Dân Chúa Âu Châu

Ai muốn cầm đầu, hãy làm tôi tớ.
Thứ Hai tuần 17 thường niên – THÁNH GIACÔBÊ, TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
"Các con sẽ uống chén của Ta".

* Giacôbê là con ông Dêbêđê, là anh của thánh Gioan và là bạn của thánh Phêrô. Đây là những người dân chài ở hồ Ghen-nê-xa-rét đã đi theo tiếng gọi của ông Gioan Tẩy Giả trước khi theo Đức Giêsu, làm môn đệ của Người. Thánh Giacôbê đã có mặt trong hầu hết các phép lạ Chúa Giêsu làm, nhất là khi Chúa hiển dung trên núi và khi Người hấp hối ở vườn Cây Dầu.
Vua Hêrôđê Ácríppa I cho chém đầu thánh nhân khoảng năm 43 hoặc 44.
Thánh nhân được đặc biệt tôn kính ở Compốttela (Tây Ban Nha), nơi có một thánh đường danh tiếng kính người.

Lời Chúa: Mt 20, 20-28
Khi ấy, bà mẹ các con ông Giêbêđê cùng với hai con đến gặp Chúa Giêsu. Bà sấp mình xuống lạy Người, có ý xin Người điều chi đó. Người hỏi: "Bà muốn gì?" Bà ta thưa lại: "Xin Ngài hãy truyền cho hai con tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài, trong Nước Ngài".
Chúa Giêsu đáp lại: "Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có thể uống chén mà ít nữa đây ta sắp uống chăng?" Họ nói với Người: "Thưa được". Người bảo họ: "Vậy các ngươi sẽ uống chén của Ta, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả, thì không thuộc quyền Ta ban, nhưng Cha Ta đã chuẩn bị cho ai thì người ấy mới được". Nghe vậy, mười người kia tỏ ra bất bình với hai anh em.
Chúa Giêsu gọi họ lại mà bảo: "Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người".

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

SUY NIỆM 1: Hạt giống rơi xuống đất có thối đi...
Giacôbê, vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay là con ông Giêbêđê và bà Salomê và là anh của thánh Gioan tông đồ. Người ta quen gọi thánh Giacôbê Tiền để phân biệt với thánh Giacôbê, giám mục đầu tiên của Giêrusalem, được gọi là Giacôbê Hậu, kính ngày 03/5 cùng với thánh Philipphê.
Giacôbê và Gioan là hai anh em được Chúa Giêsu kêu gọi sau khi Ngài đã chiêu mộ hai anh em Phêrô và Anrê. Phúc Âm thánh Matthêu thuật lại: Hai anh em ông được Chúa gọi ở bờ hồ Genezareth, trong lúc đang ở trong thuyền vá lưới với cha. Ðược Chúa gọi, hai ông bỏ thuyền và người cha để theo Chúa ngay lập tức. Ðiều này chứng tỏ lòng hăng hái nhiệt thành của hai anh em, nên hai người được Ngài cho biệt hiệu là "con cái của sấm chớp" như chúng ta thấy xảy ra ít là trong hai trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất khi người xứ Samaria ngăn cản không cho Chúa Giêsu và đoàn môn đệ đi qua lãnh thổ của họ để tiến về Giêrusalem, hai anh em Giacôbê đã hỏi Thầy: "Thưa Thầy, Thầy có bằng lòng để chúng tôi khiến lửa trên trời xuống thiêu hủy họ không?".
Sau đó, trong chuyến đi Giêrusalem lần cuối cùng, cả hai đã đến xin ngồi bên phải và bên trái Thầy, khi Chúa Giêsu sẽ thống trị trong vinh quang. Và khi không hiểu hoàn toàn ý nghĩa câu hỏi của Chúa: "Anh em có uống được chén Ta sẽ uống không?", hai ông đã nhất quyết thưa: "Chúng tôi uống được". Vì thế, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, như các môn đệ khác, Giacôbê cũng can đảm làm chứng những điều mắt thấy tai nghe về Thầy Giêsu, dầu bị cầm tù, đòn vọt, nhưng đã vui mừng vì được đau khổ vì Chúa Giêsu.
Năm 42, vua Hêrôđê, cháu của Hêrôđê cả, người đã âm mưu giết con trẻ Giêsu, đã bách hại một số thủ lĩnh của các tín hữu Kitô, trong số đó có cả thánh Giacôbê, như sách Tông Ðồ Công Vụ ghi: "Cùng thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay bắt bớ và làm khổ mấy người trong Giáo Hội, vua đã truyền chém ông Giacôbê, anh của ông Gioan. Thấy điều này làm vừa lòng người Do Thái, ông lại bắt cả ông Phêrô nữa".
Với nguồn tin này, chúng ta biết thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin của mình.
Trong thời nội chiến 1936-1939 tại Tây Ban Nha, các quân phiến loạn đốt nhà thờ, nhà thương, tu viện và giết hại nhiều linh mục cũng như nữ tu. Ngày nọ, một vị linh mục già nua bị phiến quân bắt và bị kết án tử hình. Khi bị trói và dẫn đến trước mặt đội lính hành quyết, cha nói với tên trưởng toán: "Xin anh làm ơn cắt dây trói này, để tôi có thể giơ tay chúc lành cho anh và xin Thiên Chúa cũng tha thứ và chúc lành cho các anh".
Lịch sử ghi nhận đa số các tông đồ đã kết thúc cuộc đời chứng tá cho niềm tn bằng những cái chết đau thương, khởi đầu cho những lớp người chứng tá khác trải qua bao thế hệ. Và cũng như vị linh mục trong câu chuyện trên, hàng trăm, hàng ngàn chứng nhân của niềm tin vẫn còn đang bị giam cầm, tra vấn, đày đọa vì niềm tin. Họ chấp nhận những khổ hình một cách bình thản, không oán hận, trái lại, noi gương Chúa Giêsu, họ sẵn sàng tha thứ cho những ngươi làm khổ họ.
"Hạt giống rơi xuống đất có mục nát và chết đi, mới nảy mầm và phát sinh hoa trái". Không gì minh chứng hùng hồn cho lời tuyên bố này của Chúa Giêsu bằng những cuộc sống chứng tá của các tín hữu Kitô đang chịu đau khổ, giam cầm và tử hình vì niềm tin.
Tử đạo là một ơn gọi đặc biệt, nhưng mọi tín hữu Kitô đều được kêu gọi dâng những ốm đau, bệnh tật, những hy sinh nho nhỏ hằng ngày để cầu cho Nước Cha được trị đến.

SUY NIỆM 2: Thánh Giacôbê Tông Đồ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Đọc lại ơn gọi của các thánh tông đồ, nhân loại không khỏi ngạc nhiên vì tính cách huyền nhiệm và diệu kỳ của Thiên Chúa trên từng con người, trên từng cá nhân. Tin Mừng của thánh Matthêu viết: ”Đang đi dọc theo biển hồ Galilê, Chúa Giêsu thấy ông Giacôbê, con ông Dê-bê-đê, và ngươi em là ông Gio-an, cả hai đang vá lưới” (Mt 4,18.21).
ƠN GỌI CỦA THÁNH GIACÔBÊ:
Chúa muốn gọi ai là tùy ý Chúa, không ai có quyền buộc Chúa phải làm thế này, phải làm thế khác. Ơn gọi là một ơn huệ nhưng không của Chúa. Thánh Giacôbê là anh của thánh Gioan, con của ông Dêbêđê. Thánh nhân là bạn đồng nghiệp với thánh Phêrô và thánh Anrê, tất cả đều làm nghề chài lưới và là những tay chài thiện nghệ. Các Ngài đã làm nghề cổ truyền này từ đời cha ông và nay họ vẫn tiếp tục sống bằng nghề đánh cá ở biển hồ Giênêsarét. Thánh Matthêu đã tường thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên như sau:” Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: ”Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo người. Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,18-22). Tin Mừng nói: Chúa gọi và lập tức họ bỏ tất cả mà theo Chúa Giêsu. Đó là một sự lạ lùng vì chỉ một tiếng gọi, các môn đệ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Giacôbê dù rằng có bị mang tiếng vì bà mẹ của hai người con ông Dêbêđê đã suy nghĩ theo ý trần gian xin cho một ông ngồi bên tả, một ông ngồi bên hữu Chúa trong vương quốc của Ngài, nhưng với sự tác động của Chúa Thánh Thần và với sự thay đổi của ơn Chúa, thánh Giacôbê và thánh Gioan đã hy sinh đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho Chúa.
THÁNH GIACÔBÊ TRỞ THÀNH NGƯỜI THÂN THIẾT CỦA CHÚA:
Được Chúa yêu thương, cải hóa, biến đổi, thánh Giacôbê đã trở nên người thân cận của Chúa, cùng với thánh Phêrô và thánh Gioan. Thánh nhân đã được chứng kiến con ông Zairô Chúa làm cho sống lại, việc chúa biến hình trên núi Tabôrê, và cơn hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu. Tất cả những điều đó nói lên con người đặc biệt và vô cùng thân tín của Ngài đối với Chúa Giêsu. Chính vì được yêu mến tin tưởng, thánh Giacôbê đã được phước trở thành người tử đạo tông đồ đầu tiên đã đổ máu ra để minh chứng cho Chúa Giêsu phục sinh dưới thời vua Hêrôđê Agrippa I năm 43 hoặc 44 trước lễ phục sinh. Chúa đã trao chén đắng cho Ngài và Ngài đã chấp nhận uống chén đắng Thầy trao. Chúa đã thưởng công và trao mũ triều thiên cho Ngài. Thánh nhân đã được tôn kính đặc biệt trên thế giới từ thế kỷ IX và lòng tôn kính thánh nhân toả lan khắp thế giới.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho thánh Giacôbê vinh dự là tông đồ đầu tiên đã chết để làm chứng cho Tin Mừng. Xin cho Hội Thánh tìm được sức mạnh nhờ gương tử đạo của thánh nhân, và nhờ Người cầu thay nguyện giúp, Hội Thánh được luôn nâng đỡ phù trì (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giacô-bê tông đồ).
“Suy niệm 3:
Xem ra chức quyền vẫn là nỗi thèm thuồng của con người.
Từ những cuộc xung đột giữa con người sống bầy đàn thời nguyên thủy,
đến cảnh chiếu trên, chiếu dưới ở làng xã
và cảnh chạy chức chạy quyền thời bây giờ.
Ngay các môn đệ thân cận của Thầy Giêsu là Nhóm Mười Hai
cũng không thoát khỏi sức hút của quyền lực.
Họ đã từng cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời (Mt 18, 1).
Bây giờ, ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần thứ ba về cuộc Khổ Nạn,
họ lại có chuyện xích mích với nhau cũng về chuyện chức quyền.

Hai con ông Dêbêđê là hai môn đệ được Đức Giêsu yêu quý hơn.
Chẳng rõ có phải vì thế mà họ nuôi tham vọng
chiếm được chỗ hai bên tả hữu của Thầy trong Nước Thầy (x. Mt 19, 28).
Họ khéo léo nhờ mẹ của mình xin Thầy Giêsu ban cho ơn lớn đó (cc. 20-21).
Đức Giêsu chắc không vui vì môn đệ vẫn chưa được giải thoát khỏi cái trần tục,
“Các người không biết các người xin gì !” (c. 22).
Các môn đệ quá xa lạ với nẻo đường Thầy sắp đi,
dù Thầy vừa mới cho họ biết con đường ấy,
con đường bị chế diễu, bị đánh đòn và bị đóng đinh cho đến chết (Mt 20, 18-19).
Trong khi hai môn đệ thân tín còn loay hoay với những tham vọng thế gian
thì Ngài kéo họ vào hiệp thông với cuộc Khổ nạn gần đến của mình.
Thầy Giêsu mời họ chia sẻ với Thầy cùng một chén đắng:
“Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” (c. 22).
“Thưa uống nổi”, đó là câu trả lời đầy tự tin và mạnh dạn của Giacôbê,
Và ông đã thực hiện lời hứa này bằng cái chết (x. Cv 12, 2).
Nhưng Thầy cũng khiêm tốn cho biết Cha mới có quyền sắp chỗ ngồi (c. 23).

Sự bực tức của mười môn đệ kia khi câu chuyện vỡ lở
cho thấy họ cũng thích được ngồi hai bên tả hữu, tuy không tiện nói ra (c. 24).
Thầy Giêsu cho thấy cách sử dụng quyền lực của các nhà lãnh đạo ngoài đời.
Quyền lực là để thống trị người dân, tìm cách bành trướng cái tôi của mình.
Thầy Giêsu khẳng định dứt khoát không có chuyện đó trong Giáo hội của Thầy.
“Giữa anh em thì không được làm như vậy” (c. 26).
Quyền lực và phẩm trật trong Giáo hội là để phục vụ dân Thiên Chúa.
Những người làm lớn, làm đầu trong Giáo hội
lại là người hầu bàn, người tôi tớ, noi gương Đức Giêsu, Người Tôi Trung.
Chính Ngài đã đưa việc phục vụ đến mức cao nhất là hy sinh tính mạng (c. 28).

Cơn cám dỗ về quyền uy, chức tước là cám dỗ muôn thuở cho mọi người.
Các cộng đoàn Kitô hữu cứ phải xét mình mãi
để khỏi rơi vào thói đời mà Đức Giêsu đã long trọng cảnh báo.

Cầu nguyện:

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.

Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.

Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.

Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.

Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

“Con Người đến là để phục vụ

và hiến dâng mạng sống”
(Mt 20, 20-28)

Để hiểu hết mức độ nghiêm trọng của câu chuyện mà bài Tin Mừng thuật lại, chúng ta được mời gọi khởi đi từ khung cảnh (c. 17-19). Khung cảnh của câu chuyện là một lời loan báo : Đức Giê-su loan báo cuộc thương khó lần thứ ba và cũng là lần cuối. Trong lần loan báo này, Người nói về cuộc Thương Khó với nhiều chi tiết nhất. Dường như, với thời gian, Người cũng nhận ra từ từ mỗi lúc mỗi rõ hơn những gì sẽ chờ đợi mình ở phía trước.

Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và, ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy.

(c. 18-19)

Qua lời loan báo này, chúng ta hiểu rõ nữa rằng, thương khó là hành động của con người : người ta bắt, xét xử, kết án xử tử, nộp cho dân ngoại, họ nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Như thế, thập giá hoàn toàn không phải là hành động của Thiên Chúa, nhưng là kết quả, là điểm tới của một tổng thể hành động vừa lớn lao vừa phức tạp của những con người cụ thể ; và chính những con người này cũng không làm chủ được mình, vì Sa-tan làm chủ và hành động nơi họ. Vì thế, trong cuộc Thương Khó, Đức Giê-su, và qua Ngài là chính Thiên Chúa, chủ động để cho Sự Dữ hành động, sao cho Sự Thiện tuyệt đối diện đối diện với chính Sự Dữ.

Như thế, một đàng Đức Giê-su đang hướng tới con đường Thập Giá để trở nên nhỏ bé, để tự xóa mình đi, để dâng hiến và phục vụ. Đàng khác, nơi các môn đệ, lại tồn tại một giấc mơ quyền bính, và điều này tất yếu kéo theo sự ganh tị, tranh chấp và loại trừ. Có lẽ chúng ta không có « giấc mơ quyền bính » như thế, nhưng chắc chắn chúng ta có những gắn bó và quyến luyến đi ngược với con đường Thập Giá của Đức Ki-tô. Vì thế, chúng ta được mời gọi luôn luôn soi mình vào Đức Giê-su chịu đóng đinh, cá nhân cũng như cộng đoàn, và để được Người biến đổi.

1. Người mẹ và hai người con

Ít ai trong Tin Mừng được nói đến cả cha lẫn mẹ, như hai người môn đệ này : hai người là con của ông Dêbêdê, và mang tên Giacôbê và Gioan (Mt 10, 2) và ở đây đích thân mẹ dẫn hai ông đến trước mặt Đức Giêsu và nói thay cho hai ông !

Chúng ta hãy nhìn ngắm ba mẹ con : mẹ đi trước các con theo sau. Kể cũng lạ, người ta đã được kêu gọi đi theo Đức Giêsu rồi mà vẫn còn đi theo mẹ ! Dù sao chúng ta cũng phải cảm phục bà mẹ. Điều này làm chúng ta nhớ đến bà mẹ của Giuse trong phim « Ông thánh bất đắc dĩ » ; trong phim, Giuse khờ khạo và quá đơn sơ, nên mẹ phải lo liệu hết. Nhưng hai ông Giacôbê và Gioan chắc chắn không quá đơn sơ và khờ khạo : hai người đã nghe tiếng gọi, tự do từ bỏ lưới, thuyền, gia đình để đáp lại tiếng gọi (x. Mt 4, 21-22) ; họ đã đi theo Đức Giê-su được một thời gian đáng kể (chúng ta đang ở chương 20 của sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu), và Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó của Người đến lần thứ ba với nhiều chi tiết nhất. Như thế, hai ông thực sự có ý muốn, có suy tính và có cả một kế hoạch để thực hiện : hình ảnh lẽo đẽo theo mẹ minh hoạ điều này ; hơn nữa, mười người còn lại sẽ tức tối với hai anh này, chứ không tức tối với người mẹ. Như thế, tham vọng kiểu này có thể xẩy ra bất cứ lúc nào trong hành trình người môn đệ theo Thầy Giê-su ; chúng ta được mời gọi nhận ra mình ở hình ảnh này, vì « đi theo mẹ » cũng có nhiều cách thể hiện.

Người mẹ đến bái lạy và kêu xin người một điều. Chúng ta hãy nhìn ngắm bà và cảm phục bà ; bà thực sự quên mình để lo cho hai người con. Đức Giêsu hỏi bà : « Bà muốn gì ? » Bà thưa : « Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy ». Điều bà xin cho hai con là những người đầu tiên được chia sẻ quyền bính của Đức Giêsu khi ngài thiết lập Vương Quốc của Ngài. Như thế, dường như hai môn đệ đi theo Đức Giêsu chỉ là một con đường, một cách thức để có quyền bính ! Và khi có quyền bính thì có tất cả, trong xã hội cũng như trong Giáo Hội ; ai trong chúng ta cũng thấy hoặc có kinh nghiệm về điều này.

Ngày nay, các bà mẹ (có thể hiểu rộng hơn là gia đình và họ hàng) đều muốn con mình được ngồi trên cao ; và bản thân người đi tu cũng muốn như thế ; và nhiều khi chức thánh cũng được hiểu như là một thứ quyền bính : quyền thánh hoá, quyền giáo huấn, quyền quản trị. Vì thế, đời sống thánh hiến của các nữ tu diễn tả tốt hơn những giá trị của Tin Mừng, nhất là mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô : âm thầm, hi sinh, phục vụ quên mình, tuỳ thuộc, bé nhỏ….

2. Đức Giê-su và hai môn đệ

Chúng ta cần lắng nghe và suy gẫm từng chữ lời đáp của Đức Giêsu :

Đức Giê-su bảo: “Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ đáp: “Thưa uống nổi.” Đức Giê-su bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được.”

(c. 22-23)

Như thế, Đức Giê-su không quan tâm đến điều họ xin, thậm chí Người cũng không có quyền. Ngài chỉ quan tâm đến chén Người sắp uống. Có lẽ hai vị tông đồ tưởng là chén rượu nho thơm ngon, nên trả lời mau mắn : « Thưa uống nổi ». Nhưng chén Người sắp uống là chén nộp mình cho sự dữ ; và khi biến cố xẩy ra, tất cả sẽ bỏ chạy !

Đức Giêsu không có quyền bính kiểu này : thống trị, lãnh đạo, điều khiển, áp đặt… Đúng là Ngài có quyền bính, nhưng quyền bính của ngài không như kiểu quyền bính thế gian : « thủ lãnh thế gian thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền cai quản dân » (c. 25). Quyền bính của Đức Giê-su là quyền bính của ánh sáng, của sự thật và của sự sống ; và ánh sáng, sự thật và sự sống được diễn tả tốt nhất bởi sự hiền lành, khiêm nhường, phục vụ, bởi hy sinh và dâng hiến mạng sống.

3. Muời môn đệ còn lại và Đức Giê-su

Các môn đệ khác tỏ ra tức tối, điều này có nghĩa là các ông có cùng một tham vọng. Lòng ham muốn lây lan, sinh sôi nẩy nở từ thủa ban đầu của sự sống con người (x. St 3) ; và chỉ có cây Thập Giá mới chữa lành được thôi. Trình thuật Tin Mừng kể lại chỉ trong vài dòng chữ, nhưng nói lên biết bao điều sâu kín. Chúng ta hãy nhìn ra lòng ham muốn đã tác hại như thế nào trong tương quan với Chúa và với nhau. Nhưng trước hết, chúng ta có thể so sánh hai ý muốn, hai cung cách và hai con đường : con đường của hai môn đệ và của mười ông còn lại một bên, và bên kia là con đường của Đức Giêsu. Sự tương phản lớn biết bao, và có bất cứ đâu, nơi nhóm, cộng đoàn, Dòng tu, Giáo Hội, xã hội và cả ở những nơi sâu kín, hay tôn nghiêm nhất.

Vì thế, tương quan của chúng ta trong cộng đoàn, Nhà Dòng, và trong Giáo Hội phải đặt nền tảng trên sự hiểu biết thâm sâu Đức Kitô, như thánh Phao-lô khuyên bảo : « Vậy như anh em đã nhận Đức Ki-tô Giê-su làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người.Anh em hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Ki-tô Giê-su, hãy dựa vào đức tin mà anh em đã được thụ huấn, và để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ » (Col 2, 6-7).

Chúng ta hãy cảm nếm sự hiền lành trong cách Đức Giêsu đối diện vấn đề rất nghiêm trọng nơi các môn đệ. Thực vậy, Người gọi các ông lại và nói :

Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.

(c. 25-27)

Ngài nêu ra một cách thức thi hành quyền bính giữa các môn đệ hoàn toàn ngược hẳn với cách thức bình thường. Nếu để ý, chúng ta sẽ nhận ra rằng lời của Ngài rất triệt để : « ai muốn làm lớn… » ; « ai muốn làm đầu… ». Ngài không nói : « ai được đặt làm lớn ; ai được đặt làm đầu ». Nhưng Đức Giêsu nói đến ý muốn, và ý muốn này đang có nơi tất cả các môn đệ và cũng đang có nơi tất cả chúng ta. Đức Giêsu không nêu ra một nguyên tắc xuông, nhưng Ngài luôn luôn nói điều Ngài là, tương tự như những lời Ngài nói trong Bài Giảng Trên núi :

Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.

(c. 28)

« Cũng như » thường được hiểu là các môn đệ và chúng ta được mời gọi bắt chước Đức Giê-su, bắt chước cung cách của Ngài. Nhưng thực tế cho thấy, bắt chước một hồi là chúng ta đuối ! Đức Giê-su ở đây muốn nói tới chính lẽ sống của Ngài ; phục vụ đối với Ngài không phải là một công trình phải cố thực hiện, nhưng phục vụ là lý do hiện hữu của Ngài. Vì thế, phục vụ và hiến dâng cũng phải là lẽ sống của chúng ta, theo gương của thánh Gia-cô-bê Tông Đồ mà chúng ta mừng kính hôm nay. Phục vụ và hiến dâng cũng phải là lẽ sống của chúng ta, bởi vì chính chúng ta đã được Chúa phục vụ trước và Ngài vẫn phục vụ chúng ta hằng ngày trong cuộc sống và trong Thánh Lễ. Hơn nữa, trong đời sống phục vụ, chính Chúa thúc đẩy chúng ta phục vụ, Ngài phục vụ với chúng ta và Ngài phục vụ trong chúng ta, như chúng ta vẫn tuyên xưng hằng ngày : « Chính nhờ Đức Ki-tô, trong Đức Ki-tô và với Đức Ki-tô » ; và như lời thánh Phao-lô xác tín : « Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, nhưng Đức Ki-tô sống trong tôi » (Gl 2, 20).

* * *

Để làm phát sinh sự sống, phục vụ cho sự sống, thì phải hy sinh mạng sống, có thể nói đó là « qui luật của muôn đời của sự sống ». Đức Giê-su không đến để sống cái gì quá siêu nhân hay ngoại nhân, nhưng Người đến để sống và sống đến tận cùng con đường của « hạt lúa mì », để qua đó, nói cho chúng ta rằng, đó là con đường của sự sống, của niềm vui, của hạnh phúc trong sự hiệp thông trọn vẹn và mãi mãi với Chúa và với nhau. Thánh Gia-cô-bê đã đi đến cùng con đường này và chúng ta được mời gọi tiếp bước theo ngài hôm nay.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J