học đi và tập nói, chữa lành bệnh nhân, lên tiếng công khai, yêu mến bạn bè, thức dậy sớm ban sáng để cầu nguyện, chịu đau đớn, chết,... những thực tại nhân thiên bản những thực tại linh thánh. Và Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, thì giống như một bảo đảm cho sự kết hợp không thể phân ly của Thiên Chúa và con người trong bản vị độc nhất của Đức Giêsu.
Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
Điều họ đã được loan báo, chính là "một Đấng Cứu Độ, được sinh ra cho các anh, người là Chúa Kitô. Họ đơn sơ đến nói sứ điệp của họ, tức là những lời nói mà họ nghe thấy. Các họa sĩ thuộc mọi thời đại đã diễn dịch câu nói Tin Mừng này khi trưng bày một bức tranh "Sự thờ kính của các mục đồng". Thực sự, đúng hơn các mục đồng đã giảng một bài cho Đức Maria, bằng cách nói Tin Mừng cho bà, tin lành mà họ nhận được. Bây giờ, trong câu này chúng ta thấy có phương diện thứ hai của Đức Giêsu, thiên tính đích thực của người: về Hài nhi này, các thiên thần đã nói với chúng ta rằng:
Người là Đức Kitô và là Chúa!". Đó là một tuyên xưng đức tin và từ đó đến thờ kính thì không xa: các bức tranh của các họa sĩ không lầm lần.
Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Ngôn từ Hy Lạp của Luca còn mạnh mẽ hơn nhiều mọi người ai cũng lấy làm lạ lùng. Thế nhưng, có cần phải thấy một đối lập mà Luca muốn trình bày giữa thái độ tổng quát và thái độ của Maria chăng? Quả thực đúng là ông chỉ nhấn mạnh đến cách hành sử của bà thôi: Bà không chỉ lạ lùng, mà suy niệm.. Dù không hiểu nhiều hơn các mục đồng về huyền nhiệm xảy đến cho mình, phải chàng người ta không thể nghĩ rằng từ đáy lòng mình Đức Maria nói lại tiếng xin vâng của đức tin trước sự mới lạ bất ngờ của Hài nhi này sao? Luca không ngừng tôn vinh giá trị của Maria.
Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Chúng ta luôn luôn cố giản lược huyền nhiệm về Đức Giêsu, bằng các đến giản hóa đi, Hoặc là người ta nhân bản hóa Đức Giêsu khi chỉ nhìn thấy người là một người có thiên tài, hoặc người ta linh thiêng hóa người bằng cách chối từ những khuyết điểm trong nhân tính của Người. Chính các mục đồng, những con người đơn sơ, đã trông thấy và đã nghe thấy. Họ đã xem thấy một nhân tính hoàn toàn bình thường, và nghe thấy một sứ điệp rất phi thường. Và họ không chỉ muốn dừng lại ở những dáng vẻ bên ngoài: họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa.
Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu
Hài nhi Bêlem là một người thực bé mọn, gắn liền với một truyền thống, một văn hóa và hệ thống tập tục. Đó là một bé trai, nhời được ghi dấu vào xác thịt dành cho tất cả những người nam của dân tộc này. Vâng, một nhân tính thực sự mà trước nó người ta không thể không thấy được. Nhưng tên của trẻ thơ này mang những vấn đề mới về căn tính của cậu: tại sao di cư phải đặt cái tên Thiên Chúa Cứu Độ, Yeshoua, Giêsu? Tại sao?
Đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Theo Luca, việc đặt tên này chỉ là một cơ hội bổ sung để làm nổi bật Maria: tác giả nhấn mạnh rằng Maria, Mẹ Người, đã nhận tên con mình "trước khi Người được thụ thai trong lòng".
Công đồng Vatican II, tiếp theo một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã trình bày Đức Maria như một gương mẫu của Giáo Hội, người đầu tiên trong các tín hữu. Và trong trang Tin Mừng này, chúng ta thực sự vừa mới nhận ra rằng bà là người đầu tiên đón nhận Lời Chúa và suy niệm trong lòng mình... và bà là người đầu tiên có lời tuyên xưng cơ bản về lòng tin của chúng ta: Thiên Chúa Cứu Độ!
Trong ngày đầu tiên của năm mới, tất cả sự mới mẻ của niềm tin Kitô giáo được Đức Maria nhắc lại cho chúng ta. Sự tân kỳ của Đức tin của các Kitô hữu, chính là không phải chỉ tin vào Thiên Chúa. Điều đó, phần đông mọi người vẫn thế, nhất là những người theo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới: và chúng ta nghĩ đến Do Thái giáo, Hồi Giáo, và biết bao Tôn Giáo hữu linh. Đặc tính riêng biệt của người Kitô hữu, chính là tin vào sự nhập thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Sự tôn sùng Đức Maria chỉ làm cho chúng ta nhớ lại điều đó.
31/12 Ngôi Lời Ðã LÀM NGƯỜI
- Viết bởi Ga 1, 1-18
Ngôi Lời Ðã LÀM NGƯỜI.
Thứ Năm – Ngày thứ bảy trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh.
"Ngôi Lời đã làm người".
LỜI CHÚA: Ga 1, 1-18
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thuỷ. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi". Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ngôi Lời đã thành người
Suy niệm:
Ông Soren Kierkegaard, một triết gia người Đan Mạch, kể chuyện sau.
Một vị vua bỗng dưng đem lòng thương cô thôn nữ nghèo.
Ông tin rằng mình có thể dùng quyền vua để cưới cô ấy làm vợ.
Nhưng ông lại sợ cô lấy ông chỉ vì nể phục chứ không yêu.
Như thế tương quan giữa hai người không được trọn vẹn.
Sau khi suy nghĩ, ông thấy chỉ có cách là thực sự từ bỏ ngai vàng,
trở thành một anh nông dân nghèo, và bày tỏ tình yêu mình cho cô.
Vị vua biết làm thế là liều lĩnh, vì ông có thể mất cả cô lẫn ngôi báu.
Cô có thể chê chàng nông dân, hay chê quyết định dại dột của vị vua.
Nhưng nhà vua vẫn dám liều, vì ông quá yêu cô thôn nữ,
và ông muốn đây là một mối tình thực sự.
Câu chuyện cảm động trên đây đưa ta vào chuyện tình
đã xảy ra giữa Ngôi Lời Thiên Chúa và nhân loại.
Ngôi Lời còn cao trọng hơn vị vua kia bội phần.
Ngài là Thiên Chúa Con Một, dựng nên vạn vật (cc. 3. 18).
Ngài là Đấng duy nhất thấy Thiên Chúa và ở trong lòng Thiên Chúa,
nên chỉ Ngài mới có thể bày tỏ Thiên Chúa cho nhân loại (c.18).
Ngài tràn đầy ân sủng và sự thật, sự sống và ánh sáng (cc. 3. 14).
Tất cả những điều ấy là quà tặng của Ngôi Lời cho con người.
Nhưng quà tặng lớn lao và bất ngờ nhất làm ta ngỡ ngàng, reo vui,
đó là biến cố Ngôi Lời trở nên người phàm và ở giữa chúng ta (c. 14).
Con Thiên Chúa trở nên con của loài người và mang tên Giêsu (c. 17).
Ngài mang khuôn mặt của ta, đứng chung một dòng tiến hóa với ta.
Ngài dựng lều trên trái đất, một hành tinh bé xíu nhưng tuyệt vời,
vì đã được ghi dấu chân Con Thiên Chúa.
Ông Luther viết: “Ngài đã ăn, uống, ngủ, thức;
Ngài đã cảm thấy chán nản, biết buồn, biết vui.
Ngài khóc, cười, đói, khát; Ngài đổ mồ hôi; Ngài vất vả, cầu nguyện,
đến nỗi giữa Ngài với ta không có dị biệt nào, tuyệt nhiên không,
ngoại trừ Ngài là Thiên Chúa và Ngài vô tội.”
Khác với vị vua không muốn làm vua nữa để thành nông dân,
Ngôi Lời khi thành người vẫn là Con Thiên Chúa dưới dạng tự hủy.
Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật.
Nếu Ngài chỉ là một con người hay một bậc vĩ nhân,
thì Ngài chỉ đáng ta kính trọng chứ không phụng thờ.
Nếu Ngài chỉ là một Thiên Chúa đội lốt người, chứ không là người thật,
thì Ngài không thể cứu độ và thần hóa con người.
Lễ Giáng sinh là lễ hội của mọi người trên mặt đất
vì Con Thiên Chúa đã muốn chia sẻ phận người của chúng ta.
Ngài đã đến với thế giới này như nhà của Ngài (cc. 9. 11).
Chỉ cần nhận biết, tin vào Ngài, đưa Ngài vào nhà (cc. 10-12)
là chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa.
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, Đức Giêsu vẫn đứng ngoài để chờ.
Có ai mở cửa cho Ngài không? (Kh 3, 20).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: LỊCH SỬ TÌNH YÊU THIÊN CHÚA
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ngày cuối cùng của năm cũ, thánh Gioan mời ta ngược về khởi thủy. Đến ngọn nguồn của lịch sử. Đến lịch sử của Thiên Chúa. Đó là lịch sử tình yêu.
Lịch sử khởi nguồn từ tình yêu Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp thông trong tình yêu. Ba Ngôi không ngừng hướng về nhau trong một chuyển động tình yêu liên lỉ và phong phú từ đời đời: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa”.
Từ đó phát sinh lịch sử tình yêu sáng tạo. Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi tràn trào ra trong sáng tạo muôn loài. Sự sống chính là ánh sáng chói lọi đẹp đẽ nhất phát xuất từ Thiên Chúa: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành…Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại”.
Nhưng buồn thay lịch sử bị hoen ố vì tình yêu bị phản bội: “thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”. Thật đáng buồn. Thánh Gioan cho biết đó là những Phản-Kitô, chẳng phải ai xa lạ, chính là người trong nhà, cùng một nguồn cội yêu thương: “Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng không phải là người của chúng ta”. Vì chúng đã thay lòng đổi dạ. Đó là tình yêu giả dối, phản bội.
Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn tiếp tục với lịch sử cứu chuộc bằng cách gửi Con Một yêu dấu đến ở với loài người. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Lời tức là những tinh túy nhất của một con người. Lời chính là người. Vì thế Ngôi Lời chính là Thiên Chúa yêu thương đến giữa loài người.
Và Thiên Chúa lại tiếp tục yêu thương bằng lịch sử ân sủng tuôn đổ dư tràn trên nhân loại qua Con Một yêu dấu: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”.
Thật lạ lùng tình yêu của Thiên Chúa. Với Con Chúa giáng trần, Chúa muốn sinh ra một nhân loại mới, “được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, nhưng do bởi Thiên Chúa”.
Với con người mới sống theo ơn Chúa Thánh Thần, ta sẽ mở lòng đón nhận Thiên Chúa. Ta sẽ hoàn toàn sống cho tình yêu. Và năm mới sẽ lại tiếp tục với lịch sử tình yêu của Thiên Chúa trong đời ta.
Suy Niệm 3: Ngôi Lời Ðã Hóa Thành Nhục Thể
Khởi đầu Tin Mừng của thánh Gioan đã cho chúng ta thấy xuất xứ của Ðức Giêsu Kitô bởi Thiên Chúa mà ra. Ðức Giêsu Kitô được sinh ra không do xác thịt, cũng không bởi ý muốn của người đàn ông kết hợp với người đàn bà, nhưng bởi Thiên Chúa. Cho nên Ðức Maria đã thắc mắc với thiên thần Gabriel: "Chuyện ấy xảy ra thế nào được vì tôi không biết đến người nam". Thiên thần Gabriel đã giải thích cho Ðức Maria: "Chúa Thánh Thần đến với Trinh Nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao phủ Trinh Nữ. Vì thế, Ðấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa".
Vậy, Ðức Kitô sinh ra bởi quyền phép Thiên Chúa và được gọi là Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể, Ngài mặc lấy thân xác con người như chúng ta và như Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu với các môn đệ của ông: "Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian" và ông cũng làm chứng bằng lời nói sau đây: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo, Người đến sau tôi nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi".
Theo lẽ thường bà chị họ của Ðức Maria là Elizabeth mang thai Gioan Tẩy Giả trước sáu tháng, thì Gioan được nhìn nhận là sinh ra trước Chúa Giêsu. Nhưng Gioan Tẩy Giả lại nói: "Ngài có trước tôi", nghĩa là Gioan muốn nói lên bản tính Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô.
Như vậy qua đoạn Tin Mừng này, Gioan Tẩy Giả muốn dẫn chứng cho chúng ta con người của Chúa Giêsu Kitô có hai bản tính:
- Bản tính Thiên Chúa.
- Bản tính nhân loại.
Xét theo bản tính Thiên Chúa: thì từ nguyên thủy đã có Ngài, Ngài vẫn ở với Thiên Chúa và Ngài vẫn là Thiên Chúa. Vì Chúa Giêsu là Thiên Chúa cho nên mọi vật đều được Người làm nên, và nếu không có Người thì không có vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Nơi Ngài có sự sống và chính Người là Thiên Chúa.
Theo bản tính nhân loại: Chúa Giêsu đã được sinh ra ở làng quê Belem bé nhỏ, nước Do Thái do một Trinh Nữ tên là Maria và một dưỡng phụ là Giuse. Chúa Giêsu đã sống ẩn dật ba mươi năm ở Nazareth, ba năm đi rao giảng nước Thiên Chúa rồi cũng bị bắt bớ, đánh đập và chết trên Thập Giá, an táng trong huyệt đá như mọi người đều biết.
Trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài luôn luôn nhắc nhở đến sứ mệnh là phải chu toàn công việc Cha Ngài ủy thác, Ngài luôn luôn đề cao sự kết hợp mật thiết giữa Ngài với Chúa Cha và cả hai cùng làm việc không ngừng. Ngài cũng nhắc đến Chúa Thánh Thần sẽ được sai đến để tiếp tục công việc cứu rỗi của Ngài ở trần gian cho đến khi Ngài lại đến.
Chúa Giêsu đem ơn cứu rỗi đến cho nhân loại, vì trước Chúa Giêsu, chưa có ai nhận được ơn cứu rỗi kể từ lúc Adam và Evà phạm tội. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến sự sung mãn của Chúa Giêsu mà hết thảy chúng ta được tiếp nhận từ ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban lề luật qua Môisen, nhưng ơn thánh và chân lý thì được ban qua Ðức Giêsu Kitô.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử đã giúp chúng ta thêm niềm tin vào Ðức Kitô là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến làm người để đem ơn cứu rỗi đến cho nhân loại tội lỗi.
Lạy Chúa, trong Mùa Giáng Sinh năm nay, xin Chúa cho mỗi người chúng con thêm vững niềm tin để chúng con xác tín mạnh mẽ hơn: Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể đem tình thương tha thứ vô biên đến cho mỗi người chúng con. Xin cho chúng con sống thực sự với mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người ở với chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 4: Ánh sáng cho nhân loại
Mỗi dịp cuối năm, tạp chí Time có thói quen chọn một nhân vật làm người nổi bật của năm. Người được chọn cho năm 1994 là Đức Gioan Phaolô II. Trong số ra cuối năm, tạp chí Time đã đưa ra lý do chọn lựa này như sau:
“Đức Giáo Hoàng không cảm thấy bối rối về lối sống đê hèn đang lan tràn khắp nơi. Cách đây 2 tuần, ngài đã giải thích với tạp chí Time rằng: cuốn sách bán chạy của ngài và đường lối ngoại giao không mấy được ưa thích của ngài đều có cùng một trọng tâm triết lý, đó là qui về sự thánh thiện của con người, và ngài nói thêm: “Giáo Hoàng phải là một sức mạnh tinh thần”. Trong một năm mà nhiều người than phiền về sự suy đồi của những giá trị luân lý hoặc bào chữa cho những hành động xấu, thì Đức Gioan Phaolô II đã cố gắng đề ra cái nhìn của ngài về cuộc sống tốt đẹp và thôi thúc thế giới sống theo cuộc sống đó. Chính vì sự can đảm đó, ngài được chọn làm người của năm”.
Nhận định trên của tạp chí Time về Đức Gioan Phaolô II hoàn toàn phù hợp với cái nhìn của ngài trong tác phẩm “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”. Như tựa đề mà Đức thánh cha chọn cho tác phẩm này đã có thể gợi lên: Hy vọng là sứ điệp mà ngài muốn nhắn gửi cho cả nhân loại trong giai đoạn này. Xuyên suốt qua cuốn sách, ngài không ngừng lặp lại câu nói ngài đã gióng lên tại quảng trường Phêrô khi được bầu làm Giáo Hoàng: “Đừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”. Thiết tưởng đó phải là ý tưởng hướng dẫn những suy tư của chúng ta trong ngày cuối năm này.
Nhìn lại một năm qua với bao biến động đã xẩy ra cho thế giới, cho Giáo Hội, cho dân tộc, cho gia đình, cho chính bản thân, ai trong chúng ta cũng dễ bị cám dỗ buông xuôi theo đà chán nản thất vọng. Chính trong tâm trạng này mà chúng ta cần lắng nghe lời kêu gọi của Đức thánh cha: “Đừng sợ. Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô!” Quả thật, Chúa Kitô đang gõ cửa tâm hồn của từng người. 2000 năm qua, như thánh Gioan đã viết trong lời tựa Tin mừng của ngài: “Chúa Kitô là ánh sáng nhân loại đang chìm ngập trong u tối của chiến tranh, hận thù chết chóc, 2000 năm qua, hận thù và chiến tranh vẫn còn đó. Nhưng nhìn chung vào lịch sử của 2000 năm qua, không ai chối cãi được rằng ánh sáng của Chuá Kitô đã thực sự chiếu dọi vào trong tăm tối. Nói như Đức Gioan Phaolo 2 mãi mãi con người sẽ không bao giời có thể loại bỏ được Chúa Kitô ra khỏi lịch sử của mình. “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta” Mãi mãi Chúa Kitô luôn có mặt trong lịch sử con người. Đó chính là niềm hy vọng của các Kitô hữu: Chúa Kitô đang có mặt trong cuộc sống chúng ta. Với Ngài thì cho dù sóng gió có bao phủ, chúng ta không có gì để sợ hãi. Với Ngài thì cho dù tăm tối có phủ kín, chúng ta vẫn còn thấy ánh sáng để tiến bước, với Ngài thì cho dù thử thách thất bại có ngập tràn, chúng ta vẫn tiếp tục hy vọng.
Đó phải là tâm tình của chúng ta trong giờ phút này khi nhìn lại đất nước, gia đình, Giáo Hội, bản thân trong năm qua. Chúng ta hãy dâng lên Chúa niềm cảm mến tri ân và tin tưởng cậy trông của chúng ta.
Suy Niệm 5: HÃY TẠ ƠN CHÚA VÌ CHÚA NHÂN TỪ (Ga 1, 1-18)
Theo lẽ tự nhiên, cuối năm, người ta thường hay ngồi lại để tính sổ, thanh toán với nhau những điều cần thiết.
Trong đời sống đức tin, chúng ta cũng cần phải ngồi lại để tính sổ với Chúa về những điều mình đã làm được, cũng như những điều mình chưa làm được, để tạ ơn và tạ lỗi; để chúc tụng và phó dâng...
Ngồi lại để suy nghĩ về ơn Chúa. Có lẽ đây là dịp để mỗi người cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa đã ủ ấp trên cuộc đời chúng ta quá nhiều! Tuy nhiên, tình yêu đó có được chúng ta khám phá và làm lan tỏa ra với người khác hay không? Đây là điều chúng ta phải suy nghĩ...!
Mặt khác, thái độ tạ ơn phải luôn thường trực trong tâm hồn chúng ta, bởi vì: vui buồn, sướng khổ đều có Chúa đồng hành. Thành công, thất bại không nằm ngoài thánh ý Thiên Chúa. Chúa luôn yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta là kẻ phản bội.
Tình yêu đó được ví như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh, như người mẹ bao bọc che chở con mình. Cả những lúc ta đau buồn thất vọng, thì tình yêu đó càng quyết liệt, thắm thiết hơn. Lúc đó, Ngài thường vác chúng ta lên vai để chúng ta được an toàn.
Khi nhìn về quá khứ, chúng ta thấy tình yêu của Chúa tràn ngập trên chúng ta. Còn nhìn về viễn cảnh tương lai, chúng ta phó thác cho Chúa tất cả, vì: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay”.
Mong sao, mỗi người chúng ta có được niềm tin vào tình thương của Chúa vì Ngài luôn lo lắng cho chúng ta.
Quả thật, người có niềm tin thì luôn cảm thấy: “Có Chúa chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người để tôi vào nghỉ. Bên dòng nước trong lành, dẫn tôi về bổ sức”.
Và:
“Dầu qua trong thung lũng âm u, tôi sợ gì nguy hại, vì có Chúa ở cùng, côn trượng Ngài sẵn đó, tôi vững dạ an tâm”.
Lạy Chúa, một năm đã qua và năm mới đang đến. Chúng con xin tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Chúng con cũng xin tạ lỗi với Chúa vì những bất xứng chúng con đã vô tình, tệ bạc mà quên ơn Chúa. Giờ đây, chúng con xin dâng năm sống mới lên Chúa, để xin Chúa tiếp tục yêu thương, gìn giữ và chúc lành cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Ngôi Lời nhập thể (Ga 1,1-18)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Theo bài tự ngôn của thánh Gioan, Chúa Giêsu là Ngôi Lời, là tiếng nói của Chúa Cha. Ngay từ đầu, Người vẫn ở với Chúa Cha. Người là sự sáng soi thế gian. Chính thánh Gioan đã làm chứng cho Người. Người đã đến trong thế gian, nhưng thế gian không tiếp nhận Người. Ai tiếp nhận Người thì Người cho được làm con Thiên Chúa.
Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ nghèo hèn là Thiên Chúa, là tiếng nói tình thương Chúa Cha gửi đến cho loài người, để cứu rỗi mọi người. Chúng ta chỉ hiểu được mầu nhiệm nhập thể khi chúng ta biết Thiên Chúa là tình yêu... Nhờ Ngôi Lời nhập thể, chúng ta mới được sống và sống nên con cái sự sáng, vì Chúa Cứu Thế là sự sống và là sự sáng thế gian.
2. Thánh Gioan làm chứng :”Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Đây là một mầu nhiệm vĩ đại vì Ngài đã trở nên xác thịt và cũng mang nhịp đập của trái tim nhân loại như thánh Francois de Sales nói :”Ngài là vị Thiên Chúa có trái tim nhân loại”. Nơi Ngài, sự sống mới xuất hiện cho sự tác thành nhân loại mới :”Điều được tạo thành ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại”. Đấng Cứu Thế đang được sinh ra, “Ngài ở giữa chúng ta”, và như Gioan đã nói :”Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12).
3. Một lần nữa, thánh Gioan chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể đã diễn tả bằng câu rất ngắn :”Và Ngôi Lời đã thành xác phạm”, nghĩa là đã trở thành một người như mọi người. Người đã sống giữa chúng ta, đã nói thứ ngôn ngữ của xứ sở và thời đại của Người.
Nhờ đó, Người muốn nói với con người rằng sự sống của con người là một giá trị thánh thiêng bất khả di nhượng, bất khả xâm phạm; mỗi người sinh ra trên thế gian này dù có xấu xa thấp hèn đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, cũng đều là con cái Thiên Chúa. Bởi ai tin vào Người thì Ngài cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Như vậy, mỗi người chỉ có thể hiện hữu khi tháp nhập với Ngôi Lời là sự sống, chỉ nên tốt lành khi bước đi trong ánh sáng của Ngôi Lời là Ánh Sáng thật, và chỉ trở thành con Thiên Chúa khi tin và tiếp nhận Ngôi Lời vào trong tâm hồn và đời sống mỗi người (Mỗi ngày một tin vui).
4. Mầu nhiệm Nhập Thể không chỉ là Thiên Chúa làm người. Nhưng còn là chính con người được ơn trở về trong cung lòng Thiên Chúa, vốn đã bị xa lìa bởi tội nguyên tổ. Với sự kiện Ngôi Lời nhập thể, chúng ta trở về với tình thương bao la của Thiên Chúa như thánh Phaolô đã chia sẻ :”Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu độ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người” (Tt 2,11). Vì thế văn sĩ Origène đã nói đến sự nên Thánh của con người qua Ngôi Lời nhập thể :”Khi đi vào trong nhân loại, Người đã xây dựng sự hiệp thông với tất cả thụ tạo. Người mang sự Thánh đến cho tất cả”. Thiên Chúa làm người chia sẻ cuộc sống với cuộc sống con người và truyền thông cho con người có được khả năng tham dự và chia sẻ cuộc sống Ngôi Lời trong Ba Ngôi, như chính đời sống Thiên Chúa (R.Veritas).
5. Thánh Gioan làm chứng rằng: Ngôi Lời Thiên Chúa mặc xác thịt người phàm và đã ở giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang của Con Một Thiên Chúa Cha, đầy ân sủng và chân lý làm chứng về Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế ra đời làm người để cứu chuộc nhân loại.
Sứ mạng của gia đình Kitô hữu là làm chứng cho Chúa Giêsu luôn hiện diện. Bằng cách nào? Theo gương Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: Đây là Đấng tôi loan báo. Người đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Người trổi vượt hơn tôi, bằng lời nói và hành động. Gia đình Kitô hữu sẽ là chứng nhân của sự sáng, nếu biết nói cho nhau về Lời Chúa, giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác và sống theo Lời Chúa.
6. Truyện: Thiên Chúa nhập cuộc.
Khi Thiên Chúa làm người thì sống như mọi người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi thôi. Chúng ta sống thế nào thì Người sống như vậy, hết sức hòa đồng. Câu truyện sau đây nói lên khía cạnh đó:
Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng nước bùn. Những khách khác thấy vậy cười nhạo ông. Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc.
Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là quần áo của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa. Sau đó vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ nữa (Góp nhặt).
30/12 Bà tiên tri Anna
- Viết bởi Lc 2, 36-40
Bà tiên tri Anna.
Thứ Tư – Ngày thứ sáu tuần Bát Nhật Giáng Sinh.
"Bà đã nói về Người với tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel".
LỜI CHÚA: Lc 2, 36-40
Khi ấy, có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ngày càng lớn lên
Suy niệm :
Khi viết sách Tin Mừng, thánh Luca thích nêu bật vai trò của phụ nữ,
vì trong xã hội Ítraen thời xưa, việc lãnh đạo chủ yếu do đàn ông.
Luca hay đặt sóng đôi những câu chuyện về các nhân vật nam và nữ.
Sau trình thuật sứ thần Gabrien truyền tin cho ông Dacaria,
thì đến trình thuật sứ thần truyền tin cho Đức Mẹ.
Sau sự xuất hiện của ông già Simêon nói tiên tri về Hài Nhi,
thì bà Anna cũng được giới thiệu minh nhiên như một nữ ngôn sứ.
Làm ngôn sứ đâu phải là đặc quyền dành cho phái nam!
Khuôn mặt của Simêon và Anna có những nét giống nhau.
Cả hai đều là những người tuổi cao và đạo hạnh.
Đời sống của họ gắn bó với Đền thờ.
Riêng cuộc đời của cụ bà Anna thì thật đáng phục.
Cụ xuất giá được bảy năm thì ở góa, nay cụ đã tám mươi tư.
Giả như cụ lấy chồng vào năm mười lăm tuổi,
thì hẳn cụ đã sống trong cảnh góa bụa hơn sáu mươi năm.
Một thời gian dài không có chỗ dựa vững chắc của người chồng.
Nhưng cụ Anna lại tìm thấy một chỗ dựa khác, vững hơn.
Đó là Thiên Chúa mà cụ đêm ngày thờ phượng (c. 37).
Đó là Đền thờ mà cụ coi như nhà của mình.
Đời sống của một góa phụ trẻ, lúc mới ngoài hai mươi, thật không dễ.
Ăn chay cầu nguyện là cách để cụ làm chủ bản thân và thắng cám dỗ.
Simêon và Anna đều là những người cao tuổi đã và đang chờ.
Họ sống để chờ những lời Chúa hứa được thành tựu,
sống để chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem (c. 38).
Anna có biết hôm nay nỗi đợi chờ của cụ được đáp ứng không?
Với trực giác của một ngôn sứ, cụ nhận ra ngay vị Cứu tinh bé nhỏ
đang được bồng ẵm trên tay của đôi vợ chồng nghèo.
Như xuất thần, cụ nói về Hài Nhi cho những người chung quanh.
Không phải chờ nữa, vì ơn cứu chuộc mong mỏi từ lâu nay đã đến.
Thiên Chúa đã giữ trọn lời hứa của Ngài.
Chúng ta đang mừng Lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa làm người.
Chúng ta có ít thời gian để suy niệm về thời gian của Ngài ở Nadarét.
Hơn ba mươi năm để Hài Nhi từ từ lớn lên, trở nên người trưởng thành.
Làm người là chấp nhận lớn lên mỗi ngày một chút về mọi mặt.
Thân xác của cậu Giêsu trở nên mạnh mẽ, trí tuệ cậu đầy khôn ngoan,
và về mặt tâm linh, ân lộc của Thiên Chúa ở trên cậu (c. 40).
Hài Nhi Giêsu đã lớn lên một cách quân bình
để thành Thầy Giêsu đi rao giảng vào lúc ngoài ba mươi.
Con Thiên Chúa cũng phải chăm chỉ học làm người,
qua tha nhân và kinh nghiệm, qua lao động và thách đố trong cuộc sống.
Ngài chia sẻ phận người long đong của chúng ta,
nên Ngài hiểu gánh nặng của phận người.
Xin được học nơi Nadarét về chia sẻ và phục vụ, về tha thứ và yêu thương.
Xin được trở nên người có khả năng dám sống và chết cho người khác.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người – cũng như con –
đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: LỚN LÊN TRONG CHÚA
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sức mạnh của thế gian thật khủng khiếp. Nó hấp dẫn. Nó thúc đẩy. Nó chiếm đoạt. Nó thống trị. Nó giống như con thú dữ vồ lấy, cắn xé, ngấu nghiến và tàn phá con người. Nó là sức mạnh tàn phá. Nhưng ai chạy đuổi theo nó cuối cùng chỉ thấy hư vô. Như thánh Gio-an dậy: “Mọi sự trong thế gian như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó”.
Trái lại sức mạnh của Thiên Chúa thật nhẹ nhàng. Khởi đầu rất mong manh. Như trẻ thơ sơ sinh. Rất yếu ớt. Rất bé nhỏ. Nhưng cứ lớn mãi. Như Chúa Giê-su “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Tiên tri An-na làm chứng về điều đó. Sau 7 năm sống đời hôn nhân ngoài đời, bà càng nhận rõ sự phù du của thế gian. Bà gắn bó với Chúa và với đền thờ suốt cuộc đời. Chuyên chăm hãm mình, ăn chay, cầu nguyện. Từ bỏ cả những gì cần thiết ở đời như việc ăn uống, vui chơi, giải trí. Bà siêu thoát trần gian. Vì bà tìm được niềm vui trong Chúa. Thân xác bà nhỏ bé đi. Nhưng tâm hồn bà lớn mạnh. Bà được mặc khải cho biết khi Chúa Cứu Thế xuất hiện. Vì thế khi Chúa Giê-su được dâng vào đển thờ, lập tức bà nhận ra. “Bà tiến lại gần, cảm tạ Thiên Chúa”. Cảm nghiệm về Chúa quá rõ ràng và phong phú, nên bà, một phụ nữ nghèo nàn tầm thường, có thể “nói về Hài Nhi cho hết thảy những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc giê-ru-sa-lem”.
Chúa Giê-su chính là mẫu hình lý tưởng của con người. Chúa phát triển mọi mặt. Về thân xác khoẻ mạnh. Để có thể làm việc đêm ngày không ngừng nghỉ. Để có thể chịu cực hình thâu đêm. Sáng vẫn còn vác thánh giá đi lên Núi Sọ. Về trí tuệ thông minh. Kẻ thù nhiều lần gài bẫy. Nhưng không bắt bẻ được điều gì. Trái lại mọi người say mê lời giảng dạy của Chúa. Và Chúa hỏi những câu không ai trả lời được. Đặc biệt về đức hạnh. Không ai chê trách được điều gì. Kẻ thù rình rập đêm ngày. Đến nỗi tuốt một bông lúa họ cũng biết. Vậy mà không tìm được tội nào để kết án Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa con người mới có thể phát triển quân bình mọi mặt đến mức thập toàn như thế.
Xin cho con siêu thoát thế gian. Tìm về bên Chúa. Để con được lớn lên trong Chúa.
Suy Niệm 3: Lời Tiên Báo Về Chúa Hài Nhi
Vào một mùa Giáng Sinh nọ, trước giờ đi lễ, vị chủ nông trại đang ngồi thưởng thức nhạc Giáng Sinh, bỗng đâu cả đàn ngỗng của ông tụ lại trước sân nháo nhác tìm chỗ trú. Chúng vừa đói, vừa lạnh, lông cánh rối bời. Tất cả người làm đều đã nghỉ cả, người chủ cũng đều sắp đóng cửa để về thành phố dự Thánh Lễ. Bởi vậy ông bèn ra lùa đàn ngỗng về chuồng, nhưng chúng không biết ông nên dù cho gào thét khàn cả tiếng, chạy ngược chạy xuôi, đã rời cả đôi chân mà ông vẫn không đem được một con nào về chuồng. Thấy vậy ông thầm ước với mình: "Ước gì tôi được làm ngỗng trong chốc lát, để tôi có thể dùng tiếng loài ngỗng mà nói cho chúng hiểu ước muốn của tôi và cho chúng biết đâu là chốn hiểm nguy, đâu là nơi an toàn". Bỗng chốc, ông đã thành một con ngỗng đứng giữa bầy như ước nguyện.
Có thể chúng ta sẽ là phi lý khi thấy người biến thành ngỗng. Thế nhưng, có một điều khác còn phi lý hơn nữa mà Giáo Hội đang mời gọi chúng ta chiêm ngắm, đó là hang đá Belem, nơi Thiên Chúa Vua Cả trời đất giành lấy thân phận làm người, sinh ra trong hang bò lừa máng cỏ. Ngài làm người để rồi Ngài sẽ dùng ngôn ngữ của loài người mà chỉ dạy cho con người lối về quê thật.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta một trong những điều con người được nhận lãnh nhờ vào hành động phi lý ấy. Là Ngôi Hai Thiên Chúa thì Chúa Giêsu đâu cần phải được hiến dâng cho Thiên Chúa theo luật Môisê, thế nhưng ngài vẫn tuân giữ nghi lễ này, vì Ngài muốn giống con người trong hết mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Ngài giống con người để con người không còn phải e ngại khi đến với Ngài cũng như hiểu được lời mời gọi của Ngài. Nếu trước đây, Ngài đã sinh ra trong chuồng bò là để cho mọi người có thể đến với Ngài, không phân biệt giàu sang hay nghèo khổ, có địa vị hay chỉ là dân đen. Các trẻ chăn chiên được mời gọi, ba nhà đạo sĩ Phương Ðông được chỉ lối, tất cả đến với Ngài và đã tìm được nguồn vui.
Hôm nay, Ngài vào Ðền Thánh bằng nghi lễ thanh tẩy và hiến dâng. Thật ra chỉ có con người tội lỗi mới cần thanh tẩy, chỉ có loài thụ tạo mới cần hiến dâng. Vậy mà Chúa Giêsu Ngài vẫn chấp nhận tất cả để nên như một cơ hội quí báu cho tiên tri Siméon và Anna gặp Ngài. Niềm vui bấy lâu mong đợi, giờ đây Siméon đã đạt được như ý nguyện, giờ đây ông có thể ra đi bình an không còn gì phải tiếc nuối.
Siméon và Anna là tiêu biểu cho nhóm những người nghèo của Giavê. Họ ăn chay cầu nguyện, sống nghèo khổ để canh thức trông chờ Ðấng Cứu Thế, dù cho cuộc sống có đầy dẫy những lạc thú thì vẫn không quyến dũ được họ cho bằng niềm vui cứu chuộc họ đang trông chờ.
Thời gian chờ đợi luôn là thời gian dài dẵng lê thê và nếu dành cả một đời để trông ngóng đợi chờ thì không khỏi bị coi là phi lý điên rồ. Chắc chắn Siméon và Anna cũng bị gán cho nhãn hiệu này. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại cần đến sự phi lý điên rồ ấy, vì Ngài cũng đã từng hành động như vậy. Một Ðấng Tạo Hóa mà lại hóa thân làm một thụ tạo. Một người Chủ uy quyền mà lại nhận thân phận tôi tớ. Siméon và Anna đã chấp nhận con đường này và Thiên Chúa đã đáp lời họ.
Thế nhưng, khi hưởng niềm vui bất diệt ấy, họ lại chỉ không dành hết cho mình nhưng còn mau mắn chia sẻ với người khác. Bà Anna đã nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel, vì thế bà được coi là nữ tiên tri, dù rằng suốt cuộc sống bà cũng chẳng làm một điều gì như các tiên tri ở Israel.
Vị tiên tri là gì nếu không phải là kẻ truyền rao Thiên Chúa, truyền rao ơn cứu độ. Như vậy, chúng ta có thể gọi bà Anna là mẫu mực cho người tín hữu trong cuộc sống và hành động. Bà đã can đảm và chấp nhận một cuộc sống thiếu thốn trong chay tịnh và cầu nguyện, cũng như luôn hy vọng đợi chờ, dù cho sự việc chẳng biết bao giờ mới xảy ra và khi đã đón nhận hồng ân thì lại sẵn sàng truyền rao chia sẻ cho kẻ khác. Hồng ân bà nhận được hôm nay luôn là một chứng từ thôi thúc tín hữu thêm lòng cậy trông, vì Thiên Chúa sẽ không chê bỏ những ai đặt hết hy vọng vào Ngài.
Trong mùa Giáng Sinh, mùa kỷ niệm một biến cố phi lý mà con người không thể hiểu thấu. Ước mong rằng mỗi người trong chúng ta biết bắt chước như bà Anna là sẵn sàng đón nhận những đau khổ, những phi lý về ơn cứu độ và nhất là luôn nhớ sứ mệnh tiên tri đã được trao ban từ ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để rồi ta có thể bắt chước thánh Phaolô mà nói được như Ngài: "Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Ðức Kitô". Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 4: Mẫu người thánh thiện
Bầu khí tưng bừng của Mùa Giáng sinh dễ làm chúng ta quên đi một sự kiện quan trọng đó là Con Thiên Chúa đã đến thế gian một cách hết sức nhẹ nhàng, êm thắm. Ngài không đến để phút chốc làm đảo lộn tất cả nhịp sống bình thường của con người, nhưng chỉ tế nhị thay đổi từ từ cõi lòng và đời sống mỗi người bằng tình thương dịu dàng của Ngài.
Bài Tin mừng hôm nay gợi lên cho ta một mẫu người thánh thiện nơi bà Anna. Tác giả Tin mừng theo thánh Luca gọi bà là một tiên tri, nhưng theo ý kiến các nhà chú giải thì bà chỉ là một người đơn sơ bé nhỏ thuộc về nhóm những người nghèo của Yavê, những kẻ ưu tiên được hưởng lời hứa và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bà chỉ xuất hiên một lần trong biến cố dâng Chúa vào Đền thờ. Dung mạo bà được mô tả bằng những chi tiết đơn sơ nhưng thật quan trọng: bà đã được 84 tuổi đời, goá bụa nghèo khó, trung thành với những bổn phận đạo đức, sống nơi đền
Bài Tin mừng hôm nay gợi lên cho ta một mẫu người thánh thiện nơi bà Anna. Tác giả Tim mừng theo thánh Luca gọi bà là một tiên tri, nhưng theo ý kiến các nhà chú giải thì bà chỉ là một người đơn sơ bé nhỏ thuộc về nhóm những người nghèo của Yavê, những kẻ ưu tiên được hưởng lời hứa và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bà chỉ xuất hiên một lần trong biến cố dâng Chúa vào Đền thờ. Dung mạo bà được mô tả bằng những chi tiết đơn sơ nhưng thật quan trọng: bà đã được 84 tuổi đời, goá bụa nghèo khó, trung thành với những bổn phận đạo đức, sống nơi Đền thờ, phụng sự Thiên Chúa ngày đêm trong kinh nguyện và trong chay tịnh. Thật khó mà sống được như thế nếu không cố gắng cộng tác với ơn Chúa. Bà tin tưởng vào lời hứa cứu độ của Thiên Chúa sẽ thực hiện và cuối cùng đã được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc nơi Hài nhi Giêsu.
Mỗi người chúng ta có thể noi gương bà Anna sống kết hiệp với Chúa trong cầu nguyện và chay tịnh, nghĩa là sông đời khổ hạnh, để có thể nhìn thấy hành động của Thiên Chúa trong lịch sử nói chung và trong chính đời sống mỗi người chúng ta nói riêng. Không phải sự khôn ngoan thông thái làm cho con người gặp được Thiên Chúa và lãnh nhận ơn cứu rỗi của Ngài, nhưng chỉ những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng, như bà Anna mới lắng nghe được lời mời gọi đến gặp Chúa.
Chiêm ngắm Hài nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta hãy xin Ngài ban cho ánh sáng và sức mạnh hầu diệt trừ mọi ảnh hưởng của thế gian và chân thành phụng sự Chúa trong khiêm tốn và yêu mến.
Suy Niệm 5: CẦN TRỞ VỀ VỚI NỘI TÂM (Lc 2, 36 – 40)
Chúng ta vừa đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh với những tổ chức sinh hoạt rầm rộ và những trang hoàng hoành tráng bên ngoài làm toát lên vẻ huy hoàng, cao trọng của biến cố có một không hai trong lịch sử cứu độ qua việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người.
Tuy nhiên, những sinh hoạt bên ngoài đó đôi khi làm cho chúng ta quên đi ý nghĩa và giá trị tinh thần của ngày lễ. Hơn nữa, chính Con Thiên Chúa giáng sinh trong cảnh nghèo nàn, nhẹ nhàng, êm đềm chứ không phải rầm rộ bên ngoài... Sự kiện Đức Giêsu giáng sinh thời đó rất âm thầm và Ngài muốn trở thành một người bình thường như mọi người.
Như vậy, muốn có được một mùa Giáng Sinh ý nghĩa và lắng đọng, có lẽ chúng ta phải trở về với cuộc sống nội tâm sâu xa thì mới đi được vào luồng tình yêu của Thiên Chúa, qua đó, sứ điệp giáng sinh mà Con Thiên Chúa mang đến cho nhân loại, trong đó có chúng ta mới thực sự có ý nghĩa trên và trong cuộc đời của mỗi người... Nếu không có yếu tố đó, đại lễ Giáng Sinh chỉ thuần túy là một lễ hội với những sự sầm uất bề ngoài.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta biết mẫu gương của một bà quả phụ đã sống điều đó trong cuộc đời của bà. Quả thật, bà là người nghèo của Thiên Chúa, bà chẳng có gì để dâng cho Chúa cả, bà chỉ có tấm lòng và đời sống lương thiện cũng như đạo đức.
Kinh Thánh diễn tả bà hết sức đơn sơ như: bà đã được 84 tuổi, goá bụa nghèo khó, trung thành với những bổn phận đạo đức, sống nơi đền thờ, phụng sự Thiên Chúa ngày đêm trong kinh nguyện và trong chay tịnh.
Qua cuộc đời của bà, chúng ta thấy toát lên một điều, đó là: bà đã lấy Chúa làm trung tâm của cuộc đời mình, cho nên, mọi sinh hoạt đều hướng về Cái Tâm đó. Muốn đi vào tương quan với Thiên Chúa cách thân tình như vậy, hẳn bà phải có tình yêu thúc đẩy.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta, mỗi lần chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu bọc tã nằm trong máng cỏ, chúng ta hãy có tâm tình đơn sơ như bà Anna. Sống tinh thần khó nghèo, phó thác để cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại qua việc trao ban Đức Giêsu, quà tặng vô giá cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã nêu gương cho chúng con về tinh thần nghèo khó. Chỉ những ai có được tinh thần như thế, mới được gọi là con Thiên Chúa thực sự. Xin Chúa ban ơn cho mỗi chúng con biết noi gương bà Anna trong bài Tin Mừng hôm nay, ngõ hầu được sống trong tình yêu của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Đức Giêsu sống ẩn dật (Lc 2,36-40)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng ghi lại việc bà Anna nói tiên tri về Hài Nhi Giêsu cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa đến cứu chuộc.
Lúc thánh Giuse và Đức Maria dâng Chúa Hài Nhi trong Đền thờ, cũng có bà tiên tri Anna ở đó. Bà sống trong đền thờ, ăn chay cầu nguyện và phụng sự Chúa đêm ngày. Bà thấy trẻ Giêsu thì chúc tụng và giới thiệu cho mọi người. Còn thánh Giuse và Đức Maria, sau khi làm xong mọi việc theo luật dạy thì đem Chúa Giêsu về nhà. Người càng lớn thì càng thêm mạnh mẽ, khôn ngoan và đầy ân sủng.
2. Bà Anna hôm nay quan trọng vì bà là một tiên tri, đã báo cho mọi người biết con trẻ Giêsu là Đấng mọi người mong đợi, nay đã đến.
Bà là một quả phụ già nua với tuổi đời trên 80. Với xã hội bà chỉ là một người góa bụa nghèo nàn, vô tích sự. Nhưng trước mặt Chúa bà có giá trị vì bà không rời bỏ Đền thờ, hằng ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa.
Bà quả là mẫu gương cho tất cả những ai đang sống trong phận nhỏ: nghèo hèn, bệnh tật, dốt nát, vô tích sự đối với xã hội. Vì những người phận nhỏ này Chúa cần dùng đến để hiệp thông với Chúa trong việc ăn chay, cầu nguyện và phụng thờ Thiên Chúa; đồng thời Chúa còn dùng đến để cộng tác vào công việc loan báo Chúa cho tha nhân bằng chứng tích của đời sống, bằng lời nói và việc làm.
3. “Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40).
Trong gia đình, Hài nhi Giêsu cần được giáo dục về mọi phương diện để thành người: nuôi dưỡng sức khỏe thể lý, củng cố sự vững mạnh tâm lý, phát triển trí khôn, lớn lên trong ơn nghĩa Chúa. Vì thế, trong gia đình Thánh gia, mặc dù là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, Chúa Giêsu vẫn hoàn toàn chu toàn bổn phận với Chúa Cha trong tư cách là Con Thiên Chúa (x. Lc 2,49) và chu toàn bổn phận là con trong một gia đình khi sống đời khiêm hạ và hằng vâng phục Mẹ Maria và thánh Giuse. Người ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, vả hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa (x Lc2,40).
Như vậy, noi gương Chúa Giêsu, trong phận làm con, chúng ta có bổn phận hiếu kính cha mẹ mình. Sự hiếu kính đó không phải chỉ là điều hợp với lẽ phải, hợp với khao khát chính đáng của con người, nhưng còn là điều đẹp ý Chúa. Bởi lẽ Thiên Chúa muốn con cái thờ cha kính mẹ (x Đnl 5,16). Bởi lòng hiếu thảo của con cái là quà tặng đẹp nhất dâng cho cha mẹ và được Chúa chúc lành.
4. “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao” (Lc 2,49)?
Sau mười hai năm dưỡng dục, Đức Maria và thánh Giuse dẫn người con Giêsu nay đã lớn khôn lên Giêrusalem “trình làng”. Bổn phận làm cha làm mẹ khiến hai Đấng chạy đôn chạy đáo tìm kiếm khi thất lạc cậu con. Nỗi lo lắng ấy được bù đắp khi tìm thấy con mình ngồi giữa các thầy thông thái, vừa đáp vừa hỏi thật khôn ngoan. Dù đã chu toàn trách nhiệm, hai đấng vẫn không khỏi ngỡ ngàng trước câu trả lời khó hiểu của con mình: ”Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha Con sao”? Thì ra bổn phận làm cha mẹ không chỉ là chăm sóc dạy dỗ con về phương diện tư nhiên, xã hội mà còn hướng dẫn cho con cái nhận biết, đáp lại ơn gọi và sứ mạng Chúa dành cho chúng nữa; cha mẹ không chỉ dưỡng dục con thành người mà còn phải giúp con mình lớn lên thành con cái Chúa.
5. Qua biến cố Giáng sinh, Thiên Chúa đã trao cho nhân loại một viên ngọc vô cùng quí giá, là Chúa Giêsu, để nhờ đó mà nhân loại được sống. Thế nhưng thử hỏi có được bao nhiêu người trong nhân loại đã giơ tay ra để đón lấy viên ngọc quí đó. Thánh sử Gioan, trong bài tiền ngôn Tin Mừng của Ngài, Ngài đã đau xót nói lên rằng: ”Người ở giữa thế gian, nhưng thế gian lại không nhận biết Ngài (Ga 1,10). Và còn hơn thế nữa: ”Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Người” (Ga 1,11).
Chính vì thế “Ngài đã đến, nhưng Ngài lại phải ra đi”.
Tại sao nhân loại đã có thái độ như vậy ? Thưa, chỉ vì nhân loại chưa nhận biết giá trị của viên ngọc quí Giêsu. Chính vì thế mà nhiều người đã đi chọn cho mình những viên ngọc giả hiệu là danh vọng, lạc thú, giầu sang, chức quyền thay vì chọn viên ngọc thật, vô cùng qui giá là Chúa Giêsu.
6. Truyện: Chọn viên ngọc quí.
Người ta kể rằng có một chàng thanh niên đến xin thọ giáo với một sư tổ về ngọc thạch. Sau khi đã chấp nhận người môn sinh, vị sư tổ trao cho chàng một viên ngọc thạch quí giá, và bảo chàng hãy nắm thật chặt lấy nó ở trong tay. Thế rồi ông nói thao thao với người môn sinh về triết lý nhân sinh, về thiên văn địa lý. Sau hơn một giờ đồng hồ, ông bảo người môn sinh trả lại ông viên ngọc thạch, rồi cho chàng về nhà.
Hôm sau, chàng thanh niên đó trở lại, và cái cảnh hôm trước lại tái diễn. Thế rồi ngày này qua ngày khác, tháng nọ qua tháng kia, không có một điều gì khác lạ.
Nhưng rồi một hôm vị sư tổ bảo chàng nhắm mắt lại, rồi trao cho chàng một viên đá thay vì một viên ngọc như mọi khi, và cũng bảo chàng nắm tay lại.
Vừa nắm bàn tay lại chàng thanh niên nói: - Thưa thầy, đây không phải là viên bảo ngọc.
Vị tổ sư về ngọc thạch reo lên: - Khá lắm, khá lắm, thế là con đã thành tài rồi đó.
Sống trong cuộc sống, chúng ta phải tập cho mình biết nhạy bén với những dấu chỉ dù nó thật nhỏ bé, chúng ta mới có thể nhận ra những điều kỳ diệu Chúa làm cho chúng ta.
29/12 Cụ già Si-mê-on
- Viết bởi Lc 2, 22-35
Cụ già Si-mê-on.
Thứ Ba – Ngày thứ năm trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh.
"Ánh sáng đã chiếu soi các lương dân".
LỜI CHÚA: Lc 2, 22-35
Khi mãn thời hạn thanh tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa", và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề luật Chúa là "một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con".
Và lúc đó tại Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ơn cứu độ cho muôn dân
Suy niệm :
Luật lệ thường làm người ta cảm thấy gò bó, mất tự do.
Người Do Thái phải giữ Luật Chúa đã ban cho Môsê.
Con trai thì phải được cắt bì và đặt tên tám ngày sau khi sinh (Lc 2,21).
Con trai đầu lòng thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2),
nên cha mẹ phải nộp năm sê-ken bạc cho tư tế
để chuộc lại con cho mình (Ds 3,47-48).
Người phụ nữ sau khi sinh con, bị coi là nhơ uế (Lv 12, 2-8),
phải ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền thờ.
Bốn mươi ngày sau khi sinh con trai, bà cần làm lễ thanh tẩy.
Bà phải dâng cho Đền thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu,
và một con chim gáy hay bồ câu để làm lễ tạ tội.
Nếu nghèo, bà chỉ cần dâng một cặp bồ câu non hay chim gáy là đủ.
Giuse và Maria đã vui vẻ giữ những luật này,
dù ngày nay đối với chúng ta, chúng thật là khó hiểu và khó chấp nhận.
Hãy nhìn ngắm đôi vợ chồng nghèo lên Giêrusalem.
Họ đã vượt một quãng đường xa, với đứa con mới hơn tháng tuổi.
Maria chịu thanh tẩy, dù bà biết mình đã cưu mang Đấng Thánh.
Bà đã dâng lễ vật đơn sơ của một người nghèo (c. 24).
Dù Luật không buộc, ông bà cũng đem Con lên Đền thờ để dâng.
Họ muốn con mình thuộc trọn về Thiên Chúa (x. 1 Sm 1, 22).
Ông bà đã không đòi hỏi một đặc ân hay miễn trừ nào.
Giữ Luật là cách họ thể hiện tình yêu đối với Chúa.
Có ai nhận ra đôi vợ chồng với đứa con nhỏ này là ai không?
Có, một người công chính và sùng đạo tên là Simêon.
Thánh Thần hằng ngự trên ông (c. 25),
và nói cho ông biết ông sẽ thấy Đức Kitô trước khi lìa đời (c. 26).
Chính Thánh Thần thúc đẩy ông lên Đền thờ vào lúc này (c. 27).
Bỗng nhiên ông thấy mầu nhiệm lớn lao đang tỏa sáng,
nơi Hài Nhi bé nhỏ, con của đôi vợ chồng nghèo.
Mọi mong chờ lâu nay của ông được đền đáp.
Các mục đồng đã nhận ra Đức Kitô nơi bé thơ quấn tã, nằm máng cỏ,
còn Simêon nhận ra Ngài nơi em bé được bồng ẵm bởi đôi vợ chồng.
Ông đã bồng Hài Nhi trong vòng tay, ngất ngây vì hạnh phúc.
Môi ông bật lên lời chúc tụng của người sẵn sàng nhắm mắt ra đi.
Ơn cứu độ cho muôn dân đã đến đây rồi (cc. 30-31).
Hài Nhi bé nhỏ này là Ánh sáng cho muôn dân,
là Vinh quang cho Dân Ítraen của Đức Chúa (c. 32).
Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày,
cần có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon.
Thánh Thần như trò chuyện, mách bảo, thôi thúc ông từ bên trong.
Thánh Thần soi sáng để ông nhận ra điều lớn lao mắt phàm không thấy.
Nhưng để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần,
chúng ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon.
Chẳng còn mơ ước gì ngoài việc được gặp mặt Đức Kitô qua cuộc sống.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ
như tấm bánh nơi nhà Tạm,
nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,
nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người
gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo Hội
gồm những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa cũng ở rất sâu
trong lòng từng kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa
đang tạo dựng cả vu trụ
và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra
Chúa đang hẹn gặp con
nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước đường đời của con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: ÁNH SÁNG MUÔN DÂN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cụ già Simeon nhìn thấy Chúa Giêsu xuất hiện như ánh sáng soi đường. Đó chính là ánh sáng tình yêu và sự sống soi vào đêm tối bất hòa chết chóc của nhân loại. Không phải tình yêu nói suông nhưng tình yêu cụ thể bày tỏ bằng việc làm.
Tình yêu đối với Thiên Chúa được bày tỏ qua việc tuân giữ điều răn của Người. Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse không buộc phải giữ luật Môse dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa. Nhưng các ngài đã khiêm nhường và vâng lời tuân giữ để tỏ lòng hiếu thảo với Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu đến không phải để bãi bỏ lề luật nhưng để kiện toàn. Người Do thái tuân thủ lề luật vì sợ hãi, nên giữ luật cặn kẽ với tinh thần nô lệ. Chúa Giêsu đã kiện toàn lề luật bằng cách tuân giữ lề luật vì lòng yêu mến đối với Đức Chúa Cha, giữ trọn vẹn trong tinh thần tự do của người con hiếu thảo. Đó là tình yêu tuyệt hảo vì được minh chứng bằng hành động. Đó là cách giữ luật tuyệt hảo vì được thực thi với tình yêu.
Tình yêu đối với tha nhân được bày tỏ qua việc tuân giữ điều răn mới của: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chúa Giêsu đến chiếu lên làn ánh sáng mới chan hòa yêu thương soi đường cho nhân loại. Từ nay sáng tối phân minh, thiện ác tách bạch. Ai ghen ghét vẫn còn bị giam cầm trong bóng tối sự chết. Ai yêu thương sẽ được hưởng ánh sáng ban sự sống. Ai ghen ghét sẽ bị bóng tối phủ lấp, không thấy đường đi và vĩnh viễn bị lầm lạc. Ai yêu thương sẽ được ánh sáng soi dẫn, sẽ “ở lại trong Chúa Giêsu, đi trên con đường của Chúa Giêsu”, “là con đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống”.
Tình yêu chính là con đường sáng. Con đường dẫn đến sự thật và sự sống. Chúa Giê-su chính là đường đi. Ta hãy đi theo Người. Đi trong tình yêu. Ta sẽ góp phần chiếu ánh sáng vào thế giới. Ánh sáng ban sự sống. Ánh sáng ban hoà bình.
Lạy Chúa Giêsu Bé Thơ, con chiêm ngưỡng hình ảnh đẹp đẽ của Chúa được dâng trong Đền Thờ. Xin cho con được noi gương Chúa có lòng hiếu thảo yêu mến Đức Chúa Cha, vui vẻ tự nguyện giữ trọn vẹn luật Chúa. Xin cho con biết yêu mến anh em thật lòng, để không còn một bóng tối nào che phủ tâm hồn con, để con hoàn toàn sống trong ánh sáng tình yêu của Chúa.
Suy Niệm 3: HẠNH PHÚC CHO NGƯỜI ĐƯỢC GẶP CHÚA (Lc 2,22-35)
Ngày nay, những gia đình Công Giáo thường mang con mình đến nhà thờ xin cho bé được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, để gia nhập Giáo Hội, tham dự vào đoàn dân những người tin Chúa.
Khi xưa, thời Đức Giêsu cũng vậy, khi được tám ngày, cha mẹ Ngài bồng Hài Nhi Giêsu đến đền thờ để dâng cho Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Thiên Chúa tối cao. Tuy nhiên, trong ngày trọng đại này, chúng ta không thấy có những người sang giàu, quyền chức, nhưng chỉ có những người bé mọn hiện diện! Kinh Thánh cho hay, những người đón chào và diễm phúc được gặp Đức Giêsu trong ngày này không ai khác ngoài ông Simêon và bà Anna. Họ là những người bình thường, đơn sơ, nghèo khó... là những người nghèo của Giavê, nhưng tâm hồn thánh thoát, nên đã được gặp Chúa của bình an.
Mặt khác, chúng ta còn nhận thấy nơi Đức Maria và thánh Giuse một tấm gương khiêm tốn, trung thành với luật. Thật vậy, các ngài thừa biết được Hài Nhi Giêsu này là Con Thiên Chúa, và các ngài đang được đặc ân lớn lao là chăm sóc Đấng Cứu Độ trần gian. Như vậy, xét theo lẽ thường, các ngài có quyền từ trối việc giữ luật này, bởi vì Đức Giêsu chính là trọng tâm của luật. Nhưng không, các ngài đã khiêm tốn, tuân hành lề luật của Thiên Chúa cách yêu mến, không tìm đặc lợi cho mình chỉ vì có uy thế...
Ngày nay, nhiều người hay nhân danh chức quyền, công trạng hay giàu có để xin miễn chuẩn cho mình những việc bổn phận với Giáo Hội, xã hội...Tuy nhiên, khi làm như thế, chúng ta quên mất một điều là phần thưởng mai hậu của chúng ta đã bị đóng lại, vì hẳn nhiên chúng ta đã được nguồn lợi rồi! Tệ hơn nữa là khi chúng ta muốn được miễn chuẩn việc bổn phận mà không được đáp ứng, nhiều người đã có những lời lẽ tiêu cực, chỉ trích trong sự kiêu ngạo... và như thế, những sự quảng đại chia sẻ cách này hay cách khác trước đó của chúng ta đã đứng lên tố cáo và như bản án vạch trần hình thức vụ lợi, thực dụng của chúng ta thuần túy chứ không phải vì lòng yêu mến Chúa!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: trước tiên, nhìn vào Đức Mẹ và thánh Giuse, không tìm những đặc ân miễn chuẩn cho mình, nhưng các ngài đã thi hành, chu toàn bổn phận cách yêu mến. Thứ đến, noi gương ông Simêon và bà Anna, sống khiêm tốn, chân thành, đơn sơ để được Thiên Chúa mặc khải những điều kín nhiệm.
Cuối cùng, khi được diễm phúc gặp Chúa, chúng ta hãy có tâm tình tạ ơn, chúc tụng Thiên Chúa như những người nghèo của Thiên Chúa trong đền thờ khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương Mẹ Maria và thánh Giuse trong việc yêu mến và tuân giữ luật Chúa. Xin cho đời sống của cụ già Simêon và Anna là nguồn gợi hứng cho chúng con trong việc thờ phượng Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 4: Dâng con trong Đền thờ (Lc 2,22-35)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đến ngày theo luật định, thánh Giuse và Đức Maria bồng Chúa Hài Nhi đến đền thờ Giêrusalem để dâng cho Đức Chúa Cha. Ở đó có ông Simêon là người công chính. Ông được Chúa Thánh Thần soi sáng nên nhận biết Chúa Giêsu và cất tiếng khen ngợi Chúa, vì Chúa đã thương cho Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc dân Người; đồng thời ông cũng cho Đức Maria biết : Mẹ phải chịu nhiều đau khổ vì Chúa Hài Nhi.
Mẹ Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi trong đền thánh để tuân giữ luật thời đó. Và việc dâng hiến này báo trước Chúa Giêsu tự dâng hiến đời Người chịu chết trên khổ giá để cứu độ loài người.
2. Đức Giêsu là “con trai đầu lòng” (x.Lc 2,7), theo luật Maisen :”Mọi con trai đầu lòng phải được dâng hiến lên Thiên Chúa”, như chúng ta đọc thấy trong Cựu ước :”Đức Chúa phán với Maisen :”Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật : nó thuộc về Ta”(Xh 13,1-2). Vì thế, Đức Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Hài nhi Giêsu cho Thiên Chúa trong Đền thờ.
Từ nay cuộc đời Hài Nhi hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Ngài đã được dâng và cũng tự hiến dâng, để Thiên Chúa toàn quyền xử dụng trên Ngài trong sứ mạng nhập thể cứu độ: Dâng trọn vẹn trên đỉnh cao Thập Tự.
Người Kitô hữu được dâng cho Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội để trở thành con cái Thiên Chúa. Là Kitô hữu, chúng ta ý thức được diễm phúc làm con Thiên Chúa để cảm tạ bằng cách thờ phượng Thiên Chúa hết mình, và sống xứng đáng với phẩm giá đó bằng cách thánh hóa bản thân mỗi ngày.
3. Chúng ta nhận thấy : hai ông bà đang được diễm phúc làm mẹ Thiên Chúa và làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng không tìm đặc ân riêng cho mình, vẫn khiêm nhường tuân giữ lề luật : thanh tẩy và dâng con vào Đền thờ. Noi gương hai Đấng : người Kitô hữu không nên tìm đặc ân gì để miễn chước cho mình những bổn phận đối với xã hội, cộng đoàn, gia đình và tha nhân, nhưng phải khiêm nhường đơn sơ và nhiệt tình tuân giữ mọi lề luật chính đáng.
Đối với các bậc cha mẹ Kitô hữu, con cái là quà tặng của Thiên Chúa. Để bầy tỏ lòng trân trọng quà tặng quí báu đó, các bậc cha mẹ tiến dâng con cái của mình cho Thiên Chúa. Tiến dâng bằng cách nuôi dạy con cái theo ý Chúa; giúp con cái đón nhận và nuôi dưỡng đức tin, giúp con cái hướng tình yêu về Thiên Chúa.
4. Cụ già Simêon nói với Đức Maria :”Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng” (Lc 2,34).
Cụ Simêon trong tư cách là tiên tri tiên báo rằng con trẻ sẽ trở nên dấu cho người ta chống đối. Lời tiên tri được ngỏ cho Đức Maria để nói về sứ mạng cứu độ của Hài Nhi trong tương lai và sự mật thiết hiệp nhất trong công cuộc cứu độ của người con trong vai trò cộng tác :”Phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Lc 2,35). Maria không hiểu lời cụ Simêon mang ý nghĩa gì, nhưng khắc ghi nghiền ngẫm trong lòng và xin Thiên Chúa ban cho được thêm can đảm, Maria cũng chịu đau khổ thương khó như Con Mẹ, nhất là tại Núi Sọ hiến tế con Mẹ trên Thập giá.
Đức Giêsu cũng đã đến để yêu thương, cứu giúp mọi người. Ngài vốn là Thiên Chúa cao sang nhưng đã trở nên thấp hèn để nâng đỡ con người lên. Nhưng cuối cùng Ngài đã bị con người đóng đinh thập giá, bỏ mặc trong cái chết đau đớn và tủi nhục.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta theo gương Mẹ tiếp bước theo Chúa trên con đường yêu thương, dẫu có bị người đời chống báng hay từ chối.
5. Truyện: Lời cầu xin tốt đẹp.
Có người coi như mình bị thất bại, vì Chúa không nhận lời cầu xin của mình. Có vẻ nản lòng. Nhưng một ngày kia, đang khi cầu nguyện Chúa soi sáng cho người ấy hãy vững tin và đặt tất cả niềm tin phó thác vào Chúa. Họ đã sáng tác được lời cầu nguyện sau đây :
Lạy Chúa, con cầu xin ơn mạnh mẽ để thành đạt, thì Chúa làm cho con ra yếu ớt để biết vâng lời, khiêm hạ.
Con cầu xin có sức khỏe để thực hiện những công trình lớn lao, thì Chúa lại bắt con bị tàn tật và chỉ làm được những việc tốt nho nhỏ.
Con cầu xin được giầu sang để sống một cuộc đời sung sướng, thì Chúa lại bắt con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.
Con cầu xin có được uy quyền để mọi người phải kính nể, thì Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần đến Chúa.
Con cầu xin cho có được tất cả để tận hưởng cuộc đời, thì Chúa lại cho con cả một cuộc đời để được hưởng mọi sự.
Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn, nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin, thì Chúa lại đã ban cho con thật dư đầy từ lâu.
Lạy Chúa, hóa ra con lại là người có phúc hơn hết trên đời này. Bởi con đã nhận được ơn phúc Chúa vô vàn.
28/12 Hài Nhi chết vì Chúa.
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Hài Nhi chết vì Chúa.
Thứ Hai – Ngày thứ tư tuần Bát Nhật Giáng Sinh – THÁNH ANH HÀI. Lễ kính.
"Hêrôđê giết hết các con trẻ ở Bêlem".
LỜI CHÚA: Mt 2, 13-18
Khi các đạo sĩ ra đi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrođê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người". Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrođê băng hà, hầu làm trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập".
Bấy giờ Hêrođê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Khóc thương con mình
Suy niệm :
Trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh, một thời gian rất vui,
chúng ta cũng nhớ đến cái chết của các Thánh Anh Hài.
Không rõ đã có bao nhiêu trẻ thơ bị giết bởi vua Hêrôđê Cả.
Vị vua này điên cuồng bảo vệ ngôi báu nên đã giết nhiều người,
trong số đó có người vợ Do Thái và ba con trai của ông.
Đối với ông, việc sát hại trẻ thơ ở Belem chỉ là chuyện nhỏ.
Trước khi giết các bé trai ở Belem, vua đã muốn giết Hài Nhi Giêsu.
Nhưng Thiên Chúa có cách bảo vệ cho Con của Ngài.
Giuse vẫn là người đứng mũi chịu sào trong cơn nguy khó.
Sứ thần báo mộng cho ông, để ông đưa Hài Nhi và Mẹ trốn qua Ai Cập.
Khi được báo, ông đã trỗi dậy giữa đêm khuya và lên đường.
Cuộc trốn chạy vội vã trong đêm với những lo sợ, thiếu thốn, vất vả.
Ngay từ khi chào đời, Đức Giêsu đã bị đe dọa, phải sống xa quê nhà.
Đấng đem đến ơn cứu độ lại cần được cứu.
Đau khổ và thập giá đã có mặt ngay từ khi Vầng Dương ló rạng.
Biết Hài Nhi Giêsu đã trốn thoát, vua Hêrôđê nổi cơn thịnh nộ,
vì thấy mình bị mắc lừa bởi các nhà Đạo sĩ.
Ông bực tức ra lệnh giết các bé trai dưới hai tuổi ở Belem.
Tiếng khóc của trẻ thơ và của các bà mẹ vang lên như oán than.
Có ai còn nghe tiếng hát cao vút của các thiên thần?
Cái chết của Các Thánh Anh Hài là cái chết đặc biệt,
cái chết của những nạn nhân bé bỏng, vô tội, chưa có ý thức và tự do.
Cái chết của những người chưa biết nói, chưa có lòng tin vào Giêsu.
Nhưng đây là cái chết vì Đức Giêsu, nên thực sự là cái chết tử đạo.
Có bao nhiêu cái chết như thế trên thế giới mỗi ngày.
Cái chết không tự nguyện, không tiếng nói phản kháng.
Cái chết làm bằng chứng về một giá trị quan trọng bị chối bỏ.
Cái chết ấy có thể đưa người ta về với Giêsu.
Thế giới hôm nay vẫn có bao trẻ thơ chết vì bị giết.
Có những trẻ thơ chết trong lòng mẹ,
chết vì nghèo đói, vì chiến tranh, vì bệnh tật.
Có những trẻ em phải nghỉ học để đi làm, bị bóc lột bởi chủ nhân.
Có những em bị lạm dụng, bị bỏ rơi, tuổi thơ bị cướp mất.
Nơi những em này, ta thấy hình bóng của Các Thánh Anh Hài,
và thấy cả khuôn mặt của Hài Nhi Giêsu ngây thơ.
Xúc phạm đến trẻ thơ là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Thánh Giuse và Mẹ Maria đã bảo vệ Hài Nhi Giêsu an toàn tại Ai Cập.
Ai sẽ bảo vệ những trẻ em hôm nay khỏi bao tấn công của cái xấu?
Ai sẽ làm gương sáng để các em còn hy vọng?
Vẫn có những tiếng khóc của các bà mẹ, vì con bị giựt khỏi tay mình.
Lễ Giáng Sinh và lễ các Thánh Anh Hài là lễ của trẻ thơ.
Chăm sóc cho trẻ thơ hiện tại là cách xây dựng tốt nhất cho tương lai.
Xin Chúa cho chúng ta dám làm một điều gì đó cho các em.
Cầu nguyện :
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình ;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay
của từng người chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: ĐI TRONG ÁNH SÁNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thánh Gio-an đưa ra một cách nói khác của Thiên Chúa là tình yêu. Đó là định nghĩa: “Thiên Chúa là ánh sáng”. Con Chúa giáng trần chiếu ánh sáng vào trần gian. Từ đó có cuộc chiến khốc liệt giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng yêu thương rực rỡ đem lại an bình. Đem lại hiệp thông. Nhưng bóng tối là thù hận ghen ghét. Là chia rẽ bất hoà. Là gian tham độc ác. Là đàn áp bất công. Khi ánh sáng đến bóng tối run sợ. Sợ vì bóng tối bị phá tan. Sợ vì những ám muội bị phơi trần.
Hê-rô-đê tượng trưng cho bóng tối. Ham hố quyền lực. Tìm đủ cách để có quyền lực. Có quyền lực rồi tìm mọi cách để bảo vệ ngai vàng. Ông hoàn toàn thuộc về bóng tối. Bóng tối thống trị ông. Đời ông chìm ngập trong bóng tối. Không còn lương tri. Không có trái tim. Nói dối để gài bẫy ba nhà đạo sĩ. Giết hàng loạt trẻ em vô tội. Bóng tối tàn ác hiểm độc. Và nhất thời ta tưởng như bóng tối đã che lấp được ánh sáng. Hận thù tràn ngập thế giới.
Ánh sáng ban đầu quá yếu ớt. Như Chúa Giê-su “sơ sinh bọc tã, nằm trên máng cỏ”. Như các trẻ em bị giết chết oan ức. Như các bà mẹ chỉ biết khóc tức tưởi. Như dân làng chỉ biết nhẫn nhục chịu đựng. Nhưng ánh sáng càng lúc càng sáng lên mạnh mẽ. Sáng lên trong lương tri để nhận biết đâu là lẽ phải. Sáng lên trong trái tim để biết tình yêu là lẽ sống. Với thời gian những cái chết vô tội trở thành lời buộc tội cường quyền. Những tiếng khóc tức tưởi trở thành bản án cho lương tâm. Những nhẫn nhục âm thầm trở thành lực lượng tái thiết thế giới.
Các thánh Anh Hài không hiểu vì sao mình bị giết. Nhưng giờ đây chúng ta hiểu. Các ngài bị giết vì liên hệ với Chúa Giê-su. Bị giết vì Chúa. Các ngài được hiệp thông với Chúa. Các ngài đi trong ánh sáng. Trở thành lực lượng xây dựng thế giới. Thức tỉnh lương tri. Rung động trái tim. Khơi nguồn hiệp thông.
Ba Vua đã theo đường khác mà về. Không đi về đường của Hê-rô-đê. Gặp Chúa rồi các ngài giã từ con đường đi vào bóng tối. Để đi vào con đường ánh sáng.
Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối còn kéo dài và khốc liệt. Chúng ta cần sức mạnh của Chúa để có thể đi vào con đường ánh sáng. Để chiếu lên ánh sáng. Để yêu thương và sự sống tràn ngập địa cầu.
Suy Niệm 3: Lễ Kính Các Thánh Anh Hài
"Dù một chấm một phẩy trong Kinh Thánh
cũng không bỏ qua cho đến khi tất cả được nên trọn".
Không cần phải đưa Hài Nhi ra khỏi Ai Cập, chỉ cần đi xa vài làng mạc thành phố thôi cũng đủ để thoát khỏi bàn tay sát hại của Hêrôđê, hoặc có thể khiến cho ba đạo sĩ không đi ngang qua lối ấy để vua Hêrôđê không biết. Thế nhưng để ứng nghiệm lời tiên tri như đã chép mà Chúa đã làm như vậy. Từ đó chúng ta nhớ lại đoạn Phúc Âm Chúa Giêsu đã nói: "Ai tuân giữ và dạy người khác thực hành những điều nhỏ mọn nhất trong luật Chúa thì sẽ là kẻ lớn nhất trong Nước Trời".
Chúng ta đừng hiểu theo nghĩa đen như những người biệt phái và luật sĩ ngày xưa, nhưng phải đem tinh thần của lề luật vượt lên trên hết tất cả mọi điều luật. Ðó là tình yêu khoan dung bao la tha thứ của Thiên Chúa đối với những người ăn năn hối cải quay trở về với người Cha nhân từ.
Hôm nay lễ kính các thánh Anh Hài Tử Ðạo, chúng ta nói qua về vấn đề có tội và vô tội. "Nhân vô thập toàn", không ai là hoàn toàn cả: "Tinh thần thì hăng hái, xác thịt thì nặng nề". Nhóm người cổ Hy Lạp ngày xưa cùng thời với Platon, Aristote cho thân xác là tù ngục của linh hồn là thế. Cho nên nếu chúng ta nói: "Tôi là người vô tội" thì coi chừng tôi đang lừa dối tôi đấy. Thánh Phaolô đã cảnh tỉnh chúng ta: "Khi anh em tin rằng, anh em mạnh mẽ đứng vững, anh em hãy coi chừng kẻo ngã đấy".
Trong bài Thánh Thư hôm nay, thánh Gioan Tông Ðồ có viết thêm: "Nếu chúng tôi nói rằng chúng tôi không phạm tội thì chúng tôi là kẻ kêu Ðức Giêsu Kitô là kẻ nói dối và lời của Ngài không có ở trong chúng tôi". Vì sao? Vì Ðức Kitô đến để chuộc tội cho nhân loại tội lỗi, trong đó có mỗi người trong chúng ta. Thánh Gioan còn nói rõ hơn nữa: "Chính Ðức Kitô là của lễ đền tội chúng ta, không nguyên đền tội chúng ta mà thôi nhưng còn đền tội cho cả thế gian nữa". Như thế không ai trong chúng ta là kẻ vô tội.
Lúc mới sinh ra, con người đã mang lấy tội Tổ Tông ngoại trừ Ðức Kitô là Thiên Chúa làm người, ngoại trừ Mẹ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, và như Gioan Tẩy Giả được Mẹ Maria mang Chúa đến viếng thăm, dù đang ở trong bụng mẹ cũng đã nhảy mừng và thoát khỏi tội Tổ Tông, còn tất cả chúng ta đều mắc tội Tổ Tông.
Khi lớn lên tới tuổi khôn là tuổi nhận biết, phân biệt được hành vi việc làm của mình, Giáo Hội xác định là bảy tuổi, tức là chúng ta bắt đầu tới tuổi khôn, bắt đầu thêm tội mình nữa. Có một thánh nhân đã thú nhận: "Trong một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ, không khỏi có năm phút sai lỗi". Tội nặng hay nhẹ tùy hai yếu tố quan trọng sau đây:
1. Lý do bởi luật buộc là nặng.
2. Do sự chú ý cố tình sai phạm khi biết đó là tội trọng.
Vậy phạm một tội trọng cũng không phải là chuyện dễ, vì phải gồm có hai yếu tố trên.
Con người tuy mang lấy bản tính yếu đuối hay sa ngã, chán nản, mỏng dòn nhưng con người được Thiên Chúa biết và thông cảm cho. Nếu trong một ngày, người anh em con phạm tội đến con và nói với con rằng: "Tôi hối hận" thì con cũng phải tha thứ cho anh em con bảy lần không?" Chúa Giêsu trả lời: "Thầy không bảo con phải tha bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha thứ luôn luôn".
Vì nếu chúng ta tính được tới bảy mươi lần bảy thì chúng ta đã trở thành máy móc, trở thành thói quen quán tính tha tội cho người anh em của mình mãi. Chúa đã dạy chúng ta như thế, phương chi lòng Chúa càng phải bao dung tha thứ biết bao nhiêu lần. Tội hay vô tội, vấn đề đó không quan trọng, quan trọng của vấn đề là có lòng thống hối ăn năn hay không? Ðược tha nhiều sẽ mến Chúa nhiều hơn, như Maria Madalena trong Phúc Âm đã xức dầu thơm chân Chúa, như Phanxicô Xaviê, Augustinô chẳng hạn. Từ đó, con người đam mê trong trụy lạc thời còn trai trẻ được Thiên Chúa cho giác ngộ để dấn thân theo tiếng Chúa gọi và trở nên những vị thánh nổi tiếng lừng danh trong Giáo Hội.
Lạy Chúa, trong ngày lễ kính các Thánh Anh Hài hôm nay, xin cho mỗi người chúng con ý thức được vấn đề tội lỗi và tình thương của Chúa để chúng con sống đẹp lòng Chúa hơn trong giây phút hiện tại. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 4: Tàn sát các hài nhi
Lễ Giáng sinh trước tiên là lễ của Nhi đồng. Như Đức Gioan Phaolô II đã viết trong thư gửi các thiếu nhi trên thế giới nhân năm quốc tế gia đình: “Những gì đã xảy ra cho Hài nhi Giêsu ở Belem cũng xảy ra cho các trẻ em trên khắp thế giới. Có biết bao trẻ em đang là nạn nhân của đói khổ, của chiến tranh, đang bị cha mẹ bỏ rơi, đang sống cảnh màn trời chiếu đất, đang đau khổ vì biết bao hình thức bạo động và gây hấn của người lớn”.
Để có một vài con số cụ thể, chúng ta chỉ cần lắng nghe báo cáo của tổ chức Nhi đồng quốc tế (UNICEF) về tình trạng trẻ em trên thế giới năm 1995 như sau: “Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 đang có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì chiến tranh, từ 4 đến 5 triệu tật nguyền, hơn 5 triệu sống trong các trại tị nạn, trên 12 triệu sống cảnh không nhà không cửa”. Bản báo cáo ước tính cần phải có ít nhất 34 tỉ Mỹ kim mới có thể đảm bảo các nhu cầu về dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục cho các trẻ em trên khắp thế giới.
Vài con số trên đây đặt chúng ta trước một trong những thảm trạng của thời đại, đó là sự chà đạp hay chối bỏ quyền của trẻ em. Qui ước của Liên hiệp quốc về quyền của trẻ em đã được 167 quốc gia ký tên chuẩn nhận, thế nhưng trong thực tế bao khốn khổ mà trẻ em tại những nước nghèo đang trải qua lại là một chối bỏ quyền của trẻ em. Thảm trạng đã xảy ra cho trẻ em Do thái thời Chúa Giêsu sinh ra, ngày nay cũng đang tiếp diễn trên khắp thế giới. Vấn đề trẻ em là một vấn đề chiến lược của thế giới, vấn đề trẻ em là vấn đè chính sách của quốc gia, những nhà lãnh đạo thế giới và những nhà cầm quyền trong một quốc gia phải chịu trách nhiệm trước nhân loại và dân tộc mình về thảm trạng của các thiếu nhi.
Tuy nhiên, chính những người Kitô hữu cũng cần phải ý thức rằng với tư cách là cha mẹ, là anh chị, là người thân trong gia đình, tất cả chúng ta đều là những người trước tiên có trách nhiệm đối với con em chúng ta. Thánh Giuse và Đức Maria đã lặn lội đưa Hài nhi trốn sang Ai cập, đó là điển hình của những bậc cha mẹ có trách nhiệm đối với sự sống còn của con cái. Sống cho con cái, giáo dục chúng nên người, đó là trách nhiệm hàng đầu của bậc cha mẹ.
Nguyện xin Hài nhi Giêsu mà chúng ta chiêm ngắm trong máng cỏ soi sáng hướng dẫn chúng ta trong trọng trách dưỡng dục con cái. Xin Ngài đánh động chúng ta trước thảm cảnh của biết bao trẻ em đang lâm cảnh khốn khổ chung quanh chúng ta và ban cho chúng ta tấm lòng quảng đại để góp phần xoa dịu thương đau của dân tộc mà chính các thiếu nhi phải gánh chịu.
Suy Niệm 5: QUYỀN TRẺ EM CÓ CÒN ĐƯỢC TÔN TRỌNG? (Mt 2, 13 -18)
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Đây là quy luật mà ai cũng phải biết.
Tuy nhiên, có một sự thật đau buồn về tình trạng cuộc sống của các trẻ em hiện nay: theo thống kê của các tổ chức quốc tế, ngày nay có hàng triệu triệu trẻ em chết vì chiến tranh, tật nguyền; hay sống trong hoàn cảnh thiếu thốn tại các trại tỵ nạn và nơi các đường phố, gầm cầu... Biết bao trẻ em thất học, không được đến trường. Tệ hơn nữa là có quá nhiều trẻ em chết dưới bàn tay của chính các bậc làm cha mẹ khi họ quyết định phá thai...!
Tất cả đều do sự chểnh mảng, thiếu quan tâm, vô nhân và chối bỏ quyền của các trẻ em nơi những nhà lãnh đạo, các tổ chức và ngay cả các bậc làm cha mẹ trong các gia đình...
Thảm trạng đau buồn hiện nay của thế giới về các trẻ em cũng chính là đại họa mà các thánh Anh Hài thời Đức Giêsu phải chịu dưới sự tàn độc, ích kỷ, ghen tương của vua Hêrôđê.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đứng lên, tùy khả năng và trách nhiệm của mỗi người, hãy bảo vệ quyền trẻ em. Không ai được phép đứng nhìn những thảm trạng bi đát mà các trẻ em đang phải hứng chịu do nạn buôn bán, bóc lột, lạm dụng và vô lương tâm của người lớn gây nên...
Hãy ý thức vai trò và trách nhiện cao cả của thiên chức làm cha làm mẹ trong các gia đình, không bao giờ chúng ta cho phép mình có quyền trên sự sống sự chết của các trẻ em, dù các em mới là bào thai. Nên nhớ quyền đó thuộc về Thiên Chúa và không ai được phép cướp quyền của Người. Thiên Chúa luôn muốn cho con người được hạnh phúc và được sống dồi dào. Chính vì lý do đó mà Ngài đã giáng sinh để cứu chuộc con người.
Hình ảnh thánh Giuse và Đức Maria vội vã trong đêm đem Hài Nhi trốn sang Aicập đủ cho chúng ta thấy trách nhiệm của các ngài với Đức Giêsu.
Vì vậy, khi mừng lễ các thánh Anh Hài, chúng ta không gợi lại một thảm trạng buồn, nhưng đây là cơ hội để chúng ta học được bài học về tinh thần trách nhiệm, sống hết mình vì con cái như Đức Mẹ và thánh Giuse. Mặt khác, đây cũng chính là dịp để chúng ta hồi tâm nhằm nhận ra sự hờ hững, thiếu trách nhiệm trong việc nuôi nấng và giáo dục con cái. Hơn nữa, nếu có ai đó trong cộng đoàn đã một lần phá thai hay cổ vũ, tiếp tay cho tội ác tầy trời này, thì đây là thời thuận tiện để chúng ta nhận ra hình ảnh Hêrôđê ác độc qua hành vi mất nhân tính của mình để sám hối và xin ơn tha thứ cũng như biến đổi.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin Chúa ban cho chúng con biết ý thức vai trò và trách vụ phải có đối với các trẻ em. Xin Chúa gìn giữ và bảo vệ các trẻ em thoát khỏi những nanh vuốt của những Hêrôđê thời hiện đại khi họ khước từ quyền trẻ em.
Xin Chúa cũng ban cho có nhiều tổ chức từ thiện, nhiều tấm lòng quảng đại ra tay cứu giúp các trẻ em nhằm xoa dịu những đau thương mà các trẻ em phải gánh chịu trong xã hội hiện nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Các thánh Anh Hài (Lc 2,22-35)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Ba nhà chiêm tinh thờ lạy Chúa Hài Đồng xong thì ra về. Chúa liền sai Thiên thần đến báo tin cho thánh Giuse đem Hài nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập vì vua Hêrôđê đang tìm giết Người.
Vua Hêrôđê trông mãi không thấy ba nhà chiêm tinh trở lại cho biết Hài Nhi Giêsu sinh ra ở đâu thì tức giận, sai quân lính đi giết hết các trẻ mới sinh từ hai tuổi trở xuống, ở làng Belem và các làng lân cận. Ông ta đinh ninh khi giết hết các trẻ như thế thì giết được Hài Nhi Giêsu để bảo vệ ngôi vua của ông ta. Như thế, đúng theo lời tiên tri Giêrêmia đã báo trước: Ở Rama, người ta than khóc thảm thiết vì con mình đã bị giết.
2. Trong thư gửi các thiếu nhi thế giới ngày 3/12/1994 Đức Gioan Phaolô II viết :”Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là những ngày lễ (...) Ngay từ những ngày đầu sau khi sinh hạ, Hài Nhi Giêsu đã phải đương đầu với một đe dọa trầm trọng: bạo vương Hêrôđê ra lệnh tàn sát các trẻ thơ dưới hai tuổi, và vì lý do này Chúa Giêsu bị bắt buộc cùng với cha mẹ trốn sang Ai cập...” Mầu nhiệm giáng sinh gắn liền với mầu nhiệm tử nạn. Trong hài nhi nằm trong máng cỏ nghèo hèn, cuộc tử nạn đã được báo trước... Trong ánh sáng của mầu nhiệm giáng sinh, phải chăng chúng ta không được mời gọi nhận ra bóng đêm của mầu nhiệm tử nạn? Bóng thập giá phải chăng đã không phủ trên máng cỏ của Hài Nhi Giêsu? (Mỗi ngày một tin vui).
3. Con Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta, trở thành niềm vui mừng cho người này và nỗi buồn bực của người kia. Tùy tâm trạng mỗi người. Các trẻ thơ bị Hêrôđê giết, báo trước cái chết của Đấng sẽ đổ máu ra cứu chuộc loài người. Cái chết của các thánh Anh Hài đã thành lời chứng tuyệt hảo cho Chúa Giêsu chịu đóng đinh.Vấn đề đau khổ, nhất là đau khổ của kẻ vô tội, đặc biệt là đau khổ của những trẻ thơ, đã là một thắc mắc thấy được giá trị của cái chết của các em. Cái chết ấy góp phần vào việc thực hiện kế hoạch Thiên Chúa cứu độ muôn người. Tấm gương này mời ta hãy nhìn đau khổ theo con mắt của Chúa.
4. Hiện nay trên toàn thế giới đang xẩy ra một cuộc thảm sát đẫm máu. Liên hiệp quốc đã tiết lộ rằng: đã có từ 45 đến 55 tiệu sinh mạng con người bị thủ tiêu mỗi năm trước khi chào đời. Chỉ trong có 5 năm, con số phá thai đã tăng lên gấp đôi, do chính luật pháp nhiều quốc gia đã chính thức cho phép phá thai... Khi giết chết một đứa trẻ còn trong thai, chúng ta không thể lấy bất cứ một đứa trẻ nào khác trên thế giới để thay thế được. Biết đâu, đó sẽ là một nhà bác học, một vị thiên tài, hoặc chỉ là một con người bình dị.
Như trường hợp sau đây: người cha mắc bệnh giang mai, mẹ bị lao phổi với một hoàn cảnh rất bi đát : đứa con đầu lòng bị mù, đứa thứ hai mới sinh ra đã chết, đứa thứ ba bị điếc và câm. Đứa thứ tư sớm bị lao phổi. Bây giờ bà mẹ lại mang thai một đứa nữa. Vậy mà, thai nhi ấy đã không bị giết đi. Em đã được sinh ra là người con thứ năm của gia đình, đó chính là Ludwig Beethoven nhạc sĩ thiên tài, tác giả của 9 bản symphonie bất hủ của mọi thời đại.
5. Có biết bao nhiêu người đang âm thầm đau khổ và hy sinh cầu nguyện mà không thể thấy được kết quả của lời cầu nguyện. Có biết bao người âm thầm phục vụ tha nhân cách này cách khác mà không hề được đền đáp hoặc nhắc nhớ.
Trong ánh sáng của mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta được mời gọi để tìm thấy giá trị của những hy sinh âm thầm từng ngày. Sự thinh lặng bé nhỏ của Hài Nhi Giêsu trong hang đá Be Lem, 30 năm âm thầm của Ngài tại Nagiarét : đó là ý nghĩa của cuộc sống phiền toái, độc điệu mỗi ngày mà Hài Nhi Giêsu mời gọi ta nhận ra giá trị của cuộc sống.
Những đau khổ, những mất mát, khiến chúng ta nghi ngờ tình yêu của Ngài ư ? Hãy xác tín rằng Ngài đang nhìn thấy và cảm thông với từng nỗi khốn khổ của ta, và tình yêu mầu nhiệm của Ngài đang nhào nặn để biến những đắng cay chua xót ấy thành ân phúc cho ta.
6. Truyện : Con sâu trong tảng đá.
Một hôm, Đức Ala gọi một thiên sứ đến và truyền lệnh:”Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có bốn đứa con thơ”.
Thiên sứ ra đi. Ngài gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với bốn đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết như xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách biệt người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy ? Nhưng ánh mắt van xin của sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng, sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đem về trời.
Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị sứ thần lại có vẻ buồn. Phải, vui làm sao được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con. Thấy sứ thần buồn, Đức Ala mới gọi đến và đưa vào giữa sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra.
Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì trong lòng tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên :
“Ôi lạy Đấng Tối Cao, mầu nhiệm thay công việc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được bốn đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài”. (Trích D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 307-308).
27/12 Gia đình thực thi Ý Chúa
- Viết bởi Lc 2, 22-40
Gia đình thực thi Ý Chúa.
Chúa Nhật Thánh Gia Thất năm B.
"Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan".
Lời Chúa: Lc 2, 22-40
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, bây giờ, Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM LỄ THÁNH GIA – Năm B
Lời Chúa: Hc 3,3-7.14-17a hay St 15,1-6; 21, 1-3; Cl 3,12-21
Hay là: Dt 11, 8.11-12, 17-19 Lc 2, 22-40 hay 2, 22. 39-40
1. Tiến dâng cho Chúa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chấp nhận làm người là chấp nhận thuộc về một gia đình.
Ngôi Lời làm người chấp nhận có mẹ, có cha.
Tuy thánh Giuse và Đức Maria không có tương giao vợ chồng,
nhưng tình yêu chẳng bao giờ thiếu ở Nagiarét.
Chúng ta không biết nhiều về đời sống của Thánh Gia,
nhưng chúng ta thấy Hai Đấng luôn ở bên nhau,
đi chung với nhau trên những con đường,
chia sẻ với nhau mọi nỗi buồn vui,
trong thời gian Đức Giêsu còn thơ ấu.
Thánh Giuse đã đưa Đức Maria đi Bêlem.
Đoạn đường cam go đối với người gần ngày sinh nở.
Thánh Giuse cũng đã đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập,
rồi lại đưa về làng cũ.
Có lần cả hai phải vất vả mấy ngày tìm con
trong âu lo và nước mắt.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy
cả gia đình thánh lên Đền Thờ lần đầu tiên.
Một đôi vợ chồng nghèo với đứa con còn nhỏ.
Đây là một gia đình gắn bó với luật Chúa.
Luật dạy người mẹ phải tẩy uế sau khi sinh con.
Đức Maria vui lòng giữ luật ấy,
dù Mẹ biết Đấng được Mẹ sinh ra là Đấng Thánh.
Luật dạy phải chuộc lại đứa con trai đầu lòng
vì nó thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa.
Đức Giêsu chẳng những đã được chuộc lại,
mà còn được cha mẹ Ngài tiến dâng cho Chúa.
Con Thiên Chúa đã lớn lên trong bầu khí gia đình.
Ngài đã tập làm người. Mái nhà là trường học đầu tiên.
Thầy cô đầu tiên là cha mẹ.
Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt thật hài hòa.
Bé Giêsu, anh Giêsu, chú Giêsu, Ông Giêsu...
Ngài lớn lên trong dòng thời gian.
Thời gian là ánh mặt trời làm cho trái chín.
Nhờ lao động với Cha nuôi
mà Ngài trở nên vững vàng và đủ sức khỏe
để đảm nhận sứ vụ.
Nhờ chuyên cần học tập mà Ngài thêm khôn ngoan.
Dù Ngài là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa,
nhưng Ngài vẫn học hỏi nơi bạn bè, kinh sư,
nơi kinh nghiệm rút ra từ cuộc sống.
Nhờ được dạy cầu nguyện mà Ngài có tình thân với Cha.
Những lời kinh đầu tiên được bập bẹ trên gối mẹ.
Nagiarét đã thành trường huấn luyện Đức Giêsu
trở nên người biết sống cho người khác,
và nên vị tông đồ tuyệt vời cho Cha và nhân loại.
Có bao bài học sống động ở dưới mái ấm này.
Bài học yêu thương, cảm thông, tha thứ,
bài học phục vụ, quên mình, khiêm hạ xin vâng...
Ước gì mọi gia đình Kitô hữu đều là một Thánh Gia,
để mỗi người con đều trở nên một Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Xã hội suy sụp vì gia đình đổ vỡ. Đâu là những mối đe dọa mà gia đình hôm nay đang gặp phải? Một gia đình Kitô hữu dựa vào đâu để vượt qua những khó khăn đó?
Để có một gia đình hạnh phúc, cần có những người vợ, người chồng "đủ tiêu chuẩn". Theo ý bạn, đâu là những tiêu chuẩn mà một bạn trẻ cần có trước khi lập gia đình?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nagiarét,
Chúa đã thành một người chính chắn và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh,
khôn ngoan và tràn đầy ơn Chúa.
2. Lễ Thánh Gia - Huệ Minh
Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Một gia đình Ba Ngôi tuy là ba nhưng là một. Một Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Một gia đình Ba Ngôi tuy là ba nhưng là một. Một Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Và Chúng ta thấy khi mà Thiên Chúa đã sai con mình xuống trần gian thì Chúa Giêsu đã sinh ra trong cung lòng của Đức trinh nữ Maria và Chúa Giêsu cũng có một gia đình, như trong nhân loại con người. Chúa Giêsu đến trong trần gian với thân phận làm người, trong thân phận làm người, trong một gia đình.
Ngày hôm nay, cùng với Giáo Hội: chúng ta mừng lễ Thánh Gia. Mừng lễ Thánh Gia một lần nữa chúng ta nhìn vào gia đình thánh đó. Nhìn vào gia đình thánh đó để chúng ta cùng chiêm ngưỡng. Chúng ta nhìn từng thành viên trong gia đình thánh đó, để soi rọi cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu trong cái thân phận làm người, dẫu là Thiên Chúa đấy ! Nhưng mà Ngài đã đến và làm con của Đức Trinh Nữ Maria. Và như là luật của Môse thì Chúa Giêsu được cha mẹ, Theo thánh Luca thuật lại trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Cha mẹ đem con đầu lòng đi lên thánh hiến đi lên dâng lên cho Thiên Chúa cùng với lễ vật có nói trong luật Chúa là một đôi chim gáy hay là một cặp bồ câu non. Chúa Giêsu đã đến trong trần gian nhưng đã vẫn giữ luật.Giữ luật mà người ta dành cho Thiên Chúa. Và rồi chúng ta thấy sau khi mà hoàn thành cái luật Chúa, trở lại với Galilê. Thánh Luca nói: đứa trẻ càng lớn càng mạnh mẽ, càng khôn ngoan và ơn nghĩa với Thiên Chúa.
Vấn đề nằm ở chỗ đó đó. Dẫu rằng, một Thiên Chúa làm người, nhưng Chúa Giêsu lớn lên mạnh mẽ, khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Ngài. Để rồi, điều đó nói lên hình ảnh của một đứa trẻ Giêsu, một con trẻ Giêsu làm người, rất người đó. Tức là cùng với cha mẹ mình sinh hoạt, sống trong đời sống gia đình. Chúa Giêsu càng lớn tuổi,càng thêm khôn ngoan càng thêm nhân đức trước mặt người đời.
Chúng ta thấy: khôn ngoan kiểu của Thiên Chúa chứ không phải khôn ngoan theo kiểu của người đời, và ơn nghĩa của Thiên Chúa chứ không phải ơn nghĩa của người đời. Đó là đặc tính của Chúa Giêsu, để chúng ta nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta học được nơi Chúa Giêsu. Đặc biệt: Chúng ta thấy sự hiền lành và khiêm nhường như Chúa Giêsu nói: Anh em học cùng thầy, vì thầy có lòng hiền lành và khiêm nhường.
Rồi chúng ta đặc biệt hơn nữa, chúng ta nhìn vào khuôn mặt của Đức trinh nữ Maria: Đã nói quá nhiều trong những ngày qua. Từ mùa Vọng cho đến những ngày Chúa Giáng sinh. Một Maria đã khiêm tốn đón nhận thánh ý Chúa, và xin vâng thánh ý Chúa trong suốt cả cuộc đời của mình. Và một Thánh Giuse trầm lặng không nói lời nào. Một Thánh Giuse chỉ xin vâng và đón nhận tất cả, tất cả những gì mà Thiên Chúa đặt để nơi cuộc đời của mình.
Và chúng ta nhìn thấy nơi gia đình thánh đó: cả ba người sống tròn vẹn tất cả những gì là cái thân phận làm người đó rất tuyệt vời. Giống như trong tâm tình của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côlôxê chúng ta vừa nghe đó:
“Anh em thân mến , Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Anh em hãy mặc lấy tâm tình từ bi , nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa và nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau”.
Ông bà mình thường nói «chén trong chạn nó còn khua» chắc chắn, gia đình của Đức Maria, của Thánh Giuse, của Chúa Giêsu trong cái thân phận làm người cũng có những trục trặc. Thế nhưng rồi, cả ba đã sống trọn vẹn Yêu Thương, đã sống trọn vẹn cái tình yêu thương đó, trong gia đình. Mẹ Maria đã sống trọn vẹn cái vai trò làm mẹ và xin vâng thánh ý Chúa, như là đỉnh điểm cuộc đời của mình, thánh Giuse cũng vậy, Chúa Giêsu cũng vậy.
Chúng ta được mời gọi nhìn vào đời sống gia đình. Trong cái thân phận làm con, mỗi người chúng ta đặc biệt ai cũng là con cả! Không ai thoát khỏi thân phận đấy! Bởi vì mỗi người chúng ta không ai tự lỗ nẻ mà sinh ra. Bất cứ mọi người chúng ta , ai cũng được cha mẹ sinh ra. Và chúng ta được mời gọi: thảo kính cha mẹ, như lời Sách Huấn Ca dạy chúng ta:
Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái; quyền lợi bà mẹ, Người củng cố trên đoàn con. Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ.
Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống. Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng, ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người. Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi. (Hc 3, 3-7. 14-17a)
Đó là lời của sách Huấn ca mời gọi, mỗi người con cái sống trong cái chữ Hiếu và trọn vẹn cái chữ Hiếu.
Đặc biệt năm nay là năm hướng về đời sống gia đình của các gia đình trẻ, lại thêm một lần nữa nhắc nhở các gia đình trẻ. Nhắc nhớ đến thân phận mỗi người chúng ta, hãy cố gắng sống làm sao trọn vẹn cái chữ hiếu. Thật sự mà nói, trên đời này không có cái tội nào ác hơn, là cái tội bất hiếu.
Và ngày hôm nay chúng ta nhìn thấy giữa một cái xã hội chạy theo vật chất và người ta không còn đặt nặng cái chữ Hiếu nữa.
Rất đau lòng khi mà, người cha phải vô tình tự vệ để giết con mình. Như vụ án xảy ra ở trên Bảo Lộc vừa rồi. Người Cha đã tự bảo vệ mình để rồi lấy con dao người con đâm mình để mà giết nó. Nhìn khuôn mặt của người cha không ai tránh khỏi cái lòng chạnh thương. Bởi vì sao nó lại ra như thế? Con lại đang tâm giết cha mình và rất nhiều lần không phải là lần hôm đó người con đã đuổi cha mình ra khỏi nhà và đã rượt ông và đã đâm ông.
Ngày hôm nay, đời sống vợ chồng cũng vậy. Mới vừa rồi ở Bình Dương người vợ đã cam tâm giết chồng mình, cắt cổ chồng mình và phân thây chồng mình. Nhưng mà lần ra, lần ra manh mối của những câu chuyện Đó là: do đời sống gia đình nó trục trặc. Người chồng bê tha, người chồng sống không đúng là vai trò của người chồng, để rồi người vợ đã đi vào cái bước đường cùng, và đã ra tay sát hại chồng mình.
Ngày hôm nay phải nói rằng quá nhiều vụ án thương tâm để làm cho chúng ta nhìn lại cuộc đời của mình, nhìn lại gia đình của mình.Phải chăng những cái vụ án đó, là những tiếng nói gióng lên tiếng lòng của cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Chúng ta sống như thế nào đó để gìn giữ gia đình của mình. Chúng ta sống như thế nào đó, để mà hun đúc cái tình yêu mà, ngày xưa khi dẫn nhau đi đến nhà thờ để cam kết cái đời sống hôn nhân đó được trọn vẹn.
Ngày hôm nay, người ta đã vì cơm áo gạo tiền. Ngày hôm nay, vì cuộc sống, mà người ta đã quên đi cái tình nghĩa của vợ chồng. Người ta đã quên đi cái hạnh phúc của gia đình. Và họ đi tìm hạnh phúc ở ngoài gia đình, để rồi gia đình cứ đứng trên bờ vực của chia tay.
Thật sự ra, nếu suy nghĩ cho bằng cùng chia tay là làm cho đau khổ là làm cho không ai thoát khỏi cái tổn thương, đặc biệt nơi những đứa con thiếu vắng cha, thiếu hình mẹ.
Chúng ta hãy nhìn vào đời sống của thánh gia, để chúng ta soi chiếu cuộc đời của mỗi người chúng ta vào gương của các ngài:
- Một thánh Giuse luôn luôn trầm lặng không nói lời nào, chỉ vâng theo thánh ý Chúa.
- Một Maria luôn thưa với Chúa hai tiếng xin vâng.
- Và đặc biệt nơi Chúa Giêsu, một tâm hồn khiêm nhường đến tận cùng; đã vâng theo thánh ý Chúa Cha, đã xuống trong trần gian này và chấp nhận đau khổ, phải vác thập giá theo Chúa đến cùng.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta: Đằng sau Thập Giá là vinh quang. Đằng sau khổ đau là hạnh phúc. Đằng sau những đắng đót của cuộc đời đó là sự bình an trong Chúa.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta. Để rồi trong cái thân phận làm người , chúng ta ai cũng yếu đuối cả. Nhưng mà chúng ta nhớ đến tâm tình của thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côlôsê mà chúng ta vừa nghe đó: “Như Chúa Cha đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau.”
Và nếu chúng ta sống cái tâm tình đó trong gia đình của chúng ta. Nếu như người này có chuyện oán trách người kia, chúng ta hãy tha thứ cho nhau. Và khi chúng ta tha thứ cho nhau thì gia đình chúng ta sẽ dễ lắm: bình an, hạnh phúc.
Và hơn thế nữa thánh Phaolô có nói: “Nguyện cho lời Chúa Kitô ngự dồi dào trong anh em. Với tất cả sự khôn ngoan, anh em hãy học hỏi và nhủ bảo lẫn nhau. Hãy dùng những bài Thánh Vịnh, Thánh Thi và thánh ca của Thần khí với lòng tri ân để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em.
Và tất cả những gì trong lời nói hành động, tất cả mọi việc anh em hãy làm vì Danh Chúa Kitô. Nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.”
Phải nói rằng đó là một cái kim chỉ nam, là một lời chỉ dẫn rất tuyệt vời. Nếu như trong mọi sự, trong mọi hành động lời nói, tất cả chúng ta làm vì Danh Chúa Kitô và nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha, thì chắc chắn gia đình của chúng ta sẽ được bình an. Và tất cả những gì sự khôn ngoan, anh em hãy học bảo lẫn nhau, dùng những bài Thánh Vịnh, Thánh thi.
Đặc biệt, ngày hôm nay chúng ta thấy rất khó, quá khó để có một giờ kinh tối chung với nhau. Và đặc biệt giờ cơm chung với nhau. Nhiều người đã coi thường giờ kinh chung với nhau. Nhiều người đã coi thường giờ cơm chung với nhau.
Thế nhưng mà, chính giờ cơm chung, giờ kinh chung đó là chất keo Để kết dính đời sống gia đình của chúng ta. Khi chúng ta không có giờ cơm chung khi chúng ta không có giờ kinh chung. Khi chúng ta không có nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta bằng những bài thánh vịnh , thánh thi, thánh ca của thần khí và đặc biệt thánh lễ.
Thì đời sống của chúng ta, đặc biệt đời sống gia đình sẽ rạn nứt dần và không có gì kết dính được bởi vì khi chúng ta không có sống vì Danh Thiên Chúa , chúng ta không kết hợp mật thiết đời chúng ta với Chúa thì khi ấy cái tôi của mỗi người chúng ta sẽ lớn lên trong chúng ta, và chúng ta sẽ hành xử theo kiểu người đời: hở một chút có thể hạ cẳng chân, thượng cẳng tay, và hơn nữa có thể đi đến chém giết nhau, như những tệ nạn xã hội đau lòng mà chúng ta thấy.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để khi chúng ta nhìn vào gia đình Thánh gia chúng ta cố gắng chúng ta bắt chước mỗi cái gương sống trong bậc làm cha, làm mẹ, làm con. Và đặc biệt chúng ta hãy cố gắng sống sống trọn vẹn cái thân phận làm người trong mỗi cung cách cha mẹ con cái đó và noi gương Gia Đình thánh, để chúng ta sống thánh giữa cuộc đời này!
Đừng mơ có một đời sống thánh tương lai nếu như trong đời này chúng ta không sống thánh
Xin cho mỗi người chúng ta trong: bật làm cha hãy yêu thương vợ con mình. Trong bật làm mẹ hãy yêu thương chồng con, và trong bật làm con hãy thảo hiếu cha mẹ mình, bởi vì có cha mẹ mình mới có mình, mà chính nhờ cha mẹ mình mà mình mới có được như ngày hôm nay.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, để chúng ta sống trọn vẹn Chữ Hiếu, sống trọn vẹn vai trò và trách nhiệm mà Thiên Chúa đã trao ban cho mỗi người chúng ta trong cuộc đời này. Amen.
3. Gia đình nơi để yêu thương
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Ngày 16-12-2014, trên trang mạng xã hội Zing.vn có đăng một bài văn độc mới và lạ của em học sinh Nguyễn Thị Cúc được cô giáo cho điểm 10. Trong bài bài văn, em Cúc viết: “Mới chiều hôm qua đây thôi, trên đường đi học về tôi gặp một cảnh tượng thật đau lòng, một người đàn ông đánh tới tấp vào mặt, lưng một người phụ nữ. Vừa cố chống chọi với cơn khát bạo hành của chồng, chị vừa khóc lóc van xin: "Sao anh lại đánh em thế này... đừng đánh em nữa anh ơi!. Tôi hơi sững người, nhưng cũng không lấy làm lạ vì đã từng chứng kiến cảnh như thế này nhiều lần. Ấy thế mà lâu nay tôi lại nghe người ta nói rằng: "Gia đình là nơi để yêu thương. Đã trôi qua một khoảng thời gian khá dài tôi đã sống, đã ra đi... và tìm tòi những minh chứng cho điều mình nghe thấy. Thế rồi, lại đắng lòng biết mấy, khi tôi chợt nhận ra thời gian càng quay nhanh thì tình người cũng dần tan biến. Cuộc sống vô tâm làm nguội lạnh tình cảm trong trái tim mỗi người. Xã hội đổi thay và lòng người cũng dần thay đổi, mọi tính toán thiệt hơn trong cuộc sống làm mất đi những vẻ đẹp tự nhiên vốn có, hạnh phúc thì ít nhưng đắng cay lại nhiều, bao nhiêu mảnh đời bất hạnh vì cuộc sống gia đình không hòa thuận, thậm chí tan vỡ, và những hiểm nguy luôn rình rập”.
Một em học sinh lớp 12, tuổi teen, tuổi học trò mộng mơ, tuổi chuẩn bị bước vào đời mà đã thấy, cảm nghiệm và thấu hiểu nỗi đau con người và gia đình ngày nay tàn nhẫn, ác tâm và tội lỗi như thế! Tại sao, cảnh bạo cảnh gia đình ngày nay xảy ra nhiều như thế! Là người tại sao ác tâm như thế, “nhân chi sơ tính bản thiện đâu rồi? Trong Tông huấn Niềm vui của tình yêu, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói đến những nguyên nhân dẫn đến tình trạng gia đình đổ vỡ. Đó là kỳ vọng quá cao về đời sống hôn nhân, sự thu hút ban đầu qua đi, cùng với những khó khăn mới mà đôi bạn chưa được chuẩn bị để đối diện. Ngoài ra, còn phải nói đến tác động của bối cảnh văn hoá xã hội ngày nay, đề cao tự do cá nhân hơn hạnh phúc gia đình, đo lường tình yêu dựa vào những tiêu chuẩn vật chất và hưởng thụ hơn là những giá trị tinh thần. Vì kinh tế thị trường, xã hội hưởng thụ mà người ta vô cảm với nhau và thiếu tình nghĩa vợ chồng, con cái, cha mẹ.
Lời Chúa hôm nay cho một hướng sống và một cung cách sống noi gương gia đình Thánh gia. Bài Tin Mừng kể Đức Maria dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, đây là truyền thống quen thuộc của Do Thái giáo từ thời xuất hành. Và việc dâng con ngày xưa vẫn còn một ý nghĩa cần thiết cho chúng ta hôm nay bởi vì cha mẹ không phải là nguồn mạch và là tác giả của sự sống nơi đứa con, chính Chúa mới là nguồn mạch và là tác giả tuyệt đối còn cha mẹ chỉ là cộng tác viên mà thôi. Cho nên giáo lý hôn nhân dạy mục đích của hôn nhân là yêu thương và giúp đỡ, đồng thời cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh sản và giáo dục con cái. Vì vậy, sự sống là quà tặng của Thiên Chúa, thuộc chủ quyền của Thiên Chúa, con người không bao giờ được phép định đoạt cho đứa con này được sống, được sinh ra, đứa kia phải chết. Thánh Giuse và Đức Mẹ ý thức rất rõ mầm sống trong lòng của Mẹ Maria là chính Thiên Chúa nữa. Vì thế mà Thánh Giuse và Đức Maria đã hết lòng để bênh vực và bảo vệ sư sống này. Khi vua Hêrôđê ra lệnh tiêu diệt tất cả các hài nhi trong vùng, thì Thánh Giuse đã dựa vào giải pháp của Thiên Chúa, đó là đem Hài nhi và Mẹ Người trốn qua Ai Cập. Một cuộc tẩu thoát như thế quả thật là nhiều nguy hiểm gian nan, nhưng bằng mọi giá, Thánh Giuse đã đem Đức Maria và Hài nhi ra đi ngay lúc nửa đêm để tránh bàn tay độc ác của Hêrôđê và bảo vệ sự an toàn cho Hài nhi. Rồi khi được lệnh trở về, Thánh Giuse cũng đã khôn ngoan để chọn vùng Nazaret là một làng quê bình yên để cư ngụ giúp cho sự an toàn của hài nhi và cả gia đình.
Vâng, Thánh Giuse là Cha nuôi, nhưng hơn tất cả mọi người cha ruột thịt, Ngài đã âm thầm hy sinh, hiến trọn mạng sống mình để phụng dưỡng Con Thiên Chúa, bảo vệ an toàn gia đình thoát khỏi mọi nguy hiểm và làm cho mọi thành viên trong gia đình được bình an. Mẹ Maria, người mẹ thánh thiêng trinh trong tuyệt vời, luôn luôn sống với tinh thần tôi tớ của Thiên Chúa, sống dịu hiền, thương mến, thăm viếng, phục vụ bà con xóm làng, tích cực cộng tác với Con Thiên Chúa trong công trình cứu độ muôn dân và xây dựng Hội thánh. Quả thực, không một ai đứng kề thánh giá của con bằng Mẹ, không một ai sống giữa các môn đệ trong lúc cô đơn xao xuyến để cầu nguyện Thánh Linh xuống soi sáng và củng cố tinh thần các môn đệ bằng Mẹ. Còn Chúa Giêsu, Người chí hiếu, con thảo độc nhất của gia đình. Người con chí ái độc nhất của Thiên Chúa, đã sinh ra trong hang lừa hèn hạ, đã lớn lên trong cảnh lao động nghèo khó. Nhưng, cháu bé này là nguồn an bình muôn thuở cho những cụ già như Simêon ẵm bế, là nguồn hy vọng vinh phúc cho những bà góa neo đơn như Anna, là nguồn sáng soi đường cứu độ cho muôn dân và vinh quang cho Israel dân Ngài.
Noi gương gia đình Thánh gia, trong đời sống gia đình chúng ta cũng vậy, hỡi những bậc làm cha mẹ hãy biết xây dựng gia đình mình thành một tổ ấm, một cái nôi chan hòa “tình thương yêu êm ái, nhân hậu, khoan dung, hiền lành, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau, cởi mở chân thành để liên kết với nhau trong mối giây bác ái yêu thương tuyệt hảo”. Hơn nữa, cha mẹ phải tạo dựng gia đình thành một đền thờ, trong đó “dâng lên Thiên Chúa những bài Thánh vịnh, những khúc hát Thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh ứng. Hãy dùng lời Chúa dạy dỗ răn bảo nhau cho thật khôn ngoan để lời Chúa Kitô sinh hoa kết quả dồi dào trong gia đình. Khi làm gì, nói gì, hãy làm và nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Người mà cảm tạ Chúa Cha” (Bài đọc 2 mà chúng ta vừa mới nghe: Cl. 3, 12-21), như thế gia đình chúng ta sẽ trở nên như gia đình Thánh Gia.
Trong đời sống gia đình hôm nay, chúng ta gặp không ít những khó khăn, khủng hoảng trong đời sống hôn nhân gia đình, do công ăn việc làm khó khăn, con cái hư hỏng, cha mẹ bất hoà… Phương thế vượt qua không phải là giận ghét, bạo lực, nghi kỵ, nhưng là tình yêu vì chỉ có tình yêu mới “cứu độ” được gia đình, một tình yêu dựa trên lòng đạo đức, vâng giữ điều răn Chúa dạy như gia đình Thánh gia. Vậy, ước gì qua Lời Chúa và Thánh lễ tôn vinh gia đình Thánh gia: Chúa Giêsu, Thánh Giuse và Đức Mẹ hôm nay, xin Chúa dạy mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta biết sống giữa cảnh phàm trần với tinh thần người con thảo hiếu, người cha, người mẹ có trách nhiệm yêu thương, tha thứ và phục vụ ngõ hầu xây dựng mái ấm tình thương thật sự, gìn giữ gia đình luôn hạnh phúc vững bền và mọi thành viên trong gia đình mỗi ngày một nên thánh và thiện như lòng Chúa ước mong. Amen.
4. Gia đình có Chúa – có bình an
Hà Linh tác giả truyện ngắn, kể hạnh phúc của một gia đình như thế này: Trước kia cuộc sống khó khăn vất vả, Bố thường đi công tác xa, ở nhà, hai mẹ con ăn uống thật khắc khổ. Mỗi lần bố về, tôi rất vui, vì Mẹ thường nấu món ăn ngon cho cả nhà cùng ăn. Tôi hỏi Mẹ tai sao thì Mẹ nói: Chỉ khi nào có mặt ở nhà đầy đủ thì mẹ mới nấu ăn ngon được. Tôi vẫn chưa hiểu được nổi nhớ của Mẹ. Bây giờ, Bố Mẹ mất hết, tôi mới hiểu rằng: một bữa cơm ngon chỉ có khi gia đình sum họp đầy đủ, và mọi người biết đem lại niềm vui cho nhau.
Hôm nay, Hội Thánh mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lên gia đình Thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu mà chúng ta quen gọi là gia đình Thánh gia thất. Đây là một gia đình gương mẫu để tất cả các gia đình công giáo chúng ta noi theo. Như vậy, chúng ta đã học được những điều tốt đẹp nào qua gia đình thánh gia thất.
Nhìn Thánh Giuse, Ngài là một người cha rất cương nghị nhưng cũng rất giàu tình thương, biết hành động và cân nhắc trước những tình huống khó khăn, một người cha rất nhanh nhẹn và sẵn sàng. Dù là đang đêm nhưng vẫn không ngại khó khăn vất vả chổi dậy đưa Maria và Hài nhi Giêsu đi trốn qua Ai cập. Một người cha dám bỏ những gì là thân thương và riêng tư nhất như tài sản, họ hàng, quê hương để sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Quả thật Giuse đúng là một mẫu gương tuyệt vời cho các gia trưởng noi theo.
Nhìn Mẹ Maria, Ngài là một người vợ và là một người mẹ hết sức thánh thiện, bởi vì trước những biến cố rất kinh khủng, trước những biến cố rất quan trọng có liên quan đến cả một cuộc đời, mà Mẹ Maria không hề thắc mắc, không nghi ngờ, không ngại khó để sẵn sàng vâng phục theo thánh ý Chúa. Trong hang đá Belem, Mẹ chính là niềm vui cho trẻ Giêsu, là sự hãnh diện cho Thánh Giuse, là niềm hạnh phúc cho các mục đồng, và là nguồn an ủi cho ba nhà đạo sĩ. Mẹ cũng là nụ cười cho trẻ Giêsu , Mẹ chính là một cái máy điều hòa không khí để cho hang đá Belem đang giá lạnh được trở nên ấm cúng một cách lạ thường. Quả thật Mẹ Maria đúng là một mẫu gương tuyệt vời cho các bà Hiền mẫu noi theo.
Nhìn Hài Nhi Giêsu, Ngài là một con người nhỏ bé nhất, nhỏ bé nhất nhưng lại quan trọng nhất. Quan trọng nhất, bởi vì đôi tay của Ngài tuy bé nhỏ, nhưng chính đôi tay ấy đã dựng nên cả đất trời, chính đôi tay ấy đã chữa lành cho biết bao trái tim của những người đang tan vỡ, và chính đôi tay ấy đã xoa dịu bao nổi lòng còn đang lo âu, thổn thức. Quả tim của hài nhi Giêsu tuy nhỏ bé, nhưng chính quả tim ấy lại có một tình yêu thật to lớn, một tình yêu thí mạng cho người mình yêu, một tình yêu có một không hai trong lịch sử này. Hài nhi Giêsu đúng là một mẫu gương lý tưởng để chúng ta nhìn vào đó mà suy gẫm.
Sau khi chiêm ngắm gia đình Thánh Gia chúng ta thấy rằng: Gia đình nào cũng phải có tình thương, và tổ ấm gia đình chỉ được xây dựng được khi nào có tình thương. Có tình thương thì mọi thành phần trong gia đình sẽ có quảng đại để lo cho nhau, và để đem lại niềm vui cho nhau. Đem lại sự bình an cho nhau.
Qua truyện ngắn và nhìn lại gia đình thánh gia thất. Quả thật, gia đình nào cũng có vui có buồn, có sướng có khổ, và mọi người trong gia đình phải biết thương mến nhau và chấp nhận nhau.
Nhìn lại gia đình Thánh gia, tôi thấy đây là một gia đình Thánh, gồm toàn những người Thánh, nhưng gia đình thánh cũng không tránh được những chuyện buồn phiền. Giuse cũng buồn khi biết Maria có thai mà không phải do ông. Rồi Giuse và Maria cũng buồn khi mới sinh có mấy ngày, mà phải vội vã đi trốn mãi sang Aicập, hoặc là hai ông bà buồn khi con đi lạc ở đền thờ Giêrusalem… Gia đình Thánh mà cũng gặp phải những chuyện buồn như vậy thì huống chi là gia đình của mỗi người chúng ta. Đó là những chuyện buồn bình thường, bởi vì đâu có gia đình nào tránh được hết những bất trắc đâu, gia đình nào cũng có những hoàn cảnh riêng của gia đình đó, gia đình nào cũng có những buồn vui của gia đình đó, gia đình nào cũng có những bất ngờ riêng như: đau ốm, nợ nần, hết tiền, thiên tai, bảo lụt, cải nhau, bị nghi ngờ, bị hiểu lầm, bị chống đối… Vậy khổ đau thì luôn có, và mỗi người chúng ta hôm nay học được bài học của Thánh gia, là chúng ta phải biết biến những nổi buồn trong cuộc sống gia đình của chúng ta thành những niềm vui, cũng như chúng ta hãy lợi dụng những hoàn cảnh trong gia đình để làm cho nhau nên tốt hơn, mới hơn, và yêu thương nhau hơn noi theo gương của gia đình Thánh gia thất.
Chúng ta cùng hướng về gia đình Thánh gia thất và thầm thỉ kêu cầu:
Lạy Thánh Giuse, xin làm cho gia đình chúng con được trở thành tổ ấm của tình yêu.
Lạy Mẹ Maria, xin làm cho gia đình chúng con được hạnh phúc.
Lạy Hài nhi Giêsu, xin làm cho mọi người trong gia đình chúng con biết yêu thương nhau.
5. Những nét đẹp của gia đình Thánh Gia Thất
(Suy niệm của Lm. Gioan Lê Quang Tuyến)
Hôm nay, Chúa nhật đầu tiên sau lễ Giáng sinh và cũng là Chúa nhật cuối cùng của năm tây lịch 2017 hôm nay, Giáo hội cử hành phụng vụ tôn kính Gia Đình Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Mẹ Và Thánh Giuse.
Ngày 17/12/2017 vừa qua, ai trong chúng ta cũng sửng sốt và rùng mình khi nghe tin về vụ án người vợ đã giết chồng tại thị xã Thuận An, Bình Dương. Theo kết luận của cơ quan điều tra của Công An tỉnh Bình Dương, Chị Diễm là nghi can đã sát hại chồng là ông Trần Thanh Tú (SN 1980, quê Sóc Trăng, tạm trú tại thị xã Thuận an) rồi phân xác phi tang ở nhiều bãi rác dân sinh trên địa bàn phường Thuận Giao, TX.Thuận An. Cũng đến thời điểm hiện nay, công an làm rõ, Diễm 1 mình gây án, chưa xác định là có đồng phạm cùng giúp sức. Theo cơ quan điều tra thông tin, nguyên nhân Diễm gây án là xuất phát từ mâu thuẫn vợ chồng. Thật là một vụ án đắng lòng làm tổn thương đời sống gia đình.
Hôm nay, Chúa nhật đầu tiên sau lễ Giáng sinh và cũng là Chúa nhật cuối cùng của năm tây lịch 2017 hôm nay, Giáo hội cử hành phụng vụ tôn kính Gia Đình Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Mẹ Và Thánh Giuse. Đây là dịp thuận lợi để Giáo hội tôn vinh đời sống gia đình và mời gọi chúng ta xây dựng đời sống gia đình theo những nét đẹp của gia đình Thánh Gia Thất.
1. Nét đẹp của việc sống tuân giữ lề luật Chúa.
Nét đẹp trước hết của Gia đình Thánh Gia Thất là sự tuân giữa luật Chúa. Thánh Giuse trong tư cách là người chủ của gia đình Nagiaret, đã tuân giữ luật Chúa như trong sách luật Mô-sê đã qui "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa. Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con”. Trước đó, Thánh Giuse cũng đã cùng Mẹ Maria tuân hành luật lệ của việc thanh tẩy đối với người nữ sau khi sanh con khi cùng nhau lên đền thờ cầu nguyện và dâng của lễ theo qui định của luật. Chính nét đẹp này của Thánh Gia Thất phải là gương mẫu cho các gia định chúng ta hôm nay.
Trong tông huấn niềm vui của tình yêu, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã mời gọi mỗi gia đình công giáo hãy noi gương Thánh Gia Thất để thể hiện nép đẹp tuân giữ lề luật Chúa qua việc chuyên cần cầu nguyện trong đời sống gia đình. Ngài nói “Cầu nguyện trong gia đình là một phương thế ưu việt để diễn tả và củng cố đức tin phục sinh. Gia đình có thể dành vài phút mỗi ngày để qui tụ với nhau trước Thiên Chúa hằng sống, nói với Ngài những về những lo lắng bận tâm, cầu xin với Ngài cho những nhu cầu của gia đình, cho một ai đó đang gặp khó khăn, xin Ngài trợ giúp ta biết sống yêu thương, tạ ơn Ngài về cuộc sống và về bao ơn lành khác, cầu xin Đức Trinh Nữ che chở chúng ta dưới tà áo Mẹ. Với những lời đơn sơ như thế, giờ cầu nguyện này có thể đem lại điều tốt lành lớn lao cho gia đình” (AM 318).
Do đó, để bảo vệ cho cuộc sống gia đình hạnh phúc chúng ta hãy noi gương Thánh Gia Thất mà chuyên chăm chu toàn luật Chúa nhất là việc cùng nhau tham dự thánh lễ và cùng nhau đọc kinh chúng trong gia đình vào ban tối hoặc sáng. Đây là yếu tố quan trọng giúp chúng ta bảo vệ hạnh phúc gia đình trong sự chúc phúc của Chúa.
2. Nét đẹp của sự đồng cộng tác trong đời sống gia đình
Nét đẹp thứ hai mà chúng ta học được nơi Gia đình Thánh Gia Thất chính là sự đồng cộng tác chăm lo cho đời sống gia đình. Tin Mừng Thuật lại rất vắn vỏi về cuộc sống đồng cộng tác này trong cuộc sống thường nhật của Thánh Gia Thất tại Nagiaret. “Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.”
Để Con trẻ Giêsu lớn khôn, ngoan hiền được mọi người quanh làng yêu mến khen ngợi, chắc hẳn Thánh Giuse và Mẹ Maria phải vất vả nhiều lắm. Thánh Giuse phải cần mẫn hơn trong lao động để có miếng cơm manh áo. Maria phải nhọc nhằn thức khuya dậy sớm để chăm lo cho gia đình có bữa cơm ngon. Và nhất là cả hai phải cùng đồng tâm trong cách giáo dục để có được con trẻ Giêsu có được những đức tính tốt của một con người hiếu thảo, ngoan hiền vơi hết mọi người và nhất là với Thiên Chúa.
Giáo dục con cái là một nhiệm vụ quan trong hàng đầu mà người cha người mẹ phải chu toàn. Cha ông chúng ta đã từng chê trách những cha mẹ không biết giáo dục con khi ví von rằng: nuôi con chẳng dạy chẳng răn, thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng”. Do đó, sự đồng lòng đồng chí hướng trong giáo dục con cái là điều hết sức quan trọng và không được khoán trắng cho ai khác kể cả nhà trường. Chúng ta cùng lắng nghe sự nhắn nhủ này nơi Tông huấn niềm tình yêu “Dẫu cha mẹ cần đến trường học để bảo đảm cho con cái mình có được một nền giáo dục cơ bản, nhưng họ không bao giờ có thể khoán trắng việc huấn luyện đạo đức cho con cái nơi một ai khác. Sự phát triển tình cảm và đạo đức của một con người đòi hỏi một kinh nghiệm cơ bản: tin rằng cha mẹ của mình là đáng tin cậy. Đó là một trách nhiệm trong giáo dục: với tình thương và gương sáng cha mẹ tạo sự tin tưởng nơi con cái, truyền cho chúng một lòng kính trọng trong yêu thương. Khi một đứa con nào đó không còn cảm thấy mình được quý yêu trước mặt cha mẹ, dù đó là do khuyết điểm của mình, hoặc nó không nhận thấy cha mẹ đang quan tâm thật sự đến nó, điều đó gây tổn thương sâu sắc và tạo nhiều nhiều khó khăn trên bước đường trưởng thành của nó. Sự vắng mặt này, tức là sự bỏ rơi do thiếu tình thương, sẽ gây ra một nỗi đau sâu sắc hơn là một sự sửa dạy nào đó có thể có do trẻ làm một hành động sai trái” (AM 263)
3. Nét đẹp của sự hiếu thảo và vâng phục cha mẹ của Chúa Giêsu
Sau cùng, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm và học hỏi nét đẹp thứ 3 trong Gia đình Thánh Gia thất là sự hiếu thảo và vâng phục cha mẹ của Chúa Giêsu.
Khi mô tả cuộc sống ẩn dật của Chúa Giêsu trong gia đình Thánh Gia Thất tại Nagiaret, thánh Luca viết “Người đi xuống cùng cha mẹ, trở về Nagiaret và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51). Dù là con Thiên Chúa, nhưng khi đã nhập thể làm người, Chúa Giêsu đã nêu gương cho mọi nguời chúng ta gương hiếu thảo của người con trong đời sống gia đình. Ngài luôn biết lắng nghe lời dạy bảo của Thánh Giuse và Mẹ Maria. Chính sự hiếu thảo và vâng phục đã làm nên nét đẹp của người con ngoan đối với cha mẹ và đối với Thiên Chúa.
Sự hiểu thảo và vâng phục cha mẹ còn ban tặng cho người con biết bao ơn trọng khác. Sách Huấn Ca đã minh định cho chúng ta điều ấy: “Ai yêu mến cha mình, thì được đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ” (Hc 3, 3-5).
Là cha là mẹ, ai ai cũng mong cho cái được nuôi dạy lớn khôn, thành nhân trong cuộc đời. Cha Mẹ sẽ không cần chúng ta phải trả công cho những nhọc nhằn vất vả, nhưng các ngài rất cần chúng ta sống chữ hiếu thảo. Hãy chiêm ngắm nét đẹp hiếu thảo của Chúa Giêsu trong gia đình Thánh Gia, và sống noi gương ngài để chúng ta có thể làm cho gia đình chúng ta ngày càng hạnh phúc.
Lạy Chúa, Chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con những nét đẹp trong mẫu gương Thánh Gia Thất. Xin cho các bậc gia trưởng, các vị hiền mẫu và những người con luôn chu toàn vai trò của mình để gia đình được hạnh phúc, Thiên Chúa được vinh danh, và xã hội được an bình. Amen.
6. Vươn cao hơn
Theo Tin Mừng kể lại, thì Thánh gia không phải chỉ gặp toàn những chuyện may mắn và suôn sẻ. Trái lại, thánh Giuse có lần đã tính đến chuyện tháo lui. Còn Chúa Giêsu, lúc được đưa tới đền thờ, khi còn đang ăm ngửa, đã được tiên đoán là sẽ trở thành như một lưỡi gươm đâm thâu qua cõi lòng người mẹ. Vào dịp theo cha mẹ lên đền thờ tham dự lễ Vượt Qua năm mười hai tuổi, Ngài đã là duyên cớ của những nỗi khổ tâm không cầm nén được của cha và mẹ Ngài. Có một lúc nào đó, trong khi giảng dạy, Ngài đã tuyên bố: Ngài đến không phải là để đem lại sự hòa thuận, mà là sự chia rẽ giữa các thành viên trong gia đình.
Những đoạn Phúc âm ngắn ngủi và họa hiếm về Thánh gia và về mối quan hệ thân thuộc, lại không phải là những bức họa rõ nét của một gia đình gương mẫu, hiểu theo nghĩa thông thường. Không ai có thể hồ nghi về sự thánh thiện của từng thành viên trong gia đình này. Vậy phải chăng Thánh gia không còn là gương mẫu cho các gia đình Kitô hữu nữa sao?
Hoàn toàn không phải là như vậy. Thánh gia vẫn luôn là mẫu mực cho các mối quan hệ giữa các thành viên của gia đình Kitô hữu. Thực vậy, Đức Maria vẫn một lòng tin tưởng và tôn trọng việc làm của Người Con, dù rằng có những lức Mẹ đã tỏ ra không hiểu hết tầm mức của việc làm đó. Không chỉ tôn trọng mà thôi, Mẹ còn dõi theo những bước chân Con đi, dù là những bước chân dẫn lên Núi Sọ. Còn thánh Giuse thì vẫn âm thầm lao động để tìm kiếm chén cơm manh áo, nuôi sống cả gia đình, cũng như chu toàn thánh ý của Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thể hiện và hoàn tất công việc của Chúa Cha, không chỉ đối với các thành viên của gia đình ruột thịt, mà còn để mọi người trở thành anh em trong gia đình của ơn cứu chuộc.
Thánh gia là gương mẫu của một tình yêu vượt ra ngoài giới hạn của những quan hệ bình thường theo một nghĩa nào đó, vốn được gọi là tự nhiên, ruôt thịt, họ hàng, chủng tộc. Thánh Gia là gương mẫu cho một mối quan hệ đi ngược lại với óc cục bộ và sự kỳ thị, cho một lối sống gắn bó, không chỉ với những người thân quen, mà còn với hết mọi người.
Nhìn vào cuộc sống Thánh gia, chúng ta nhận ngay ra rằng: Còn có một cái gì lớn hơn cuộc sống gia đình, mà chính cuộc sống gia đình phải hướng tới. Tứ hải giai huynh đệ. Bốn bể đều là nhà. Bốn bể đều là anh em. Từ quan hệ ruột thịt tiến tới quan hệ của một huynh đệ, của một tình liên đới, của một tình đồng loại, một tình của những người con làm theo ý Chúa, hoạt động cho chính nghĩa, cho lẽ phải.
Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, trở nên con của thánh Giuse và Mẹ Maria, để mọi người chúng ta được trở thành con Thiên Chúa và trở thành anh em với nhau.
7. Những nhân vật
Giờ đây chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm hiểu về những nhân vật qua đoạn Tin Mừng vừa nghe.
Trước hết là Chúa Giêsu
Từ thuở thơ ấu, ngay cả khi chưa nói được, Chúa Giêsu đã hoàn tất các lời Thánh Kinh. Hôm nay Ngài thực hiện lời hứa đã được ban cho Đaniel, Malakia và nhiều tiên tri khác. Hôm nay trong con người hài nhi Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại cung thánh đã bị bỏ phế của Ngài. Dù tội của Israel có thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời mình đã hứa. Sự bất trung của Israel chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa ấy chứ không thể huỷ bỏ chúng được.
Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày chúng ta được rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử. Mặc dù chúng ta có lắm bất trung, Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Mặc dù chúng ta có xua đuổi Ngài ra khỏi cung lòng chúng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp đỡ chúng ta ăn năn sám hối. Hôm nay, chúng ta hãy mở rộng cung thánh tâm hồn chúng ta cho Ngài, hãy mời Ngài đến ở mãi trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta sẽ trở nên ánh sáng chiếu soi cho những người chúng ta gặp gỡ trên vạn nẻo đường đời.
Tiếp đến là Maria và Giuse
Các Ngài đã chấp nhận chu toàn mọi lề luật. Các Ngài vâng phục đến độ còn thi hành thói quen đạo đức là trình dâng con trai đầu lòng tại đền thánh, một điều luật không đòi hỏi. Sở dĩ các Ngài đã đi quá lề luật như thế là vì các Ngài đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ hãi. Riêng Mẹ Maria là thụ tạo tinh tuyền nhất của nhân loại, đã khiêm tốn chấp hành nghi thức thanh tẩy. Phần chúng ta là những kẻ bị tội lỗi làm cho trở nên xấu xa, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận bí tích Cáo giải để tâm hồn được thanh tẩy.
Sau khi nghe ông già Simêon nói về hài nhi Giêsu, hai ông bà đã ngạc nhiên. Sở dĩ như vậy vì các ngài chưa hoàn toàn thấu triệt mầu nhiệm sâu xa che phủ trên Con mình. Dù được sống thân mật với Chúa Giêsu, các ngài vẫn phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các ngài luôn được đào sâu, vì các ngài suy gẫm trong lòng. Đối với chúng ta, cũng chẳng có gì lạ, nếu chúng ta không hiểu hết được những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù qua hai mươi thế kỷ, Giáo Hội vẫn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Đức Kitô. Nơi Đức Kitô, đức tin của chúng ta cũng phải triển nở và lớn lên trong sức mạnh và ơn sủng. Đức tin của chúng ta chính là sự tăng trưởng liên tục của Đức Kitô trong tâm hồn chúng ta.
Sau hết là ông Simêon và bà Anna
Chúa Thánh Thần đã ở trên ông Simêon, mạc khải cho ông biết Đấng Messia trước khi qua đời, thúc đẩy ông vào đền thờ chờ đón Hài Nhi Giêsu đến. Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới sự hoạt động của Chúa Thánh Thần cách thường xuyên, nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa và biết chăm chỉ tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Chúa Thánh Thần cũng có thể trở nên trong chúng ta một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu rõ hơn đức tin và bổn phận của chúng ta. Ngài đem đến một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời sống chứng nhân cho Thiên Chúa.
Simêon và Anna đã suốt đời chờ mong Đức Kitô. Với chúng ta họ là những tấm gương hy vọng và trung tín. Lòng trung tín của họ đã được ân thưởng. Họ đã được niềm vui bồng ẵm trên tay ánh sáng dân ngoại, vinh quang Israel, là chính Chúa Giêsu. Trong mùa Giáng sinh này, chúng ta cũng hãy chuẩn bị và đón nhận hồng ân Thiên Chúa trong sự trung tín đợi chờ và đón nhận nó với tất cả tâm tình biết ơn ơn Simêon và Anna ngày xưa.
8. Gia đình nhân loại
Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng gia đình Kitô hữu thành một cái nôi của tình thương, thành một mái trường dạy cho chúng ta những bài học làm người. Trong chiều hướng đó, Thánh Gia với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse vốn được coi là những mẫu gương sáng chói của gia đình công giáo.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không muốn đóng khung nhãn giới của chúng ta trong khuôn khổ một gia đình theo huyết thống. Bài học lớn nhất Ngài để lại cho chúng ta đó là bài học làm người trong xã hội. Ngài không vun xới cho gia đình riêng của mình, nhưng Ngài lại xây dựng đại gia đình nhân loại được cứu chuộc.
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã phải trải qua một cuộc bôn ba, đã là một con người bị ruồng bắt bởi quyền lực thế gian. Con đường trốn qua Ai Cập cũng chính là con đường dân riêng của Chúa đã đi qua thuở xưa, con đường dẫn tới cuộc sống nô lệ trong suốt 400 năm. Nhưng rồi Ngài cũng được đưa về lại Galilê tượng trưng cho cuộc xuất hành của dân riêng khỏi đất nô lệ Ai Cập. Như thế Phúc Âm đã tóm gọn cuộc đời Chúa Giêsu và đặt cuộc đời ấy trong lịch sự của dân Chúa.
Qua Ai Cập và từ Ai Cập trở về, Chúa Giêsu đã không chỉ đi với cha mẹ Ngài mà còn đi với dân của Ngài. Qua cái chết và sống lại của Ngài, một dân mới được thiết lập và các môn đệ của Ngài được sai đi đến tận cùng trái đất để mọi người, không phân biệt màu da, tiếng nói, ý thức được mình là con Thiên Chúa và là anh em với nhau.
Việc xây dựng đại gia đình nhân loại nhiều khi vượt lên trên quyền lợi của gia đình ruột thịt hay dòng họ. Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó một cách thật rõ ràng. Ngài đã từng cho người ta hiểu rằng Ngài đến không phải để đem hoà bình mà là gươm giáo, đến để chia rẽ con cái khỏi cha mẹ, nàng dâu khỏi mẹ chồng và làm coh những người trong gia đình trở thành kẻ thù của nhau. Những lời lẽ quả là lạ lùng, khó nghe. Dĩ nhiên chúng ta không thể coi Ngài như một kẻ chủ trương phá hoại gia đình hay coi nhẹ giá trị gia đình. Nhưng Ngài muốn cho người ta hiểu rằng: Còn một gia đình khác lớn hơn phải được xây dựng. Cái mối quan hệ lớn lao, cao quý mà người ta cần phải quan tâm thiết lập và vun xới, không phải là mối quan hệ cha con, anh em theo máu huyết. Mà là mối quan hệ cha con, anh em theo việc thực thi ý định của Chúa: Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta. Đó là người nghe và thực hành lời Chúa.
Nếu mọi thành phần trong gia đình cùng nhìn về một phía, cùng theo đuổi một lý tưởng phục vụ hạnh phúc của con người trong xã hội. Đó chính là gia đình gương mẫu, thánh thiện theo cái nhìn của Tin Mừng. Để đạt tới lý tưởng ấy, mỗi người trong gia đình cần phải tìm hiểu và đào sâu những đòi hỏi của Tin Mừng, thấy rõ trách nhiệm làm người và làm môn đệ của Chúa trong xã hội và trong thế giới hiện tại, đồng thời cố gắng giúp nhau chu toàn trách nhiệm ấy.
9. Giáo Hội cỡ nhỏ
Gia đình là tế bào sống động của quốc gia, của nhân loại, cũng như của Hội Thánh. Tế bào căn bản này có khỏe mạnh và phát triển, thì toàn thể thân xác mới khỏe mạnh và phát triển. Sức khỏe và sự ổn định của gia đình ảnh hưởng tới sức khỏe và sự ổn định của quốc gia và Giáo Hội. Chính vì thế chúng ta phải đem vào trong gia đình một tinh thần Kitô giáo đích thực.
Thế nhưng ngày nay, vì chiến tranh, vì những trào lưu duy vật và chối bỏ đức tin, gia đình đã bị khủng hoảng và suy sụp, tế bào nền tảng này đã bị nhiễm độc. Vậy chúng ta phải làm gì để cứu vãn tình thế?
Điều tôi nhấn mạnh giờ đây, đó là tinh thần cộng đoàn. Thực vậy, mỗi người chúng ta phải biết từ bỏ tính ích kỷ để tiến đến một sự hòa hợp và yêu thương, như hình ảnh về thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô mà thánh Phaolô đã đề cập tới. Gia đình là một Giáo Hội cỡ nhỏ, là một nhiệm thể được thu hẹp. Đây không phải chỉ là một hình ảnh tượng trưng, mà còn là một thực thể sống động.
Người cha là đầu thân thể như Đức Kitô là đầu Giáo Hội. Người mẹ là thân thể như vai trò của Giáo Hội, và con cái là những phần tử như những tín hữu là chi thể của Đức Kitô.
Một gia đình đích thực phải hiệp nhất và trở nên một: Một tư tưởng, một ước muốn, một cõi lòng, một con tim. Người cha tìm kiếm cơm áo, người mẹ phân phát cơm áo và con cái thì lãnh nhận máu huyết và sự sống nơi cha mẹ. Người cha thì giống với Đức Kitô là đầu nhiệm thể. Người mẹ thì giống với Giáo Hội, còn con cái thì giống những chi thể trong nhiệm thể ấy.
Bởi đó hãy đón nhận và thực thi tinh thần hợp nhất. Là con cái, hãy nhìn thấy Đức Kitô nơi người cha, hãy yêu mến và trọng kính Đức Kitô nơi người cha của mình. Trgkhi đó, những người cha hãy sống như Đức Kitô và điều hành gia đình của mình trong tinh thần yêu thương.
Còn người mẹ, hãy lấy Giáo Hội làm lý tưởng cho mình, để có sự trung thành và hiền dịu. Con cái chính là những tế bào, trong đó Đức Kitô phải lớn lên, phải trưởng thành. Muốn thấm nhuần tinh thần ấy, chúng ta phải cần đến một bầu khí đạo đức. Bầu khí đạo đức này được tạo nên do thánh lễ, do phụng vụ, do các bí tích và đặc biệt do những giờ kinh chung trong gia đình.
Đây là những giây phút linh thiêng, cha mẹ, vợ chồng, con cái cùng quây quần bên nhau và cùng nhau quây quần bên Chúa, để dâng lên Ngài của lễ chung là những hy sinh gian khổ trong cuộc sống. Đây cũng là một liều thuốc thần diệu hàn gắn những đổ vỡ, vì trong những phút giây ấy chúng ta thực sự trở nên một.
Hãy xây dựng gia đình mình trong tinh thần hợp nhất như các chi thể hợp nhất với nhau và nhất là như Đức Kitô hợp nhất với Giáo Hội của Ngài.
10. Dung mạo Chúa Cứu Thế – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Hoàng đế của một vương quốc hung vường vag thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai Cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng.
Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ Ấn độ vẽ. Ông càng than phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc.
Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thất chân dung mình hiện ra từng nét.
Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng long mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận được khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, và hiểu rõ các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu Thế, nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simeon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người.
Simeon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu Thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài.
Simeon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu Thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma túy ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đàng.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh gia thất: một gia đình lý tưởng, đạ đức bình thường và chăm lo cho nhau. Thánh Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh gia như sau: “Đức Giêsu đi xuống cùng với ch amẹ, trở về Nadaret và hằng vân phục các ngài. Riêng mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong long. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2, 51-52).
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông: “Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng,các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều…”.
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp cũng tâm sự: “Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi,khuyến khích nâng đỡ tăng sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin”.
Có lẽ thế giới biết nhiều đến Thủ Tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: “Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ”.
Đức Piô XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: “Nền giáo dụchữu hiệunhất và bền bỉnhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao”.
Lạy Đức Giêsu, xin dạy chúng con biết theo gương Chúa, luôn sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính với ông bà cha mẹ, và sống hết tình với anh chị em chung quanh.
Xin cho chúng con luôn biết đánh bóng đời mình, bằng tấm long khiêm tốn và đạo hạnh, bằng việc tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác, để dung mạo của Chúa ngày càng tỏ hiện sáng ngời trong cuộc đời chúng con. Amen.
11. Nhìn ngắm gia đình Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta nhìn ngắm một gia đình rất đặc biệt với ba nhân vật độc đáo: Mẹ Maria, Thánh Giuse và Chúa Giê-su.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn ngắm hài nhi Giê-su.
Đây là nhân vật bé nhỏ nhất trong gia đình nầy và cũng là nhân vật quan trọng nhất. Ngài là một huyền nhiệm vượt quá trí tưởng tượng của loài người.
Có ai ngờ một Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ vô biên nầy lại chấp nhận hóa thành một bào thai nhỏ bé nằm trong lòng mẹ suốt chín tháng mười ngày và được sinh ra bởi một người mẹ trần gian là một thiếu nữ miền quê không được mấy người biết đến.
Có ai ngờ một Đấng vô cùng giàu sang, là chủ nhân của tất cả mọi kho báu trên toàn thế giới và trong cả vũ trụ càn khôn, giờ đây lại trở thành một trẻ thơ nghèo hèn, không có một mái nhà, không giường chiếu và không cả một chiếc nôi cỏn con… đến nỗi phải nằm run rẩy trong máng súc vật lót rơm, giữa một chuồng bò tứ bề trống trải chơ vơ giữa không gian vắng lặng.
Có ai ngờ Đấng nuôi dưỡng chim trời cá nước, ban phát lương thực cho tất cả người thế hưởng dùng lại cậy nhờ đến từng giọt sữa của người mẹ trần gian để được tăng trọng và lớn lên thành người.
Có ai ngờ một Đấng vốn là Thiên Chúa Ngôi Hai đồng quyền năng phép tắc như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, có sức mạnh lay chuyển cả vũ trụ càn khôn, có quyền năng dập tắt bão tố… lại trở thành một trẻ thơ nhỏ nhoi, yếu đuối, thân mình bầm tím vì giá lạnh đêm đông, phải cậy nhờ đến sự ấp ủ của người mẹ trần gian để sống, phải cậy trông vào sự che chở của người cha nuôi vốn là một anh thợ nghèo miền quê, mới có thể lánh thoát lưỡi gươm oan nghiệt của bạo chúa Hê-rô-đê.
Ngoài ra, khi có một vị vua, một tổng thống hay thủ tướng một đất nước nào đó trong vai khách mời đến thăm chính thức quốc gia sở tại, thì những vị vua hay những nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Chính Phủ sẽ trải thảm đỏ và ra tận sân bay để tiếp đón cách trọng thị, thì tại Bê-lem năm xưa, khi Chúa Tể trời đất đặt chân đến viếng thăm địa cầu và thăm viếng nhân loại, thì chỉ có những người chăn chiên nghèo khổ đến tiếp đón Ngài mà thôi.
Tiếp theo, chúng ta hãy nhìn ngắm nhân vật thứ hai trong gia đình nầy là Mẹ Maria.
Khi một người mẹ chuyển dạ sinh con, tối thiểu phải liệu cho bà một căn phòng kín đáo, thế mà khi chuyển dạ, Mẹ Maria chẳng tìm đâu được một căn buồng, mà phải nương thân nơi chuồng súc vật trống trải giữa cánh đồng hoang vu.
Nếu cùng cực lắm, không kiếm cho sản phụ một căn phòng kín đáo, ít nhất phải kiếm cho bà một chiếc giường, một tấm nệm hay tấm chiếu cho bà sinh con; đằng nầy, khi sinh con, Mẹ Maria không có giường êm, không nệm ấm, không được cả một manh chiếu đơn sơ, mà phải hạ sinh con ngay trên lớp rơm mỏng giữa chuồng bò!
Bao giờ sản phụ sinh con cũng có cô đỡ bên cạnh, để giúp sản phụ vượt cạn đầy khó khăn và cứu giúp bà thoát khỏi những nguy hiểm khó lường; đằng nầy, khi Mẹ Maria sinh con, chỉ có người bạn đời là thánh Giuse bên cạnh, mà người đàn ông thì chẳng biết phải xoay xở thế nào trong những trường hợp khó khăn như thế.
Còn nhân vật thứ ba là thánh Giuse.
Chắc chắn vào lúc bấy giờ, tâm hồn ngài đầy lo âu, buồn phiền và bối rối.
Lo âu vì thấy người bạn đời đang lúc chuyển dạ sinh con lại phải miệt mài gõ hết cửa nầy đến cửa khác ở các quán trọ ở Bê-lêm, mà không được một ai thương xót đoái hoài, nhường cho một chỗ trọ qua đêm.
Lo âu buồn phiền vì cuối cùng, đành phải đưa Mẹ Maria ra ngoài đồng vắng, dắt người bạn đời sắp vượt cạn vào một chuồng súc vật bẩn thỉu tanh hôi! Ngài cố tìm một tấm ván hay một vật gì đó tạm thay giường nằm cho Mẹ Maria cũng không có, thôi thì quơ đại ít rơm rạ vương vãi chung quanh để lót thành một ổ rơm nho nhỏ cho sản phụ có chỗ nằm.
Càng bối rối hơn khi đến giờ phút Mẹ Maria sinh con. Tìm đâu ra một cô đỡ trong nơi hoang vắng nầy! Biết làm thế nào trợ giúp một sản phụ đang sinh con! Mền không, chiếu cũng không. Thôi thì lót tạm ít rơm vào trong máng súc vật cho Hài Nhi mới sinh có một chỗ nằm thay nôi.
Ôi thôi! Càng ngắm, càng suy, càng thấy gia đình nầy thật là bi đát, cùng cực. Không ai trong chúng ta bị lâm vào hoàn cảnh đáng thương như thế.
***
Vì yêu thương nhân loại lỗi lầm, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời xuống thế, chấp nhận sinh ra trong cảnh nghèo hèn cùng cực, hạ mình xuống tận đáy cuộc đời để chia sẻ cảnh lầm than khốn khổ của kiếp người. Qua sự việc nầy, Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Hỡi những ai nghèo thiếu cùng cực trên thế gian, hãy vững lòng, hãy đứng vững và đừng tuyệt vọng vì có Ta đến chia sẻ sự túng cực của các con, cùng đồng hành với các con qua mọi gian lao của cuộc sống.
Và hỡi những gia đình đang lâm cơn quẫn bách nghèo túng, đừng lo âu sợ hãi, đừng xấu hổ vì gia cảnh nghèo túng của mình, vì gia đình của Ta hôm xưa còn lâm cảnh nghèo hèn khốn khổ hơn gia đình các con. Ta luôn ở cùng các con để che chở bảo vệ các con cho đến mãn đời.
12. Gia đình Kitô hữu cũng là thánh gia
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vào ngày thành hôn của anh chị Trung và Hiếu, một người bạn của đôi vợ chồng nầy tặng cho đôi tân hôn bức tranh thánh gia thất Nadarét. Cuối bức ảnh có ghi dòng chữ: "Mến tặng thánh gia Trung-Hiếu. Cầu chúc thánh gia của Anh Chị nên giống thánh gia thất của Chúa Giêsu".
Sau khi bức tranh nầy được treo lên tường, có người lên tiếng phê bình:
Tại sao lại viết là "thánh gia Trung-Hiếu"? Chỉ có một thánh gia thất duy nhất là thánh gia của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse, chứ làm gì có cái gọi là "thánh gia Trung-Hiếu". Viết như thế chẳng phải là làm giảm giá trị của thánh gia Nadarét sao?
Thế là từ lúc đó, nổ ra một cuộc tranh luận giữa hai nhóm có ý kiến đối lập ngay giữa tiệc cưới. Cuộc tranh luận rất sôi nổi và khá ồn ào vì hai phe đều tìm đủ mọi lý lẽ để biện minh cho quan điểm của mình. Để tiết kiệm thời gian, tôi xin gom lại những lý lẽ chính của đôi bên.
Nhóm bài bác cho rằng gia đình kitô hữu không thể gọi là thánh gia vì:
Thứ nhất, gọi như vậy là làm giảm giá trị của thánh gia thất Chúa Giêsu. Xưa nay, Giáo Hội chỉ dùng hai từ thánh gia để chỉ thánh gia Nadarét của Chúa Giêsu mà thôi.
Thứ hai, không ai chối cãi Chúa Giêsu, Mẹ Maria, thánh cả Giuse thật sự là ba đấng thánh. Gia đình nầy gồm có ba đấng thánh nên mới được gọi là thánh gia. Còn gia đình các kitô hữu gồm những người phàm, làm sao gọi là thánh gia được?
Nhóm ủng hộ bảo rằng: Gia đình các kitô hữu cũng là thánh gia vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, bất cứ ai đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy đều đã được thánh hiến, được trở nên thánh. Họ là thánh vì bí tích thánh tẩy làm cho họ trở nên chi thể của Đấng rất thánh là Chúa Giêsu. Thánh Phao-lô ngày xưa chẳng gọi các kitô hữu tại Cô-rinh-tô, Rô-ma, Ga-lát... là thánh đó sao?
Thứ hai, Chúa Giêsu đã lập bí tích hôn phối để thánh hiến đời sống gia đình, nâng gia đình kitô hữu lên một tầm cao mới.
Thứ ba, Công Đồng Vatican II gọi gia đình là Hội Thánh thu nhỏ (Hội Thánh tại gia) (xem LG 11, giáo lý công giáo 1656) và Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng thường gọi gia đình là Hội Thánh tại gia. Gọi như thế có khác gì gọi gia đình kitô hữu là thánh gia?
Thứ tư, theo giáo lý công giáo số 1657, gia đình "là nơi thể hiện đặc biệt chức tư tế cộng đồng của người cha, người mẹ, con cái và mọi phần tử trong gia đình", "là cộng đồng ân sủng và cầu nguyện, là trường học phát triển các đức tính tự nhiên và đức mến Kitô giáo" (Glcg số 1666)
Ngoài ra, xét theo khía cạnh mục vụ, một khi các kitô hữu ý thức rằng gia đình mình đúng thật là thánh gia, họ sẽ cố công xây dựng gia đình sao cho xứng đáng với danh hiệu đó. Thế là những tệ nạn thường xảy ra trong đời sống gia đình có nhiều cơ may được xoá bỏ và những phẩm chất xứng hợp với một thánh gia sẽ được phát huy.
* * *
Khi xây dựng một ngôi nhà, chúng ta cần một bản thiết kế thật hoàn chỉnh hay ít ra cần dựa vào một ngôi nhà đẹp mà chúng ta ưa thích để dựa theo đó mà xây ngôi nhà của mình.
Hôm nay, nhân lễ kính thánh gia thất của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse, Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn ngắm lại một kiệt tác gia thất của Người, do chính Người xây dựng với sự hợp tác của thánh Giuse và Mẹ Maria và mời gọi chúng ta hãy xây dựng gia đình mình theo mô hình lý tưởng đó.
Xây dựng gia đình mình theo mô hình thánh gia Nadarét là mọi người trong gia đình phải cư xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy. Cụ thể là người chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Mẹ Maria; người vợ phải yêu thương và săn sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ thánh Giuse; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu; con cái trong gia đình phải hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse.
Có như thế, gia đình tín hữu mới xứng đáng với danh hiệu là thánh gia, xứng đáng với hồng ân đã nhận ngày lãnh bí tích hôn phối, làm cho gia đình trở nên tổ ấm yêu thương hạnh phúc và thánh thiện.
13. Sống vì nhau
Ngày 21.8.2007, không những người dân nước Pháp, mà cả thế giới xúc động trước sự ra đi của một người phụ nữ ở tuổi 33, có tên là Caroline Aigle. Caroline được miêu tả rất xinh đẹp: một phũ nữ tóc vàng, mắt xanh, tràn đầy sức sống. Đặc biệt, cô là người đầu tiên lái lái máy bay tiêm kích của không quân Pháp, và đạt rất nhiều những thành tích khác nữa. Điều đã làm cho Caroline đi vào huyền thoại không chỉ là tài năng, sắc đẹp của cô, mà là việc cô sẵn sàng hy sinh sự sống để cho đứa con trong bụng của cô mới được 5,5 tháng tuổi có cơ hội sống sót.
Carôline rất hạnh phúc khi biết mình được mang thai đứa con thứ 2. Nhưng rồi ít lâu sau, các bác sĩ phải nói sự thật cho cô biết là cô đã bị ung thư với một khối u ác tính. Các Bác sĩ cho biết, có thể chữa được căn bệnh nguy hiểm đó, nhưng phải điều trị theo liệu pháp “sốc”, và chắc chắn đứa con trong bụng không thể chịu nổi, phải hy sinh cháu bé. Các bác sĩ hỏi cô có bằng lòng không? Carôline đã có một quyết định rất anh hùng: không. Cuối cùng thì chuyện gì đến đã đến. Khi không còn chịu đựng nổi với cơn đau được nữa, các bác sĩ đã phải mổ lấy thai nhi ra lúc cháu bé chỉ được 5,5 tháng tuổi. Carôline đã sống được với con là Gabriel được 18 ngày; và cô đã từ giã cõi đời này trước sự thương tiếc và sự kính phục cả biết bao con người trên thế giới.
Gabriel đã bước vào cuộc đời này với những tiếng khóc thật non nớt của một chú bé chưa đủ tháng ngày để chào đời như bao nhiêu những đứa trẻ khác, rồi phải sống trong sự cô đơn vì thiếu vắng bàn tay của người mẹ dù có rất nhiều những bàn tay nhân ái khác đang giang rộng để giúp đỡ cho em. Nhưng chắc chắn, đối với Gabriel, sự mất mát tinh thần là khó có gì có thể bù đắp nổi.
Hôm nay, toàn thể Giáo hội Công giáo mừng lễ Thánh gia Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse, một cơ hội rất tốt để chúng ta suy niệm về tình thương và sự hy sinh cho nhau trong đời sống hôn nhân gia đình. Chúa Giêsu ra đời làm người và Ngài đã chấp nhận tất cả những gì trong kiếp sống của một con người. Ngài chịu sinh ra trong hoàn cảnh cùng khốn nhất trong số những con người cùng khốn để có thể yêu thương hết mọi người, đặc biệt là những người nghèo khổ khốn khó.
Có điểm nào giống nhau giữa trẻ Giêsu và trẻ Gabriel không? Điểm giống nhau rõ nét nhất là 2 trẻ này đều có một người mẹ tuyệt vời, sẵn sàng hy sinh tất cả những gì có thể để cho con mình có cơ hội được sống. Nếu như trẻ Gabriel thiếu vắng tình mẫu tử để chăm sóc em trong những ngày đầu đời non nớt, thì trẻ Giêsu thiếu sự đón tiếp của con người, thiếu sự an toàn cho sự sống của Ngài.
Nhưng xét ra thì trẻ Gabriel còn hạnh phúc hơn trẻ Giêsu nhiều lần. Nếu trẻ Gabriel được mọi người giang rộng bàn tay tiếp đón, thì trẻ Giêsu đang bị vua Hêrôđê tìm giết vì nghĩ rằng Ngài đang đe doạ vương quyền của ông. Nếu trẻ Gabriel được mọi người hướng về và săn sóc em với những phương tiện tốt nhất nếu có thể trong một quốc gia, thì trẻ Giêsu chỉ có chiên bò sưởi ấm, chỉ có những mục tử giữ chiên nghèo khổ đến chúc mừng... Vua trời đất sinh ra trong cảnh khốn cùng nhất của kiếp người. Quả là “Thiên Chúa từ trời bước xuống dương gian để con người dương gian được bước lên trời”. Và Ngài trở thành con đường, thành ánh sáng soi dẫn mọi người về thiên quốc.
1. Nền tảng của đời sống Thánh gia:
Gia đình thánh gia nếu nhìn theo phương diện con người thì quả là mong manh, thiếu thốn, nghèo khổ... mọi bề. Nhưng Thánh gia lại trở thành mẫu gương cho tất cả mọi gia đình dõi theo. Nền tảng chính yếu của Thánh gia là tình yêu và sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Thánh gia đã dựa trên 2 nền tảng căn bản ấy để làm nên mọi sự, và thực tế đã trở thành một mô hình tuyệt hảo cho mọi gia đình bước theo. Ước gì mọi gia đình công giáo hãy noi gương thánh gia của Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse để xây dựng gia đình mình để có thể có một gia đình mẫu mực, hạnh phúc và thánh thiện.
2. Gương mẫu của đời sống Thánh gia:
Gương mẫu của đời sống thánh gia chính là sự hy sinh cho nhau và thực thi thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Thánh Giuse đã chu toàn trách nhiệm của một người trưởng trong gia đình, sẵn sàng gánh lấy mọi công việc nặng nề nhất cách vui lòng và mau mắn. Ngài quả thực là mẫu mực của những người chồng trong gia đình, và là mẫu mực của những con người thích làm hơn nói. Khi nói đến thánh Giuse, ta nhớ ngay đến câu nói của thánh Phalô: “Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2, 14-15) Thánh Giuse quả thực đã trở thành kiểu mẫu cho những con người vẹn toàn của Thiên Chúa trong phương diện này.
Đức Maria là người mẹ gương mẫu, hết lòng yêu thương và chăm sóc cho gia đình hết sức có thể. Nết đặc biệt nhất của Đức Maria chính là sự khiêm tốn nơi con người của Mẹ. Trước những biến cố xảy ra mà ngài chưa hiểu thấu, thì ngài ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, chứ không bực bội hay kêu trách với ai, nhất là không hề kêu trách đối với Thiên Chúa. Mẹ đã theo bước Đức Giêsu cho đến cùng trong suốt cuộc hành trình dương thế của Đức Giêsu, cho đến khi Ngài trút hơi thở cuối cùng trên Thánh giá và mẹ đã giang tay ẩm lấy xác con trong đau đớn tột cùng.
Đặc biệt hơn cả là tấm gương của Đức Giêsu, Ngài dù là Con Thiên Chúa, nhưng đã trở nên con của loài người và hoàn toàn vâng phục Đức Maria và Thánh Giuse trong tư cách là người con trong gia đình để nêu gương cho mọi người trong tư cách làm con. Ngài đã chu toàn trách nhiệm không những là người con đối với Đức Maria và thánh Giuse mà còn là trong tư cách người Con của Cha trên trời. Ngài đã tự nguyện chấp nhận sự tự huỷ để hoàn thành chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha cho con người.
Mừng lễ Thánh gia hôm nay, mỗi người chúng ta hãy tự kiểm điểm lại đời sống của mình trong cương vị mà mình đang có: làm cha, làm mẹ và làm con cái trong gia đình của mình. Hãy chu toàn trách nhiệm trong sự hiền hoà, khiêm tốn và hy sinh cho nhau. Mỗi người hãy vì mọi người để gia đình thật sự trở thành tổ ấm cho mọi người và cho cả Chúa Giêsu vào ngụ ở đó. Chu toàn trách nhiệm là nên thánh!
14. Tình yêu trong gia đình
1. GIA ĐÌNH LÀ HÌNH ẢNH CỦA BA NGÔI THIÊN CHÚA
Nếu con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì có thể nói rằng gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa sống đơn độc, mà là một Thiên Chúa mang tính gia đình, trong đó Ba Ngôi khác biệt nhau nhưng yêu thương nhau, sống chung, làm việc chung, và kết hợp với nhau thắm thiết như trong một gia đình, tới mức độ tuy là Ba Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì "Tập Thể Ba Ngôi" là một môi trường để Ba Ngôi Thiên Chúa thể hiện tình yêu của mình với nhau. Vì Ba Ngôi yêu thương nhau vô cùng, nên sự hiệp nhất của Ba Ngôi đạt được mức độ tối đa là trở thành một Thiên Chúa duy nhất. Tình yêu và sự hiệp nhất ấy tạo nên thiên đàng hay hạnh phúc của Ba Ngôi.
Cũng vậy, nếu gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi, thì mọi thành viên trong đó phải yêu thương nhau, hòa hợp với nhau đến mức hiệp nhất với nhau. Nhờ đó gia đình trở thành một thiên đàng tại thế. Như vậy, mọi thành viên của gia đình đã được hưởng nếm trước phần nào hạnh phúc của thiên đàng mai sau. Hạnh phúc trong những gia đình yêu thương nhau - được biểu lộ và hình thành cụ thể bằng việc quan tâm, lo lắng và hy sinh cho nhau - chính là hình ảnh trung thực của thiên đàng vĩnh cửu. Trái lại, nếu các thành viên trong gia đình không yêu thương nhau, không sẵn sàng hy sinh cho nhau, thì họ sẽ biến gia đình thành hỏa ngục tại thế, là hình ảnh của hỏa ngục vĩnh cửu. Trong 8 cái khổ mà Đức Phật kể ra, có cái khổ gọi là "oán tắng hội khổ", nghĩa là khổ vì không ưa nhau, ghét nhau mà lại phải sống chung với nhau.
2. TÍNH ÍCH KỶ, NGUỒN GỐC BẤT HẠNH CỦA MỌI GIA ĐÌNH
Nhìn vào bất cứ một gia đình bất hạnh nào - nghĩa là một gia đình không hạnh phúc - ta luôn luôn thấy bóng dáng tính ích kỷ của một thành viên nào đó trong gia đình. Chính tính ích kỷ của thành viên này là nguồn gây nên đau khổ trong gia đình. Nếu thành viên ích kỷ ấy là người cha hay người mẹ, thì đau khổ trong nhà sẽ hết sức lớn lao. Gia đình nào càng có nhiều người ích kỷ, gia đình ấy càng bất hạnh. Gia đình mà càng có nhiều người sống vị tha, biết hy sinh cho người khác, gia đình ấy càng ít bất hạnh. Một gia đình mà mọi thành viên đều vị tha, đều quan tâm, chăm sóc và hy sinh cho nhau, đều sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho nhau, gia đình ấy chắc chắn hạnh phúc.
Câu chuyện minh họa về thiên đàng và hỏa ngục sau đây thật phù hợp với thiên đàng và hỏa ngục của gia đình. Cả thiên đàng và hỏa ngục đều dùng bữa với những thức ăn y như nhau, trong khung cảnh giống y hệt nhau, trong đó mỗi người đều phải dùng một đôi đũa dài cả thước để ăn. Thiên đàng và hỏa ngục chỉ khác nhau ở chỗ này: trên thiên đàng, mọi người không ai tự gắp thức ăn cho mình, mà gắp cho người khác ăn, vì thế, ai cũng được ăn no. Còn trong hỏa ngục, mọi người chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn cho mình, nhưng vì đũa quá dài, chẳng ai gắp cho mình được gì cả, thế rồi chẳng ai được no, hết giờ ăn mà đói vẫn hoàn đói, từ đó họ trở nên căm thù nhau.
Cũng vậy, trong gia đình, không ai tự tạo hạnh phúc cho mình được mà không cần đến người khác, nên nếu ai cũng chỉ biết lo cho hạnh phúc của mình, thì chẳng ai hạnh phúc cả, và rồi sẽ phát sinh đủ thứ đau khổ. Tuy nhiên trong gia đình, người ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác, vì thế, nếu mọi người trong nhà đều biết lo cho nhau, tạo hạnh phúc cho nhau, thì ai nấy đều hạnh phúc.
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là tình thương, nên bản chất của con người cũng là tình thương. Vì thế, chỉ khi con người sống phù hợp với bản tính của mình là yêu thương, và thể hiện cụ thể tình yêu thương ấy với những người chung quanh, thì con người mới hạnh phúc. Nếu con người sống ích kỷ, tức ngược lại bản chất yêu thương của mình, con người sẽ đau khổ và làm cho những người chung quanh đau khổ.
3. LÀM SAO ĐỂ CÓ TÌNH YÊU THƯƠNG?
Nhưng làm sao người ta có thể yêu thương nếu không có một động lực, một nguồn yêu thương ngay từ trong lòng mình phát xuất ra? Làm sao có được nguồn yêu thương ấy? - Vì "tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa" (1 Ga 4, 7), nên chính "Thiên Chúa là nguồn yêu thương" (2 Cr 13, 11). Vì thế, muốn yêu thương, muốn loại trừ tính vị kỷ, con người phải kết hợp làm một với Thiên Chúa, nguồn tình thương. Kết hợp với Thiên Chúa là luôn luôn ý thức rằng mình "là hình ảnh của Thiên Chúa" (St 1, 27; 9, 6; Ep 4, 24), được tạo dựng giống như Thiên Chúa (x. St 1, 26; 5, 1), và "được thông phần bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1, 4), một Thiên Chúa mà bản chất là yêu thương (x.1 Ga 4, 8.16).
Nếu bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, mà ta giống Ngài, là hình ảnh của Ngài, được thông phần bản tính Ngài, tất nhiên bản chất của ta cũng là yêu thương. Ta không yêu thương hay không yêu thương đủ, là ta sống không đúng với bản chất của ta. Nhờ thường xuyên ý thức như thế, tình yêu và sức mạnh của tình yêu ngày càng lớn mạnh trong ta, khiến ta ngày càng yêu thương mọi người cách dễ dàng, và sẵn sàng làm tất cả để mọi người được hạnh phúc. Sống đúng với bản chất của mình là yêu thương, là hình ảnh Thiên Chúa, chính là sống thánh thiện.
15. Yêu thương - Vâng lời
Gia đình được xây dựng trên mối quan hệ căn bản là vợ chồng, cha mẹ và con cái. Cũng thế, Gia Đình Thánh: Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse đã thật sự thành hình sau biến cố Hài Nhi Giêsu ra đời. Do đó, sau khi mừng lễ Giáng Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn về Thánh Gia, một gia đình có những phẩm chất hoàn hảo đáng để mọi người noi gương. Mỗi người, tùy vị thế trong gia đình, có thể nhận được từ Thánh Gia một gương mẫu cho mình. Riêng các bạn trẻ, bài học dành cho bạn sẽ là gì?
Bài học đầu tiên có thể dễ dàng nhận thấy nơi Thánh Gia chính là sự tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã cất tiếng “xin vâng” trước lời mời gọi của Thiên Chúa (Lc 1,38) và đã đáp trả trọn vẹn tiếng xin vâng của mình cho đến trọn đời. Đức Giêsu thì đến trần gian với sứ mạng “thi hành thánh ý Cha”. Đặc biệt, trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Giuse tỏ ra là người mau mắn thi hành thánh ý Thiên Chúa: mau mắn mang Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập, rồi ngay lập tức đưa trở về quê hương khi được sứ thần báo mộng. Bài Phúc Âm phát họa lên bức tranh một gia đình đùm túm nhau bước đi trong đêm tối, phó thác đời mình cho thánh ý Thiên Chúa.
Mỗi người có một thánh ý Chúa dành cho mình. Đối với bạn trẻ, còn ở độ tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới”, Chúa không buộc bạn phải làm gì to lớn, cao xa, Chúa chỉ cần bạn vâng phục những vị có trách nhiệm, đại diện hữu hình của Chúa ở trần gian dạy dỗ bạn. Tuy nhiên, ở trong một xã hội thay đổi mau chóng hiện nay, nhiều khi con cái lớn lên lại thấy cha mẹ là những người không hợp thời nữa. Do vậy mà không ít bạn đã tỏ ra không còn nghe lời dạy bảo của cha mẹ, những người có trách nhiệm nữa. Dẫu biết rằng bạn hiểu rõ vấn đề của riêng bạn hơn các vị ấy, có khi kiến thức của bạn trổi vượt hơn các ngài nữa. Nhưng nếu bạn nhận ra tiếng nói của cha mẹ, những người có trách nhiệm là tiếng nói của Thiên Chúa, Đấng biết rõ con đường bảo đảm hơn cả cho hạnh phúc của bạn, thì bạn sẽ mau mắn, vui vẻ mà đáp trả cách mau mắn.
Một bài học khác cũng toát lên rõ nét từ đời sống Thánh Gia là tình yêu trong mối tương quan gia đình. Thánh Cả đón nhận Chúa Giêsu và Mẹ Ngài để yêu thương và chăm sóc trong khi ngài có quyền từ chối. Đức Maria đón nhận Chúa Giêsu vì yêu thương cho dù biết mình sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Đức Giêsu là niềm hãnh diện của cha mẹ khi tỏ ra “hằng vâng phục” và “càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và vững mạnh” (x. Lc 2,51-52). Chính tình yêu đã giúp Thánh Gia vượt qua mọi thử thách hiểm nguy.
Sinh ra nơi thế gian này, bạn đã được đặt trong các mối tương quan gia đình: gia tộc thân thích, gia đình xã hội và gia đình Giáo Hội. Bạn được mời gọi sống yêu thương để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa thế gian nầy. Ngày nay không thiếu những gia đình thiếu vắng tình yêu. Nguyên nhân dẫn đến thảm trạng nầy đến từ các bậc cha mẹ, từ các con hư hỏng. Nếu bạn sống trong một gia đình luôn ấm êm, thuận hòa thì thật là một hồng ân lớn lao. Nhưng nếu chẳng may gia đình bạn lúc nào cũng có tiếng cãi vã, ngột ngạt thì thật là đáng buồn. Tuy nhiên, là người con Chúa, dù gia đình bạn thế nào, dù bạn còn nhỏ tuổi, bạn cũng có thể trở nên niềm an ủi cho cha mẹ bằng sự vâng lời, ngoan ngoãn, dễ thương. Do vậy, bạn hãy quan tâm đóng góp cho đời sống gia đình được êm ấm. Bạn cũng đừng quên rằng, sự hư hỏng của con cái là nguyên nhân gây nên bao nỗi bi đát cho gia đình, xã hội và Giáo Hội.
Mừng lễ Thánh Gia Thất, rất nhiều bài học có thể được rút ra khi chiêm ngắm Ba Đấng. Nhưng thiết nghĩ, nếu bạn cố gắng làm thật tốt hai bài học gợi ra hôm nay cũng đủ để bạn góp phần đem lại sự hiệp nhất yêu thương cho gia đình, cho xã hội và cho Giáo hội. Xin Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse phù trợ cho gia đình bạn và giúp bạn cùng chung tay xây dựng thế giới nầy tốt đẹp hơn.
16. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Trong lá thư gửi cho các gia đình Công Giáo năm 2016, ở mục NHỮNG THÁCH ĐỐ CHO GIA ĐÌNH NGÀY NAY, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã nêu lên bốn thách đố đáng báo động của gia đình hôm nay là: Ly thân và ly dị; bạo hành gia đình; sống chung, sống thử; nạn phá thai. Trước những thách đố đó, các gia đình công giáo chúng ta phải làm gì? Đó là nội dung tôi muốn gợi với anh chị em suy niệm trong ngày lễ Thánh Gia Thất hôm nay.
I. Bốn thách đố trên đáng báo động như thế nào?
1. Ly thân và ly dị: Tình trạng ly dị ở Việt Nam ngày càng gia tăng: Cuộc điều tra do Bộ VH-TT&DL, phối hợp với Tổng cục Thống kê, với sự hỗ trợ của UNICEF cho thấy, số vụ ly hôn đang tăng nhanh. Năm 2000 có 51.361 vụ ly hôn. Năm 2005 có tới 65.929 vụ. Có 4 nguyên nhân thường xảy ra nhiều là: Mâu thuẫn về lối sống: (chiếm 27,7%); ngoại tình (25,9%); kinh tế (13%); bạo lực gia đình (6,7%). (Nguồn: http://vienthongke.vn/)
Ngoài ra, còn có nhiều nguyên nhân khác nữa. Gần đây, có một bài viết nói về sự giàu có của một làng xã nhờ bà con đi xuất khẩu lao động. Nhưng cũng có một bài báo khác cho biết rằng: do đi xuất khẩu lao động, vợ chồng xa nhau sinh ra nhiều cám dỗ...cuối cùng nhà cửa, của cải thì có nhưng vợ chồng lại phải chia tay, con cái thì bơ vơ. Đây là một thực tế đáng buồn cho người dân Việt nam nói chung và cho các gia đình trong các giáo xứ nói riêng.
2. Bạo hành trong gia đình: Theo một nghiên cứu về bạo lực ở các gia đình Việt Nam cho biết: 66% các vụ ly hôn ở Việt Nam liên quan đến bạo hành gia đình. Trong đó: 82% hộ dân nông thôn và 80% hộ ở thành phố có xảy ra bạo lực; 5% phụ nữ thường xuyên bị chồng đánh đập; 9-10% trường hợp nạn nhân của bạo lực gia đình là nam giới và thủ phạm chính là người vợ. (Nguồn: https://vi.wikipedia.org)
Bạo lực cũng có thể do con cái cháu chắt gây nên: Gần đây, một loạt những câu chuyện giới trẻ dùng từ ngữ xúc phạm, hỗn xược với người lớn, thậm chí là chửi bới ông bà, bố mẹ mình đang gióng lên một hồi chuông báo động. Thậm chí có những vụ án giết người thân như bà giết cháu, cha giết con, vợ giết chồng, con cái giết cha mẹ...thật đau lòng.
3. Sống chung, sống thử trước hôn nhân: Theo thống kê của khoa xã hội học Đại học Mở Sài Gòn, năm 2010, có khoảng 1/3 các bạn trẻ sống thử trước hôn nhân. Đó là những đôi nam nữ sống chung như vợ chồng không có đăng ký kết hôn. Sau một thời gian, nếu thấy phù hợp thì họ tiến tới hôn nhân, đăng ký kết hôn theo pháp luật. Còn nếu thấy không phù hợp, họ sẽ chia tay nhau, không cần đến pháp luật. Người ta gọi đó là “sống thử”. Hiện tượng “sống thử” hay còn gọi là “góp gạo thổi cơm chung” đã và đang trở thành một thứ “mốt” trong lối sống của giới trẻ hiện nay, không chỉ trong giới công nhân sống xa nhà mà còn cả ở những sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường.
Xét theo giáo lý Công giáo thì “sống thử” là trái với luật Chúa, luật Hội Thánh. Cho nên, những người “sống thử” là mắc tội. Đồng thời, “sống thử” khó được toàn xã hội chấp nhận, đó là lối sống sai lầm, buông thả, phóng túng, làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống, là một biểu hiện của sự xuống cấp về đạo đức trong lối sống thực dụng ngày nay.
Xét theo truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam thì “sống thử” là một lối sống không phù hợp, nó có tác động xấu đến đời sống và mang lại nhiều hậu quả đáng tiếc cho bản thân, gia đình, Giáo hội và xã hội như: không chồng mà có con, dễ dẫn đến tội phá thai. (x. bài: Vấn đề “Sống thử” của giới trẻ ngày nay - Tu sĩ Lôrensô Vũ Văn Trình MF).
4. Tệ nạn nạo phá thai: Theo các số liệu thống kê cho biết hàng năm trên thế giới có khoảng: 42 triệu ca phá thai; 20 triệu ca phá thai không an toàn; 70.000 ca tử vong bà mẹ; 5 triệu ca khuyết tật. Riêng ở Việt Nam: bình quân mỗi năm cả nước có khoảng 300.000 ca nạo phá thai (chiếm 20% tổng số ca nạo phá thai), cao nhất các nước Đông Nam Á và xếp thứ 5 thế giới. Có nhiều nguyên nhân đưa đến nạn phá thai, trong đó nguyên nhân đầu tiên là do “sống thử”, sống buông thả nên có thai ngoài ý muốn, nguyên nhân thứ hai là bị ảnh hưởng bởi các chương trình KHHGĐ và giáo dục sai lầm. Ví dụ: Công nhân viên chức chỉ được sinh 1-2 con, nếu sinh đứa thứ ba thì phải giáng chức, cắt lương. Người dân sinh con thứ ba: có nơi bị chính quyền phạt, hoặc bắt đóng góp tiền vào quỹ dân số... Vì sợ mất chức, sợ mất tiền... dẫn đến việc phá thai.
Trên đây là bốn thách đố trong muôn vàn thách đố đang xảy ra trong các gia đình, đang tiềm ẩn những hiểm họa không chỉ phá vỡ nền tảng gia đình mà còn đẩy nhân loại đến bờ vực của sa đọa và hủy diệt.
II. Chúng ta cần phải làm gì trước những thách đố trên?
1. Hãy đến với Chúa qua đời sống cầu nguyện: Trước những thách đố về đời sống gia đình, chúng ta rất cần lời cầu nguyện. Thánh Nữ Mônica chung sống với người chồng hoang đàng, trác táng và thiếu chung thuỷ. Augustinô là đứa con sống vô luân, ngã theo lạc giáo… nhưng thánh nữ không sờn lòng nãn chí mà kiên trì hy sinh cầu nguyện. Cuối cùng, chồng và con đã được ơn trở lại, đặc biệt là Augustinô đã trở thành một vị đại thánh.
2. Hãy lãnh nhận các Bí tích: Đức Kitô đã để lại cho Hội Thánh những bí tích, là những dấu chỉ hữu hình làm máng chuyển thông ơn thánh cho các tín hữu. Các bí tích có mục đích thánh hoá con người, xây dựng thân thể Đức Kitô và thờ phượng Thiên Chúa. Nhờ lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Giao hoà và Thánh Thể đời sống Kitô hữu, đời sống các gia đình được nuôi dưỡng và ngày càng tăng trưởng hơn.
3. Phải biến gia đình thành cộng đoàn yêu thương:
Khi đã có tình yêu thương, các thành viên trong gia đình sẽ loại trừ được các thứ bạo hành về thể xác, tâm lý, tinh thần, loại trừ được sự bất trung… ở trong chính gia đình của mình. Vợ - chồng; cha mẹ - con cái sẽ “có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13). Đó là điều các thành viên trong gia đình phải cố gắng để thực hiện.
4. Một số thực hành khác: Ngoài các việc làm chủ chốt để gìn giữ gia đình trên đây, trong thư gửi các gia đình năm 2016, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam còn nhắc đến các bổn phận khác của gia đình như: bổn phận đón nhận và tôn trọng sự sống; bổn phận hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ; bổn phận chăm sóc người cao tuổi; bổn phận cha mẹ giáo dục con cái về mọi phương diện nhân bản, đạo đức, tri thức và đức tin; việc chuẩn bị cho giới trẻ bước vào đời sống hôn nhân và gia đình cũng là đòi hỏi khẩn thiết hơn bao giờ hết.
Kết luận: Để gia đình chúng ta luôn được êm ấm hạnh phúc trước những thách đố của thời đại, các thành viên trong gia đình hãy quyết tâm siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, xây dựng gia đình thành một mái ấm của tình yêu và lòng thương xót. Xin Thánh Gia Thất đổ tràn đầy ân sủng trên mỗi người, mỗi gia đình chúng ta. Amen.
17. Gia đình là cộng đoàn yêu thương
Một trong những nỗi lo lắng của giới hữu trách đạo cũng như đời hiện nay là nền tảng gia đình ngày càng có xu hướng tuột dốc. Con số những gia đình đổ vỡ ngày càng trở nên báo động. Dĩ nhiên có rất nhiều nguyên nhân. Nhưng một trong những nguyên nhân đó là các gia đình thiếu yêu thương nhau thật sự.
Là người Công giáo chúng ta thật may mắn vì vào mỗi mùa Giáng sinh Chúa và Giáo hội cho chúng ta mừng lễ Thánh Gia. Thánh Gia gồm có Chúa Giêsu - Ðức Mẹ và Thánh Giuse. Gia đình là cộng đoàn yêu thương chính là điều rất quý giá mà chúng ta học được qua mẫu gương gia đình Thánh Gia.
Yêu thương nhau là điều kiện tiên quyết để gìn giữ hạnh phúc gia đình. Khi người thanh niên và cô thiếu nữ tự nguyện đến với nhau chắc chắn là vì yêu thương nhau. Dù vậy, chúng ta xem kỹ họ đã yêu thương nhau vì động lực nào và họ yêu thương nhau như thế nào. Ðộng lực để yêu thương nhau là vì muốn đền đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa ban cho mình.Với người Công giáo chúng ta đã được Chúa Giêsu dạy: “Các con hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15, 12 ). Yêu như Thầy yêu là hy sinh, là quan tâm cho nhau.
Chỉ khi thật sự cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho mình bao la như thế nào thì chắc chắn chúng ta sẽ biết làm gì để yêu thương những người trong gia đình mình. Chính từng thành viên trong gia đình Thánh Gia cũng đã vì thế mà đã yêu thương nhau thật sự.
Kết quả của tình yêu vợ chồng sẽ sinh ra những đứa con. Như thế, những người làm cha mẹ cũng được kêu gọi hãy biết quý trọng con cái mình sinh ra. Chúng ta thấy, Ðức Mẹ và Thánh Giuse với cái nhìn bình thuờng thì Hài nhi Giêsu chẳng phải là máu mủ của mình nhưng các ngài đã bằng mọi cách mà bảo vệ. Trước khi sinh Chúa Giêsu thì họ đã bị đuổi và phải trốn chui trốn nhủi. Rồi khi sinh ra thì cũng chưa yên phải trốn sang Ai Cập để tránh cơn bạo hành của vua Hêrôđê.
Ngày nay chúng ta thấy có nhiều người làm cha mẹ chỉ vì ích kỷ nên sẵn sàng giết con của mình ngay từ trong bào thai. Họ viện đủ lý do để biện minh cho hành vi sai trái của mình. Con cái chính là quà tặng tình thương mà Thiên Chúa ban cho những ai sống trong bậc gia đình. Có cảm nhận được cực khổ của bổn phận làm cha mẹ thì mới biết thương cha mẹ của mình.
Chúa Giêsu đã chọn gia đình để được sinh ra và lớn lên thì chắc hẳn Chúa thấu hiểu được tất cả nỗi khổ cực của chúng ta. Chúng ta hãy chạy đến với Thánh Gia để xin các Ngài phù giúp chúng ta làm tròn bổn phận của mình trong gia đình.
18. Lễ của mỗi gia đình – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ - Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
1. Lễ Thánh gia là lễ của mỗi gia đình. Văn hóa Đông phương đặt nền tảng gia đình trên đức Hiếu. Người nổi tiếng chí Hiếu nhất Đông phương là Vua Thuấn. Thiếu thời, Vua Thuấn là con nhà bần tiện. Bố là Cổ Tẩu dở dở ương ương, mắc tật nghiện rượu. Mẹ có tật lắm điều, ngồi lê mách lẻo. Anh là Tượng hỗn xược du đãng. Một cảnh gia đình địa ngục. Nhưng Thuấn dù nhỏ, ngày ngày ra đồng làm việc, thường kêu khóc với trời, tự mình nhận lấy tội lỗi của bố mẹ. Phụng sự bố mẹ rất kính cẩn, sợ hãi làm cho bố mẹ biết lo sửa mình (Kinh Thư ; Thuấn Điển 6 và Đại vũ mõ 21).
Nhờ đâu một con nhà tiện dân đã trở nên bậc thánh hiền chí hiếu?
Thứ nhất nhờ vào niềm tin trời đất thâm sâu sống động của Vua. Khổng Tử kể: Ngay còn nhỏ, Thuấn ngày ngày ra đồng làm việc với nước mắt, kêu khóc với Trời: “Đế sơ vàng vu điền, nhật hào khấp mân thiên”.
Thứ hai: “Vu điền” - ông ra đồng chăm chỉ làm việc để phụng dưỡng gia đình, làm sao nuôi nổi ba miệng lười biếng ăn chơi phung phá! Ông phải tận lực hy sinh làm việc mà không một lời phàn nàn than thân trách phận giữa cảnh gia đình đầy thói hư tật xấu.
Thứ ba: “Phụ tội dẫn thắc” – Thuấn còn hy sinh tự mình nhận lấy tội lỗi của bố mẹ. Một tinh thần trách nhiệm cao thượng. Người ta thường nói: Tội quy vu trưởng, pháp luật thường phạt cha mẹ khi con cái vị thành niên phạm pháp. Trái lại: ở đây tội quy vu ấu. Ấu thơ đã biết gánh lấy tội của gia đình để ăn năn kêu khóc với trời tha thứ và cứu giúp.
Thứ bốn: “Tái kiến Cổ Tẩu, quỳ quỳ trai lật” – Thăm viếng Cổ Tẩu kính cẩn, lo sợ đến mức nhịn ăn chay tịnh để chăm lo cho cha mẹ mọi sự, chỉ sợ cha mẹ buồn phiền than trách. Dù cha mẹ nhiều tật xấu đến đâu Thuấn cũng không dám tỏ vẻ bất kính.
Đức Hiếu của đứa con tiện dân đã thấu đến Đế Nghiêu, thấu đến Thượng Đế, cho nên Vua Nghiêu đã nhường cho Thuấn làm vua. Thuấn đã tu thân tề gia tốt đẹp, chắc chắn trị quốc, bình thiên hạ cũng được an vui thịnh vượng. “Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ hạ năng dưỡng”: Đại hiếu thứ nhất tôn kính cha mẹ, thứ đến không làm nhục, sau là chăm nuôi (Lễ ký tế nghĩa).
2. Lễ Thánh gia mới thực sự hướng dẫn chúng ta thi hành trọn vẹn đạo Hiếu theo đúng giới răn thứ bốn của Thiên Chúa: Đạo làm con, đạo làm cha mẹ, vợ chồng.
Trước hết, Đạo làm con phải biết nhớ: “Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Ơn sinh thành, ơn thương mến của cha mẹ đã chảy ra từ nguồn sống tình yêu của Thiên Chúa, ban cho con cái sự sống. Không có vàng bạc châu báu nào so sánh được: Ca dao nói: “Mạng sống hơn đống vàng”. Phúc Âm cũng dạy: “Dù được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống nào được ích gì”.
Sinh thành mạng sống con, cha mẹ còn hết lòng, hết trí khôn lo lắng ấp ủ âu yếm, đùm bọc. Mạng sống con cũng là mạng sống, là xương thịt của cha mẹ: “Máu chảy ruột mềm”. Con đau khổ, cha mẹ ăn không ngon, ngủ không yên. Và để cho mạng sống của con được tăng trưởng lớn khôn, cha mẹ đã đổ ra bao nhiêu mồ hôi nước mắt, và sức lực hy sinh, làm ăn nuôi dưỡng, dạy dỗ, những công ơn đó chồng chất cao hơn núi Thái sơn.
Con biết ơn cha mẹ thì phải thảo kính, yêu mến, chăm sóc, chia vui sẻ buồn, làm vinh danh cha mẹ nhất là lúc già yếu. Đừng bao giờ: “Con nuôi mẹ, con kể từng giờ”.
Đạo Nho còn biết dạy: “Sống thì lấy lễ mà thờ, chết lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế” (Luận ngữ II, 5) huống chi Đạo Chúa.
Thứ đến: Đạo làm cha mẹ biết đón nhận con cái như con cái Thiên Chúa ban cho mình. Ý thức rõ như vậy, Đức Maria và thánh Giuse đã mau mắn dâng con cho Thiên Chúa trong đền thờ. Ngoài ra, các ngài dâng con là để tạ ơn Thiên Chúa đã cứu sống dân tộc thoát ách nô lệ Ai cập trở về Đất Hứa vẻ vang. Vì thế, sinh ra, lớn lên, sống còn của con dân này là một ân huệ vĩ đại của Thiên Chúa ban. Họ đã hiến dâng, phó thác trọn vẹn cuộc sống con mình trong tay Thiên Chúa toàn năng.
Hôm nay cha mẹ Hài Nhi Giêsu dâng con trong đền thờ, còn đặc biệt dâng lên Chúa Cha một thế hệ mới, một thế hệ được thanh tẩy bằng nước và Thánh Thần, một thế hệ được ghi ấn tín Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần để làm nên một trang sử vinh quang muôn đời trong nước Trời.
Cho nên, sứ mạng làm cha mẹ là một ân huệ từ trời ban xuống. Cha mẹ được vinh phúc tiếp tay với Thiên Chúa cộng tác vào chương trình sáng tạo, mặc khải và cứu chuộc con cái.
Để thực hiện tốt đẹp thiên chức cao cả đó, cha mẹ phải biết xây dựng gia đình mình thành một tổ ấm, một cái nôi chan hòa “tình thương yêu êm ái, nhân hậu, khoan dung, hiền lành, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau, cởi mở chân thành để liên kết với nhau trong mối giây bác ái yêu thương tuyệt hảo”.
Hơn nữa, cha mẹ phải tạo dựng gia đình thành một đền thờ, trong đó “dâng lên Thiên Chúa những bài Thánh vịnh, những khúc hát Thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh ứng. Hãy dùng lời Chúa dạy dỗ răn bảo nhau cho thật khôn ngoan để lời Chúa Kitô sinh hoa kết quả dồi dào trong gia đình. Khi làm gì, nói gì, hãy làm và nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Người mà cảm tạ Chúa Cha” (Bài II. Cl. 3, 12-21). Như thế gia đình chúng ta sẽ trở nên như gia đình Thánh Gia.
3. Lễ Thánh Gia cho chúng ta thấy rõ Thánh Gia là đền thờ hoàn toàn dành riêng phụng thờ Thiên Chúa.
Giuse là Cha nuôi, nhưng hơn tất cả mọi người cha ruột thịt, Ngài đã âm thầm hy sinh, hiến trọn mạng sống mình để phụng dưỡng Con Thiên Chúa, bảo vệ an toàn gia đình thoát khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê, khỏi mọi gian nguy trên đường tỵ nạn băng qua sa mạc đến Ai cập và trở về Nagiareth bình an.
Maria, người mẹ thánh thiêng trinh trong tuyệt vời, luôn luôn sống với tinh thần tôi tớ của Thiên Chúa, sống dịu hiền, thương mến, thăm viếng, phục vụ bà con xóm làng, tích cực cộng tác với Con Thiên Chúa trong công trình cứu độ muôn dân và xây dựng Hội thánh. Quả thực, không một ai đứng kề thánh giá của con bằng Mẹ, không một ai sống giữa các môn đệ trong lúc cô đơn xao xuyến để cầu nguyện Thánh Linh xuống soi sáng và củng cố tinh thần các môn đệ bằng Mẹ.
Chúa Giêsu, Người chí hiếu, con thảo độc nhất của gia đình. Người con chí ái độc nhất của Thiên Chúa, đã sinh ra trong hang lừa hèn hạ, đã lớn lên trong cảnh lao động nghèo khó. Nhưng, cháu bé này là nguồn an bình muôn thuở cho những cụ già như Simêon ẵm bế, là nguồn hy vọng vinh phúc cho những bà góa neo đơn như Anna, là nguồn sáng soi đường cứu độ cho muôn dân và vinh quang cho Israel dân Ngài.
4. Giêsu – Maria – Giuse, còn gia đình nào tầm thường như gia đình các Ngài! Còn gia đình nào siêu phàm như gia đình các Ngài! Xin dạy gia đình chúng con biết sống giữa cảnh phàm trần với tinh thần người con, người mẹ, người cha chí ái, chí nhân, chí thánh. Xin cho chúng con biết mừng lễ Thánh Gia với cõi lòng chan chứa yêu thương, với tâm trí đầy tràn niềm tin, và với tâm hồn chan hòa ơn thánh. Amen.
19. Gia đình là trường thực tập yêu thương – JNK
Để giúp con người có một môi trường thuận lợi để phát triển và thực tập tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng và đặt con người sống trong gia đình. Khi vừa sinh ra, mọi người đều nhận được một tình thương dồi dào, vô điều kiện và vô vị lợi của cha mẹ - một tình yêu thuộc loại tốt đẹp nhất trên thế gian - đồng thời được mời gọi đáp lại tình yêu thương ấy. Đó là một bài tập hết sức dễ dàng về yêu thương mà mỗi người đều có thể thực tập ngay từ thuở nhỏ. Không gì dễ dàng bằng yêu thương người đã hết lòng yêu thương mình và hy sinh cho mình. Tình yêu đáp trả này tự phát sinh do mình nhận được từ cha mẹ mình quá nhiều. Đây là thứ tình yêu nhận nhiều hơn cho.
Lớn lên một chút, mỗi người khám phá ra, ngoài cha mẹ mình, thì các anh chị em mình cũng yêu thương mình bằng một tình yêu tương đối vô vị lợi. Với tình yêu này, con người phải tập cho nhiều hơn và nhận ít hơn so với tình yêu đối với cha mẹ. Ngoài gia đình, mỗi người còn có bạn bè do chính mình chủ động chọn lựa và yêu thương.
Đến khi trưởng thành, con người có tình yêu hôn nhân. Tình yêu này là một tình yêu do mình chọn lựa và tương đối có điều kiện: mình yêu và đòi hỏi người kia phải yêu lại, nếu đơn phương thì tình yêu sẽ khó tồn tại. Con người chủ động hiến thân và hy sinh cho người mình yêu với một ý chí tương đối tự do.
Đến khi có con cái, con người tự nhiên yêu thương con bằng một tình yêu vô vị lợi, vô điều kiện, không lựa chọn. Đó là tình yêu cao cả nhất và phản ảnh trung thực nhất tình yêu của Thiên Chúa mà con người kinh nghiệm được trong đời sống gia đình.
Như vậy con người thực tập yêu thương - từ dễ đến khó - trong môi trường gia đình. Trong gia đình, con người kinh nghiệm tình yêu một cách tự nhiên và sâu xa: con người được yêu và chủ động yêu, nhận hy sinh từ người khác và chính mình cũng hy sinh cho người khác.
Thế nhưng con người còn được mời gọi yêu một cách rộng rãi hơn, vượt khỏi phạm vi gia đình, để đến với những người ngoài, không ruột thịt máu mủ. Các tín đồ trong các tôn giáo, đặc biệt người Ki-tô hữu, còn được mời gọi yêu thương cả những người không hề quen biết, thậm chí cả kẻ thù. Yêu như thế khó hơn rất nhiều, nhưng nhờ áp dụng những kinh nghiệm về yêu thương đã có trong gia đình, việc yêu thương người ngoài gia đình, thậm chí kẻ thù, trở nên khả thi hơn.
Như vậy, vai trò của gia đình trong việc đào luyện tình yêu cho con người thật hết sức quan trọng, không gì thay thế được.
Nếu những người trong gia đình - là những người cùng máu mủ ruột thịt, những người tự nhiên yêu thương ta nhất và ta dễ yêu thương nhất - mà ta không yêu thương được, thì làm sao ta có thể yêu những người xa lạ, những người khó có cảm tình, nhất là những người thường gây bất lợi cho ta?
Kinh nghiệm cho tôi thấy, những ai đối xử đã không tốt với chính cha mẹ, với vợ, với chồng, với con cái, với anh em mình, thì khi họ đối xử tốt với những người khác, sự tốt ấy thật đáng nghi ngờ! Rất có thể chỉ là giả tạo để đạt một mục đích nào đó, chứ không thể là thực tình được! Vậy, các bậc cha mẹ hãy cho con cái mình những kinh nghiệm về yêu thương tốt đẹp nhất có thể. Đó là những gì tốt đẹp nhất mà họ có thể làm cho con cái họ!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ và Thánh Giuse đã làm cho gia đình của mình trở thành một gia đình gương mẫu vì mọi trong đó đều yêu thương nhau. Xin cho mọi người trong gia đình con thực tập từ bỏ tính ích kỷ để biết yêu thương nhiều hơn, hy sinh cho nhau nhiều hơn, để nên thánh thiện hơn.
20. Gia Đình - Con Đường
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tục ngữ Việt nam có câu: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Đứa con nào cũng ít nhiều mang khí huyết của cha, mang thịt máu của mẹ.
Nếu trong sinh học, yếu tố di truyền là tất yếu thì trong đời sống luân lý, nề nếp gia phong cũng ảnh hưởng sâu xa đến con người. Trẻ thơ vốn dễ bắt chước. Đứa trẻ lớn lên trong gia đình sẽ nói ngôn ngữ của cha mẹ, học lề thói cư xử của anh chị, tiếp thu những quy ước, hít thở thấm tẩm bầu khí gia đình. Gia đình là vườn ươm. Vườn ươm cung cấp những tố chất đầu tiên cho cây giống. Những tố chất tốt sẽ giúp cây lớn mạnh, sinh hoa kết quả tốt đẹp. Gia đình là con đường. Con đường thẳng sẽ dẫn trẻ đạt ước mơ, lý tưởng.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy Thánh Gia thật là một vườn ươm tốt đẹp đã ấp ủ hạt mầm Giêsu, một con đường thẳng tắp đưa Đức Giêsu tiến trên con đường vâng phục Thánh Ý Chúa Cha.
Thánh Giuse và Đức Maria đưa Hài Nhi Giêsu lên Giê-ru-sa-lem để dâng cho Thiên Chúa. Thực ra luật Mô-sê không buộc phải đưa con lên Đền Thờ, chỉ buộc nộp một số tiền nếu đó là con đầu lòng (Xh 13,13; 34, 20). Việc dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ cho thấy Thánh Gia nhiệt thành chu toàn lề luật và tha thiết gắn bó với Đền Thờ.
Sự nhiệt thành đối với lề luật và tha thiết với Đền Thờ còn được tỏ lộ qua việc hằng năm các ngài hành hương lên Giê-ru-sa-lem. Đức Giêsu bắt đầu được tham dự cuộc hành hương khi lên 12 tuổi.
Như những người Do-thái thuần thành, hằng tuần các ngài vào hội đường Na-da-rét để đọc và nghe Sách Thánh. Việc đến hội đường vào ngày Sa-bát đã trở thành thói quen của gia đình và sau này Đức Giêsu vẫn duy trì. Tất cả những nề nếp đó in sâu vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu tha thiết với Đền Thờ nên không những giữ trọn luật hành hương mà Người còn ra công tẩy uế (x. Ga 2, 13-17). Đức Giêsu yêu mến Đền Thờ đến nhỏ lệ thương cho Đền Thờ sẽ bị tàn phá cùng với Thành Thánh Giê-ru-sa-lem (x. Lc 19, 41; 21, 5-6). Đức Giêsu yêu mến lề luật nên không huỷ bỏ dù là một chấm, một phẩy, mà chỉ kiện toàn cho luật nên hoàn hảo (x. Mt 5, 17). Đức Giêsu vẫn thường xuyên vào Hội Đường, nên khi trở về thăm làng quê Na-da-rét, "Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát và đứng lên đọc Sách Thánh" (Lc 4, 16).
Xem thế đủ biết nề nếp đạo đức gia đình đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời Đức Giêsu như thế nào. Chắc chắn Đức Giêsu không chỉ thừa hưởng từ nơi Thánh Giuse và Đức Maria lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa, mà còn thừa hưởng nơi các ngài sự mau mắn vâng phục Thánh Ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình, sự chuyên chăm làm việc, sự ân cần âu yếm với con cái... mà ta thấy bàng bạc trong những lời Người giảng dạy và nhất là trong đời sống của Người. Chính trong bầu khí gia đình nề nếp ấy, Đức Giêsu đã phát triển về mọi mặt, "càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa".
Gia đình thật quan trọng. Chính gia đình quyết định tương lai trẻ thơ. Gia đình là vườn ươm. Hạt mầm trẻ thơ có lớn mạnh được là nhờ vườn ươm có đầy đủ nước, phân bón và đất tốt. Gia đình là bầu khí quyển. Bầu khí có trong lành bổ dưỡng thì trẻ thơ mới phát triển được về mọi mặt. Gia đình là con đường. Đường có ngay thẳng, có định hướng thì tương lai trẻ thơ mới tươi sáng không đi vào ngõ cụt.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con.
21. Gia Đình Thánh
Quý ông bà anh chị em thân mến!
Nên thánh, làm thánh là mơ ước của mọi người Kitô hữu. Ai cũng muốn làm thánh. Ai cũng muốn được vào Nước Trời. Nhưng con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải biết từ bó ý riêng để ý Chúa được thực hiện trong cuộc đời chúng ta. Con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải vào cửa hẹp và tránh tìm sự dễ dãi bản thân. Vì đường thênh thang thì nuông chiều bản thân và tính xác thịt. Đường thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Còn đường hy sinh, đường từ bỏ mới giúp cho chúng ta chiến thắng sự yếu duối bản thân để nên thánh từng ngày trong cuộc sống.
Nhìn vào gia đình thánh gia, chúng ta thấy các ngài luôn đi vào con đường hẹp. Các ngài luôn sống công chính trước mặt Chúa. Sự công chính hệ tại ở việc để thánh ý Chúa được nên trọn trong cuộc đời các ngài. Chúa Giêsu hằng luôn tìm kiếm ý Chúa Cha và thực thi. Thánh Giuse đã đón nhận ý Chúa khi nhận Maria về nhà làm vợ. Mẹ Maria đã bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa qua lời thưa xin vâng. Nếu Chúa Giêsu không đón nhận ý Chúa Cha thì chén đắng cứu độ sẽ không thể thực hiện. Nếu Mẹ Maria không từ bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa thì mùa xuân của ơn cứu độ vẫn chưa thực hiện. Nếu thánh Giuse không bằng lòng đón nhận Mẹ Maria vì ý Chúa thì sự nguy hiểm thật ghê sợ có thể xảy đến với Mẹ. Thế nhưng, ý Chúa các ngài đã thực thi. Chương trình của Chúa Cha đã hoàn tất nhờ sự vâng phục của các ngài. Cũng nhờ sự chung lòng chung ý mà gia đình thánh gia luôn gìn giữ được sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.
Thực vậy, nếu trong gia đình mà mỗi người một ý, gia đình ấy sẽ tan nát, chẳng ai nghe ai. Trong gia đình mà ai cũng đề cao ý riêng của mình, thì gia đình ấy sẽ là một hỏa ngục, vì lúc nào cũng xảy ra tranh cãi tương tàn. Nhưng nếu mỗi người biết bỏ ý riêng để ý Chúa được thực hiện, thì gia đình ấy sẽ có những giây phút bình an hạnh phúc. Chính khi biết từ bỏ ý riêng, con người mới khiêm tốn đón nhận nhau, yêu thương nhau hầu tránh được những bất hòa đổ vỡ. Nhất là biết đón nhận nhau vì Chúa, thì chắc chắn sẽ xây dựng được một gia đình thánh, một thiên đường hạnh phúc ngay ở cuộc đời này.
Thực thi ý Chúa không phải là lời mời gọi mà là luật buộc chúng ta, vì không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu mà là những ai thực thi lời Chúa mới được vào Nước Trời.
Có một câu chuyện kể rằng: Một nông dân nghèo được vào thiên đàng, ông nhìn thấy người ta mang những vật rất kỳ lạ vào trong nhà bếp. Ông thắc mắc và lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái tai của con người. Khi sống ở trần gian, tai giúp họ nghe những điều tốt lành, nhưng họ không làm điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có tai của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Một lát sau, người nông dân lại nhìn thấy người ta mang vào nhà bếp những vật kỳ lạ khác. Ông cũng lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái lưỡi của con người. Khi sống trên đời, lưỡi khuyên bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ lại không sống; không làm những điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có lưỡi của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Gia đình nào cũng muốn được hạnh phúc. Gia đình nào cũng muốn thuận vợ thuận chồng để gia đình thăng tiến. Điều tiên quyết là mỗi người hãy để cho ý Chúa dẫn dắt. Hãy trở thành một khí cụ để thực hiện chương trình của Chúa. Hãy là những người không dừng lại ở lời nói lạy Chúa, lạy Chúa mà là những người luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
Ước gì, mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta đều là những gia đình thánh. Ước gì từng người luôn là thánh khi biết chết đi cái tôi của mình để sống cho gia đình và nhất là cho ý Chúa được thể hiện. Amen.
22. Bài giảng lễ Thánh Gia Thất
(Trích website ‘Giáo Phận Thái Bình’)
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình Thánh Gia, chúng ta thường thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu vá, Thánh Giuse đang làm mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ nhìn vẻ bề ngoài như vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh Gia quả là một đời sống lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách hoàn toàn phẳng lặng. Thế nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp phải những khó khăn, những sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Gia đình là nền tảng của Xã hội và Giáo Hội. Thế nhưng một thực tế là, ở nhiều nơi, “cái nôi” đó đang bị đe dọa, đang bị lung lay tới tận gốc rễ. Gia đình đang mất dần vai trò là “tổ ấm” của mình do tình trạng lục đục trong hôn nhân của các cặp vợ chồng. Hậu quả của những đổ vỡ đó dẫn đến việc nhiều đứa trẻ phải sống trong cảnh thiếu tình cha, vắng tình mẹ; dần dà trở thành những nạn nhân của những tệ đoan xã hội.
Nhận thấy tầm quan trọng của gia đình trong việc Giáo dục con cái, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tông huấn về gia đình “Familiaris Consorto” đã khuyến cáo các bậc phụ huynh: “Cha mẹ phải nhìn nhận rằng, chính họ là những nhà giáo dục đầu tiên và trên tất cả đối với con cái. Vai trò giáo dục của họ quyết liệt đến nỗi thật khó tìm được bất cứ điều gì có thể đền bù vào sự thất bại của họ. Cha mẹ phải nhận trách nhiệm tạo bầu khí gia đình đầy linh hoạt trong tình yêu và tôn kính Thiên Chúa và mọi người, để sự phát triển hoàn mỹ về cá tính và xã hội được nẩy nở trong con người. Vì vậy, gia đình là trường học đầu tiên cho tất cả những đức tính Giáo hội và xã hội mà bất cứ xã hội nào cũng cần phải có”. Muốn được như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cùng nhìn ngắm vào mẫu gương gia đình Nazarét.
Từ mẫu gương Gia đình Nazarét
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình Thánh Gia, chúng ta thường thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu vá, Thánh Giuse đang làm mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ nhìn vẻ bề ngoài như vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh Gia quả là một đời sống lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách hoàn toàn phẳng lặng. Thế nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp phải những khó khăn, những sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm của kiếp nghèo. Ngay khi Chúa Giêsu chuẩn bị ra đời, gia đình Thánh Gia đã bị người ta xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn trẻ còn non nớt mà cha mẹ đã phải bồng bế con chạy trốn, xa quê hương đất nước, sống nơi đất khách quê người.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu Thánh Giuse đã bị giày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quý đã không vâng lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh phúc gia đình. Vậy nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Đến Gia đình chúng ta
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Vậy đâu là phương thế giúp chúng ta có thể trở nên những gia đình mẫu mực như lòng Chúa ước mong? Lời Chúa trong thứ của Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côlôxê (Cl 3,12-21) đã cho chúng ta biết: “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia”. Người Việt Nam có câu: “Một sự nhịn, chín sự lành”. Trong đời sống gia đình, làm sao có thể tránh khỏi những lúc xô xát, cãi cọ… nhưng nếu, vợ chồng biết nhường nhịn nhau thì cửa nhà sẽ êm ấm. “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn” là vậy. Ở đây, lý do mà Thánh Phaolô đưa ra khiến ta phải tha thứ cho nhau là vì: Chúa đã tha thứ những lỗi lầm cho chúng ta (x. Cl 3, 13).
Tiếp đến, để giữ được mối thuận hảo trong gia đình, thì: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14). Lòng bác ái ở đây phải phát xuất từ con tim chân thành, không kiêu căng, không tự ái, như trong “Bài ca đức ái” mà thánh Phaolô đã dạy: Bác ái là tha thứ, là tin tưởng cậy trông tất cả. Là thông cảm và luôn thứ tha.
Sau cùng, thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,17). Mỗi khi hành xử, chúng ta hãy đặt câu hỏi rằng: tôi làm điều này, nói điều kia có nhân danh Chúa hay không?
***
Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Hôn nhân và gia đình là một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại” (Tông thư Familiaris consortio, số 1). Đã là tài sản quý, thì ai cũng phải có bổn phận giữ gìn, nâng niu và trân trọng. Mừng lễ Thánh Gia thất hôm nay, Giáo Hội ước muốn mỗi gia đình chúng ta hãy nhìn lên tấm gương của gia đình Nazarét để học biết cách gìn giữ hạnh phúc gia đình mình. Nguyện chúc cho tất cả các gia đình luôn sống trong sự bao bọc chở che của tình yêu Chúa, để mai ngày, mọi thành viên trong gia đình chúng ta sẽ được cùng hân hoan vui mừng đoàn tụ với nhau trên thiên quốc để ca tụng tình yêu Chúa muôn đời. Amen.
23. Cầu nguyện, sống còn của gia đình
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
Anh chị em thân mến,
Khi các bài ca của thiên thần ngưng bặt,
Khi những chòm sao trên nền trời Bêlem lặng khuất,
Khi ba vua đã trở lại quê nhà,
Khi các mục đồng cùng đoàn vật đã rút lui,
Thì bấy giờ, công việc Giáng Sinh lại bắt đầu
để tìm kiếm những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đổ gãy,
để các tâm hồn được chữa lành,
để các nước được dựng xây trên công lý và hoà bình…
và để nhân loại được sống trong một nền văn minh mới, văn minh tình thương Kitô.
Vậy mà tất cả ấy lại được bắt đầu từ một mái ấm, từ một gia đình, gia đình Nazareth mà chúng ta quen gọi là gia đình Thánh Gia.
Như bao gia đình khác, Thánh Gia cũng đã trải qua những ngày nắng ấm, những chiều giông bão; cả những khoảnh khắc an vui lẫn những phút giây bồi hồi; nhiều lúc rộn rã tiếng cười, bao lần sùi sụt tiếng khóc.
Thử nhìn lại cái thuở ban đầu lưu luyến ấy của đôi bạn trẻ Giuse - Maria. Từ phút truyền tin, từ buổi đón nhau về cho đến ngày sinh con giữa đồng không mông quạnh, hay khi phải ẵm con đỏ hỏn làm khách trọ quê người…, Thánh Gia phải đương đầu với bao thử thách. Thử thách bên ngoài do hoàn cảnh, thử thách bên trong như các trình thuật Tin Mừng cho thấy, “Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập”; “Con ơi, sao con làm thế, này cha con và mẹ phải lo lắng tìm con?”; “Cha mẹ không biết rằng con phải lo việc nhà Cha con sao?”... Đó là cả một khủng hoảng, một thử thách. Ngước nhìn lên hang đá, bóng thánh giá đã thấp thoáng ở đó.
Ấy thế, kính thưa Anh Chị em,
Gia đình ấy vẫn là một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, gia đình ấy vẫn trở nên thước ngọc khuôn vàng cho mọi gia đình trong nhân loại. Bởi lẽ, gia đình đó là một gia đình kính sợ Chúa, một gia đình cầu nguyện, một gia đình mà con cái là tất cả của cha mẹ và cha mẹ là tất cả của con cái. Ở đó, cha mẹ là cả một bầu trời cho con cái và con cái là cả một bầu trời của cha mẹ.
Ở đó, có một người cha chăm chỉ làm việc, một người mẹ ít nói nhưng cầu nguyện nhiều và cả hai cùng ra sức làm gương tốt để nuôi dạy và giáo dục trẻ Giêsu nên người, nên thánh. Ở đó, người con Giêsu hằng vâng lời tùng phục cha mẹ mình.
Trước bao khủng hoảng của cuộc sống hôm nay, nền đạo đức luân lý gia đình đang hấp hối, không ít gia đình đang đối diện bên bờ vực đổ vỡ. Đời sống vật chất của một xã hội tiêu thụ và hưởng thụ đang chực nuốt chửng cái giá trị đạo đức truyền thống của gia đình. Cha mẹ ít có thời giờ cho nhau, chẳng có thời giờ để ở với con cái. Chưa bao giờ mà con cái vuột mất khỏi tầm tay cha mẹ như hôm nay. Cha mẹ mất con ngay khi con đang ở trong nhà. Gương lành gương tốt đang trở nên một cái gì xa xỉ và hiếm hoi. Đó là chưa nói đến gương mù gương xấu nhan nhản trên báo chí, trên phim ảnh, trên truyền hình...
Hỡi những người làm cha làm mẹ, cả những người làm con, hãy nhìn lên Thánh Gia. Hãy chiêm ngắm Giuse, Maria và trẻ Giêsu: những tấm gương ngời sáng của một người cha, một người mẹ và một người con hết lòng vì gia đình. Hãy làm sống lại truyền thống gia phong Á Đông của cha ông.
Chuyện kể về một người chuyên nuôi cá cảnh. Một hôm, trong kỳ hè, khi đang dạo chơi trước các quầy hàng dọc theo bờ biển, anh thấy một con cá ngũ sắc tuyệt đẹp trong một chậu thủy tinh ở quầy. Đó là một con cá nước mặn xinh xắn mà anh chưa từng thấy, anh quyết định mua về. Về đến nhà, anh ra sức chăm sóc nó và áp dụng những phương pháp tốt nhất của một nhà chuyên môn.
Trước hết, anh đặt cá vào chậu nước mặn, cá lội tung tăng trong môi trường quen thuộc. Thế nhưng, một tuần sau, với sáng kiến, anh thêm vào một ít nước ngọt, mỗi ngày một ít. Cứ thế, anh tăng dần nước ngọt cho đến khi chú cá quen hẳn với môi trường mới. Không dừng lại ở đó, anh tiếp tục luyện cá. Mỗi ngày, anh bắt đầu đổ vào chậu một ít bùn, và cứ thế, sau nhiều tuần, nhiều tháng, lượng bùn được tăng lên cho đến khi con cá quen hẳn với việc ngày ngày nằm trên mặt bùn đớp mồi như một loài bò sát. Chưa hết, anh tập cho cá ra khỏi chậu và lẽo đẽo theo anh như một con cún cưng. Anh đã thành công, vì mỗi lần anh đi đâu, con cá màu ngoan ngoãn theo sau. Cho đến một ngày kia, chuyện đã xảy ra khi anh có việc sang nhà một người bạn, có chú cá cùng đi. Lúc trở về, trời đổ mưa, anh phải chạy thật nhanh và quên mất chú cá. Sực nhớ, anh quay lại tìm, nhưng chẳng thấy đâu cho đến khi gặp một vũng nước trên đường, thì hỡi ôi, chú cá yêu quý của anh nằm chết trong đó vì nó không biết bơi.
Anh Chị em,
Câu chuyện khiến chúng ta rùng mình sởn ốc khi nhớ đến trách nhiệm và bổn phận của một người làm cha làm mẹ trong việc giáo dục và làm gương sáng cho con cái. Vì “nửa cuộc đời còn lại của một con người được hình thành từ những thói quen có được từ nửa cuộc đời trước đó”. Thói quen cầu nguyện, thói quen đạo đức, thói quen lễ phép, thói quen dùng thời giờ, thói quen học hành, thói quen dùng tiền…, nghĩa là giáo dục thế nào, kết quả thể ấy.
Muốn được như thế, gia đình chúng ta phải là một gia đình mà Thiên Chúa phải chiếm địa vị tối thượng tuyệt đối trong bậc thang các giá trị. “Không ai hơn Chúa, không chi bằng Chúa, Chúa trên hết, Chúa trước hết”. Bởi lẽ, gia đình được dựng xây và phát xuất từ gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu Thiên Chúa không chiếm địa vị độc tôn tối thượng, mọi trật tự sẽ đảo lộn. Có Chúa, gia đình sẽ là một gia đình cầu nguyện. Nhưng để trở nên một gia đình cầu nguyện, để nuôi dưỡng đời sống đức tin, chúng ta phải lưu ý đến ba hình thức cầu nguyện:
1. Trước hết là hình thức cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người trong gia đình cầu nguyện riêng với Chúa. Đời sống đức tin phải được đặt nền tảng trên việc trải nghiệm cá nhân với Chúa. Một trong những món quà quý báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là tập tành dạy dỗ và làm cho chúng biết yêu thích cùng thưởng thức những giây phút cầu nguyện một mình. Không cách nào để thực hiện điều đó tốt hơn là dùng chính những gương sáng cầu nguyện của mình.
2. Hình thức thứ hai của việc cầu nguyện trong gia đình là cầu nguyện chung: kinh nguyện gia đình. Kinh nghiệm cho thấy, các gia đình bỏ kinh, bỏ cơm chung... là dấu hiệu cho thấy sự rạn nứt. Có hình ảnh nào dễ thương hơn khi mọi người được lắng nghe Lời Chúa trong những giây phút này. Hãy để Chúa Thánh Thần dạy dỗ mỗi khi đêm về nhiều hơn thay vì cả nhà ngồi chầu trước con quái vật một mắt để nghe con người dạy bảo.
Thống Tướng Douglas MacArthur, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ Quân Đội Philippines thập niên 1930, người đã để lại một câu nói bất hủ: "In war, there is no substitute for victory", “Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng”; vậy mà trong tiểu sử của ông còn có một câu nói bất hủ hơn: “Tôi là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh diện hơn rất nhiều vì được làm một người cha… và niềm hy vọng của tôi là: Khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi vẫn nhớ đến tôi không phải với những hình ảnh oanh liệt ở chiến trận mà là những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó những lời kinh thường đọc hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”.
3. Cuối cùng, cầu nguyện với cộng đoàn, Nhà Thờ phải là ngôi nhà thứ hai của mỗi gia đình. Ở đó, cùng với cộng đoàn, mỗi người thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và các Bí Tích cùng những sinh hoạt không thể thiếu khác với cộng đoàn dân Chúa.
Lễ Thánh Gia hôm nay là dịp để chúng ta tự vấn về việc cầu nguyện trong gia đình của mình. Cầu nguyện có phải là một phần sống chết của gia đình tôi không? Cụ thể hơn là chúng ta - cha mẹ, con trai, con gái - đã góp phần và làm gương sáng vào đời sống cầu nguyện trong gia đình thế nào?
Để kết thúc, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện với Nguyên Soái Douglas McArthur khi ông đang ở chiến trường Philippines trong những ngày mở đầu cuộc chiến Thái Bình Dương.
“Lạy Cha, xin ban cho đứa con của con đủ sức mạnh để biết được lúc nào nó yếu đuối, đủ dũng cảm để đối diện với chính mình khi nó cảm thấy sợ hãi… Xin đừng để cho đứa con của con chỉ biết ước muốn mà không dám hành động… Xin đừng để nó đi vào con đường dễ dãi tiện nghi, nhưng hãy hướng dẫn nó đi vào con đường bắt buộc nó phải cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách.
Xin hãy tập cho nó đứng vững trong bão tố, nhưng lại biết thông cảm với những ai gục ngã.
Xin hãy ban cho đứa con của con có một trái tim trong sạch, có một mục đích cao cả, biết tự chủ lấy mình trước khi muốn làm chủ người khác, biết lo lắng cho tương lai mà không bao giờ quên lãng quá khứ.
Và khi Chúa đã ban cho nó tất cả những điều ấy, xin cũng hãy ban cho nó có đủ tính hài hước để có thể luôn nghiêm nghị nhưng không bao giờ nghiêm nghị một cách quá đáng.
Như vậy, là cha nó, con dám tự nhủ rằng, con đã không sống một cách vô ích”.
Mừng kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta cầu nguyện cho các bậc làm cha mẹ luôn ý thức tầm quan trọng của việc hình thành những chiếc khuôn giáo dục nhân cách, đạo đức cho con cái. Xin cho mọi thành phần trong gia đình luôn biết làm gương sáng cho nhau, gương sáng cầu nguyện, gương sáng yêu thương quên mình. Ở đó, tình yêu, chứng tá hùng hồn nhất của Tin Mừng luôn được hâm nóng và toả sáng cho mọi người chung quanh. Nguyện xin Thánh Gia luôn che chở, cầu bầu và ban bình an cho gia đình Anh Chị em trong Mùa Giáng Sinh hồng ân và suốt cả Năm Mới này. Amen.
(Tham khảo thêm New Sunday & Holy Day Liturgies by Flor McCarthy)
24. Gia đình của tôi ơi!
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Chúng ta cùng cả Giáo Hội Việt Nam dành năm 2014 cho việc nhìn lại đời sống gia đình để cùng nhau làm cho Tin Mừng trở nên mới mẻ và thành động lực sống cho gia đình. Lý do Giáo Hội Việt Nam và Giáo phận chúng ta chọn năm nay cho việc Sống và loan báo Tin Mừng là vì trong những năm vừa qua nhìn lại lại đời sống của các gia đình, nó đã mất đi nhiều vẻ đẹp và sự tươi sáng của một mái ấm, mà thay vào đó, gia đình đang chịu sức ép và sự công phá nặng nề bới các khuynh hướng của xã hội đưa đến sự đổ vỡ, bất hạnh và nạn nhân đầu tiên của các cuộc chiến trong gia đình chính là con cái.
Ai cũng biết rằng gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là Hội Thánh tại gia, thế nhưng nhiều gia đình đã bỏ quên đời sống cầu nguyện, đã không còn phải là một tổ ấm hiệp nhất yêu thương, đã không còn là nơi an toàn cho con cái và sự sống, và mất đi nhiệt tâm sống đạo và giới thiệu về Chúa Kitô cho người bên cạnh.
Nhìn vào những bản thống kê gần đây thực sự đã gây lo ngại cho tương lai của các gia đình, các cuộc hôn nhân không tình yêu, hôn nhân vì kinh tế với người ngoại kiều gia tăng. Tình trạng hôn nhân tan vỡ đã lên đến mức báo động khoảng 40%, trong đó người Công Giáo khoảng 15%. Tình trạng bỏ quê lên thành phố hoặc vào Nam làm ăn khiến cho hàng chục triệu người phải ly tán xa gia đình vì công ăn việc làm. Con số ca nạo phá thai ở một số các bệnh viện lớn khoảng 300.000 ca trong một năm… và bao nhiêu vấn đề về kinh tế, lối sống khác nữa đang ảnh hưởng đến gia đình.
Trong bối cảnh ấy chúng ta mừng lễ Thánh Gia Chúa Giêsu Đức Mẹ và Thánh Giuse, đồng thời mừng các gia đình kỷ niệm giáp năm ngày thành hôn, đây là dịp tốt nhất để chúng ta nhìn vào mẫu gương gia đình của Chúa để soi rọi và điều chỉnh gia đình của mình.
Không phải chỉ ngày nay mới có nhiều khó khăn cho gia đình, nhưng có thể nói thời nào cũng có những khó khăn riêng của nó, và vì thế Giuse Maria cũng có những khó khăn riêng trong gia đình của các Ngài, nhưng các Ngài vẫn giữ gìn được sự bình an và làm cho gia đình mình trở thành một gia đình tuy nghèo nàn đơn sơ, nhưng rất ấm cúng, hạnh phúc và thánh thiện. Các Ngài đã làm cách nào?
Các Ngài đã biến gia đình mình trở thành một gia đình cầu nguyện. Nói như thế không có nghĩa là lúc nào họ cũng đọc kinh, mà là gia đình của các ngài luôn sống trong bầu khí cầu nguyện, luôn có tâm tình cầu nguyện. Vì Giuse Maria rất ý thức về sự hiện diện của Chúa trong gia đình của mình, Đức Giêsu vừa là con, song lại vừa là Thiên Chúa đang ở trong gia đình, nên mọi công việc, mọi lo toan trong gia đình, hai ông bà đã làm vì Chúa và làm mọi việc để cho Chúa được lớn lên trong gia đình. Chính vì thế họ dễ dàng nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa qua lời mộng báo đem trẻ Giêsu và Mẹ Người trốn qua Ai Cập để tránh nguy hiểm cho Giêsu.
Chắc chắn nhìn vào khung cảnh của hang đá giáng sinh chúng ta đã có thể thấy được bầu khí đạo đức thánh thiện và yêu thương toát lên từ gia đình này. Gia đình này đã nêu gương cho tình tình yêu chung thủy. Có những lúc Giuse bị “cám dỗ” giải quyết vấn đề theo thói thường của xã hội, tức là chấp nhận một cuộc ly hôn, bỏ trốn một mình. Thế nhưng trong hoàn cảnh ấy, Giuse vẫn dằn vặt để mong tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thử thách đầu đời cuộc sống gia đình của mình. Vì trăn trở và lo lắng cho Maria, nên Giuse đã không tố cáo Maria, mà lại đón nhận Maria về nhà theo lời của Sứ thần mộng báo. Điều đó chứng tỏ Giuse đã chọn để trung tín trong cuộc sống hôn nhân mà Chúa đã muốn, là đón nhận và yêu thương Maria như là vợ của mình.
Kế đến Gia đình Thánh Gia nêu gương bảo vệ sự sống. Sự sống là quà tặng của Thiên Chúa, thuộc chủ quyền của Thiên Chúa, con người không bao giờ được phép định đoạt cho đứa con này được sống, được sinh ra, đứa kia phải chết. Giuse và Maria ý thức rất rõ mầm sống trong lòng của Maria là chính Thiên Chúa nữa. Vì thế mà Giuse và Maria đã hết lòng để bênh vực và bảo vệ sư sống này. Khi vua Herode ra lệnh tiêu diệt tất cả các hài nhi trong vùng, thì Giuse đã dựa vào giải pháp của Thiên Chúa, đó là đem Hài nhi và Mẹ Người trốn qua Ai Cập. Một cuộc tẩu thoát như thế quả thật là nhiều nguy hiểm gian nan, nhưng bằng mọi giá, Giuse đã đem Maria và Hài nhi ra đi ngay lúc nửa đêm để tránh bàn tay độc ác của Herôđe và bảo vệ sự an toàn cho hài nhi. Rồi khi được lệnh trở về, Giuse cũng đã khôn ngoan để chọn vùng Nazaret là một làng quê bình yên để cư ngụ giúp cho sự an toàn của hài nhi và cả gia đình.
Sau cùng, Gia đình Thánh gia đã nêu gương cho chúng ta trong việc sống và loan báo Tin Mừng. Nếu hiểu Tin Mừng là tin vui cứu độ, tin giải thoát cho nhân loại và chính con người của Chúa Giêsu là Tin Mừng, Ngài đến từ Thiên Chúa để ở với con người, thì Giuse Maria quả thật đã trở thành tấm gương sống và loan báo Tin Mừng này. Giuse Maria đã sống Tin Mừng bằng cách mở rộng tâm hồn để cho Thiên Chúa, Đấng cứu thế bước vào tâm hồn và chi phối cuộc đời của mình. Cả Giuse và Maria không thể hiểu hết những lời giải thích của sứ thần về việc đầu thai của Hài nhi, của việc đón nhận Hài nhi và đặt tên là Giêsu, song ông bà đã xin vâng không hề nghi nan. Trong khung cảnh Giáng sinh thì chính Giuse và Maria đã giới thiệu Hài nhi mới sinh bọc trong khăn và đặt nằm nơi máng cỏ cho các mục đồng, cho các nhà đạo sĩ và chắc chắn các mục đồng các đạo sĩ không chỉ thờ lạy Hải nhi mà còn được ẵm bế hài nhi và tin rằng Ngài là tin vui cho toàn dân.
Thưa quý OBACE, với trách nhiệm làm cha mẹ, có khi nào chúng ta tự đặt vấn đề với nhau hoặc với chính mình để tìm nguyên nhân tại sao gia đình mình không hạnh phúc? Tại sao gia đình mình hay lục đục cãi vã…? Đừng tránh né sự thật hãy đặt vấn đề với chính lương tâm của mình chúng ta sẽ tìm được câu trả lời.
Nhiều gia đình hôm nay đã để cho cái ti vi và các chương trình trên đó thống lĩnh suốt ngày trong gia đình và khiến họ không còn giờ cho việc đọc kinh mỗi tối, không còn giờ để nói chuyện với nhau, và thậm chí bữa cơm gia đình mọi người cũng dán mắt vào cái tivi và không còn cười đùa được với nhau nữa. Vì không nói chuyện được với nhau, khiến họ cũng không thể hiểu nhau và không còn thông cảm yêu thương nhau được nữa.
Nhiều cha mẹ vì ích kỷ hẹp hòi, vì thiếu lòng quảng đại mà họ biến gia đình mình trở thành lò sát sinh, giết chết nhiều đứa con của mình. Một gia đình như thế sẽ không thể có bằng an trong tâm hồn và vì thế sẽ không thể nào có bình an trong gia đình, ngược lai chỉ có sự dằn vặt và cắu gắt mà thôi. Nhiều gia đình khác đã không biết phải dạy dỗ con cái thế nào, đã để cho công việc, ăn uống say sưa, cờ bạc, cá độ và bạn bè chiếm hết thời giờ của con cái, khiến cho con cái cảm thấy lạc lõng ngay trong gia đình.
Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân gia đình Chúa ban cho mỗi người, và tạ ơn Chúa vì món quà là vợ, là chồng, là con cái Chúa đã ban tặng cho gia đình. Hãy đón nhận nhau như là quà tặng của Thiên Chúa để biết trân trọng đối với nhau và nhất là trân trọng với Đấng đã trao tặng mình. Hãy nhìn vào gia đình Thánh gia để học ở nơi đó tấm gương của người chồng, người vợ thánh này, mà biết vun đắp cho gia đình mình trở nên một gia đình thánh thiện, ấm cúng, thuận hòa.
Điều chúng ta cần quan tâm không chỉ là gia đình chúng ta ăn cái gì, mua sắm cái gì, điều mà mọi người cần phải đầu tư nhiều hơn đó là gia đình chúng ta sống như thế nào, có hạnh phúc hay không. Đó mới là điều đáng hãnh diện và mơ ước. Khi vun đắp cho gia đình mình mỗi ngày như thế, thì chúng ta sẽ là gia đình sống và làm chứng về Chúa cho người chung quanh. Amen.
25. Đức Kitô tiếp tục lớn lên
Đoạn Phúc âm được đề nghị với chúng ta hôm nay thuật lại những sự kiện khá đơn giản, xét về bản chất chúng ta. Nếu coi đó như một đoạn văn, không hơn không kém thì có thể đặt một vài câu hỏi, về chi tiết thôi, chẳng hạn: sau khi dâng Con trẻ Giêsu trong Đền thờ, ông Giuse và bà Maria có thể trở về Nazaret ngay không? Vụ lánh nạn sang Ai Cập xảy ra lúc nào? Chúng ta đừng tìm kiếm trong Phúc âm một thứ tự rõ ràng, chắc chắn, cho ngày tháng và sự kiện. Điều chắc là thời kỳ Con trẻ Giêsu hết là ‘bé thơ’, giờ là một ‘nhi đồng’, đang lớn lên về phạm vi thiêng liêng – hai ông bà đã trở lại Nazarét rồi. Nghiên cứu đoạn văn người ta có thể dừng lại ở hai nhận vật Simêon và Anna, để suy niệm về sự kiện tâm trông đợi Đấng Cứu Thế và cầu nguyện của hai vị về lời tiên tri Simêon, khiến cho Maria lo sợ một kết cục đau khổ (cuộc thương khó của Đức Giêsu). Tốt hơn, chúng ta hãy chọn một đề tài cao hơn, đó là một tư tưởng lớn nằm trong hạ tầng toàn bộ Phúc âm và được thánh Luca diễn tả như sau: Con trẻ lớn lên, thân thể phát triển và được ơn khôn ngoan sung mãn. Ý niệm lớn đó là ý niệm tăng trưởng.
1) Chúng ta gặp thấy sự tăng trưởng thiêng liêng trước hết ở bà Maria và ông Giuse. Maria được gọi là người có phúc lớn, vì đã tin, trong biến cố Truyền tin. Rõ ràng là ở giây phút ấy nàng tin vào đề nghị của Thiên Chúa yêu cầu nàng ưng thuận một sự kiện xảy ra lúc đó. Đức tin của nàng không cho nàng xem thấy trước phối cảnh tương lai của toàn thể lịch sử Đức Giêsu, lúc đó mới sinh ra trong lòng nàng. Do một sự ưng thuận mỗi ngày, liên tục, nàng tiến dần vào mầu nhiệm định mệnh đời mình. Niềm tin Maria là 1 niềm tin luôn luôn tăng trưởng. Lời tiên tri của Simêông cho nàng biết trước 1 đường đời đau khổ, nhưng không cho rõ chi tiết. Do sự ưng thuận ngày một đổi mới, nhắc đi nhắc lại, Trinh nữ Maria hiểu rõ thêm Thiên Chúa đòi hòi gì ở nàng, biết rõ thêm Con Trẻ Giêsu là ai. Đối với Giuse cũng vậy. Đây là một điều quan trọng đối với chúng ta. Dường như mầu nhiệm tăng trưởng nhân tính của Đức Giêsu có mục đích là nhờ đức tin đưa chúng ta tiến vào mầu nhiệm tăng trưởng thần tính của chúng ta. Sự tăng trưởng thần tính đó, Maria và Giuse là những người đầu tiên được hưởng. Thật là một điều tốt lành khi nghĩ rằng hai ông bà rất gần với chúng ta trong điểm đó. Vì đã trải qua nên biết rõ, hai ông bà cầu bầu cho niềm tin của chúng ta tăng trưởng tốt.
2) Con trẻ lớn lên… Điều ghi nhận này liên hệ trực tiếp đến sự tăng trưởng thể chất của Đức Giêsu. Đó là một sự kiện trong phần lịch sử đã qua, thật sự qua rồi. Tuy nhiên có một sự kiện khác thuộc lĩnh vực mầu nhiệm, được hoàn tất trong lịch sử của chúng ta, ngày nay Đức Kitô tiếp tục lớn lên. Thật vậy, Người không những là Giêsu, một người như những người khác, đã sống ở Palextin từ năm nào đến năm nào đó. Người còn là Con Thiên Chúa đã xuống thế để thần hoá nhân loại. Người tiếp tục lớn lên trong nhân loại. Thánh Phaolô nói đên sự xây dựng thân thể mầu nhiệm Đức Kitô cho đến khi chúng ta hết thảy đạt thấu sự duy nhất trong kính tin và am tường về Con Thiên Chúa, mà nên người thành toàn, đạt đến tầm vóc xứng với sự viên mãn của Đức Kitô (Eph.4,13). Như vậy, Đức Kitô lớn lên trong tâm khảm sâu thẳm của mỗi người chúng ta. Dịp lễ Thánh Gia Thất, Giáo Hội dùng một đoạn Phúc âm gợi lên một trong những mối quan tâm chủ yếu của mọi gia đình, đó là sự lớn lên của đứa con. Chúng ta có thể từ đó suy niệm về sự lớn lên của Đức Kitô trong đại gia đình loài người, nghĩa là trong tâm hồn mỗi chúng ta.
26. Trách nhiệm - Tình yêu
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Người ta thường nói: “Chúng ta có nhiều chốn để đi, nhưng chỉ có một nơi để về, đó là gia đình”. Tuy nhiên, thực tế ngày nay lại khác, bởi nhiều người đã không còn coi gia đình là mái ấm, lý do: nơi ấy thiếu tình yêu thương, trách nhiệm và cũng chẳng còn hấp dẫn nếu không muốn nói là đang ngày càng bị đe dọa!
Hôm nay, Giáo Hội muốn giới thiệu đến chúng ta một Gia Đình Thánh, đó là gia đình Thánh Gia. Qua đó, Giáo Hội muốn con cái mình noi gương bắt chước Mẹ Maria, thánh Giuse và Đức Giêsu trong việc xây dựng gia đình trên nền tảng tình yêu và trách nhiệm.
1. Thực trạng gia đình hiện nay
Nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói: “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Thật vậy, nhìn vào thực tế nhiều gia đình hiện nay, chúng ta không thể không lo ngại và thất vọng, bởi vì:
Có những điều mà ngày xưa người ta coi đó là quái gở, nhưng hôm nay lại là chuyện bình thường được diễn ra như cơm bữa hằng ngày!
Chẳng hạn như chuyện nạo phá thai. Đi ra ngoài đường, chúng ta thấy những trung tâm, phòng khám, nhan nhản mọc lên với những tấm biển nhìn mà thấy ớn lạnh như: “Phá thai an toàn, không đau”; “Siêu âm, hút thai bằng thuốc”.
Chính sự dễ dàng và công khai, cộng thêm chuyện yêu đương bừa bãi hoặc những người cha người mẹ không có tình yêu, thiếu trách nhiệm, nên họ sẵn sàng đang tâm giết chính đứa con vô tội của mình một cách bình thường mà không hề áy náy!
Mặt khác, cảnh ly dị đang dần trở thành thông lệ. Không chỉ những người đã xây dựng gia đình muốn ly dị, mà ngay cả những bạn trẻ chưa lấy vợ lấy chồng mà đã đi tìm “đường thoát hiểm”, cho ngày chia tay trong tương lai! Đây là một nỗi buồn tê tái, bởi vì những cặp vợ chồng ly dị, hậu quả khôn lường, bi đát sẽ đổ dồn lên đầu những đứa con thơ ngây, vô tội.
Hơn nữa, lại có nhiều gia đình ngày nay không dám sinh nhiều con, họ biện minh là không có điều kiện, thời gian…, nên chỉ sinh 1 hoặc 2 con.
Đây là một lựa chọn không thực tế do thói ích kỷ của các bậc làm cha mẹ, nên đã dẫn đến tình trạng bi đát nơi các gia đình.
Thật vậy, khi sinh ít con, bố mẹ thường hay chiều chuộng thái quá. Vì thế, xảy ra tình trạng như: chúng luôn nghĩ mình là thành phần quan trọng nhất trong gia đình, nên nó có quyền đòi buộc mọi người phải phục vụ và đáp ứng mọi nhu cầu. Nếu không, chúng có thể quậy phá, chửi bới, đánh đập…. Đã có biết bao nhiêu bậc cha mẹ bị con cái đánh, chửi, và ngay cả giết chết chỉ vì không đáp ứng đúng như yêu sách của chúng.
Cũng có khá nhiều bậc cha mẹ ít quan tâm đến con cái, mà chỉ lo kiếm tiền hay quá tập trung đến công việc…, mà quên đi tình yêu thương, bổn phận, trách nhiệm của mình với con cái. Vì thế, sau này, đứa trẻ lớn lên nó sẽ vô cảm và dửng dưng với chính bậc sinh thành!
Nguyên nhân dẫn đến chuyện bi đát ấy là: người ta ít coi trọng chữ tín và trách nhiệm với nhau. Từ đó, họ đâu còn để ý hay nâng niu tình yêu và chung thủy trong đời sống gia đình.
Bên cạnh đó, việc hội nhập những nền văn hóa ngoại lai cách vội vàng và thiếu lành mạnh, đã khiến cho chúng ta bị chới với và buông theo khi chưa phân định đúng đắn trong việc chọn lựa.
Trên đây chính là nguyên nhân dẫn đến chuyện bạo lực, ly hôn, ly dị và thiếu trách nhiệm nơi gia đình.
Đây cũng là nguyện nhân làm đảo lộn giá trị đạo đức tốt đẹp của các gia đình hiện nay.
2. Mẫu gương cho các gia đình
Trong khi xã hội và con người ngày nay ít chú tâm đến trách nhiệm cũng như sự chung thủy nơi các gia đình, thì phụng vụ Giáo Hội làm toát lên gương mẫu của gia đình Thánh Gia để cho các bậc cha mẹ và con cái noi theo.
Trước tiên, nơi Đức Mẹ và thánh Giuse, các ngài đã để lại cho các bậc cha mẹ mẫu gương tuyệt vời về hai chữ “trách nhiệm”.
Các ngài có trách nhiệm với Thiên Chúa, với nhau và với con cái. Vì thế, hai ông bà đã bồng ẵm Hài Nhi Giêsu lên đền thờ Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa, cũng như thanh tẩy cho Mẹ của Hài Nhi theo luật định.
Đây chính là quy định trong Luật của Môsê, và hai ông bà đã sẵn sàng chu toàn với đầy trách nhiệm trong lòng mến.
Trách nhiệm của Đức Mẹ và thánh Giuse còn được rõ nét khi hai ông bà đang đêm đem Hài Nhi trốn sang Aicập, rồi một thời gian sau lại từ Aicập trở về. Hơn nữa, năm Đức Giêsu lên 12 tuổi, khi lạc mất con trong đền thờ, hai ông bà đã lặn lội ngược xuôi để tìm cho kỳ được.
Đây là mẫu gương tuyệt vời của Đức Mẹ và thánh Giuse.
Còn với Đức Giêsu, ngài là một người con hiếu thảo, ngoan ngoãn, vâng lời. Vì thế, Kinh Thánh đã diễn tả như sau:
“Hài Nhi ngày càng lớn lên, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Đức Giêsu đã hiện diện và sống trong một gia đình coi trọng trách nhiệm và sự thủy chung, vì thế, Ngài cũng là một người con đầy trách nhiệm. Trách nhiệm trước tiên với Thiên Chúa, sau là với cha mẹ của mình. Vì thế, trước mặt Thiên Chúa, Ngài được tràn đầy ân sủng. Trước mặt Đức Mẹ và thánh Giuse thì Ngài hằng vâng phục các ngài.
Mẫu gương thứ hai cho các gia đình là mẫu gương về sự “chung thủy”.
Mặc dù nơi Đức Mẹ, thánh Giuse và Đức Giêsu, cả ba đều là thánh và sống đẹp lòng Thiên Chúa trọn vẹn. Nhưng nơi gia đình này, Thiên Chúa cũng không miễn trừ những khó khăn.
Tuy nhiên, những thử thách dồn dập xảy đến, nhưng nơi Đức Mẹ, thánh Giuse và Đức Giêsu vẫn bình an, hạnh phúc và chung thủy.
Có được điều này là bởi vì các ngài luôn yêu thương nhau bằng tình yêu tự hiến, luôn biết đón nhận những thử thách trong niềm tin và lòng mến, đồng thời biết thánh hóa những đau khổ ấy và biến nó thành niềm vui cứu độ.
3. Sứ điệp ngày lễ
Sứ điệp Lời Chúa và ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết noi gương Gia Đình Thánh Gia để sống có trách nhiệm với nhau nhằm xây dựng tổ ấm gia đình trong tình yêu và sự chung thủy.
Cần biết lượng giá những thứ tự ưu tiên trong việc vun đắp hạnh phúc gia đình.
Trước tiên, đó là phải cùng nhau xây dựng tình yêu. Gia đình chỉ có hạnh phúc thực sự khi mọi thành phần của gia đình biết quan tâm, chăm sóc nhau trong tinh thần trách nhiệm và yêu mến. Không có tình yêu, gia đình không có tiếng cười và sẽ biến thành hỏa ngục chốn trần gian!
Thứ hai, các bậc cha mẹ đừng quá quan trọng vấn đề cơm áo gạo tiền. Nhiều bậc cha mẹ đêm ngày lao mình vào cuộc chiến kiếm tiền, nên đã không còn coi trọng đến hai chữ tình yêu cũng như trách nhiệm với nhau và con cái. Vì thế, tình yêu phai nhạt, thất trung leo thang và cuối cùng là bị ngã gục trong sự ích kỷ, đổ vỡ….
Thứ ba, cần tôn trọng bạn đời của mình như một quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho mình. Mặt khác, cha mẹ biết yêu thương con cái như là kết quả của tình yêu dâng hiến mà hai người trao cho nhau.
Cuối cùng, muốn xây dựng gia đình hạnh phúc thực sự, các bậc cha mẹ và con cái hãy yêu mến những việc đạo đức, nhất là siêng năng tham dự thánh lễ cũng như các Bí tích và trung thành với giờ kinh tối gia đình.
Làm được những việc đó trong lòng mến và trách nhiệm, chúng ta mới mong có được một gia đình hạnh phúc, ấm êm, để cho mọi thành viên cảm thấy an vui mỗi khi ở trong gia đình, và mong muốn được trở về mỗi lúc đi xa.
Lạy Thánh Gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, xin cho chúng con biết noi gương các Ngài để sống đẹp lòng Chúa, biết yêu thương nhau trong tinh thần trách nhiệm và thủy chung, để xây dựng một gia đình yên vui, hạnh phúc trong tình yêu và trách nhiệm theo khuôn mẫu của gia đình Thánh Gia. Amen.
27. Gia đình, cộng đoàn yêu thương
Khi gợi lại kỷ niệm đáng ghi nhớ về gia đình của mình, Đức cố Hồng Y Marty, nguyên Tổng Giám Mục Giáo phận Paris, đã nói: “Tôi đã bập bẹ những tiếng đầu tiên về Thiên Chúa, khi nhìn mẹ tôi và cha tôi đọc kinh cầu nguyện. Tôi đã học biết sự sống, học biết sự chết, tôi đã học biết thế nào là yêu thương trong cuộc sống hằng ngày, khi tôi giao tiếp với thân nhân và những người quen thuộc. Tôi yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo Hội như đã yêu mến mẹ tôi. Tôi không học mà cũng biết người phụ nữ đó đã cho tôi sự sống và mạc khải cho tôi tình yêu”. Gương sáng của cha mẹ đã giáo dục cho con cái nhiều điều tốt.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình, mà lại là một gia đình nghèo. Ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ thơ khác, như mỗi người chúng ta. Và cha mẹ Ngài cũng là những người lao động, phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu hết các gia đình khác. Là Thiên Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con trẻ, bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che chở của những người thân. Cũng như bao trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ thơ ấu và thành niên, Chúa Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài. Ngài cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học Thánh Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa, bào, đục… trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm tại Nagiarét là một chuỗi ngày bình dị, như hàng trăm gia đình cùng thôn làng, như hàng triệu cuộc sống của con người qua các thời đại.
Đó là thời kỳ ẩn dật, vì Chúa Giêsu không để lộ chân tính đích thực của mình ra cho những người chung quanh biết. Đó cũng là thời gian chuẩn bị cho quãng đời công khai của Ngài, theo nghĩa là Ngài tích lũy cho mình những kiến thức và kinh nghiệm cần thiết cho việc rao giảng Nước Thiên Chúa sau này.
Dưới một khía cạnh khác, chúng ta có thể nói, đó là những năm tháng trao đổi, cho và nhận giữa Con Thiên Chúa và gia đình nhân loại, được đại diện nơi Thánh Giuse và Đức Maria. Nếu chỉ là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế không cần phải nhận ở nhân loại một thứ gì cả. Nhưng vì Ngài là Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, nên Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều của những người thân, nhất là của Mẹ Maria: cưu mang, sinh đẻ, nuôi dưỡng, giáo dục. Ngài cũng đã nhận rất nhiều từ cộng đoàn Nagiarét, từ Hội đường Do Thái, từ cuộc sống của những người chung quanh, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, lao động. Chúng ta khó hình dung được những điều đó, vì chúng ta có khuynh hướng đặt Thiên Chúa ở chốn cao xa mà quên điều hệ trọng là Thiên Chúa đã làm người, đã nhập thể và nhập thế.
Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều từ gia đình nhân loại, nhưng thực ra Ngài còn cho nhiều hơn, vì Ngài đã cống hiến tất cả cho chúng ta, cả bản thể Thiên Chúa, cả năm tháng, cuộc sống và cái chết của Ngài, một cách âm thầm, khiêm tốn vô vị lợi.
Trong cuộc sống bình dị nhưng chất chứa bao tình thương ấy, Chúa Giêsu đã sống thân mật với Cha Ngài, đã sống hiếu thảo với cha mẹ trần thế của Ngài, đã sống chan hòa bác ái với những người chung quanh. Rồi cha mẹ Ngài là những người kính sợ Thiên Chúa cũng đã sống hết mình với Thiên Chúa, tận tụy và thương yêu con cưng của mình. Giữa Đức Maria và Thánh Giuse thì thật là một mối liên hệ có một không hai trong lịch sử loài người, chắc chắn tình yêu thương đậm đà và lòng tôn kính là những nét đặc thù nhất, khiến Thánh Giuse được gọi là người công chính, còn Maria là người có phúc hơn mọi người phụ nữ.
Sách Huấn ca hôm nay đã nhấn mạnh đến lòng hiếu thảo của người con đối với cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ hình dung ra cách sống của Con Thiên Chúa làm người dưới mái nhà Nagiarét. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôsê đề cập đến mối quan hệ giữa những người được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn sống thành gia đình, gia đình của Thiên Chúa: đó là lòng từ bi, nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng, chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau. Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là một gia đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các thành viên trong gia đình thánh này đều là những tôi tớ của Thiên Chúa, trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng đoàn ba vị đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia đình Nagiarét là gương mẫu, là lời mời gọi đối với mỗi người chúng ta, đối với mỗi gia đình Công giáo ngày nay.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, với sự tiến bộ của ngành khoa học nhân văn và xã hội, con người càng khám phá ra chiều kích xã hội của mình và tầm quan trọng của cộng đoàn gia đình trong đời sống xã hội. Gia đình là cái nôi đầu tiên đón tiếp con người và cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết của cuộc sống và hạnh phúc. Đối với các kitô hữu, gia đình còn mang một ý nghĩa khác nữa: đó là một cộng đoàn yêu thương phản ảnh cộng đoàn của Thiên Chúa, theo gương gia đình Nagiarét. Trách nhiệm thật lớn lao của các bậc làm cha làm mẹ. Chức năng nhiệm vụ ấy cha mẹ chỉ có thể hoàn thành được nếu biết yêu thương và tha thứ như chính Chúa Kitô đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta. Đó là quy luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con cái và cha mẹ. Vì trong cuộc sống gia đình, con người có thể biến cuộc sống ấy thành thiên đàng hay hỏa ngục trần gian. Cuộc sống gia đình tạo cho cha mẹ những cơ hội quý báu để thực hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh phúc cho người khác. Cuộc sống gia đình luôn luôn đòi hỏi cha mẹ phải dẹp bỏ ý riêng mình, quan điểm riêng của mình, để tôn trọng và giúp đỡ con cái phát triển về mọi mặt.
Do sự khác biệt về tính tình, môi trường giáo dục, tuổi tác và sở thích, nên chuyện xung đột, căng thẳng, là chuyện đương nhiên không thể tránh được giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Nhất là trong một vài hoàn cảnh khó khăn về kinh tế tài chính. Muốn vượt qua những cảnh xung đột, những giờ phút căng thẳng ấy, mỗi người, dù là vợ hay chồng, cha mẹ hay con cái, đều phải thấm nhuần tinh thần của Chúa Kitô: “Tôi đến để phục vụ chứ không để được phục vụ”. “Ai muốn làm đầu thì hãy làm tôi tớ phục vụ mọi người” (x. Mt 20,26-28). Ở đây, cha mẹ có trọng trách nêu gương cho con cái, vợ chồng có trách nhiệm làm chứng cho nhau tình yêu quảng đại và vô vị lợi của Thiên Chúa. Lời căn dặn của Thánh Phaolô phải là phương châm cho các bậc cha mẹ cũng như con cái trong gia đình: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Ngài mà cảm tạ Chúa Cha”(Cl 3,17).
Như thế, gia đình kitô hữu, theo gương đời sống gia đình của Thánh Gia Thất, với tình yêu thương và tha thứ, với tinh thần phục vụ quảng đại và vô vị lợi, sẽ là ngọn đèn tỏa sáng, sẽ là cái nôi hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho anh em đồng bào trong xã hội chúng ta hôm nay.
28. Mái nhà lý tưởng
Những biến cố chung quanh việc thụ thai và sự ra đời của Đức Giêsu đánh dấu rằng Người là một con trẻ đặc biệt, với một vận mệnh duy nhất. Thông qua Người, lời hứa đối với ông Apbraham sẽ được nên trọn. Người sẽ trở thành niềm hy vọng và an ủi của dân Israen, và là ánh sáng cho các dân tộc. Nhưng Tin Mừng cũng nói về sự khước từ Đức Giêsu, một sự khước từ sẽ gây ra một lưỡi gươm đâm thấu qua trái tim của Đức Maria. Cha mẹ chia sẻ niềm vui và nỗi đau khổ của con cái họ, và ngược lại.
Không có lý do gì để tin rằng Đức Maria và thánh Giuse hiểu biết rõ ràng trọn vẹn hoặc về vận mệnh vĩ đại của Con Trẻ Giêsu. Tuy nhiên, khi đón nhận Người vào trong cuộc đời của mình, và nuôi dưỡng Người trong lòng tin và tình yêu thương, các ngài đã góp phần trong việc giúp đỡ Người nhận ra vận mệnh của mình. Tin Mừng cho thấy rằng tại nhà Nagiarét, các ngài đã tạo ra một bầu khí mà trong đó, Đức Giêsu có thể phát triển đến khi trưởng thành.
Mỗi đứa con đều là một quà tặng của Thiên Chúa. Và mỗi đứa con đều có một vận mệnh duy nhất. Nhưng vận mệnh đó còn ẩn giấu đối với cha mẹ. Họ thắc mắc không biết con cái họ sẽ trở thành gì. Một cách tự nhiên, họ mong muốn điều tốt đẹp nhất cho chúng. Nhưng tất cả điều mà họ có thể làm được, đó là khai mở cho chúng trên con đường đời của chúng. Vượt lên trên tất cả, họ phải cẩn thận để không ngăn cản kế hoạch của Thiên Chúa đối với con cái.
Cha mẹ nên cầu xin Thiên Chúa hướng dẫn con cái của mình theo những chọn lựa mà chúng thực hiện. Nếu chúng ta phải hoàn tất điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta hoàn tất, thì tất cả chúng ta đều cần sự hướng dẫn của Người.
Nói một cách lý tưởng, gia đình phải là một cộng đoàn yêu thương nhỏ bé. Bầu khí trong gia đình là yếu tố quan trọng nhất. Bầu khí đó được xác định do phẩm chất của các mối tương quan. Cha mẹ và con cái đều đóng góp vào việc tạo ra bầu khí đó.
Cuộc sống gia đình mang rất nhiều thử thách. Gia đình không chỉ biết tiếp nhận; mà còn phải biết cống hiến nữa. Những mối dây liên kết trong gia đình làm cho chúng ta được phong phú, nhưng cũng ràng buộc chúng ta. Chúng lôi kéo theo những ràng buộc của trách nhiệm và tình yêu thương.
29. Dâng Chúa trong đền thờ - R. Gutzwiller
Thánh Luca không nói gì cho chúng ta về thời niên thiếu của vị tiền hô, tất cả thời tuổi trẻ của vị này đều chìm trong im lặng và cô đơn. Trái lại, thời niên thiếu của Chúa Giêsu được kể lại trong ba trường hợp. Trường hợp thứ nhất là lễ cắt bì, chỉ được kể lại trong có một câu. Sự cốt yếu của lễ này là đặt tên Giêsu, tên đã được Thiên thần nói trước, tên này nêu rõ bản tính của Hài nhi trong những ngày sắp tới. Chính do danh hiệu đó mà Giáo Hội mừng kính bằng một lễ đặc biệt, cũng chính danh hiệu đó mà biết bao người không ngớt chiêm niệm và đã là nguồn hân hoan vui sướng cho các nhà Thần bí: danh hiệu mà theo kiểu nói của Thánh Phaolô, mọi gối phải quỳ lạy ở trên trời, lẫn dưới thế và cả dưới hoả ngục.
Đang khi đó thì Thánh Luca lại viết lại cho chúng ta về lễ dâng Chúa trong đền thờ với nhiều chi tiết hơn và khiến ta phải lưu ý tới hai điều sau:
1. Những biến cố.
Nhìn bên ngoài, chẳng thấy có gì đáng lưu tâm. Hàng năm có cả trăm đôi cha mẹ trẻ bước lên Đền thờ tiến vào cửa trước dành cho các phụ nữ để được thanh tẩy theo nghi lễ và chuộc lại đứa con mới sinh. Luật buộc thanh tẩy vì sự thụ thai và sinh con đã liên kết chặt chẽ với tội lỗi và với đam mê hỗn độn. Theo chương trình của Thiên Chúa, cả hai việc đó, phải là cái gì mang tính chất bí tích vì đã chuyển đời sống siêu nhiên đồng thời với đời sống tự nhiên. Nhưng tội đã làm nào loạn nguồn mạch và như vậy, tội lẫn vào việc lành, ‘nhân loại đầy trần tục’ với thần thiêng. Lễ tế được đặt ra đối với người mẹ là bà cần phải thanh tẩy để có thể bước vào đền thờ. Đức Maria không có tiền để mua một con chiên làm lễ tế và phải đành lòng như bao người mẹ nghèo nàn khác, dâng một ccặp chim câu để làm lễ vật. Việc chuộc lại đứa trẻ trai được đặt ra vì tất cả những của đầu mùa, nơi ruộng nương, nơi đoàn vật và nhất là nơi con người đều đặc biệt thuộc về Giavê. Như vậy cậu con trai phải chuộc lại để có thể sống đời sống của mình. Tất cả những điểm đó chẳng có chi đặc biệt và đáng lưu tâm.
Tuy nhiên, nội dung của sự việc mới có khác biệt. Đức Maria rõ ràng là người Mẹ chẳng có dính bén chút gì để phải thanh tẩy. Mẹ đâu thụ thai bởi phàm nhân, mà do phép Chúa Thánh Thần. Mẹ cũng chẳng có một ước muốn xấu xa gì, vì Mẹ ‘không biết đến người nam’. Vì thế, việc chuộc lại Hài nhi chỉ mang hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu xét là con đầu lòng của Chúa Cha, thì thuộc quyền sở hữu của Người. Nhưng Ngài sẽ chuộc lại những người khác và giá Ngài phải trả là giá máu của tim Ngài, chứ không phải bằng tiền bạc.
Như Đức Kitô tuân phục Lề luật Môisen hay sắc lệnh của Xêsarê, người Kitô hữu cũng phải phục tùng các quyền hành bên ngoài điều khiển nhân loại bằng ý muốn hay với phép của Thiên Chúa và tuân hành các quy luật như những người khác trong lãnh vực luật pháp. Bên ngoài chẳng có gì lạ kỳ đánh dấu sự hiện hữu và đời sống của người Kitô hữu. Vì không nhất thiết là sự biến đổi nội tâm trước nhan Chúa phải kéo theo sự cách mạng môi trường mình sống.
2. Những lời nói
Những biến cố này có thể qua đi mà ít được biết tới nếu không có một người đến gặp đôi vợ chồng trẻ để chào thăm Hài nhi với những ngôn từ lạ lùng. Ông này không phải là tư tế, mà chỉ là một người dân thường, một người thực công chính, đang chờ đợi ‘niềm an ủi của Israel’, chờ đợi Đấng Messia. Đầy Thần linh Thiên Chúa và nhờ ơn soi sáng, ông đã nhận ra Đấng Messia nơi Hài nhi do người Mẹ khiêm hạ này bồng trên tay.
Lời đầu tiên của ông là lời thân thưa với Thiên Chúa. ‘Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi’. Thiên Chúa là Chủ Tể, ai muốn phục vụ Ngài, là tôi tờ của Ngài. Đời sống của cụ già Simêon là một sự hiện hữu và là một công việc phục vụ Thiên Chúa, được kể như một cuộc phục dịch, nhưng bây giờ đã tới lúc nghỉ ngơi sau chuỗi ngày dài lao động. Sự chết là một cuộc nghỉ việc, một sự giải phóng trong an bình và về với an bình.
Hy vọng và ơn cứu độ là phần thưởng lúc trời chiều ngả bóng, đã nâng đỡ ông suốt thời gian thi hành nhiệm vụ khó khăn. Đấng Cứu độ đã đến, công việc đã có được ý nghĩa và đời sống dấn thân trên con đường cứu độ lời kinh ‘muôn lạy Chúa’ (Nunc dimittis) là lời kinh tối của Giáo Hội.
‘Mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ’. Cụ Simêon, con người ưu tư, suy nghĩ, hẳn phải đau khổ vì những cảnh vô đạo chung quanh. Chính đôi mắt này đã từng chứng kiến những cảnh tội lỗi và phản giáo, nay thấy Đấng mang lại ơn cứu độ và sự thánh thiện. Đức Kitô là thày thuốc sẽ chữa trị tất cả và là Đấng Thánh sẽ thánh hoá tất cả.
‘Chúa dọn ra trước mặt người trần’. Những chướng ngại hạn hẹp của Israel đã bị phá đổ, chiều kích của Giáo Hội phổ quát tỏ hiện. Israel ra đi mở rộng chân trời của Simêon và làm cho người ta nghĩ đến những khuôn khổ mới mẻ của tinh thần và con tim.
‘Ánh sáng rạng soi dân ngoại’. Những lời tiên tri của Isaia (đoạn 42 và 29) đã được nhắc lại ở đây. Dân ngoại không còn là người bị khinh khi, xua đuổi; không còn bị cái nhìn trịch thượng của những người đã được chọn ném xuống. Vì ánh sáng của Đức Kitô sẽ đâm thấu đêm đen, đuổi đi tất cả những bóng tối và đem đến một ngày mới không có chiều tà.
‘Còn Israel dân Chúa được vinh quang’. Nhờ Chúa Giêsu, cái cây của dân này sẽ triển nở sinh hoa kết quả. Israel xấu sẽ trở nên đối tượng của vấp phạm và tên nó sẽ bị nhiều người nhạo báng và ghét bỏ. Còn Israel chân thật sẽ là cánh đồng nơi các hoa mầu quý giá mọc lên, sẽ là núi đá vọt ra những dòng suối, sẽ là nền trời nơi mặt trời toả sáng; nên các tín hữu sẽ nhắc đến tên nó với lòng kính trọng và biết ơn.
Theo lời của Simêon, Israel đặt sự cao cả đã nhận được từ nơi Chúa, dưới chân Chúa nhập thể. Bài tang ca của Israel là một bài thánh thi cho Đức Kitô; Israel đã tàn lụi trong những tia sáng của luồng ánh sáng rạng rỡ hơn; Israel chết đi để được đưa vào một đời sống mới nhờ Đức Giêsu Đấng Thiên Sai.
Lời thứ hai của Simêon là lời nói với Đức Maria: ‘Hài nhi con bà sẽ được đặt lên để nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay chỗi dậy và làm dấu gợi lên chống đối’. Kitô giáo không cưỡng chế và cũng chẳng dùng sức mạnh để bắt buộc ai, trái lại chỉ là lời mời mọc và kêu gọi. Con người phải quyết định. Họ có thể nói nhận hay không. Nhờ lời ‘nhận’ họ sẽ đứng thẳng lên như người bị tê liệt được chữa khỏi, vì họ sẽ bước đi trên con đường của Thiên Chúa. Với tiếng ‘không’ họ tự mình chỗi dậy và tin rằng mình đã hoàn hảo: sự suy sụp của họ đã đến. Tất sẽ kết thúc bằng đổ vỡ và đồi bại.
Giữ một chỗ đối với Đức Kitô là quyết định số phận con người và nhân loại trước nhan Thiên Chúa. Đức Kitô đưa ra hai nẻo đường lớn dẫn tới cứu độ và sa ngã, dòng nước đôi ngả, sự nhận thức giữa chân và giả. Đối với Mẹ Ngài, việc biết được Đức Kitô, Đức Kitô đích thực, sẽ gặp chống đối và phản kháng hẳn phải là nỗi đau đớn ghê gớm trong đời Mẹ: ‘Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim chị’. Vì tiếng ‘nhận’ và ‘không’ sẽ làm lộ nhiều tâm hồn trong Israel. Cái bị che dấu sẽ đưa ra ánh sáng. Cứng lòng, ý tưởng bất chính, ích kỷ cá nhân, kiêu ngạo và ghen tương… tất cả những gì là xấu xa, kẻ thù của Thiên Chúa, đều tỏ lộ ra. Tất cả những gì là bỉ ổi, suy đồi và hôi thối đều bị thấy rõ. Nhìn thấy các tư tưởng con người hệ ở chỗ vạch trần những giả dối và mở toang những nấm mồ quét vôi trắng. Nhưng trên hết phải là sự dửng dưng không tiếp nhận tình yêu Nhập thể, đó mới chính là mũi gươm đâm sâu vào trái tim người mẹ giầu tình thương này. Như vậy, ngay từ đầu đời Chúa Giêsu, người ta đã nhìn thấy ‘ Bà mẹ đau khổ’ là chính Người đứng dưới chân thánh giá, vào những giây phút cuối cùng với con bị đâm thấu tim, hoàn tất lễ hiến tế mạnh mẽ hơn lòng ghét ghen của nhân loại.
Khi Tin mừng nói rằng, ‘Cha và Mẹ Ngài ngạc nhiên về những gì nói về Ngài’ đã chứng tỏ cho ta thấy chính các vị cũng phải lần bước trong ánh sáng đức tin, đang khi luôn nhận thức và xác quyết những chân lý mới.
Hợp với ông già Simêon, có bà già khả kính Anna, đại diện cho cả dân tộc, nam cũng như nữ, ca tụng Thiên Chúa và mang tới một sứ điệp ‘cho những người đang trông đợi phúc cứu chuộc Israel’.
Người ta không thấy nhắc gì tới cái chết của ông già bà cả này. Các cụ đã làm tròn sứ mạng của mình và đã sang thế giới bên kia với tâm hồn bình an và vui sướng trong cũng một cảm nghĩ rằng Israel chân chính mới mẻ là người luôn cởi mở trong Đấng Messia.
30. Gương mẫu Thánh Gia
“Theo luật Môsê… cha mẹ dâng con cho Chúa”.
Một ông vua muốn thử tài phán đoán của các con, ông đưa ra hai viên ngọc quý, một viên thật, một viên giả, viên ngọc thật ông gói trong giấy báo cũ, còn viên giả ông để trong một hộp thật đẹp. Ông gọi người con đầu tới và bảo anh chọn lấy một viên. Anh bỏ qua gói giấy xấu, lựa lấy viên trong hộp đẹp. Thế là anh đã chọn viên ngọc giả. Đến lượt người con thứ, vua cha cũng bảo như thế, anh này vốn là đứa con hiếu thảo, anh nói: “Thưa cha, con xin cha lựa giùm con”. Dĩ nhiên vua cha lựa cho anh viên ngọc thật.
Chúa Cứu Thế đến trần gian cũng ví được như một ngọc quý nhưng được che phủ trong dáng vẻ bình dị, tầm thường, ít người nhận ra. Muốn nhận ra Chúa Cứu Thế phải có ơn đặc biệt, phải chuẩn bị tâm hồn xứng hợp.
Chúa Giáng Sinh chẳng những như một em bé bình thường, mà còn kém các em bé bình thường nữa. Chúa cũng tuân giữ luật lệ như mọi người, dù em bé Giêsu là Thiên Chúa, dù Đức Maria vô cùng tinh sạch, Mẹ cũng bồng Chúa lên đền thờ làm nghi thức thanh tẩy và dâng lễ vật chuộc Chúa về. Một cặp chim, đó là lễ vật của nhà nghèo. Gia đình Chúa lên đền thờ như một gia đình nghèo khó thi hành luật định. Chúa như là viên ngọc dấu kín, thế nhưng đã có ông Simêon và bà Anna nhận ra Người.
Trong đền thánh có bao nhiêu người giỏi giang, thông thái như các tư tế, các luật sĩ. Họ am tường Kinh Thánh, hiểu rõ các lời ngôn sứ tiên báo về Chúa Cứu Thế, nhưng họ không nhận ra Chúa, vì Chúa quá nghèo khó bình dị. Trong khi ông chỉ là một ông lão nghèo. Bà Anna chỉ là một quả phụ, bần cùng yếu đuối, không quyền hành trong xã hội. Nhưng họ vốn là những người con hiếu thảo của Thiên Chúa: khiêm tốn, đạo hạnh, biết thờ Chúa với tất cả tấm lòng tin yêu phó thác vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Họ giống như người con thứ của vua trong câu chuyện kể trên. Họ đã được Chúa Thánh Thần soi sáng để nhận ra Chúa Cứu Thế qua dáng vẻ tầm thường của một hài nhi. Họ đã được đón nhận Chúa Cứu Thế, như những người nghèo hèn bé nhỏ được Chúa chúc phúc vậy.
Simêon và Anna nghèo khó đã hân hạnh được bồng ẵm Chúa Cứu Thế, được thay mặt nhân loại nói lời đầu tiên tung hô Chúa đến.
Simêon cũng đã tiên báo Chúa Cứu Thế sẽ là một báu vật được giấu kín giữa lòng thế nhân. Vì vậy có người nhận ra nhưng đa số vẫn từ chối Ngài, thậm chí còn chống đối Ngài. Do đó Ngài sẽ là duyên cớ cho nhiều người vấp ngã. Và thái độ họ sẽ như một lưỡi gươm đâm thấu trái tim Đức Maria, sẽ làm Mẹ tan nát cõi lòng như ta thấy về sau.
Chu toàn bổn phận theo luật định xong, gia đình Chúa Giêsu trở về Nagiarét. Ở đó, Chúa Giêsu lớn khôn, học hành, tập nghề thợ mộc như các bạn thiếu nhi. Cuộc sống Chúa vạch rõ tầm quan trọng của gia đình, cái nôi cần thiết cho mọi người. Chúa sống ở trần gian 33 năm, thì đã sống 30 năm bình thường trong gia đình nghèo khó.
Xin Chúa giúp chúng con theo gương Chúa sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính ông bà cha mẹ ở trần gian và sống tình huynh đệ với mọi người. Biết vâng giữ luật Chúa, luật Hội Thánh và các luật lệ chính đáng trong xã hội.
31. Gia đình Giuse - Maria - Hài Nhi Giêsu
Đề tài "gia đình" là một đề tài xưa như trái đất, mà cũng rất thời sự như "tình yêu", "tình yêu và tuổi trẻ", "dự bị hôn nhân", "thăng tiến hôn nhân", vân vân và vân vân...
Ai cũng biết rằng tất cả các tạo vật - giống nào theo giống đó - có một mối tương quan rất chặt chẽ, một sự hỗ tương tác dụng để "sinh sôi nẩy nở" (Kn 1,22) và lan tràn khắp mặt đất, bầu trời lẫn biển khơi. Riêng loài người thì được Đấng Tạo Hóa ban cho quyền năng "sinh sôi nẩy nở và nên đầy dẫy trên mặt đất, và làm bá chủ muôn loài" (Kn 1,28-31). Đó là "tính xã hội" của muôn loài nói chung, của loài người nói riêng = xã hội loài người thành hình.
Quả thật "không ai là một hòn đảo" (Thomas Merton), mặc dầu dưới một góc độ nào đó, "mỗi người là một hòn đảo" (Carl Rogers). Tựu trung, có lẽ ngoại trừ ông Adong và bà Eva [và cả hài nhi Giêsu? - ai muốn kiểm chứng thì hỏi hài nhi Giêsu đi!] còn hết thảy chúng ta, ai cũng có lổ rốn. Phải chăng lổ rốn là dấu chứng rõ nét nhất của mối tương quan giữa các tạo vật, giống nào theo giống đó, đặc biệt là giống người? = nhân tố của xã hội loài người: gia đình.
Trong chiều hướng đó, Ngôi Lời mặc xác phàm đến ở-với-chúng-ta trong một gia đình - một gia đình rất đặc biệt, có thể nói rằng gia đình duy nhất ở trần gian biểu hiện nếp sống hoàn toàn phù hợp với ý định của Đấng Tạo Hóa khi tạo dựng loài người, và là mẫu mực cho tất cả mọi gia đình của nhân loại trong tiến trình đón nhận ơn cứu độ, ơn canh tân đổi mới để đạt đến sự viên mãn của "Bình An dưới thế cho người Chúa thương".
Chúng ta đã suy niệm và hân hoan ca hát: "Vinh Danh Thiên Chúa trên trời - Bình An dưới thế cho người Chúa thương". Và chúng ta cũng biết rằng Đêm Giáng Sinh chỉ là khởi điểm của chương trình "tạo dựng mới" mà Thiên Chúa đã hứa ban cho loài người ngay sau khi tổ tông phạm tội.
Tiến trình canh tân đổi mới này phải có "hợp đồng hai chiều" giữa Thiên Chúa và loài người, như thánh Augustinô đã nói: "Thiên Chúa tạo dựng chúng ta mà không hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Thiên Chúa sẽ không cứu độ chúng ta nếu không có sự đồng tình của chúng ta". - Ai không muốn kiểu "hợp đồng hai chiều" này thì "thương lượng lại" với Đấng Tạo Hóa đi!!!
Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đầy quyền năng, là Cha rất nhân từ hằng yêu thương hết mọi người (đọc lại Matthêu, 5-7) - Người không để chúng ta thiệt thòi trong "hợp đồng hai chiều" này đâu! Trái lại, như một nhà giáo dục tuyệt vời, Người còn mách lối chỉ đường cho chúng ta, không chỉ bằng Lời giảng dạy, mà nhất là bằng gương mẫu nếp sống cụ thể của chính Ngôi Lời ở-với-chúng-ta trong một gia đình bằng xương bằng thịt như chúng ta: gia đình Giuse-Maria-Giêsu.
Trước khi vào nếp sống gia đình, cô nàng thùy mị Maria đã phải đương đầu với một cuộc thương lượng gay go: hợp đồng với Thiên Chúa để bắt đầu thực hiện chương trình canh tân đổi mới tạo vật bất chấp mọi dư luận thế gian trần tục? [chưa cưới mà mang thai!]
Trước khi vào nếp sống gia đình, anh chàng Giuse đã phải ký kết hợp đồng với Thiên Chúa, một hợp đồng mà xét theo con mắt trần tục, phần thua thiệt chua cay đau khổ thì Giuse hoàn toàn lãnh đủ!
Vừa bước vào "nếp sống gia đình" (nếp sống gia đình trong dấu ngoặc kép), cả hai Giuse và Maria đều vỡ mộng: lời hứa hẹn của thiên sứ, nào là "Người sẽ làm vua", nào là "Người sẽ cứu dân độ thế"... hóa ra là lời hứa cuội. Tìm chỗ trú ẩn tầm thường để Maria sinh ra "vua cả trời đất" mà cũng chẳng ai thèm cho!
Ngày "vua cả trời đất" sinh ra, họa chăng có vài mục tử nghèo hèn đến viếng thăm. Rồi nghe đâu có ba (3) nhà hiền sĩ từ phương Đông tò mò đến như thể để kiểm chứng sự khám phá "ngôi sao lạ" vừa xuất hiện trên bầu trời.
"Hoàng Nhi" vừa thôi nôi mã đã có người tìm giết cho bằng được. Giuse lại phải đương đầu với hợp đồng ông đã ký kết với Thiên Chúa: dẫn "hiền thê" và "Con đầu lòng" đi trốn sang Ai-Cập, nơi mà hơn 1000 năm trước, các tổ phụ của Giuse đã bị bắt làm nô lệ...
Thời đó chắc chưa có chính sách tị nạn, nghĩa là chưa có "green card" hoặc "thi nhập quốc tịch", Giuse lại phải tiếp tục chấp hành đúng theo điều cam kết trong hợp đồng với Thiên Chúa: đem "hiền thê" và "Hoàng Nhi" về quê cũ.
Ôi! con đường Thiên Chúa dẫn dắt gia đình Giuse-Maria-Giêsu đến sự "Bình An dưới thế cho người Chúa thương" thật kỳ lạ, vượt xa mọi tư tưởng và cảm nhận của người trần thế!
Đấng Tạo Hóa "khôn" lắm! Người biết thế nào chúng ta cũng so đo phàn nàn về "hợp đồng hai chiều" mà phần thua thiệt - dưới con mắt trần tục của chúng ta - bảo đảm chúng ta phải lãnh đủ, nên gần 500 năm trước khi Ngôi Lời mặc xác phàm đến ở-với-chúng-ta, Người đã dùng miệng ngôn sứ Isaia báo trước: "Quả thế, ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi... Vì trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi." (Is. 55:8-9)
Trong suốt 30 năm Ngôi Lời mặc xác phàm ở-với-chúng-ta, gia đình Giuse-Maria-Giêsu hầu như im hơi lặng tiếng - chỉ một lần lúc Giêsu lên 12 tuổi (tuổi "có trí khôn" theo quan niệm thời bấy giờ?), Thiên Chúa hé mở cho chúng ta thấy thế nào là nếp sống gia đình gương mẫu, một nếp sống trông rất bình thường nhưng vượt trên mọi sự bình thường:
+ Giuse thì luôn luôn LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng nói của lương tri, của Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn trong mọi biến cố của cuộc đời;
+ Maria thì luôn luôn "suy niệm trong lòng", nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa qua mọi biến cố và XIN VÂNG;
+ Giêsu thì luôn luôn "ở nơi nhà Cha" (Luca 2:49), tùng phục cha mẹ, và "lớn lên [bình thường như mọi người] càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta" (Luca 2:51).
Quả là một cuộc thách đố Đấng Tạo Hóa "trêu" con người!
Nhưng "vui mừng và hy vọng" thay! Chương trình tái tạo muôn loài nhờ Ngôi Lời mặc xác phàm ở-với-chúng-ta đã thành tựu = gia đình Giuse-Maria-Giêsu làm chứng điều đó, và trải qua gần 2000 năm nay, biết bao nhiêu gia đình - cộng đoàn tu sĩ nam nữ cũng là những gia đình trong ý nghĩa trọn vẹn của gia đình - đã noi theo gương Thánh Gia làm chứng điều đó.
Phần chúng ta hôm nay, bây giờ, gia đình chúng ta có muốn theo gương các vị tiền nhân, ký kết "hợp đồng hai chiều" với Thiên Chúa để mỗi một chúng ta: cha mẹ, con cái, anh chị em chúng ta đạt đến sự viên mãn của "Bình An dưới thế cho người Chúa thương" không? - Nhờ ơn Chúa hợp với tâm tình LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng nói của Thần Khí Thiên Chúa của chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ thu lợi trong "hợp đồng" này.
32. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
ĐỂ CỨU CÁC GIA ĐÌNH, CHÚA CỨU THẾ ĐÃ CHỌN SINH RA TRONG GIA ĐÌNH
Hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành lễ kính Thánh Gia Thất, trong bối cảnh Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình vừa được cử hành là chặng đầu tiên của một lộ trình sẽ kết thúc vào tháng 10 năm tới với một Hội nghị về đề tài "Ơn gọi và sứ mệnh của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới". Giáo hội Việt Nam lấy năm Tân Phúc-Âm-Hoá gia đình làm tiền đề để bước vào năm Tân Phúc-Âm-Hoá giáo xứ. Đẹp biết bao khi nhìn vào hang đá chúng ta thấy Chúa Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thành lập, để cứu các gia đình. Mừng Chúa Cứu Thế đến cũng là mừng Thánh Gia Thất, nơi Ngài sinh sống.
Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách sống trong gia đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ: "Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống", cùng với những phần phúc cho những người con biết tôn kinh mẹ cha là: "Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng", nhất là được trường thọ: "Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. " Thì bài đọc II, Thánh Phaolô khuyên những người làm vợ làm chồng: "Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó". Ngài cũng khuyên cha mẹ phải tôn trọng, yêu mến con cái: "Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt" (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.
Thảo kính cha mẹ
Để giữ cho gia đình hạnh phúc, Thiên Chúa đã ban cho Giới răn thứ Bốn trong Mười Điều răn: “Thứ Bốn thảo kính cha mẹ”,
Có nhiều kẻ làm con đã hỏi: Vậy, tước phẩm làm cha làm mẹ là thế nào để con cái phải tôn kính. Quyền bính cha mẹ tự đâu mà có?
Để có một cuộc sống đích thực, nhân loại phải có quyền bính, nếu không xã hội không thể có được, và phải đi tới nguyên tắc căn bản: không có Thiên Chúa, không có quyền bính. Vì thế, kẻ làm con, người làm bề dưới phải vâng lời cha mẹ, tùng phục người trên là vì thấy trong trật tự ổn định là quyền lực, là thế giá của Thiên Chúa. Đứa trẻ thấy quyền lực Thiên Chúa nơi cha mẹ, học trò ở nơi thầy cô, người dân thấy ở nhà cầm quyền. Phải, quyện lực của cha mẹ là do Thiên Chúa mà ra.
Chúa dạy: "Hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi ". Và Thánh Phaolô khuyên: "Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự " (Cl 3, 20). Giới răn không nói yêu mến nhưng là tôn kính. Người ta yêu anh chị em, yêu tha nhân, song đối với cha mẹ, phải tôn kính. Đó là điều mà phận làm con, kẻ bề dưới ngày nay không muốn biết nữa. Tôn kính có nghĩa là khi cha mẹ nói, dạy điều gì, con cái phải im lặng, lập tức thi hành, dù là ước muốn nhỏ nhất: "Vì đó là đẹp lòng Chúa" (Cl 3, 20). "Hãy tôn kính cha con và mẹ con" ; "Đứa con nào mà đánh đập cha mẹ mình thì phải chết" ( Xh 20;21)
Phu phụ tương kính như tân
Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ giống hình ảnh Chúa, và cho hai người kết hợp với nhau nên một bằng mối giây loài người không thể tháo cới, để mỗi người phát triển nảy nở trong hạnh phúc, và sinh con cái nối giòng dõi loài người và Hội Thánh.
Khi nói thế, người chồng có thể đòi người vợ phụng tùng chồng một cách mù quáng không? Không, người này phải phục tùng người kia cho phải đạo, cả hai đều phải phục tùng Đức Kitô như toàn thể Giáo hội.
Người nam có biết khi được làm đầu thì phải làm gì không? Thánh Phaolô kêu gọi: " Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó" (Cl 3, 20).
Người ta thường nói: chồng là đầu gia đình, vợ là trái tim gia đình. Nói đúng hơn: chồng là cả hai, vừa là đầu, vừa là trái tim. Người ta cũng ví người chồng giữ vai trò như người lái thuyền, phải đưa thuyền đi đúng hướng, là bảo vệ sự an toàn cho mọi người trong thuyền, phục vụ mọi người với tình yêu thương, như yêu thương chính mình, để cùng nhau hướng tới hạnh phúc.
Cha mẹ tôn trọng và yêu mến con cái
Giới răn thứ Bốn này có hai chiều: con cái và cha mẹ, cha mẹ và con cái. Nếu con cái phải tôn kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng, yêu mến con cái: "Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái". Cha mẹ quí mến con cái, vì con cái trước hết không thuộc về các cha mẹ mà thuộc về Thiên Chúa. Con cái là kho tàng Thiên Chúa trao cho, một ngày kia Chúa sẽ đòi cha mẹ phải trả lẽ. Vậy, cha mẹ phải yêu quí, tôn trọng sự sống con cái, ngày từ khi còn trong lòng mẹ, chớ làm phương hại đến chúng. Tôn trọng con cái từ lúc còn thơ đến tuổi trưởng thành...
Chăm lo cho con cái về mặt tinh thần cũng như thể xác, nhất là linh hồn, vì trước hết chúng thuộc về Thiên Chúa. Cha mẹ không thể lên thiên đàng một mình, phải có con cái đi theo. Con cái không lên thiên đàng được, cha mẹ cũng không lên được. Chúng ta thấy Mẹ Maria, Thánh Giuse, và Chúa Giêsu, cả Ba Đấng đều lên Đền thờ dự lễ theo luật.
Khi có chuyện chẳng lành trong gia đình, lời thánh Phaolô sau đây như là khuôn vàng thước ngọc về lẽ sống và cách đối nhân xử thế của các thành viên trong gia đình: "Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện".
Noi gương Mẹ Maria và Cha thánh Giuse, mỗi gia đình kitô giáo hãy đón rước Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, gìn giữ Người, che chở Người, lớn lên với Người, và như thế chúng ta mới phúc âm hóa gia đình, canh tân giáo xứ và cải tiến thế giới được. Hãy dành cho Chúa một chỗ trong trái tim và ngày sống của chúng ta.
Lạy Thánh Gia Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, xin chở che gìn giữ gia đình nhân loại chúng con. Amen.
33. Gia đình trong chương trình cứu độ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tiếp liền sau Lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ kính Thánh Gia Thất. Vì mừng Chúa Cứu Thế giáng sinh là mừng Gia Đình Thánh, nơi Người sinh sống. Hôm nay, nhìn vào cảnh tượng giáng sinh, chúng ta chú ý đặc biệt đến Chúa Hài Nhi nằm trong máng cỏ, bên cạnh Người có Đức Maria và thánh Giuse. Chúng ta khám phá ra rằng, Con Chúa Cha hằng có đời đời, đã rời bỏ gia đình Ba Ngôi vĩnh cửu bước vào trần gian sinh ra trong gia đình trần thế bởi Đức Maria và có thánh Giuse. Trước mặt Thiên Chúa gia đình thật quan trọng, Thiên Chúa đã tạo lập gia đình ngay từ thủa ban đầu, Con Thiên Chúa cũng chọn gia đình để sinh ra và cưu ngụ.
Gia đình là tác phẩm tuyệt đẹp của Thiên Chúa
Lần giở lại những chương đầu của sách Sáng Thế ta thấy gia đình là điều đẹp đẽ nhất mà Thiên Chúa đã tạo dựng và thiết lập. Người dựng nên loài người có nam có nữ, và ban cho họ mọi sự. Người ban cho họ quyền toàn thế giới! Họ chan hòa trong tình yêu của Người. Mọi tình yêu Thiên Chúa, mọi vẻ đẹp Thiên Chúa, mọi sự thật Thiên Chúa có trong Chúa, Chúa đều ban hết cho gia đình.
Gia đình đẹp về các mai mối: Thiên Chúa đã mai mối cho ông Adong và bà Evà, bởi chính Thiên Chúa dẫn Evà đến giới thiệu với Adong. Đẹp về cách chuẩn bị cho một gia đình mới: Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ông bà cả một gia nghiệp, chim trời cá nước, thú vật ngoài đồng, ruộng vườn canh tác. Đẹp về cử hành nghi lễ: Đám cưới của ông Adong và bà Evà do Thiên Chúa chủ sự, trước đó Ngài trang bị cho có mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sang ban đêm, khách sạn với muôn triệu vì sao. Hôn lễ bắt đầu, Thiên Chúa dẫn Evà đến với Adong, Adong vui vẻ hạnh phúc sáng mắt ra và không chỉ nhận Evà làm vợ mà còn nhận: Đây là xương tôi, đây là thịt tôi nữa (x. St 2,24),. Nhận nhau xong rồi, Thiên Chúa tuyên phán: “Sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly” (Mt 19,6).
Gia đình tan vỡ do Tội Nguyên Tổ
Được Thiên Chúa chúc phúc và họ đã sống vui hạnh phúc. Ađam và Evà sống tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa và với nhau, rất hạnh phúc, không phải đau khổ và không phải chết. Nhưng rồi con người tự tách ra khỏi Đấng đã dựng nên họ. Thế là đánh mất tất cả, tình nghĩa vợ chồng phân tán, hết anh em (huynh đệ tương tàn), hết hòa bình, hết tình yêu, cái đẹp và sự thật. Hậu quả là từ đó cho đến nay gia đình luôn ở trong tình trang bị đe dọa do tội lỗi, phá thai, coi thường người già, bất hiếu, sống chung, ly dị.
Thiên Chúa Cứu Gia Đình
Để cứu các gia đình, Đấng Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thành lập để làm mới lại tình con người với Thiên Chúa, cụ thể là tình gia đình.
Vì thế, Thiên Chúa đã đến thế gian trong một gia đình, để chỉ cho thấy rằng gia đình là một tổ chức an toàn để gặp gỡ và hiểu biết, và Ngài mời gọi chúng ta không ngừng kiến tạo sự hiệp nhất trong tình yêu. Gia đình được thiết lập dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Gia đình hết sức quan trọng cho hiện tại và tương lai của nhân loại. Vì gia đình là trường học tốt nhất để học cách sống các giá trị nhân phẩm con người và làm cho con người trở nên vĩ đại. Trong đó, mọi thành viên trong gia đình chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn, tất cả chúng ta đều cảm thấy được sự bảo vệ bởi tình cảm tồn tại trong gia đình.
Gia đình sống Lời Chúa
Trong Tâm Thư Gởi Các Gia Đình năm 1994, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Mầu nhiệm Ngôi lời Nhập Thể của Thiên Chúa liên kết mật thiết với gia đình nhân loại: không những với một gia đình, một gia đình ở Nagiarét, nhưng một cách nào đó, với hết mọi gia đình […]. Giáo Hội coi việc phục vụ gia đình là một trong những bổn phận thiết yếu của Giáo Hội. Trong ý nghĩa này, cả con người và gia đình kết cấu thành con đường của Giáo Hội”. (số1.2).
Trong Tông Thư về Kinh Mân Côi, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đã đề cao tầm quan trọng của gia đình, gia đình là tế bào căn bản của xã hội loài người và Giáo hội, là xã hội thu nhỏ, là Hội Thánh tại gia. Ngài mời gọi chúng ta đọc Kinh Mân Côi cầu cho các gia đình. Vì gia đình có tốt thì Giáo hội mới tốt được.
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta, chính nơi gia đình mà Hài Nhi Giêsu lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan (Lc 2, 40). Chúa Giêsu cảm thấy ấm áp khi sống trong gia đình, các thành viên xây dựng quan hệ tương quan tình yêu với nhau. Cũng thế, thật tốt đẹp biết bao, nếu chúng ta cùng nhau xây dựng gia đình mình thành một gia đình đầy ắp yêu thương, mọi người tôn trọng nhau, hiểu biết và tha thứ cho nhau, hy sinh và cầu nguyện cho nhau trong tình liên đới.
Ai trong chúng ta cũng đã từng sinh ra và sống trong gia đình hiển nhiên là có trải nghiệm, như gia đình Nagiarét xưa, sự hài hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa với con người! Ngày nay, việc gầy dựng gia đình là một trong những việc làm cấp bách. Như Công đồng Vaticanô II nhắc nhớ, cha mẹ giữ một vai trò khong thể thay thế được: “Đối với con cái mà trong yêu thương họ đã nhận từ Thiên Chúa, họ phải làm cho chúng hấp thụ những học thuyết Kitô giáo và những nhân đức của Phúc Âm. Nhờ đó họ nêu gương cho mọi người về mặt tình thương bền vững và quảng đại, xây dựng bác ái huynh đệ, làm chứng và cộng tác vào việc sinh sản của Giáo hội, Mẹ chúng ta, trở nên dấu chỉ và thông phần vào tình yêu Chúa Kitô đối với Hiền Thê Người: bởi yêu thương, Người đã hiến mạng vì Hiền thê” (x.Vat II, LG. V). Chính trong gai đình mà chúng ta học được bài học quan trọng nhất là: làm người. Con Thiên Chúa làm người để chúng ta được làm người hơn.
Lạy Ba Ngội Cực Thánh ở trần gian, xin giúp chúng con biết noi gương các thành viên trong Thánh Gia Thất, để gia đình chúng con trở nên cái nôi của tình thương, sống mãnh liệt Đạo Tình Thương ngõ hầu mỗi thành viên trong gia đình Công Giáo trở nên chứng nhân sống động của Hài Nhi Cứu Thế giáng sinh. Amen.
34. Mái ấm gia đình - Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Vào Hiệp hội Thương Mại quốc tế, đất nước chúng ta càng ngày càng mở cửa ra cho nền kinh tế thị trường phát triển. Thế là bao Công ty, doanh nhân nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam kinh doanh buôn bán. Cửa mở thì gió lùa vào. Gió lành lẫn gió độc chen nhau vào. Những người có chút lương tri đều băn khoăn trước những cơn gió độc làm băng hoại các giá trị tinh thần đạo đức. Một trong những cơn gió độc cần chân nhận đó là sự sa sút của nền tảng xã hội đó là gia đình.
Không phải chúng ta quen thói bài ngoại. Nhưng chính một số nhà đạo đức của trời Tây- Mỹ cũng đã từng nhìn nhận thực trạng này trên quên hương của họ. Bác sĩ Benjamin Spack đã có những nhận định về tình trạng trên cùng với những nguyên nhân như sau trong cuốn sách được hâm mộ của ông. Đó là:
1. Vì thích độc lập, sống riêng rẽ nên các gia đình trẻ mất sự hổ trợ, mất sự đùm bọc yêu thuơng của cha mẹ, anh chị em.
2. Cuộc sống kinh tế nghề nghiệp làm các gia đình hay thay đổi chỗ ở, làm mất tình làng nghĩa xóm ( bà con xa không bằng láng giềng gần ).
3. Cũng do sinh kế mà cả cha lẫn mẹ đều bôn ba cảnh cơm áo gạo tiền và vì thế thiếu thời giờ dành cho nhau, dành cho con cái.
4. Nạn ly hôn ngày càng phổ biến ảnh hưởng rất tai hại trên con cái, trên sự thiêng liêng của đời gia đình.
5. Óc thượng tôn của cải khiến vật chất thành thước đo giá trị làm cho con người thiếu niềm tin vào các giá trị tinh thần và đạo hiếu là một trong những số phận hẩm hiu ấy.
Hôm nay Hội Thánh mời gọi chúng ta hướng cái nhìn đến gia đình Nagiarét để chiêm ngắm nền tảng tuyệt vời của xã hội là gia đình thánh: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Đặc biệt năm nay cùng với Hội Thánh Việt Nam chúng ta sống chủ đề Giáo Dục Gia Đình, xin cùng nhau nhớ lại lời dạy của Đức Phaolô VI: “Ước gì Nagiarét dạy chí chúng ta biết ý nghĩa của gia đình là trường học của Tin Mừng. Ở đó có một sự hiệp thông trong tình yêu, một vẻ đẹp khắc khổ nhưng sáng ngời, một sự linh thánh bất khả xâm phạm”. Gia đình chính là mái trường đào tạo con người cách hữu hiệu tuyệt vời mà không có nơi nào có thể sánh ví.
1. Gia đình: nơi huấn luyện con tim. Vì yêu thương hai trái tim chung nhịp đập tìm đến nhau và nên duyên vợ chồng. Tình yêu này trổ sinh hoa trái là những đứa con.
Con nằm giữa cha, con nằm giữa mẹ.
Cuộc đời nằm giữa yêu thương.
Thi sĩ Tế Hanh diễn tả một hình ảnh quen thuộc nhưng rất thân thương. Hài Nhi Giêsu nằm đó trong máng cỏ giữa mẹ Maria và thánh Giuse hẳn gợi nhớ cho chúng ta nhiều điều. Chỉ với tình yêu và trong tình yêu của Đấng Tạo Thành thì người chồng, người cha, người vợ, người mẹ và cả đàn con mới có thể vượt qua nhiều sóng gió cuộc đời. Maria với bào thai trong dạ hẳn mang nhiều trăn trở, nhiều thao thức trước tấm lòng của Giuse, người bạn đã đính hôn với mình, và trước cả cái án tử hình ném đá theo luật hiện hành. Mẹ đã vượt qua, nhờ yêu Chúa và yêu người bạn đời. Giuse không muốn làm hại bạn mình chỉ vì yêu. Và bởi mến Chúa, sau khi được sứ thần báo mộng, ngài đã đón Maria và Hài nhi trong dạ về nhà. Hai trái tim tràn đây tình yêu đã góp phần cho Đấng là Tình Yêu chào đời, dù cho lòng người lúc ấy lắm bạc bẽo. vô tình.
2. Gia đình: nơi đào tạo niềm tin. Đã yêu hẳn nhiên dẫn đến sự tin cậy. Tin tưởng, tín nhiệm nhau là một trong những dấu chỉ của tình yêu. Tin Mẹ Maria, thánh cả Giuse không một lời cật vấn, hỏi han. Tin vào Chúa, dù thánh ý Người chỉ bàng bạc trong giấc mộng, Giuse đã mau mắn thi hành là đón nhận Maria về nhà cũng như sau đó đưa Hài Nhi và Mẹ Người đi lánh nạn sang Ai Cập một thời gian rồi lại trở về quê hương. Đón nhận Ngôi Hai nhập thể bằng tiếng xin vâng là một hành vi quả cảm của cô thôn nữ làng quê Nagiarét. Hành vi ấy chắc chắn được thực hiện nhờ lòng tin vào người bạn đời, Giuse. Sau khi tìm được Giêsu tại đền Thờ trong chuyến lên Giêrusalem hành hương, cả Maria và Giuse dù chưa hiểu câu nói của Chúa Giêsu: “Sao Cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”, thì cả hai ông bà vẫn tin vào con. Chắc chắn với niềm tin của Maria và Giuse đã góp phần dệt nên một Đấng Cứu độ sau này khi đi rao giảng tin mừng thường đòi hỏi lòng tin nơi cử toạ, nơi những người muốn đón nhận ân phúc của Người. Và chúng ta không quên Người đã từng than thở rằng liệu khi Người trở lại còn thấy niềm tin trên mặt đất này chăng.
Niềm tin và tình yêu là hai yếu tố căn bản gìn giữ sự ổn định và phát triển của xã hội loài người. Đó cũng chính là những yếu tố nền tảng giúp con người phát triển và tồn tại. Khi con người không còn yêu thương nhau thì tai hoạ sẽ ập đến, vì lúc bấy giờ người với người là những con thú dữ chỉ biết tranh giành, ăn thua đủ để sống còn. Khi con người không còn tin tuởng nhau thì sẽ không có chuyện gì tốt đẹp tồn tại. Không có niềm tin thì chẳng có hợp đồng, chẳng có thoả thuận… Không có niềm tin thì chẳng có sự chung sống, và cũng chẳng có bất cứ sự cộng tác nào một cách đúng nghĩa.
Mái trường đầu tiên để con người học được chữ tình và chữ tin đó là gia đình. Gia đình đổ vỡ thì xã hội suy tàn và chính con người sẽ bị tận diệt. Mừng kính lễ thánh gia thất Chúa Giêsu, mẹ Maria và thánh cả Giuse hôm nay, một lần nữa thánh ý Chúa và lời dạy của Hội Thánh nhắc bảo chúng ta cần trân trọng giá trị cao quý của mái ấm gia đình, cần nổ lực bảo vệ các giá trị cao quý của hôn nhân. Một trong những cách thế trân trọng và bảo vệ gia đình đó là hãy biến gia đình chúng ta thành mái trường đích thực, nơi đào tạo tình yêu, nơi huấn luyện niềm tin.
35. Hạnh phúc gia đình - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Qua bài Tin Mừng, bạn thấy Giuse có những nỗi khó khăn nào? Và ông đã có thái độ nào khi giải quyết những khó khăn ấy?
2. Hạnh phúc gia đình tùy thuộc vào ai nhiều nhất? Tại sao?
3. Để gia đình được hạnh phúc, mọi người trong gia đình cần có tinh thần nào?
Suy tư gợi ý:
1. Giuse, người chủ gia đình gương mẫu
Bài Tin Mừng hôm nay chủ yếu nói về thánh Giuse với tư cách chủ của gia đình Nagiarét. Ngài đã phải hết sức cực nhọc vất vả vì gia đình của mình, nhất là vì con trẻ Giêsu, kể từ khi thấy Đức Maria mang thai, một cái thai không phải là của mình, nhưng trước mắt mọi người thì lại chính thức là của mình. Thử đặt mình vào địa vị Giuse, ta sẽ thấy vai trò của ngài không phải dễ dàng.
Đối với con trẻ Giêsu, cho đến lúc lìa đời, thánh nhân luôn luôn phải dùng con mắt đức tin, tin vào lời sứ thần hiện ra trong giấc mơ, để khỏi nghĩ rằng mình đang phải nuôi đứa con của người đàn ông khác. Cuộc đời đâu phải lúc nào cũng phẳng lặng để Giuse có thể yên ổn với niềm tin ấy. «Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ», đức tin của Giuse chắc chắn bị thử thách nhiều phen, nhất là những lúc phải vượt thắng những khó khăn vượt quá sức mình như tình huống của bài Tin Mừng hôm nay.
Từ khi nhận Maria về nhà mình đến giờ, khó khăn cứ dồn dập xảy tới. Chưa yên thân với Maria tại nhà mình, thì có lệnh phải đưa Maria – đang mang thai đã đến thời sinh nở – từ miền Bắc vào miền Nam, từ Nagiarét xứ Galilê đến Bê-lem xứ Giuđê theo lệnh kiểm tra dân số của Hoàng Đế Augústô (x. Lc 2,1-6). Cuộc hành trình mà theo đường chim bay đã dài tới 120km, và đương nhiên phải đi bằng một phương tiện rất thô sơ của những người nghèo thời đó, có thể chỉ là một con ngựa hay con la. Người nghèo đi tới đâu cũng gặp khó khăn, chẳng mấy ai giúp đỡ. Và Maria đã bị buộc phải sinh hạ con trẻ Giêsu – mà Giuse tin là đấng Thiên Sai – trong một chuồng bò lừa. Là chủ gia đình, chắc chắn Giuse không tránh khỏi đau lòng và nhục nhã trước sự nghèo nàn và bất lực của mình! Nhưng nào đã hết! Con trẻ mới sinh chưa được bao lâu, đang chuẩn bị đưa hai mẹ con hồi hương, thì lại có lệnh của thiên thần – cũng lại trong giấc mơ – buộc phải đưa cả hai mẹ con trốn sang Ai-Cập. Chỉ thẳng đường chim bay từ Bê-lem tới biên giới Ai Cập thôi đã phải là 100km. Hành trình lần này chắc chắn vất vả hơn lần trước, vì có thêm con trẻ Giêsu hết sức yếu đuối, dễ nhiễm bệnh. Ở nơi đất khách quê người, Giuse phải tìm cho ra chỗ ở, việc làm tạm thời để nuôi sống cả gia đình, chắc hẳn điều ấy không luôn luôn dễ dàng. Rồi cuối cùng lại phải đưa cả gia đình về Nagiarét. Tại đây Giuse phải bao bọc, che chở và nuôi sống gia đình, đồng thời giáo dục con trẻ Giêsu nên người. Đối với Đức Giêsu, câu «công Cha như núi Thái Sơn» chắc chắn cũng rất đúng khi áp dụng cho cha nuôi của mình.
Tất cả những khó nhọc vất vả ấy đòi hỏi Giuse phải có rất nhiều tình yêu và nhiều đức tính mới có thể vượt qua một cách tốt đẹp. Nếu Giuse và Maria sống đời vợ chồng bình thường, thì những khó nhọc của Giuse sẽ được bù đắp bởi những giây phút hạnh phúc thân mật bên Maria. Nhưng theo niềm tin Công giáo, Giuse bảo vệ cho Maria sống đồng trinh trọn đời, nên tình yêu đầy tính thiên thần và hết sức cao thượng của Giuse đối với Maria phải hết sức lớn lao. Ngài thật là một người đàn ông cao cả, và là một người chủ gia đình hết sức gương mẫu. Thiết tưởng bất kỳ người chủ gia đình nào bắt chước Giuse cũng sẽ làm cho gia đình mình yên vui hạnh phúc.
2. Hạnh phúc gia đình tùy thuộc người chồng rất nhiều
Hạnh phúc gia đình có hay không, và đến mức nào, tùy thuộc vào tất cả mọi thành viên trong gia đình, nhất là vào cách đối xử của hai vợ chồng đối với nhau. Muốn gia đình hạnh phúc, mọi thành viên phải thực hiện những điều Thánh Phaolô đề nghị trong bài đọc 2: «Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng».
Nhưng nếu so sánh giữa hai vợ chồng, thì theo sự thường, nghĩa là trong đa số các trường hợp, hạnh phúc và sự êm ấm trong gia đình tùy thuộc vào người chồng nhiều hơn. Câu nói trên của thánh Phao-lô hàm ẩn những điều kiện trong đó. Muốn vợ phục tùng chồng, thì người trước đó người chồng cần phải tỏ ra yêu thương vợ một cách cụ thể, qua việc đối xử độ lượng, không cay nghiệt với vợ, biết thông cảm, hy sinh, thường xuyên giúp đỡ vợ trong mọi việc, nỗ lực bao bọc che chở vợ mình trong mọi hoàn cảnh. Người vợ có cảm thấy được chồng yêu thương, có cảm phục chồng vì tính quảng đại, cao thượng, bỏ qua mọi lầm lỗi nhỏ nhặt, thì mới dễ dàng phục tùng chồng. Nói chung, tâm lý của mọi người là chỉ tự nguyện phục tùng những ai mình nể phục và yêu mến mà thôi. Người vợ không thoát ra ngoài tâm lý chung ấy. Người chồng không nên lấy quyền làm chồng, hoặc dùng bạo lực hay áp lực kinh tế để ép buộc vợ phải phục tùng mình. Làm như thế thì có khác gì mình đang thực hiện một chế độ độc tài nho nhỏ trong gia đình. Người vợ cảm thấy mình bị áp bức một cách bất công, tất nhiên – như một định luật – là sẽ có ngày nổi loạn, nhất là khi người chồng trở nên yếu thế, không còn khả năng về kinh tế hay thể chất nữa. Lúc đó người chồng không thể chỉ biết trách vợ, mà trước tiên hãy nhận ra lầm lỗi của mình.
Ngược lại, muốn được chồng yêu thương, người vợ cũng cần phải tỏ ra mình là một người dễ thương, nghĩa là nói năng dịu dàng, ngọt ngào, biết chiều ý chồng, biết hy sinh tận tụy phục vụ gia đình, làm tròn mọi bổn phận của mình trong gia đình, nhất là biết tỏ ra nể phục chồng. Mình không dễ thương thì dù là chồng mình cũng chẳng thể thương mình được.
Tâm lý chung của mọi người đàn ông là dễ đem lòng yêu thương những phụ nữ tỏ ra nể phục mình, và tâm lý chung của mọi phụ nữ là dễ yêu thương những người mà mình nể phục. Nhưng làm sao người phụ nữ có thể yêu thương một người mà mình khinh thường vì thấy không có gì đáng nể phục? Và làm sao người đàn ông có thể yêu thương được người vợ không kính nể mình? Do đó, để gia đình hạnh phúc, yếu tố rất quan trọng là người chủ gia đình phải có một điều gì đấy, một đức tính nào đấy khiến người vợ cũng như con cái trong nhà nể phục. Có thể chỉ cần một đức tính nào đó thật nổi bật, không cần nhiều. Nhưng càng nhiều thì càng tốt! Nhưng đức tính không thể thiếu được là lòng độ lượng, bao dung, và sự hy sinh quả cảm.
Gia đình thánh gia rất dễ có hạnh phúc, một phần rất lớn là vì Giuse, người chủ gia đình, có rất nhiều đức tính đáng để Maria kính phục. Có thể nói bản lĩnh, cách hành xử cao thượng, và sự quảng đại trong yêu thương của người đàn ông là nền tảng và là yếu tố đầu tiên cần thiết cho hạnh phúc của cả gia đình. Thiếu nó, gia đình khó có hạnh phúc.
3. Quên mình để yêu thương hữu hiệu, là bí quyết gây hạnh phúc gia đình
Một trong những trở ngại lớn nhất của hạnh phúc gia đình là cái tôi và ý riêng của mỗi thành viên. Nói chung, ai cũng coi cái tôi và ý riêng của mình là quan trọng, và tỏ ra rất bực mình khó chịu khi thấy cái tôi và ý muốn của mình bị coi thường, hoặc không được ai để ý tới. Ai cũng bị cái tôi và ý riêng của mình thu hút đến độ quên đi cái tôi và ý muốn của người khác vốn cũng thu hút hết tâm trí của họ. Ai cũng muốn cái tôi và ý kiến của mình được mọi người quan tâm chú ý, nhưng chẳng ai muốn quan tâm đến cái tôi và ý kiến của kẻ khác. Chính vì thế, chẳng ai được thỏa mãn, cuộc sống chung do đó chẳng hạnh phúc, thậm chí biến thành hỏa ngục. Muốn làm cho người khác hạnh phúc, nghĩa là làm cho họ được thỏa mãn vì cảm thấy cái tôi và ý kiến của họ được tôn trọng, thì chính tôi phải quên cái tôi và ý riêng của mình đi để đặt nặng cái tôi và ý kiến của họ lên. Như thế họ cảm thấy hạnh phúc khi ở bên cạnh tôi. Nếu người ấy cũng biết làm như thế đối với tôi, thì tôi cũng cảm thấy hạnh phúc, và thế là cả hai đều hạnh phúc. Nhưng cách tốt nhất và bảo đảm nhất để được hạnh phúc là tôi lấy hạnh phúc của người tôi thương làm hạnh phúc của mình. Như thế tôi sẽ hạnh phúc khi làm cho họ được hạnh phúc.
Hạnh phúc gia đình luôn luôn đòi hỏi phải có một ai đó trong nhà biết quên mình, biết quên cái tôi của mình đi, để quan trọng hóa cái tôi của người khác lên. Thái độ ấy như một cái ngòi khởi động, làm cho những người khác trong nhà cũng hành động như vậy, và nhờ đó, hạnh phúc gia đình mới bùng lên. Thái độ khởi động ấy phải được lập lại hàng ngày hàng giờ trong đời sống gia đình. Ai sẽ khởi sự thái độ quan trọng ấy nếu không phải là chính bạn, là người ý thức được bí quyết hạnh phúc đó, bất kể bạn là vợ hay chồng? Thật vô phúc cho gia đình nào không có ai tự nguyện làm cái ngòi khởi động tình yêu thương ấy hàng ngày trong cuộc sống!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã chọn thánh Giuse là người đứng đầu gia đình Nagiarét với những đức tính rất cần thiết của một người làm chủ gia đình để gia đình ấy được hạnh phúc. Xin cho tất cả những người làm chủ trong các gia đình Ki-tô hữu biết noi gương bắt chước Ngài, biết coi nhẹ cái tôi của mình để thường xuyên quan tâm đến hạnh phúc của mọi thành viên khác trong gia đình. Xin cho những người làm vợ và làm mẹ noi gương Đức Maria biết luôn tỏ ra dễ thương, dịu dàng, và biết hy sinh ý riêng của mình cho hạnh phúc gia đình. Và xin cho mọi con cái trong gia đình Ki-tô hữu biết noi gương Đức Giêsu luôn kính trọng và vâng phục cha mẹ mình. Amen
36. Gia đình hiến dâng cho Thiên Chúa
Loài người được Thiên Chúa dựng nên để hưởng hạnh phúc trong Ngài. Vì vậy, mỗi người, mỗi gia đình muốn được hạnh phúc và bình an phải qui hướng hoàn toàn về Thiên Chúa là cùng đích tối hậu của mình. Gia đình Thánh Thất là là mẫu gương cho tất cả mọi người, mọi gia đình trong thế gian này. Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse luôn luôn tin tưởng và tuân phục ý Chúa, dâng hiến cả cuộc đời mình cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
1. Maria dâng hiến cuộc đời mình cho chương trình của Thiên Chúa
Từ khi Ðức Maria nhận lời Thiên Thần truyền tin làm Mẹ Đấng Cứu Thế thì cả cuộc đời Mẹ thuộc về Chúa và phục vụ công trình cứu độ của Ngài. Mẹ chấp nhận mọi hoàn cảnh vui buồn sướng khổ Chúa gởi đến cho mình và phó thác cho Chúa tất cả. Dù thánh Giuse chưa đón Mẹ về nhà, Mẹ vẫn không ngại mang thai Đấng Cứu Thế. Mẹ hoàn toàn tin cậy ở Chúa. Mẹ đi chăm sóc cho bà Ysave suốt 3 tháng. Lúc trở về thì thánh Giuse và mọi người thấy rõ Mẹ đang mang thai nhưng Mẹ không vì thế mà tiết lộ bí mật. Mẹ phó thác cho Chúa lo liệu tất cả. Ngay khi Giuse quyết định bỏ đi thì Chúa can thiệp, sai Thiên Thần báo mộng cho thánh Giuse và ngài đã mau mắn đón Maria về nhà mình. Khi những ngày sinh nở sắp đến, Mẹ cũng tín thác và để Chúa lo liệu. Dù phải sinh con trong hang bò lừa, Mẹ vẫn không trách Chúa nhưng chấp nhận sự xếp đặt của Chúa. Mẹ dâng cho Chúa tất cả. Đặc biệt nhất là khi đứng dưới chân thánh giá, dù đau đớn vô cùng trước cảnh con mình bị người ta hành hạ và sỉ nhục cho đến chết, Mẹ vẫn không quỵ ngã nhưng hướng nhìn về Con, cùng chịu khổ với Con và cùng Con hoàn thành ý Chúa Cha. Mẹ là mẫu gương hoàn hảo về đời sống dâng hiến cho Chúa trước những thử thách đau thương vì mục đích cứu độ loài người.
2. Thánh Giuse vâng phục ý Chúa
Một mẫu gương dâng hiến nữa là thánh cả Giuse. Khi Thiên Thần báo mộng thì Giuse mau mắn vâng theo và từ đó, ngài luôn chu toàn bổn phận của một người gia trưởng. Ngài luôn vâng phục thánh ý Chúa, không chần chừ, không phân vân về sứ mạng Chúa giao. Dù nghèo, thánh Giuse vẫn không từ nan bất cứ điều gì với Chúa. Việc đưa Đức Maria về Bêlem khai nhân khẩu và dưỡng nuôi Đấng Cứu Thế dựa vào sức lao động của mình là một vất vả lớn lao. Thánh Giuse vẫn không than phiền gì về nhiệm vụ gánh vác gia đình này. Ngài làm mọi việc cách thầm lặng nhưng mau mắn theo sự hướng dẫn của thiên thần. Khi cuộc sống ở Bêlem ổn định đôi chút thì một đêm nọ, thiên thần bảo chỗi dậy đem hài nhi và Maria trốn sang Aicập. Thánh Giuse liền đi ngay trong đêm. Sang Ai cập, Giuse lại phải vất vả tìm việc làm kiếm sống cho gia đình của Chúa. Chưa được bao lâu thì Chúa gọi trở về Nazaret. Chắc chắn Thánh Giuse phải rất vất vả lo từng bữa ăn và những nhu cầu thiết yếu cho gia đình. Tuy nhiên, khi thánh Giuse chu toàn nhiệm vụ chăm sóc Đấng Cứu Thế đến trưởng thành thì Chúa muốn ngài chấm dứt cuộc sống trần gian. Thánh Giuse quả là mẫu gương lao động phục vụ tuyệt vời trong âm thầm khiêm tốn.
3. Đức Giêsu, của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa và nhân loại:
Mẫu gương dâng hiến hoàn hảo nhất là Đức Giêsu bỏ trời xuống thế làm người. Ngài là Thiên Chúa nhưng tự nguyện trút bỏ vinh quang của mình, trở nên giống phàm nhân, vâng lời cho đến chết trên thánh giá. Cả cuộc đời Ngài không lúc nào ngơi vâng phục và làm theo ý Thiên Chúa. Từ việc chấp nhận sinh ra trong máng cỏ, chịu bắt bớ từ nhỏ, sống trong cảnh nghèo khổ âm thầm, khiêm hạ ở làng Nazareth. Lớn lên, Ngài đi giảng dạy khắp nơi trong lãnh thổ Do thái và được dân chúng hồ hởi đón nhận, nhưng cũng có những người cứng lòng, tìm cách làm khổ Chúa. Cuối cùng, vì yêu thương nhân loại, Ngài đã nhận lấy cái chết hy sinh trên thánh giá. Dù mọi người chưa hiểu thấu nỗi khổ và sự hy sinh cao cả của Ngài nhưng vì tình yêu Chúa và nhân loại, Ngài đã dâng mình làm của lễ toàn thiêu trên thánh giá. Tất cả là vì yêu thương chúng ta.
Nhìn tấm gương hiến dâng của gia đình thánh ở Nazaret, chúng ta thấy mình quá thiếu sót trong việc đáp trả ơn cứu độ của Chúa, còn thờ ơ và kém lòng tin mến Chúa. Phải chi ngay từ bây giờ con biết sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan thử thách cũng như những an ủi Chúa gởi tới. Chúa là Cha chúng con sẽ không để chúng con thiệt thòi và hư mất nếu chúng con biết nghe theo lời Ngài chỉ dạy.
37. Tình yêu và lòng kính trọng trong gia đình
Hơn hết tất cả, lễ Giáng sinh thật sự là một lễ dành cho gia đình. Và trong khi tâm trí chúng ta còn đang hướng về Bêlem và Thánh gia, thì các bài đọc Phụng vụ hôm nay lại nhắc đến nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống gia đình. Nói đến Thánh Gia, có lẽ là nói đến một cái gì xa vời chăng, vì gia đình chúng ta đây có lẽ còn quá cách xa gia đình lý tưởng này.
Chúng ta đừng quên rằng Maria và Giuse, cũng như các bậc cha mẹ khác, đều phải đương đầu đối diện với biết bao vấn đề khó khăn. Bóng đen của thập giá đã phủ xuống chiếc nôi ở Bêlem, đã tràn vào trái tim Mẹ Maria khi nghe lời tiên tri lạnh lùng của Simêon, nào là Con trẻ sẽ nên cớ vấp phạm của nhiều người trong Israel, nào là trái tim của Mẹ sẽ bị lưỡi gươm sắc đâm thâu qua. Ngày từ đầu con trẻ mà Maria và Giuse hết lòng yêu thương trìu mến lại là một huyền nhiệm to lớn, và khi con trẻ trưởng thành dưới sự bao bọc của mình, Maria và Giuse chỉ biết hết lòng phó thác tín nhiệm vào Thiên Chúa mà thôi. Chúng ta cũng phải làm như thế thôi. Gia đình là một định chế lâu đời nhất của nhân loại, và gia đình đã tồn tại đến ngày nay là vì nó được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Chúng ta có thể không có khả năng làm xoay chuyển thế giới nhưng ảnh hưởng của chúng ta vẫn có thể vươn ra bao bọc lấy gia đình tổ ấm chúng ta.
Cũng giống như bất cứ kế hoạch đáng giá nào khác, cuộc sống gia đình muốn thành công mỹ mãn phải cần đầu tư nhiều thời giờ và sức mạnh. Gia đình hạnh phúc không tự dưng mà đến. Tình yêu, hoà điệu, kính trọng lẫn nhau, vốn là những yếu tố cơ bản của một gia đình hạnh phúc, phải được chứng minh bằng hành động cụ thể. Câu Latinh “Lời nói bay qua, gương bày lôi kéo” (Verba volant, exampla trahunt). Gương sáng là những lời giảng dạy hùng hồn nhất. Những thái độ yêu thương ân cần chăm sóc, vốn rất cần trong những buổi ban đầu, cũng có nhiều ảnh hưởng sâu đậm và dài lâu. Trong cuộs sống sau này, con cái sẽ trở nên những gì mà chúng được nhào nặn, uốn nắn, được hấp thụ, và mội khi chúng học được cách cho đi và nhận lãnh, thì đồng thời chúng cũng sẽ phát triển được sự hiểu biết tha nhân một cách trưởng thành hơn.
Đây là cơ hội tốt cho những người mới trưởng thành suy nghĩ lại về tình yêu và lòng kính trọng mà họ cần biểu lộ với cha mẹ mình, vì đối xử tử tế với cha mẹ là một việc quí giá trước nhan Thiên Chúa. Buồn thay, về phương diện này, giới trẻ thường không sống phù hợp với tinh thần phúc âm cho lắm.
Cha mẹ ngày nay thường hay bị hoang mang bối rối không biết cái gì đang xẩy ra, khi thấy con cái đang trưởng thành lại hay diễn tả những giá trị cũng như niềm tin khác với thế hệ trước. Cũng cần phải tỏ lòng tôn kính đặc biệt với ông bà nội ngoại trong quãng đời về chiều, và đừng để các ngài kết thúc cuộc đời trong nỗi cô đơn dày vò. Hơn bất cứ gì khác, điều đáng nói nhất là cần sống bình an trong vòng tay êm ấm của gia đình. Đã đành một gia đình được chu cấp đầy đủ, và một mức sống tươm tất là điều quan trọng nhưng chúng ta cũng cần nhớ rằng nếu như gia đình không duy trì cầu nguyện hướng về cuộc sống thiêng liêng, thì mọi chuyện khác cũng nhất định sẽ trục trặc mà thôi.
Đời sống gia đình không bao giờ trôi chảy êm ả mãi, ngày nay còn có biết bao khó khăn phải nỗ lực phấn đấu hơn xưa nhiều lắm. Nhưng đó là những nguyên liệu chúng ta sử dụng để hình thành nên đời sống thánh thiện của chính mình. Nhân dịp Lễ Thánh Gia, chúng ta cầu xin Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse giúp gia đình chúng ta biết sống đẹp lòng Chúa hầu đem lại một tinh thần mới cho đơn vị cơ bản nầy của xã hội loài người.
38. Tầm quan trọng của đời sống gia đình
Giáo hội thiết lập Lễ Thánh gia để chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình, và cái gương mẫu của gia đình thánh. Chính Chúa Giêsu đã chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình qua cuộc đời của Người tại thế. Chúa chỉ dành có ba mươi năm - nhiều hơn 10 lần - sống trong trong bầu khí gia đình, có Mẹ có Cha, để thu thân luyện đức. Theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa, trinh nữ Maria được chọn làm mẹ Đấng cứu thế. Còn thánh Giuse được chọn làm cha nuôi để săn sóc cho gia đình thánh. Chúa Giêsu bắt đầu sống trong gia đình theo nhân tính của Người như mỗi người để giúp ta dễ liên kết với Người.
Gia đình đời nay lớn hay nhỏ là đá tảng của đời sống quốc gia. Trong quá khứ, nhiều quốc gia đã muốn tiêu diệt đơn vị gia đình, nhưng thất bại. Sống và lớn lên không có gia đình, người ta có thể mất đi cái thăng bằng về đời sống tâm linh và tình cảm. Khi gia đình đổ vỡ, những căn tính về phái tính về gia đình của con cái sẽ bị thuyên giảm. Nói theo phương diện đạo đức thì gia đình là một đơn vị tôn giáo đầu tiên. Chính trong bầu khí an toàn và cái khung cảnh ấm cúng của gia đình mà những giá trị nhân bản, luân lý và đạo giáo được truyền đạt xuống cho con cháu và con cháu học được những việc làm đạo hạnh của ông bà cha mẹ.
Thiên Chúa biết rõ trước khi Người tạo dựng A-đam và Ê-va. Sách Sáng Thế Sử ghi lại: Thiên Chúa tác thành con người theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Thiên Chúa hài lòng với công việc Người tạo dựng, chúc lành cho người nam và người nữ, và phán: Hãy sinh sản cho đầy mặt đất, và khắc phục đất đai (St 1,28). Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ để làm thành gia đình, có cha có mẹ và con cái để yêu thương săn sóc lẫn nhau. Sợi dây ràng buộc gia đình lại với nhau là tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Chúa Giêsu mặc lấy thân xác loài người và sinh ra giữa nhân loại. Chính tình yêu đã khiến trinh nữ Maria chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế. Chính tình yêu đã khiến thánh Giuse đưa Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt 1,25).. Và cũng chính tình yêu đã đưa gia đình thánh trở về Na-za-rét. Ở đó thánh Giuse cung phụng cho gia đình thánh như có thể bằng cách làm nghề thợ mộc. Giáo hội thánh hoá đời sống gia đình qua Bí tích hôn phối. Giáo hội coi Bí tích hôn phối là thánh thiện vì đời sống nhân loại mong được thánh thiện nếu muốn được phản ảnh Gia đình thánh. Gia đình thánh nêu ra tấm gương mà mỗi gia đình tốt phải noi theo. Gia đình Na-gia-rét được gọi là thánh, không phải chỉ tại Chúa Giêsu là thánh, mà còn tại Gia đình thánh đã đem ra thực hành những lời khuyên dạy khôn ngoan mà người Do thái đã tích lũy cho đời sống gia đình hạnh phúc. Đó là điều mà bài sách Huấn ca hôm nay dạy ta: Ai vâng lệnh Chúa, sẽ làm cho mẹ an lòng (Hc 3,6). Điều đó có nghĩa là người mẹ sẽ được hạnh phúc khi con mình vâng lệnh Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan.
Giáo hội trình bày Gia đình Na-gia-rét là Gia đình lý tưởng cũng ý thức được những khiếm khuyết mà có thể làm ly tán bất cứ đời sống gia đình nhân loại nào. Đó là lý do tại sao trong thư gửi tín hữu Co-lo-sê thánh Phaolô khuyên họ làm sao sống tinh thần Ki-tô giáo. Thánh nhân khuyên họ hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và hãy tha thứ cho nhau (Cl 3,12-13). Trong gia đình, các phần tử được kêu gọi mang trách nhiệm cho nhau. Thành phần tàn tật, thành phần đổ vỡ trong gia đình phải được coi là thành phần trong gia đình. Và thành phần quá cố trong gia đình cũng phải nằm trong lời cầu nguyện của gia đình.
Gia đình thánh mà Giáo hội mừng lễ hôm nay phải là mẫu mực cho mọi gia đình noi theo. Mỗi phần tử trong gia đình có thể bắt chước được những gì nơi Chúa Hài nhi, nơi mẹ Mara, nơi thánh Giuse? Và ta cũng cầu nguyện cho sự thành đạt và hạnh phúc cho đời sống gia đình.
39. Thánh hóa gia đình – AM Trần Bình An
Tổ chức Kỷ lục Việt Nam được sự hỗ trợ của Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam vừa qua đã công nhận kỷ lục cặp vợ chồng cao tuổi nhất Việt Nam thuộc về vợ chồng cụ Cao Viễn (SN 1908) và Vũ Thị Hai (SN 1914) ở làng Phượng Lịch, xóm Hai, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, Nghệ An.
Cụ Cao Viễn chia sẻ bí quyết sống lâu của hai cụ là sống thật lạc quan và vui vẻ. Dù đều đã bước qua tuổi 100 nhưng hai cụ vẫn còn rất khỏe mạnh và minh mẫn. Cụ ông Cao Viễn vẫn còn rất lanh lợi. Hai cụ vẫn có thể đọc báo, xem ti vi, làm những công việc trong gia đình, nuôi dạy các cháu, chắt. Cụ ông vẫn viết nhật ký, làm thơ, viết chữ với những nét rõ ràng khiến nhiều người trẻ phải bái phục.
Vừa mở chiếc ti vi nhỏ của gia đình cụ, ông Cao Viễn vừa tâm sự: “Tôi rất thích xem các chương trình thời sự, tin tức và đọc báo. Thấy chúng tôi sống “lâu quá”, người ta cứ đồn thổi rằng chúng tôi có bí quyết, hay thuốc gia truyền gì. Nhưng điều đó là hoàn toàn không có. Chúng tôi cũng chỉ ăn uống bình thường, thậm chí có thời gian còn không có cháo mà ăn ấy chứ”, nói đoạn cụ ông Cao Viễn nhìn sang vợ mình cười hạnh phúc.
Hai cụ kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện từ nạn đói 1945. Lúc đó các con còn nhỏ, hai vợ chồng cụ phải chia bát cháo ít ỏi cho các con ăn cầm hơi. Rồi đến những ngày đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh, lúc cụ ông lên đường nhập ngũ, rồi lần lượt các con cũng ra chiến trận. Trong trí nhớ của hai cụ, lịch sử vẫn còn vẹn nguyên, không hề bị xáo trộn.
Lấy nhau sinh được 8 người con (3 trai, 5 gái), hiện hai cụ đã có 34 cháu nội, ngoại. Cùng nhau bước qua thế kỷ thứ 2, đôi vợ chồng già vẫn vẹn nguyên những hạnh phúc như thuở ban đầu.“Ngày trước có những năm đến cháo không có mà ăn gia đình phải đào cả củ chuối, nhặt từng cái rễ khoai mà ăn chứ nói đến thuốc thang hay bí quyết gì để mà sống được lâu. Nhưng với vợ chồng chúng tôi, khi nào gia đình cũng phải vui vẻ lạc quan, sống nhân đức, hòa thuận. Khó khăn thì phải cùng nhau khắc phục chứ không được cãi cọ hay mâu thuẫn. Như vậy mình mới sống được mà không đau ốm bệnh tật và sống được lâu với con cháu” - cụ bà Vũ Thị Hai chia sẻ về cuộc sống hạnh phúc của gia đình vợ chồng mình suốt 2 thế kỷ qua.
Hiện tại con cháu hai cụ đều đã ra ở riêng, thỉnh thoảng mới đến chăm sóc được bố mẹ. Vì vậy mọi sinh hoạt thường nhật từ bữa cơm, giấc ngủ hai vợ chồng cụ đều tự lo liệu. Tất cả mọi công việc hai cụ đều cùng nhau làm, từ xem ti vi, dọn dẹp nhà cửa đến nấu một nồi cháo. Cũng vì cuộc sống viên mãn, trường thọ của hai cụ mà người dân trong vùng thường xuyên nhờ hai cụ làm người chúc phúc lành cho những cặp vợ chồng mới cưới. (Nguyễn Tình - Lany Nguyễn, Dân Trí, Cặp vợ chồng cao tuổi nhất Việt Nam chia sẻ bí quyết trường thọ)
Hôm nay, Hội Thánh long trọng mừng Lễ Thánh Gia, khuôn mẫu lý tưởng cho mọi gia đình sống hạnh phúc, bình an và vững bền. Khi tất cả thành viên gia đình đều quy hướng về Đức Giêsu, luôn là trọng tâm của mỗi người, thì cuộc sống gia đình mãi ổn định và phát triển.
Sống cùng
Mẹ Maria được sứ thần Gabriel loan báo vinh dự được làm Mẹ Đấng Cứu Thế, cũng như Người Công Chính, Thánh Giuse được báo mộng đón nhận bổn phận cao cả làm cha nuôi Đức Giêsu. Cả hai đấng cùng nhau đồng tâm thực hiện Thánh Ý Chúa trao phó, mặc bao gian nan, thử thách. Cùng nhau lận đận về quê Bêlem, khi Mẹ Maria sắp đến ngày lâm bồn. Chật vật, khó khăn, thiếu thốn khi sinh nở. Trốn tránh, tản cư, vượt biên, khi vua Hêrôđê tàn sát con trai đầu lòng. Thánh Gia vẫn bền vững trong bao cơn sóng gió, vì Thánh Giuse và Mẹ Maria luôn vâng theo Thánh Ý hướng dẫn, và luôn có Chúa ở cùng.
Bao lâu, có Chúa cùng đồng hành, thì gia đình vượt qua tất cả mọi nghịch cảnh, mọi thách đố, kể cả bệnh tật, tai ương, hoạn nạn. Có Chúa sống cùng trong tâm hồn, trong lời nói, trong hành xử, trong việc làm, mọi thành viên gia đình thảy đều đồng cảm, đồng tâm, đồng hành với nhau, như Thánh Phaolô khuyên sống hòa đồng, hòa hợp cùng nhau: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12, 15).
Sống cho
“Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” (Lc 9, 23) Để có Chúa hiện diện trong tâm hồn, thì tiên quyết phải xả kỷ, từ bỏ bản ngã, cái tôi hẹp hòi, độc đoán bất nhân, bất nghĩa, bất khoan dung, để sống cho người, cho tha nhân. “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” Người Công Chính không so đo, tự ái, vị kỷ, không bối rối vương vấn, không sống theo ý riêng, quyết tâm vâng theo Thánh Ý Chúa, nhiệt thành, hăng say, cộng tác, phục vụ đắc lực chương trình Cứu Độ.
Mẹ khiêm hạ, tự xóa mình đi, sẵn sàng vâng theo Thánh Ý, khi thưa sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi, như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 38) Mẹ hoàn toàn phó thác, sống cho Ơn Gọi.
Còn Đức Giêsu gặp lại cha mẹ sau ba ngày ở lại đền thờ giải đáp Kinh Thánh, cũng luôn tuân phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. “Người đi xuống cùng vời cha mẹ, trở về Nadareth và hằng vâng phục các ngài. (Lc 2, 51) Thánh Phaolô cũng dạy dỗ con cháu biết hiếu thảo cha mẹ: “Con cháu phải học cho biết ăn ở hiếu thảo đối với gia đình mình, và đền ơn đáp nghĩa các bậc sinh thành. Đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa.” (1Tm 5, 4).
Sống vì
Ông bà cụ Cao Viễn kể trên đã sống đúng theo truyền thống dân tộc: "Sống vì mồ mả, không sống vì cả bát cơm." Sống không phải bon chen, giành giựt, gian ác, làm giàu, mà nghĩ đến khi qua đời, làm sao mồ yên mả đẹp, để lo tu thân tích đức.Nên dù khó khăn, đói rách, các cụ vẫn vui vẻ chia sẻ, phục vụ lẫn nhau, con cháu và xóm giềng, mong để lại phúc đức cho con cháu hưởng nhờ. Người Kitô hữu có mục đích sống còn linh thiêng, cao quý hơn nữa. Đó là sống vì đạo. Trở nên chứng nhân của Đức Giêsu, giữa xã hội xô bồ tôn thờ bái vật.
Thánh Phaolô vạch rõ mục đích sống của Kitô hữu: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.Vì Đức Kitô đã chết và sống lại, chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,7-9).
Me Maria luôn sống vì Con Mẹ, đồng cảm, đồng hành cùng Người suốt 33 năm, âm thầm đau khổ trước thái độ chống báng và ám hại của thần quyền lẫn thế quyền đối với Con Mẹ, như ông Simêôn đã tiên tri: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà.” (Lc 2, 5)
“Phần thứ nhất của tiệc cưới Cana là yêu thương và hưởng thụ, nhưng giữa tiệc cưới chỉ còn nước! Đôi tân hôn mới ý thức rằng: phương tiện mình hạn hẹp, tình yêu mình lạnh nhạt!
Phần thứ hai của tiệc cưới Cana là khám phá ra kho tàng đạo đức chưa được sử dụng, rượu sau ngon hơn rượu trước: Một tình yêu chân thực, một quả tim biết thắng mình, quên mình, trung thành và hiến dâng không đòi lui.” (Đường Hy Vọng, số 464)
Lạy Chúa Giêsu, xin Người dạy chúng con biết sống cùng nhau, chia sẻ ngọt bùi cay đắng, biết sống cho đi, phục vụ tha nhân, cũng như biết sống vì Chúa, làm chứng nhân Tình Yêu. Kính xin Người ban Đức Chúa Thánh Thần xuống cho chúng con, biết can đảm sống theo Lời Chúa.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ cầu bầu, chỉ dạy chúng con noi gương Mẹ, luôn sống bên Chúa, luôn vâng theo Thánh Ý Chúa, cùng luôn chấp nhận đau thương vì Chúa. Amen.
40. Gia đình, một Giáo Hội thu nhỏ
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Hôm nay Giáo Hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Gia: Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, một gia đình kiểu mẫu cho mọi gia đình. Vậy theo gương Thánh Gia, mỗi gia đình Công Giáo phải thế nào?
Tình yêu không phải là một xa xỉ phẩm, nó là một thứ tối cần để nâng đỡ và xây dựng cuộc sống. Tình yêu làm nên hạnh phúc. Vì thế, đi tìm và đón nhận tình yêu không phải là việc không quan trọng. Nhưng trước khi đi tìm tình yêu ở nơi khác, hãy tìm và hun đúc tình yêu nơi chính gia đình mình.
Tình yêu gia đình là tình yêu tự nhiên nhất, sớm sủa nhất và lành mạnh nhất. Gia đình phải là một tổ ấm tình yêu, để rồi lại trở thành nền tảng cho mọi thứ tình yêu khác. Tuy nhiên, tình yêu nào mà lại chẳng có hy sinh. Tình yêu thiếu hy sinh là tình yêu dỏm. Hy sinh thiếu tình yêu là hy sinh thừa. Tình yêu trong tổ ấm gia đình không phải là một luật trừ, cho dù gia đình gồm toàn những người rất thánh, cũng khó tránh khỏi những chuyện làm buồn lòng nhau. Vì thế, điều quan trọng không phải là tránh được hết mọi chuyện không vui, nhưng là biết lợi dụng tất cả những vui buồn để dắt nhau về cõi phúc. Nếu biết hiểu như thế, nhất là nếu biết thực hiện như thế, thì gia đình sẽ vừa là tổ ấm tình yêu, vừa là nơi đặt nền cho mọi tình thương, và cũng là lò luyện hy sinh.
Mỗi gia đình là một Giáo Hội, một Giáo Hội rút gọn. Đã là một Giáo Hội rút gọn thì mỗi gia đình phải lập lại hình ảnh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi hiệp nhất, yêu dấu và chia sẻ mọi sự với nhau thế nào, thì mỗi gia đình cũng phải đoàn kết trong tình yêu thương lẫn nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái như vậy. Mỗi người không còn ích kỷ, tìm lợi riêng cho mình, nhưng quên mình để làm sao cho những người khác trong gia đình được nâng đỡ, được hạnh phúc vui tươi trong bầu khí yêu thương đó.
Nếu mọi người trong gia đình biết sống như thế thì gia đình thật là một Giáo Hội nhỏ, sống trong tình thương, và dâng lên Thiên Chúa những của lễ thiêng liêng là những hoạt động hàng ngày của gia đình. Như thế, dù chúng ta ở đâu, gần nhà thờ hay xa nhà thờ, gia đình chúng ta vẫn là một đền thờ tốt đẹp quí báu.
Một gia đình sống theo những điều trên đây sẽ là một trường rất tốt để dạy đức tin cho con cái. Có nhiều người trong gia đình chỉ lo làm ăn và nuôi dưỡng phần tự nhiên cho con cái. Điều đó tốt thôi, nhưng nếu xao lãng không quan tâm một chút nào đến việc dạy dỗ đức tin cho con cái thì là một thiếu sót lớn. Đàng khác, có nhiều gia đình cũng quan tâm đến việc ấy nhưng lại ỷ vào người khác như các cha, các tu sĩ, các giáo lý viên, các hội đoàn. Như vậy cũng không được. Đã đến lúc những người làm cha mẹ phải ý thức: công việc đó trước tiên là công việc của mình và chính mình phải chịu trách nhiệm về đức tin của con cái trước mặt Thiên Chúa sau này, như trong Hiến Chế về Giáo Hội, Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã nói: “Những người đầu tiên phải lấy lời nói và gương sáng mà dạy dỗ đức tin cho con cái chính là cha mẹ”.
Thực vậy, gia đình là trường dạy đức tin cho con cái tốt nhất, vì không phải chỉ dạy một tuần một hai giờ mà dạy hằng ngày, luôn luôn. Ước chi các bậc cha mẹ đều bắt chước thánh Giuse và Đức Mẹ như Tin Mừng nói: “Các ngài luôn vâng giữ lời Chúa và siêng năng dự các lễ nghi như luật dạy”. Nếu các người làm cha mẹ có lòng tin vững chắc, biết truyền lại cho con cái niềm tin của mình, bằng lời dạy dỗ, bằng gương sáng trong cách ăn ở hằng ngày, thì con cái chắc chắn sẽ theo đường lối ấy. Ước chi mỗi gia đình Công giáo đều hiểu và sống như vậy.
41. Suy Niệm của Lm. Jos. Đăng
Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan, ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Bà và Thánh Giuse, một gia đình gương mẫu cho mọi gia đình trên thế giới. Bài Tin Mừng cho chúng ta một hình ảnh của đời sống gia đình, dù đó là gia đình Thánh. Các Ngài đã chu toàn lề luật Do Thái lúc đó: "Đủ ngày thanh tẩy theo luật Môisen, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa... và cũng để dâng lễ vật cho Chúa". Chính tại nơi đó Thánh Thần Chúa đã tỏ cho ông Simêon và và Anna về ơn Cứu Độ của Thiên Chúa đối với dân Người. Cũng tại nơi đây, được ơn linh ứng, ông già Simêon đã tiên báo về sự tham gia của Đức Maria trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sau này.
Nhìn vào xã hội ngày nay, nhiều nền tảng gia đình lung lay, rối loạn và khủng hoảng. Đây chính là lúc mỗi người tín hữu Kitô phải nhìn lại mình trong ơn gọi gia đình qua gương mẫu của gia đình Thánh Gia Thất mà củng cố gia đình trong đức tin và cuộc sống. Một trong những điều căn bản nơi hạnh phúc gia đình mà nhiều khi người ta quên lãng, tức mỗi thành viên gia đình biết trao tặng tình yêu thương và thời giờ cho nhau. Chúng ta thường mong đợi người khác quan tâm đến những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, nhưng chính chúng ta lại ít khi nhớ tới hoặc để ý tới nhu cầu của những người thân yêu của mình. Bởi vì tình yêu thương không phải là cho đi cái gì, mà chính là cho đi bản thân mình. Nhưng không thể nói được là chúng ta đã cho đi chính mình hay tận hiến nếu chúng ta còn là nô lệ "cái tôi" ích kỷ nơi chính bản thân mình. Bao lâu chúng ta biết biến đổi bản thân mình để chấp nhận một cuộc sống yêu thương nơi tương quan vợ chồng, cha mẹ với con cái, chúng ta sẽ thể hiện một sự tận hiến của tình yêu thương.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hằng nhắc nhở chúng ta về sự thánh thiêng của gia đình khi ngài gọi gia đình là: "Nền tảng của Giáo Hội". Còn Đức Phaolô VI gọi gia đình là: "Cung Thánh của Giáo Hội", là "trường học đầu tiên của con cái, mà cha mẹ là thầy dạy". Thật vậy, gia đình là Giáo Hội đầu tiên, nơi tình yêu chung thủy của hai vợ chồng thể hiện như dấu chỉ tình yêu chung thủy giữa Chúa Kitô và Giáo Hội: gia đình nơi trẻ em được Rửa tội qua đức tin của cha mẹ, ông bà. Gia đình còn là trường học đầu tiên, nơi bàn ăn gia đình, các em được học hiểu ý nghĩa của Tiệc Thánh Thể trước khi các em được Rước lễ lần đầu; cũng nơi đó mỗi thành viên gia đình tha thứ cho nhau những lầm lỗi, để cho con cái học hiểu hiệu quả nơi nhiệm tích Hòa giải. Gia đình còn là nơi đặc biệt sống lời Chúa Giêsu đã phán: "Đâu có hai ba người hợp nhau cầu nguyện nhân danh Thầy, Thầy ở giữa họ" (Mt 18,20)
Như vậy, trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, khi mỗi người chúng ta biết thành tâm tìm kiếm Chúa và phụng sự Ngài, chắc chắn mỗi gia đình sẽ thể hiện được ơn gọi sống Thánh giữa đời của mình, tìm được bình an hạnh phúc cho nhau ở trần gian và đạt được hạnh phúc vĩnh cửu quê trời. Vì Thiên Chúa luôn là chìa khóa của hạnh phúc nơi cuộc sống gia đình.
Ước mong mỗi bậc cha mẹ luôn là tấm gương của tình yêu chân thành, tình yêu vô vị lợi, của hy sinh, chấp nhận, tha thứ và quảng đại trong cuộc sống hôn nhân. Vì con cái chỉ có thể lớn lên, khôn ngoan, có ơn nghĩa cùng Thiên Chúa nếu như chúng cảm nhận một bầu khí thánh thiện đạo đức nơi cha mẹ, như gương lành của Đức Maria và Thánh Giuse khi xưa.
Ước mong con cái ngày nay biết nhìn gương Chúa Giêsu đã vâng lời khiêm hạ với Đức Mẹ và Thánh Giuse suốt 30 năm trường dưới mái nhà Nazareth để trở nên một tấm gương hiếu thảo cho mọi người con biết thực thi lệnh truyền của Thiên Chúa: Vâng lời và yêu mến cha mẹ. Vì niềm vui và hạnh phúc của cha mẹ cũng là nơi con cái mình.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhóm lên trong mỗi phần tử trong gia đình ngọn lửa tình yêu Chúa để mỗi người biết sống trọn vẹn ơn gọi của mình, để gia đình chúng ta có hạnh phúc thật như gia đình Nazareth xưa. Amen
42. Bếp lửa
Lễ Giáng sinh là lễ của ánh sáng. Đêm Noel, không những trong ngôi thánh đường này, mà khắp nơi trên thế giới, ánh sáng rực rỡ hơn mọi ngày. Không phải chỉ là ánh sáng vật chất bên ngoài, nhưng chính là ánh sáng chân thật của Đấng Cứu thế bừng lên trong lòng thế giới. Sự kiện lớn lao ấy đã bắt đầu một cách khiêm tốn tại một nơi được dùng để nhốt thú vật, một nơi tối tăm hôi thối và ẩm ướt. Việc đầu tiên của thánh Giuse khi tới đó, là nhóm lên một bếp lửa, cho ấm áp và sáng sủa để dọn dẹp.
Trong triết học người ta thích định nghĩa ngôi nhà bằng bếp lửa. Nếu chỉ có bốn bức vách và hai mái che mưa nắng thì chưa được gọi là nhà, cần phải có một bếp lửa nữa mới thực sự là chỗ ở của con người.
Bếp lửa cần thiết không những để sưởi ấm mà còn để nuôi sống con người. Một trong những điểm làm cho con người khác hẳn con vật là biết dùng lửa. Khi bếp lửa được nhóm lên nơi hang đá Bêlem, thì chỗ cư ngụ của thú vật đã trở nên một tổ ấm, một mái nhà cho một gia đình nghèo khổ của thánh Giuse, Đức Mẹ và hài nhi Giêsu, cũng như đã trở nên một hình ảnh tượng trưng cho thế giới, cho nhân loại.
Thực vậy, từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ và Ngài đã đem tình thương của Ngài đặt vào đó, và thế giới này trở thành một quê hương, một tổ ấm của con người. Thế nhưng con người đã từ chối tình thương ấy, khi xua đuổi Thiên Chúa. Con người đã dập tắt bếp lửa yêu thương mà Thiên Chúa đã nhóm lên trong lòng họ. Từ đó, chỗ ở của họ đã trở thành hoang vu, tình thương đã bị thay thế bằng hận thù, sự thật đã bị thay thế bằng gian tham lừa đảo.
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc con người. Ngài đã sai con Ngài sinh ra trong cảnh tiêu điều tăm tối, để nhóm lại bếp lửa, biến đổi nơi hoang tàn trước kia trở thành một tổ ấm. Đức Kitô đã trở nên anh em của loài người. Ngài đã qui tụ tất cả lại trong gia đình con cái Thiên Chúa.
Vì vậy tiên tri Isaia đã xác quyết: Nhân loại bước đi trong u tối đã nhìn thấy ánh sáng chan hòa. Anh sáng ấy, ngọn lửa ấy không phải là của một que diêm, một bó đuốc, nhưng là của mặt trời. Đức Kitô là mặt trời công chính soi chiếu khắp chốn trần gian. Ngài là tình thương của Thiên Chúa sưởi ấm loài người.
Kể từ nay, thế giới biến thành một tổ ấm, một gia đình của con cái Thiên Chúa, vì có bếp lửa là chính Chúa Giêsu ở giữa. Hôm nay, ánh sáng không phải chỉ bao trùm trên những người chăn chiên, mà còn bao trùm trên toàn thể Bêlem, toàn thể xứ Giuđêa và toàn thể địa cầu.
Thế nhưng Bêlem vẫn ngủ mê, Giuđêa vẫn đắm chìm trong quên lãng và nhân loại vẫn vùi sâu trong lầm lạc. Chỉ có những tấm lòng đơn sơ nhỏ bé như những người chăn chiên mới đón nhận được ánh sáng ấy.
Đức Kitô đã biến thế giới này trở thành một tổ ấm, một gia đình cho những người con cái Thiên Chúa, nhưng điều ấy có ý nghĩa gì nếu chính gia đình nhỏ bé của chúng ta vẫn hoang tàn lạnh lẽo thiếu hẳn hơi ấm yêu thương, chỉ còn là một chỗ cho cãi cọ, xích mích và đay nghiến.
Bởi đó, hãy nhóm lại bếp lửa yêu thương cho gia đình chúng ta. Đây không phải là một chuyện quá khó, bởi vì lễ Giáng sinh nhắc cho chúng ta nhớ rằng: Anh sáng mặt trời đã tràn ngập, chỉ cần mở rộng cửa cho ánh sáng ấy tràn vào. Hãy đón Chúa Giêsu vào nhà để Ngài qui tụ mọi người thành con cái Thiên Chúa.
Hãy để tình yêu Ngài tràn ngập hầu gia đình chúng ta thực sự là một mái ấm đầy tràn hạnh phúc của những người con Thiên Chúa.
43. Dung mạo
Hoàng đế của một vương quốc hùng cường và thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân An Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai Cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng. Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ An Độ vẽ. Ông càng thán phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc. Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy chân dung mình hiện ra từng nét. Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì họ đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng lòng mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận được khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, và hiểu rõ các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu thế, nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simêon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người. Simêon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài. Simêon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma túy ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đàng.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh Gia thất: một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương và chăm lo cho nhau. Thánh Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh Gia như sau: “Đức Giêsu đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nagiarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng Mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”.
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông: “Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng, các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều…”.
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp cũng tâm sự: “Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi, khuyến khích nâng đỡ tăng sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin”.Có lẽ thế giới biết nhiều đến thủ tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: “Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ”.
Đức Pio XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: “Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao”.
44. Gia đình gương mẫu
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và sống trong một gia đình. Gia đình của Ngài gồm có Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria và Ngài. Một gia đình rất thánh thiện, gương mẫu. Hôm nay dâng lễ mừng kính Thánh Gia, chúng ta hãy học nơi các Ngài những đức tính cần có trong cuộc sống gia đình, và chúng ta xin các Ngài ban ơn cho gia đình chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những thiếu sót của chúng ta đối với những người trong gia đình mình.
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì chưa dành chỗ xứng đáng cho Chúa trong gia đình mình.
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những gương xấu mà gia đình mình đã gây ra cho những gia đình chung quanh.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Hc 3, 3-7. 14-17a
Huấn ca là một tập sách luận bàn về cách sống khôn ngoan trong nhiều lãnh vực. Trong đoạn này, tác giả, Ben Sira, đưa những lời khuyên về cách sống trong gia đình. Điều quan trọng nhất là con cái phải thảo kính cha mẹ. Tác giả kể ra những ích lợi của việc này:
Việc thảo kính cha mẹ sẽ đền bù được tội lỗi
Người thảo kính cha mẹ đến khi có con cái thì được con cái mình thảo kính.
Người thảo kính cha mẹ khi cầu nguyện sẽ được Chúa nhậm lời.
Phải thảo kính cha mẹ nhất là khi các ngài già yếu.
2. Đáp ca: Tv 127
Tv này được hát lúc hành hương lên Đền thờ Giêrusalem. Người tín hữu hành hương tin chắc rằng ai sống công chính thì sẽ được Thiên Chúa ban phúc. Các ơn phúc Chúa ban trước hết là những ơn cho cuộc sống gia đình: việc làm ăn có kết quả, vợ con mạnh khoẻ, sống lâu v.v.
3. Tin Mừng: Lc 2, 22-40
Tường thuật việc Thánh gia lên Đền thờ Giêrusalem để dâng con cho Thiên Chúa. Trong dịp này, cụ ông Simêon và cụ bà Anna nói những lời tiên tri về tương lai của Đức Giêsu.
Một số điều đáng lưu ý:
Thánh gia là một gia đình nghèo (lễ vật của người nghèo), nhưng giữ luật đạo rất chín chắn (luật thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con, luật cắt bì cho con, luật dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa).
Các phần tử của Thánh gia rất hiệp nhất với nhau: tất cả đều cùng nhau lên Đền thờ mặc dù luật không buộc như thế (chẳng hạn luật tẩy uế cho người mẹ chỉ buộc người mẹ lên đền thờ thôi).
Khi đó cha mẹ Đức Giêsu chưa hiểu hết mầu nhiệm con mình. Bởi vậy, khi nghe Simêon nói, hai ông bà "kinh ngạc".
4. Bài đọc II: Cl 3, 12-21
Thánh Phaolô giảng về "nếp sống mới" của những người đã cùng chết và cùng sống lại với Đức Giêsu. Nếp sống này gồm:
Những đức tính nhân bản: "Từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau".
Nền tảng và nguồn gốc của những đức tính trên là chính Thiên Chúa: "Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương".
Bí quyết để sống được như trên là luôn suy gẫm Lời Chúa.
Và dịp tốt thường có để thực hành các đức tính ấy chính là trong gia đình.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Gia đình Nadarét và gia đình chúng ta
Gia đình Nadarét vừa giống nhưng cũng vừa khác phần lớn gia đình chúng ta:
Như phần lớn gia đình chúng ta, gia đình Nadarét nghèo. Trong Tin Mừng ta tìm thấy hai dấu chỉ tình trạng nghèo của các ngài: Khi đến Bêlem, Thánh Gia không đủ tiền để thuê một chỗ trọ trong hàng quán nên phải ở tạm trong hang súc vật; khi đem con đầu lòng dâng trong đền thờ cùng với lễ vật theo luật định, Thánh Gia chỉ dâng một đôi chim câu, là thứ lễ vật của người nghèo.
Như phần lớn gia đình chúng ta, gia đình Nadarét phải sinh nhai bằng chính sức lao động của mình. Có lẽ các ngài không có vốn để đầu tư, buôn bán. Thánh Giuse và Đức Giêsu kiếm tiền sinh sống bằng nghề thợ mộc.
Như phần lớn gia đình chúng ta, vì nghèo và vì theo nghề lao động, nên gia đình Nadarét không được người ta coi trọng cho lắm. Mãi sau này khi Đức Giêsu đã thôi làm ăn để đi rao giảng, thế mà nhiều người vẫn nhắc với giọng mỉa mai "Ông ta là con bác thợ mộc".
Nhưng gia đình Nadarét khác hầu hết gia đình chúng ta ở nhiều điểm: một là dù nghèo nhưng không gian tham trộm cắp; hai là dù nghèo nhưng không lục đục với nhau; ba là dù nghèo nhưng vẫn thu xếp công việc được để chu toàn mọi bổn phận trong đạo.
Những nét giống giữa gia đình Nadarét và gia đình chúng ta khiến chúng ta cảm thấy gần gũi với Thánh gia, và nhớ đó chúng ta biết mình có thể học với các ngài ở những điểm khác biệt với chúng ta.
* 2. Tương lai của đứa con gia đình
Trong ngày lễ đặt tên cho Gioan Tẩy giả, bà con lối xóm đã đặt câu hỏi "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào?" (Lc 1, 66). Đây là câu hỏi của mọi người làm cha mẹ. Càng thương con bao nhiêu, câu hỏi đó càng là mối băn khoăn cho cha mẹ bấy nhiêu, bởi vì cha mẹ thương con chỉ muốn cho con mình có một tương lai tốt đẹp, nhưng tương lai ấy lại không do cha mẹ hoàn toàn lo liệu cho con được.
Cha mẹ Đức Giêsu cũng thế. Bởi vậy, sau khi nghe cụ Simêon nói về tương lai của trẻ Giêsu bằng những lời rất khó hiểu, Tin Mừng viết, "Cha mẹ Ngài đều kinh ngạc".
Nhưng tương lai của đứa con không hoàn toàn không có phần của cha mẹ. Điều này rất rõ trong trường hợp Đức Giêsu:
Người ta vẫn nói Ngài là "con bác thợ mộc" (Mc 6, 3).
Đức Giêsu có thói quen cầu nguyện và sống với Chúa Cha. Thói quen này hẳn là Ngài đã học được từ gia đình. Tin Mừng tuy nói rất ít về thời thơ ấu của Ngài, nhưng cũng đủ cho ta thấy Thánh gia rất quan tâm chu toàn những bổn phận tôn giáo.
* 3. Dung mạo Chúa cứu thế
Hoàng đế của một vương quốc hùng cường và thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng.
Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ Ấn Độ vẽ. Ông càng thán phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc.
Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy chân dung mình hiện ra từng nét.
Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì họ đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
*
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng lòng mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simêon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người.
Simêon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu Thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài.
Simêon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu Thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma tuý ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đường.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh gia thất: một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương và chăm lo cho nhau. Thánh Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh Gia như sau: "Đức Giêsu đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadaret và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến" (Lc. 2, 51-52).
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông: "Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng, các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều..."
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp cũng tâm sự: "Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi, khuyến khích nâng đỡ sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin".
Có lẽ thế giới biết nhiều đến Thủ tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: "Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ".
Đức Piô XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: "Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao".
*
Lạy Đức Giêsu, xin dạy chúng con biết theo gương Chúa, luôn sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính với ông bà cha mẹ, và sống hết tình với anh chị em chung quanh.
Xin cho chúng con luôn biết đánh bóng đời mình, bằng tấm lòng khiêm tốn và đạo hạnh, bằng việc tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác, để dung mạo của Chúa ngày càng tỏ hiện sáng ngời trong cuộc đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Con cái
Con cái các bạn không phải là con cái của các bạn
Chúng đến qua các bạn chứ không phải từ các bạn.
Mặc dù chúng ở với các bạn nhưng chúng không thuộc về các bạn.
Các bạn có thể cho chúng tình thương nhưng không thể cho chúng ý tưởng, bởi vì chúng có những ý tưởng riêng của chúng.
Các bạn có thể lo nơi ăn chốn ở cho thân xác chúng chứ không thể cho linh hồn chúng, vì linh hồn chúng ở một nơi thuộc tương lai mà các bạn không thể đến thăm, ngay cả trong giấc mơ.
Các bạn có thể cố gắng để giống như chúng, nhưng đừng cố bắt chúng giống như các bạn.
Bởi vì cuộc sống không đi giật lùi và cũng không ngừng mãi ở ngày hôm qua.
Các bạn là những chiếc cung, và những mũi tên từ đó phóng đi chính là con cái của các bạn. (Kahil Gibran)
* 5. Đạo hiếu
Bài trích sách Huấn Ca (bài đọc I, được chỉ định đọc trong năm A, nhưng cũng có thể đọc trong năm B và C) có câu: "Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu"
Những từ mà Thánh Kinh dùng rất quen thuộc với người Việt Nam. Thí dụ như câu ca dao: "Một lòng thờ mẹ, kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
"Thờ" và "kính" chính là những việc làm trong tôn giáo. Hiếu thảo với cha mẹ chính là Đạo.
Câu Huấn ca và câu ca dao trên giúp ta ý thức rằng hiếu thảo với cha mẹ không chỉ là một tình cảm, cũng không phải chỉ là một lẽ công bình, mà là một Đạo. Mà lỗi đạo tức là phạm tội chứ không chỉ là một sự thiếu sót.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã làm cho Thánh gia trở nên đền thánh của sự sống, của tình thương, và của niềm vâng phục ý Chúa. Hôm nay mừng lễ Thánh Gia, chúng ta đặc biệt hướng về các gia đình và dâng lời cầu nguyện:
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh là gia đình của Chúa / luôn cố gắng sống hiệp thông với nhau / để làm chứng cho tình yêu Chúa cho thế giới.
2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các bậc làm cha mẹ và các nhà giáo dục / biết hướng dẫn và cộng tác với các con em mình / để xây dựng gia đình thành một tổ ấm đầy tình yêu thương.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người không gia đình / hoặc sống trong gia đình đang bị khủng hoảng xáo trộn / được ơn can đảm để nhẫn nhục chịu đựng / và tích cực góp phần hàn gắn lại những gì đã tan vỡ.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người làm cha mẹ cũng như làm con cái trong xứ đạo chúng ta / luôn ý thức trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc gia đình / để biết cởi mở, đối thoại, thông cảm và cô#ng tác với nhau theo thánh ý Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin chấp nhận những lời cầu chúng con dâng lên Chúa nhân dịp lễ Thánh Gia, để nhờ ơn Chúa giúp, mỗi người trong gia đình đều cộng tác làm cho gia đình trở nên Đền Thánh của sự sống của tình thương, và niềm vâng phục ý Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Ngoài gia đình tự nhiên, người kitô hữu chúng ta còn có được một gia đình siêu nhiên trong đó Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh em với nhau, và Đức Giêsu là anh cả. Trong tình nghĩa gia đình ấy, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha.
- Trước lúc Rước lễ: Thánh lễ là một bữa ăn gia đình. Chúa là gia trưởng, các tín hữu là con cái ngồi quanh bàn ăn. Phúc cho những ai được mời vào bàn ăn gia đình ấy.
VII. Giải tán
Sau khi được khuyến khích bởi tấm gương gia đình Nadarét, giờ đây anh chị em trở về sống với gia đình mình và các gia đình hàng xóm. Anh chị em hãy sống theo gương thánh gia. Chúc anh chị em bình an.
45. Gia đình, nơi Thiên Chúa làm người
Khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Thiên Chúa muốn Ngài được sinh ra trong một gia đình, có cha và mẹ như chúng ta. Với việc này, Ngài muốn mặc cho gia đình một ý nghĩa mới: là chiếc nôi của ân sủng, của sự thánh thiện, của yêu thương và hạnh phúc. Chúng ta cùng khám phá cái bí quyết nên Thánh nơi gia đình Thánh Gia, một gia đình kiểu mẫu về lòng đạo đức, biết kính sợ Thiên Chúa, chu toàn trách nhiệm trong gia đình. Đây hẳn là tấm gương sáng ngời mà chúng ta cần suy niệm và học hỏi.
Bài Tin mừng hôm nay diễn tả về gia đình Thánh Gia. Theo luật Môsê, khi con trai đầu lòng sinh được 40 ngày thì cha mẹ đem con hiến dâng cho Thiên Chúa. Bằng việc làm này, Thánh Gia đang từng bước sống chu toàn bổn phận của mình đối với Thiên Chúa. Thái độ và việc làm này của các ngài đã biểu lộ một tâm tình đạo đức, một đời sống đức tin sâu xa và một lòng kính sợ Thiên Chúa. Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy:
Trong vai trò làm gia trưởng, Thánh Giuse đã chu toàn trách nhiệm của người “đứng mũi chịu sào” trong gia đình để lo lắng phục vụ Đức Maria và Chúa Giêsu. Không khoe khoang, không lớn tiếng, Thánh Giuse hoàn toàn âm thầm, tích cực lao động, chu toàn trách vụ là trụ cột chính về kinh tế trong gia đình. Chắc chắn để có được của lể dâng Chúa hôm nay, dù chỉ là một đôi chim gáy, Ngài cũng nỗ lực hơn với đôi tay chai cứng của mình. Ngài chỉ lo chu toàn thánh ý Chúa trong bổn phận mình.
Bên cạnh hy sinh của Thánh Giuse, là một gương mẫu hoàn hảo của Đức Maria. Ý thức vai trò làm mẹ Con Thiên Chúa, Mẹ Maria không lấy đó làm vinh dự để tự cao tự mãn. Trái lại, Mẹ đã tìm cách để kiện toàn bổn phận theo thánh ý Chúa. Hôm nay ông Simêon loan báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ”. Đây là cái giá mà Mẹ phải trả. Thế nhưng, Mẹ không than trách, chỉ biết cúi đầu vâng theo ý Chúa và suy niệm trong lòng.
“Cây lành sinh trái tốt”. Nhờ Đức Mẹ và Thánh Giue đã chu toàn trách nhiệm trong gia đình thánh gia mà Trẻ Giêsu đã được ảnh hưởng. Trẻ Giêsu được nuôi dưỡng , được lớn lên trong cái nôi của sự thánh thiện, đạo đức, biết kính sợ Thiên Chúa.Tin mừng Luca cho biết sau lần thất lạc ở Đền Thờ lúc 12 tuổi, Người theo hai ông bà về Nagiareth và vâng phục hai ông bà, sống trong ân nghĩa của Thiên Chúa.
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội sẽ tốt. Ngày nay, các gia đình đang sống trong nguy cơ dễ bị đỗ vỡ thì mẫu gương của gia đình Thánh Gia quả là một nâng đỡ, khích lệ và là điểm tựa cho chúng ta rất nhiều. Thật vậy, chúng ta chỉ tìm thấy cho gia đình một chỗ đứng, một điểm tựa, để hạnh phúc nhờ mọi thành phần biết cùng nhau lắng nghe, tìm kiếm và thực hành ý Chúa. Chính tâm tình kính sợ, yêu mến và tuân giữ lời Chúa là cơ sở để Thiên Chúa tuôn đổ hạnh phúc xuống cho gia đình
Hơn nữa, trong điều kiện chức vị mỗi người trong gia đình tùy vào khả năng và bổn phận, mình phải biết góp phần kiến tạo và xây dựng hạnh phúc gia đình. Là người cha, ta không chỉ lo làm kinh tế cho gia đình mà còn phải biết dắt dìu, hướng dẫn gia đình, hướng dẫn con cái sống sự thật, trong sạch. Là người mẹ, ta không quên trách nhiệm cùng chồng chăm sóc gia đình, lo cho con cái về đời sống đức tin , về cuộc sống và còn phải biết bảo vệ hạnh phúc gia đình. Cuối cùng phận làm con, ta bắt chước Chúa Chúa Giêsu, vâng lời cha mẹ dạy dỗ, giúp đỡ cha mẹ trong bổn phận và khả năng. Sống và hành động theo mẫu gương của Thánh Gia, là luôn tìm ý Chúa, chu toàn bổn phận, để kiến tạo nên một gia đình yêu thương và hạnh phúc.Xin gia đình Thánh Gia tuôn đổ phúc lành cho gia đình chúng ta, giúp chúng ta hoàn thành mọi trách nhiệm và chu toàn bổn phận của mình trong gia đình, để chẳng những chúng ta được hạnh phúc ở đời này mà còn được vào hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa trong Nước Trời. Amen.
46. Gia đình, Hội Thánh tại gia
Có một đôi vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc. Chòm xóm xung quanh rất khen ngợi, và người ta đã bầu chọn họ là gia đình gương mẫu, là gia đình hạnh phúc. Nhà báo đến làm một cuộc phỏng vấn. Họ hỏi người chồng: “nghe nói gia đình của ông bà hạnh phúc nhất vùng này phải không?” Người chồng cười đáp: “không hẳn thế, nhưng vợ chồng chúng tôi tự thấy với nhau là có hạnh phúc”. “sao ông dám khẳng định như vậy?” “chúng tôi là người công giáo; hơn nữa, tôi chưa thấy vợ tôi nặng lời với tôi khi nào, vì thế, tôi không nở lòng nào đối xử không tốt với bà ấy”. Nhà báo bèn đến hỏi người vợ; người vợ trả lời: “vì tôi rất yêu chồng tôi, nên tôi luôn cố gắng nói tốt và làm điều tốt cho chồng tôi”. Hóa ra hạnh phúc gia đình được bảo vệ một cách đơn giản như vậy sao? Ngày hôm nay, chúng ta mừng kính một mẫu gương gia đình tuyệt vời: Gia đình Thánh. Hội Thánh đề cao gia đình này có quá đáng không? Đây là điều hôm nay chúng ta cùng suy niệm.
a/. Thế giới hôm nay, người ta đặc biệt quan tâm đến gia đình, vì có nhiều nguy cơ làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình, ngay cả gia đình công giáo. Ảnh hưởng văn minh vật chất của xã hội ngày hôm nay, do quá chú trọng giá trị bên ngoài, đã làm cho nhiều gia đình mất phương hướng, không biết sống làm sao, cư xử thế nào…. Thực ra, ngày hôm nay hơn bao giờ hết, con người cần có ánh sáng Lời Chúa để hướng dẫn, nhất là giúp cho các gia đình hiểu ý nghĩa và sứ mạng của mình. Đức Thánh Cha Bênêditô 16 nói: “Con cái có quyền có một gia đình như Thánh Gia thất. Gia đình là nơi lý tưởng để mọi người học biết cho đi và đón nhận tình yêu.”
b/. Bây giờ chúng ta hãy xem lại bài sách thánh ngày lễ hôm nay: Thư thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côlôssê (3, 12-21): thánh Phaolô dạy:
• Hãy sống hiền hòa, nhẫn nại, tha thứ cho nhau, như chính Chúa tha chứ cho anh em.
• Lấy đức bác ái làm nền tảng; đó chính là mối dây liên kết giữa mọi con cái Chúa.
• Ước gì ơn bình an, và Lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. Trong tâm tình tạ ơn, khi ta làm gì nói gì, cũng đều nhân danh Chúa Giêsu Kitô…
• Vợ hãy phục tùng chồng; chồng hãy yêu thương vợ. Con cái hãy yêu thương cha mẹ. Cha mẹ đừng dùng uy quyền kẻo con cái nhác đãm.
Trong thư này, thánh Phaolô đã dạy rất xác đáng bổn phận của các thành viên trong gia đình: lấy đức yêu thương làm nền tảng trong việc đối xử - dùng tính nhẫn nại, tha thứ mà cư xử với nhau – trong tất cả mọi sự, mọi người cư xử với nhau nhân danh Chúa. Mọi người khi có sự bình an thật sự của Chúa ở cùng, người ta sẽ dễ dàng tha thứ cho nhau; nhất là làm sao người ta nở cư xử cứng cỏi với nhau?
b/. Gia đình Thánh: Trong Phúc âm không ghi được bao nhiêu về cuộc sống của Gia đình Thánh. Dù vậy Hội thánh vẫn coi Gia đình Thánh chính là mẫu gương tuyệt vời về việc thực hiện những lời dạy của thánh Phaolô trên đây. Gia đình Thánh cũng chính là mẫu gương về việc lấy đức ái làm nền tảng cho gia đình, nhất là dùng đức ái làm dây liên kết với nhau.
Mẹ Maria là một Tạo Vật hoàn hảo của Thiên Chúa. Hiểu rõ chân lý này, chúng ta sẽ hiểu được chân lý tiếp theo: Mẹ là như thế đó, làm sao ta có thể hiểu được, nếu Mẹ không sống đức ái? hoặc không đặt nền tảng gia đình trên đức ái? Nói cách khác, vì Mẹ sống trong tình yêu hiệp thông liên lỉ với Con Mẹ, Đức Giêsu Kitô, nên khi ta nói Mẹ lấy đức ái làm nền tảng của gia đình, xem ra điều đó là thừa; vì tình yêu hiệp thông nơi Mẹ chính là hình bóng của tình yêu hiệp thông vĩnh cửu nơi Thiên Chúa.
Còn Thánh Giuse nữa, vị thánh đồng trinh và khiêm tốn hết mực, được gọi là tôi trung của Thiên Chúa, làm sao lại không sống trong tình yêu hiệp thông như Mẹ Maria; có chăng mức độ hiệp thông của Thánh Cả không sao so sánh được với Mẹ Maria thôi. Những điều nói trên không phải là những ý niệm tưởng tượng ; đó chính là sự thật thần linh trong Gia đình Thánh. Cũng chính vì lẽ đó mà ta gọi gia đình này là Gia đình Thánh…
c/. Gợi ý suy niệm:
Gia đình là một cộng đoàn yêu thương và hiệp nhất, vì gia đình là một tế bào xã hội, một Hội thánh thu nhỏ”. Câu nói trên không hẳn đúng với hết mọi gia đình, nhưng lại hoàn toàn đúng với gia đình Nadareth. Chính vì vậy gia đình Nadareth là gương mẫu, là bài học quí giá cho mọi gia đình công giáo. Bầu khí gia đình là môi trường tốt, để đào tạo con người tốt, người công giáo tốt. Chúng ta nghĩ thế nào? Gia đình chúng ta có sẵn sàng muốn và cố gắng sống theo gương gia đình Nadareth không?
47. Gia đình thánh
Trong những ngày này, nếu có theo dõi tin tức thời sự, anh chị em thường nghe nói đền tình hình ở trung đông, đặc biệt là tình hình chiến sự tại Irac. Đất nước Irac giờ đây đang trong tình trạng chiến tranh hỗn loạn vì những người có trách nhiệm cai trị không hợp lòng dân, họ xem quyền lợi cá nhân là trên hết, chỉ biết có bản thân mình. Người trong nước lại đánh nhau, những người cùng tôn giáo tranh giành ảnh hưởng và tàn sát lẫn nhau, những người có thế lực, có trách nhiệm thì lại đàn áp và chà đạp người khác, tình trạng trở nên hỗn loạn, người người oán than. Tình hình như thế, tự họ không giải quyết cho đất nước mình được, nên những người bên ngoài đến và giải quyết cho họ. Tình trạng càng trở nên tệ hại hơn, cảnh tàn sát càng ác liệt hơn.
Nếu họ biết yêu thương nhau hơn, biết nghĩ về nhau nhiều hơn, biết lo cho nhau và lo cho đất nước, thì người bên ngoài không thể vào đất nước họ được. Cảnh yên bình chỉ trở lại khi mọi người nhìn thấy trách nhiệm và biết lo cho nhau.
Trong ngày lễ mừng kính Gia Đình Thánh, gương mẫu cho mọi gia đình, qua bài Phúc Âm chúng ta nhận ra: mỗi người trong Gia Đình Thánh đều sống đúng vai trò của mình, chu toàn trách nhiệm cách hết sức hoàn hảo.
Thánh Giuse người gia trưởng là chỗ dựa vững chắc cho mọi người trong gia đình. Khi được biết gia đình gặp nguy hiểm, Ngài không quảng ngại khó khăn cho bản thân, không phiền trách người khác, không coi mọi người là gánh nặng, nhưng ngay tức khắc Ngài lo bảo vệ cho gia đình được an toàn.
Còn Mẹ Maria nhìn thấy trong sự hiểu biết và thông cảm, cùng với lòng tin yêu, Mẹ chấp nhận trong sự vâng phục mà không lời phiền trách. Mẹ còn phụ giúp trong hành động để công việc được nhẹ nhàng và nhanh chóng hơn.
Ngôi Hai Thiên Chúa, trong giây phút này cũng thinh lặng, chấp nhận theo những toan tính của con người, để mọi người được chu toàn trách nhiệm của mình.
Nếu trong lúc đó, Mẹ Maria hay Thánh Giuse không bằng lòng với hiện tại, kêu la khóc lóc mà không hành động, hay hành động trái ngược lại, hoặc tệ hại hơn nữa là không chấp nhận nhau, thì mọi việc sẽ ra sao?
Gương sáng cho mọi gia đình đó là Thánh Gia. Nhiều người biết đến Thánh Gia, nhiều người biết đến gương tốt đẹp này, nhưng họ không thể nào sống theo được. Chúng ta nhìn thấy chiến tranh, khủng bố vẫn còn tái diễn hằng ngày, ở mọi nơi, vì con người không biết chấp nhận nhau.
Trong gia đình cũng thế; biết bao nhiêu cuộc ly tan, biết bao nhiêu cảnh hỗn độn trong gia đình, những điều mà tưởng chừng như không thể, lại diễn ra: vợ chồng nói xấu nhau đưa ra trước nơi công cộng để cho mọi người xét xử, con cái trong gia đình không chấp nhận cha mẹ, hay ngược lại và cũng đưa trước nơi công cộng để chờ sự phán quyết của những người không thuộc thành phần gia đình của họ. Trong gia đình Giáo hội mà chúng ta là thành phần, chúng ta cũng chỉ trích, không chấp nhận nhau, tìm cách loại trừ nhau và cũng chờ sự phán quyết của những người không thuộc gia đình Giáo Hội. Như thế không phải tại Irac mới có chiến tranh khủng bố, mà ngay tại mỗi người chúng ta chiến tranh và khủng bố cũng xảy ra hằng ngày.
Gương của Thánh Gia chúng ta biết rất rỏ. Nhưng cái biết và sống lại không đi đôi với nhau. Chúng ta nhìn vào đời sống chính mình, nếu nhận thấy rằng: chúng ta chu toàn trách nhiệm hằng ngày được trao phó một cách tốt đẹp, với một tâm tình phó thác và với nụ cười trên môi thì thật hạnh phúc cho chúng ta. Những lúc đó chúng ta đang noi gương theo Gia Đình Thánh, những lúc đó chúng ta biết chấp nhận nhau và cùng giúp nhau để tạo sự bình an cho nhau.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn Giúp sức cho mỗi người chúng ta, biết chu toàn trách nhiệm của mình trong gia đình, trong cuộc sống cùng giúp nhau tiến bước theo Thánh Gia.
48. Gia Đình vui sống theo Luật Chúa
(Suy niệm của Lm. Nhất Tiến)
Trong Phụng vụ Lời Chúa lễ kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta được nghe lại đoạn Tin mừng (Lc 2:22-40) kể lại việc Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse dâng Chúa Giêsu Hài Nhi vào Đền Thờ Giêrusalem. Đặc biệt, ngay từ câu đầu tiên (22), trình thuật đã cho chúng ta thấy cả ba thành viên của Gia Đình Thánh lần đầu tiên cùng đi lên Giêrusalem với mục đích rõ ràng là để “chu toàn lề luật”.
Trước hết, chúng ta thấy chỉ trong một câu chuyện, từ ngữ theo “luật - law - loi” đã được Thánh ký Luca nhắc đến 5 lần (22,23,24,27,39). Như vậy, Thánh Gia lên Thành Thánh Giêrusalem là để tỏ lòng trung tín với Luật Môse; nói cho đúng hơn, để thi hành Luật Chúa (24) qua Môse truyền cho dân Israel, bao gồm quy định người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con và người con trai đầu lòng thì phải được sớm hiến thánh cho Thiên Chúa (cf. Lev.12:8; Nkm.10:36-37). Thế là, bởi hành vi theo Lề Luật, Chúa Giêsu đã được cha mẹ dâng hiến và chuộc lại bằng lễ vật hạng nhà nghèo, để nên đồng hoá với anh em nhân loại của mình mọi đàng - ngoại trừ tội lỗi (Dt.4:15). Nhưng cũng là để qua hành vi khiêm tốn vâng phục Lề Luật này, Chúa Giêsu vừa trình diện trước Thánh Nhan Chúa Cha như một người Con Rất Yêu Dấu, lại vừa công khai xuất hiện trước Cộng Đoàn Do Thái đại diện cho cả nhân loại, trong thân phận giới hạn của một Hài Nhi yếu đuối, sinh ra và sống dưới chế độ lề luật (cf. Gal 4:4). Nói cách khác, Đức Kitô, Con Thiên Chúa đến để bày tỏ Mạc Khải Cứu Độ cao vời của Thiên Chúa ngay trong phạm vi không gian và thời gian, trong sự lệ thuộc vào những quy định dành cho con người.
Như thế, Thánh Gia, từ ban đầu và trong tất cả, đã thực sự tự tình sống trong sự vâng phục Lề luật, như một bảo đảm cho cả gia đình được sống trong Ánh nhìn quan phòng yêu thương của Chúa Cha nhân từ. Con Thiên Chúa đến cứu độ nhân loại đã thật sự hoà nhịp vào cuộc sống thực tại nhân sinh; với hoàn cảnh, môi trường, giới hạn, quy định, luật lệ… cho trọn nghĩa kiếp phận con người. Nói khác đi, cả nhà gồm cha - mẹ - con đã vui lòng sống trong tinh thần lụy phục và phó dâng, trong thái độ nghiêm cẩn và khiêm hạ, trong trạng thái đón đợi Thánh Ý Thiên Chúa và chấp nhận cảnh vực trần gian với những quy luật cần thiết và chính đáng. Cũng vậy, tâm tình ngoan thảo và thái độ vâng phục của chúng ta đối với Thiên Chúa giữa thực tại gia đình, trong cộng đoàn và ngoài xã hội không phải chỉ là để tuân thủ luật pháp ràng buộc con người cho được sống bình an, hạnh phúc mà thôi; nhưng còn là để không ngừng được thăng hoa và vui tươi hơn nữa trong vị thế tự do của con cái Thiên Chúa.
Thứ đến, như trên đã nói, không những ông bố Giuse và bà mẹ Maria ẵm con trẻ Giêsu lên Đền Thờ Giêrusalem để thánh hiến cho Đức Chúa, mà còn để công khai giới thiệu Đấng Cứu Thế với cộng đoàn nhân loại. Cụ Simêon, mặc dầu không phải là tư tế, nhưng với tư cách là một tiên tri cao niên và nhờ Thánh Thần thúc đẩy, đã vui mừng và công khai xác nhận Ánh Sáng Thiên Tính của Đấng Cứu Độ muôn dân giữa trung tâm Đền Thờ tôn nghiêm, bằng bài ca “Nunc dimit is” (29-32) bất hủ của cụ. Và rồi, cùng với bà Anna, cụ Simêon đã chúc phúc cho hai ông bà và tuyên xưng Vinh Quang Thiên Chúa đã đến giữa nhân trần.
Như vậy, một khi ý thức cùng đưa nhau đến với Chúa qua Giáo Hội và sống chan hoà với mọi người chung quanh, các gia đình Kitô hữu sẽ tìm ra nhiều cơ hội thích hợp và điều kiện thuận lợi để cùng nhau ca tụng, ngợi khen Chúa vì cuộc sống chung tươi đẹp Chúa thương ban trong bậc sống gia đình, đồng thời hy vọng được nhận lãnh muôn phúc lành từ Thiên Chúa, nơi cộng đoàn Giáo Hội và qua các thánh nhân, người lành khi ở giữa khung cảnh thánh thiện của những nơi dành riêng cho việc thờ phượng Người. Ở bất cứ nơi đâu và trong hoàn cảnh nào, các gia đình thân yêu của chúng ta cũng có thể cùng nhau đồng hành trọn vẹn trong đời sống thiêng liêng và đạo đức. Hơn bao giờ hết, trong thời đại ngày nay, việc cầu nguyện cho nhau trong tình thân, quan tâm đến nhau trong cuộc sống chung, nhất là cùng thúc đẩy nhau sống Lời Chúa ngay trong môi trường gia đình, cộng đoàn và xứ đạo là tuyệt đối cần thiết! Cách riêng, gia đình vẫn là môi trường giáo dục tuyệt hảo đầu tiên, trong đó ông bà, cha mẹ, anh chị có cơ hội tốt để làm gương và dậy dỗ con cái, cháu em của mình sống trong sự hiện diện thật sự của Chúa và cảm nhận sự đồng hành sống động của Người giữa cuộc sống chung gia đình và trong cuộc đời cá nhân mỗi người; từ đó đưa dẫn những người thân yêu của mình đến lãnh nhận phúc lộc an vui từ nơi Thiên Chúa ăm ắp tình thương.
Tôi chợt nhớ đến một hình ảnh đẹp: Trên một chuyến tàu điện metro ở thủ đô Manila - Philippines, tôi ngồi đối diện với một bà mẹ trẻ đẹp, quần áo hợp thời, đang ôm chặt đứa con trai nhỏ xinh xắn trong lòng. Tay phải của chị không ngừng mân mê tràng chuỗi Mân Côi đơn sơ. Đặc biệt, mỗi khi tàu điện chạy ngang qua một nhà nguyện hay nhà thờ, chị đều nhắc con trai nhỏ của mình hướng ánh nhìn về những nơi đó và cúi đầu chào Chúa. Một lúc sau, tôi thấy chị không cần phải nhắc nữa, nhưng đứa bé cứ nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ và tự động cúi đầu xuống mỗi khi thấy một ngôi nhà thờ, nhà nguyện hay đơn giản chỉ là một cây thánh giá trên nóc một toà nhà. Một hình ảnh đẹp khác, như một bài học sống đạo đơn sơ mà sâu sắc từ một bà mẹ dáng nhỏ nhắn ở một giáo xứ vùng quê Cái Sắn, miền tây Việt Nam mà tôi đã từng đến giúp mục vụ ít tuần. Sau mỗi thánh lễ chiều, bà mẹ nhà quê ấy bồng đứa con trai nhỏ trên tay, nhanh chân đi về phía đài Đức Mẹ, theo sau bà là đứa con gái khoảng 3 tuổi bám chặt lấy tà áo bà ba giản dị của mẹ. Đến trước đài Đức Mẹ, bà cầu nguyện một chút, rồi cả ba mẹ con cúi mình chào kính Đức Mẹ thật sâu rồi mới ra về. Đôi khi, bà phải lấy một tay nhấn đầu đứa con trai bé bỏng mà bà đang bế, để nó cúi hẳn đầu xuống mà cùng bà chào kính Đức Mẹ.
Thật là hai hình ảnh tuyệt đẹp của cùng một cung cách bày tỏ Niềm Tin truyền thống và bình dân giữa cuộc sống đời thường. Trong khuôn viên nhà thờ miền quê hay trên hành trình xe điện thành phố, cả hai bà mẹ đều thực hành việc Giáo Dục Đức Tin cho con cái mình thật đơn thành nhưng đầy hiệu quả. Giáo Dục Đức Tin ngay từ trong gia đình là rất cần thiết, đặc biệt trong thời đại hôm nay không ít người còn rất trẻ nhưng đã sớm thất vọng não nề sau những cơn mê đắm khoái lạc giả tạo và thần tượng vô bổ chóng qua. Thực vậy, đối với các gia đình Kitô hữu, vắng bóng Thiên Chúa đồng nghĩa với bề tắc cuộc đời. Cầu mong các bậc phụ huynh của các gia đình Kitô Giáo thực sự nhận thức trách nhiệm đối với các con em mình, biết can đảm nêu gương sáng đạo đức và tích cực giáo dục người trẻ ân cần “giữ đạo” cách xác tín và “sống đạo” cách trưởng thành; bằng cách không ngừng thúc đẩy và dẫn đưa chúng tìm đến Thiên Chúa là Cội nguồn Tình yêu và Ân sủng, Bình an và Hạnh phúc đích thực trường cửu.
“Lạy Thánh Gia Nazareth, xin làm cho các gia đình chúng con trở nên Nơi hiệp thông và Nhà tạm của cầu nguyện, trở thành Trường học đích thực của Phúc Âm và Giáo Hội bé nhỏ tại gia…” (trích Lời kinh Đức thánh cha Phanxicô soạn trong dịp chuẩn bị Thượng hội đồng Giám mục về Gia đình, 10.2014).
49. Cộng đoàn nên thánh
Nhiều ca dao tục ngữ Á đông nói về gia đình và ảnh hưởng của gia đính: con không cha như nhà không nóc, con không mẹ như cột nhà xiêu – cha còn gót đỏ như son, đến khi cha mất gót con đen sì – gia đình chính là Hội Thánh thu nhỏ - gia đình là Hội thánh tại gia …
Thế giới ngày hôm nay, người ta đặc biệt quan tâm đến gia đình, vì nhiều nguy cơ làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình, ngay cả gia đình công giáo. Ảnh hưởng văn minh vật chất của xã hội, ý thức tự do cao độ, do quá chú trọng giá trị bên ngoài… những yếu tố trên đã làm cho nhiều gia đình mất phương hướng, không biết sống làm sao, cư xử thế nào…. Thực ra, ngày hôm nay hơn bao giờ hết, con người cần có ánh sáng Lời Chúa để hướng dẫn, nhất là giúp cho các gia đình hiểu ý nghĩa và sứ mạng của mình. Đức Thánh Cha Bênêditô 16 nói: “Con cái có quyền có một gia đình như Thánh Gia thất. Gia đình là nơi lý tưởng để mọi người học biết cho đi và đón nhận tình yêu….”
a/. Gia đình thánh là mẫu gương các gia đình kitô hữu và cả nhân loại nữa; chính vì lẻ đó, mà Hội thánh mừng kính hôm nay. Bây giờ ta hãy đọc lại Thư thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côlôssê (3, 12-21), xem thánh Phaolô dạy thế nào? Gia đình kitô hữu phải:
Hãy sống hiền hòa, nhẫn nại, tha thứ cho nhau, như chính Chúa tha chứ cho anh em.
lấy đức bác ái làm nền tảng; đó chính là mối dây liên kết giữa mọi con cái Chúa.
Ước gì ơn bình an, và Lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. Trong tâm tình tạ ơn, khi ta làm gì nói gì, cũng đều nhân danh Chúa Giêsu Kitô…
Vợ hãy phục tùng chồng; chồng hãy yêu thương vợ. Con cái hãy yêu thương cha mẹ. Cha mẹ đừng dùng uy quyền kẻo con cái nhác đãm.
Thánh Phaolô đã dạy rất xác đáng bổn phận của các thành viên trong gia đình: lấy đức yêu thương làm nền tảng trong việc đối xử với nhau - dùng tính nhẫn nại, tha thứ mà cử xử nhau – trong mọi sự, mọi người cư xử với nhau, nhân danh Chúa. Mọi người khi có sự bình an của Chúa ở cùng, sẽ dễ dàng tha thứ cho nhau; nhất là làm sao nở đối xử cứng cỏi với nhau?
b/. Phúc âm không nói nhiều về Gia đình Thánh; dù vậy Hội thánh vẫn coi Gia đình Thánh chính là gương mẫu của các gia đình công giáo, là mẫu gương tuyệt vời về việc thực hành lời dạy của thánh Phaolô. Gia đình Thánh cũng chính là mẫu gương cao cả về việc lấy đức ái làm nền tảng cho gia đình, nhất là dùng đức ái làm dây liên kết với nhau.
Mẹ Maria là một Tạo Vật hoàn hảo của Thiên Chúa. Hiểu rõ điều này, ta sẽ hiểu được chân lý tiếp theo: Mẹ là như thế đó, làm sao ta có thể hiểu được Mẹ, nếu Mẹ không sống đức ái? Nói cách khác, vì Mẹ sống trong tình yêu hiệp thông liên lỉ với Con Mẹ, nên khi ta nói Mẹ lấy đức ái làm nền tảng của gia đình, xem ra là thừa; vì tình yêu hiệp thông nơi Mẹ chính là hình bóng của tình yêu hiệp thông vĩnh cữu nơi TC.
Còn Thánh Giuse nữa, vị thánh đồng trinh và khiêm tốn hết mực, được gọi là tôi trung của Thiên Chúa, làm sao lại không sống trong tình yêu hiệp thông như Mẹ Maria; có chăng mức độ hiệp thông của Thánh Cả không sao so sánh được với Mẹ Maria thôi. Những điều nói trên không phải là những ý niệm tưởng tượng ; đó chính là sự thật thần linh trong Gia đình Thánh. Cũng chính vì lẻ đó mà ta gọi gia đình này là Gia đình Thánh…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Gia đình thánh là như thế. Ta có muốn gia đình mình cũng là gia đình thánh không? Dù gia đình mình chưa phải là gia đình thánh, Mẹ Maria hằng ngày vẫn luôn cầu nguyện cho gia đình chúng ta nên thánh, ta có muốn cộng tác với Mẹ Maria, để biến gia đình ta nên thánh không?
50. Giáo hội nhỏ
Hôm nay Giáo Hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Gia: Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, một gia đình kiểu mẫu cho mọi gia đình. Vậy theo gương Thánh Gia, mỗi gia đình Công giáo phải thế nào?
Tình yêu không phải là một xa xỉ phẩm, nó là một thứ tối cần để nâng đỡ và xây dựng cuộc sống. Tình yêu làm nên hạnh phúc. Vì thế, đi tìm và đón nhận tình yêu không phải là việc không quan trọng. Nhưng trước khi đi tìm tình yêu ở nơi khác, hãy tìm và hun đúc tình yêu nơi chính gia đình mình.
Tình yêu gia đình là tình yêu tự nhiên nhất, sớm sủa nhất và lành mạnh nhất. Gia đình phải là một tổ ấm tình yêu, để rồi lại trở thành nền tảng cho mọi thứ tình yêu khác. Tuy nhiên, tình yêu nào mà lại chẳng có hy sinh. Tình yêu thiếu hy sinh là tình yêu dỏm. Hy sinh thiếu tình yêu là hy sinh thừa. Tình yêu trong tổ ấm gia đình không phải là một luật trừ, cho dù gia đình gồm toàn những người rất thánh, cũng khó tránh khỏi những chuyện làm buồn lòng nhau. Vì thế, điều quan trọng không phải là tránh được hết mọi chuyện không vui, nhưng là biết lợi dụng tất cả những vui buồn để dắt nhau về cõi phúc. Nếu biết hiểu như thế, nhất là nếu biết thực hiện như thế, thì gia đình sẽ vừa là tổ ấm tình yêu, vừa là nơi đặt nền cho mọi tình thương, và cũng là lò luyện hy sinh.
Mỗi gia đình là một Giáo Hội, một Giáo Hội rút gọn. Đã là một Giáo Hội rút gọn thì mỗi gia đình phải lập lại hình ảnh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi hiệp nhất, yêu dấu và chia sẻ mọi sự với nhau thế nào, thì mỗi gia đình cũng phải đoàn kết trong tình yêu thương lẫn nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái như vậy. Mỗi người không còn ích kỷ, tìm lợi riêng cho mình, nhưng quên mình để làm sao cho những người khác trong gia đình được nâng đỡ, được hạnh phúc vui tươi trong bầu khí yêu thương đó.
Nếu mọi người trong gia đình biết sống như thế thì gia đình thật là một Giáo Hội nhỏ, sống trong tình thương, và dâng lên Thiên Chúa những của lễ thiêng liêng là những hoạt động hằng ngày của gia đình. Như thế, dù chúng ta ở đâu, gần nhà thờ hay xa nhà thờ, gia đình chúng ta vẫn là một đền thờ tốt đẹp quí báu.
Một gia đình sống theo những điều trên đây sẽ là một trường rất tốt để dạy đức tin cho con cái. Có nhiều người trong gia đình chỉ lo làm ăn và nuôi dưỡng phần tự nhiên cho con cái. Điều đó tốt thôi, nhưng nếu xao lãng không quan tâm một chút nào đến việc dạy dỗ đức tin cho con cái thì là một thiếu sót lớn. Đàng khác, có nhiều gia đình cũng quan tâm đến việc ấy nhưng lại ỷ vào người khác như các cha, các tu sĩ, các giáo lý viên, các hội đoàn. Như vậy cũng không được. Đã đến lúc những người làm cha mẹ phải ý thức: công việc đó trước tiên là công việc của mình và chính mình phải chịu trách nhiệm về đức tin của con cái trước mặt Thiên Chúa sau này, như trong Hiến Chế về Giáo Hội, Công Đồng Vaticanô II đã nói: “Những người đầu tiên phải lấy lời nói và gương sáng mà dạy dỗ đức tin cho con cái chính là cha mẹ”.
Thực vậy, gia đình là trường dạy đức tin cho con cái tốt nhất, vì không phải chỉ dạy một tuần một hai giờ mà dạy hằng ngày, luôn luôn. Ước chi các bậc cha mẹ đều bắt chước thánh Giuse và Đức Mẹ như Tin Mừng nói: “Các ngài luôn vâng giữ lời Chúa và siêng năng dự các lễ nghi như luật dạy”. Nếu các người làm cha mẹ có lòng tin vững chắc, biết truyền lại cho con cái niềm tin của mình, bằng lời dạy dỗ, bằng gương sáng trong cách ăn ở hằng ngày, thì con cái chắc chắn sẽ theo đường lối ấy. Ước chi mỗi gia đình Công giáo đều hiểu và sống như vậy.
51. Công cha – Nghĩa mẹ
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Câu ca dao này dường như là người Việt nam ai cũng thuộc nằm lòng. Có thể nói bất cứ người Việt nam nào dù sang hay hèn, dù có hay không có địa vị đều ý thức và tôn trọng chữ Hiếu. Đây chình là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt nam.
Không ai có thể phủ nhận rằng cha mẹ là những người có công lớn trong việc sinh thành và dưỡng dục ta. Lại nữa, trong đức tin ta biết rằng cha mẹ được ơn đồng sáng tạo với Thiên Chúa khi sinh ra ta. Do đó, con người dù thành đạt cách mấy mà không biết hiếu thảo với cha mẹ thì cũng được xem là thấp. Bởi vì, một trong những tiêu chuẩn để đánh giá một con người đó tấm lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
Với thân phận làm người, Chúa Giêsu cũng được sinh ra và lớn lên trong gia đình như ta. Người luôn ý thức và chu toàn tốt bổn phận làm con của mình. Phải công nhận gia đình Nagiareth là gia đình hạnh phúc và kiểu mẫu. Dù rằng có thể gia đình này thua sút nhiều mặt.
Trong mười điều răn Đức Chúa Trời sau ba điều về Chúa liền đó là điều dạy phải thảo kính cha mẹ. Rồi hằng năm vào mùng hai Tết âm lịch cũng như cả tháng 11 Giáo hội không ngừng nhắc nhở giáo dân nhớ đến ông bà cha mẹ. Ta không thể nào sống hiếu thảo với Chúa nếu như trước đó ta chưa sống hiếu thảo với cha mẹ.
Không biết đã có bao nhiêu bài hát, ca dao, tục ngữ, bài thơ......ca ngợi công ơn cha mẹ. Tuy nhiên, ngày nay do ảnh hưởng lối sống thực dụng nên có nhiều người dường như xem thường công ơn cha mẹ. Có nhiều kẻ làm con vì quá ích kỷ nên đã bỏ cha mẹ cô đơn, trong khi đó mình dư khả năng để lo cho các ngài. Thật đáng tiếc.
Có câu chuyện kể rằng trong gia đình nọ, ngày kia đứa con thấy cha nó gọt cái gáo dừa mới hỏi cha nó gọt làm chi. Lặng nhìn đứa con hồi lâu ông ta trả lời: “Để cho ông nội mày ăn cơm. Vì lúc này ông nội mày làm bể chén hoài, phí quá!”. Đứa con suy nghĩ và không nói gì. Vài ngày sau đó, nó cũng đem gáo dừa khác ra gọt. Tưởng là con cũng đồng tình với mình , người cha hí hởn hỏi: “Bộ mày tính giúp tao lo cho ông nội mày hả?”. Đứa con trả lời: “Đâu có, cái này con để dành cho cha. Khi nào cha như ông nội con sẽ cho cha xài”. Nghe xong câu trả lời người cha tái mặt......
Như vậy, công ơn cha mẹ không biết làm sao ta có có thể đáp đền cho cân xứng. Dù rằng ta có thành tài cách mấy đi nữa mà không có lòng hiếu thảo cha mẹ thì cũng kể bằng không. Hơn nữa, thái độ của ta với cha mẹ như thế nào thì con cháu sẽ nhìn vào đó để cư xử với ta như vậy.
52. Vai trò của gia đình
Nếu chúng ta trồng cây nơi đất trống, thì cây đó sẽ rất dễ bị lay động, vì đành phải phó mặc cho cơn gió thổi. Nếu còn sống sót, nó sẽ bị cong queo, trơ trụi, có thể trở thành một mẫu vật nghèo nàn. Nếu muốn trồng một cây để nó được phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó, thì bạn phải trồng nó ở một nơi mà nó có thể được che chở nhiều hơn. Bạn đừng trồng cây đó ở riêng một chỗ, mà phải trồng nó cùng với một số cây khác.
Điều quan trọng sống còn là cần phải có một khoảng cách thích hợp giữa các cây. Chúng phải gần nhau đủ, để có khả năng cung cấp chỗ trú ẩn và bảo vệ cho nhau. Tuy nhiên, chúng không được quá gần gũi nhau, đến nỗi có thể hiếp đáp nhau. Chúng phải được trồng xa nhau vừa đủ, đảm bảo sao cho mỗi cây đều có một khoảng cách thích hợp, để phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó.
Trồng cây một mình một chỗ là không tốt. Cũng vậy, nếu chúng ta ở một mình thì cũng không tốt. Vì tính cách toàn diện, và vì sức khỏe tinh thần của mình, chúng ta cần ràng buộc tình yêu và tình bạn với người khác. Thiên Chúa không dựng nên chúng ta để ở một mình, nhưng là để sống cộng đồng. Bản thân con người chúng ta không đủ để đáp ứng cho chính mình. Chúng ta cần có người khác nữa, để trở nên những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta.
Đây cũng là trường hợp được ứng dụng cho các gia đình. Cây cối được trồng trong cái hố nhỏ là hình ảnh tốt về gia đình. Trong một gia đình lý tưởng, phải có sự gần gũi, đồng thời cũng phải có một khoảng cách nhất định. Cần có sự gần gũi để các phần tử có thể giúp đỡ nhau. Cần có khoảng cách để đảm bảo rằng họ không xâm phạm vào sự riêng tư của mỗi người. Mỗi phần tử cần có một giới hạn, một sự thân mật và ấm cúng mà mỗi người cần có. Tuy nhiên, cũng cần phải có một khoảng không gian, để mỗi người phát triển đúng tiềm năng của mình. Đây là một thách đố lớn: Đó là phải làm thế nào để đạt được sự gần gũi, mà không xâm phạm hoặc thống trị nhau.
Trong gia đình, chúng ta học hỏi để hình thành những mối tương quan với những người khác, một điều gì đó là quan trọng sống động đối với chúng ta. Khi không có khả năng quan hệ, đó là sự cản trở và buồn phiền lớn. Nếu không có quan hệ gần gũi, chúng ta đành phải phó mặc cho cơn gió lạnh của nỗi buồn phiền và cô đơn.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình, chúng ta học hỏi để liên đới với người khác. Ở đây, chúng ta tạo ra một căn phòng cho người khác trong đời sống của chúng ta. Ở đây, chúng ta học hỏi cách thức chia sẻ và sống có trách nhiệm với người khác.
Trong xã hội, gia đình bị đặt dưới nhiều sức ép. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không coi trọng giá trị của gia đình. Đó là vì chúng ta không được chuẩn bị các nguyên tắc để giữ được bầu khí êm thấm trong gia đình. Gia đình được xây dựng dựa trên những cam kết của lời hứa, sự trung thành và tự hiến. Bằng cách sống trong cộng đồng nhỏ bé của tình yêu với Đức Mẹ, thánh Giuse ở Nagiarét, Đức Giêsu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan và nhân đức, trong lòng yêu mến của Thiên Chúa và loài người.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình, chúng ta có một nơi chốn, chúng ta có những ràng buộc, chúng ta có một căn tính, chúng ta có gốc rễ. Mặc dù gia đình nào cũng đều có khó khăn, nhưng đây không hẳn là điều xấu. Khó khăn có thể là một ân huệ. Những cây nào bị trồng trong đất xấu, thì cần phải có một bộ rễ vững chắc. Vì vậy, cần phải co sự đoàn kết với nhau hơn, để chống trả lại với những bão táp không thể tránh khỏi của cuộc đời.
53. Mái ấm gia đình
Sinh ra làm con người ai cũng có một gia đình, có cha, có mẹ, có anh chị em...Thiên Chúa làm người Người cũng chọn cho mình một gia đình. Ngài có cha, có mẹ. Chính gia đình này là mẫu gương cho tất cả mọi gia đình. Vì sao thế?
Gia đình Nagiareth là Thánh Gia Thất vì gia đình này luôn có Chúa hiện diện. Chính Chúa là trung tâm của đời sống gia đình. Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria luôn xác tín rằng con mình là Thiên Chúa, Thiên Chúa làm người ở với nhân loại. Nên mọi sự trong gia đình đều được sưởi ấm bởi niềm xác tín này. Là Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu không miễn trừ cho mình luật lên Giêrusalem hằng năm và Ngài đã ở lại trong Đền Thờ để làm công việc của Cha Ngài mà Thánh Giuse và Đức Mẹ không biết. Thánh Luca thuật lại việc lạc mất Chúa Giêsu cho ta thấy rõ vai trò của Chúa Giêsu trong gia đình quan trọng như thế nào. Sau ba ngày tìm Con mới gặp lại con trong hoàn cảnh làm cho Đức Mẹ và Thánh Giuse ngạc nhiên sửng sốt. Thánh Giuse và Mẹ Maria mặc dù biết Con mình là Ai nhưng làm sao hiểu được ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Câu trả lời của Chúa Giêsu với Đức Mẹ: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” đây cũng là một mặc khải đòi hỏi Thánh Giuse và Đức Mẹ phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa mặc dù hai ông bà chưa thể hiểu thấu.
Gia đình Kitô hữu chúng ta noi gương gia đình Nagiareth hãy để Chúa Giêsu làm trung tâm đời sống gia đình mình, hãy để Chúa Giêsu nối kết mọi thành viên trong gia đình. Có Chúa Giêsu hiện diện chắc chắn mọi sự sẽ được quan phòng, chăm nom trong tình yêu Thiên Chúa. Có những lúc gia đình chúng ta cũng lạc mất Chúa, mất niềm tin, mất hy vọng... hãy bắt chước Đức Mẹ và Thánh Giuse mau mắn đi tìm Chúa. Việc đi tìm Chúa đòi hỏi gia đình chúng ta phải có sự kiên trì và nhận ra Ngài trong những cảnh huống của cuộc sống. Xưa Thiên Chúa đòi hỏi Thánh Giuse và Đức Mẹ từng bước từng bước nhận ra mặc khải của Thiên Chúa trong cuộc sống của Chúa Giêsu thì nay Chúa cũng đòi hỏi chúng ta nhận ra Ngài, tin tưởng vào Ngài trong cuộc sống với tinh thần vâng phục cho dù ta chưa hiểu, cho dù khó chấp nhận...
Thánh Giuse và Đức Mẹ đã hoàn thành trọn vẹn ý định của Thiên Chúa là làm cha và làm mẹ Đấng Cứu Thế. Trong bản văn (Lc 2, 41- 52 ) được đọc hôm nay ta không thấy Thánh Giuse nói lên một tiếng nói nào, hình bóng của Thánh Giuse thật mờ nhạt nhưng không vì thế mà ta có thể nói vai trò của Thánh Giuse là không quan trọng. Thánh Giuse là chủ gia đình. Gia đình có vững chắc, có nề nếp hay không là do ở người chủ này. Mười hai tuổi Chúa Giêsu được phép theo người chủ này lên Giêrusalem. Khi lạc mất con Thánh Giuse phải vất vả và tìm kiếm. Người ở người nam thường là thế, lo lắng lắm, vất vả lắm, đau khổ lắm... nhưng ít có khi bộc lộ. Ở đây ta thấy vai trò thầm lặng của Thánh Giuse thật đặc biệt. Thầm lặng dõi tìm con để nhận ra ý Chúa muốn cho cuộc đời mình. Mẹ Maria cũng thế, sau khi gặp Con, nghe câu nói của Con dù Mẹ không hiểu nhưng Mẹ không đòi giải thích hay oán trách nhưng Mẹ suy niệm những lời ấy trong lòng.
Chúa Giêsu đã chọn gia đình là bước khởi đầu cho hành trình bước lên đồi Sọ của Ngài. Ngài đã sống vâng phục cha mẹ Ngài, thánh hóa gia đình và làm cho gia đình có một ý nghĩa đặc biệt là môi trường dưỡng nuôi Con Thiên Chúa làm người. Luca hôm nay cũng cho ta thấy đâu là cùng đích thực sự mà ta phải tiến về và đâu là bổn phận mà ta phải vâng phục “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”. Hỡi các bậc làm cha mẹ hãy vâng lời Thiên Chúa chăm lo dạy dỗ con cái, hãy yêu thương nâng đỡ chúng. Hỡi những người làm con hãy vâng lời cha mẹ và như thế là vâng phục thánh ý Chúa. Hãy làm tròn bổn phận của mình trong gia đình vì gia đình môi trường để nên thánh, môi trường đã được chính Con Thiên Chúa sống và thánh hóa. Hỡi các gia đình hãy để Thiên Chúa hiện diện trong gia đình, hãy để Chúa làm trung tâm của mọi suy nghĩ , mọi sinh hoạt...khi đó chắc chắn gia đình bạn cũng sẽ là một thánh gia thất.
54. Cha mẹ và con cái
Bài đọc 1 tường thuật về giới răn thứ bốn “Hãy thảo kính cha mẹ”. Thật đáng tiếc, người ta lại hay nhìn vào giới răn này theo nghĩa hẹp. Có ba yếu tố chính trong giới răn này:
Trước hết, bổn phận đầu tiên của cha mẹ là phải yêu thương và săn sóc con cái. Chúng ta nhận thấy tấm gương tốt đẹp nhất về phương diện này trong bài Tin Mừng hôm nay. Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy những điều mà Đức Mẹ và thánh Giuse đã làm để bảo vệ sự an toàn cho con trẻ Giêsu. Ngay khi các ngài biết rằng đời sống con trẻ bị nguy hiểm, các ngài đã ra đi sống tha phương. Và khi cơn hiểm nguy qua đi, các ngài lại quay trở về quê hương của mình, và đã định cư ở Nagiarét. Trong nhà của mình tại Nagiarét, các ngài đã tạo ra được một môi trường mà trong đó, theo Tin Mừng thuật lại, Đức Giêsu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan, có tầm cỡ, và trong lòng yêu mến đối với Thiên Chúa và mọi người.
Thứ đến, con cái bắt buộc phải vâng lời cha mẹ. Ở Nagiarét, Đức Giêsu là nhân vật chính đối với Đức Mẹ và thánh Giuse. Đức Mẹ là người phụ nữ của lòng tin, ngài đã yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn. Còn thánh Giuse đã được Tin Mừng mô tả là một người công chính, nghĩa là một người luôn sống và làm việc theo luật của Thiên Chúa. Các ngài đã nuôi dưỡng, dạy dỗ và uốn nắn con trẻ Giêsu nên người.
Tại Nagiarét, Đức Giêsu có thể âm thầm lớn lên trong sự che chở của cha mẹ Người. 30 năm đầu đời của Đức Giêsu rất quan trọng đối với Người. Trong suốt 30 năm ấy, Người đã lớn lên, trưởng thành và đã chín mùi. Trong suốt những yếu tố ảnh hưởng trên chúng ta, gia đình là yếu tố gây ảnh hưởng nhiều nhất. Những ảnh hưởng của gia đình tồn tại nơi chúng ta suốt đời.
Thứ ba, những người con đã trưởng thành bắt buộc phải đảm bảo cho cha mẹ khi về già, có thể được sống thoải mái, xứng đáng với nhân phẩm. Đây là trọng tâm của bài đọc 1.
Điều này liên quan đặc biệt đến thời đại chúng ta, khi những người lớn tuổi có khuynh hướng hay bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Với sức mạnh của mình, chúng ta dễ dàng quên rằng họ là những người yếu đuối, và có lẽ hơi bị lão suy rồi. Có một câu tục ngữ “Một mẹ có thể nuôi được 10 con, nhưng 10 con không thể nuôi được một mẹ”. Dưới nhan Thiên Chúa, chúng ta mắc nợ cha mẹ chúng ta đủ thứ. Tác giả sách Giảng Viên đã quả quyết rằng lòng tận tụy của con cái đối với cha mẹ đặc biệt làm hài lòng Thiên Chúa, Người đón nhận tấm lòng đó như là một hành động chuộc lại lỗi lầm.
Gia đình Thánh Gia là mẫu mực. Khi Đức Giêsu sắp trút hơi thở cuối cùng trên thánh giá. Người đã nghĩ đến Mẹ Người, và đã trao phó Mẹ Người cho môn đệ Gioan chăm sóc. (Theo truyền thống, lúc đó thánh Giuse qua đời rồi).
Ngoài ra, việc quan tâm chăm sóc người thân trong họ hàng cũng không phải là điều dễ. Khi hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải nuôi dưỡng những người đó, thì quả thật là khó khăn. Nhất là đối với những người vốn có tính hay yêu sách. Mặc dù thế, khi chúng ta cư xử với họ bằng lòng từ tâm, là chúng ta đã làm một công việc thánh thiện nhất. Cũng như khi nhân danh Thiên Chúa, chúng ta cho người anh em một ly nước, đó là chúng ta đã phục vụ chính Thiên Chúa vậy.
55. Gia đình cần có một cõi riêng tư dành cho Chúa
Chúa Nhật hôm nay, Giáo Hội cử hành Thánh lễ mừng kính gia đình Thánh Gia. Gia đình Thánh Gia là một gia đình gương mẫu của mỗi gia đình chúng ta. Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu xem gia đình Thánh Gia là một gia đình như thế nào.
Nhìn vào trong hang đá máng cỏ, chúng ta thấy gia đình Thánh Gia là một gia đình gồm các thành viên, có: cha là thánh Giuse, mẹ là Đức Maria, con là Chúa Giêsu. Những thành viên trong gia đình này luôn gắn bó với nhau, sát cánh bên nhau và luôn tạo nên hơi ấm tình thương cho nhau.
Tuy nhiên, trong bài Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy trong gia đình Thánh Gia, ngoài thánh Giuse, Đức Maria, Chúa Giêsu ra, còn có một thành viên khác nữa. Thành viên này được Chúa Giêsu coi trọng hơn Thánh Giuse, trọng hơn Đức Maria, trọng hơn những người bà con dòng họ cùng đi hành hương với Ngài. Chính vì thế mà khi được sống trong nhà của thành viên này, Chúa Giêsu hầu như đã quên đi tất cả những thành viên khác. Và Ngài đã ở nhà của thành viên này cho tới khi Đức Maria và Thánh Giuse tìm được Ngài sau khi đã thất lạc Ngài trong suốt ba ngày trời.
Thưa ông bà anh chị em! Ôâng bà anh chị em đã biết rõ thành viên này là ai rồi. Thưa, Người đó chính là Chúa Cha, là Người Cha thật sự của Chúa Giêsu.
Khi suy gẫm về bài Phúc Âm này, tôi nhận thấy, thời gian mà một mình Chúa Giêsu ở lại trong nhà Cha, là một trong những khoảnh khắc đẹp nhất, hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Lúc đó, Chúa Giêsu như không còn để ý, không còn vương vấn với bất cứ một ai khác, kể cả những người vốn rất thân thiết trong gia đình Ngài. Lúc đó, Chúa Cha trở nên đẹp nhất, quan trọng nhất, gắn bó nhất đối với Chúa Giêsu. Tôi xin mượn tên của một bài hát trong CD. TÌNH CA VÔ TẬN của linh mục nhạc sĩ Thái Nguyên để gọi khoãng không gian và thời gian này là một cõi riêng tư dành cho Chúa. Một cõi riêng tư mà Chúa Giêsu dùng để cầu nguyện với Chúa Cha. Một cỏi riêng tư Chúa Giêsu dùng để học hỏi, tìm hiểu về Chúa Cha qua các bậc thầy khôn ngoan. Một cõi riêng tư được Chúa Giêsu dùng để gặp gỡ Chúa Cha, đón nhận thánh ý Chúa Cha và múc lấy Tình Yêu của Chúa Cha.
Thưa ông bà anh chị em! Về điểm này thì Chúa Giêsu chắc chắn hơn hẳn chúng ta. Mặc dù trong căn nhà của chúng ta có dành một chổ nhỏ ưu tiên cho việc làm bàn thờ, thờ Chúa. Và trong thời gian sống của chúng ta, chúng ta cũng nhín ít thời gian để đọc kinh, cầu nguyện, tham dự Thánh lễ. Tuy nhiên, bên trong tâm hồn của chúng ta, chưa chắc đã có một cỏi riêng tư, hoàn toàn dành cho Chúa. Vì vậy mà khi chúng ta đến với chúa qua những việc đọc kinh, cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, chúng ta thường không cảm nhận được Chúa một cách thật sự sống động. Điều này dễ hiểu thôi. Tại vì lúc đó, chúng ta chưa thiết lập được một cỏi riêng tư dành cho Chúa ngay trong tâm hồn của mình. Khi đến với Chúa, chúng ta đã không dám mạnh dạn như Chúa Giêsu, không dám mạnh dạn buông bỏ tất cả những gì làm chúng ta lo ra chia trí, không dám buông bỏ tất cả những gì ngăn cản chúng ta tiếp cận với Chúa. Vì vậy mà khi chúng ta đến với Chúa, chúng ta thường mang theo biết bao những ưu tư, những mặc cảm, những lo lắng, những chương trình, những dự định, những công việc, những con người mà chúng ta đang quan tâm. Nếu chúng ta không cố tình mang những thứ đó theo, thì ít ra là những thứ đó đang chi phối chúng ta đến mức mà chúng ta không thể nào buông bỏ được nó. Chúng ta muốn bỏ nó, nhưng nó cứ bám lấy chúng ta. Điều này chưa chắc đã là xấu. Tuy nhiên, nó chỉ tốt khi những quan tâm lo lắng của mình không chiếm hết chổ trong tâm hồn mình. Nếu không, mình chỉ cảm nhận Chúa như là một cái máy có nhiệm vụ ghi âm và sử lý những mối bận tâm của mình. Và mình sẽ không bao giờ cảm nhận Chúa như là một thực thể sống động biết yêu thương, biết rung cảm trước những đau khổ phiền muộn của mình.
Vì vậy, tôi khuyên ông bà anh chị em hãy thiết lập một cõi riêng tư trong tâm hồn mình để dành riêng cho Chúa. khi đó, ông bà anh chị em mới cảm nhận được Chúa sống động như thế nào và Chúa yêu thương mình như thế nào. Và chỉ có như vậy, ông bà anh chị em mới thật sự cảm thấy vui tươi, bình an và hạnh phúc. Và lúc đó, ông bà anh chị em sẽ trở nên một mối dây liên kết những thành viên khác trong gia đình mình. Ôâng bà anh chị em trở nên hơi ấm chả Tình Yêu Thiên Chúa sưởi ấm gia đình mình. Và gia đình của ông bà anh chị em sẽ trở nên mái ấm cho Thiên Chúa ngự trị. Kính chúc ông bà anh chị em luôn cảm nhận được Thiên Chúa đang hiện diện sống động nơi mình, nơi gia đình mình khi ông bà anh chị em thiết lập được một cõi riêng tư dành cho Chúa ngay trong tâm hồn, ngay trong cuộc sống gia đình của ông bà anh chị em! Amen.
56. Gia đình tôn thờ Thiên Chúa
Một bà mẹ trẻ ngồi ôm cậu con trai 4 tuổi trong lòng, bà nói với con là nó sắp có em bé. Bà mẹ giải thích cho con mình rằng nó có thể giúp săn sóc cho em bằng cách cầm chai sữa, đi lấy tã cho em khi cần, và đẩy xe cho em... Sau khi nghe mẹ nói một hơi, chú bé tuột xuống khỏi lòng mẹ, đứng nhìn vào mẹ và nói một cách nghiêm nghị:
- Vậy là bao nhiêu việc con phải làm hết, còn mommy không phải làm gì sao?
Gia đình là cộng đoàn tình yêu trong đó mỗi phần tử đều có vai trò phải chu toàn, đóng góp. Vợ chồng phải biết kính trọng yêu thương nhau. Cha mẹ có trách nhiệm dưỡng nuôi và dạy dỗ con cái nên người tốt, giúp ích cho xã hội. Con cái phải vâng lời, thảo kính cha mẹ. Đó là trật tự Thiên Chúa đã xếp đặt để mỗi người được sinh ra và lớn lên trong một bầu khí tràn đầy tình thương. Tuy nhiên trật tự đó đã bị con người ngày nay làm hư hại nặng nề vì cuộc sống buông thả theo tính dục. Con cái sinh ra không có gia đình yêu thương bao bọc, để rồi lớn lên trong sự hờ hững, hất hủi, đưa đến kết quả mang tâm trạng nổi loạn, bất cần đời, hận thù, giết hại người khác.
Gia đình là viên gạch xây dựng xã hội. Khi viên gạch bị hư hỏng, mục nát thì xã hội cũng bị xụp đổ, điêu tàn. Muốn gây dựng lại xã hội, người ta phải gầy dựng lại gia đình. Muốn tái lập gia đình, con người phải đặt Thiên Chúa vào địa vị tối cao nơi gia đình. Đó là bài học con người ngày nay cần học nơi Thánh Gia.
Bài Phúc Âm hôm nay diễn tả một hình ảnh đẹp của gia đình: Thánh Giuse và Đức Mẹ bế Chúa Giêsu hài nhi vào Đền thờ để dâng của lễ, phụng thờ Thiên Chúa. Tại Đền Thờ, Đức Maria đã được mạc khải rằng tương lai và sứ mạng của Mẹ gắn liền với Chúa Kitô trong những khổ đau đem lại ơn cứu chuộc cho nhân loại. Thánh gia đã đến thờ phượng Thiên Chúa như một gia đình. Từ đó Thiên Chúa đã mạc khải cho mỗi người nhận ra vai trò của mình nơi gia đình và trong xã hội. Muốn cho gia đình được đời sống êm ấm, hạnh phúc, chúng ta phải đặt tinh thần thờ phượng Thiên Chúa lên trên hết. Tinh thần đó thể hiện qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật. Gia đình cùng đi dự lễ, cùng ngồi với nhau. Cha mẹ dùng dịp này để giáo dục cho con cái về ý nghĩa việc dự lễ, ý nghĩa các bài đọc, lời linh mục giảng. Đứa trẻ nào cũng có vài cảm nghĩ nào đó mỗi khi dự lễ, về nhà thờ, về ca đoàn, về linh mục, về những nghi thức phụng vụ... Dò hỏi các em về những cảm nghĩ đó để hiểu biết tâm tư các em, lợi dụng cơ hội đó để dạy cho các em biết tham dự thánh lễ cách có ý nghĩa hơn. Ngoài ra gia đình nên có giờ đọc kinh tối mỗi ngày sao cho thích hợp với tuổi trẻ: một vài chục kinh Mân Côi, một đoạn Kinh Thánh với vài lời suy niệm, một lời nguyện tự phát dâng lên Chúa... Điều đó đem lại nhiều lợi ích cho người trẻ hơn những tràng kinh vô cùng, không Amen.
57. Gia đình cầu nguyện – Lm Mark Link, SJ
Cách đây ít lâu, tạp chí Reader’s Digest có đăng một bài báo tựa đề “thăm dò gia đình”. Bài này gồm 12 câu hỏi dành cho các bậc cha mẹ. Một trong những câu hỏi đó như sau: “Hôm lễ Giáng Sinh, trong bữa ăn tối có mời khách, bạn có cảm thấy thoải mái, dễ dàng khi bạn yêu cầu bất cứ một đứa con nào của bạn đọc kinh không?”. Câu hỏi này khiến ta phải lưu ý tới một trong những vấn đề chính yếu phải quan tâm của mọi gia đình đó là đời sống cầu nguyện trong gia đình.
Đời sống cầu nguyện trong gia đình phải được thực hiện dưới ba hình thức khác nhau:
Trước hết là hình thức cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người trong gia đình cầu nguyện riêng với Thiên Chúa. Chẳng hạn người cha cầu nguyện trên đường đi tới sở làm việc. Người mẹ cầu nguyện khi chăm sóc đứa con sơ sinh bị đau. Các con trong nhà cầu nguyện trước khi đi ngủ. Có nhiều cách cầu nguyện riêng một mình.Có thể cầu nguyện bằng cách đọc kinh đã làm sẵn, chẳng hạn như kinh Lạy Cha, vừa đọc vừa suy gẫm những lời ta đọc. Cũng có thể cầu nguyện bằng Thánh Kinh bằng cách đọc một đoạn ngắn rồi suy gẫm những tư tưởng trong đó. Chúng ta cũng có thể cầu nguyện bằng chính những lời lẽ của mình, tự do nói với Thiên Chúa những tâm tình từ trái tim mình.
Chúa Giêsu thường cầu nguyện một mình. Chẳng hạn Ngài cầu nguyện khi để Gioan tẩy Gỉa rửa tội cho mình tại dòng sông Giođan. Ngài cầu nguyện khi thi hành tác vụ rao giảng Tin Mừng của Ngài. Ngài hay cầu nguyện ở trong các khu vườn.
Một trong những món qùa qúi báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích và thường thức những giây phút cầu nguyện một mình. Không có cách nào thực hiện điều đó tốt hơn là dùng chính những gương sáng của mình.
Dorothy Day là một phụ nữ được báo New York Times gọi là “người có nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử công giáo Hoa kỳ”, bà nói rằng một trong những hấp lực đầu tiên lôi kéo bà đến với đạo công giáo là khi còn nhỏ bà được nhìn thấy một người công giáo đứng tuổi đang cầu nguyện. Bà viết: “hôm đó vào khoảng 10 giờ sáng, tôi đến nhà Kathryn để thăm và để rủ cô ấy đi chơi. Lúc đó không có ai ngoài hành lang hay trong nhà bếp cả…Tôi bước đại vào nhà thì thấy bà Barrett đang qùi đọc kinh ở phòng ngoài. Bà quay lại bảo tôi rằng Kathryn và bọn trẻ đã đi ra cửa hàng mua đồ, rồi bà lại tiếp tục cầu nguyện. Thế là tôi cảm thấy có một niềm yêu thương ấm áp nẩy sinh trong tâm hồn tôi đối với bà Barrett”. Đó là một cảnh tượng thật đẹp, và tôi chắc chắn rằng nhiều người trong chúng ta cũng có thể kể những thí dụ tương tự về những người công giáo đã lớn tuổi đang cầu nguyện như thế.
Hình thức thứ hai của việc cầu nguyện trong gia đình là cầu nguyện chung: mọi người trong gia đình cầu nguyện chung với nhau. Chẳng hạn cầu nguyện lúc mọi người tề tựu chung quanh bàn ăn để dùng bữa hay lúc chuẩn bị đi ngủ, hay vào những lúc thuận tiện khác. Đức Giêsu thường cầu nguyện chung với gia đình Ngài. Người Do Thái đặt rất nặng việc cầu nguyện chung trong gia đình, đặc biệt vào các bữa cơm gia đình. Người Do Thái có một câu tục ngữ cổ nói rằng ai ăn mà không tạ ơn Thiên Chúa thì đó là người ăn cắp của Thiên Chúa. Đức Giêsu thường cầu nguyện trong các bữa ăn. Chẳng hạn Người cầu nguyện khi cho đám dân chúng đang đói được ăn no trên sườn đồi (Lc.9,16). Ngài cầu nguyện trong bữa tiệc ly (Lc.22, 19). Ngài cầu nguyện khi ăn chung với hai môn đệ làng Emmau (Lc 24,30).
Một lần nữa, ta có thể nói rằng một trong những món qùa qúi báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích và thưởng thức việc cầu nguyện chung cho gia đình. Trong tiểu sử của tướng Douglas Mac Arthur, Couttney Whitney có trưng dẫn một câu nói của ông: “Tôi là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh diện hơn rất nhiều vì được làm một người cha…và niềm hy vọng của tôi là: Khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi vẫn nhớ đến tôi không phải với những hình ảnh ở trận chiến mà là những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó bài kinh thường đọc hàng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”
Cuối cùng là hình thức cầu nguyện với cộng đoàn, trong đó gia đình cầu nguyện với những gia đình khác, vào các ngày Chúa nhật. Dĩ nhiên không phải lúc nào cũng tổ chức được những buổi cầu nguyện chung cho nhiều gia đình như thế. Nhưng nếu các gia đình đều cố gắng thực hiện những điều đó, thì vẫn có thể tổ chức được dưới hình thức này hay hình thức khác. Chẳng hạn các gia đình công giáo ở gần nhau, trong cùng một khu vực, một xóm hay một làng, có thể cùng tụ họp ở một gia đình nào đó, luân phiên nhau nay nhà này mai nhà khác, để cùng cầu nguyện chung với nhau hằng ngày hay hằng tuần. Nhờ vậy các gia đình trở nên gần gũi nhau hơn, sự gắn bó và đoàn kết các gia đình trở nên chặt chẽ hơn. Thông thường hơn cả là các gia đình tụ họp chung tại nhà thờ họ đạo vào những giờ giấc nhất định trong ngày, chẳng hạn như vào các buổi tối, như một sinh hoạt bình thường của họ đạo.
Đức Giêsu thường cầu nguyện theo kiểu này. Ngài cùng cầu nguyện chung với các gia đình khác. Thánh Luca có viết trong Tin Mừng của ngài: “Đức Giêsu trở về Nazaret nơi Ngài sinh trưởng, hôm đó là ngày Sabat, Ngài đến hội đường (để đọc Kinh Thánh và cầu nguyện ) như thường lệ (Lc. 4.16)
Lễ Thánh Gia hôm nay là một dịp để chúng ta tự vấn về chất lượng cầu nguyện trong gia đình của mình. Nói cụ thể hơn là chúng ta – cha mẹ, con trai, con gái- đã góp phần vào đời sống cầu nguyện trong gia đình như thế nào. Chúng ta hãy nhớ lại cách mà bài “thăm dò về gia đình” đặt vấn đề đối với các bậc cha mẹ: “hôm lễ Giáng Sinh, trong bữa ăn tối có mời khách, bạn có cảm thấy thoải mái, dễ dàng, khi bạn yêu cầu bất kỳ đứa con nào của bạn đọc kinh không?” Nếu chúng ta trả lời không (nghĩa là không thoải mái dễ dàng), thì những bài đọc Thánh Kinh hôm nay là một sứ điệp quan trọng đối với chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện bằng một bài kinh. Tướng Douglas Mac Arthur viết bài kinh này khi ở Philippines trong những ngày mở đầu cuộc chiến tranh tại Thái Bình Dương. Mặc dù đó là bài kinh ông cầu nguyện cho các con trai ông, nhưng nó cũng thích hợp cho các thiếu nữ. Xin mọi người hãy im lặng và cùng cầu nguyện với tôi:
“Lạy Chúa, xin hãy ban cho đứa con trai của con được đủ sức mạnh để biết được lúc nào nó yếu đuối, đủ dũng cảm để đối diện với chính mình khi nó cảm thấy sợ hãi…Xin đừng để cho đứa con trai của con chỉ biết ước muốn mà không dám hành động…Xin Chúa đừng để nó đi vào con đường thích dễ dãi tiện nghi, nhưng hãy hướng dẫn nó đi vào con đường bắt buộc nó phải cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách.
“Xin hãy tập cho nó đứng vững trong bão tố, nhưng lại biết thông cảm với những ai gục ngã.
“Xin hãy ban cho đứa con trai của con có một trái tim trong sạch, có một mục đích cao cả, biết tự chủ lấy mình trước khi muốn làm chủ người khác, biết lo lắng cho tương lai mà không bao giờ quên qúa khứ.
“Và khi Chúa đã ban cho nó tất cả những điều ấy, xin Chúa hãy ban cho nó có đủ tính khôi hài để nó có thể luôn luôn nghiêm nghị nhưng không bao giờ nghiêm nghị một cách qúa đáng.
“Như vậy, là cha nó, con dám tự nhủ rằng con đã không sống một cách vô ích”.
58. Thánh Gia Thất- Lm. Munachi Ezeogu
Một cậu bé đón cha mình đi làm về và hỏi: “Bố ơi! bố đi làm được bao nhiêu tiền một giờ?”. Ông bố rất ngạc nhiên và bảo: “Này con, ngay cả mẹ của con cũng chẳng biết, đừng quấy rầy bố vì bố đang mệt.” Cậu bé lại hỏi: “Bố cứ cho con biết, lương của bố mỗi giờ được bao nhiêu tiền?” Cuối cùng thì ông bố bảo rằng: “Mỗi giờ bố được hai mươi đồng”. Cậu bé liền hỏi: “Vậy bố cho con mượn mười đồng”. Ông bố tỏ vẻ giận và mắng con: “Thì ra đấy là lý do con muốn biết tiền lương của bố? Bây giờ đi ngủ đi và đừng quấy rầy bố nữa”.
Đêm hôm ấy, ông bố nghĩ lại những điều đã nói với con mình và cảm thấy hối hận. Ông cho rằng có thể con mình đang cần tiền để mua món gì mà nó đang cần. Ông sang phòng của con mình và hỏi: “Con đã ngủ chưa?” Con ông đáp: “Con chưa ngủ”. Ông bố đưa tiền và bảo: “Đây là tiền con hỏi xin lúc nãy” Nó vui vẻ cám ơn bố, rồi lấy thêm tiền trong gối ra và nói: “ Con đã có đủ rồi! hai mươi đồng. Bây giờ bố bán cho con một giờ của bố.”
Bài phúc âm hôm nay nhắn nhủ ông bố kể trên và tất cả chúng ta là hãy dành cho gia đình mình nhiều thì giờ hơn nữa.
Thánh Luca đã cho chúng ta thấy Đức Giêsu ở tuổi mười hai, lứa tuổi được xem là trưởng thành và mọi thiếu niên Do Thái ở tuổi ấy phải tuân giữ luật Do Thái. Đây cũng là lúc thiếu niên Do Thái được chúc mừng để trở thành người lớn. Kể từ đấy, họ phải tuân giữ luật lệ và phải tham dự hành hương hằng năm tại đền thánh Giêrusalem. Thời ấy, có những thanh niên thì đánh dấu ngày này bằng cách đi chơi hoặc làm những điều không đúng với điều mà luật Do Thái đòi hỏi. Chúng ta thường cảm thấy con của mình đã lớn, khi chúng đi chơi với bạn bè mà không xin phép. Như chúng ta đã biết, Đức Giêsu cũng vậy. Để đánh dấu ngày đến tuổi trưởng thành theo luật Do Thái, Ngài đã tham dự lớp học kinh thánh tại đền thờ mà không báo cho cha mẹ mình biết. Khi cha mẹ tìm được Người sau hai ngày tìm kiếm khắp nơi, Người chỉ trả lời rằng “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Luca 2:49). Ngay cả thánh gia đôi khi cũng có những lúc căng thẳng và những hiểu lầm.
Điều làm cho chúng ta thắc mắc là trong đoạn cuối cuả phúc âm hôm nay “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazaret và hằng vâng phục các ngài.” (Luca 2:51). Thiếu niên Giêsu mười hai tuổi, đã biết rằng sứ mạng của mình là ở trong nhà của Cha mình và thực thi những sứ mạng ấy. Trong thời gian ngắn ngủi tại Giêrusalem, Người đã chứng tỏ khả năng và sự hiểu biết của Người, vì “Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu” (Luca 2:47). 1 Điều làm cho chúng ta phải suy nghĩ là: Nếu Đức Giêsu đã được mười hai tuổi, đã sẵn sàng và bằng chứng là có khả năng để bắt đầu sứ vụ giảng dạy công khai. Vậy tại sao Người lại đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazaret và sống ẩn dật mười tám năm trong căn nhà nghèo nàn của người thợ mộc, và chỉ bắt đầu sứ vụ giảng dạy công khai ở tuổi ba mươi? Vậy mười tám năm ấy là vô vị và không có ích lợi gì chăng? Chắc chắn làcó lợi ích! Điều chúng ta nên tìm hiểu là cuộc sống ẩn dật cuả Đức Giêsu tại Nazaret là một phần trong sứ vụ của cuộc sống công khai của Người. Phúc âm nhắc chúng ta rằng: “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Luca 2:52). Khi chúng ta suy niệm về điểm này, thì cứ một năm Người giảng đạo thì mười năm Người ở với gia đình. Từ đấy chúng ta sẽ hiểu tầm quan trọng và sự ưu tiên Người đã dành cho đời sống gia đình như thế nào.
Đời sống của chúng ta được chia thành hai phần: gia đình và công việc. Hai phần này thông thường thì phải hài hòa nhưng đôi khi lại đối chọi nhau và gây ra căng thẳng. Đức Giêsu đã hóa giải sự căng thẳng ấy bằng cách dành sự ưu tiên cho đời sống gia đình. Còn chúng ta thì thường hay cố gắng giải quyết mối căng thẳng ấy bằng cách dành sự ưu tiên cho công việc của mình, và để cho đời sống gia đình chịu tổn thương. Bà Rose Sands viết về người đàn ông bất hạnh, người mà chỉ nghĩ rằng mình có thể chứng minh tình thương của mình đối gia đình là phải làm việc hết sức mình “Để chứng tỏ tình yêu đối với vợ mình, ông ta bơi qua khúc sông sâu nhất, vượt vùng sa-mạc rộng nhất và leo ngọn núi cao nhất. Vợ của ông đã lìa bỏ ông, vì ông ta chẳng bao giờ có mặt ở nhà”.
Hôm nay, nhân dịp chúng ta mừng kính lễ Thánh Gia của thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu, chúng ta hãy ôn lại và nhắc nhở chính chúng ta rằng: hãy đặt giá trị của đời sống gia đình lên trên công việc của mình, kể cả những việc quan trọng như việc bảo tồn thế giới này.
59. Mái ấm gia đình – Lm Vũ Đình Tường
Mái ấm gia đình là ngôi trường đầu tiên và là ngôi trường quan trọng nhất trong đời. Gia đình không những đã nuôi dưỡng ta mà còn cho ta vào đời. Qua mái trường gia đình ta được nuôi dưỡng bằng tình thương, nghe giọng nói ngọt ngào và thưởng thức những ca khúc êm dịu ru con mắt lim dim. Phong tục tập quán, truyền thống văn hoá, chuyện cổ tích dân tộc đều được mái ấm gia đình truyền thụ. Cha mẹ chúng ta học những phong tục đó từ cha ông và truyền lại cho chúng ta và rồi chúng ta lại truyền đạt cái hay đó cho thế hệ kế tiếp. Mái trường gia đình là nơi đào tạo ta trở thành con người xã hội tương lai. Mái trường gia đình cách nào đó gieo vào lòng ta mầm mống của ước mơ và hy vọng tương lai. Nếu gieo những hạt giống tốt ta sẽ trở thành người tốt, người hữu dụng. Nếu gieo cỏ dại ta sẽ sống với cỏ dại, dần dần kéo bè, kết phái và sẽ xa dần những tấm lòng chân tình. Quanh ta toàn nịnh bợ hay lời nói ngon ngọt đầu môi.
Những gì ta học ở gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến con người tương lai và niềm tin gia đình gieo vào lòng ta lúc ấu thơ sẽ ảnh hưởng đến cách xử thế sau này. Nếu gia đình tạo cho ta một nền tảng đức tin vững chắc ta sẽ trở thành chứng nhân Kitô tốt lành. Không những ta có một đời sống tốt lành mà còn hiểu rõ í nghĩa và cùng đích cuộc đời. Cùng đích của niềm tin Kitô là giúp chúng ta sống tốt lành trong xã hội trước khi bước vào cuộc sống vĩnh cửu trên quê trời vì thế mái ấm gia đình cách nào đó vạch cho ta một con đường tiến về quê hương vĩnh cửu. Con đường đó được chỉ đạo bằng Lời Hằng Sống đó là Lời Chúa và giáo huấn của Ngài. Ngoài Lời Chúa và giáo huấn của Ngài ra thế giới này không thể bảo đảm cho hạnh phúc thật. Thế giới chỉ có thể cho hạnh phúc nhất thời bởi chính sự vật của thế giới cũng chỉ là nhất thời nên chúng chỉ có khả năng làm điều đó.
Để giáo huấn của Đức Kitô hướng dẫn cuộc đời chúng ta học biết đón nhận tình yêu Chúa ban, đồng thời học chia sẻ tình yêu đó cho tha nhân. Chính việc đón nhận và chia sẻ tình yêu giúp ta tiến trên con đường lành thánh. Mừng kính lễ Thánh Gia Thất chúng ta mong học được các nhân đức từ gia đình Thánh Gia. Một gia đình sống trong tình yêu Chúa và chia sẻ tình yêu đó là bằng chứng cho thấy điều Chúa muốn ta thực hiện thuộc khả năng của mọi người. Gia đình thánh là gia đình sống không cho chính mình nhưng chung sống với tha nhân và trên hết mọi sự sống cho Thiên Chúa và thực hiện í Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Bà Maria từ bỏ í riêng sống độc thân để trở thành Mẹ Thiên Chúa. Ông Giuse định từ bỏ mà Maria cách kín đáo và rồi từ bỏ í riêng đón nhận í Chúa làm cha nuôi Đấng Cứu Thế. Đức Kitô trong cuộc đời rao giảng công khai tuyên bố:
Ta không đến để làm theo í Ta nhưng theo í của Cha Ta Gn 6,38.
Một nhân đức rất quan trọng khác đó là khiêm nhường mà chúng ta cần học theo, bắt chước. Gia đình Thánh Gia nhận biết tất cả những gì chúng ta có trong tay đều không phải của riêng ta mà là của Chúa ban cho, kể cả sức khoẻ và sự sống đang có trong tay cũng đều do Chúa ban vì thế Chúa có toàn quyền xử dụng những gì thuộc về Chúa, hành xử theo í Chúa mà í Chúa chính là mang tình yêu của Ngài đến cho mọi người. Xem thế việc thực thi í Chúa không gì khác hơn là đối xử bình đẳng và yêu thương mọi người. Gia đình Thánh Gia thể hiện điều này qua việc Đức Trinh Nữ xin vâng, thánh Giuse vâng phục hướng dẫn của Thánh Thần và Đức Kitô nghiêng vai vác thập giá trên đường lên núi thánh.
Lễ Thánh Gia chúng ta cảm tạ Chúa cho cha mẹ chúng ta đã hy sinh cuộc sống riêng mình đồng thời rèn luyện đức tin của ta trong tình yêu Chúa.
Chúc Mừng Giáng Sinh an bình và Năm Mới phúc lộc đến quí vị.
60. Thánh Gia
Có người cho rằng Thánh gia là một gia đình thánh. Còn chúng ta là người phàm, yếu đuối, làm sao bắt chước cho được. Hơn nữa, các Ngài sống trong bầu khí bình lặng, êm đềm, ít phải cạnh tranh và chụp dựt, ít bị những ảnh hưởng xấu như thời buổi hiện đại. Quả thật, Thánh gia là một gia đình thánh, nhưng sự thánh thiện ấy không miễn chuẩn cho các Ngài những khó khăn vất vả, những cố gắng bươm chải. Cứ đọc lại Tin Mừng thời thơ ấu của Chúa Giêsu là chúng ta sẽ thấy: Có những thức thách khi Giuse thấy Mẹ Maria bỗng dưng có thai mà ngài không biết. Có những vất vả của hành trình từ Nagiarét lên Giêrusalem để kiểm tra dân số đang lúc Mẹ Maria sắp nở nhuỵ khai hoa. Có những buồn tủi khi không còn chỗ cho Mẹ Maria trong quán trọ, khiến Con Thiên Chúa phải sinh ra nơi máng cỏ khó nghèo. Và chắc hẳn Thánh gia đã thấu hiểu thế nào là thân phận lưu lạc nơi đất khách quê người bên Ai Cập để trốn thoát âm mưu hãm hại của bạo vương Hêrôđê. Trước những thử thách ấy, Thánh gia có hai phương thức để giải quyết.
Trước hết là tình yêu. Thực vậy, ngày nay hơn bao giờ hết, người ta càng khám phá ra tầm quan trọng của gia đình trong đời sống xã hội: gia đình là cái nôi của con người, vì chính ở đó con người được sinh ra. Là mái trường đầu tiên của con người, gia đình giữ một vai trò đặc biệt trong sự hình thành cá tính và nhân phẩm của con người. Nhưng cũng chính ngày nay, người ta phải chua chát thừa nhận rằng đang có những khủng hoảng trầm trọng làm lung lay tận nền tảng gia đình. Chính trong bối cảnh ảm đạm đó, hình ảnh Thánh gia vụt sáng lên như ánh sao chỉ đường. Vâng. Thánh gia mời gọi các gia đình hãy biết yêu thương và sống cho nhau. Nước chảy không ngược dòng, cây không sống cho chính mình nhưng sống cho quả. Cũng vậy, cha mẹ sống cho con cái. Thánh Giuse với tư cách là gia trưởng đã miệt mài làm việc để nuôi sống gia đình, ngài ghi dấu ấn lao động trên cuộc đời của người con, khiến sau này Chúa Giêsu khi rao giảng Tin Mừng, người ta đã phải tự hỏi: Ông ấy không phải là con bác thợ mộc và Maria sao? Còn Mẹ Maria với tư cách nội trợ, Mẹ đã tập cho Chúa Giêsu cầu nguyện, giúp cho con biết quan sát thế giới chung quanh. Phải chăng những lời dạy dỗ của Mẹ Maria vẫn tiềm ẩn trong cung cách rao giảng của Chúa Giêsu sau này khi Ngài nói: Nước trời giống như men, như muối… Và cậu bé Giêsu dưới mái nhà Nagiarét đã chia sẻ mọi cảnh ngộ của gia đình, đã sống đạo làm con đối với cha mẹ trong tinh thần yêu thương và vâng phục. Như thế, mẫu gương yêu thương và sống cho nhau đã được mọi thành viên trong Thánh gia thực hiện. Cha mẹ không chỉ nuôi con bằng cơm bánh vật chất, nhưng còn dạy dỗ, làm gương sáng cho con, còn người con đáp trả bằng tình hiếu thảo và vâng phục. Phải chăng chính sự yêu thương và ân cần dưỡng dục của cha mẹ đã ghi dấu ấn sâu xa trong tâm hồn Đức Giáo Hoàng Gioan 23, nên trong ngày sinh nhật thứ 50 của mình, ngài đã viết thư cho cha mẹ như sau: Thưa ba má, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức vụ trong Hội Thánh. Con đã đi nhiều nơi, đã học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con như hồi con được ngồi bên ba má.
Tiếp đến, phương thức thứ hai đó là ý Chúa. Thực vậy, yêu thương và sống cho nhau vẫn chưa đủ, đối với người Kitô hữu, tình yêu thương còn phải được định hướng bằng thánh ý Chúa. Thiếu sự định hướng này, lắm khi tình thương chỉ còn là tiếng loa dội lại của lòng ích kỷ, hoặc biến thành một thứ tình cảm mù quáng sai lầm. Không ít bậc cha mẹ, theo như kinh nghiệm cho thấy, đã giết chết tuổi thanh xuân của con cái qua sự cưng chiều quá đáng của mình. Cho nên cha mẹ thương con mà phải nhận ra rằng yêu thương không có nghĩa là chiếm đoạt, giữ rịt cho riêng mình. Mẹ Maria sẵn lòng trao Hài nhi Giêsu cho ông cụ Simêon, cũng như sau này, Mẹ dâng con trên đỉnh cao thập giá.Và Mẹ ý Chúa là trên hết. Mẹ Maria và thánh Giuse đã vâng theo ý Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Một khi đã lấy ý Chúa làm ngọn đèn hải đăng hướng dẫn thuyền đời, thì mái ấm của chúng ta chắc chắn sẽ vượt qua được những sóng gió của đại dương cuộc đời.
61. Lớn lên
Ở Chicago, khi trời vừa lập đông, từng đàn ngỗng lũ lượt kéo nhau bay hàng ngàn dặm về phương Nam đi tìm nắng ấm. Chúng kêu gọi nhau xôn xao. Có những con lạc bầy vừa bay vừa kêu: “Quéc! Quéc! Quéc!” Khiến kẻ tha phương cũng phải chạnh lòng buồn theo vì nhớ mái ấm gia đình! Các nhà khoa học nghiên cứu cuộc di cư hằng năm đi tìm nắng ấm của loài ngỗng đã đưa ra sáu điểm nhận xét giúp ta suy nghĩ về đời sống gia đình nhân dịp lễ Thánh Gia Thất hôm nay:
1. Chúng bay với nhau theo hình chữ vê ngược. Mỗi con đều vỗ cánh rất nhịp nhàng, êm ái. Một hàng chữ vê ngược bay chung với nhau như vậy sẽ tạo thêm được 17 phần trăm sức mạnh hơn là từng con bay riêng rẽ.
Đúng là “Hợp quần gây sức mạnh”. Tất cả mọi người trong một gia đình hay cộng đoàn hợp tác với nhau làm việc sẽ nhanh hơn và dễ hơn, vì họ cùng thúc đẩy và nâng nhau lên. “Niềm vui góp lại, niềm vui lớn. Nỗi lo chia sẻ, nỗi lo vơi!”
2. Khi có con nào bị rơi ra khỏi hàng ngũ, nó phải tìm cách mau chóng trở về hàng ngay để có sức mạnh nâng đỡ của cả bầy. Nếu không nó phải bay cô đơn một mình!
Bước ra khỏi gia đình hay cộng đoàn, ta sẽ cảm thấy bơ vơ lạc lõng, mất đi một điểm tựa nâng đỡ lớn lao. Khi phải một thân một mình chống chọi giữa đời, ta mới cảm thấy sự quý giá của mái ấm gia đình. Khi mồ côi ta mới thấy giá trị của tình phụ mẫu.
3. Khi con ngỗng dẫn đàn ở chính giữa mệt mỏi, nó sẽ trở xuống hàng phía dưới, con khác sẽ thay phiên lên dẫn đầu.
Thật là bất công khi trong gia đình hay cộng đoàn, có những người phải làm việc quá sức đang khi đa số những người khác lại nhàn hạ. Có nhiều gia đình cha mẹ phải làm việc đầu tắt mặt tối, trong khi con cái chơi bời lêu lổng suốt ngày. Theo thống kê, chỉ có 20/o số người đứng ra làm việc, nhưng phải đảm đương tới 80/o công việc của một tập thể, hay cộng đoàn!
4. Những con ngỗng vừa bay vừa kêu “Quéc! Quéc!” Am thanh vang dội trong bầu trời. Cuộc hành trình dài muôn ngàn dặm. Cứ thẳng cánh mà bay. Những con bay phía sau kêu lên để khích lệ những con phía trước phải cố gắng giữ cho đúng tốc độ.
Trong gia đình hay cộng đoàn thường có sự ghen tương, dèm pha lẫn nhau hơn là khích lệ, cổ võ, và khen ngợi những ưu điểm của nhau! Trong cuốn “Người Trung Quốc Xấu Xí” của Bá Dương, bản dịch của Nguyễn Hồi Thủ, tác giả đả kích tính ích kỷ, ghen tương, đấu đá lẫn nhau của người Trung Hoa bằng một kinh nghiệm như sau: “Ví dụ tôi đến thăm anh, thấy anh nhà cao cửa rộng, học vấn uyên bác, trong lòng tôi kính phục, hâm mộ anh. Trên đường về đáng lẽ tôi nghĩ phải cố gắng phấn đấu, làm việc, học hành để có thể được như anh. Đằng này lúc ra khỏi nhà anh tôi lại bảo: Ở nhà đẹp thế! Không biết ăn cắp hay ăn cướp ở đâu ra lắm tiền! Cầu trời cho ngày mai có đám cháy thiêu rụi cái nhà nó đi cho rồi!” Tác giả dẫn chứng sự mất đoàn kết của người Trung Hoa bằng câu nói mỉa mai: “Một Hoà Thượng gánh nước uống. Hai Hoà Thượng khiêng nước uống. Ba Hoà thượng không có nước uống!”
5. Khi nào dừng cánh nghỉ ngơi, kiếm ăn trên đồng cỏ, không bao giờ tất cả mọi con ngỗng đều cúi đầu xuống ăn cùng một lượt! Luôn luôn có 4 hay 5 con canh chừng trong khi những con khác ăn. Chờ đợi cho những con khác ngẩng đầu lên, lúc đó chúng mới cúi xuống.
Trong gia đình hay cộng đoàn, chúng ta phải biết tỉnh thức, canh chừng và bảo vệ nhau tránh khỏi những nguy hiểm của ma thù. Đừng vì say mê hưởng thụ vật chất mà quên đi những kẻ thù tinh thần rình rập trên hành trình tiến về quê trời.
6. Khi một con ngỗng bị bệnh hay bị bắn thương tích rơi xuống đất, sẽ có 2 con khác bay theo xuống đất để giúp đỡ và bảo vệ. Chúng ở lại cho đến khi con bị thương có thể bay được, hay phải chết, chúng mới bay đi nhập vào một hàng khác để bắt kịp bầy cũ của mình.
Tình nghĩa gắn bó, liên kết mọi người sống chết với nhau trong gia đình. Thường thường trước khi nhắm mắt xuôi tay, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, đều muốn có nhau trong giờ phút cuối. Ai cũng muốn ra đi trong tình thương mến của gia đình. Không ai muốn chết trong cô đơn buồn tủi.
62. Lớn lên
Trong bài Phúc âm hôm nay, thánh Luca kể lại việc Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đưa Hài Nhi Giêsu lên đền thờ “để hiến dâng Ngài cho Thiên Chúa… Và khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nagiarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
Thánh Phaolô còn diễn tả chi tiết hơn những đặc tính của gia đình Thánh Gia ở Nagiarét, nơi Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên: “Như những người được Thiên Chúa chọn, những người thánh thiện và được yêu thương anh em hãy học lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau…
Có một chú rể nọ, trước ngày cưới, cùng với cô dâu đến xin lời khuyên của cha mẹ vợ trước khi về chung sống ăn ở với nhau. Cha mẹ vợ đã có tuổi, ống rất hạnh phúc với nhau trong 40 năm. Nhìn vào gương sáng của cha mẹ, chàng rể xin các ngài dạy cho bài học phải làm sao để giữ hạnh phúc trong gia đình. Ông bố vợ mới dạy một bí quyết như sau: “Để giữ cho gia đình hạnh phúc, êm ấm, bố mẹ đã cố gắng giữ một nguyên tắc như sau: Trong gia đình, bất cứ chuyện gì quan trọng, bố quyết định hết!” Nghe vậy, chú rể khoái chí, thúc cùi chỏ vào cô dâu dặn dò: “Nghe rõ chưa em?” “Những chuyện nhỏ, mẹ con quyết định!” Ông bố nói tiếp: “Nhưng trong 40 năm chung sống với mẹ của các con, bố chưa thấy có chuyện gì đáng kể là quan trọng cả!”
Thánh Kinh đề cao những nhân đức giúp cho gia đình hạnh phúc. Các nhân đức này đều nhằm đến việc duy trì một hòa khí yêu thương, đồng tâm nhất trí, ý hợp tâm đầu. Đây chính là chìa khoá mở cửa hạnh phúc gia đình. Sau đây là bức thư đăng trong mục Ann Landers trên các tờ nhật báo lớn ở Mỹ.
Ann Landers thân mến.
Tôi năm nay 46 tuổi, ly dị chồng, đang sống với ba đứa con thơ. Tiếp theo việc giải phẫu ngực vì ung thư, vài tháng sau đó tôi được điều trị bằng hóa chất – chemotherapy. Tôi sắp xếp mọi công việc để đi bác sĩ khám bệnh lại, và vô cùng tuyệt vọng vì ung thư lại tái phát mạnh mẽ hơn trước!
Những người thân trong gia đình chẳng ai nâng đỡ, ngó ngàng gì đến tôi cả. Tôi là người đầu tiên trong gia đình bị ung thư, nên có lẽ chẳng ai biết cư xử với tôi ra sao. Họ cố gắng tử tế với tôi, nhưng tôi có cảm giác rằng họ sợ bị lây bệnh. Họ giữ khoảng cách ở xa xa, và gọi điện thoại hỏi thăm qua loa. Điều này làm tôi tủi thân và đau lòng.
Chúa nhật vừa qua tôi đem quần áo ra tiệm giặt. Tôi cũng gặp gỡ những khuôn mặt quen thuộc như mọi lần, cũng chào hỏi qua loa, nói vài câu. Tôi cố gắng giữ không tỏ lộ sự buồn bã, nhưng tinh thần sa sút trầm trọng. Đang khi đưa quần áo từ ngoài xe vào trong tiệm giặt, ngẩng đầu lên, tôi bắt gặp một người đàn ông, khuôn mặt quen quen. Ông vừa giặt xong, đang đưa quần áo ra xe đi về. Ông mỉm cười và chào tôi. Hôm nay có khoẻ không?” Tôi bị mất tự chủ, trút hết nỗi lòng: “Hôm nay là ngày tệ nhất trong đời tôi! Ung thư lại nặng thêm!” Rồi tôi bật lên khóc nức nở.
Ông choàng tay qua vai tôi, để tôi khóc tức tưởi, rồi nói, “Tôi hiểu chị. Vợ tôi cũng đã bị như vậy”. Sau vài phút tôi cảm thấy dễ chịu hơn, cám ơn ông vì sự thông cảm của ông, rồi bưng thùng quần áo đưa vào tiệm giặt. Khoảng 15 phút sau, người đàn ông tôi vừa gặp trở vào cùng với vợ ông. Chị bước đến với tôi, và không cần phải nói lời nào, chị ôm lấy tôi và nói, “Đừng ngại ngùng gì, hãy tâm sự với tôi, xưa kia tôi cũng đã từng bị như chị bây giờ. Tôi biết những khó khăn chị đang phải chịu”.
Bà Ann thân mến, tôi không thể diễn tả ra được cử chỉ của chị ấy đã giúp tôi là dường nào. Ở đây một người hòan tòan xa lạ, bỏ công lao, thì giờ ra để nâng đỡ và khích lệ tôi can đảm hướng về tương lai vào một thời điểm mà tôi dường như sắp sửa muốn buông xuôi. Tôi hy vọng Thiên Chúa sẽ ban cho tôi cơ hội để làm cho một người nào đó điều mà người phụ nữ tốt lành kia đã làm cho tôi. Nhưng trong lúc chờ đợi cơ hội đó, bà Ann thân mến, hãy làm ơn cho độc giả biết rằng mặc dù có rất nhiều người cứng lòng trên thế gian này, nhưng cũng có những người rộng lượng và nhân hậu không thể tưởng tượng được”.
Ngày nay đời sống hôn nhân và gia đình ở các nước tân tiến đang gặp khủng hoảng trầm trọng. Cuộc sống vật chất và ích kỷ đã tạo ra những sự sụp đổ trong quan hệ gia đình và vợ chồng. Theo thống kê một nửa hôn nhân kết thúc bằng ly dị!
Vì tình trạng gia đình tan vỡ, nên có nhiều trẻ em lớn lên không có cha hay mẹ săn sóc. Theo sách Sáng Thế, Thiên Chúa đã hoạch định cho con người có đời sống hôn nhân không phải vì ích lợi của đôi vợ chồng, bớt cô đơn, “người đàn ông ở một mình không tốt”, mà còn để sinh sản và giáo dục con cái trong sự quân bình tâm lý của một gia đình, biết được cả nam lẫn nữ là cha mẹ mình.
Nhân dịp đầu năm 1994, cử hành thánh lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, và cầu nguyện cho hoà bình thế giới, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đề cập đến việc trẻ em học được sự hòa bình qua đời sống gia đình ấm áp và yêu thương nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái. Ngài nói: “Một người hoạt động để xây dựng đời sống gia đình tốt đẹp là làm việc cho hòa bình”.
Hôm nay mừng lễ Thánh Gia, ước gì những lời khuyên nhủ của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Côlossê là yếu tố có thể thay đổi được tình trạng suy đồi nơi các gia đình và hôn nhân hiện nay. Những nhân đức đó, giúp cải thiện sự liên hệ giữa con người với con người, và tạo nên hòa khí trong một gia đình hạnh phúc, yêu thương nhau như gia đình Thánh Gia.
63. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
(Suy niệm của Lm. FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chương 1–2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đanien 9–10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca “Chúc tụng” (Benedictus) và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm “sự hoàn tất các ngày” (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày.
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Israel”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml (3,1).
2.- Bố cục
Nên đọc bản văn này từ câu 21, để duy trì được sự song đối giữa Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24):
- cắt bì và đặt tên (c. 21),
- thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24).
2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38):
- tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35),
- tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (2,39-40).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22): “Các ngài” là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật không buộc thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy, “các ngài” phải được hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài là chủ từ của động từ “đem [con] lên”. Các nhà chú giải nhìn nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina, nên đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ sau khi sinh con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có được không phát xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
- theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi 12,2-8, một phụ nữ sinh một con trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì (vào ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, “cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của bà” (Lv 12,4), trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu non.
- để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc nối kết việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu được gọi là “con trai đầu lòng” ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm vụ của cha mẹ Người. Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: “Đức Chúa phán với ông Môsê: ‘Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”. Sự thánh hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con đầu lòng được chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc), tính theo đơn vị đo lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc không nhắc gì đến việc trả số bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như là việc dâng con vào Đền Thờ Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah nói cả.
- để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.
- công chính và sùng đạo (25): Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những đại diện của những người Do Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.
- niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại Israel (x. Is 40,1; 61,2).
- ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
- một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (35): Có những tác giả cho rằng “thanh gươm” đây là nỗi ngờ vực về chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek…). Cách giải thích này không tương ứng với TM Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách giải thích truyền thống (kể từ Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi “thanh gươm” này là nỗi đau đớn đồng cảm Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân thập giá trong TM Ga mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55; 24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như trái với cái nhìn của tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác giả Tân Ước, tâm lý của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong Lịch sử cứu độ (ta thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria chỉ luôn đóng một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải thích này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh “thanh gươm” là biểu tượng của sự “chia rẽ” và “mâu thuẫn" (x. Ed 12; 14;...). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một “lưỡi gươm sắc bén”. Sách Khải huyền đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là “Lời của Thiên Chúa” và “từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén” (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung được gọi là “ánh sáng muôn dân”, tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện trong tâm trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh sáng của Xp 3,14-15 và Dcr 2,14). Theo hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng một kiểu nhân-cách-hóa tiên trưng để trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền Thờ, và như vậy, ngài đã đặt vào miệng ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi Mẹ, chính là Israel sẽ bị thanh gươm của Đức Chúa đâm thâu.
Cách giải thích này (được gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin, Boismard, Benoýt…) có điểm thuận lợi là làm cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này trở thành một mắt xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được nối tiếp và tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng hoảng gây ra nơi Israel bởi “dấu hiệu gây chống báng” được ngôn sứ Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c. 35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới chỗ thâm tâm của người ta phải lộ ra.
Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh họa cc. 30-32. Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức tranh bộ đôi: một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn dân được cứu độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng hoảng của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp ngã. Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông Simêôn trình bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong Tin Mừng cũng như trong Công vụ.
(2) Có một cách giải thích khác cũng có thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa khác của câu này, và như một cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết “thanh gươm” với “đâm thâu (= xuyên qua)”. Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người để bị tiêu diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc, hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức Maria, là thành viên của Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc, chính Đức Giêsu sẽ được mô tả như một người gây chia rẽ trong các gia đình (12,51-53). Như vậy, với hình ảnh thanh gươm đâm thâu Đức Maria, ông Simêôn gợi đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới học ra rằng việc vâng phục Lời Thiên Chúa phải vượt lên trên cả những dây liên hệ gia đình (x. 8,21; 11,27-28).
4.- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu (21-24)
Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ tỏ mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và đạt tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp nhập vào Israel (x. Gs 5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được chính Thiên Chúa ban cho. Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.
Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc. 22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc. 22b.23). Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm 1,22-24) mà tả cảnh này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và ông Giuse, như là những người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của Luật Môsê. Trong các câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện tỏ mình ra cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1 Sm 1–2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã tiên báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca “Chúc tụng”, nay sự cao cả của Đức Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế, đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc. 29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.
Tác giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một truyện về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của Đức Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào; vai trò của bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (39-40)
Hai câu kết làm vọng lại điệp khúc đã có trong bài tường thuật về Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80). Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm 2,21c.26.
+ Kết luận
Câu truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta thấy Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.
5.- Bài học
1. Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của Israel có thế nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời đã hứa. Vào dịp chúng ta chịu phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm con. Cho dù chúng ta có bất trung thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù các tội lỗi của chúng ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là trái tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải. Hãy mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón Đức Kitô.
2. Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc. Chúng ta cũng có thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong lòng. Khi đó, Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính xác hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời môn đệ của Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện cũng như sống nếp sống hằng ngày.
3. Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng ta về cách sống hy vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng. Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn bị với thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết ơn.
4. Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập trung vào Đức Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác. Nhưng “ơn nghĩa của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu” (c. 40) đã tạo nên trong gia đình này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức Giêsu. Đây là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô thật là trung tâm của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương người khác và được người khác yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
5. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của Người. “Đó mãi mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm …” sự thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết … Không thể khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ, loài người không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến cố lớn là những sự kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực tại theo một tầm nhìn hoàn toàn loài người… Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự thể hiện ngày qua ngày” (Hồng Y John Henry Newman, 1801-1890).
64. Chú giải của Noel Quesson
Khi đã đến ngày phải làm lễ tẩy uế theo luật Môsê... tiến dâng như Luật Chúa quy định... để chu toàn nghi thức theo Luật Chúa truyền...theo như những gì đã ghi trong luật... khi họ chu toàn nghi lễ, như thiên hạ thường làm theo luật.
Chắc chắn, đây không phải là ngẫu nhiên mà Luca nhấn mạnh tới 5 lần (các câu 22, 23, 24, 27, 39) về việc chu toàn lề luật. Dù là "Con Thiên Chúa" Đức Giêsu đã tuân theo lề luật của con người. Đó là nét thâm sâu và sự thật về mầu nhiệm nhập thể. Ngài không tự coi mình như “có đặc quyền". Người hành xử "như mọi người" không có gì phân biệt Người với kẻ khác. Tôi dùng thời giờ để suy niệm lâu hơn về sự khiêm hạ phi thường này, rnà Thánh Phaolô gọi là: một "cuộc làm cho mình hóa ra không", một “kénose" (Pl 2,7). Đừng tự đặt mình vào số ngoại lệ. Không nên đòi hỏi những đặc quyền. Nên thực tế chấp nhận những nghịch chướng thường có trong cuộc sống, những dịch vụ không vinh dự của thân phận chúng ta.
Cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Giêrusalem... vào Đền thờ.
Cuộc lên đường này mang đầy ý nghĩa. Đó là đỉnh cao của "hai chương" Luca dành cho tuổi thơ của Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu. Nhưng Luca hữu ý tạo cho bước đường của Đức Giêsu sự ngược với Gioan. Việc báo tin cho Dacaria diễn ra trong khung cảnh trang trọng và huyền diệu của buổi lễ tế tự nơi Đền Thánh (Lc 1,0) nhưng Gioan con trai của ông lại ẩn mình "trong hoang địa" (Lc l,80). Còn việc truyền tin cho Maria xảy ra tại làng Nagiarét nhỏ bé tầm thường (Ga l,46), nhưng Giêsu con trai của bà lại được nhận biết như Đấng "Mêsia" trong thành thánh Giêrusalem; tại Đền thờ, giữa trung tâm thành phố, nơi hiện diện kỳ diệu của Thiên Chúa (Lc 2,27; 2,37). Như thế là chúng ta dang dừng lại trước " trang cuối cùng"... kết thúc Cựu ước! Những người Do Thái, đôi vợ chồng trẻ, đang "chu toàn lề luật Môsê”. Một cách tượng trưng, lề luật được chấm dứt với cử chỉ này sẻ không cần tới Đền thờ nữa: người ta cũng sẽ phá hủy Đền. thờ, đó là "cuộc trở lại đầy Vinh quang của Thiên Chúa giữa Dân Người" như vị ngôn sứ loan báo (Ml 3, 1-4). Nhưng Thiên Chúa đến cách đột xuất, bất ngờ biết bao "! Không khi nào Người đến như người ta chờ đợi.
Có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo... Lại cũng có một bà ngôn sứ tên là Anna.. Bà ở góa, đến nay đã 84 tuổi, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa trong Đền thờ”.
Không phải ngẫu nhiên mà ta thích thú nhận ra rằng, theo Luca, không phải giới có thẩm quyền như các thầy tư tế các kinh sư nhận biết Đức Giêsu.. mà là những con người tầm xoàng, nhưng kẻ nghèo khó? Qua hai người tiêu biểu cho những kẻ "bé mọn" trên đây, thì toàn thể dân chúng thuộc "nhóm người nghèo Thiên Chúa yêu thương" đã đến gặp gỡ Đấng Cứu độ của họ. Đằng khác, điều đó cũng đã được các ngôn sứ loan báo: "Ta sẽ chừa lại giữa ngươi một dân khiêm nhu hèn mọn..:" một số nhỏ "còn sót lại (Xp 3,12; Is 16.14 + 30, 17,37.4; Gr 6,9; Ge 3,5) Simêon và Anna tiêu biểu cho những người nghèo. Họ đều đã già cả; thuộc hạng người mà toàn thể xã hội muốn quên bỏ không mấy trân trọng "(Kn 3,13). Hơn nữa, Anna lại là cụ già "góa bụa", nghĩa là theo ngôn ngữ Kinh thánh, là cái nghèo hiện thân, vì cụ đã mất đi tất cả những gì đảm bảo cho mình chỗ đứng trong một xã hội mà chỉ người chồng mới có quyền pháp lý. Lạy Chúa, xin biến trái tim chúng con trở nên những tâm hồn của người nghèo, để chúng con biết nhận ra Chúa, trong những dạng bề ngoài khó nghèo mà Chúa thường ẩn dấu...
Simêon ẵm lấy hài nhi trên tay... Đấng Mêsia của Chúa... ơn cứu độ dành sẵn cho muôn dân... ánh sáng soi đường cho dân ngoại... vinh quang của Israel...
Thiên Chúa ưa đột xuất, dễ gây ngỡ ngàng! Người ta mong chờ "vinh quang", "quyền lực"! Thì Ngài lại xuất hiện trong thân phận một "trẻ nhỏ", một bé thơ thật sự khóc oe oe, chưa biết đứng thẳng, phải bồng ẵm trên tay! Chỉ có cụ già đó, tự để cho Đức tin và Thánh Thần mở mắt mình! Ba lần gọi tên trong bản văn, mới có thể nhận thấy được sự khám phá ra được điều đó, cần phải trở nên khó nghèo, Đức tin là một thứ nghèo khó: người ta nhìn mà không nhận biết (Ga 20,29). ấy thế mà dưới lớp vẻ bề ngoài nghịch thường bé bỏng của em nhỏ (ta nghĩ đến "hình dạng bề ngoài" của bánh mà ta lãnh nhận...), lại chính là lễ tấn phong cách công khai của Đức Giêsu "trong Đền thờ của Người": Những tước hiệu mà hai người nghèo khó trên đây tặng cho Người, thật là ngời sáng! Đức Giêsu – gói thịt đáng thương này (và Ngôi lời đã mặc xác phàm) lại chính là Đấng Mêsia của Thiên Chúa... "ơn cứu độ của muôn người "... "ánh sáng"... "Vinh quang"... "Sự giải thoát" Giêrusalem... Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đức tin.
Những lời ông Simêon nói về Hài nhi làm cho cha mẹ Người ngạc nhiêm bỡ ngỡ.
Như thế, đây cũng là lời xác nhận rằng, "đức tin của cha mẹ" cũng cần phải tiến triển! Không biết lòng tin của họ ra sao, nhưng Maria và Giuse đều rất đỗi ngạc nhiên và bỡ ngỡ trước những "tước hiệu” mà ngời ta gán cho con mình. Biến cố này gợi lên lòng tin của ông bà. Mười hai năm sau, tại Đền thờ này, ông bà cũng sẽ không hiểu gì (Lc 2,48-50) và vẫn còn ngạc nhiên. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa giúp chúng con luôn được ngạc nhiên bỡ ngỡ như thế.
Ông bà đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa... và dâng của lễ theo luật định.
Đó là hai kiểu nói Luca đã sử dụng để trình bày "nghi thức" mà đôi vợ chồng trẻ trên đây đã thi hành. Động từ Hy-lạp được dùng ở đây là (“parastènai": "dâng hiến"), cũng chính là từ mà Phaolô sẽ dùng để nói lên thái độ căn bản của Kitô hữu. Đừng quên rằng, Luca là thư ký của Phaolô, và các bức thư đều được viết trước các Tin Mừng. Thế nên, Luca đã chủ ý dùng một ít mang ý nghĩa. "Anh em đừng hiến thân xác anh em phục vụ tội lỗi nữa, nhưng anh em hãy hiến toàn thân để phục vụ Thiên Chúa" (Rm 6,13). "Anh em hãy hiến thi thể anh em để phục vụ sự công chính, để trở nên thánh thiện" (Rm 6,19). "Thưa anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thực xứng hợp để anh em thờ phượng Người" (Rm 12,1.).
Như vậy, Maria và Giuse đến thi hành trước, điều mà sau này chính Đức Giêsu sẽ thực hiện trong bữa tiệc ly và trên thập giá... và mọi Kitô hữu được mời gọi thể hiện trong mọi thánh lễ: hiến dâng mạng sống của mình! "Đây là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con". Lạy Chúa, khi thông hiệp với Chúa, chớ gì con biết hiến mạng sống mình vì yêu. Để làm nổi bật hai sự việc trên chỉ là một ("tiến dâng con" và "hiến dâng của lễ"), Luca trích dẫn hai đoạn văn Kinh Thánh, khi cần vẫn có thể tăng cường chiều kích "vượt qua" của trình thuật này: "Tất cả các con trai đầu lòng đều được thánh hiến dành cho Thiên Chúa" (Xh 13,2.12.15). Chúng ta hãy nhớ lại nguồn gốc của nghi thức này. Dân tộc Israel làm nô lệ bên Ai Cập. Để chấp nhận việc giải phóng vượt qua, vua Pharaô đã phải chứng kiến mọi con trai đầu lòng thuộc xứ sở mình đều chết hết. Một của lễ chiên vượt qua ghi dấu máu nơi cửa nhà Do Thái. Và để "ghi nhớ" ngày cứu độ giải phóng này, mọi con trai đầu lòng người Israel đều thuộc về Thiên Chúa! Muốn dẫn chúng trở lại gia đình, cần phải "chuộc lại". Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa? Muốn dân chúng trở lại gia đình, cần phải "chuộc lại". Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa: là một vật được hiến thánh!
Chính Đức Giêsu cũng được "hiến thánh" cách trọn vẹn! Và việc đó được diễn ra vào "ngày thứ bốn mươi", thời gian tròn đầy.. và sau này còn có một "ngày thứ bốn mươi" nữa, để kết thúc mùa phục sinh dẫn tới biến cố lên trời làm cho sự hiện diện hữu hình của Đấng phục sinh biến khỏi. Đúng vậy, toàn bộ Tin Mừng đang nằm ở trang này. Và một cảnh vượt qua khác cũng sẽ diễn ra "ở Giêrusalem" (Lc 24, 47-52).
Phép rửa đã thánh hiến tôi cho Chúa. Biến cố đó có ý nghĩa gì đối với tôi không?
Của lễ là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non…
Thật là cảm động, phải không? Nhưng coi chừng, ta có thể biến toàn thể trình thuật trên đây của Luca thành giai thoại mất thôi! Một lần nữa, ta cần ghi nhận rằng, Luca đã không thêm bớt gì. Rõ ràng ông chỉ dựa vào những thực hành tôn giáo Do Thái hiển nhiên. Nhưng ta cũng có thể nhìn ra, tại sao Đức Giêsu lại không được miễn chước khỏi việc tuân giữ những tập tục đó. Mà thôi, đối với Luca, điều quan trọng thực sự đó là "nội dung” thần học, là "ý nghĩa" thâm sâu của các sự kiện lịch sử. Vậy ta cứ chấp nhận quan điểm của người thuật chuyện. Nào ta sẽ đọc toàn bộ bản văn mà Luca đã trích dẫn một đoạn nơi sách Lêvi (12,8): "Nếu người mẹ không đủ khả năng kiếm đủ tiền mua con vật, thì có thể dùng đôi phim gáy hay một cặp bồ câu. Đó! đúng là lễ vật của người nghèo. Maria đã không thể làm gì hơn được. Bà không thể trả tiền cao hơn! Đó là điều mà Luca nhằm gợi lên cho ta, nếu ta biết đoán ra ý người viết, và ta biết rằng toàn bộ Tin Mừng của ông sẽ là "tin vui cho người nghèo (Lc 4,18). Phải, toàn bộ Tin Mừng đã nằm ở trang này, bề ngoài xem ra đầy hình ảnh dân gian. Phúc thay những người nghèo, vì nước trời là của họ.
Được “thánh hiến" cho Thiên Chúa... điều đó không đòi hỏi những dấu hiệu huy hoàng. Mọi người nghèo trên thế giới với áo quần rách rưới, lại "xứng đáng" với Thiên Chúa và được thánh hiến... Những người nghèo được "thánh hiến"! Tôi có kính trọng họ không?
Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải hư vong hay được ơn cứu độ, cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.
Đức Giêsu cũng là một "dấu hiệu”, một "dấu hiệu bị chống báng", một "dấu hiệu mà người ta có thể phủ nhận". Thiên Chúa không muốn áp đặt. Người đã trao ban tự do. Người chấp nhận " dấu chỉ tình yêu của Người có thể bị người đời chối bỏ! Péguy sẽ nói: "Những khúm núm lụy phục của kẻ nô lệ không nói lên cho Người điều gì cả". Như thế mỗi người phải tự quyết định trước trường hợp "Giêsu” Ta có thể từ chối Ngài, nghĩa là phải hy vọng, phải quỳ xuống... ta có thể đón nhận Người, nghĩa là được ơn cứu độ được nâng lên...
Ngay tại trang này, ta đã có Đấng "Thẩm phán vũ trụ”, Đấng phân chia loài người ra làm hai trong Ngày cánh chung (Mt 25-31). Lạy Chúa xin nâng con lên. Xin giúp con biết chọn Chúa.
Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê, còn hài nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh... tiến triển...
Cuộc hành trình lên thủ đô đã kết thúc. Đôi vợ chồng trẻ lại trở về miền quê tăm tối của mình. Nhưng giờ đây, chính Thiên Chúa luôn ở cùng. Người sắp sống tại xưởng thợ nơi gia đình. Dần dần, Người sẽ tập sống làm người. Người sẽ học đời, học đi (ban đầu có thể lao đao, rồi té xuống). Người sẽ học đọc tại trường, học nghề thợ mộc... ôi thôi! kéo cưa của cậu mới ‘tập sự’ chưa giúp được việc gì. Những, Người cứ tập tành... Người sẽ tiến bộ.
65. Chú giải của Fiches Dominicales
LÒNG TIN KHÔNG ĐẮN ĐO
CỦA ĐỨC MARIA VÀ THÁNH GIUSE
Trung thành với Luật Môsê, các ngài dâng hiến Hài Nhi cho Thiên Chúa và cùng Đức Giêsu dấn thân lên đường.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Chúa Giêsu tỏ mình ra trong đền thờ.
Đây là lần Chúa tỏ mình ra trong Đền thờ, trung tâm sinh hoạt tôn giáo của người Do Thái. Cũng trong tư cách là Đấng Cứu Thế, việc tỏ mình này có liên hệ chặt chẽ với việc tỏ mình ra cho các mục đồng vùng Bêlem.
Luca làm cho các độc giả của mình liên tưởng ngay đến "Luật Môsê" ấn định một thời hạn là bốn mươi ngày kể từ ngày sinh con cho đến khi làm lễ thanh tẩy cho người mẹ trẻ. H.Cousin nhận xét: Như vậy là "Bảy mươi tuần đã trôi qua kể từ ngày Thiên Thần Gabrien loan báo Gioan Tẩy Giả chào đời ": Công cuộc giả phóng Giêrusalem được loan báo trong Isaia (Is 40-55) nay trở thành hiện thực, như lời ông Simêon rồi đây sẽ hát lên ("L'evangile de lúc", Centurion, trang 42).
Việc xảy ra tại thành đô "Giêrusalem”, nơi khi lên mười hai tuổi Đức Giêsu sẽ đi hành hương lần thứ nhất (2,42); nơi sẽ diễn ra cuộc "xuất hành" của Người (khổ nạn, chết, sống lại, lên trời) vào những ngày chót của cuộc hành hương long trọng cuối đời. Đây là điểm quan trọng, vì đối với Luca, Giêrusalem sẽ là trung tâm của biến cố Phục sinh và khởi điểm của công cuộc truyền bá Kitô giáo.
- Bối cảnh của sự việc là "Đền thờ', nơi đây Luca đã khởi đầu Tin Mừng bằng việc truyền tin cho ông Dacaria (1,5,25); nơi đây Tin Mừng Luca sẽ kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu "Hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa" (24,25). ' '
"Cha mẹ Đức Giêsu" đem con lên Giêrusalem, "để tiến dâng cho Chúa”. Luca đặt vào đây hai nghi lễ riêng biệt:
+ Một đàng theo sách Lêvi 12,8, lễ "thanh tẩy" cho người mẹ
trẻ, 40 ngày sau khi sanh con, nếu là con trai, kèm theo của lễ là “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non" đối với gia đình nghèo.
+ Đàng khác, theo sách Xuất Hành 13,12 và để kỷ niệm ngày tổ phụ Abraham sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa người con trai duy nhất của ông là Isaac (bài đọc 2), còn có việc thánh hiến và chuộc "con trai đầu lòng”.
Có tới ba lần Luca nhấn mạnh đến ý muốn của Giuse và Maria là trung thành làm xong mọi việc "như Luật Chúa truyền”. Ngay cả những việc không tiên liệu nữa, bởi lẽ các ngài đích thân dâng tiến con trai đầu lòng theo gương bà Anna đến Nhà Chúa dâng bé Samuen vậy (1 Sam 1,22-24).
2. Ứng nghiệm những lời hứa, loan báo sứ mệnh của Đức Giêsu.
Hai nhân vật bất ngờ xuất hiện, một nam một nữ tiêu biểu cho niềm mong đợi Đấng Cứu Thế từ bao đời nay của Israel. Không hẹn, mà cả hai cùng đến gặp Maria và Giuse: "Và này đây tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon... cũng có một nữ ngôn sứ là Anna”. Hai khuôn mặt đẹp gợi nhớ lại những vị thánh nam nữ trong Thánh Kinh kể từ Abraham là sa ra.. Hai bậc cao niên mà vì họ Hài nhi được Thánh Thần tác động, sẽ đến vén lên bức màn bao trùm biến cố để lộ ra ý nghĩa thực: nơi Hài nhi ấy các lời hứa đã được ứng nghiệm, hát nhi ấy loan báo việc sắp xảy ra.
- Trước tiên phải nói đến ông Simêon. Ông không phải là người có trách nhiệm phục vụ Đền Thờ vì ông không phải là tư tế, cũng chẳng phải là lê vi hay Kinh sư. ông chỉ là "người công chính" (nghĩa là người hoàn toàn "khớp với ý muốn của Thiên Chúa) và sùng đạo (nghĩa là người được lòng tin và niềm hy vọng của Israel hun đúc).
+ Trong Bài ca “an bình ra đi" của ông, ông chào mừng cuộc giáng lâm của Đấng cứu độ và tỏ ra mãn nguyện thấy lời Chúa hứa nay được thể hiện nơi Đức Giêsu.
Hài Nhi này đến làm cho lòng mong đợi của riêng ông và dân tộc ông được mãn nguyện; ông lên tiếng ngợi ca ơn lạ lùng Chúa đã ban cho chính ông, người trông đợi cuối cùng của Giao ước cũ, là được "bồng bế trên tay mình" Hài Nhi trưởng tử của một thế giới mới mà ông đã hình dung ra.
Rồi ngỏ lời trực tiếp với hài nhi, ông chào mừng con trẻ là Đấng Mêsia " là "ơn cứu độ " của Thiên Chúa, một ơn cứu-độ vượt khỏi biên giới Israel và có liên can tới mọi dân tộc, bởi lẽ hài nhi Giêsu này "là ánh sáng soi đường cho dân ngoại”. Ông kết thúc bài ca khi loan báo rằng nhiệm vụ trông đợi của Ông đã đến hồi kết thúc: "Giờ đây ông có thể ra đi an bình”.
Những lời tiên tri của ông Simêon khiến cho cha mẹ Hài Nhi "ngạc nhiên”, đồng thời cũng gây cho ông bà những thắc mắc đi đôi với sự hài lòng (xem dưới).
+ Thế rồi, sau khi chúc phúc cho cha mẹ Hài nhi, ông nói với Maria một lời tiên tri đau buồn, tương phản với niềm vui được bày tỏ trong Bài Ca: "Này, người con của bà đây...ông loan báo cảnh "chia rẽ”, sẽ có sự chia lìa vì Đức Giêsu: những kẻ ủng hộ Người thì người sẽ là sức mạnh vực họ chỗi dậy, những ai chống đối người, thì Người khiến họ phải "vấp ngã”. Bởi lẽ, R.Meynet chú giải "Chúa không áp đặt ơn cứu độ của người cho ai cả; người chỉ đưa ra, chỉ "dành sẵn cho muôn dân”, cho mọi dân tộc cũng như cho Israel. Người chỉ kêu mời người ta đón nhận trong tự do. Nhưng rnọi người đều sẽ phải quyết định. Đức Giêsu không phải là một chứng cứ không thể phi bác người là một dấu chỉ trước niềm tin và tự do của con người. Nhiều người trong Israel sẽ từ chối Người, nhưng những người khác sẽ chấp nhận đi theo Người. Nơi các dân tộc cũng thế thôi. Mọi người sẽ bị phân rẽ, ngay cả giữa cha mẹ mình, ngay cả Đức Maria cũng sẽ phải chịu thử thách ấy. Sự ngạc nhiên của cha mẹ Người là sự ngạc nhiên của lòng tin trộn lẫn với những thắc mắc và sự hài lòng trước những biến cố bất ngờ này. Trước xì-căng-đan của thập giá, lòng tín của Đức Maria cũng như của tất cả các môn đệ đều sẽ phải trải qua cơn xâu xé dày vò" ("L'evangile se lon saint lúc – Analyse rhétorique". Cerf, trang 40).
Và này đây một nhân vật khác, bà Anna, mà Luca gọi là "nữ ngôn sứ”. J. Potin viết: ""Bà cũng là hình ảnh người phụ nữ thánh thiện của Kinh Thánh. Bà kết hôn từ thuở niên thiếu, nhưng có lẽ chịu phận son sẻ, giống như bà mẹ của Samuen đã một thời hiếm muộn; bà ở goá để tưởng nhớ chồng, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phụng Thiên Chúa trong đền Thờ. Qua bà, cả một đoàn lũ đông đảo các phụ nữ thánh thiện Israel đang dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì từ nay Người khởi sự thực hiện việc giải thoát dân Người" ("Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 95).
Phần cuối câu truyện không quên nhắc lại việc cha mẹ Đức Giêsu trung thành tuân thủ Lề Luật. Rồi bằng ít lời vắn gọn, Luca tóm kết tất cả cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu ở Nagiarét như sau: "Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Ơn khôn ngoan mà Hài Nhi được tràn đầy, chẳng bao lâu nữa người ta sẽ thấy biểu lộ trong trình thuật tìm gặp lại con trong Đền thờ (Lc 2,46-47).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. "Một khởi đầu mới mong manh”.
(L. Sintas, trong "Parole du Dteu pour la méditation ét l'homélie. Năm B", Médiaspaul. trang 22-23).
Để ghi nhớ việc tổ phụ Abraham hiến tế con đầu lòng cho Thiên Chúa, Luật truyền cho mọi con trai đầu lòng phải được hiến dâng cho Chúa (...). Maria và Giuse tuân thủ Luật Chúa truyền. Vì hai ông bà nghèo, nên dâng một cặp bồ câu non làm của lễ.
Hôm nay nghi lễ hiến dâng này có một tầm mức thật là độc đáo. Nếu đúng là mọi Hài Nhi ra đời đều là ơn huệ của Thiên Chúa mà mọi cha mẹ phải nhìn nhận và vui mừng, thì điều đó càng đúng biết bao đối với trường hợp của Hài Nhi Giêsu. Không ai trong số những người được trông thấy Maria và Giuse tiến vào Đền thờ hôm ấy, hiểu được điều ấy. Các môn đệ, các thánh sử thực ra chỉ hiểu rõ điều này sau khi Chúa phục sinh. Chỉ tới lúc ấy các ông mới nhận ra sự cao cả lạ lùng của Đức Giêsu, Đấng các ông đã sống kề cận trong ba năm qua. Sự cao cả lạ lùng đó Đức Giêsu đã có từ lúc đức Maria mang thai và sinh ra Người, dầu rằng lúc đó còn bị che giấu. Chỉ sau biến cố phục sinh, các ông mới có thể viết Tin Mừng về thời thơ ấu của Đức Giêsu là làm nổi bật được tính cách độc nhất vô nhị của Người.
Nơi bản thân ông Simêon, Luca như đọc được một bản tóm tắt toàn bộ mầu nhiệm ấy. Simêon là một con người được nhào nặn trong lòng tin của Israel. Nếu ông được coi là một người công chính, thì điều đó có nghiã là nơi ông, người ta gặp được sự thánh thiện của những chính nhân đầy lòng tin. Ông giữ một vị trí chính đáng trước mặt Thiên Chúa, trước lề luật của Thiên Chúa, cũng như trước mặt mọi người. Bởi được viết sau biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, nên Luca có thể gọi đích danh nhiệt tình thúc đẩy ông Simêon lên Đền Thờ, là sức mạnh dun dũi của Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được giới thiệu ở đây như là sức mạnh duy nhất kiến tạo nên dân Chúa, dẫn dắt dân trong lòng tin (...). Sự hiệp nhất sống động giữa Cựu ước và Tân ước được biểu lộ ra bằng một biến cố. Một ông già mà cả đời đã được nuôi dưỡng trong lòng tin của tổ phụ Abraham giờ đây tiến đến trước Đấng Mêsia của lời hứa và được khao khát từ bao đời. Ông già ấy giờ đây ẵm bế trên tay mình Đấng Mêsia kia và hát lên-lời ca chúc tụng và tri ân Thiên Chúa:
Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi (...).
Ông già ấy có thể qua đi. Vậy thì ngọn lửa thiêng kia phải được trao lại cho ai? Trao cho một hài nhi bé bỏng. Điều này muốn nói lên rằng giai đoạn đầu mới lạ này quả là mong manh bé nhỏ. Nước Thiên Chúa giống như một hạt giống dù là loại hạt nhỏ nhất, nhưng vẫn hứa hẹn sẽ trở nên một cây to lớn. Nó cũng nói lên tầm quan trọng của Thánh Gia trong vai trò được trao phó và gìn giữ hạt giống mỏng manh kia. Quả là mong manh bé nhỏ khi toàn bộ thế lực sự ác sẽ ập đến tấn công hạt giống ấy. Và ông Simêon cũng nói cho Maria hay một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà. Cuộc khổ nạn đã có mặt ngay từ đây rồi. Phải, người ta sẽ chia rẽ vì hài nhi này. Trẻ ấy sẽ làm cho nhiều người phải vấp ngã. Thực tế cho thấy hận thù ghen thét dường như toàn thắng. Những thù địch của Đức Giêsu sẽ thắng được Người. Họ sẽ kết tội và đóng đinh Người.
Tuy nhiên, cũng chính Giêsu ấy sẽ làm cho nhiều người được chỗi dậy. Phục sinh đã được loan báo và ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đem đến một cuộc phục hồi lớn lao vô cùng. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã danh sẵn cho muôn dân.
Đó chính là lý do khiến nữ ngôn sứ Anna, lúc ấy cũng tới nơi để cùng hát lên những lời tán tụng Thiên Chúa với ông Simêon.
2. “ Trung tín với thần khí”
(Đức Cha L.Daloz, trong "diệu a visité son peuple"; Desclée de Brouwer, trang 21-22).
"Để chu toàn các điều Luật truyền, cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Đền Thờ dâng tiến cho Thiên Chúa, và dâng của lễ nghèo hèn là "một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non" dành cho việc thanh tẩy Đức Maria. Được Thần Khí thúc đẩy, ông Simêon lên Đền Thờ gặp hai ông bà. "Ông Simêon là người đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa? Hoạt động của thần Khí là sợi đây nối kết mọi hoàn cảnh xảy ra khi Đức Giêsu giáng sinh. Công trình Thần Khí thực hiện thì sung mãn, phong phú và hưng phấn. Câu truyện trong hai chương đầu của Tin Mừng Luca mang dấu ấn rõ rệt về hoạt động của Thần Khí. Những biến cố luôn hàm ý về tương lai, và người ta đã linh cảm được sứ mệnh phổ quát của Đức Giêsu. Những nhân vật như Maria, Dacaria, Êlisabét, Simêon và nữ ngôn sứ Anna đều là những người loan báo ơn giải thoát mà hạt giống đã được chôn vùi trong thế giới chúng ta. Các ngài đều làm chứng rằng ơn cứu độ đã tới và hết sức vui mừng. Thần Khí hoạt động dựa trên các ngôn sứ, Thần Khí ấy của Thiên Chúa tràn đầy vũ trụ, đến thực hiện các lời hứa và ban ơn thông hiểu. Qua miệng ông Simêon, Thần Khí tỏ cho thấy ánh sáng đang đi vào thế giới và người Con của Đức Maria nắm giữ vai trò quyết định. Người con ấy sẽ là dấu hiệu cho người ta chống đối, khi phanh phui ra những tranh cãi của nhiều tâm hồn. Chúng ta hết thảy đều liên can tới điều mạc khải này vì nó cũng phanh phui những tranh chấp trong tòng ta. Cũng Thần Khí ấy của Thiên Chúa còn thâm nhập vào nơi sâu thẳm của bản thân ta và thúc đẩy ta, phải nhận biết Đấng ban ơn cứu độ. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại ”... Chỉ mình Thần Khí mới có thể mở mắt ta đón nhận ánh sáng này. Như ông già Simêon, như nữ ngôn sứ Anna, tâm hồn ta phải biết lắng nghe và nhạy bén với làn gió âm thầm của Thần Khí. Như vậy, chúng ta mới có thể đón nhận Đức Kitô - Anh sáng.
66. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
TRÌNH DÂNG CHÚA GIÊSU TẠI ĐỀN THỜ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Theo luật Môisen": người ta có thể thắc mắc tại sao Luca nhấn mạnh quá nhiều đến việc Thánh Gia hoàn tất các nghi thức Do thái. Nếu nhớ Luca là môn đệ của Phaolô, ta sẽ tìm ra được lý do tuyệt diệu trong suy tư sau đây của thư Galata: "Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài, sinh bởi người nữ, sinh dưới quyền Lề luật, để giải phóng những kẻ ở dưới quyền Lề luật, ngõ hầu ban quyền nghĩa tử: cho ta. Và bởi vì anh em là nghĩa tử, nên Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con Ngài đến trong lòng anh em, chính Thần khí kêu lên: Abba, Cha ơi! Cho nên anh em không còn là nô lệ, nhưng là con; mà nếu là con, thì cũng là kẻ thừa tự thể theo (ý của) Thiên Chúa" (14,4-7). Bản văn này làm sáng tỏ Tin mừng thời Thơ ấu cách lạ lùng thật. Vì chẳng có nơi nào cho thấy rõ ràng Chúa Giêsu thật là Con Thiên Chúa, sinh bởi người nữ; chẳng có nơi nào mà Tin mừng nhấn ngạnh mãnh liệt việc Người tuân giữ các quy khoản Lề luật như đoạn văn hôm nay.
"Họ phải được thanh tẩy": Theo luật Môisen trong Lv 12 thì sau khi sinh con trai, người mẹ trở nên ô uế trong 7 ngày xét theo luật phụng tự (nghĩa là không được chạm đến vật gì đã thánh hiến cũng như tham dự phụng vụ tại Đền thờ) và tiếp đó phải ở riêng trong nhà 33 ngày nữa. Sau thời gian thanh tẩy theo nghi thức ấy bà phải đến Đền thờ dâng một của lễ. Người ta ngạc nhiên khi nghe thánh sử bảo: Họ phải được “thanh tẩy", vì chỉ mình người mẹ là cần chuyện này mà thôi. Có thể giải thích như sau: họ phải được thanh tẩy. Nghĩa là việc thanh tẩy này có liên can tới họ; thanh tẩy là điều bắt buộc đối với một mình người mẹ do việc sinh con ra, là việc sinh nở thì vừa liên hệ tới bà mẹ và liên hệ tới đứa bé. Người
ta cũng có thể ức đoán rằng Lc quan niệm lễ nghi thanh tẩy như được thi hành trong thực tế, nghĩa là có kèm theo nghi thức trình dâng đứa trẻ. Nếu thế thì đây là một lễ nghi tại Đền thờ trong đó Maria dâng các lễ tế tiên liệu cho việc thanh tẩy, đồng thời lợi dụng cơ hội để trình dâng Hài Nhi Giêsu. Nhưng dù sao chắc một điều là Giuse không dính dáng gì đến việc "họ được thanh tẩy", vì Lề luật chẳng hề buộc người chồng phải thanh tẩy.
"Và khi đến ngày, theo luật Môisen. họ phải được thanh tẩy, thì họ đem người lên Giêrusalem": Hai chữ “họ” của câu này xem ra giống nhau, nhưng văn mạch cho thấy là không phải vậy; chữ "họ" thứ nhất nhắm Maria và Giêsu, chữ "họ" thứ hai nhắm Maria và Giuse; câu văn hơi sai đôi chút. Vì Luca quá muốn gãy gọn mà lại quên lưu ý là các đại danh từ số nhiều đi liền nhau đây không chỉ cùng nhân vật. Tuy nhiên ý nghĩa cũng khá rõ ràng. Việc trình dâng Hài Nhi tại Đền thờ này không có trong lề luật. Chỉ việc chuộc đứa bé là truyền buộc thôi. Nhưng Luca chẳng hề nói qua một tiếng đến lễ nghi chuộc Chúa Giêsu đó, mà chỉ đề cập tới việc dâng trình Người. Ông lại còn nhấn mạnh đến việc trình dâng này bằng cách liên kết vào đó hai văn từ của lề luật mà thật ra chỉ liên hệ tới việc chuộc con. Làm như vậy là để mặc cho việc trình dâng một ý nghĩa long trọng: dâng hiến và thánh hiến. Thành thử đối với Luca, việc long trọng trình dâng Chúa Giêsu cho Giavê hôm nay tương đương với việc chu toàn cách thiêng liêng nguyên tắc pháp luật của Xh 13, theo đó mọi con trai đầu lòng (và nhất là Đứa Con đầu lòng này) đều thuộc về Giavê. "Một người tên là Simêon” Tên này rất thông dụng thời đó. Có kẻ đã đồng hóa ông Simêon với một giáo sĩ tên Simêon, con của Hillel và cha của Gamaliel, cả ba đều là những đại giáo sĩ ở Giêrusalem. Nhưng việc đồng hóa này không bảo đảm. Lời kinh Nunc dimittis quả cho thấy Simêon là một cụ già, song Luca chẳng quả quyết điều này một cách minh nhiên. "Niềm an ủi của Israel": Từ Is 40, 1; 51, 12; 61,2... từ ngữ này ám chỉ thiên sai thời đại.
“Thánh Thần ở trên ông": Theo ngôn ngữ Cựu ước (Ds 11, 17.11,25.29; 2V 2, 15; Is 11,2; 41, 1; Ed 11,5), thành ngữ này muốn nói Simêon là ngôn sứ.
“Đức Kitô của Chúa": Đây là tước hiệu cổ truyền của Đấng thiên sai trong Cựu ước Hy lạp (1Sm 24,7,11; 26, 9. 11. 16.23; 2 Sm 1, 14. 16...) và tương đương với tước hiệu "Đấng Messia của Giavê”. Đừng lẫn lộn với thành ngữ Kitô Chúa" (thành ngữ riêng biệt của Lc trong Tin mừng, x. 2, 11) mà người ta thấy trong Ac 4,20 bản Hy lạp) và Tv Salomon 17,36 cũng như trong Phaolô nhiều lần về sau. Tước hiệu "Kitô Chúa" này rõ ràng có một ý nghĩa siêu việt mà những đồng hóa Đấng Messia với Giavê. Nó giàu nghĩa hơn tước hiệu "Đức Kitô của Chúa".
"Cha mẹ": Vì đã nhấn mạnh nhiều đến việc đầu thai đồng trinh của Chúa Giêsu, nên Lc không ngần ngại dùng chữ. "cha mẹ Người" (x. cc. 41.43) và ngay cả "cha Người" (cc. 33.48). Các sao lục viên vẫn thường thay các hạn từ vừa nói bằng chữ Maria và Giuse để làm nổi bật sự kiện Chúa Giêsu chỉ có một Cha ở trên trời.
"Giờ đây, lạy Chúa...": Sấm ngôn nơi cc.29-32 này tương ứng với thánh ca Dacaria về Gioan Tẩy Giả trong Lc 1,67-79; nhưng thay vì cảm hứng từ các Thánh vịnh, ở đây sấm ngôn mượn lời của sách Isaia đệ nhị, phần thứ hai, và công bố rằng trong Chúa Ciêsu, ơn cứu độ đã được ban tặng. Thánh thi này đã được dùng trong kinh nguyện phụng vụ của Giáo Hội (kinh tối) từ thế kỷ V (x. Hiến pháp Sứ đồ 7,48).
"Theo lời Ngài": Các chữ này làm ta liên tưởng tới việc Thánh Thần đã mặc khải (c.26) cho Simêon biết ông sẽ được nhìn thấy Đấng Messia trước khi lìa đời.
"Anh sáng rạng soi dân ngoại": Việc cứu rỗi dân ngoại lần đầu tiên được loan báo ở đây trong tác phẩm Lc. Nhưng nó chỉ cược công bố cách minh nhiên rõ ràng từ sau mặc khải phục sinh (Lc 24,47).
“Vinh quang của Israel dân Ngài": Tước hiệu này rất đặc biệt. Nó đưa ta về đoạn Xh 40,35: "Đám mây bao phủ nhà tạm và Vinh quang Giavê lấp đầy chỗ Thần cư ". Đây là việc Vinh quang đi vào trong cung thánh; và Vinh quang chính là Giavê. Ở đây cũng vậy, cũng nói về Vinh quang trong cung thánh, nhưng Vinh quang được mạnh dạn đồng hóa với Chúa Giêsu: người là Vinh quang. Có một dấu chứng nói lên ý tưởng táo bạo này là: theo quan niệm Cựu ước, ai đã thấy Giavê (Xh 19,21; 33,20; Lv 16,2; Ds 4,20) hoặc chỉ nghe Ngài nói thôi (Xh 20,10, Đnl 5,24-26; 18,16) đều phải chết. Thế mà trong giai thoại trình dâng Chúa Giêsu đây, các thành ngữ "thấy cái chết" (2,26), “thấy Chúa Kitô của Chúa" (2,26), thấy... Vinh quang" (2,30.32) lại liên quan mật thiết với nhau. Môisen đã không vào lều tạm vì sợ chết (Xh 40,35). Simêon thấy "vinh quang" và có thể lìa trần. Theo lối chơi chữ trong bản văn, thì ông "thấy" Vinh quang đồng thời với cái chết.
“Cha mẹ người đều kinh ngạc": Lc cố ý cho thấy sau các lần mặc khải đầu tiên ở 1,31-35 và 2, 11. 14, cha mẹ Chúa Giêsu vẫn chưa quán triệt hết mầu nhiệm của Người.
"Người có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel": Chúa Giêsu là nhân vật bắt ta phải quyết định chọn lựa. Trong Người hoàn tất cái sấm ngôn hình như tiềm ẩn trong các lời Simêon nói: “Đối với các người, Ngài (Giavê) sẽ là cơ hội thánh hóa, là đá vấp phạm, là thạch nham nên dịp trượt ngã cho đôi nhà Israel, là tròng lưới là là cạn bẫy cho dân Giêrusalem. Lắm người sẽ trượt nhà trên đó; chúng ngã lăn và tan xương, chúng sẽ sa bẫy và bị chụp" (Is 8, 14). Nhưng lời tiên tri sau đây cũng đúng cho Chúa Giêsu: "Này Ta đặt trên Sion một viên đá hoa cương, viên đá góc quý giá làm nền. Ai cậy tin vào viên đá này sẽ không nao núng" (Is 28,16). Khi buộc mỗi người phải chọn theo hay chống lại người, Chúa Giêsu sẽ là dấu chỉ gây cớ vấp phạm. “Và hồn bà, một mũi gươm sẽ đâm thâu qua": Câu này từ lâu đặt ra cho các nhà chú giải nhiều vấn đề lóc búa. Một số dựa theo Origène (Reuss, Bleek...) cho rằng lưỡi gươm là sự nghi ngờ sẽ đâm thâu suốt cuộc đời Maria, nỗi nghi ngờ về lai lịch sâu xa của Quý tử; nhưng lối chú giải này không mấy phù hợp với phần còn lại của Tin mừng là xem ra là một lối giải thích có tính cách tâm lý học vô bằng cứ. Lối giải thích cổ truyền (từ paulin de no le và thánh Augustin) đã xem lưỡi gươm chính là việc Maria hiệp thông và nỗi đớn đau của đứa con tử nạn. Lối giải thích này dĩ nhiên có thể chấp nhận, nhưng không chắc chắn. Quả thế, nó cắt đứt chuyển thông liên tục của bản văn và xem ra đưa vào đấy một dấu ngoặc (BJ và Nguyễn thế Thuấn đặt câu nói giữa hai gạch ngang) là như thế là ngược lại với thói quen của người sêmita. Tiếp đến, nó quá thu gọn tư tưởng vào cá nhân con người Maria, một điều xem ra ngược với nhãn giới của thánh sử, vì đối với ông cũng như đối vật mọi tác giả Tân ước, tâm lý các nhân vật không đáng lưu tâm bằng vai trò của họ trong lịch sử cứu rỗi; người ta thấy rõ điều này trong các quang cảnh của thời Thơ ấu, trong đó Maria bao giờ cũng chỉ đóng một vai trò phụ thuộc sánh với vai trò Chúa Giêsu. Sau cùng lối giải thích cổ truyền đây quá quy chiếu về đồi Canvê mà loại bỏ mọi cái khác.
Gần đây, việc chú giải câu này đi theo một chiều hướng khác biệt. Trong Cựu ước, hình như lưỡi gươm vẫn thường được xem như là biểu tượng của sự đối kháng và chia rẽ (Ed 12. 14). Hơn nữa, Isaia lại còn bảo Thiên chúa đã biến miệng Người tôi tớ thành một "lưỡi gươm sắc bén" (49,2). Hình ảnh này đã được Khải Huyền lấy lại khi nói về Chúa Kitô (1.16; 2, 12. 16; 19, 15.21). Khi nhớ rằng viên Ky mã trong Khải huyền, mà miệng võ trang bằng một lưỡi gươm sắc bén, được gọi là “Ngôi lời Thiên Chúa" (Kh 19, 13) và khi lưu ý rằng Is 49,2 đi trước Is 49,6 là đoạn gọi Người Tôi tớ là "ánh sáng muôn dân", thì ta phải lập tức nghĩ rằng cả hai câu này đã có trung tâm trí lực khi ông viết các câu 32.35a và rằng lưỡi gươm phân rẽ Israel làm đôi (c.34) chính là Lời mặc khải đến trong Chúa Giêsu, lời cứu độ nhưng cũng là lời phán xét (x. Dt 4, 12). Thế mà hình như chắc là trong hai chương đầu này. Luca trình bày Maria như là Nữ tử Sion, nghĩa là Israel nhân cách hóa (x. chứng minh dài dòng của Laurentin, sđd, tr.148- 163). Theo viễn ảnh như vậy, có thể Lc còn muốn tiếp tục việc nhân cách hóa này (trong quang cảnh trình dâng Chúa Giêsu và có lẽ rằng chính vì xét như là Nữ tử Sion mà Maria đã được Simêon ngỏ lời ở c.35a: trong con người của bà. Chính Israel sẽ bị gươm của Giavê xuyên thấu.
Lối chú giải này (của Sahlin. Black, Laurentin. Boismard, Benoit...) có lợi điểm là làm cho c.35a thuần nhất với văn mạch của nó. Thay vì nằm trong ngoặc đơn, thì câu này trở thành một khâu trong chuỗi khai triển; nó t.iếp tục tư tưởng của câu trước và chuẩn bị cho tư tưởng kế tiếp theo. Chúng ta đã thấy mối liên lạc giữa c.34 và 35a: cơn khủng hoảng gây ra trong Israel bởi "dấu chỉ vấp phạm" được mô tả, theo Edêkien, như lưỡi gươm Giavê đâm thâu tâm hồn (dân Chúa). Còn c.35b thì đưa ra một kết luận ăn khớp: thử thách gây nên do việc Chúa Giêsu đến rồi đây sẽ vạch trần bí ẩn của mọi tâm hồn khi đòi con người phải chọn lựa theo hay chống Chúa Giêsu.
Được hiểu một cách ăn khớp với nhau như thế, cc.34-35 sẽ cân xứng tuyệt vời với các cc.30-32. Lời tiên tri của Simêon phân chia thành một bức song bình: một bên là việc chiếu soi dân ngoại và ơn cứu độ phổ quát, vốn tựng trưng cho vinh quang Israel; bên kia là cơn khủng hoảng trong chính Israel, cơn khủng hoảng sẽ khiến nhiều con cái tuyển đến ngã gục. Đó là tất cả bi kịch của lịch sử cứu rỗi, được Lc trình bày trong Tin mừng và sách công vụ; tấm bi kịch này được Simêon loan báo ở đây cách vắn tắt nhưng vô cùng mạnh mẽ.
Để biện minh cách tiêu cực cho lối giải thích vừa nêu, chúng ta hãy đưa ra một bắt bẻ quan trọng đối với lối giải thích cổ truyền. Trong Tin mừng Luca, chẳng có chỗ nào nói đến việc Maria hiệp thông vào số phận đau đến của Chúa Giêsu cả. Dĩ nhiên người ta có quyền giả thiết bà đã hiệp thông một cách nào đó. Nhưng nếu Luca đã muốn ngụ ý điều này khi đặt trên miệng Simêon lời tiên tri bí ẩn, thì hẳn sau đó ông đã cho thấy việc hiệp thông được thể hiện trong nhiều sự kiện rõ rệt. Thế mà Lc đã chẳng nhắc đến tên Trinh nữ trong số các người đàn bà theo dõi việc đóng đinh thập giá.
"Ngày đêm tham dự phụng tự (Nguyễn Thế Thuấn: “Bà không rời khỏi đền thánh, thờ Chúa ngày đêm”): Nét này, mà người ta còn gặp lại trong Lc 18,7; Cv 20,31; 26,7, hình như hơi lý trưởng hóa. Vì dù sao, các phụ nữ không được phép ở lại đêm trong khuôn viên Đền thờ.
"Họ trở về Galilê, đến Nagiarét...": Đây chỉ là một lối tóm tắt, hoàn toàn theo kiểu của Luca. Matthêu cho thấy Thánh Gia đã ở lại Bêlem khá lâu (Mt 2,11), và thời hạn cuộc lưu trú này tùy thuộc vào ngày giờ gán cho cuộc thăm viếng của các đạo sĩ. Dựa vào Mt 2, 16, có người bảo là hai năm. Nhưng dầu giả thiết thế nào chăng nữa, thì việc Trình dâng tại Đền thờ cũng phải xảy ra trước cuộc Hiển Linh. Vì khó cho rằng Giuse, mà trong suốt thời thơ ấu của Chúa Giêsu luôn luôn tỏ ra khôn ngoan thận trọng, ai đi lôi kéo cơn lôi đình của Hêrôđê xuống trên đứa bé. Thành thử việc trở lại Nagiarét mà Luca nói ở đây trước tiên giả thiết việc lui về Bêlem rồi chạy trốn đến biên giời Ai Cập (hợp với Mt 2,13-15), và trùng hợp với việc định cư tại Nagiarét mà Mt 2,19-23 đã nói.
KẾT LUẬN
Với nhiều điển tích, nhiều ám chỉ Kinh thánh, Luca cho thấy việc Trình dâng Chúa Giêsu tại Đền thờ khai mào thời đại thiên sai, cái thời đại đã được các ngôn sứ xưa loan báo và được đánh dấu bằng việc Vinh quang của Giavê long trọng tiến vào Đền thờ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Từ thuở ấu thơ, ngay cả khi chưa nói được. Chúa Giêsu đã hoàn tất các lời Kinh thánh. Hôm nay, Ngài thực hiện lời hứa đã ban cho Đanien (9,21-24), cho Malaki (3,1) và cho biết bao ngôn sứ khác ngày xưa. Hôm nay, trong con người trẻ bé Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại cung thánh bị bỏ phế của Ngài. Vì, dù tội Israel thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẩn luôn trung thành với lời mình đã hứa. Sự thất trung của Israel chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa này, chứ không thể hủy bỏ chúng được. Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày chúng ta được Rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử Ngài. Rồi dù chúng ta có lắm bất trung, Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Dù tội chúng ta có xua đuổi Ngài ra khỏi cung thánh lòng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp chúng ta ăn năn thống hối. Hôm nay chúng ta hãy mở rộng cung thánh chúng ta cho Ngài, hãy mời Chúa Kitô đã từ nay vinh hiển đến ở mãi trong cuộc đời chúng ta, hãy cùng với Người tận hiến bản thân cho Thân phụ chí hảo của Người, để chúng ta cũng được trở nên "ánh sáng" (2,32) chiếu soi hết mọi người sẽ gặp chúng ta.
2. Hành động của Thánh Thần có mặt khắp cả bài Tin mừng hôm nay. Chính Thánh Thần ở trên Simêon (c.25) đã mặc khải cho ông biết ông sẽ thấy Đấng Messia trước khi qua đời (c.26), đã thúc đẩy ông vào Đền thờ ngay lúc Chúa Giêsu đến (c.27). Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới sự hoạt động của Thánh Thần cách thường xuyên nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa thánh và biết chăm chỉ tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Thánh Thần cũng có thể trở nên trong chúng ta một nguồn sáng giúp ta hiểu rõ hơn đức tin và bổn phận chúng ta, một nguồn sức mạnh và năng lực thiêng liêng giúp ta can đảm sống trọn đời môn đồ Chúa, một nguồn linh ứng cho lời cầu nguyện cũng như cho cuộc sống chúng ta thường ngày.
3. Simêon và Anna đã suốt đời chờ đợi giờ được cho xem thấy Chúa Kitô. Đối với chúng ta, họ là những tấm gương hy vọng và trung tín. lòng trung tín của họ đã được ân thưởng: họ được niềm vui bồng ẵm trên tay “Ang sáng dân ngoại”, “Vinh quang Israel", đích thân Thiên Chúa. Chúng ta cũng được hồng ân như vậy mỗi lần đi rước lễ. Chúng ta hãy chuẩn bị tiếp lấy ân sủng này trong sự trung tín mong chờ và đón nhận nó với tất cả tâm tình biết ơn như Simêon và Anna.
4. Maria và Giuse đã chấp hành hoàn hảo mọi yêu sách của Lề luật Môisen. Các đấng lại vâng phục dẫn độ còn thi hành thói quen đạo đức là Trình dâng con trai đầu lòng tại Đền thánh, một điều là luật không đòi hỏi. Sở dĩ các đấng đã đi quá Lề luật như thế, đó là vì các đấng đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ hãi.
5. Maria, thụ tạo tinh tuyền nhất trong lịch sử nhân loại, đã khiêm tốn chấp hành nghi thức thanh tẩy. Phần chúng ta là những người đã bị tội lỗi làm cho ra vô cùng ô uế, chúng ta cũng hãy khiêm tốn lãnh nhận bí tích cáo giải để được thanh tẩy tâm hồn. Cho đến tận thế, Chúa Giêsu vẫn là dấu chỉ vấp phạm (c.34) vì buộc con người phải chọn lựa theo hay chống lại Ngài. Phần chúng ta, hãy làm lại việc dấn thân theo Ngài vô điều kiện. Nếu chúng ta trung thành với Ngài, thì "ân sủng Thiên Chúa cũng sẽ ngự xuống" (c.40) trên chúng ta và đổ đầy cuộc đời chúng ta niềm vui và ánh sáng.
7. Maria và Giuse đã ngạc nhiên khi nghe những điều Simêon và Anna nói về Quý tử. Sở dĩ ngạc nhiên, là vì các Đấng chưa hoàn toàn quán triệt mầu nhiệm sâu xa bao phủ con mình. Dù được sống thân mật với Chúa Giêsu, các đấng cũng phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các đấng được đào sâu vì các đấng "gẫm suy mọi sự ấy trong lòng" (2,19). Đối với chúng ta, cũng chẳng có gì lạ nếu chúng ta không hiểu hết mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù đã qua 20 thế kỷ, Giáo Hội vẫn luôn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Chúa Kitô. Như Chúa Kitô, đức tin chúng ta phải lớn lên, triển nở trong sức mạnh và ân sủng. Đức tin chúng ta, chính là sự tăng trưởng liên tục và dần dần của Chúa Kitô trong chúng ta.
67. Chú giải của William Barclay
Lc 2, 21-24: Các nghi lễ được tuân giữ
Ở đây, chúng ta thấy gia đình Chúa Giêsu đã tuân thủ ba nghi lễ cổ mà người Do Thái phải giữ.
1) Cắt bì. Mỗi con trai Do Thái phải chịu cắt bì ngày thứ tám, sau khi sinh. Nghi lễ này quan trọng đến nỗi có thể làm vào ngày sabát, là ngày mà luật cấm làm hầu hết các công việc không tuyệt đối cần thiết, và như chúng ta đã biết, trong ngày đó đứa trẻ được đặt tên.
2) Chuộc con đầu lòng. Theo luật (Xh 13,2) thì mọi con đầu lòng dù người hay súc vật, đều biệt riêng ra cho Chúa. Luật này có thể là sự tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa đã ban cho loài người sự sống hay cũng có thể là dấu tích của thời kỳ trẻ con còn được dâng cho các thần. Dĩ nhiên nếu tục đó được tuân thủ sít sao thì sự sống không còn trên mặt đất. Vì thế mới có nghi lễ chuộc con đầu lòng (Ds 15,16). Người ta quy định rằng: dâng một số tiền năm shekel -chừng 15 shillings- cha mẹ có thể chuộc lại đứa con từ nơi Chúa. Số tiền đó phải cho các tư tế và không thể nộp trước 31 ngày sau khi sinh đứa trẻ và cũng không trì hoãn lâu.
3) Lễ Tẩy sạch sau khi sinh nơ. Khi người đàn bà sinh con trai thì người mẹ bị ô uế trong 40 ngày, nếu con gái thì mẹ phải chịu ô uế trong 80 ngày. Người mẹ có thể đi lại trong nhà, làm công việc hàng ngày, nhưng không thể vào Đền Thờ hoặc tham dự các nghi lễ tôn giáo (Lv 12). Khi thời hạn đó chấm dứt, người mẹ phải vào Đền Thờ, đem theo một con chiên làm của lễ và một bồ câu non làm của lễ chuộc tội. Đó là một của lễ khá tốn kém, vì thế luật cũng định (Lv 12,8), nếu người mẹ không thể mua một con chiên thì có thể đem đến một con bồ câu thứ hai. Của lễ bằng hai bồ câu thay vì một con chiên và một con bồ câu gọi là “Của Lễ Của Người Nghèo”. Maria đã dâng của lễ đó. Một lần nữa, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình nghèo, không chút sang trọng, ở đó mỗi đồng xu cũng phải được tính kỹ, ở đó các phần tử trong gia đình biết rõ những khó khăn của cuộc sống và những gian nan của kiếp người. Khi nào đời sống trở nên bế tắc cho chúng ta, chúng ta nên nhớ rằng Chúa Giêsu đã nếm trải đủ mọi mùi cay đắng đó rồi.
Ba nghi lễ này là nghi lễ cũ và lạ, nhưng cả ba cùng nói lên một niềm tin: con cái là phúc lộc Chúa ban. Những người khắc kỷ nói con cái không phải được ban cho cha mẹ mà là cho mượn. Trong các ơn phúc Chúa đưa đến, không có ơn nào khiến ta mang nhiều trách nhiệm với Chúa cho bằng con cái.
Lc 2, 25-35: Giấc mơ thành tựu
Không có người Do Thái nào không coi dân tộc mình là dân tộc được ưu tuyển. Nhưng họ biết rõ bằng phương tiện tự nhiên, đất nước của họ không thể đạt được tầm cỡ tuyệt vời trên thế giới mà họ chỉ tin đó là phần phúc cho họ. Đa số họ tin rằng vì Do Thái là tuyển dân nên một ngày kia họ sẽ làm bá chủ thế giới. Nhiều người tin rằng vào ngày đó sẽ có một vĩ nhân, một anh hùng từ trời giáng trần; nhiều người khác tin rằng sẽ có một vị vua bởi dòng dõi Đavít và mọi vinh hiển xa xưa sẽ trở lại; nhiều người khác tin chính Thiên Chúa sẽ trực tiếp bước vào lịch sử bằng những cách siêu nhiên. Nhưng ngược lại, cũng có một số ít người được gọi là “những kẻ yên lặng trong xứ”. Họ không mơ tưởng gì về sức mạnh và quyền thế, về quân đội với cờ bay trống giục, họ tin cậy vào một đời sống kiên trì cầu nguyện và lẳng lặng đợi chờ cho đến khi Thiên Chúa ngự đến. Suốt đời sống, họ trông đợi Chúa cách lặng lẽ và nhẫn nại. Simêon là một trong số những người đó, bằng đời sống cầu nguyện và thờ phượng, cứ khiêm nhường trung tín đợi chờ, ông trông mong được thấy người Thiên Chúa an ủi dân Ngài. Thiên Chúa đã hứa với ông qua Thánh Thần là ông sẽ không qua đời trước khi được xem thấy Đấng Xức Dầu của Ngài. Ông nhận biết vị vua đó nơi hài nhi Giêsu và ông mừng rỡ. Bây giờ ông sẵn sàng ra đi bình an và những lời của ông đã trở thành bài ca “Bây Giờ Xin Chết” (Nunc Dimittis), cũng là bài ca tuyệt tác của Hội Thánh.
Trong câu 34, Simêon cho một bản tóm lược về công việc và số phận của Chúa Giêsu.
1) Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người vấp ngã. Câu đó nghe lạ tai và khó chịu, nhưng đó là sự thật. Không phải Thiên Chúa đoán xét người ta cho bằng người ta tự đoán xét mình, và đoán xét của mỗi người là do phản ứng của họ đối với Chúa Giêsu. Nếu khi đối diện với sự nhân từ, thương yêu của Chúa Giêsu, họ mở lòng ra tiếp nhận tình yêu đó thì họ được ở trong vương quốc của Ngài. Nhưng nếu lòng họ cứ lạnh lùng cứng cỏi hoặc thù nghịch thì họ bị kết án. Có nhiều người chối bỏ Ngài, đồng thời không thiếu những người sẵn sàng nhận Ngài làm Chủ đời sống họ.
2) Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người được chỗi dậy. Triết gia Seneca nói rằng nhu cầu lớn nhất của loài người là được một bàn tay đưa xuống để nâng họ lên. Chính bàn tay Chúa Giêsu đã nâng vực con người lên khỏi đời sống cũ và đem vào đời sống mới, đem tội nhân khỏi vũng bùn tội lỗi và bước vào đời sống thánh thiện, ra khỏi những nhục nhã và bước vào chốn vinh quang.
3) Chúa Giêsu sẽ gặp nhiều sự chống đối. Đối với Chúa không có sự trung lập. Hoặc chúng ta tuân phục Ngài, hoặc đối nghịch với Ngài. Thảm kịch của đời sống là tính kiêu ngạo đã ngăn cản chúng ta thực hiện sự tuân phục dẫn đến chiến thắng.
Lc 2, 36-40: Tuổi già đáng yêu
Anna cũng là một trong số những người lặng lẽ trong xứ. Chúng ta không biết nhiều về bà, ngoài mấy câu Kinh Thánh này, nhưng bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta có một bức họa về tâm tính bà.
1) Anna là một quả phụ. Bà đã từng nếm trải đau buồn nhưng lòng bà không hề cay đắng. Sự buồn rầu có thể đem đến cho chúng ta một trong hai điều: nó có thể làm chúng ta cứng lòng, cay đắng, uất hận, phản nghịch lại Chúa, hoặc làm chúng ta mềm mại hơn, dịu dàng hơn, nhân từ hơn. Nó có thể cướp mất lòng tin tưởng của chúng ta hoặc có thể giúp đức tin chúng ta đâm rễ sâu hơn, và trở nên bất khuất. Tất cả tùy thuộc cách chúng ta suy hiểu về Thiên Chúa. Nếu chúng ta nghĩ về Thiên Chúa như một bạo chúa thì chúng ta sẽ oán hận Ngài. Nếu nghĩ về Ngài như một người cha nhân từ thì chúng ta tin chắc rằng: tay của một người cha sẽ không làm cho con mình phải đổ một giọt nước mắt vô ích nào cả.
2) Bà đã già (84 tuổi) và không hề thôi hy vọng. Tuổi già cướp mất màu tươi thắm và vẻ cường tráng của thân thể chúng ta, nhưng còn tệ hại hơn, là năm tháng có thể giết chết sự sống trong tâm hồn chúng ta, đến nỗi bao hy vọng từng ôm ấp cũng chết lịm và chúng ta trở nên ảm đạm, ê chề, an phận thủ thường, không còn thiết tha điều gì nữa. Và điều đó cũng tùy thuộc vào cách chúng ta nhìn về Chúa: nếu chúng ta nghĩ rằng Chúa là một Đấng xa cách, không hề quan tâm đến chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ tuyệt vọng, Ngược lại, chúng ta tin Thiên Chúa có liên hệ mật thiết với cuộc sống chúng ta, Ngài điều khiển mỗi bước của chúng ta trên đường đời thì chúng ta sẽ thấy tương lai thật tốt đẹp. Tuổi tác, thời gian, sẽ không hề giết được hy vọng của chúng ta. Nhưng bà Anna làm sao để giữ vững niềm hy vọng đó?
a) Bà không hề ngưng nghỉ trong việc thờ phượng. Bà dâng đời sống mình trong nhà Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Hội Thánh của Ngài để làm mẹ chúng ta trong đức tin. Chúng ta đánh mất một kho tàng vô giá khi chúng ta không muốn thông công trong việc thờ phượng với dân Chúa.
b) Bà hằng cầu nguyện không ngừng. Việc thờ phượng công cộng là quan trọng, nhưng việc thờ phượng riêng cũng quan trọng. Có người đã nói rất đúng: “Người nào biết cầu nguyện riêng tốt sẽ biết cầu nguyện chung tốt”. Năm tháng đã không đem cay đắng vào lòng Anna, không làm tan hy vọng của bà vì mỗi ngày bà biết kết hợp với Đấng vốn là Nguồn sức mạnh, và trong sức mạnh của Ngài, sự yếu đuối của chúng ta trở nên mạnh mẽ.
68. Suy niệm của Lm. Đan Vinh
GƯƠNG SÁNG CỦA THÁNH GIA NA-DA-RET
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Tin mừng ghi lại việc Đức Maria và Thánh Giuse nêu gương sáng cho các bậc cha mẹ trong việc tuân giữ Luật Thiên Chúa qua việc dâng Hài Nhi Giêsu cho Thiên Chúa trong Đền thờ. Tại đây Hài Nhi Giêsu đã tỏ mình là Con Thiên Chúa cho ông gìa Simêon và bà ngôn sứ Anna, đồng thời tỏ mình là phàm nhân trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt phải tuân giữ Luật pháp Môsê.
CHÚ THÍCH:
- C 22-24: +Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê: Luật Môsê dạy rằng: đàn bà sinh nở bị nhơ uế nên cần được thanh tẩy trong Đền thờ. Vì Hài Nhi Giêsu là con trai nên Đức Maria phải lên Đền thờ làm lễ thanh tẩy vào ngày thứ 40 sau khi sinh theo như Luật dạy. +bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là thánh, dành cho Chúa: Vì Thiên Chúa đã cứu các con trai đầu lòng của dân Do thái khỏi bị giết chết bên Ai cập trước biến cố Xuất Hành, nên sau này Luật Môsê qui định các con trai đấu lòng thuộc về Thiên Chúa và phải được dâng cho Thiên Chúa (x Xh 15, 2 và 12). +và cũng để dâng của lễ theo luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con: Theo luật Môsê (Lv 12,6-8) sản phụ phải dâng lễ vật để làm của lễ toàn thiêu và đền tội thay cho mình. Ở đây Maria dâng lễ vật một đôi chim câu, chứng tỏ ông bà thuộc thành phần nghèo. Việc dâng lễ vật này cho thấy Đức Maria có lòng khiêm tốn vâng phục Luật Chúa truyền dạy, dù Mẹ thụ thai và sinh con do quyền năng Thánh Thần, nên vẫn bảo tòan được đức trinh khiết.
- C 25-28: +Và này đây tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ong là người công chính và sùng đạo. Ong những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông: Simêon là một người công chính và có lòng kính sợ Thiên Chúa thể hiện qua việc luôn tuân giữ Luật Môsê. Ong đang chờ đợi niềm an ủi của dân Itrael là Đấng Cứu Thế sắp được Thiên Chúa sai đến. +Được Thần Khí dun dủi, ông lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu tòan tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người: Simêon được Thánh Thần cho biết ông sẽ được nhìn thấy Đấng Cứu Thế trước khi nhắm mắt. Quả thật, chính Thánh Thần đã thực hiện lời hứa khi thúc đẩy ông lên Đền thờ đúng vào lúc cha me Hài Nhi đưa Người lên Đền thờ dâng cho Thiên Chúa.
- C 29-32: +Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này, được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngọai, là vinh quang của Ítraen dân Ngài”: Khi bồng ẵm Hài Nhi trên tay, Simêon đã thốt lên bài ca mà ngày nay vẫn được Hội Thánh đọc trong giờ kinh tối mỗi ngày. Bài ca này gồm hai ý chính: Một là Simêon đã được thỏa mãn khi bồng ẵm Đấng Cứu Thế được hứa sẽ đến, nên ông sẵn sàng nhắm mắt trong bình an thư thái. Hai là sứ mệnh của Đấng Cứu Thế dành cho mọi dân tộc chứ không chỉ dành cho dân Do thái. Người sẽ trở thành ánh sáng chiếu soi cho muôn dân, phá tan mọi u mê tăm tối để giúp mọi người nhìn biết chân lý.
- C 33-35: +Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người:Hai ông bà Giuse Maria kinh ngạc khi nghe ông già Simêon cho biết sứ mệnh cao cả của Hài Nhi Giêsu là cứu độ muôn dân, là ánh sáng muôn dân. Đây là điều Maria chưa nghe sứ thần Gáprien nói đến khi truyền tin. +Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng: Simêon tiết lộ cho Maria về cách thế người đời đối xử với Chúa Kitô. Người sẽ làm cớ cho nhiều người bị vấp ngã hay được chỗi dậy và là mục tiêu cho người đời chống đối. Khi xuất hiện, Chúa Giêsu sẽ chiathế giới thành hai phe đối chọi nhau: một phe tin yêu Người. Còn phe kia chống đối thù ghét Người. Chính sự yêu hay ghét đó sẽ bộc lộ tâm tư bề trong của con người là họ đứng về phía sự công chính chân thật hay ngả theo sự bất lương dối trá. +Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra: Riêng bà Maria khi chứng kiến tất cả những sự thù ghét chống đối đó, sẽ bị đau khổ trong tâm hồn giống như bị một lưỡi gươm sắc bén đâm thâu vậy.
- C 36-40: +Lại cũng có một ngôn sứ tên là Anna…: Bà Anna được mệnh danh là ngôn sứ hay tiên tri, vì bà đã làm công việc của một ngôn sứ là tuyên sấm lời Thiên Chúa để kêu gọi người ta sám hối và động viên họ làm việc thiện theo đường lối của Thiên Chúa. +Bà không rời bỏ Đền thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa: Bà Anna là một phụ nữ có lòng đạo đức khi chuyên cần phục vụ Đền thờ và năng ăn chay cầu nguyện. +Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem: Bà được Thánh Thần soi sáng nhận biết Đấng Cứu Độ của dân Ítraen. Bà cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa và đi loan báo tin mừng về Hài Nhi Cứu Thế cho hết những ai đang trông chờ ơn cứu độ của dân Ítraen được biết. +trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét miền Galilê: Từ đây Nadarét trở thành quê hương của Đức Giêsu và luôn gắn liền với tên gọi của Người. Sau này người đời sẽ gọi Người bằng danh hiệu Giêsu Nadarét.
CÂU HỎI: 1-Bài Tin Mừng hôm nay nhằm dạy bài học gì về bản tính của Chúa Giêsu? 2-Luật Môsê quy định thế nào về sự nhơ uế của người phụ nữ sau khi sinh? 3- Luật Môsê dựa vào đâu để quy định khỏan luật về mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa nên phải dâng cho Thiên Chúa trong Đền thờ? 4-Qua lễ vật dâng cho Thiên Chúa để chuộc lại Hài Nhi Giêsu, chúng ta nhận biết hai ông bà Giuse Maria thuộc lọai người giàu có hay nghèo khó trong xã hội Do thái đương thời? 5-Ong già Simêon nói tiên tri về sứ mệnh của Hài Nhi Giêsu và về tương lai của Đức Maria Mẹ Người? 6-Do đâu tác giả Tin mừng gán cho bà Anna danh hiệu ngôn sứ hay tiên tri? 7-Tại sao Đức Giêsu được gọi là Giêsu Nadarét?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt 2,14):
2. CÂU CHUYỆN: Làm trước dạy sau:
Một hôm có một phụ nữ dắt theo một bé gái đến gặp Ma-Hát-Ma Găng-Đi (Mahatma Gandi) để xin ông một lời khuyên, để con bà bỏ thói hay ăn quà vặt. Găng-đi liền nói: Bà hãy đem nó về nhà và ba tuần sau hãy mang nó trở lại đây cho tôi”. Sau đúng ba tuần, bà ta lại dắt con đến như đã hẹn. Bấy giờ Găng-đi đã khuyên bảo đứa bé đúng như bà mẹ đã yêu cầu, rồi cho hai mẹ con về. Nhưng trước khi ra về, bà mẹ nêu thắc mắc: “Thưa ngài, tôi tưởng là ngài phải làm gì nhiều hơn chứ. Nếu chỉ là việc cho con gái tôi một lời khuyên thì sao ngài lại bắt tôi phải chờ đến ba tuần làm chi?” Bấy giờ Găng-đi mới ôn tồn trả lời: “Thưa bà, lần trước nghe lời bà yêu cầu, tự nhiên tôi cảm thấy xấu hổ, vì chính tôi cũng đang mắc tật xấu hay ăn quà vặt như con gái bà. Vì thế tôi không thể khuyên cháu đừng làm điều mà chính tôi đang mắc phải. Do đó, tôi đã phải hẹn với bà ba tuần sau trở lại, để trong ba tuần lễ đó, tôi cố bỏ tật xấu ấy, rồi mới dám cho cháu bé một lời khuyên như bà đã thấy”.
3. SUY NIỆM:
1) Thánh Giuse: Gương mẫu của người trưởng gia đình:
a) Tinh thần trách nhiệm lo cho gia đình và luôn cậy trông Thiên Chúa: Bấy giờ Hài Nhi Giê-su bị vua Hê-rô-đê tìm kiếm giết hại. Được sứ thần mộng báo, Giuse đã lập tức trỗi dậy ngay lúc đêm tối, đem vợ con chạy trốn sang Ai-cập. Sau khi Hê-rô-đê băng hà, Giuse lại một lần nữa vâng lệnh sứ thần mộng báo, đem Thánh Gia trở về làng Na-da-rét, để tránh bị ông vua mới là Ác-khê-lao tàn ác không kém vua cha giết hại. Qua sự kiện này, ta thấy ngày hôm nay dù có Chúa ở cùng, nhưng chắc chắn chúng ta cũng không tránh khỏi những cơn phong ba bão tố vùi dập. Có điều là thánh Giuse đã không bao giờ ngã lòng trông cậy để nêu gương cậy trông cho chúng ta.
b) Vợ chồng cùng nhau cộng tác vượt qua nghịch cảnh: Thánh Giuse và Đức Ma-ri-a trong quan hệ với nhau cũng không tránh khỏi có những lúc sóng gió, tưởng như con thuyền gia đình sắp tan vỡ. Chẳng hạn: Giuse đã từng suy nghĩ ngày đêm và quyết định bỏ Ma-ri-a; Cũng có lúc hai ông bà rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, như khi hai người về quê khai nhân danh, vừa tới thành Bê-lem thì Ma-ri-a cũng tới lúc sinh con, mà Giuse không sao tìm được một chỗ trọ cho hai người; Có những lúc Giuse Ma-ri-a phải lo lắng, chạy đôn chạy đáo đi tìm Hài nhi bị lạc mà phải mất tới ba ngày mới tìm thấy con trong Đền Thờ. Nhất là có lúc Đức Ma-ri-a phải chịu dao sắc thâu qua trái tim, khi đứng dưới chân bên cây thập giá, chứng kiến người con yêu bị hấp hối và sau khi chết còn bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn… Như vậy, Thánh Gia cũng chẳng được ưu đãi hơn so với các gia đình khác, cũng phải trải qua nhiều nghịch cảnh… để nêu gương cho các gia đình tín hữu chúng ta hôm nay. Trong bất cứ hoàn cảnh nào dù khó khăn đến mấy, chúng ta cũng không được ngã lòng thất vọng, nhưng luôn phải vững tin vào tình thương và quyền năng của Chúa quan phòng. Người sẽ mau biến từ sự dữ ra sự lành.
2) Những nguyên nhân gây ra đổ vỡ hạnh phúc gia đình:
Các gia đình hôm nay cũng có nhiều nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc:
a) Có thể do ham bài bạc như đánh đề cá độ bóng đá gây nợ nần, dẫn đến nhà tan cửa nát, vợ chồng ly tán, con cái nheo nhóc bỏ học để đi bụi đời.
b) Có thể do thái độ ích kỷ và vô trách nhiệm không quan tâm lo cho gia đình dẫn đến sự bất bình khinh thường nhau và tranh cãi giận hờn nhau.
c) Có thể do thói hư như rượu chè, cờ bạc, trai gái hút chích… Hoặc do cách ứng xử thiếu lịch sự tế nhị với nhau và với cha mẹ họ hàng đôi bên, do lối ứng xử độc đoán không tôn trọng nhau, không bàn hỏi khi quyết định những vấn đề quan trọng, không thống nhất về việc nuôi nấng dạy dỗ con cái.
d) Có thể do thiếu tình mến Chúa yêu người. Trong một cuộc phỏng vấn, nữ tu Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã nói về vấn đề này như sau: “Tôi nghĩ rằng không phải ai cũng ý thức về tầm quan trọng của gia đình. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì chắc chắn thế giới này sẽ đổi khác”. Thậy vậy, thế giới băng hoại vì có quá nhiều gia đình thiếu vắng tình thương. Giới trẻ hiện nay rơi vào thói xấu nghiện ma túy, phần lớn là do cha mẹ đã thiếu quan tâm dạy dỗ chúng. Ước gì các gia đình tín hữu chúng ta trở thành những mái ấm đầy tình yêu của Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
2) Làm thế nào để gia đình luôn sống hòa hợp hạnh phúc?
a) Học tập nhân bản và giáo lý: Phải làm thế nào để con em chúng ta được giáo dục về các đức tính tự nhiên đi đôi với việc giáo dục đức tin… các bạn trẻ sắp bước vào đời sống hôn nhân gia đình cần được học tập về bổn phận trách nhiệm của mỗi thành viên gia đình, rút kinh nghiệm từ các đôi vợ chồng hạnh phúc hay bất hạnh để phòng tránh và chuẩn bị cho cuộc sống chung sau này.
b) Mỗi người phải có tinh thần trách nhiệm, sống đúng vai trò của mình trong gia đình là chồng, vợ hay con cái: Một tờ báo ở Luân-đôn nước Anh đã mở một cuộc điều tra các ông chồng, yêu cầu họ thành thật trả lời câu hỏi: “Trong gia đình bạn, ai là người thực sự có quyền làm chủ gia đình?” Kết quả cho thấy có 80% câu trả lời: “Vợ tôi làm chủ”, 19% trả lời “Mẹ vợ tôi làm chủ”. Chỉ có 1% trả lời: “Chính tôi làm chủ, vì vợ tôi đã qua đời!” Như vậy, không lạ gì khi thấy sau Hoa Kỳ, Anh quốc có số gia đình ly hôn chiếm tỷ lệ cao nhất: Mỗi năm cứ hai đám cưới thì có một đám ly hôn.
c) Vợ chồng cần nuôi dưỡng tình yêu: Tình yêu có đặc điểm là hy sinh cho nhau. Cây tình yêu của hai vợ chồng rất cần được quan tâm khử trừ những con sâu ích kỷ khi chỉ nghĩ đến mình, con sâu độc đoán hẹp hòi, gàn dở khi cố chấp không chịu nhận lỗi và sửa sai, con sâu lười biếng bổn phận của mình và vô trách nhiệm không chịu lo kiếm tiền lo cho gia đình, con sâu tình cảm ngang trái vụng trộm, hoặc hay ghen bóng ghen gió… Tình yêu vợ chồng cũng cần được tưới bón bằng lời Chúa, lời cầu nguyện, bằng những lời khen tặng thành thật, bằng những lời yêu thương và những sự quan tâm và cử chỉ âm yếm dành riêng cho nhau.
d) Vợ chồng phải tôn trọng nhau, thể hiện qua việc biết trao đổi bàn bạc với nhau trong mọi việc: Phải một lòng một ý về việc cư xử với tha nhân, về việc nuôi dạy con cái, về việc mua sắm đồ dùng trong nhà, và việc làm ăn sinh sống. Vì “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”, và: “Phu phụ hòa, gia đạo thịnh”.
e) Hãy học sống Lời Chúa là “tập quen chịu đựng và tha thứ cho nhau”: Trong một buổi tĩnh tâm dành cho gia trưởng, nhưng cũng có nhiều bà vợ tham dự. Tới phần làm phép thánh giá, cha giảng phòng nói: “Ai có cây thánh giá cần làm phép yêu cầu mang lên gần gian cung thánh để được làm phép”. Bấy giờ một ông lão thay vì mang cây thánh giá thì lại cõng bà vợ bị tê liệt lên. Khi tới phiên, thay vì giơ cây thánh giá lên cho cha rẩy nước thánh thì ông lão lại bồng bà cụ lên trước sự ngạc nhiên của mọi người. Ông nói: “Thưa cha, đây là thánh giá của con. Xin cha làm phép để con được vác thánh giá này đến trọn đời!”.
g) Gia đình phải có Chúa hiện diện: Thực vậy, nếu gia đình thực sự có đức tin, có lòng đạo đức, thì sẽ thương yêu và nhường nhịn nhau. Cần dọn bàn thờ Chúa ở nơi trang trọng nhất và năng đọc kinh tối gia đình hằng ngày. Trong giờ kinh tối luôn có phần Lời Chúa và cầu nguyện theo Lời Chúa dạy. Gia đình động viên nhau sống tình yêu thương: Chồng yêu vợ, vợ yêu chồng, con cái thảo kính cha mẹ, anh chị em trong nhà biết nghĩ đến nhau và quan tâm làm vui lòng nhau. Cần năng suy niệm và thực hành lời dạy của thánh Phao-lô: “Anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng nhau và hãy tha thứ cho nhau, nếu người này có chuyện phải oán trách người kia…” (Cl 3,12-13). Trong đời sống hôn nhân gia đình, chắc chắn cũng sẽ có khi vui lúc buồn, khi thành công luc thất bại… Nếu gia đình có Chúa là Tình Yêu ngự trị thì chắc sẽ vượt qua mọi thử thách gặp phải trong cuộc sống hôn nhân gia đình.
4. THẢO LUẬN: 1) Nguyên nhân thường gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình là gì và phải làm gì để phòng tránh? 2-Bạn có đồng ý với câu người ta thướng nói: “Con hư tại mẹ cháu hư tại bà” không? Tại sao?
5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giêsu, mỗi lần tham dự thánh lễ hôn phối, con thấy đôi tân hôn thật hạnh phúc. Với nét mặt rạng rỡ và trong bộ y phục trắng tinh khôi, con thấy cô dâu sánh bước bên chú rể tiến đến trước bàn thờ cử hành hôn lễ như đang bước vào thiên đàng hạnh phúc. Nhưng rồi với năm tháng qua đi, con lại thấy gia đình họ trở thành hỏa ngục trần gian, khi “kẻ thì khóc lóc, người lại nghiến răng”. Xin giúp các đôi vợ chồng trẻ biết duy trì được tình yêu ban đầu. Xin cho họ biết “cho hơn là nhận”, biết ân cần phục vụ lẫn nhau, biết quảng đại tha thứ và chịu đựng nhau. Nhờ đó gia đình chúng con sẽ trở thành một thiên đàng tình yêu, là dấu chỉ sau này chúng con sẽ cùng được hưởng hạnh phúc với nhau trên Thiên đàng.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
69. Tổ ấm
(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com – Trầm Thiên Thu)
“Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu. Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Người ơi, làm người ở trên đời, nhớ công người sinh dưỡng, đó mới là hiền nhân. Vì đâu anh nên người tài ba…”. Đó là lời trong ca khúc “Ơn Nghĩa Sinh Thành” của cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, đầy tính nhân bản, khá phổ biến suốt nhiều chục năm qua. Kinh thánh dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ” (Hc 3:1-16), kinh Phật dạy: “Tột cùng thiện không gì bằng có hiếu, tột cùng ác không gì bằng bất hiếu”.
Nói đến gia đình là nói đến yêu thương. Gia đình là Tổ ấm. Có tình yêu thương thì gia đình mới “ấm”, đầy ắp tiếng cười, chan hòa niềm cảm thông và tha thứ; ngược lại, thiếu tình yêu thương thì gia đình sẽ “lạnh”, không khí ngột ngạt, khó thở. Thật vậy, ở đâu có tình yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa hiện diện. Có Thiên Chúa thì gia đình nghèo khó vẫn “ấm”, vắng Thiên Chúa thì gia đình giàu sang vẫn “lạnh”.
(Hc 3:3-7,14-17 Sách Huấn ca phân tích: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Người đó phục vụ các bậc sinh thành như phục vụ chủ nhân” (Hc 3:3-7). Không chỉ vậy, chính lòng hiếu nghĩa đối với cha mẹ sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho chính mình (x. Hc 3:14). Điều đó chứng tỏ Chúa và Giáo hội Công giáo rất tôn trọng chữ Hiếu, không như người ta lầm tưởng. Ai làm ngược lại là mắc trọng tội, vì “ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3:16).
Ca dao Việt Nam cũng so sánh:
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi
Và xác định:
Dù cho đi hết cuộc đời
Cũng không đi hết những lời mẹ ru
Ơn cha và nghĩa mẹ thật cao vời và bao la biết bao! Mỗi thành viên gia đình đều phải cộng tác với nhau để tạo nên một tổ ấm đích thực, một gia đình thánh cho hợp Thánh Ý Chúa. Đáp ca lễ Thánh Gia dùng Tv 128 nói về các giá trị gia đình: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Tác giả Thánh vịnh cho rằng “đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4).
Cl 3:12-21; 3:12-17 Thánh Phaolô nói: “Anh chị em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh chị em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh chị em, thì anh chị em cũng vậy, anh chị em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3:12-13). Yêu thương và tha thứ luôn có liên kết với nhau: Tha thứ là thể hiện tình yêu thương, mà yêu thương thì phải tha thứ. Không thể làm cái này mà bỏ điều kia, làm một trong hai chỉ là nói dối.
“Trên hết mọi đức tính, anh chị em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3:15). Yêu thương là đức mến, mà đức mến lại quan trọng nhất trong ba đức đối thần, đến khi vào Thiên đàng rồi cũng vẫn còn và chỉ còn đức mến, không còn đức tin và đức cậy nữa. Thánh Phaolô nói thêm: “Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan” (Cl 3:16), và “anh chị em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3:17).
Thánh gia là gương mẫu cho các gia đình, nhưng có thể chúng ta chỉ “nghe và biết” mà không triệt để và tích cực thi hành. Do đó, thánh Phaolô nói chi tiết về vai trò và bổn phận của các thành viên trong gia đình: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3:18-21). Ai cũng biết trách nhiệm riêng và làm tròn bổn phận mình thì gia đình chắc chắc là một Tổ ấm thực sự vậy.
Gia đình như con thuyền lênh đênh trên “biển đời”, có lúc sóng yên biển lặng, nhưng có lúc lại đầy cuồng phong sóng vỗ. Thánh gia đã từng như vậy, không chỉ trước khi Chúa Con sinh ra mà vừa sinh ra cũng chẳng yên thân với những người ác – điển hình là vua Hêrôđê. Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho Đức Thánh Giuse: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” (Mt 2:13). Thế nên “gia trưởng” Giuse, người chống mũi chịu sao, liền trỗi dậy để đưa Vợ Con trốn sang Ai-cập ngay giữa đêm tối. Thánh gia phải lưu trú ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, và cũng là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập” (Mt 2:18).
Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với Đức Thánh Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi”. (Mt 3:20). Đức Thánh Giuse liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và Mẹ Người về đất Ítraen. Thật vất vả cho Đức Thánh Giuse! Cũng chưa yên, vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị phụ vương Hêrôđê và cai trị miền Giuđê, nên Đức Thánh Giuse sợ không dám về đó, đành đưa Vợ Con lui về miền Galilê, đến ở thành Nadarét (Mt 2:21-22). Từ đó, Đức Giêsu nghiễm nhiên trở thành người Nadarét.
Người cha và người chồng có cái khổ của người cha và người chồng, người mẹ và người vợ có cái khổ của người mẹ và người vợ. Ai có bổn phận và trọng trách của riêng mình. Chồng hoặc vợ cũng đều lo cho gia đình và con cái, và cũng là lo cho hạnh phúc của riêng mình, đừng vì lý do gì mà “tị nạnh” hoặc “chảnh” mà lênh mặt và khinh miệt nhau. Trọng trách đó cũng chính là Ơn Gọi mà Thiên Chúa kêu mời để thực hiện trọn vẹn để chính mình nên thánh, đồng thời giúp các thành viên trong gia đình cùng nên thánh.
Gia đình là tế bào xã hội, là tế bào cơ bản, để từ đó có những đại gia đình khác là gia đình cộng đồng, gia đình làng xóm, gia đình quốc gia, gia đình nhân loại, gia đình Công giáo,…
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết noi gương Thánh gia từng giây phút để có thể kiến tạo hòa bình và công lý, xây dựng văn minh tình thương, văn hóa sự sống, xứng đáng là thành viên thánh trong đại gia đình Công giáo. Chúng con cầu xin nhân Danh Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
***
BÀI 2: Trường học Gia đình
Khi nhập thể và nhập thế, Con Thiên Chúa là Đức Kitô Giêsu đã sinh trong một gia đình. Khi đi lễ đền, Ngài ở lại “lo việc của Chúa Cha” nhưng cha mẹ Ngài không biết, sau ba ngày, Ngài ngoan ngoãn theo cha mẹ về quê và hằng vâng phục cha mẹ (Lc 2:51). Điều đó chứng tỏ gia đình là quan trọng và là trường học đầu tiên của mọi người.
Văn sĩ Charles Dickens (1) nhận định: “Gia đình là một cái tên, một từ ngữ mạnh mẽ, mạnh hơn lời của những pháp sư hay tiếng đáp của các linh hồn. Đó là lời nguyện cầu hùng mạnh nhất”.
Các nhà xã hội học coi gia đình là nơi đặt những “viên gạch đầu tiên” trong việc hình thành nhân cách con người. Điều đó cho thấy gia đình là trường học đầu tiên của mỗi con người. Quả thật, giáo dục gia đình rất quan trọng, đặc biệt là người mẹ, vì người mẹ gần gũi con cái ngay từ khi nó mới sinh ra và suốt những tháng năm đầu đời.
Nhân cách là tính cách của một con người, và rồi con người đó có thể tốt hoặc xấu. Vì thế, giáo dục nhân cách rất quan trọng, phải bắt đầu từ gia đình, nhưng giáo dục gia đình lại là vấn đề rộng lớn. Ở đây chúng ta nói về vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục hình thành nhân cách cho trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
Như đã nói, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, tức là trường học đầu tiên của bất kỳ con người nào. Mỗi con người đều được sinh ra từ cha và mẹ. Đứa trẻ luôn gần gũi và lắng nghe những “âm thanh cuộc sống” đầu tiên từ cha mẹ – đặc biệt là từ người mẹ. Người mẹ hiền lành, dịu dàng, ăn nói nhẹ nhàng, đứa trẻ đều nhận biết và chịu ảnh hưởng. Ngày xưa, người mẹ ru con bằng những câu hò, ca dao, điệu lý,... nhẹ nhàng và trong sáng. Rất tiếc là ngày nay không phổ biến, nhưng vẫn còn phần nào những lời “ầu ơ”, “ví dầu”,… khi mẹ ru con ngủ. Lời ru không thể nào gắt gỏng hoặc như “dùi đục chấm mắm cáy”, vì thế mà đứa trẻ vẫn ảnh hưởng sự dịu dàng của lời mẹ ru.
Khi con trẻ chập chững những bước đi đầu đời, người đầu tiên chỉ dạy cho bé cách đi đứng, nói năng, không ai khác là cha mẹ. Vì vậy, cha mẹ là người thầy đầu tiên của con cái. Điều đó xác định việc giáo dục gia đình vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con cái. Dĩ nhiên, vì lý do nào đó, có những đứa trẻ thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ nhưng nó vẫn có thể hình thành nhân cách tốt, đó là nhờ quá trình tự giáo dục tốt. Nhưng hầu như sự giáo dục gia đình không tốt thì nhân cách đứa trẻ ắt có phần khiếm khuyết, đôi khi hoàn toàn xấu. Do đó, giáo dục gia đình rất quan trọng đối với mỗi con người, vì còn trẻ người non dạ, không ai có thể hiểu biết về mình, về xã hội, về cuộc sống,... nhưng được gia đình định hướng và dạy dỗ, nhờ đó mà tích lũy kinh nghiệm và trưởng thành dần theo thời gian.
Ngoài ra, gia đình còn là hành trang “ắt có và đủ” đối với mỗi con người. Trong thời gian đầu đời, ai cũng được sống với ông bà, cha mẹ, anh chị em. Lớn lên, những người lập gia đình rồi có con, cháu. Trong gia đình, mọi người đùm bọc nhau về vật chất, tinh thần, tâm linh,... Người trẻ có điều kiện để lớn khôn, người già có nơi nương tựa, người u buồn được an ủi, người yếu đau được nâng đỡ,… Như vậy, gia đình là một cộng đồng luôn gắn bó với nhau trên từng bước đường của cuộc sống. Dù là ai, được sống trong tình yêu thương của gia đình là hạnh phúc. Ai không được như vậy thì thật là nỗi bất hạnh. Trong quá trình sống với gia đình, cùng trao và nhận tình yêu thương, mỗi người lại tiếp tục tự hoàn thiện mình và tự hoàn thiện nhân cách.
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình luôn có mối quan hệ mật thiết với xã hội, đơn giản nhất là quan hệ với làng xóm, khu phố. Như tục ngữ có câu: “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Động từ “bán” và “mua” ở đây không mang nghĩa “thương mại”, nhưng có ý nói rằng láng giềng gần gũi và cần thiết lắm. Họ là những người “tối lửa tắt đèn có nhau”, mình có chuyện gì thì thân nhân ở xa đâu biết được, chỉ có láng giềng biết. Nói theo Công giáo, đó là những người lân cận, những người mà Đức Giêsu đề cao qua dụ ngôn “Người Samari Nhân Hậu” (Lc 10:29-37).
Gia đình cũng là nơi tái tạo con người. Thành viên nào lỗi lầm vẫn được gia đình an ủi, khuyên nhủ, che chở, bảo vệ, nâng đỡ,... Nhờ đó mà người lầm lỗi có thể đứng dậy và làm lại cuộc đời. Mỗi thành viên gia đình là một người tốt thì xã hội sẽ tốt, đất nước có những công dân tốt, Giáo hội cũng có những “chiên ngoan”. Xã hội có nhiều công dân tốt, ắt hẳn đất nước có thể vững mạnh, xã hội có thể văn minh, cộng đồng ít tệ nạn. Có ít cái xấu sẽ có nhiều cái tốt, con người quan tâm đối xử với nhau bằng tình thân ái và lòng nhân hậu. Nói vậy có nghĩa là cả xã hội phải thực sự chú tâm tới sự nghiệp giáo dục, không thể lơ là hoặc “đánh trống bỏ dùi”. Vì chú trọng số lượng hơn chất lượng, chạy theo thành tích, không lo “tiên học lễ, hậu học văn” nên đạo đức mới bị sa sút trầm trọng, đi đâu cũng thấy tội phạm! Học sinh cần phải được giáo dục về giao tiếp và ứng xử ngay trong cộng đồng, hội đoàn, đặc biệt phải bắt đầu từ gia đình.
Xã hội càng ngày càng văn minh và tiến bộ, đó là niềm vui. Nhưng cứ đua đòi hoặc chạy đua theo lối sống xa hoa thì dễ sa đọa, đi đâu cũng thấy treo bảng “văn hóa” nhưng lối sống chẳng thấy gì là văn hóa. Trị bệnh phải trị tận căn, nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Nhiều hiện tượng xã hội mới liên quan vấn đề trẻ em đặt ra những thách thức mới trong việc giáo dục gia đình: Trẻ em lang thang, trẻ em phạm pháp, trẻ em bị lạm dụng tình dục, trẻ em bị bóc lột sức lao động, trẻ em quan hệ tình dục sớm, ấu dâm, mại dâm trẻ em, lạm dụng ma tuý, lạm dụng chất có men,… Điều đó đòi hỏi việc quản lý và kiểm soát chặt chẽ của các nhà hữu trách, nhưng vấn đề chính vẫn là phải giáo dục trước tiên từ gia đình. Một việc không dễ, vì vừa đòi hỏi gia đình phải phát huy hết các sức mạnh, vừa đòi hỏi các thành viên trong gia đình phải chung tay góp sức và phải là những tấm gương sáng lẫn nhau – đặc biệt là đối với trẻ em. Cây phải được uốn từ lúc cây còn nhỏ, con người cũng vậy, phải được uốn nắn từ nhỏ và ngay tại gia đình, sau đó mới tới nhà trường và xã hội.
Đã có nhiều trường hợp con cái hư, rồi lấy cớ là bận rộn, lo làm ăn. Không thể viện cớ như vậy! Các cha mẹ khá giả chiều chuộng con cái quá mức, để chúng tự do, muốn gì được nấy, tiêu xài xả láng, cứ tưởng như vậy là yêu con, sai lầm nghiêm trọng. Tục ngữ Việt Nam rất chí lý: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Về tâm linh, Thánh Phaolô cũng nói: “Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” (Dt 12:6).
Gia đình nào thường xuyên cãi cọ, mâu thuẫn, xung đột, bạo lực,... nhất là các gia đình có cha mẹ ly hôn hoặc ly thân, con cái bị ảnh hưởng rất nặng về cả tâm lý lẫn sinh lý. Trẻ em không được chăm sóc, nhất là khi bị tổn thương về tình cảm hoặc tinh thần, nhiều trẻ em đã bỏ nhà đi bụi đời, sống lang thang, bất cần đời, rồi dễ sa vào tội lỗi và tệ nạn xã hội. Nguyên nhân là chúng mất cái gốc quan trọng là gia đình, không được dưỡng dục thể chất và tinh thần để có thể nên người. Trước thực trạng đó, việc giáo dục trẻ em ở gia đình càng trở nên cấp bách hơn.
Quả thật, chuẩn mực đạo đức và trình độ nhận thức của một con người phải được hình thành từ nhỏ, bắt đầu từ môi trường gia đình. Việc giáo dục đạo đức dần dần đưa chúng vào nền nếp gia phong từ những gì nhỏ nhất trong cuộc sống hằng ngày như thật thà, vị tha, không vị kỷ, biết giữ lời hứa, lễ phép, nhân hậu, hiền dịu, hiếu thảo, nhường nhịn,... Nói chung là biết quên mình mà sống vì người khác. Đơn giản nhất là các động thái nhỏ về ứng xử, lời ăn, tiếng nói: Chào hỏi, xin phép, xin lỗi, cảm ơn,... Đó là phép lịch sự tối thiểu trong phép xã giao. Tục ngữ Việt Nam đã cảnh báo: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. Đừng khinh suất những điều nhỏ!
Sống tốt không chỉ là tránh điều xấu mà còn phải tích cực làm điều thiện. Sống thật thà không chỉ là không ăn gian, không nói dối, mà còn phải tôn trọng những gì là của người khác: Thấy tiền hoặc vật dụng của người khác mà không nổi máu tham thì mới là thật thà, chứ không thấy thì có gì mà tham, mà lấy? Về tâm linh cũng vậy, có dịp phạm tội mà không phạm thì mới là thánh thiện, chứ không có dịp phạm tội thì chưa biết ai hơn ai.
Gia đình là vườn ươm mầm đời sống và là nơi tôi luyện các nhân đức của con người. Cha mẹ không nên khắt khe, nhưng phải cương nghị, thấy con cái sai thì phải nghiêm túc chấn chỉnh ngay, không được làm ngơ! Cha mẹ nên hiền từ, nhưng đừng nhu nhược. Cha mẹ nhu nhược cũng “tiếp tay” cho con cái hư hỏng. Văn sĩ Robert Anson Heinlein (2) khuyên: “Đừng gây bất lợi cho con cái bạn bằng việc cho chúng cuộc sống dễ dàng”.
Cha mẹ phải là người đầu tiên điều chỉnh con cái, để chúng không chỉ chấp nhận mà còn tích cực cố gắng sửa đổi ngay. Cha mẹ cũng không được hành động cho thỏa cơn giận, nhưng phải kiên nhẫn, tìm hiểu, để biết rõ nguyên nhân, để ngày càng thích ứng và sống chan hòa với con cái.
Hiện nay, không ít cha mẹ lo nuôi con về thể lý mà coi thường việc giáo dục tinh thần, lo đầu tư cho việc dạy chữ mà quên việc dạy người. Có những cha mẹ không chú ý vai trò làm “người thầy đầu tiên” của con cái, phó mặc mọi việc giáo dục con cho nhà trường. Đó là sai lầm lớn cần chấn chỉnh càng sớm càng tốt!
Giáo dục đa dạng, đơn giản là hai phần chính: Giáo dục thể lý và giáo dục tinh thần. Nhưng có một phần quan trọng không được bỏ quên, đó là việc giáo dục tâm linh. Mến Chúa thì phải yêu người. Thánh Gioan giải thích: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối” (1 Ga 2:4 và 9).
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12:50; Mc 3:35; Lc 8:21). Chỉ có những người như vậy mới thực sự là thành viên trong Đại Gia Đình Kitô Giáo, Đại Gia Đình của Thiên Chúa.
--------------
(1) Charles John Huffam Dickens (1812–1870) có bút danh là Boz. Ông là tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng nhất thời đại Nữ hoàng Victoria. Ông được coi là một trong những văn sĩ vĩ đại viết bằng Anh ngữ, được ca ngợi về khả năng kể chuyện và trí nhớ, được nhiều người ở khắp nơi yêu mến. Các tác phẩm của ông chủ yếu dành cho thiếu nhi và mang tính chất hiện thực.
(2) Robert Anson Heinlein (1907–1988) là nhà văn khoa học viễn tưởng Mỹ. Ông được coi là văn sĩ gạo cội trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng, là một trong những tác giả nổi tiếng nhất có ảnh hưởng nhất và cũng gây nhiều tranh cãi nhất về thể loại này. Ông đã lập ra một chuẩn mực cao đối với sự hợp lý về khoa học kỹ thuật trong văn học và góp phần thúc đẩy chất lượng chung của thể loại khoa học viễn tưởng. Ông là văn sĩ khoa học viễn tưởng đầu tiên thu hút được sự chú ý của công chúng, đặc biệt trên những tạp chí chính thống như tờ “The Saturday Evening Post” vào cuối thập niên 1940. Ông cũng là một trong những tiểu thuyết gia thành công đầu tiên về thể loại khoa học viễn tưởng thời hiện đại.
***
BÀI 3: Điều gì xác định một gia đình?
Khi nghĩ về gia đình, bạn nghĩ tới ai? Điều tốt đẹp về gia đình là đa dạng, nhiều kích cỡ, nhiều kiểu. Gia đình “pha trộn” nhiều người với tính cách khác nhau nhưng luôn quan tâm lẫn nhau. Điều đó không xác định bằng máu huyết mà là một nhóm người tạo nên sự khác biệt trong cuộc sống và tiếp tục hướng dẫn nhau.
Bộ phim Annie, được khởi chiếu ngày 19-12-2014, co biết tại sao máu huyết không xác định một gia đình. Annie nói: “Chúng ta có gia đình ở một nơi nào đó”. Sống theo cách nói đó sẽ giúp chúng ta đánh giá gia đình mình và những điều tốt lành mà chúng ta có.
KÍCH CỠ
Một số gia đình nhỏ, một số gia đình vừa, và một số gia đình lớn, nhưng dù gia đình có kích cỡ nào thì vẫn luôn đầy ắp tình yêu thương. Một gia đình không thể định lượng vì tình yêu được cá nhân hóa bởi mỗi thành viên. Người ta tạo một gia đình không bởi số người.
MÀU DA
Gia đình pha trộn, chứ màu da không là yếu tố. Nếu có một người quan tâm bạn và người đó là một phần trong cuộc đời bạn, màu da của họ chỉ biểu hiện cá nhân họ dù họ có thể hoặc không thể là một phần trong gia đình bạn. Gia đình tràn đầy tình yêu và tình yêu không phân biệt màu da.
HUYẾT THỐNG
Huyết thống không xác định một gia đình. Trong cuộc sống, bạn thấy rằng những người thân có liên quan huyết thống, nhưng điều đó không nhất thiết và không hoàn hảo, vấn đề quan trọng là cả gia đình sum vầy bên nhau vào cuối ngày. Khi trưởng thành, chúng ta tìm một người bạn đời cùng chia sẻ cuộc sống, và rồi chúng ta còn có những nối kết với con cái, bạn bè, thú cưng,... Chúng ta tạo mối quan hệ “máu” và chu kỳ cứ tiếp diễn khi chúng ta già, con cháu lại tiếp tục hành trình của chúng.
HỆ LỤY
Trong hành trình cuộc sống, bạn sẽ gặp những người mà bạn có quan hệ, và các mối quan hệ đó giúp bạn xác định cuộc sống. Chúng ta gọi họ là bạn bè, nhưng sự thật là những người đó gần gũi chúng ta hơn anh chị em trong gia đình. Những người bạn này là những người mà chúng ta có thể chia sẻ nỗi buồn và có thể khóc trước mặt họ, hoặc có thể chia sẻ niềm vui với họ. Các hệ lụy khó tả này chính là gia đình đấy!
Chúa Giêsu xác định: “Phần anh em, đừng để ai gọi mình là ráp-bi [thầy], vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23:8). Nếu là hung đệ thì chúng ta phải làm gì? Thánh Phaolô cho biết: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2:5).
***
BÀI 4: Gợi ý kết hiệp với Chúa
Chúng ta rất cần có Thiên Chúa trong cuộc đời mình, nhưng quan trọng hơn là chúng ta phải kết hiệp mật thiết với Ngài. Có nhiều điều chúng ta có thể làm để sự hiện diện của Chúa rõ ràng hơn và phong phú hơn. Đây là 5 gợi ý giúp bạn kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.
DÀNH THỜI GIAN CHO CHÚA
Dành thời gian cho Chúa không chỉ là tới nhà thờ tham dự các giờ phụng vụ. Mỗi ngày chúng ta nên dành thời gian để sống riêng với Chúa. Hãy kết hiệp với Ngài và cho Ngài biết điều gì đang diễn tiến trong cuộc đời bạn.
CHÂN THẬT
Thiên Chúa biết rõ tất cả, vì thế chúng ta không thể viện cớ gì để biện hộ. Chân thật là cách tốt nhất để giao tiếp với mọi người, nhất là đối với Thiên Chúa.
CẦU NGUYỆN
Hãy cầu nguyện khi bạn đứng chờ xe buýt, chờ đèn đỏ, khi đi dạo, khi tập thể dục, khi nấu cơm, khi rửa chén,... Với người muốn kết hiệp với Chúa, người ta có thể cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc, thậm chí cả khi chúng ta đang lái xe. Cầu nguyện là cách tốt để tâm sự với Ngài về mọi nhu cầu, mọi nỗi niềm của chúng ta. Cầu nguyện sẽ giúp bạn mạnh mẽ hơn và đến gần với đức tin.
HIỂU BIẾT GIÁO HUẤN CỦA CHÚA
Hãy làm quen với việc đọc Kinh Thánh và hiểu biết các giáo huấn của Thiên Chúa. Hãy tìm hiểu việc hy sinh và cách sống tốt. Khi biết Chúa và các giáo huấn của Ngài, bạn sẽ cảm thấy được kết hiệp với Ngài sâu sắc hơn.
ƯU TIÊN THIÊN CHÚA
Dù gì thì Thiên Chúa cũng phải là ưu tiên số một trong cuộc đời chúng ta. Chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng ban phúc lành cho chúng ta để chúng ta có thể sống kết hiệp với Ngài. Ngài là tất cả!
Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:9 và 14). Đấng Emmanuel là Thiên Chúa ở với chúng ta.
70. Thánh gia là gương mẫu mọi gia đình
Minh họa Lời Chúa Lễ Thánh Gia Thất
1. Gia đình cầu nguyện
Một trong những việc gia đình làm để thờ phượng Chúa là đọc kinh cầu nguyện.
Tạp chí Reader’s Digest của Hoa Kỳ có đăng một bài báo tựa đề: “Thăm dò gia đình”, gồm 12 câu hỏi. Một trong những câu hỏi đó như sau: “Dịp một lễ của gia đình, bạn có mời khách đến dự, bạn có thấy thoải mái dễ dàng yêu cầu mọi người trong gia đình bạn đọc kinh không?”
Câu hỏi này khiến chúng ta phải lưu ý đến một việc chính yếu của gia đình biết noi gương Thánh Gia Thất, siêng năng cầu nguyện để thờ phương Chúa.
Cầu nguyện trong gia đình có thể thực hiện dưới ba hình thức:
1. Cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người cầu nguyện riêng với Chúa. Như người Cha cầu nguyện khi đi làm… Chúa Giêsu thường cầu nguyện theo hình thức này.
2. Mọi người trong gia đình cũng cầu nguyện, như cầu nguyện khi mọi người tề tựu chung quanh bàn ăn, nhất là trước bàn thờ tối sáng… Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện theo cách này: như trong Bữa Tiệc Ly (Lc.9,16), với hai môn đệ Emmau (Lc.24,30)
3. Cầu nguyện với cộng đoàn, cùng với các gia đình khác trong một xóm đạo hay trong nhà thờ… Chúa Giêsu cũng nêu gương cầu nguyện theo hình thức này. (Lc.4,6)
----------
Lễ Thánh gia hôm nay là dịp hy hữu để chúng ta tự vấn về việc cầu nguyện trong gia đình của chúng ta. Nói cụ thể hơn là chúng ta (gồm cả ông bà, cha mẹ, con cháu trong gia đình) có đọc kinh cầu nguyện không? Đọc kinh cầu nguyện sốt sắng không? Đọc kinh cầu nguyện thường xuyên không?
2. Không có thời giờ
Một linh mục đang kiểm điểm tình hình sống đạo trong giáo xứ. Ngài hỏi một gia đình:
- Chúng con có thường xuyên cầu nguyện chung trong gia đình không?
Người gia trưởng trả lời:
- Thưa Cha, chúng con bận việc quá, không có giờ đọc kinh cầu nguyện.
- Giả như con biết đứa con nào của con sẽ bị bệnh nếu chúng con không cầu nguyện, thì gia đình chúng con có cầu nguyện không?
- Ồ chắc chúng con sẽ cầu nguyện.
- Giả như con biết ngày nào gia đình chúng con lười biếng cầu nguyện thì một đứa con phải bị tai nạn. Các con có cùng cầu nguyện không?
- Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.
- Giả như ngày nào chúng con không đọc kinh cầu nguyện thì phạt năm chục ngàn. Chúng con có bỏ việc cầu nguyện không?
- Chắc chúng con không dám bỏ cầu nguyện. Nhưng thưa Cha, Cha hỏi như thế có ý gì?
- Vì con nói không có thời giờ cầu nguyện, tại con chưa xác tín rằng: nhờ lời cầu nguyện Chúa sẽ ban mọi ơn lành cho vợ cùng con cái con. Chúa sẽ cứu giúp gia đình con khỏi mọi gian nan thử thách. Nhất là con sẽ chu toàn bổ phận thờ phượng Chúa theo gương Thánh gia Thất. (Theo “Minh họa Lời Chúa”)
3. Lời cầu nguyện rất hiệu nghiệm
Một đứa trẻ nhờ cha mẹ dạy và làm gương, nên luôn giữ thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày nọ em bị bệnh nặng phải vào nằm bệnh viện. Bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật mới hỏi bệnh. Trước khi tiêm thuốc mê để mổ, bác sĩ cho em biết: em sẽ ngủ một giấc thật lâu. Nghe noi đến ngủ, em xin bác sĩ chờ em một chút, để em cầu nguyện như thường lệ. Và em kết thúc lời nguyện bằng cầu:
- Lạy Chúa, xin cho con mau hết bệnh.
Sau đó em tự nằm xuống cho bác sĩ thi hành việc của ông… Khi thức dậy, câu hỏi đầu tiên của em là:
- Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không?
Bác sĩ nhìn em và cảm động nói:
- Cháu hãy để Chúa lo liệu… Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu rất hiệu nghiệm. Chúa đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác không đến nhà thờ, không đọc kinh cầu nguyện, cũng chẳng bao giờ nhớ đến Chúa. Nhưng hôm nay khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động lòng bác. Sáng sớm hôm nay, bác đã đến nhà thờ xưng tội rước lễ và đọc kinh cầu nguyện.
--------
Lời cầu nguyện chẳng những để thờ phượng Chúa theo gương Thánh Gia Thất, mà còn cứu được chính mình và kẻ khác phần hồn phần xác. (Theo “Minh họa Lời Chúa”).
4. Quà tặng
Đức Tổng Giám Mục Milan ở phía Bắc nước Ý có kể câu chuyện:
Vào dịp lễ Giáng Sinh có đông trẻ em, Chúa Giêsu đến với các em. Thấy Chúa, các em mừng quá, vỗ tay treo hò vang dội. Bỗng có một em xin Chúa tặng quà mừng Sinh Nhật của Chúa. Và tất cả các em khác đồng thanh hưởng ứng. Chúa Giê su có vẻ suy nghĩ lo lắng một lúc, vì dường như Người nghèo quá không có quà tặng. Rồi Người mỉm cười giang rộng hai tay ra ôm các trẻ. Nhưng các em vẫn chờ đợi quà. Một em nói với đứa bạn bên cạnh:
- Ngài không tặng quà cho mình đâu. Thật đúng như lời người ta nói: Tôn giáo không có ích gì, vì nó đâu có mang lại cho chúng ta món quà nào.
Nhưng em đó trả lời:
- Khi Chúa Giê su giang rộng hai tay ôm lấy chúng ta là Ngài ban tặng chính Ngài cho chúng ta. Chính Ngài là quà tặng cho chúng ta đó.
----------
Chúng ta noi gương Thánh Gia Thất cầu nguyện. Thay vì ban ơn này ơn khác cho chúng ta, Chúa Cha đã ban Con Một của Người cho chúng ta. Và chính Chúa Giêsu là quà tặng cho chúng ta, yêu thương gia đình chúng ta, chịu chết cứu gia đình chúng ta, sống lại và lên trời để dọn chỗ sẵn cho gia đình chúng ta… (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập 1)
5. Dung mạo Chúa Cứu Thế
Ngày nọ hoàng đế của một nước hùng cường thình vượng triệu tập các nghệ nhân các nước đến dự cuộc thi, mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ, Acmêni, Ai cập mang đầy đủ vật liệu và dụng cụ đến. Còn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng trong một phòng riêng. Đến ngày giờ ấn định, hoàng đế và đoàn tùy tùng đến từng phòng chấm điểm, ông hết sức khen ngợi các nghệ nhân Ấn độ đã vễ chân dung ông đặc sắc, các nghệ nhân Acmêni và Ai cập điêu khắc dung mạo ông cũng không khém sắc sảo. Nhưng khi đến phòng các nghệ nhân Hy Lạp, nhà vua chẳng thấy gì, chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng sáng chói, đến độ ông nhìn vào thì thấy chân dung mình rõ né t. Thế là giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp.
---------------
Muốn mang lại dung mạo Chúa Kitô, cần đánh bóng lòng mình cho sạch mọi vết nhơ. Một khi tâm hồn đã được đánh bóng sáng ngời, chúng ta sẽ thấy dung mạo Chúa Kitô rạng ngời trong đó.
Lúc Thánh Giuse và Đức Mẹ dâng Chúa Hài Nhi trong đền thờ, có biết bao tư tế và luật sĩ ở đó thông thạo Kinh Thánh, am tường các lời ngôn sứ, nhưng họ không nhận ra Chúa, duy chỉ có ông Simêon và bà Anna nhận ra dụng mạo Chúa Cứu Thế.
Sở dĩ hai người này nhận ra Chúa Cứu Thế là vì họ đã mài bóng đời mình bằng đạo đức và bằng lời cầu nguyện, việc hi sinh hãm mình hằng ngày trong Đền Thờ.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống tốt đẹp gia đình ngày càng sa sút: ly thân, ly dị, phá thai, mại dâm, trẻ bụi đời, ma túy ngày càng gia tăng!... Gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo Hội. Nếu gia đình không lành mạnh, làm sao xã hội và Giáo Hội tốt đẹp?!...
(Theo “Như Thầy đã yêu”).
71. Suy niệm của Lm. Jos. Đăng
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Bà và Thánh Giuse, một gia đình gương mẫu cho mọi gia đình trên thế giới. Bài Tin Mừng cho chúng ta một hình ảnh của đời sống gia đình, dù đó là gia đình Thánh. Các Ngài đã chu toàn lề luật Do Thái lúc đó: "Đủ ngày thanh tẩy theo luật Môisen, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa... và cũng để dâng lễ vật cho Chúa". Chính tại nơi đó Thánh Thần Chúa đã tỏ cho ông Simêon và và Anna về ơn Cứu Độ của Thiên Chúa đối với dân Người. Cũng tại nơi đây, được ơn linh ứng, ông già Simêon đã tiên báo về sự tham gia của Đức Maria trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sau này.
Nhìn vào xã hội ngày nay, nhiều nền tảng gia đình lung lay, rối loạn và khủng hoảng. Đây chính là lúc mỗi người tín hữu Kitô phải nhìn lại mình trong ơn gọi gia đình qua gương mẫu của gia đình Thánh Gia Thất mà củng cố gia đình trong đức tin và cuộc sống. Một trong những điều căn bản nơi hạnh phúc gia đình mà nhiều khi người ta quên lãng, tức mỗi thành viên gia đình biết trao tặng tình yêu thương và thời giờ cho nhau. Chúng ta thường mong đợi người khác quan tâm đến những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, nhưng chính chúng ta lại ít khi nhớ tới hoặc để ý tới nhu cầu của những người thân yêu của mình. Bởi vì tình yêu thương không phải là cho đi cái gì, mà chính là cho đi bản thân mình. Nhưng không thể nói được là chúng ta đã cho đi chính mình hay tận hiến nếu chúng ta còn là nô lệ "cái tôi" ích kỷ nơi chính bản thân mình. Bao lâu chúng ta biết biến đổi bản thân mình để chấp nhận một cuộc sống yêu thương nơi tương quan vợ chồng, cha mẹ với con cái, chúng ta sẽ thể hiện một sự tận hiến của tình yêu thương.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hằng nhắc nhở chúng ta về sự thánh thiêng của gia đình khi ngài gọi gia đình là: "Nền tảng của Giáo Hội". Còn Đức Phaolô VI gọi gia đình là: "Cung Thánh của Giáo Hội", là "trường học đầu tiên của con cái, mà cha mẹ là thầy dạy". Thật vậy, gia đình là Giáo Hội đầu tiên, nơi tình yêu chung thủy của hai vợ chồng thể hiện như dấu chỉ tình yêu chung thủy giữa Chúa Kitô và Giáo Hội: gia đình nơi trẻ em được Rửa tội qua đức tin của cha mẹ, ông bà. Gia đình còn là trường học đầu tiên, nơi bàn ăn gia đình, các em được học hiểu ý nghĩa của Tiệc Thánh Thể trước khi các em được Rước lễ lần đầu; cũng nơi đó mỗi thành viên gia đình tha thứ cho nhau những lầm lỗi, để cho con cái học hiểu hiệu quả nơi nhiệm tích Hòa giải. Gia đình còn là nơi đặc biệt sống lời Chúa Giêsu đã phán: "Đâu có hai ba người hợp nhau cầu nguyện nhân danh Thầy, Thầy ở giữa họ" (Mt 18,20)
Như vậy, trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, khi mỗi người chúng ta biết thành tâm tìm kiếm Chúa và phụng sự Ngài, chắc chắn mỗi gia đình sẽ thể hiện được ơn gọi sống Thánh giữa đời của mình, tìm được bình an hạnh phúc cho nhau ở trần gian và đạt được hạnh phúc vĩnh cửu quê trời. Vì Thiên Chúa luôn là chìa khóa của hạnh phúc nơi cuộc sống gia đình.
Ước mong mỗi bậc cha mẹ luôn là tấm gương của tình yêu chân thành, tình yêu vô vị lợi, của hy sinh, chấp nhận, tha thứ và quảng đại trong cuộc sống hôn nhân. Vì con cái chỉ có thể lớn lên, khôn ngoan, có ơn nghĩa cùng Thiên Chúa nếu như chúng cảm nhận một bầu khí thánh thiện đạo đức nơi cha mẹ, như gương lành của Đức Maria và Thánh Giuse khi xưa.
Ước mong con cái ngày nay biết nhìn gương Chúa Giêsu đã vâng lời khiêm hạ với Đức Mẹ và Thánh Giuse suốt 30 năm trường dưới mái nhà Nazareth để trở nên một tấm gương hiếu thảo cho mọi người con biết thực thi lệnh truyền của Thiên Chúa: Vâng lời và yêu mến cha mẹ. Vì niềm vui và hạnh phúc của cha mẹ cũng là nơi con cái mình.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhóm lên trong mỗi phần tử trong gia đình ngọn lửa tình yêu Chúa để mỗi người biết sống trọn vẹn ơn gọi của mình, để gia đình chúng ta có hạnh phúc thật như gia đình Nazareth xưa. Amen.
72. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
Hơn hết tất cả, lễ Giáng sinh thật sự là một lễ dành cho gia đình. Và trong khi tâm trí chúng ta còn đang hướng về Bêlem và Thánh gia, thì các bài đọc Phụng vụ hôm nay lại nhắc đến nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống gia đình. Nói đến Thánh Gia, có lẽ là nói đến một cái gì xa vời chăng, vì gia đình chúng ta đây có lẽ còn quá cách xa gia đình lý tưởng này.
Chúng ta đừng quên rằng Maria và Giuse, cũng như các bậc cha mẹ khá, đều phải đương đầu đối diện với biết bao vấn đề khó khăn. Bóng đen của thập giá đã phủ xuống chiếc nôi ở Bêlem, đã tràn vào trái tim Mẹ Maria khi nghe lời tiên tri lạnh lùng của Simêon, nào là Con trẻ sẽ nên cớ vấp phạm của nhiều người trong Israel, nào là trái tim của Mẹ sẽ bị lưỡi gươm sắc đâm thâu qua. Ngày từ đầu con trẻ mà Maria và Giuse hết lòng yêu thương trìu mến lại là một huyền nhiệm to lớn, và khi con trẻ trưởng thành dưới sự bao bọc của mình, Maria và Giuse chỉ biết hết lòng phó thác tín nhiệm vào Thiên Chúa mà thôi. Chúng ta cũng phải làm như thế thôi. Gia đình là một định chế lâu đời nhất của nhân loại, và gia đình đã tồn tại đến ngày nay là vì nó được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Chúng ta có thể không có khả năng làm xoay chuyển thế giới nhưng ảnh hưởng của cúng ta vẫn có thể vươn ra bao bọc lấy gia đình tổ ấm chúng ta.
Cũng giống như bất cứ kế hoạch đáng giá nào khác, cuộc sống gia đình muốn thành công mỹ mãn phải cần đầu tư nhiều thời giờ và sức mạnh. Gia đình hạnh phúc không tự dưng mà đến. Tình yêu, hoà điệu, kính trọng lẫn nhau, vốn là những yếu tố cơ bản của một gia đình hạnh phúc, phải được chứng minh bằng hành động cụ thể. Câu Latinh “Lời nói bay qua, gương bày lôi kéo” (Verba volant, exampla trahunt). Gương sáng là những lời giảng dạy hùng hồn nhất. Những thái độ yêu thương ân cần chăm sóc, vốn rất cần trong những buổi ban đầu, cũng có nhiều ảnh hưởng sâu đậm và dài lâu. Trong cuộs sống sau này, con cái sẽ trở nên những gì mà chúng được nhào nặn, uốn nắn, được hấp thụ, và mội khi chúng học được cách cho đi và nhận lãnh, thì đồng thời chúng cũng sẽ phát triển được sự hiểu biết tha nhân một cách trưởng thành hơn.
Đây là cơ hội tốt cho những người mới trưởng thành suy nghĩ lại về tình yêu và lòng kính trọng mà họ cần biểu lộ với cha mẹ mình, vì đối xử tử tế với cha mẹ là một việc quí giá trước nhan Thiên Chúa. Buồn thay, về phương diện này, giới trẻ thường không sống phù hợp với tinh thần phúc âm cho lắm.
Cha mẹ ngày nay thường hay bị hoang mang bối rối không biết cái gì đang xẩy ra, khi thấy con cái đang trưởng thành lại hay diễn tả những giá trị cũng như niềm tin khác với thế hệ trước. Cũng cần phải tỏ lòng tôn kính đặc biệt với ông bà nội ngoại trong quãng đời về chiều, và đừng để các ngài kết thúc cuộc đời trong nỗi cô đơn dày vò. Hơn bất cứ gì khác, điều đáng nói nhất là cần sống bình an trong vòng tay êm ấm của gia đình. Đã đành một gia đình được chu cấp đầy đủ, và một mức sống tươm tất là điều quan trọng nhưng chúng ta cũng cần nhớ rằng nếu như gia đình không duy trì cầu nguyện hướng về cuộc sống thiêng liêng, thì mọi chuyện khác cũng nhất định sẽ trục trặc mà thôi.
Đời sống gia đình không bao giờ trôi chảy êm ả mãi, ngày nay còn có biết bao khó khăn phải nỗ lực phấn đấu hơn xưa nhiều lắm. Nhưng đó là những nguyên liệu chúng ta sử dụng để hình thành nên đời sống thánh thiện của chính mình. Nhân dịp Lễ Thánh Gia, chúng ta cầu xin Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse giúp gia đình chúng ta biết sống đẹp lòng Chúa hầu đem lại một tinh thần mới cho đơn vị cơ bản nầy của xã hội loài người.
73. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng
Giáo hội thiết lập Lễ Thánh gia để chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình, và cái gương mẫu của gia đình thánh. Chính Chúa Giêsu đã chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình qua cuộc đời của Người tại thế. Chúa chỉ dành có ba mươi năm - nhiều hơn 10 lần - sống trong trong bầu khí gia đình, có Mẹ có Cha, để thu thân luyện đức. Theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa, trinh nữ Maria được chọn làm mẹ Đấng cứu thế. Còn thánh Giu-se được chọn làm cha nuôi để săn sóc cho gia đình thánh. Chúa Giêsu bắt đầu sống trong gia đình theo nhân tính của Người như mỗi người để giúp ta dễ liên kết với Người.
Gia đình đời nay lớn hay nhỏ là đá tảng của đời sống quốc gia. Trong quá khứ, nhiều quốc gia đã muốn tiêu diệt đơn vị gia đình, nhưng thất bại. Sống và lớn lên không có gia đình, người ta có thể mất đi cái thăng bằng về đời sống tâm linh và tình cảm. Khi gia đình đổ vỡ, những căn tính về phái tính về gia đình của con cái sẽ bị thuyên giảm. Nói theo phương diện đạo đức thì gia đình là một đơn vị tôn giáo đầu tiên. Chính trong bầu khí an toàn và cái khung cảnh ấm cúng của gia đình mà những giá trị nhân bản, luân lý và đạo giáo được truyền đạt xuống cho con cháu và con cháu học được những việc làm đạo hạnh của ông bà cha mẹ.
Thiên Chúa biết rõ trước khi Người tạo dựng A-đam và Ê-va. Sách Sáng Thế Sử ghi lại: Thiên Chúa tác thành con người theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Thiên Chúa hài lòng với công việc Người tạo dựng, chúc lành cho người nam và người nữ, và phán: Hãy sinh sản cho đầy mặt đất, và khắc phục đất đai (St 1,28). Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ để làm thành gia đình, có cha có mẹ và con cái để yêu thương săn sóc lẫn nhau. Sợi dây ràng buộc gia đình lại với nhau là tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Chúa Giêsu mặc lấy thân xác loài người và sinh ra giữa nhân loại. Chính tình yêu đã khiến trinh nữ Maria chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế. Chính tình yêu đã khiến thánh Giuse đưa Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt 1,25).. Và cũng chính tình yêu đã đưa gia đình thánh trở về Na-za-rét. Ở đó thánh Giu-se cung phụng cho gia đình thánh như có thể bằng cách làm nghề thợ mộc. Giáo hội thánh hoá đời sống gia đình qua Bí tích hôn phối. Giáo hội coi Bí tích hôn phối là thánh thiện vì đời sống nhân loại mong được thánh thiện nếu muốn được phản ảnh Gia đình thánh. Gia đình thánh nêu ra tấm gương mà mỗi gia đình tốt phải noi theo. Gia đình Na-gia-rét được gọi là thánh, không phải chỉ tại Chúa Giê-su là thánh, mà còn tại Gia đình thánh đã đem ra thực hành những lời khuyên dạy khôn ngoan mà người Do thái đã tích lũy cho đời sống gia đình hạnh phúc. Đó là điều mà bài sách Huấn ca hôm nay dạy ta: Ai vâng lệnh Chúa, sẽ làm cho mẹ an lòng (Hc 3,6). Điều đó có nghĩa là người mẹ sẽ được hạnh phúc khi con mình vâng lệnh Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan.
Giáo hội trình bày Gia đình Na-gia-rét là Gia đình lý tưởng cũng ý thức được những khiếm khuyết mà có thể làm ly tán bất cứ đời sống gia đình nhân loại nào. Đó là lý do tại sao trong thư gửi tín hữu Co-lo-sê thánh Phaolô khuyên họ làm sao sống tinh thần Ki-tô giáo. Thánh nhân khuyên họ hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và hãy tha thứ cho nhau (Cl 3,12-13). Trong gia đình, các phần tử được kêu gọi mang trách nhiệm cho nhau. Thành phần tàn tật, thành phần đổ vỡ trong gia đình phải được coi là thành phần trong gia đình. Và thành phần quá cố trong gia đình cũng phải nằm trong lời cầu nguyện của gia đình.
Gia đình thánh mà Giáo hội mừng lễ hôm nay phải là mẫu mực cho mọi gia đình noi theo. Mỗi phần tử trong gia đình có thể bắt chước được những gì nơi Chúa Hài nhi, nơi mẹ Mara, nơi thánh Giu-se? Và ta cũng cầu nguyện cho sự thành đạt và hạnh phúc cho đời sống gia đình.
74. Suy niệm của Lm Hà Ngọc Đoài
"Con trẻ lớn lên đầy không ngoan." (Lc 2:40 ) Gia đình là hai chữ nói lên nhiều kỉ niệm êm ấm và yêu thương cho mọi người. Cho dù con ngườii ở khác văn hóa chủng tộc, tiếng nói.. gia đình vẫn là cội nguồn, trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, từ đó mọi người được sinh ra. Khi gặp một người mới lạ và muốn làm quen, chúng ta thường tìm hiểu gia đình của họ. Thấy một đứa trẻ ngoan, ta khen "con nhà ai ngoan thế!" Cha mẹ biết giáo dục con, xã hội được một người tốt, bớt một người xấu. Con cái nên người tốt là nhờ giáo dục tại gia đình, vì thế ca dao Việt Nam có câu "con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Giữa xã hội đa văn hóa, mỗi gia đình có những lối sống khác nhau. Tuy vậy gia đình Kitô giáo vẫn là khuôn mẫu cho mọi gia đình khác. Cô Dorothy Day đăng kể sự hạnh phúc đời mình trong tờ báo New York Times. Khi còn nhỏ cô chưa biết đến Thiên Chúa, nhưng cô thích làm bạn với những người thường đi dự lễ. Cô nhận thấy rằng mỗi khi thấy ai đi lễ về, thì gương mặt của họ phảng phất nét đẹp linh thiêng và hiền dịu. Cô nghĩ rằng người Công Giáo chỉ đi lễ ngày Chúa Nhật mà thôi. Nhưng một buổi sáng sớm, cô chạy sang nhà một người bạn rủ đi chơi. Cửa nhà mở. Gõ nhẹ, không ai trả lời. Rón rén bước vào thì thấy cả gia đình đang quỳ gối cầu nguyện trước bàn thờ! Cô bạn nhỏ cũng qùy chung với gia đình! Nét mặt đẹp như thiên thần! Bâ giờ cô Dorothy mới biết rằng người Công Giáo tốt là nhờ biết thánh hóa đời họ mỗi ngày và nhờ vậy họ sống quây quần và nâng đỡ nhau. Chỉ tình cờ trông thấy sinh họat thường nhật của một gia đình công giáo, mà cô như thấy một bí mật trong đời! Đó là gia đình cầu nguyện! Cô diễn tả niềm vui được thấy một gia đình cầu nguyện và từ đó cô cũng xin học Đạo và được ơn sống an bình giúp cô trải qua những khó khăn thử thách trong đời sống. Đây chỉ là một trong những gương sống Đạo âm thầm của các gia đình Công Giáo. Còn nhiều gia đình có những sinh hoạt riêng nữa mà cô chưa được biết. Những sinh hoạt linh thiêng đó cũng đã giúp cho nhiều gia đình sống trong hạnh phúc.
Thực Hành: “Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh chị em.”(Col 3:16) Xã hội kỹ nghệ hôm nay gây khó khăn cho nhiều gia đình! Họ ít có giờ cầu nguyện chung! Vì thế mà mỗi ngày tình tương trợ trong gia đình bị giảm đi! Thế rồi gia đình trở nên “quán trọ”! Xin cho mọi gia đình Kitô hữu là mái ấm đầy yêu thương.
75. Lễ Thánh Gia Thất - Phan Hữu Lộc
Lễ Thánh Gia 2002 đến với chúng ta hôm nay quả thực là đúng thời, đúng lúc, vì thời buổi ngày nay, trong nước cũng như ở hải ngoại, gia đình Công giáo Việt-nam hiện đang và đã gặp nhiều rạn nứt, nếu không nói trầm trọng. Tình yêu vợ chồng, tình mẹ cha, con cái... không còn được khăng khít như xưa. Vì đâu? Vì xã hội quê hương đã biến hóa, làm cho rất nhiều gia đình tan tác, con cái nhỏ tuổi lại chỉ còn biết đi kiếm ăn; giá trị truyền thống yêu thương, hiếu đễ của cha ông, đã bị đảo ngược; hoặc vì bị ngoại cảnh văn minh vật chất của nước người, chỉ chạy theo hưởng thụ khoái lạc; vì nhiều tà thuyết ra đời hô hào cuộc sống mới như tự do kết hôn, tự do ly dị như ta thấy dưới đây.
BỨC TRANH ẢM ĐẠM
Linh Mục Augustine S.J trong bài Suy niệm Lễ Thánh Gia năm 1999, đã nhập đề, trước khi nói đến nhìn lên gương thánh thiện của gia đình Nagiarét:
«Mừng lễ Thánh gia năm nay (1999) người Công giáo Việt Nam biết rõ hình ảnh gia đình ở VN cũng như trên thế giới không mấy rực rỡ qua các phương tiện truyền thông.» Rồi ngài nhắc đến vụ «cậu bé Đỗ như Hàn (Johnathan Prevette) 6 tuổi, đã bị đình chỉ đến trường vì vi-phạm chính sách khuấy rối tình dục. Còn ở Việt Nam, dư luận chưa hết sôi nổi vì những vụ gia đình nghèo, nên đã gả con cho người ngoài, bất kể tới hạnh phúc của con, thậm chí còn có bố mẹ cho con đi phục vụ khách hàng du lịch tình dục ở một nước bên cạnh...» (Vietcatholic 26.12.1999)
Và ngày nay, bốn năm sau, ta còn có thể kê thêm nhiều trường hợp đau thương không kém: tình vợ chồng (tương lai) không do tình yêu định đoạt, nhưng do tiền bạc chàng trai giàu có, bỏ ra trước để nuôi người con gái nghèo, ham học. Hai bên ký giao kèo sẽ làm lễ cưới sau khi nàng dùng tiền của chàng để học và thi đỗ vào đại học! Nếu rủi ra, nàng không chịu lấy chàng ân nhân cao-cả hào hùng đó, khi đã đỗ đạt, thì nàng phải bồi tiền gấp đôi cho chàng để «dứt nợ trần ai!». Rất nhiều cô gái nghèo tiền bạc, nhưng giàu thông minh, đã phải rơi vào «hũ gạo» đau thương đó!!!
NẠN LY DỊ
Tài liệu Hội nghị giáo hoàng về gia đình họp trong tháng 10.2002, đã đưa ra nhận định đáng buồn về vợ chồng ngày nay ly dị quá dễ dàng: «(...) Sự tan rã quá sớm về sự trói buộc vợ chồng là một đặc điểm của thời đại chúng ta, khắp nơi và làm cho xã hội trở nên lung lay. Sự ly dị dễ dàng làm suy yếu tình vợ chồng. (...) Ly dị không chỉ là một khủng hoảng nhất thời, nhưng ảnh hưởng lâu dài và sâu xa đến những người trong cuộc. Việc cắt đứt và hủy bỏ mọi liên lạc giao tiếp, luôn để lại những vết không bao giờ hàn gắn được.
(...) Hội nghị nhắc đến hiện trạng thế giới càng ngày càng thiên về vật chất, và nhiều gia đình tan rã vì lý do tài chánh, cũng như những lớp chống đối chỉ trích của lớp người đòi hỏi tự do phóng túng sai lầm, không dám dấn thân, không muốn sống chung và đặt nặng vấn đề tình dục...
(...) Hội nghị tin tưởng rằng nền văn hóa hiện tại cổ động lối sống mới, thời trang mới, giải trí mới, làm cho người ta ngờ vực giá trị hôn nhân và phát triển ý tưởng «việc kéo dài tình vợ chồng đến trọn đời là một ảo tưởng». (Vietcatholic News 13.11.02)
PHƯƠNG THUỐC
Trước tình trạng suy đồi của nhiều gia đình Công giáo Việt Nam (vì không phải tất cả), chỉ còn một phương thuốc: «phải đặt lại nấc thang giá trị: Tình yêu không chỉ là tình dục và khoái lạc, nhưng là một kế hoạch cho cuộc sống lứa đôi bằng cách hợp nhất và tương trợ cởi mở» (Hội nghị giáo hoàng)
Ta có thể đi xa hơn nữa: phải đặt để tình yêu gia đình, vợ chồng con cái trong tình yêu của Thiên Chúa đối với Giáo Hội, trong tình yêu Thiên Chúa đối với mỗi gia đình. Hãy sống lại bí tích hôn nhân lãnh nhận ngày mới thành hôn; hãy biết yêu thương chân thành thì biết tha thứ, hy sinh, chịu đựng, dạy dỗ con cái vì tương lai hạnh phúc của con mình, chứ không vì mình được nở mặt nở mày với thiên hạ, để được lợi lộc, được có tiếng con tôi thế này, thế kia. Tình yêu chân thật là tình yêu nghĩ đến kẻ khác, nghĩ đến kẻ mình yêu, chứ không nghĩ đến chính mình!
Ta hãy mượn Lời Phụng vụ lễ Thánh gia hôm nay để cầu xin Chúa ban cho ánh sáng và sức mạnh thi hành điều Chúa mong đợi:
«Lạy Chúa, Chúa đã muốn ban cho chúng con Thánh gia để làm mẫu mực, xin cho chúng con, noi gương ba đấng để thực hành nhân đức đời sống gia đình, và liên kết với tình yêu Chúa, trước khi chúng con được đoàn tụ đời đời trong niềm vui của nhà Cha» (Lời Nhập Lễ)
«Lạy Chúa, khi dâng của lễ làm hòa chúng con với Chúa, chúng con khiêm cung cầu xin: nhờ lời cầu của Maria, Mẹ Thiên Chúa, và lời cầu của thánh Giuse, Chúa củng cố gia đình chúng con trong ơn Chúa và ban cho chúng con được bình an» (Lời Dâng lễ).
76. Gia đình thánh
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Hôm nay, Giáo Hội giới thiệu với mọi Gia Đình Công Giáo về Gia Đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Một Gia Đình lý tưởng, gương mẫu mà mọi Gia Đình Công Giáo phải bắt chước noi theo. Gia Đình Thánh Gia đã sống thế nào để nêu gương cho mọi người noi theo, bắt chước?
Thiên Chúa đã chọn cho Con của Ngài một hình thức thông thường nhất mà bất cứ ai muốn có mặt trên thế giới này đều phải chấp nhận một gia đình. Chúa Giêsu cũng có một gia đình. Mẹ Ngài là Maria và cha của Ngài là thánh Giuse. Thiên Chúa không muốn cho Con của Ngài từ trên trời xuống như một vị tiên giáng trần hay không như một Phù Đổng Thiên Vương vươn vai lớn mạnh, hay như một vị thần trong một câu chuyện thần thoại nào đó. Chúa Giêsu đã được Mẹ Maria cưu mang trong cung lòng trinh khiết của Mẹ do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúa được giáng sinh nơi hang đá máng lừa nghèo nàn vùng Bêlem...Thiên Chúa đã chọn cho Con của Ngài sinh ra trong cảnh khó nghèo để cảm thông với kiếp sống khó nghèo của đa số người.
Thiên Chúa đã ban cho Con của Ngài một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương, tôn trọng và chăm sóc, chăm lo cho nhau. Gia đình Nagiarét là Gia đình lý tưởng vì trên thuận dưới hòa, yêu thương, tôn trọng và đùm bọc nhau. Xét về mặt thiêng liêng, Chúa Giêsu là Chúa, nên Ngài lớn lao và uy quyền hơn Cha Mẹ của Ngài, nhưng trong Gia đình thánh: Chúa Giêsu luôn tôn trọng, yêu thương, vâng lời Cha Mẹ của Ngài. Ngược lại, Mẹ Maria và thánh Giuse luôn yêu thương, tôn trọng Chúa Giêsu. Cả gia đình thánh luôn luôn trên thuận dưới hòa, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Chính vì thế, thánh sử Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp về Thánh Gia như sau: “ Và Ngài đã xuống với ông bà về Nagiarét. Và Ngài hằng tùng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ hết các điều trong lòng bà. Và Đức Giêsu cứ tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dạng, và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta “ ( Lc 2, 51-52 ).
Vâng, gia đình là nền tảng của xã hội và Gia đình cũng là nền tảng của Giáo Hội. Xã hội mà thiếu vắng các gia đình tốt, gia đình lành mạnh thì chắc chắn không thể có xã hội tốt đẹp được. Do đó, cuộc sống của mọi gia đình phải có đạo đức, thánh thiện thì Xã hội và Giáo hội mới tốt đẹp được. Thực tế, trên thế giới có biết bao gia đình tốt đã lưu danh muôn đời và để lại biết bao ấn tượng tốt cho nhân loại, cho mọi người. Tuy nhiên, bên cạnh các gia đình tốt vẫn còn đó đây một số gia đình xấu. Trước một thế giới văn minh, nhiều gia đình đã xuống cấp trầm trọng: nan ly dị, ly thân, trẻ em bụi đời, nạn mại dâm, phá thai, ma túy, sì ke hầu như càng ngày càng gia tăng. Trước thực trạng ấy, việc đào tạo lớp trẻ, và hướng dẫn Giáo lý Hôn nhân cần phải được quan tâm kỹ lưỡng hơn nữa. Đức cố Giáo Hoàng Piô XI đã viết: “ Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao ‘’.
Lễ Thánh Gia hôm nay là một dịp để chúng ta tự vấn xem gia đình chúng ta như thế nào? Gia Đình Thánh: Chúa Giêsu, Mẹ Maria, thánh Giuse có là mẫu gương sáng ngời cho mỗi gia đình chúng ta không? Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay số 22 đã viết: » Bằng việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã hợp nhất với mọi thành phần của nhân loại. Ngài đã làm việc với đôi tay con người, suy nghĩ với tâm trí nhân loại, hoạt động bởi sự chọn lựa, đã yêu thương với một trái tim nhân loại. Ngài sinh ra bởi trinh nữ Maria, Ngài đã thực sự là một con người ở giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự ngoại trừ tội lỗi...Ngài đã trình bày cho chúng ta một con đường, và nếu chúng ta đi theo con đường đó, sự sống và cái chết đã được trở nên thánh thiện và mặc cho nó một ý nghĩa mới “.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa cũng có một gia đình để sống những năm tháng ở trần gian này, xin ban cho mọi gia đình Kitô hữu luôn biết noi gương Thánh Gia để mọi gia đình trở nên nhhững gia đình thánh thiện, đạo đức và gương mẫu. Amen.
77. Một gia đình tuyệt vời
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Mỗi năm mừng lễ Thánh Gia, tôi vẫn cảm thấy thật hạnh phúc khi được diễm phúc nói về gia đình của Chúa Giêsu. Một gia đình vô cùng thánh thiện: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse sống yêu thương, hài hòa, trên thuận dưới hòa, luôn là mẫu gương sáng cho mọi gia đình.Đoạn Kinh Thánh ghi lại nét rất ấn tượng và rất đẹp của gia đình thánh như sau: ” …Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các Ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.Còn Đức giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta “ ( Lc 2, 51-52 ).
Khi đề cập tới Thánh Gia, tôi lại nhớ hình ảnh hết sức ấn tượng và gợi cảm của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi về quê hương Ba Lan vào dạo tháng 5 năm 1987, Ngài đã làm hai cử chỉ để đời: viếng mộ song thân và cử hành Thánh Lễ đặc biệt cho các đôi vợ chồng. Viếng mộ cha mẹ, Đức Thánh Cha không những muốn lên lòng hiếu thảo, tôn kính, tri ân cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục Ngài, nhưng Ngài còn muốn đề cao giá trị của đời sống hôn nhân. Đức Thánh Cha muốn nói lên với tất cả nhân loại hãy bảo vệ gia đình, hãy trung thành với nhau. Bởi vì khi người nữ và người nam nói lên lời cam kết yêu thương nhau và yêu thương nhau trọn đời, họ lập lại lời của chính Chúa Giêsu, Đấng đã yêu thương nhân loại và yêu cho đến cùng bằng chính cái chết ô nhục trên thập giá để cứu độ và để gánh tội cho mọi người theo ý Thiên Chúa Cha.Gia đình của Chúa Giêsu trong đó mẹ Maria và thánh Giuse luôn hết lòng tôn kính lẫn nhau. Dù rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng nơi gia đình thánh, Chúa Giêsu luôn một lòng hiếu thảo, vâng lời cha mẹ của Người. Còn thánh Giuse luôn làm gương là một gia trưởng đầy yêu thương, luôn nắm vững cột trụ của gia đình. Mẹ Maria là mẫu gương tuyệt vời của mọi người mẹ trần thế, mẹ luôn cần cù làm những việc trong nhà, xứng đáng là người nội trợ đảm đang, hết mực yêu thương chồng và yêu thương con. Gia đình thánh quả thực đã nêu gương mẫu tuyệt vời cho mọi gia đình. Dưới lăng kính của người đời, gia đình thánh không giầu có, không sang trọng như nhiều gia đình khác, nhưng với con mắt đức tin, gia đình thánh là một gia đình hết mực thánh thiện, hết mực đầm ấm, yêu thương, gia đình thánh là một gia đình hết sức hạnh phúc.
Nếu chúng ta nghe rađiô, xem Tivi, đọc báo, xem mạng, chúng ta thấy quả thực trên thế giới nhiều nước nền tảng gia đình đang bị lay chuyển mạnh mẽ: nhiều gia đình ly tán, nhiều đôi vợ chồng mất hạnh phúc, truyền thống ấm êm hạnh phúc của các gia đình nơi nhiều nước ngày càng sút giảm đến báo động. Ly thân, ly dị, trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi, lang thang bụi đời đi vào những con đường tội lỗi, ma túy, mãi dâm, cướp dựt, thanh niên thanh nữ nổi loạn, nạn nạo phá thai vv…càng ngày càng gia tăng cách khủng khiếp. Gia đình là nền tảng của xã hội. Đối với người công giáo, gia đình còn là nền tảng của Giáo Hội, là Hội Thành nhỏ. Nếu không có những gia đình tốt, xã hội sẽ không lành mạnh. Chính vì thế, không lạ gì, Đức Cố Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gióng lên tiếng nói: ” Hãy trung thành với nhau. Hãy yêu thương nhau và hãy bảo vệ gia đình “. Mà không những chỉ riêng Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói lên tiếng nói khẩn thiết: ” Hãy bảo vệ nề nếp gia đình “ mà hầu như tất cả các Đức Cố Giáo Hoàng đều luôn nhắc nhở mọi gia đình hãy sống đạo đức, thánh thiện noi gương gia đình thánh. Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI cũng luôn nhắc nhở các gia đình: ” Hãy bảo vệ hạnh phúc.Hãy vun đắp cho gia đình luôn sống đạo đức, nề nếp gia phong “. Đứng trước sự báo động của nền tảng gia đình bị lung lay, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư chung mục vụ năm 2008 đã lấy chủ đề: ” Môi trường Giáo Dục Gia Đình Công Giáo “. Ngay trong Lời Mở đầu bức thư mục vụ, số 3, các Đức Giám Mục đã viết: ” …Giáo dục tại gia đình là vấn đề quan trọng và cần thiết, tạo tiền đề cho việc giáo dục nói chung, vì gia đình là nền tảng của Giáo Hội và Xã Hội. Nếu nền tảng gia đình được củng cố chắc chắn, Giáo Hội và Xã Hội tương lai sẽ phồn thịnh và phát triển. Qua thư Mục vụ này, chúng tôi muốn bày tỏ mối ưu tư đối với hiện trạng gia đình Việt Nam và nêu lên những đề nghị cụ thể để góp phần canh tân mục vụ trong lãnh vực này, một lãnh vực căn bản của đời sống con người và đời sống Giáo Hội “.
Gia đình là nền tảng của Giáo Hội và Xã Hội. Do đó, không có gia đình nào tuyệt vời cho bằng gia đình thánh: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Thánh Gia luôn là mẫu gương tuyệt vời cho mọi gia đình công giáo noi theo. Nếu, đời sống các gia đình không còn căn rễ, Giáo Hội và Xã Hội sẽ bị lung lay. Do đó, mọi gia đình công giáo ý thức bổn phận làm con Chúa và làm con Giáo Hội của mình hãy xây dựng gia đình theo mẫu Thánh Gia. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư Mục Vụ 2008 trong Lời Kết số 20 viết: ”Nếu gia đình là nhân tố quyết định sự tồn vong của Giáo Hội và xã hội, thì việc đầu tiên chúng ta phải nghĩ tới là củng cố và thăng tiến gia đình, để bảo đảm cho hôn nhân và gia đình có được sức sống yêu thương tràn đầy và sự thăng tiến về nhân bản cũng như lòng đạo đức“ “…Trong gia đình Nadarét mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngaon và trung tín. Xin các Ngài chuyển cầu và luôn phù trợ cho các gia đình chúng ta”.
78. Chúa Giêsu có một gia đình
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Thiên Chúa đã sai con của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến trong một gia đình. Chúa đã chọn con đường bình thường như mọi người để sinh ra. Ngài có thể tự mình trên trời xuống, hay tự mình vươn vai lớn lên như Phù Đổng Thiên Vương. Ngài có thể trở thành huyền thoại nếu Ngài muốn kỳ dị, khác thường như những sự việc về nhiều nhân vật đã xẩy ra trong những câu chuyện cổ tích. Chúa không làm như vậy mà Ngài được sinh ra rất tự nhiên, hoàn toàn bình thường và hoàn toàn người. Chúa được sinh ra trong một gia đình có mẹ có cha.
Chúa Giêsu thực ra có thể sinh ra như một nhân vật thần kỳ nào đó trong các truyện thần thoại hay được giáng trần như Thánh Gióng, Tiên Nga. Nhưng Chúa Giêsu không muốn làm thế, Ngài muốn có một tổ ấm bình thường như nhiều tổ ấm khác trên thế gian trong đó một gia đình có mẹ có cha. Một gia đình như mọi gia đình nhưng rất phi thường vì gia đình của Chúa Giêsu là một gia đình thánh thiện trong đó Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là những con người hoàn toàn phi thường nơi sự thánh thiện. Một gia đình luôn luôn sống trong sự tuân phục Thiên Chúa. Theo lẽ tự nhiên, thánh Giuse là chủ gia đình phải có uy quyền tuyệt đối. Mẹ Maria là mẹ và là nội trợ. Chúa Giêsu xét theo sự thường là con, nhỏ nhất trong gia đình thánh. Nhưng cả ba nhân vật trong gia đình thánh đều sống tôn trọng lẫn nhau và hoàn toàn sống rập theo thánh ý Thiên Chúa.
Gia đình thánh luôn làm nổi bật những nét căn bản của sách đức huấn ca 3, 3-7.14-17a nêu lên, và còn hơn thế nữa gia đình thánh gia lại còn sống sáng ngời những nhân đức, luân lý của một gia đình như thánh Phaolô nêu trong thơ thánh Phaolô gửi tín hữu Côlosê 3, 12-21.Thánh gia thất đã luôn sống trong tình yêu vì gia đình của ba Đấng đặt nền tảng trên: " Thiên Chúa là tình yêu". Và như thế, thánh Luca thánh sử trong đoạn tường thuật 2, 22-40 càng làm rõ nét hơn về sự nhẫn nhục, chấp nhận đau khổ trong ý định của Thiên Chúa.
Đây là sự thử thách nghiêm trọng nhất trong đời sống của gia đình thánh gia vì sóng gió mới tạm yên sau biến cố Chúa Giêsu sinh ra, trốn qua Ai Cập và giờ đây lời tiên tri của ông già Siméon quả thực giống như một mũi tên xuyên nát tâm hồn Mẹ Maria. Tuy nhiên, thánh Giuse và mẹ Maria vẫn can đảm chấp nhận ý Thiên chúa. Sự vâng phục trong khiêm nhượng đã làm cho mẹ Maria và thánh Giuse trở nên anh hùng vì những nhân đức các Ngài thực hiện đã vượt quá sự anh hùng bình thường.
Gia đình thánh ở Nagiarét đã nên mẫu gương cho mọi gia đình noi theo, bắt chước vì rằng gia đình của mẹ Maria và thánh Giuse luôn có Chúa ở cùng. Một gia đình có Chúa ở cùng là một gia đình hạnh phúc. Chúa Giêsu đã rất là người vì Ngài đã chọn một gia đình để sinh ra và qua đó nêu gương gia đình thánh của mình cho mọi gia đình.
Năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh về gia đình. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng ra một thư mục vụ năm 2002 nói về gia đình. Cả Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, cả các Đức Giám Mục Việt Nam và các Giám Mục trên thế giới đã luôn coi trọng gia đình.
Quả, nhiều người chắc còn nhớ tới biến cố quan trọng khi Đức thánh Cha Gioan Phaolô II vào tháng 5/1987 trở về thăm quê hương Ba Lan, Đức Thánh Cha đã làm hai cử chỉ ấn tượng và vô cùng cao quí: viếng mộ song thân và cử hành thánh lễ đặc biệt cho những đôi hôn phối. Sở dĩ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II làm hai cử chỉ ấy vì Ngài tôn trọng, đề cao vai trò sinh thành, dưỡng dục của Cha mẹ, đồng thời đề cao gia đình. Ngài gióng lên tiếng nói giữa một thế giới mà nhiều gia đình bị lung lay tới tận gốc rễ. Đức Thánh Cha nói: " Hãy gìn giữ gia đình, hãy bảo vệ gia đình".
Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình là Giáo Hội nhỏ trong đó đức tin phải được tỏa sáng tới mọi gia đình. Mẹ Maria và thánh Giuse đã rất thực tế, các Ngài không sống mông lung, không như những người trời. Các Ngài luôn tin tưởng, luôn phó thác, luôn sống tình người, luôn sống con người thật và nhờ có Chúa ở với gia đình, các Ngài đã lướt thắng tất cả. Mọi khó khăn, thử thách đều được giải quyết êm đẹp nhờ có Chúa hiện diện, ở cùng.
Hôm nay, mừng lễ thánh gia Nagiarét, mọi gia đình hãy hiểu rằng tất cả các gia đình đều có những khó khăn, nhưng nếu có Chúa hiện diện, ở cùng mọi sự sẽ được giải quyết êm đẹp, thỏa đáng.
Chiêm ngắm gia đình thánh gia Nagiarét là nhận ra rằng ba Đấng trong gia đình thánh luôn sống hài hòa, tôn trọng, vâng phục lẫn nhau và trên hết là vâng phục ý Chúa.
Chúa Giêsu quả rất thực tế khi chọn một gia đình muôn muôn vàn thánh để sinh ra, để lớn lên... Chúa nâng cao phẩm giá gia đình và làm cho gia đình có nền tảng vững chắc nhờ sự hiện diện liên tục của Ngài trong mọi gia đình.
Lạy Chúa Giêsu, xin thánh hóa mọi gia đình để mọi gia đình luôn biết noi gương gia đình thánh Nagiarét vì mãi mãi gia đình thánh là gia đình nổi bật nhất về mọi phương diện.