Dân Chúa Âu Châu

Diễn Văn Truyền Giáo.

Thứ Tư tuần 28 thường niên – THÁNH LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG. Lễ kính.

"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít".

* Thánh Luca, “người thầy thuốc yêu quý” là bạn đồng hành của thánh Phaolô và cũng là tác giả sách Tin Mừng, trong sách này người đã trình bày lòng nhân hậu của Chúa Kitô rõ ràng hơn ai hết.
Người cũng viết sách Công vụ, tường thuật lại sự tiến triển của Hội Thánh sau ngày Hiện Xuống. Qua ngòi bút của con người thông thạo văn chương chữ nghĩa như người, Tin Mừng trở thành một bài thánh ca tạ ơn trong bầu khí vui tươi và lạc quan phấn khởi.

LỜI CHÚA: Lc 10, 1-9

Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường.
"Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ. Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi".

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

SUY NIỆM 1: Diễn Văn Truyền Giáo
Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ. Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: “Khi tất cả các dân nước trên mặt đất”.
Như thế, chúng ta có thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà hôm nay chúng ta suy niệm là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn nơi chương 10 này.
Những lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi suy niệm này chúng ta không thể nào suy niệm tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ của Chúa.
Ước chi mỗi người chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần để trở lại suy niệm thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi”. Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy Chúa,
Này con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 2: Vào nhà, vào thành phố
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới
nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%.
Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt.
Ðức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến,
nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân.
Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ giữa Ngài với con người.
Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh
thì càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần vào.
Ðưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta.
Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm.
Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước,
thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được.
Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở,
vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào.
Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn,
vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty...
Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.
Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó.
Ðâu là khuôn mặt của người được sai hôm xưa?
Hiền lành như chiên giữa bầy sói.
Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị.
Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn.
Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối.
Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ
sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư, sống nhân từ, phục vụ.
Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau,
phải có khả năng nâng con người lên Ðấng Tuyệt Ðối.
Ðâu là đóng góp của người được sai hôm xưa?
Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ,
vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến.
Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm.
Cả hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật,
một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình.
Chúng ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á
mà phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ?
Ðức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào?
Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo,
nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu.
Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei
đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ.
Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo.
Học suy niệm và chiêm niệm nơi người Ấn giáo.
Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử.
Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng.
Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão.
Càng học, ta càng dễ giới thiệu Ðức Giêsu,
và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những nét đặc biệt của mẹ Têrêxa Calcutta, khiến cả thế giới mộ mến?
Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công cho dân tộc Việt Nam, người tông đồ cần có những đức tính căn bản nào?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
(Trích trong ‘Manna’)

SUY NIỆM 3: Thánh Luca
Bốn môn đệ đã viết lời và việc Chúa, nhưng tất cả chúng ta đều được ơn gọi ghi khắc sứ điệp của Chúa vào đời sống riêng của mỗi người chúng ta.
Truyền giáo (Messia)
Bản văn này, quá quen, nhưng phải được suy niệm từng câu từng câu. Đây là diễn từ sai đi truyền giáo, bắt đầu bằng câu dạy cầu nguyện trước “cảnh lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Câu nói đến “Mùa gặt lúa” thay vì nói đến đi giao giống. Câu nói đó gây ngạc nhiên cho cả chủ và thợ. Chủ bỏ liều, thợ không dám nói gì. Cho nên cần đến sự cầu nguyện để thấy rõ công việc đồng lúa mênh mông và sự kém cỏi của người quản lý, nghĩa là, trong tình trạng hoàn toàn cùng cực của con người, không còn một chút an toàn nào xét về phía nhân loại.
Tông đồ (Apostolat)
Đây là dịp cho chúng ta đào sâu ý nghĩa tiếng tông đồ và phê phán tận căn quan niệm thông thường về tiếng này. Tự nhiên chúng ta nghĩ đến mùa giao giống, gieo lời Chúa như loan báo Đức Kitô. Khi Tin Mừng nói mùa gặt: “Mùa gặt dồi dào”. Thâu hoạch mà không gieo, thâu vào kho lẫm vụ mùa, mà không phải của mình. Nó là kho của người khác, như dụ ngôn người gieo giống (Lc 8,5-8). “Người gieo giống đi gieo giống của mình”. Nghĩa là lời Chúa đã được gieo trong lòng người rồi, và nghĩa là loan báo Đức Kitô là chỉ việc tỏ cho thấy những hoa trái nảy sinh từ hạt giống do Đức Kitô ban và hoa trái đó thuộc về Đức Kitô. Vậy những thái độ Tông Đồ của chúng ta sao dám độc đoán tự nhận là việc của mình và dám cho mình đóng vai trò cha bác, chủ nhân ông đối với người khác?
Thánh Luca
Thầy thuốc người Hy Lạp, trong những dòng Tin Mừng này, nói cho chúng ta thấy nguyện vọng hăng hái của Ngài muốn chia sẻ sứ điệp Tin Mừng, sứ điệp hòa bình và sứ điệp huynh đệ đại đồng. Nhiêm vụ mênh mông, khẩn thiết thường nhiều nguy hiểm. Thánh Luca là đèn chiếu tỏa những ánh sáng dịu dàng thanh thản.
Tình yêu thắm sâu vào ngôn từ của Ngài. Chúng ta hãy nói như Ngài để ngôn từ êm ái của Ngài hóa lên lời chúng ta thưa với Chúa và với anh em chúng ta.
J.M

SUY NIỆM 4: Một vị thánh y sĩ, văn sĩ tuyệt vời
Thực tế người ta rất ít sử liệu để viết về cuộc đời của thánh Luca, thánh sử, tông đồ. Tuy nhiên, người ta có thể dựa vào câu nói: ”Văn tức là người” để tìm hiểu về thánh Luca. Không có một sử liệu nào ghi rõ thánh Luca sinh ra ở đâu và vào năm nào. Nhưng qua nhiều tài liệu thu thập được, người ta biết được thánh Luca là một y sĩ thời danh và là một nhà văn giỏi, nổi tiếng. Dựa vào Tin Mừng và sách Công vụ tông đồ của thánh Luca, chúng ta có thể nhận định về con người của thánh Luca như sau:
Thánh Luca đã viết Tin Mừng để diễn tả tình thương xót bao la của Chúa qua nhiều dụ ngôn rất ấn tượng và đầy chất người của Ngài: ”dụ ngôn người Samaria nhân hậu, người con hoang đàng, những kẻ thu thuế, những kẻ bị những chứng bệnh nan y vv”… Thánh nhân nói về ơn cứu rỗi phổ quát và đại đồng trong Tin Mừng của Ngài. Ngài không đóng khung trong những người nhà, nghĩa là người Do Thái, người có đạo, nhưng Tin Mừng của Ngài trải dài tới mọi dân tộc và những người ngoại đạo cũng được Ngài tiếp đón ân cần. Đọc Tin Mừng của Ngài, vai trò của người nghèo được đề cao vì Chúa đã đồng hóa với những kẻ nghèo, những kẻ đơn sơ, nhỏ bé. Tin Mừng của Ngài cũng là Tin Mừng của cầu nguyện và của Chúa Thánh Thần. Thánh Luca cũng thường cho chúng ta thấy niềm vui trong Tin Mừng của Ngài; “niềm vui của Hội Thánh tiên khởi, hân hoan vì Chúa phục sinh, Chúa Thánh Thần hiện diện và cộng đoàn được tràn đầy ơn cứu rỗi”.
Thánh Luca là một người ngoại giáo, khi thánh Phaolô rao giảng Tin Mừng ở thành Troa, Ngài xin tòng giáo, lãnh nhận bí tích rửa tội, xin làm môn đệ thánh Phaolô và theo Ngài đi loan báo Tin Mừng trong nhiều năm liền. Khi thánh Phaolô bị bắt, chúng ta không còn biết gì về quảng đời cuối cùng của Ngài nữa. Theo nhiều tài liệu, và chứng cớ tìm được ở Constantinople, thánh Luca đã rao giảng Tin Mừng cứu độ ở Achaie, Béoti và sau này được đặt làm giám mục Thébes. Theo một sử liệu đáng tin cậy, thánh Gaudence de Brescia quả quyết rằng thánh Luca đã cùng đượcphúc chịu tử vì đạo với thánh Anrê tại Patras thành Achaie.
Thánh Luca đã để lại cuốn Tin Mừng rất giá trị nói lên tình thương vô biên của Thiên Chúa với cách hành văn thật trong sáng, cảm động và với một lối viết văn thật rõ ràng, gợi cảm. Ngài cũng trình bầy cho nhân loại hiểu về sinh hoạt đầy niềm vui của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, cho thấy Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và luôn hành động, luôn hướng dẫn và soi sáng cho Giáo Hội.
Mừng lễ thánh Luca tông đồ, thánh sử, chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì đã ban cho Giáo Hội một vị thánh lừng danh đã để lại cho nhân loại cuốn Tin Mừng và cuốn công vụ tông đồ tuyệt hảo.
Lạy thánh Luca, thánh sử xin giúp chúng con luôn sốt sắng và nhiệt thành tìm hiểu Lời Chúa trong Tin Mừng. Amen.
(Lm. Nguyễn Hưng Lợi)

SUY NIỆM 5: Thánh Luca, Thánh Sử
Thánh Luca là một y sĩ đã trở về với đức tin vào khoảng năm 40, và sau đó theo thánh Phaolô trong cuộc hành trình truyền giáo thứ hai. Trong những năm tháng cuối đời của vị Tông Đồ Dân Ngoại, thánh Luca luôn ở bên cạnh vị ngài. Tác giả Phúc Âm thứ ba và sách Tông Đồ Công Vụ đã lưu lại cho chúng ta rất nhiều trình thuật quí báu về thời thơ ấu của Chúa Kitô và cho chúng ta nhìn thấy hình ảnh tuyệt đẹp về lòng thương xót của Thiên Chúa.
1. Phúc Âm thánh Luca - nỗ lực nên hoàn thiện của chúng ta.
Đẹp thay trên các núi non, bước chân của những người loan báo Tin Mừng.
Chúng ta hãy cám ơn thánh Luca vì ngài đã đem tin mừng đến cho nhân loại. Ngài đã là một công cụ trung thành của Chúa Thánh Thần. Được ơn linh hứng thúc đẩy, thánh nhân đã để lại Phúc Âm về cuộc đời Chúa Giêsu và lịch sử Giáo Hội trong thời kỳ sơ khởi.
Như mọi kiệt tác khác, các sách Thánh Kinh cũng cần sự cộng tác nhân loại. Sự trợ giúp của Thiên Chúa không loại bỏ tài năng con người. Chính thánh Luca cũng nói đến sự chuyên cần trong công việc: Sau khi cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thánh nhân mới tuần tự viết ra. Ngài cho thấy thông tin ấy phù hợp với chứng từ của những người đã được chứng kiến ngay từ đầu. Công việc biên soạn đòi hỏi phải có những cuộc phỏng vấn các chứng nhân, trước tiên là Đức Maria, các Tông Đồ, và những người được hưởng các phép lạ khi ấy đang còn sống. Thánh Jerome nhận định lối văn của thánh Luca là phản ảnh về mức khả tín về các nguồn tài liệu của thánh nhân.
Nhờ thánh Luca đã ân cần đáp ứng ơn Chúa Thánh Thần, ngày nay chúng ta mới diễm phúc đọc được trình thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu và những dụ ngôn tuyệt đẹp mà chỉ mình ngài ghi lại. Chúng ta nhớ đến dụ ngôn người con hoang đàng, câu chuyện người Samaria nhân hậu, đoạn kể về Lazarus nghèo khổ và ông nhà giàu. Và cũng chỉ có Phúc Âm của ngài đã ghi lại sự kiện hai môn đệ về làng Emmaus, tường tận đến từng chi tiết.
Thánh Luca đã mô tả lòng thương xót Chúa dành cho những ai cùng khốn một cách rõ nét hơn các thánh sử khác. Ngài nhấn mạnh đến tình yêu Chúa Kitô dành cho các tội nhân để minh chứng Chúa đã đến để cứu vớt những kẻ đã hư mất. Thánh nhân còn kể cho chúng ta sự kiện Chúa tha thứ cho người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa đã ghé thăm nhà ông Giakêu đầy tai tiếng, và ánh nhìn của Chúa đã biến đổi Phêrô sau khi đã trót chối Thầy. Thánh Luca ghi lại lời hứa của Chúa Kitô dành cho người trộm lành sám hối, và lời cầu của Chúa dành cho những kẻ đã đóng đinh và lăng mạ Người trên đồi Canvê.
Vai trò phụ nữ trong xã hội - một điều không được coi trọng trong thế kỷ đầu của Kitô Giáo - đã có một chỗ đứng quan trọng trong Phúc Âm thánh Luca. Chúa Giêsu ra sức phục hồi phẩm giá cho phụ nữ, và chỉ có vị thánh sử này đã mô tả nhiều nhân vật nữ, chẳng hạn bà góa thành Naim, người phụ nữ sám hối đã rửa chân Chúa, những phụ nữ Galilê đạo đức đã dâng cúng tài sản, đi theo phục vụ Chúa và các tông đồ trên đường truyền giáo, rồi hai chị em thân thiết tại làng Bethany, người đàn bà còng lưng được Chúa chữa lành, và nhóm phụ nữ thành Jerusalem khóc thương khi Chúa vác thánh giá lên núi Canvê.
Chúng ta có nhiều điều để cám ơn thánh Luca. Đức Gioan Phaolô I trước khi đắc cử Giáo Hoàng đã viết một bức thư tưởng tượng gửi cho thánh sử Phúc Âm thứ ba: Ngài là người duy nhất đã lưu lại cho chúng tôi trình thuật cảm động về cuộc giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Kitô để chúng tôi có thể đọc một cách tâm đắc vào những mùa Giáng Sinh. Trong trình thuật ấy, có một câu nổi bật hơn hết: ‘Được quấn trong khăn tã, Hài Nhi được đặt nằm trong máng cỏ.’ Chỉ một câu ấy mà thôi đã đưa đến bao nhiêu hang đá và hàng ngàn bức tranh xinh đẹp khắp thế giới.’ Những tác phẩm nghệ thuật ấy mời gọi chúng ta đến chiêm ngưỡng đời sống Thánh Gia tại Bêlem và chia sẻ cuộc sống hằng ngày của các ngài tại Nazareth.
Hôm nay, chúng ta suy về mức độ hoàn hảo và nỗ lực cần thiết phải có trong công việc. Tuy không đòi nổi bật đến mức làm mọi người phải kinh ngạc, nhưng tất cả những công việc được làm tử tế vì Chúa sẽ có giá trị muôn đời. Đây là món quà quí giá chúng ta luôn sẵn có để dâng lên Chúa. Những công việc được thực hiện thiếu nhiệt thành hoặc thiếu cẩn trọng đều không xứng đáng, bởi vì chúng không làm đẹp lòng Chúa và không mưu ích cho tha nhân. Chúng ta hãy xét lại cung cách chu toàn các trách nhiệm chúng ta hằng ngày phải dâng tiến vì vinh danh Đấng Tạo Thành.
2. Sứ điệp thánh Luca. Họa Sĩ của Đức Mẹ.
Chúng ta gặp những giáo huấn căn bản của Chúa Kitô trong Phúc Âm thánh Luca. Ngài đã làm nổi bật tầm quan trọng của sự khiêm nhượng, chân thật, nghèo khó, chấp nhận thánh giá, và nhu cầu cám tạ Thiên Chúa. Tình yêu đối với Chúa khiến chúng ta phải biết ơn thánh Luca về sự tinh tế nơi tâm hồn ngài được biểu hiện qua công trình tuyệt vời. Từ xa xưa, các tín hữu đã xưng tụng thánh Luca là họa sĩ của Đức Trinh Nữ. Một số bức tranh về Đức Mẹ được truyền tụng là do thánh nhân vẽ ra.
Phúc Âm thánh Luca là căn bản cho tri thức về lòng sùng kính Đức Mẹ và đem lại cảm hứng cho nghệ thuật Kitô Giáo suốt nhiều thế kỷ qua. Ngoài Chúa Giêsu, không ai đã được mô tả một cách đầy yêu mến trong Phúc Âm như Đức Mẹ Maria. Dưới ơn linh hứng Chúa Thánh Thần, thánh sử Luca đã viết cho chúng ta về những đặc ân Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ. Mẹ được đầy ơn phúc và Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Là Mẹ Chúa Giêsu, Đức Maria đã thụ thai nhờ phép Chúa Thánh Thần mà vẫn trọn đời đồng trinh, và được mật thiết liên kết với mầu nhiệm cứu độ. Mọi thế hệ sẽ ngợi khen Mẹ là Đấng diễm phúc, bởi Đấng Toàn Năng đã làm cho Mẹ những điều kỳ diệu, thật đúng như lời một phụ nữ đã cất tiếng chúc mừng Mẹ Chúa Giêsu.
Việc Mẹ Maria đã trung thành đáp ứng với ơn gọi thật hiển nhiên. Mẹ đã khiêm nhượng đón nhận lời truyền tin của tổng thần Gabriel về chức phẩm làm Mẹ Thiên Chúa, và hết tâm hồn cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa. Mẹ vội vã lên đường giúp đỡ người khác. Hai lần, thánh Luca đã cho chúng ta biết Mẹ Maria đã ghi nhớ và suy niệm trong lòng về tất cả những điều ấy. Chắc hẳn Đức Mẹ đã tỏ cho thánh Luca biết những ký ức đầy thân thương trong cuộc sống của Mẹ với Chúa Giêsu.
3. Đọc Phúc Âm với thái độ tôn kính.
Chúng ta hãy trân trọng di sản của thánh Luca bằng việc suy gẫm những lời cao quí và đầy sức sống ngài đã để lại cho chúng ta về Chúa Cứu Thế. Chúng ta hãy xin thánh nhân cho chúng ta được niềm vui và nhiệt tâm tông đồ của những tín hữu thời Giáo Hội sơ khởi khi chúng ta đọc sách Tông Đồ Công Vụ, tức là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.
Theo tập tục cổ xưa, khi một tín hữu bị phiền sầu hoặc hoang mang, họ thường mở Phúc Âm và đọc câu đầu tiên gặp được. Hễ ai chạm vào Người đều được chữa lành. Thánh Luca đã ghi lại như thế. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục thông ban cho chúng ta sự can trường và sức mạnh của Người mỗi khi chúng ta tiếp xúc với Người qua những lời hằng sống của Người.
Những tác phẩm của thánh Luca dạy chúng ta biết phải luôn sống theo lời Chúa. Chúng ta cần phải luôn kiếm tìm lòng thương xót Chúa và sống với Chúa là người bạn thân trung thành đã thí mạng sống vì chúng ta. Thánh Luca đã đưa chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm Chúa Giêsu ngày nay, trong giai đoạn có quá nhiều tư tưởng sai lầm về Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, đá tảng cuộc sống của mọi người. Chúa là hiện tượng ý nghĩa nhất đã đến với nhân loại suốt trên hai mươi thế kỷ qua. Những lời thần lực của Phúc Âm đưa chúng ta đến tiếp xúc với Đấng Cứu Thế: một điều không một tác phẩm nào khác có thể làm được. Vì thế, chúng ta hãy tìm về Phúc Âm để học khoa học tuyệt vời là được biết Chúa Kitô Giêsu, như lời thánh Phaolô đã xác quyết với các tín hữu Philippians, bởi vì không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.
Phúc Âm phải là cuốn sách được mọi Kitô hữu yêu chuộng bởi vì thiếu Phúc Âm, chúng ta không thể hiểu biết Chúa Kitô. Chúng ta suy gẫm và tìm hiểu ý nghĩa của các trình thuật. Khi mở Phúc Âm, bạn hãy nghĩ những điều được viết trong đó – những lời giảng và những việc làm của Chúa Kitô – không chỉ là những điều bạn cần phải hiểu, mà còn phải sống nữa. Tất cả mọi điều được viết trong đó đã được thu thập từng chi tiết một cho bạn, để bạn làm cho chúng sống động trở lại trong cuộc sống của chính bạn. Như các tông đồ, bạn cũng hãy sốt sắng thưa lên, ‘Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?’ Và trong linh hồn, bạn sẽ nghe câu trả lời dứt khoát, ‘Hãy làm theo thánh ý Thiên Chúa!’ Hằng ngày bạn hãy cầm Phúc Âm lên, hãy đọc và sống theo như một qui luật. Đó là điều các vị thánh đã làm.
Chắc chắn thánh Luca thường xuyên suy gẫm những hành vi của Chúa Kitô mà ngài viết lại. Thánh nhân sẽ dạy cho chúng ta biết yêu mến Phúc Âm như các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai. Trong Thánh Kinh, chúng ta tìm được lương thực cho linh hồn, bởi vì Phúc Âm là nguồn mạch sự sống tinh thần minh sáng và trường cửu.

SUY NIỆM 6: Tông Đồ đoàn của Đức Giêsu
Muốn Hội Thánh được phát triển, cần có nhiều môn đệ Đức Kitô đi làm việc Tông Đồ, để tập họp thêm nhiều người vào Hội Thánh. Vì việc Tông Đồ không phải chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là của toàn thể giáo dân biết cộng tác với các chủ chăn của mình. Do đó, ông Luca đã cho chúng ta nhận thức về sứ mệnh Tông Đồ của mọi Kitô hữu như sau:
1. Mọi Kitô hữu phải làm Tông Đồ cho Chúa.
2. Làm Tông Đồ là làm chứng cho sự thật.
3. Làm Tông Đồ là kêu gọi đồng loại đến gặt lúa chín.
4. Muốn làm Tông Đồ phải được Hội Thánh sai đi.
5. Đường Tông Đồ là đường chông gai.
6. Tông Đồ phải sống tinh thần nghèo khó.
7. Làm Tông Đồ là đi cấp cứu người.
8. Muốn được bình an phải loan báo Tin Mừng.
1/ Mọi Kitô hữu phải làm tông đồ cho Chúa.
Đức Giêsu không chỉ muốn chọn 12 người đàn ông Do Thái làm môn đệ để họ làm việc Tông Đồ cho Ngài, mà Ngài còn muốn mời gọi muôn dân trên trái đất. Đó là lý do Ngài chọn 70 hay 72 môn đệ (x Lc 10,1a). Ta biết con số 70 (theo bản văn tiếng Hipri) hay số 72 (theo bản văn tiếng Hy-Lạp) môn đệ Đức Giêsu chọn là hình ảnh con cháu ông Noe sau lụt Hồng Thủy (x St 10), mà lụt Hồng Thủy là hình ảnh tiên báo về Bí tích Thánh Tẩy; đồng thời số 72 cũng là dòng giống dân Israel (x Xh 1,5). Do đó những ai đã nhận Bí tích Thánh Tẩy đều là giống nòi của Israel mới, để có nhiều môn đệ cộng tác vào việc Nước Thiên Chúa, như thuở xưa một mình ông Mô-sê điều hành Israel không nổi, nhạc phụ ông đã khuyên nên chọn lấy 72 vị kỳ lão để tiếp tay với ông (x Xh 18,13t).
Vào thời Tân Ước, hàng giáo sĩ là hiện thân Nhóm 12 của Đức Giêsu chọn, cũng cần phải được nhiều giáo dân cộng tác. Bởi thế, trước khi Ngài lìa biệt Nhóm Mười Một về cùng Cha, Ngài truyền lệnh cho môn đệ đi khắp thế gian tập họp môn đệ cho Ngài bằng hai việc: Làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ những Lời Chúa Giêsu đã truyền (x Mt 28, 19-20), thì công việc Mục Vụ của Hội Thánh mới đạt được kết quả cao.
Vì thế giáo huấn Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 dạy: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế”. Cụ thể ông Luca chỉ là một giáo dân, nghề lương y, đã theo giúp ông Phao-lô. Ông đã điều tra cẩn thận về đời sống của Đức Giêsu cũng như giáo lý của Ngài, rồi ông viết lại cho chúng ta hai tác phẩm là sách Tin Mừng và sách Tông Đồ Công Vụ. Ông Phao-lô còn nói với môn đệ Ti-mô-thê: “Dẫn Mác-co đến với tôi, vì anh ấy rất hữu ích cho việc phục vụ của tôi; còn anh Ty-khi-cô thì tôi đã sai đi Ê-phê-sô”. Loan báo Tin Mừng có khi phải trực tiếp, có khi gián tiếp cộng tác, giúp đỡ các chủ chăn. Đan cử: Ông Phao-lô nhờ ông Ti-mô-thê đến nhà ông Các-pô ở Trôa lấy giúp chiếc áo khoác ngoài cũng như các sách vở và những cuộn giấy da (x 2 Tm 4,10-17: Bài đọc), để ông Phao-lô không mất thì giờ vào việc phụ, một chỉ lo chu toàn sứ mệnh ngôn sứ. Như vậy việc Tông Đồ là của tập thể ý thức cộng tác với nhau để làm ứng nghiệm Lời Kinh Thánh: “Kẻ hiếu trung với Chúa, được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang” (Tv 145 (144),12a: Đáp ca).
2/ Làm tông đồ là làm chứng cho sự thật
Đó là lý do Đức Giêsu sai từng hai người môn đệ đi làm việc Tông Đồ (x Lc 10,1b). Không phải chỉ nhằm để họ giúp đỡ nhau, mà “đôi chứng nhân” có ý nhấn mạnh: làm Tông Đồ là đi loan báo sự thật. Vì theo theo luật Do-Thái, một điều gọi là chân lý có gía trị, phải có ít là hai người chứng (x Dnl 19,15), hầu tất cả công việc được đoán định do miệng hai, ba nhân chứng (x Mt 18,16). Nhưng chứng của hai hay nhiều người có khi còn gia tăng sự gian ác, như các chứng gian trong phiên tòa xử Đức Giêsu! Vậy “cặp chứng nhân’’ chỉ có gía trị khi người Tông Đồ của Chúa ý thức sống những điều sau:
· Mến Chúa phải yêu người (x Mt 22,34).
· Làm trước rồi dạy sau (x Mc 6,30).
· Phá hủy để xây dựng (x Gr 1,10).
· Đau khổ đến vinh quang (x Lc 24,26).
· Nô lệ mới làm chủ (x Mc 10,35).
· Lãnh nhận để dâng hiến (x Mc 10,28t).
· Đời này đạt đời sau (x Lc 19,9).
Sống được những đòi hỏi như trên là dọn chỗ tâm hồn đồng loại cho Đức Giêsu đến để ban phát ơn cứu độ (x Lc 10,1b).
3/ Làm tông đồ là kêu gọi đồng loại đến gặt lúa chín
Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2a).
Thợ gặt ít: Suốt ba năm Đức Giêsu chọn và huấn luyện các Tông Đồ (Nhóm 12). Thế mà khi Ngài về trời, chỉ còn 11 người được Ngài sai đi. Đấy là thiếu về lượng! Còn về phẩm chất Đức Tin, thiếu mới đáng lo, vì trong số những người Đức Giêsu sai đi, có kẻ còn hoài nghi! (x Mt 28,16-17)
Muốn thêm người tham gia việc Tông Đồ, muốn bớt hoài nghi về Đức Tin, ta cần phải tích cực loan báo Tin Mừng, để quy tụ thêm nhiều người đến gặt lúa Nước Thiên Chúa, tức là đón nhận ơn cứu độ từ Hy Tế của Chúa Giêsu thiết lập, như Lời Ngài nói: “Bốn tháng có qua, mùa màng mới đến! Này: Ta bảo các ngươi hãy ngước mắt lên mà nhìn: đồng lúa đã chín vàng chờ gặt! Rồi kìa thợ gặt lĩnh công và thu lượm hoa mầu cho sự sống đời đời, để cho kẻ gieo một thể cùng người gặt đều hoan hỷ. Vì đây lời tục ngữ cũng thật: Người này gieo kẻ khác gặt! Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi không vất vả làm ra! Có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đã đến thừa hưởng công lao của họ” (Ga 4, 35-38).
Lý do Đức Giêsu nói: “Bốn tháng có qua mùa màng mới đến” là vì người Do Thái xuống giống vào tháng 11 đến 12 (mùa Giáng Sinh); mùa gặt vào giữa tháng 4 (mùa Phục Sinh). Thế thì từ mùa Giáng Sinh đến mùa Phục Sinh là bốn tháng, đây là thời gian Đức Giêsu thực thi chức Tư Tế của Ngài trên trần thế, rồi Ngài về ngự bên hữu Chúa Cha hằng chuyển cầu cho tất cả những ai đến tham dự Thánh Lễ mà Hội Thánh làm hiện tại hóa Hy Tế của Chúa Giêsu. Cho nên đi dự Lễ là gặt hái hoa trái cứu độ được Đức Giêsu cùng các thánh vất vả làm ra “mùa lúa chín vàng”.
Thế mà có mấy người biết quý trọng Thánh Lễ, đúng là mùa lúa chín thiếu thợ gặt! Thật là chua xót đối với Đức Giêsu, mới hơn 20 thế kỷ nay, những người mang danh là Công Giáo nhất là bên Âu Châu hầu hết bỏ dự Lễ và càng không quan tâm đến việc rước lễ, không gặt hái mùa lúa chín vàng do Đức Giêsu và bao nhiêu chứng nhân đã vất vả trồng hạt Lời, và tưới bón bằng máu thịt của mình, để có mùa lúa chín chờ người gặt.
4/ Muốn làm tông đồ, phải được Hội Thánh sai đi
Đức Giêsu dạy: “Chúng con hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2b). Cụ thể qua đời sống thánh Phao-lô, là một Biệt phái rất nhiệt tâm thờ Chúa theo Luật Mô-sê, ông đã trở thành kẻ giết Chúa (x Cv 9,4). Nhưng khi được Chúa Giêsu chộp lấy, huấn luyện và sai ông đi làm vườn nho cho Ngài, ông mới ý thức về việc Tông Đồ Ngài trao cho Hội Thánh, ông nói: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?’’ (Rm 10,14-15a) Với lòng xác tín như trên, nên ông Phao-lô trước khi đi truyền giảng Tin Mừng, ông đã đến gặp các thủ lãnh của Hội Thánh để nhận quyền Sai Đi, bằng không việc phục vụ của ông trở nên vô ích (x Gl 2,1-2).
5/ Đường tông đồ là đường chông gai
Đức Giêsu dạy: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (Lc 10,3). Niềm tin “ở hiền gặp lành” chỉ có thể thấy đúng trong thế giới Phục Sinh. Còn đời này phải biết rằng: “Ai càng thiết tha sống chân lý, càng gặp nhiều chống đối, nhiều kẻ ghét, và cuối cùng cô đơn!” Ta cứ nhìn vào mẫu gương sống của Đức Giêsu: Ai thánh thiện bằng Ngài? Ai thương người bằng Ngài? Thế mà Đức Giêsu làm Tông Đồ cho Chúa Cha chưa tròn 3 năm, thì chính những kẻ đã từng thụ ơn đã đồng lõa giết Ngài! Trên thập gía, Ngài nhìn xuống tìm những người đã thụ ơn, họ đều trốn mất! Chỉ còn lại những kẻ chế diễu Ngài! Ngài cất tiếng kêu cứu nơi Chúa Cha, Người lại im lặng! Đến nỗi Đức Giêsu phải thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của Con, sao Người bỏ rơi Con” (Mt 27,46).
Thánh Phao-lô cũng nói lên sự cô đơn này: “Vì anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ; Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,10a.14a.16-17).
Phục vụ Tin Mừng có chấp nhận gian khổ mới thực sự phục vụ vì yêu, chứ không phải vì thương mại, và lời rao giảng đến đổ máu mới minh chứng điều mình công bố là chân lý quan trọng nhất.
Thánh Tông Đồ ý thức con đường theo Chúa là thế, nên ông đã nói: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập gía Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Gl 6,14). Bởi đó nếu ta theo Đức Giêsu chỉ dừng chân ở thập giá thì ta là kẻ khốn nạn nhất trên đời (1Cr 15,19), nên ta phải hướng về mầu nhiệm Phục Sinh. Chính ông Gióp lúc quá khổ, không thể lý giải sự đau khổ của mình bằng lý luận loài người. Đau khổ của ông cũng như của loài người chỉ có thể hiểu lý do, ý nghĩa và hiệu quả trong thế giới Phục Sinh, nên ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ.Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27).
Bởi vậy, chỉ trong mầu nhiệm Phục Sinh “tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13).
6/ Tông đồ phải sống tinh thần nghèo khó
Đức Giêsu dạy: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,4a) Nghĩa là phải sống theo gương Đức Giêsu: “Ngài vốn dĩ là Đấng giàu có, nhưng vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có, nhờ sự nghèo khó của Ngài!” (2 Cr 8,9) Thì người môn đệ của Đức Giêsu cũng phải cần cù làm việc để có thu nhập cao, đạt chỉ tiêu giàu có giống Đức Giêsu, nhưng vì phục vụ Tin Mừng mà ta trở nên nghèo để đồng loại được giàu có về Đức Tin; còn người môn đệ chấp nhận nghèo khó như Thầy Giêsu không có nơi ngả đầu (x Lc 9, 58).
Vậy người môn đệ Đức Giêsu hãy sống nghèo cách cụ thể như Ngài dạy:
+ Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép! (x Lc 10,4a: Tin Mừng).
+ Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. (Lc 10, 7-8: Tin Mừng).
+ Chính Chúa mới là gia nghiệp đời mình. (x Tv 16/15,5)
7/ Làm tông đồ là đi cấp cứu người
Đức Giêsu dạy: “Đừng chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10,4b). Lời căn dặn này nhắc lại cho ta chuyện ngôn sứ Ê-ly-sa sai đầy tớ là anh Ghêkhaji, cầm gậy của thầy chạy mau đến nhà bà lớn thành Shu-nem để đặt gậy lên xác con trai bà, làm cho cậu hồi sinh. Đó là việc cấp bách, nên ngôn sứ Ê-ly-sa dặn đầy tớ: “Đừng chào hỏi ai” (x 2V 4,18-37). Thế thì việc loan báo Tin Mừng là hành động cứu cấp đồng loại thoát tay tử thần, nên không còn để ý đến việc chào hỏi hay từ giã ai (x Lc 9, 61t). Nghĩa là không có gì làm bận tâm để phải trì hoãn việc loan báo Tin Mừng.
8/ Muốn được bình an phải loan báo Tin Mừng
Đức Giêsu dạy: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em”(Lc 10, 5-6: Tin Mừng). Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn phát sinh sự bình an: Ai biết đón nhận Tin Mừng, sự bình an đến với họ; bằng không sự bình an trở về cho sứ giả Tin Mừng. Nói cách khác, làm Tông Đồ là đem bình an cho môi trường sống và phát sinh bình an trong nội tâm người loan báo. Bởi vì chính Lời Chúa có sức mạnh ban ơn, như Chúa nói: “Mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.” (Is 55,10-11). Do đó thánh Phao-lô quả quyết rằng: “Lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu.” (1Tx 2,13).