Dân Chúa Âu Châu

Mừng xuân với những liên hệ.

Chúa Nhật tuần 4 thường niên – MỒNG HAI TẾT ĐINH DẬU. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ.
"Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta".

Lời Chúa: Lc 1,67-75
Khi ấy, Dacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc tụng Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ. trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa, như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa; để giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta; để tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Người: lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta, rằng: Người cho chúng ta không còn sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù, được phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời chúng ta".

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

SUY NIỆM 1: Mồng hai tết – kính nhớ tổ tiên – Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Truyền thống Dân tộc Việt Nam chúng ta luôn đề cao chữ hiếu. Bởi vì, dù có đi đạo hay không, người Việt Nam từ ngàn xưa đã biết thờ Cha kính Mẹ. Như thế, quả rất thích hợp với điều răn thứ tư trong mười điều răn của Thiên Chúa. Ngày mồng hai tết bao giờ, Giáo Hội cũng dành riêng để kính nhớ ông bà cha mẹ, tổ tiên. Đây là nét son của Giáo Hội.
Vâng, ngay từ khi khởi đầu công cuộc truyền giáo ở đất nước chúng ta, Cha Alexandre de Rhodes đã luôn quan tâm và dạy dỗ con người hãy trung thành, hiếu thảo với Thiên Chúa, với Vua và với Cha mẹ. Đây là giáo lý nói về tam phụ. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, dựng nên con người. Nên, con người phải biết ơn Thiên Chúa, trung thành với Ngài. Cha mẹ thừa lệnh Thiên Chúa sinh ra chúng ta, do đó, chúng ta phải hiếu thảo và trung thành với Cha mẹ. Con người có đất nước, có tổ quốc.Đứng đầu nước là Vua, nên con người phải trung với Vua vv…Đây là đạo lý của con người. Tuy nhiên, lúc đó vì chưa hiểu rõ các địa phương, các đất nước. Giáo Hội đã có những thông tư nghịch lại với nghi lễ Trung Hoa. Nên, một thời gian dài đã có những hiểu lầm và nghi kỵ đối với đạo Công giáo.
Ngày nay, với Công Đồng Vatỉcanô II, Giáo Hội đã có cái nhìn phù hợp với hoàn cảnh, truyền thống của các đất nước, các địa phương. Nên, mọi Kitô hữu đều cảm thấy thoải mái hơn với việc tôn kính tổ tiên vv…Giới răn bốn trong thập giới đã viết:” Hãy tháo kính Cha mẹ “. Điều này rất phù hợp với các đoạn Sách Thánh như Cn 6,20,23abc :” Con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm.Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn, lệnh truyền.Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân “. Hoặc Sách Khải Huyền 14, 13 viết :” Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi, vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi “.
Người công giáo Việt Nam bao giờ cũng có lòng biết ơn và kính nhớ ông bà tổ tiên cha mẹ. Hầu như nhà nào cũng có bàn thờ ông bà tổ tiên với những hoa nến, nhang hương tỏa hương thơm ngát, nghi ngút khói bay…Thật đúng như lời Sách Đức Huấn Ca viết :” Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên, mả đẹp, và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế.Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài, và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen “. Thánh Augustinô cũng viết một đoạn đáng ghi nhớ :” Các ngài thấy, các thế hệ loài người trên mặt đất cũng giống như những chiếc lá trên cành cây, luôn luôn xanh tươi.Trái đất này cũng mang những con người, như cây mang những chiếc lá. Trái đất đầy dẫy những con người kế tiếp nhau, người này chào đời, trong khi người kia vẫy tay giã biệt.Cây không bao giờ cởi bỏ bộ áo màu xanh của mình, nhưng hãy nhìn xuống gốc cây : các ngài đang đạp trên một tấm thảm dầy những chiếc lá khô mục “.Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã khuyên nhủ :” Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa,vì đó là điều phải đạo.Hãy tôn kính cha mẹ…”.
Thảo kính cha mẹ, tôn kính tổ tiên là truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam. Cài bông hồng đỏ trên áo để chứng tỏ cha mẹ còn sống.Đó là cách biểu lộ tình thương đối với cha mẹ, do đó, phụng dưỡng cha mẹ, an ủi cha mẹ là tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Cài bông hồng trắng trên áo để tưởng nhớ cha mẹ đã khuất. Con người nhớ để cầu nguyện, dâng lời kinh, tạ lễ cầu cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã mất là cách tỏ lòng tôn kính, thảo hiếu đối với các bậc sinh thành…
Xin Chúa cho chúng con luôn biết hiếu thảo với ông bà tổ tiên cha mẹ và quyết tâm nối tiếp sự nghiệp của các ngài, để luôn luôn làm rạng rỡ dòng họ và làm rực sáng gia phong.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới,
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu
Cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con,
Và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài.( Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ ).

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao lại phải hiếu thảo đối với Ông bà cha mẹ và tổ tiên ?
2.Chúa dạy sao về hiếu thảo ?
3.Cài bông hồng đỏ trên áo có nghĩa gì ?
4.Cài bông hồng trắng trên áo có ý nghĩa gì ?

SUY NIỆM 2: Mừng xuân với những liên hệ – TGM. Ngô Quang Kiệt
Dịp Tết, ta thường gửi thiệp chúc Tết, thăm viếng và tặng quà cho nhau. Những sinh hoạt ngày Tết như thế là những sinh hoạt của các mối quan hệ. Nếu không có nhưng liên hệ, ngày Tết sẽ mất đi ý nghĩa của nó. Tết là của người khác chứ không phải của riêng mình. Vì thế, đối với trẻ em, Tết là những ngày hội vui. Nhưng đối với người trưởng thành, Tết là một trách nhiệm:
Người ta sống được ở đời là nhờ những liên hệ. Không ai có thể sống một mình. Ta cần có cha mẹ để mặt ở đời. Ta cần có thầy cô để khai thông trí hoá. Ta cần có bạn bè để chia sẻ buồn. Ta cần người nông dân để có lúa gạo, rau trái. Ta cần có thợ may để có quần áo. Ta cần người quét đường để đường phố được sạch sẽ. Có thể tất cả những gì ta có được: từ sự sống đến kiến thức, từ cơm ăn áo mặc đến xe cộ, thuốc men, tất cả đều nhờ người khác.
Những mối liên hệ giống như những con đường chuyên chở đến cho ta những chất liệu nuôi dưỡng cuộc sống. Những mối liên hệ là những mạch máu đem máu đỏ đến tận những tế bào bé nhỏ nhất trong thân thể ta. Những mối liên hệ chính là chiếc tay vịn giúp ta leo lên những bậc thang làm người và thành đạt.
Đời ta có nhiều liên hệ. Có những liên hệ chiều rộng giúp cho cuộc đời thêm tươi đẹp phong phú. Có những liên hệ chiều sâu tạo bản chất cuộc đời. Gia đình với ông bà cha mẹ tổ tiên nằm trong mối liên hệ chiều sâu của đời ta. Không có ông bà cha mẹ tổ tiên, ta không có mặt ở đời. Ông bà cha mẹ là những hạt giống chịu vùi chôn dưới những lớp đất vất vả nhọc nhằn để cho cây đời ta được mọc lên xanh tươi. Ông bà cha mẹ đã tư nguyện quên bản thân mình, chịu mục nát như lớp phân bón cho cây đời chúng ta đơm bông kết trái. Ta là điểm tới của một quá trình phấn đấu gian nan dài đằng đẵng của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời sống ta như một bông hoa thì những bông hoa ấy đã được tưới bằng những giọt mồ hôi và cả những giọt nước mắt của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời ta như một toà nhà cao tầng thì ông bà cha mẹ chính là lớp nền móng chịu vùi chôn dưới lòng đất, còng lưng gánh chịu mọi sức nặng cho toà nhà đứng vững, phô trương vẻ đẹp với đời. Hạt mầm hiện hữu vì bông hoa sắp nở. Nền móng có mặt vì ngôi nhà sắp xây. Trọn một đời ông bà cha mẹ đều dành cho hạnh phúc của con cháu.
Đời sống mỗi người, vì thế, đều có một lịch sử rất dầy và rất sâu. Bề dầy ấy không chỉ đo bằng những trang sách của cuốn gia phả, nhưng còn đo bằng những tranh đời của bao thế hệ tổ tiên. Độ sâu ấy không chỉ đo bằng những cố gắng của bản thân, mà còn đo bằng bề sâu ân nghĩa của biết bao hi sinh vất vả của ông bà cha mẹ.
Ngày Tết là ngày của những mối liên hệ. Mùng Một Tết, chúng ta đã sống mối liên hệ với Chúa, nguồn gốc và cứu cánh của đời ta. Mùng hai Tết, Giáo hội muốn chúng ta sống mối liên hệ với ông bà cha mẹ, những người thay mặt Chúa, trực tiếp ban sự sống cho ta.
Sự sống là món quà nhất nên mối liên hệ với người ban sự sống cũng là mối liên hệ sâu nhất.
Tục lệ lập bàn thờ và kính nhớ tổ tiên trong ngày Tết là một nét văn hoá rất cao của người Việt Nam. Hình ảnh của ông bà cha mẹ trong nhà không chỉ nói lên sự sum họp của một gia đình đầm ấm, hình ảnh ấy còn nhắc ta về lòng biết ơn, cho ta nhìn thấy bề sâu bề dầy của lịch sử đời mình. Và vì thế giúp ta ý thức về trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đối với bản thân, và đối với những thế hệ kế tiếp.
Muốn xây một căn nhà thật cao thật đẹp, trước hết phải xây dựng nền móng vững chắc. Muốn xã hội tiến nhanh tiến mạnh, phải xây dựng gia đình vững chắc. Thờ kính tổ tiên, nhớ ông bà cha mẹ là nền tảng giúp xã hội tiến bộ vững mạnh.
Nếu những mối liên hệ là những con đường chuyển tải sự sống thì những liên hệ chiều sâu chính là những xa lộ huyết mạch. Nếu những mối liên hệ là những mạch máu nuôi dưỡng sự sống thì mối liên hệ chiều sâu chính là những động mạch chủ. Sửa chữa, củng cố và tăng cường những liên hệ gia đình chính là phát triển sự sống, phát triển xã hội.
Chính trong ý hướng đó mà Giáo hội, muốn ta sống tình gia đình, lòng biết ơn ông bà cha mẹ trong ngày mùng Hai Tết.

SUY NIỆM 3: Đạo Hiếu dưới cái nhìn Kitô giáo – Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn

Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Thế đó thật nhẹ nhàng, nhưng từng lời ru của người mẹ Việt Nam đung đưa bên chiếc nôi của đứa con nhỏ, ngày qua ngày đã dần đi sâu vào trái tim, làm nên dòng máu thắm đỏ của những người con, tạo nên trong tâm thức của từng người dân đất Việt một tâm tình thảo hiếu, biết ơn sâu sắc đối với các bậc sinh thành. Các cụ ngày xưa cho là hiếu đứng đầu trăm nết: “Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết, thời suy ra trăm nết đều nên”. Do đó, đối với cái nhìn tự nhiên của mọi người, bất hiếu là một trong những tội lớn nhất và cũng bị mọi người kết án nhiều nhất. Bộ luật Hồng Đức ban hành thời Lê Thánh Tông cũng ghép tội bất hiếu vào trọng tội. Không chỉ con trai, con dâu không thờ cha mẹ chồng cũng bị coi là phạm tội “thất xuất” (Nhất Thanh, Đất lề quê thói, trang 326).
Chính vì thế, vào những ngày Tết, giỗ chạp… trong các gia đình Việt Nam chúng ta, con cái dù có đi làm ăn đâu xa, thì ba ngày Tết cũng cố gắng về nhà để tết cha, tết mẹ. Nếu cha mẹ không còn, thì cũng về để thắp nén hương cầu nguyện cho ông bà cha mẹ. Cùng chung cảm thức đó của dân tộc, Giáo Hội Việt Nam đã dành ngày Mồng Hai Tết này để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Rồi từ đạo hiếu với cha mẹ, Giáo Hội muốn từng người chúng ta tỏ lòng hiếu kính với người Cha cao cả và tuyệt đối hơn, đó là Thiên Chúa.
1. Đạo hiếu, bổn phận hàng đầu của người Kitô hữu:
Truyền thống cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ, anh chị em. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu: Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu”. Hơn nữa, việc thảo kính cha mẹ, xét về mặt tự nhiên, cũng là hợp với lẽ công bằng, bởi vì cha mẹ là người đã có công sinh thành, dưỡng dục giúp ta khôn lớn thành người.
Mặt khác, đối với người kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, chúng ta thấy ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau. Điều đó, cho thấy, việc hiếu thảo với cha mẹ là bổn phận hàng đầu của mỗi người kitô hữu. Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu cũng đã lập lại giới răn này và khẳng định đó chính là ý muốn từ ban đầu của Thiên Chúa và con người không có quyền thay đổi, Ngài nói: “Thiên Chúa dạy: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”. Còn thánh Phaolô thì nói: “Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này”.
Như thế, việc chúng ta thảo kính cha mẹ không còn tùy thuộc vào ý thích cá nhân của chúng ta, nhưng là thánh ý của Thiên Chúa. Được Thánh Thần soi sáng, tác giả sách Huấn ca nhắc nhở chúng ta: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này”. Và vì là ý muốn của Thiên Chúa, nên những ai trung thành tuân giữ việc thảo kính cha mẹ không những là chu toàn bổn phận làm con, nhưng còn được Thiên Chúa chúc phúc. Tác giả Thánh vịnh đã cất lời ca ngợi những ai luôn sống theo đường lối của Thiên Chúa: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may”.
Tóm lại, về mặt tự nhiên, việc hiếu thảo là bổn phận tự nhiên và là dấu chỉ của một con người trưởng thành. Đồng thời, khi sống hiếu thảo cũng là lúc chúng ta chu toàn giới luật của Thiên Chúa và nhờ đó được Ngài chúc lành. Tuy nhiên, trong niềm tin, chúng ta biết rằng tất cả chúng ta: cha mẹ và con cái, đều nhận được sự sống từ nơi Thiên Chúa. Do đó, trong ngày đầu năm kính nhớ tổ tiên, chúng ta cũng cần lưu ý đến bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta sự sống và hết lòng yêu thương chúng ta, như lời Ngài phán qua miệng ngôn sứ Isaia: “Mẹ nào lại quên con đẻ của mình, cạn lòng thương đối với con dạ nó đã mang? Cho dù chúng quên được nữa, thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi! Này: Ta đã khắc ghi ngươi trên bàn tay Ta” (Is 49, 15-16a).
2. Sống trung thành với Thiên Chúa, dấu chỉ của đạo hiếu:
Dưới cái nhìn của đức tin, cha mẹ là những người được Thiên Chúa cho cộng tác vào chương trình sáng tạo của Người. Cha mẹ là những người thay mặt Thiên Chúa để hướng dẫn con cái. Do đó, việc đầu tiên mà các bậc cha mẹ cần làm là giáo dục con cái trung thành với Thiên Chúa theo lời nhắn bảo của thánh Phaolô: “Những người làm cha mẹ,… hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy”.
Giáo dục con cái thánh thiện, trung thành với Thiên Chúa, các bậc cha mẹ sẽ có được một kho tàng quý giá không bao giờ hư mất: “Các ngài sống mãi trong dòng dõi các ngài; gia tài quí báu của các ngài để lại là lũ cháu đàn con”. Đây là điều quan trọng mà chúng ta vẫn thường hay quên. Chúng ta thường la rầy con cháu, nhắc nhở chúng hiếu thảo, vâng lời chúng ta, nhưng lại chẳng bao giờ nhắc chúng về bổn phận với Thiên Chúa. Chắc hẳn với kinh nghiệm sống của mình, quý vị cũng nhận ra rằng: những người nào thật sự trung thành với Thiên Chúa, chắc chắn sẽ hết lòng hiếu thảo với cha mẹ, vì khi họ đến với Thiên Chúa, thì họ sẽ được Thiên Chúa nhắc bảo bổn phận của họ đối với cha mẹ. Còn những người nào quay lưng lại với Thiên Chúa, Đấng ban sự sống cho mình, thì khó mà có lòng hiếu thảo thật với cha mẹ. Cảm nghiệm điều đó, tác giả sách Huấn ca khen ngợi dòng dõi những người trung thành với Thiên Chúa: “Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước, nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các người sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài sẽ được mồ yên mả đẹp, và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế”. Còn tác giả Thánh vịnh thì mô tả: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn”, thật là một khung cảnh ấm êm, hạnh phúc.
Lắng nghe lời Chúa trong những ngày đầu năm này, chớ gì từng người chúng ta một lần nữa ý thức hơn về những hồng ân Thiên Chúa ban cho mình trong một năm qua, để hết lòng tri ân và cảm tạ Ngài. Đồng thời, đây cũng là cơ hội thuận tiện nhắc nhở chúng ta về bổn phận đối với ông bà cha mẹ, những bậc sinh thành ra chúng ta. Việc thảo kính này, không chỉ là một ít lễ vật, một lời cầu chúc trong ngày đầu năm, nhưng cần được kéo dài trong suốt cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Lòng thảo hiếu đó được thể hiện qua cách chúng ta nói năng, xưng hô với cha mẹ. Nó còn được thể hiện qua việc chúng ta vâng lời, chăm nom, săn sóc cho cha mẹ khi còn sống, nhất là khi các ngài già yếu, bệnh tật; và cầu nguyện cho các ngài khi đã qua đời, theo đúng truyền thống của cha ông chúng ta: “Sống tết, chết giỗ”. Amen.

Những mối phúc chỉ đường.
29/01 – Chúa Nhật tuần 4 thường niên năm A.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".

Lời Chúa: Mt 5, 1-12a
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".

CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Xp 2,3 – 3,12-13; 1Cr 1,26-31; Mt 5,1-12a

1. Hạnh phúc
Có thể một lần nào đó, chúng ta đã buột miệng khen là hạnh phúc những kẻ di chuyển trong những chiếc xe bóng loáng, những kẻ ở trong những ngôi biệt thự nguy nga, những người quyền cao chức trọng. Và quả là bất hạnh cho những người nghèo khổ, thiếu thốn mọi sự, những người cô thế bị trù dập.
Thế nhưng những lời tuyên bố của Chúa Giêsu hôm nay, hẳn phải làm chúng ta sửng sốt. Bởi vì những người được Người chúc phúc lại là những người nghèo khổ hiền lành, đau buồn, đói khát và bị bách hại. Phải chăng Chúa Giêsu chỉ là một kẻ mị dân hay là một người lập dị?
Thánh Phaolô trong bài đọc II đã suy nghĩ về thái độ của Chúa Giêsu và đã thốt lên: Những gì người đời cho là điên dại, hèn yếu lại chính là những gì Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu rỗi của Ngài. Xa xưa trong quá khứ, tiên tri Sophonia đã loan báo về sự chở che của Thiên Chúa đối với người hiền lành và khiêm tốn. Những lời chúc phúc của Chúa Giêsu không thể được coi như những lời chúc phúc bình thường theo kiểu chúng ta cầu chúc cho nhau thoát khỏi cơn hoạn nạn. Lời cầu chúc có thể là thành tâm nhưng lại bất lực trong việc biến đổi hoàn cảnh của kẻ khác. Những lời chúc phúc của Chúa Giêsu là những lời tuyên bố, những lời hứa thực hiện, tỏ bày sự chọn lựa của Thiên Chúa, như lời tiên tri Isaia: Thiên Chúa đã xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.
Nghèo khó phải chăng là một thứ công nghiệp đáng được khen thưởng? Không phải vậy, có thể trong ngôn ngữ tôn giáo, chúng ta đã nói nhiều đến thưởng phạt, nhưng Chúa Giêsu lại muốn cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa chọn người nghèo khổ vì chính hoàn cảnh thua thiệt đó đối với Chúa lại là hoàn cảnh thuận lợi để Ngài thi thố lòng yêu thương quảng đại của Ngài.
Điều Thiên Chúa muốn nhắm tới chính là mối liên hệ tình nghĩa giữa Ngài và con người. Ngài muốn cho chúng ta nhận ra rằng chính Ngài là nền tảng hạnh phúc đích thực và bền chắc của con người. Chúa Giêsu không phải chỉ dạy chúng ta một lối sống luân lý để rồi Thiên Chúa sẽ dựa vào việc người ta có sống hay không sống theo mẫu mực luân lý ấy mà thưởng hay phạt. Chúa Giêsu là Đấng trước hết thực hiện chương trình cứu chuộc, công trình giải phóng, đem lại hạnh phúc đích thực cho con người, và con người được mời gọi sống xứng đáng ơn huệ đã được ban cho.
Chúng ta hãy thực thi tinh thần của Chúa để nhờ đó chúng ta xứng đáng lãnh nhận niềm hạnh phúc Chúa đã hứa ban.

2. Khó nghèo.
Phật Thích Ca đã xác quyết trong bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarét bằng câu: Vạn sự vô thường, vạn sự khổ. Nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ đau. Sinh, bệnh, lão, tử. Con người sinh ra để rồi ốm yếu, già lão và cuối cùng là chết chóc. Rõ thật đời là bể khổ mà mỗi người là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện trên đất Palestin, đã tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: Phúc cho ai có tâm hồn khó nghèo, vì Nước Trời là của họ.
Một người bị mang tiếng là bi quan yếm thế, còn người kia thì lại bị coi là không tưởng, lạc quan thái quá. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn. Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ cũng như sức lực để nghiên cứu, suy tư và bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Chúa Giêsu. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh về hai bài giảng đó. Tuy nhiên, chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách tiên tri ấy. Vì thật ra, cả Đức Phật lẫn Chúa Giêsu, đều không chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình.
Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân nhu, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Chúa Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất và sự sống trong cái chết. Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Ngài không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Chúa Giêsu cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó, thánh Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ "có tâm hồn" vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người. Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ cũng như trong thời ở khách sạn năm sao, vẫn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy và ngược đời: nhiều người có đủ điều kiện để hạnh phúc mà thực tế lại đau khổ khôn lường. Còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.
Thực ra, ai cũng biết rằng nghèo không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở tại cái Tâm. Bởi thế các bậc thánh nhân, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Đó chính là lý do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận đau hkổ, yêu thích sự chính trực, thương xót anh em đồng loại, trong sạch và xây dựng hoà bình.
Thực vậy, những đức tính trên đây là những đức tính người nghèo của Thiên Chúa, theo truyền thống Kinh Thánh. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa, biết sống cho Ngài và cho anh em đồng loại. Lấy Chúa làm gia nghiệp và luôn sống trong tình liên đới với anh em. Thực thi điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người.
Nói theo tư tưởng Đông phương, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hoà điệu giữa lòng mình với lòng trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống cho hợp lòng người và lấy lòng trăm họ làm lòng mình.
Trong tám mối phúc thật, Chúa Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.

3. Hãy vui mừng.
(‘Manna’)
Đời sống mỗi người đều có những chỗ khuyết, chỗ hụt, những mất mát, yếu kém không thể bù đắp, nên ở đời có vẻ chẳng ai được hạnh phúc trọn vẹn. Ngay giữa lúc hạnh phúc nhất, cũng có điều làm bận lòng.
Trong bài giảng đầu tiên trên một ngọn núi, Đức Giêsu đã chỉ cho ta bí quyết để có hạnh phúc.
Hạnh phúc thực sự là quà tặng của Thiên Chúa, nhưng con người cần sống tích cực để đón nhận.
Được Nước Trời, được Đất Hứa, được thấy Thiên Chúa, được Ngài ủi an, thương xót, và làm cho no thỏa: những điều đó có nghĩa là sống thân tình với Ngài, được vui hưởng hạnh phúc viên mãn của chính Thiên Chúa.
Chỉ nơi Ngài mới có hạnh phúc trọn vẹn, vững bền.
Con người chỉ có hạnh phúc khi gắn bó với Nguồn cội, với Đấng đã, đang và sẽ ban cho mình tất cả.
Nói cho cùng, người hạnh phúc là người biết mở ra, mở ra với Thiên Chúa và mở ra với tha nhân.
Người có tâm hồn nghèo khó là người thật sự nghèo, chẳng có nhiều của cải hay chỗ đứng trong xã hội. Khi cảm nghiệm nỗi bất lực của mình, họ khiêm tốn mở ra và phó thác cho duy Thiên Chúa. Chính lúc đó họ thấy mình bình an, vững vàng.
Người khao khát trở nên công chính là người mong nên thánh. Nên thánh là sống theo tinh thần của cả Bài Giảng trên Núi. Nỗi khao khát không nguôi làm cho con người lớn lên. Nỗi khao khát đào sâu, để con người chứa được nhiều.
Người sầu khổ về mọi mặt sẽ được hạnh phúc, khi trong cơn đau, họ biết quay về với Thiên Chúa. Phúc cho ai thấy đau khổ của mình có ý nghĩa: đau khổ để đền tội, để phục vụ, để triển nở thiêng liêng. Ngay cả đau khổ vô lý cũng làm ta gần Đấng trên thập giá.
Người bị bách hại, lăng nhục, vu khống là người có phúc. Ngay giữa ngặt nghèo họ vẫn cảm được niềm vui (Cv 5,41), vì họ dám sống và dám chết cho Thầy Giêsu.
Người hiền lành là người có lòng nhân đối với người khác. Họ học gương hiền lành của Thầy Giêsu (Mt 11,29), không lấy oán báo oán khi mình bị xúc phạm (Mt 21,5).
Người có lòng thương xót là người biết mở ra để cảm thông, đau nỗi đau người khác và chia sẻ những gì mình có.
Người có tâm hồn trong sạch là người ngay thẳng, thật thà, không giả hình, nhưng làm với ý hướng trong sáng. Chính sự trong sáng của thân xác và tâm hồn sẽ làm người ấy dễ gặp được khuôn mặt Thiên Chúa.
Người xây dựng hoà bình là người gieo an hoà khắp nơi, trong gia đình, ngoài xã hội và giữa các dân tộc. Họ giải toả những bất đồng, tháo gỡ những tranh chấp. Họ coi mọi người là anh em, con cùng một Cha.
Thời nào con người cũng lao đao đi tìm hạnh phúc.
Phúc cho ai không khép lại để tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết mở ra để sống cho Chúa và tha nhân.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có lần bạn đã sống một trong những mối phúc, và bạn đã có một kinh nghiệm không quên. Xin chia sẻ kinh nghiệm đó.
Bạn nghĩ gì về bạn? Nói chung bạn có phải là một người hạnh phúc không? Điều gì làm bạn đau khổ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi. Dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người - cũng như con - đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.

4. Nẻo về hạnh phúc
(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Thi đàn Trung Quốc từ cổ chí kim nổi lên một tên tuổi lớn, đó là nhà thơ Lý Bạch, thời Thịnh Đường (701 - 762). Ông tự xem mình như tiên ông bị lưu đày xuống thế. Ông ưa sống kiếp lãng du, say mê vẻ đẹp đất trời, vẻ đẹp sông núi, trăng sao...
Theo truyền tụng nhân gian, vào một đêm trăng tỏ, Lý Bạch buông thuyền xuôi theo giòng sông Thái Trạch lấp lánh ánh trăng đêm. Ông đàn hát ngâm vịnh và uống rượu thưởng thức trăng.
Càng về khuya, men rượu nồng bốc lên càng làm ngây ngất lòng thi sĩ. Sông nước, cảnh vật lúc ấy càng huyền ảo nên thơ. Thi nhân cảm thấy mình như đang lạc vào bồng lai tiên cảnh. Mảnh trăng diệu huyền in hình dưới làn nước lung linh như đang gọi mời ông tao ngộ.
Trong hơi men chếnh choáng, ông nhoài mình qua mạn thuyền, cúi thật sâu xuống nước để ôm lấy vầng trăng mà ông say đắm lâu nay.
Than ôi! Ông đã bỏ hình bắt bóng và giòng sông oan nghiệt đã kết liễu đời ông.
Trên cao, vầng trăng thật như đang mỉm cười chế giễu ông.
Câu chuyện của nhà thơ họ Lý cũng là câu chuyện thời sự của thế kỷ chúng ta. Nhân loại hôm nay đang kêu gào hạnh phúc, đang khao khát kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng họ đâu biết rằng Thiên Chúa là Cội Nguồn của hạnh phúc.
Một vầng trăng thật in thành hàng tỷ bóng trăng trên các ao hồ khe suối.
Một Cội Nguồn Hạnh Phúc (là Thiên Chúa) toả xuống vô vàn mảnh vụn hạnh phúc trong các sự vật phù du ở đời.
Thay vì tìm về Cội Nguồn hạnh phúc là Thiên Chúa, người ta dại dột đâm đầu vào những chiếc bóng của hạnh phúc nơi những tạo vật chóng tàn.
Quả thế, người ta tưởng hạnh phúc nằm nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất... rồi người ta đâm đầu vào đó như những những con thiêu thân lao vào lửa, như Lý Bạch nhào xuống nước tìm trăng.
Thiên Chúa là Cội Nguồn hạnh phúc, Thiên Chúa là nguồn mạch của hoan lạc và an bình, Thiên Chúa là Tình Yêu.
Tất cả những ai đang khao khát tình yêu, an bình, hạnh phúc là đang khao khát Chúa.
Nhưng tiếc thay, người ta đã bỏ hình bắt bóng. Người ta săn đuổi ảo ảnh của hạnh phúc mà không chịu tìm đến cội nguồn hạnh phúc là Chúa Cả trên trời.
Thời thanh xuân, Augustino là con người khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt. Anh bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn chương và triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian... nhưng Anh đã thất vọng ê chề và cảm thấy tâm hồn chất đầy sầu đau khắc khoải. Mãi đến năm ba mươi tuổi, Augustino mới cảm thấy tất cả những gì Anh đạt được chỉ là ảo ảnh của hạnh phúc, chẳng khác chi bóng trăng in hình đáy nước và chỉ có Thiên Chúa mới là 'Vầng Trăng' thật, là Hạnh Phúc thật mà thôi. Bấy giờ, với tâm hồn tràn đầy hoan lạc, Augustino thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài nên hồn con thổn thức khôn nguôi cho đến khi được an nghỉ trong Ngài".
Thiên Chúa mới là nguồn Hạnh Phúc đích thật mà loài người luôn vươn tới, luôn khát khao. Chính Thiên Chúa đã đặt vào cõi lòng mỗi người chúng ta một khát vọng vô biên hướng về hạnh phúc mà không gì trên đời nầy có thể khoả lấp được và để lòng khao khát đó luôn thôi thúc chúng ta kiếm tìm, kiếm tìm không mệt mỏi cho đến khi gặp được Ngài là Hạnh Phúc đích thật.
Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta tám nẻo đường đưa nhân loại về cội nguồn hạnh phúc mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Ai bước theo tám nẻo đường nầy chắc chắn sẽ đi đến Cội Nguồn Hạnh Phúc là Thiên Chúa, là Nước Trời, là Đất hứa:
* Tinh thần nghèo khó: biết nhận ra sự nghèo nàn của nội tâm mình, nhận biết rằng mình không là gì cả, tất cả những gì ta có là của Chúa ban...
* Cư xử hiền lành, biết nhường biết nhịn và mềm mỏng với mọi người...
* Chấp nhận sầu khổ hơn là gây khổ đau cho người khác...
* Khao khát trở nên người công chính,
* Đầy lòng xót thương, đối xử nhân ái với mọi người...
* Tâm hồn trong sạch, không chất chứa điều tà, điều gian ác, điều bất công...
* Chung tay xây dựng hoà bình, sống hoà thuận với mọi người cũng như làm cho mọi người hoà thuận với nhau...
* Sẵn lòng chịu bách hại vì sống công chính thanh liêm...
Nẻo về Hạnh Phúc đã rộng mở.
Bí quyết vào Nước Trời đã được giải bày.
Vấn đề còn lại là chúng ta hôm nay có đủ khôn ngoan và bản lãnh để chọn cho mình con đường mà Chúa đã đề nghị với chúng ta hay không.

5. Hạnh phúc khi trao ban
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Khi nhìn về kiếp nhân sinh, với những thăng trầm nổi trôi của đời người, đầy những đau khổ, bất hạnh lầm than, đại văn hào Nguyễn Du đã nói rằng:
"Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"
Có người còn bi quan bảo rằng:
"Đời vui sao chẳng thấy cười -
Sinh ra chẳng cười lại khóc oe oe".
Phần nhiều trong văn học, thơ ca hay kịch nghệ, người ta đã thành công khi khai thác chủ đề bất hạnh của đời người: cái đói, cái nghèo, cái khổ đau của bệnh tật, cái khổ đau của bất công và áp bức đã gây nên biết bao nỗi oan khiên, bất trắc cho thân phận con người. Những bất hạnh mà ta thường gặp không chỉ đổ xuống trên những thân phận nghèo đói, túng thiếu mà còn đổ xuống trên những kẻ có tiền, có của, có địa vị nhưng lại không tìm được hạnh phúc ở trong cuộc sống của mình. Dang vọng, tiền tài xem ra cũng không quý bằng hạnh phúc ở trong đời sống hằng ngày. Cuộc đời không có hạnh phúc là cuộc đời bất hạnh tựa như cây xanh thiếu lá nên trơ trụi và cằn khô. Vì "Cây xanh thiếu lá nó cũng trơ trơ - Biết mình thế này thà đừng sinh ra". Vì sống là đi tìm hạnh phúc. Sống mà không có hạnh phúc thì cuộc đời như đã mất. Hạnh phúc là nỗi khao khát, là niềm ước mơ của mọi người. Từ những em bé bán vé số, đánh giầy, thu lượm ve chai cho đến những em sinh ra trong một gia đình giầu sang vẫn mang trong mình một khao khát được hạnh phúc. Từ những người quyền thế, giầu có lắm kẻ đón người đưa đến những con người xấu số bị bỏ rơi, khinh bỉ bên lề đường vẫn ao ước một khung trời hạnh phúc cho riêng mình.
Tựa như cuộc đời có nhiều nẻo đường khác nhau thì hạnh phúc cũng có nhiều cách khác nhau. Có hạnh phúc của người mẹ vừa sinh con, dù rằng bà phải chịu nhiều đau đớn thể xác. Có hạnh phúc của những người làm cha làm mẹ khi nhìn thấy những đứa con lớn khôn từng ngày, dù phải cơ cực lầm than, hay mưa nắng dãi dầu nơi nương rẫy, phố chợ. Có hạnh phúc của những con người đang quên mình vì tha nhân, vì bạn bè, dù rằng phải mang tiếng nợ đời "Ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng". Có hạnh phúc của những đôi vợ chồng trẻ đang yêu nhau nơi túp lều tranh, dù rằng phải chịu cảnh đói khổ cơ hàn nhưng vẫn tha thiết yêu nhau: "Tay bưng bát muối chấm gừng - Gừng cay muối mặn xin đừng xa nhau". Thực vậy, có nhiều người vẫn chủ trương rằng: sống có ích cho tha nhân mới là cuộc đời đáng yêu, đáng sống. Có lẽ ở đời, chẳng ai thích đau khổ nhưng nhiều người vẫn chấp nhận bước vào khổ đau, vì đó chính là phương thế để đem lại hạnh phúc cho người mình yêu.
Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một phương thức để đạt được hạnh phúc. Con đường hạnh phúc của người môn đệ Chúa không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp của sự hy sinh, của quảng đại dấn thân vì lợi ích của tha nhân. Vì phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, có tấm lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, giữ lòng trong sạch, và biết xây dựng hoà bình.
Như vậy, hạnh phúc của người môn đệ không hệ tại ở những cái mình có mà ở những cái mình dám từ bỏ vì Chúa và vì tha nhân. Vì Chúa mà ta từ bỏ mọi thứ tham lam, ích kỷ và bất chính để ta sống thanh thoát khỏi những đam mê của cải và lạc thú. Vì Chúa mà ta bỏ đi cái tôi ghen tương, nóng giận, để gìn giữ sự hoà thuận với những người mà chúng ta đang sống. Vì Chúa mà chúng ta dấn thân cho công lý được triển nở, cho hoa bác ái được toả hương, cho an bình được ngự trị. Vì Chúa mà chúng ta xả thân giúp người giúp đời mà không cần so đo tính toán thiệt hơn. Từ bỏ chính mình để ta hướng tới tha nhân. Có từ bỏ chính mình thì ta mới nghĩ tới thiện ích của tha nhân. Từ bỏ những quyền lợi, những nhu cầu của bản thân để chúng ta trao hiến những điều tốt đẹp nhất cho tha nhân.
Người ta bảo rằng ở bên Palestina có hai biển hồ là Biển Chết và biển hồ Galilêa, cả hai biển hồ này đều đón nhận nguồn nước từ sông Jordan. Thế nhưng, nơi Biển Chết thì không có một sự sống nào có thể tồn tại. Vì Biển chết đón nhận nhưng không trao ban, nó giữ lại cho riêng mình, nên nguồn nước trở thành mặn chát và độc hại. Ngược lại, tại biển hồ Galilêa cũng đón nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muôn thú và con người.
Đời người cũng tựa như biển hồ, nếu chỉ biết giữ riêng cho mình tất cả mọi sự nhận được từ Thiên Chúa. Sự sống trong họ rồi cũng chết dần chết mòn như nước trong lòng Biển chết. Thật hạnh phúc cho ai biết trao ban. Cuộc sống sẽ mãi lan toả và dồi dào sức sống như biển hồ Galilêa. Vì ai có thì được cho thêm, và vì chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen.

6. Mối phúc thật
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Khi nghe bài “Phúc Thật Tám Mối” trên đây, nhiều người ngạc nhiên sửng sốt. Những hạnh phúc Chúa hứa ban sao quá khác với những quan niệm về hạnh phúc mà ta thường có. Người ta ai cũng mong có nhiều của cải, làm ăn phát tài. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho người nghèo”. Người ta ai cũng mong được khôn ngoan, được có uy quyền, được người khác nể phục. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho người hiền lành”. Người ta ai cũng mong được an bình, sống thoải mái, vô lo. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho các con khi các con bị bắt bớ”.
Chúng ta ngạc nhiên, không hiểu Lời Chúa, vì chúng ta có quan niệm sai lầm về hạnh phúc và về đạo.
1) Về hạnh phúc, chúng ta thường tưởng lầm rằng cứ có tiền bạc, có địa vị, có tình yêu là có hạnh phúc. Nhưng không phải như vậy. Không thiếu những người giàu tiền bạc, có địa vị cao, nhưng luôn bất hạnh.
Marilyn Monroe, nữ minh tinh thần thoại của thế giới phim ảnh là người có sắc đẹp mê hồn, được mọi người tôn thờ, và chắc chắn không thiếu tiền bạc. Thế mà nàng phải sống cuộc đời cô đơn buồn thảm. Sau cùng phải tự kết liễu đời mình trong buồn tủi, lo âu. Giờ nhắm mắt không có một người yêu bên cạnh.
Ngày nay xuất hiện nhiều “Tây ba lô”, những người nước ngoài ăn mặc thô sơ, vai đeo ba lô, đi gặp gì cũng ăn, ngủ bờ ngủ bụi. Tại sao họ không chọn ăn mặc chải chuốt, ngủ nghỉ trên chăn êm nệm ấm trong những khách sạn sang trọng? Thưa vì họ thích đơn sơ, thích khổ cực, thích phấn đấu, thích sống với thiên nhiên. Đó là hạnh phúc của họ.
Tiền bạc, tiện nghi, danh vọng, địa vị, tình yêu chắc chắn làm cho đời sống dễ chịu hơn. Nhưng vẫn chưa phải là hạnh phúc đích thực.
2) Về đạo, chúng ta lầm tưởng rằng điều cốt yếu của đạo là giáo lý. Thưa không phải như thế. Đi đạo không phải là đi theo một giáo lý. Đi đạo là đi theo một người. Điều cốt yếu của đạo là gặp được Chúa. Giáo lý chỉ là phương tiện giúp ta gặp được Chúa. Chúa mới là đích của đời ta. Chúa chính là hạnh phúc đích thực. Gặp được Chúa rồi, linh hồn ta sẽ toại nguyện, không còn mơ ước điều gì khác.
Thánh Augustinô khi còn tuổi trẻ đã chạy theo dục vọng, đi tìm lạc thú trong những buổi ăn chơi trác táng, những cuộc tình đắm mê. Ngài đã bỏ đạo, đi theo bè rối, nhưng chẳng thấy mãn nguyện. Một hôm nghe thánh Ambrôsiô giảng, Ngài đã được ơn thống hối ăn năn. Ngài trở về với Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa rồi, ngài đã thốt lên một lời bất hủ: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.
Hiểu như thế rồi ta sẽ thấy Tám Mối Phúc Thật không có gì bí ẩn. Đó chính là tám nét vẽ nên chân dung Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa vô cùng giàu sang đã tự nguyện sống cuộc sống của một người nghèo. Sinh ra không nhà. Sống không nhà. Chết cũng không nhà.
Chúa Giêsu đầy quyền năng. Người đã chế ngự được sóng gió, xua đuổi ma quỷ, lại sống rất hiền lành khiêm nhường. Bị kết án oan ức, bị hành hạ, bị sỉ nhục, bị giết chết, Người vẫn im lặng chấp nhận.
Chúa Giêsu có một trái tim xót thương, sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi, sẵn sàng giúp đỡ người hoạn nạn, cứu chữa người tật nguyền.
Chúa Giêsu đem đến cho ta niềm bình an, hoà giải ta với Thiên Chúa và với nhau.
Chúa Giêsu đã bị bắt bớ, giết chết vì rao giảng Tin Mừng.
Tám mối phúc chính là con đường Chúa đã đi qua. Là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu. Đi vào con đường ấy, ta chắc chắn gặp được Người. Sống theo con đường ấy, ta trở nên giống như Người. Hoà tan mình vào con đường ấy, ta sẽ trở nên một với Người. Khi ta từ bỏ hoàn toàn ý riêng, để Người hoàn toàn chiếm đoạt, ta sẽ đạt tới hạnh phúc, hạnh phúc đích thực, hạnh phúc viên mãn, hạnh phúc vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn con theo đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đối với bạn, hạnh phúc là gì?
2) Có bao giờ bạn cảm được niềm vui khi sống trong những mối phúc mà Chúa Giêsu loan báo chưa? Nếu có, xin chia sẻ với anh chị em.
3) Những đau khổ của bạn thường do những nguyên nhân nào?

7. Sống cuộc đời thành tựu.
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Danh từ “hạnh phúc” (dùng trong Phúc Âm hôm nay) phải hiểu là sự thành công cuối cùng của con người khi nó được đặt trong tình nghĩa với Chúa. Nói thành công, không những là nói về bình diện những khát vọng tự nhiên của trí khôn và cõi lòng, song còn về bình diện những khả năng mới mẻ mà con người nhận được khi được nâng lên trạng thái siêu nhiên. Sống bất diệt là một ước vọng tự nhiên; thấy Thiên Chúa là một ân huệ siêu nhiên. Đừng quên cái viễn tượng hạnh phúc cuối cùng trong Chúa, khi đọc Bài Giảng Trên Núi, bài Tám Mối Phúc Thật. Nếu các ‘mối phúc’ bị giản lược vào bình diện tự nhiên (chiều ngang ta sẽ không thể hiểu nổi nữa).
Nếu hướng về Nước Trời, chúng trở thành tuyệt diệu. Trong các bản văn của Cựu Ước nói về Đấng Cứu Thế, những kẻ xấu số đều được ưu ái, vì nỗi nghèo khổ và hèn mọn của họ khiến họ cởi mở đón nhận Thiên Chúa. Trong Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu mô tả một thái độ nội tâm và một hoàn cảnh bên ngoài, tự nó đã làm cho Chúa thương tình, ta hãy ghi lại một vài nhận xét về tuyệt tác này.
1) Các ‘mối phúc’ bắt nguồn từ Thiên Chúa song chúng không bao hàm sự thiếu tin tưởng ở con người, mà là vượt khỏi con người. Có nghĩa là Chúa xem con người có khả năng sống tốt lành, công chính, trong sạch và an hòa. Người chỉ vẽ cho biết phải dùng phương tiện nào và đâu là chỗ chúng được hoàn thành. Phương tiện nằm ở điểm này là người môn đệ Đức Kitô sống trong mối liên lạc với Chúa mình. Đó là ý nghĩa của mấy tiếng ‘vì Ta’. Sự thành tựu được thực hiện đầy đủ ‘trên trời’. Vậy các mối phúc là một niềm hạnh phúc bắt đầu dưới trần gian trong nỗ lực đau đớn và hoàn thành trên trời trong sự chiếm hữu trọn vẹn. Ngay trên thế gian này trong mối liên lạc với Đức Kitô, con người phải khởi sự dùng các phương tiện để xây dựng niềm vui bất diệt của mình.
2) Trong các mối phúc, thì sứ điệp nào đang cần thiết nhất cho thời đại ta? Các mối phúc làm thành một toàn thể, không thể coi thường một mối nào mà không làm hại đến tất cả. Ngược lại, tha thiết với một mối là tha thiết với tất cả.
Có lẽ trước não trạng hiện đại, ta có quyền lưu tâm cách riêng đến lòng trong sạch. Đây không phải là sự ‘vắng mặt’ của tội lỗi mà thôi nhưng còn là một phẩm chất của trí tuệ, linh hồn và con tim. Đây nói đến sự ngay thẳng, sự thành thực ở trình độ trí tuệ. Trí khôn trong trắng thì không tự xây dựng nên một hệ thống tư tưởng nào để rồi đặt nó vào giữa mình và thực tại. Các hệ thống duy tâm đều không tinh ròng. Ví dụ thuyết duy khoa học, thuyết mác-xít.
Tấm lòng trong sạch chỉ sự trong sáng của cái nhìn nội tâm, cái nhìn làm cho ta khám phá ra Thiên Chúa trong mình và trong các tạo vật. Muốn thế, phải nỗ lực xây dựng sự trong trắng luân lý và nhất là phải có ý chí hiến thân mình cho Chúa trong sự đơn sơ của đức tin và tình yêu. Cõi lòng trong trắng gặp thấy khắp nơi và trong mọi sự chính Đấng mà tình yêu nó tìm kiếm. Ta nên biết nhìn Chúa khắp nơi, trong các biến cố và ngay trong một thế giới mà ta tuyên bố là hư hỏng, nhưng được Thiên Chúa cứu vớt.

8. Mối phúc thứ nhất.
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Người đàn ông chán đời đứng nhìn xuống giòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông ta đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời bất hạnh không còn lối thoát nào nữa. Ông ta đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường. Ông đã đi đây đi đó, đã tìm lạc thú trong những cuộc vui chơi, đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng nỗi chán chường càng thêm chất ngất.
Ông ta thử thời vận lần cuối bằng một cuộc hôn nhân. Nhưng không có người đàn bà nào ở với ông được vài tháng. Ông ta đòi hỏi quá nhiều, mà lại chẳng biết nghĩ đến ai cả. Ông ta nhận ra rằng ông đã chán chường và chẳng ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có giòng sông may ra mới đem lại cho ông sự thanh thoát.
Ông ta chưa kịp hút xong điếu thuốc thì thấy có người hành khất đi qua cầu. Con người rách rưới đó đứng nhìn ông và đưa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán đời không ngần ngại rút cả ví tiền trao cho người hành khất và bảo:
- Thôi, ông cầm lấy cả đi. Tôi đâu cần tiền làm chi nữa.
Người hành khất cầm lấy chiếc ví, nhìn thẳng vào mắt kẻ chán đời và nói với giọng vừa ôn tồn vừa nghiêm nghị:
- Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế này. Tuy là một người đi xin ăn, nhưng tôi không phải là kẻ hèn nhát. Tôi cũng không muốn nhận tiền của một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ ví tiền mà đem qua thế giới bên kia với ông.
Nói xong, người hành khất ném cái ví xuống giòng nước rồi lặng lẽ bỏ đi, để mặc kẻ chán đời với nỗi đắng cay chua xót đang gặm nhấm cõi lòng.
Đã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn chưa muốn kết liễu đời mình. Ông ta nhìn theo người hành khất đang từ từ mất dạng. Tự nhiên, ông ta không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt ví tiền trao tặng lại cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông ta biết trao tặng cho ai bất cứ điều gì. Giờ phút này, ông ta muốn mở rộng tâm hồn, giang rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống.

Anh chị em thân mến,
Không gì buồn chán cho cho bằng một cuộc đời không định hướng. Không gì bất hạnh cho bằng một tâm hồn ích kỷ, chỉ biết lo lắng tích góp cho riêng mình. Niềm vui sống chỉ có được khi ta hướng đời mình tới một cùng đích cao cả: Nước Trời hay Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đến để đem lại cho con người hạnh phúc và hạnh phúc ngay ở trên đời này. Dĩ nhiên, hạnh phúc không có nghĩa là không có đau khổ. Cho dẫu có đau khổ, nhưng cuộc sống vẫn có ý nghĩa và đáng sống nhờ niềm tin của con người vào tình yêu Thiên Chúa. Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã trải qua rất nhiều đau khổ. Ngài bị chống đố, bị khước từ, và cuối cùng bị treo trên thập giá. Thế nhưng, Ngài hẳn là một con người hạnh phúc thực sự mới có thể tuyên bố: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó… Phúc cho những ai đau khổ, bị ngược đãi…”.
Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con người ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời khách sạn năm sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tối tăm, lại tràn trề hạnh phúc.
Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó không đương nhiên là khổ. Đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái tâm, ở tâm hồn. Bởi vậy, mối phúc thứ nhất, theo Thánh Matthêu, bao gồm các mối phúc khác là “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó”. Các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Chính đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền lành, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sực chính trực, thương xót người đồng loại, trong sạch và biết xây dựng hoà bình. Thật ra tất cả những đức tính đó là đức tính của “người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê), của một “Anawim” theo truyền thống Kinh Thánh. “Người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê) không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người.
Như thế, Chúa Giêsu xác nhận “Người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê) như ngôn sứ Sôphônia rao giảng (Bđ. 1) mới thật là người có phúc, là người may mắn, vì chính (Giavê) Thiên Chúa sẽ là hạnh phúc của họ. Nói chung, tám mối phúc thật xét theo nội dung cũng chỉ là mối phúc duy nhất: “Phúc cho những người sống tinh thần nghèo khó”.
Thưa anh chị em,
Ai trong chúng ta cũng khao khát tiền của, danh vọng, quyền thế. Chúng ta chạy theo những thứ ấy như một chiếc bóng, vì chúng không bao giờ thoả mãn được nỗi khao khát hạnh phúc vô biên trong tâm hồn chúng ta. Chúa Giêsu đến cho chúng ta biết ai là kẻ hạnh phúc đích thực trên trần gian. Đó không phải là những người giàu sang, tỷ phủ, siêu sao nổi tiếng, những nhà lãnh tụ chinh phục thế giới, những đại thiên tài… Nhưng là các kẻ nghèo khó, khiêm nhu, chính trực, nhân ái, xây dựng hoà bình và chịu bách hại vì đức tin. Tiêu chuẩn của người đời. Nói cho cùng, tám mối phúc thật đều quy về một mối: Phúc cho ai sống như Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là người trước tiên đã sống tám mối phúc này trong cuộc đời của Ngài: chẳng ai từ bỏ bản thân bằng Ngài, hiểu rõ nỗi khốn cùng của loài người, rộng lòng thương xót, thực thi thánh ý Thiên Chúa, ngay thẳng và đơn sơ, xây dựng hoà bình và cam chịu bách hại cho bằng Ngài. Vì thế, Ngài có thể nói vào lúc cuối đời: “Lạy Cha, chớ gì niềm vui của con được tràn đầy nơi chúng, để niềm vui của chúng nên trọn vẹn” (Ga 17,13). Và kết thúc bài giảng tám mối phúc, Ngài nói: “Anh em hãy hân hoan vui mừng, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời rất lớn lao”.
Vậy, anh chị em thân mến,
Ngay từ cuộc sống này, người tín hữu chúng ta phải tự nhận mình là những người hạnh phúc nhất. Mặc dù đang phải vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, đang cố gắng để tha thức cho những người bách hại mình, chúng ta hãy vui sướng để nhận ra mình là người có phúc, chúng ta hãy vui mừng, vì chúng ta đang đi lại từng bước của Chúa Giêsu Kitô. Và như thế thì chắc chắn “Nước Trời sẽ thuộc về chúng ta”.

9. Hạnh Phúc là Tình Yêu và là Sự Sống
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Là con người, ai cũng mong muốn hạnh phúc và nỗ lực đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là khát vọng ngàn đời của mỗi người. Khi con người chiều theo cơn cám dỗ của loài rắn, đó chính là lúc hạt mầm hạnh phúc không còn đủ "thiên thời địa lợi" để đơm hoa kết trái. Bất hạnh và gian dối theo về, ùa vào cuộc đời, chảy xuôi dòng lịch sử. Con người bắt đầu dệt những ước mơ, chắt chiu từng kỷ niệm, hồi tưởng về quá khứ, một quá khứ in đầy dấu chân hạnh phúc. Vậy hạnh phúc là gì giữa đa đoan và trắc trở, giữa bền vững và mong manh, giữa ích kỷ và bao dung?
1. Quan niệm về hạnh phúc.
Có người cho rằng hạnh phúc là có thật nhiều tiền của, nhiều vàng bạc, lúa thóc đầy kho; hạnh phúc là quyền lực, địa vị danh vọng. Có người nghĩ hạnh phúc là có nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con thơ, ruộng vườn thẳng cánh cò bay. Có người lại quan niệm hạnh phúc là sức khoẻ, là sự bình an thư thái của tâm hồn; hạnh phúc là sự hoà hợp giữa thể xác và tâm hồn, giữa cá nhân và cộng đồng xã hội, giữa cái tôi và vũ trụ bao la.
Theo truyền thống Ấn Giáo, hạnh phúc là Sukha, đó là trạng thái giống như một bánh xe mà trong đó mọi sự đều ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hoà hợp với các thành phần khác do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là Dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.
Tần Thuỷ Hoàng cho xây vạn lý trường thành, sai người đi tìm thuốc trường sinh bất tử để mong thoả ước mơ được hạnh phúc, được sống bất tử. Với Nhà văn Philippe Delerm, hạnh phúc là điều thật đơn giản, là tổng cộng các niềm vui nhỏ gộp lại. Năm phút nằm dài trên bãi cỏ xanh nhìn mây trời lãng đãng trôi, hớp ngụm bia ngon, thưởng thức một bản nhạc hay...đều có thể làm hưng phấn, tạo được niềm vui hạnh phúc. Kim Thánh Thán, nhà phê bình Trung Hoa đã từng có 33 phút vui tinh thần mà ông cho đó là phút giây thực sung sướng trong đời. Thú vui đó là thưởng thức thiên nhiên, dưới ánh trăng non, tay bầu rượu túi thơ, cùng bạn hữu trao đổi kinh sử văn thơ, cùng uống trà để quên đi sự huyên náo của phồn hoa, lòng thấy thanh thản (x. Quan niệm về hạnh phúc, Nội san chia sẻ, số 23).
Theo Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc: Hạnh phúc là niềm vui, khi người ta vui thì hạnh phúc, khi người ta hạnh phúc thì người ta vui. Rất đơn sơ, rất dễ hiểu. Niềm vui là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Hạnh phúc là niềm vui của mỗi người và mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Những niềm vui làm thành cuộc đời. Niềm vui làm cho mỗi tâm hồn trở nên ấm cúng. Niềm vui chỉ thực sự có khi có tình yêu. Khi không có tình yêu thì không có niềm vui thực sự. Và đặc biệt khi có tình yêu không ngừng được tình yêu của Thiên Chúa tiếp sức thì con ngươì ta lúc nào cũng có thể rạng rỡ tươi cười, mặc dù có khó khăn mặc dù có đau khổ, gương mặt luôn biểu lộ hạnh phúc bởi vì lúc nào trái tim cũng dào dạt yêu thương. (x.Bài giảng tại Nhà thờ Hạnh Thông Tây, Lễ Thánh Gia, 125 gia đình mừng kỷ niệm hôn phối, mp3, http://tgpsaigon.org).
Đối với nhạc sĩ Trần Tiến: "Hạnh phúc quá đơn sơ, đời tôi đâu có ngờ" (Lời bài ca: Mặt trời bé con). Hạnh phúc quá đơn sơ. Chỉ có con người phức tạp hóa hạnh phúc khi mơ tưởng đứng vào hàng ngũ những kẻ giàu sang phú qúy và danh giá nhất. Cuộc chạy đua tranh dành tiền tài, danh lợi, lạc thú làm người ta bất hạnh. Tham sân si chẳng bao giờ để người ta có được một giây phút hạnh phúc thật sự.
Có muôn lối nhìn về hạnh phúc tuỳ theo quan niệm mỗi người.
2. Đi tìm về hạnh phúc.
Hạnh phúc không như bông hoa có thể dễ dàng hái được ở bên đường, không giống như chiếc áo, chiếc xe đạp hay cái nhà có thể vẽ ra thành hình hài màu sắc có thể mua bán. Hạnh phúc là điều cảm thấy được trong tâm hồn, nó thuộc chiều sâu cõi lòng tuỳ thuộc thái độ sống đối với cuộc đời. Con người phải ra công chăm sóc vun trồng thì cây hạnh phúc mới đơm hoa kết trái.
Hạnh phúc chính là khát khao được sống, được hiện diện, được yêu thương. Đi tìm hạnh phúc cũng là đi tìm sự sống. Sống là tồn tại, có tồn tại mới có yêu thương, có tương quan, có sinh trưởng. Đi tìm hạnh phúc cũng như đi tìm tình yêu. Khi người ta yêu nhau, mọi sự đều trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp: "yêu nhau yêu cả đường đi; yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng; yêu nhau mấy núi cũng trèo mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua". Hạnh phúc là tình yêu. Tình yêu nối dài những ước mơ, ước mơ thường hướng con người về hạnh phúc.
Hạnh phúc chính là sự sống và là tình yêu. Tình yêu và sự sống như đôi cánh đưa con người bay vào khung trời hạnh phúc.
3. Tám mối phúc thật.
Đức Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarêch bằng câu: "Vạn sự vô thường vạn sự thường", nghĩa là mọi sự thay đổi không ngừng nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh lão bệnh tử, con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật và cuối cùng là phải chết. Đời là bể khổ, muốn có hạnh phúc, ra khỏi bể khổ, cần diệt lòng tham sân si. Khổ diệt lòng tham muốn mới thoát khỏi bến mê, khỏi u minh chốn hồng trần.
Đức Kitô trên "Núi Bát Phúc" đã thuyết giảng điệp ca hạnh phúc "Tám mối phúc thật": Phúc cho ai... (Mt 5, 1-12).
Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Đức Phật coi đời là bể khổ. Đức Giêsu nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch của tâm hồn nghèo khó .
Lm Thiện Cẩm đã nhận định rằng: Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời gian, sức lực để nghiên cứu suy tư bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu. Tuy nhiên, có lẽ chẳng mấy ai hiểu chính xác nội dung ý nghĩa hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra cả Đức Phật và Đức Giêsu đều không chú ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Đức Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được cái tồn tại trong cái mất mát, thấy được sự sống trong cái chết.
Điệp ca trên núi của Chúa Giêsu đã trở thành Hiến Chương Nước Trời: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho ai hiền lành. Phúc cho ai... điệp ca vang vọng mãi ở trên núi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho các môn đệ và cho nhân loại qua muôn thế hệ.
Tất cả Tám Mối Phúc đều có hai vế: vế thứ nhất là nhân, vế thứ hai là quả;vế thứ nhất là gieo, vế thứ hai là gặt; vế thứ nhất là mình vì người khác, vế thứ hai là người khác vì mình;vế thứ nhất là đau khổ, vế thứ hai là hạnh phúc. Các mệnh đề trong vế một phải hiểu ngầm là vì Chúa, vì tha nhân, nghèo vì tha nhân, hiền lành đau khổ vì tha nhân. Nếu không do tự nguyện vì Chúa, vì tha nhân thì sự nghèo, sự hiền lành, sự đau khổ, bách hại ta phải chịu đều là đau khổ chứ không phải là phúc đức. Chẳng hạn, mối phúc thứ nhất là nghèo vì người khác, sống nghèo cho người khác thì mới là phúc thật, còn sống nghèo để dành dụm tiền của ngày càng nhiều thì đó là trọc phú, là hà tiện chứ không phải là sống nghèo theo Tin mừng. Cái nghèo mà Đức Giêsu nói đến là nghèo vì yêu thương tha nhân. Nghèo vì cho đi vì muốn làm lợi ích cho người khác thì cái nghèo đó mới gọi là Đức Khó Nghèo. Vì thế giữa Đức Khó Nghèo và Đức Bác Ai có tương quan với nhau. Khó nghèo để bác ái, khó nghèo mà không bác ái thì trở thành hà tiện, hà tiện là một trong bảy mối tội đầu. Vì thế tâm hồn nghèo khó của Tin Mừng là tâm hồn sẵn sàng chấp nhận mất mát thời giờ, vật chất, sức lực, của cải, tài năng vì yêu thương tha nhân, vì mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Một người có tinh thần phục vụ cao, dám hy sinh cho người khác, chắc chắn người đó sẽ được mọi người quý trọng, yêu mến, được tín nhiệm, được giao những trọng trách. Một người như vậy thì Nước Trời trong lòng họ, tinh thần họ luôn bình an, hạnh phúc, tràn đầy niềm vui vì sống cho hạnh phúc của người khác.
Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy, những người ích kỷ suốt ngày chỉ nghỉ tới mình, tới hạnh phúc hay nổi đau của mình đều là những người đau khổ nhất. Còn những người có tâm hồn vị tha, chỉ nghĩ đến người khác, đến hạnh phúc và đau khổ của người khác, không còn thời giờ để nghĩ đến mình thì những người ấy luôn luôn hạnh phúc thoải mái trong tâm hồn và thành công trong cuộc đời.
Người Kitô hữu chúng ta cần tập thói quen sống vì Chúa, vì tha nhân và thường xuyên tìm đủ mọi cách để người xung quanh mình được hạnh phúc. Sống như thế không những được hạnh phúc ở đời này mà còn đời sau nữa. Đường lên thiên đàng thì nhỏ và chật hẹp,vất vả hơn đường xuống hoả ngục đầy thênh thang bóng mát. Chọn lựa theo Chúa Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.
Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người để giúp con người sống hạnh phúc. Sau khi sống lại, Người mở đường dẫn lối cho chúng ta đi về hạnh phúc viên mãn trong Thiên Chúa Tình Yêu và Sự Sống.Tin và yêu mến Chúa Giêsu là được sống hạnh phúc mỗi ngày trong niềm vui.

10. Sự khiêm tốn
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Truyện kể: Một hôm, vào ngày lễ thánh Têrêxa, một nhà Dòng kín mở cửa cho bà con thân thích vào thăm. Các tín hữu xóm làng cũng lợi dụng cơ hội để vào xem nếp sống của các nữ tu chuyên hãm mình cầu nguyện. Một trong số những người hiếu kỳ không thể hiểu được lý do của cuộc đời tu trì khắc khổ. Có ông nghĩ bụng rằng: Hẳn đây là những người nghèo khổ không có đủ cơm ăn áo mặc. Chỉ có hạng người xấu số mới có can đảm hiến thân sống khó khăn như vậy. Rồi ông lân la nói truyện với một chị nữ tu đang tuổi xuân thì. Chỉ vào một tòa nhà đồ sộ nằm phía bên kia nhà dòng, ông nói: Này chị, giá chị có được một tòa nhà giầu sang như vậy, với những lạc thú người ta đang vui hưởng trong nhà ấy, chị có thể hy sinh để chôn mình vào bốn bức tường nhà kín này được không? Chị nữ tu kia giơ tay vuốt chiếc lúp trên đầu, nhìn ra và trả lời với một nụ cười đơn sơ chân thành: Thưa ông, đó chính là nhà của tôi.
Của cải trần gian không là cùng đích của cuộc sống nhưng chỉ là phương tiện. Sự giầu có của cải chưa chắc đã mang lại sự hạnh phúc và niềm vui an lạc cho cuộc đời. Có một điều gì đó cao quí hơn gấp bội những danh vọng, tiền bạc và thú vui trần đời. Tiên tri Sôphônia đã mở cửa dẫn chúng ta vào con đường hạnh phúc: Hãy tìm Chúa, hỡi tất cả những người hiền lành trong nước, là những kẻ tuân giữ luật Chúa; hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhường, nếu các ngươi muốn được che chở trong ngày thịnh nộ của Thiên Chúa (Soph 2,3). Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và mọi sự Ngài sẽ ban cho. Tìm kiếm Chúa là nguồn sự khôn ngoan. Thiên Chúa là chủ tể của toàn thể vũ trụ bao la vô tận. Trong khi con người chỉ sở hữu một mảnh không gian nhỏ nhỏ và bị lệ thuộc hoàn toàn vào sự vận chuyển tự nhiên của không gian và thời gian. Thế mà có nhiều người dám tự đắc kiêu ngạo khoe khoang chối bỏ sự hiện hữu của Đấng Tạo Hóa.
Thiên Chúa tao dựng con người có xác hồn, có ý chí và tự do. Con người biết suy tưởng những sự cao siêu nhưng rất giới hạn. Càng suy, tâm trí con người càng chìm sâu vào biển cả mầu nhiệm cao siêu. Sự hiểu biết của tâm trí con người thật bé nhỏ và giới hạn trong mọi lãnh vực. Chỉ có những tâm hồn khiêm nhường biết nhận ra sự yếu đuối và mỏng dòn của mình mới có thể đào sâu ý nghĩa đích thực của sự sống. Sôphônia đã nhận biết giá trị của đức khiêm nhường. Thiên Chúa không ưa thích kẻ kiêu căng, Ngài lật đổ những người quyền thế: Ta sẽ để sống sót lại giữa ngươi, một dân tộc khiêm tốn và nghèo hèn, biết tin tưởng vào danh Chúa (Soph 3, 12). Sự khiêm tốn không phải là sự hèn nhát và yếu đuối, nhưng là một nhân đức. Khiêm tốn là một năng lực kỳ diệu thắng mình và thắng người. Kẻ khiêm nhu có thể đối diện được với tất cả mọi trạng huống của cuộc sống. Người biết sống khiêm hạ sẽ dễ dàng thuyết phục tâm tư của người đời.
Thiên Chúa đứng về bên những người nghèo khổ, cô đơn, khiêm hạ và chân thành. Đường lối của Chúa đi ngược lại với những tham vọng của con người. Chúa Giêsu xuống thế làm người đã chọn đi con đường nghéo khó và khiêm nhượng. Thiên Chúa cao cả hạ thân xuống cùng tận của sự khó nghèo và từ đó, Thiên Chúa đưa dẫn loài người lên chức bậc làm con Chúa. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho giáo đoàn Corintô đã diễn tả: Những điều thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi (1Cor 1, 27). Sự khôn ngoan của thế gian là tìm thỏa mãn những ước mơ, đòi hỏi và tham vọng của tâm trí để đặt con người lên làm chủ mọi loài. Đã qua bao nhiêu thế hệ, sự hiểu biết về vũ trụ và sự sống cũng chỉ như giọt sương mai.
Thánh Phaolô mời gọi như lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa (1Cor 1, 31). Tự hào trong Chúa có nghĩa là tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa. Qua mạc khải, chúng ta học biết lẽ sống và cùng đích của con người và vạn vật. Câu truyện về Kinh Thánh: Một vị tuyên úy trên bãi chiến trường đã đến gặp một người lính trẻ bị thương đang ẩn núp dưới hầm. Vị tuyên úy hỏi: Anh muốn tôi đọc vài đoạn trong cuốn sách Kinh Thánh này không? Người thương binh nói: Tôi đang qúa khát. Tốt hơn hãy cho tôi một chút nước. Vội vàng, vị tuyên úy mang cho anh chút nước. Anh thương binh nói: Cha có thể đặt cái gì đó dưới đầu của tôi không? Tuyên úy cởi áo choàng, cuộn lại và nhẹ nhàng đặt dưới đầu của anh ta như chiếc gối. Bây giờ, cha có thể phủ trùm thân tôi vì tôi đang lạnh run. Tuyên úy cởi cả áo ngoài và đắp cho anh ta để giữ ấm. Anh thương binh nhìn thẳng vào mắt vị tuyên úy và nói: Nếu có bất cứ điều gì mà cuốn sách đó đã thúc đẩy một người thi hành giúp người khác những điều mà cha đã làm cho tôi, vậy làm ơn đọc lời Kinh Thánh, bởi vì tôi mong muốn được nghe lời đó. Kinh Thánh là lời của sự khôn ngoan. Nghe, đọc Lời Chúa và đem ra thực hành thì như người xây nhà trên đá tảng vững chắc.
Bài giảng trên núi nói về Tám Mối Phúc Thật là một lời mời gọi lội ngược dòng. Những điều Chúa Giêsu giảng dạy qua tâm từ bi phản ánh một sự khiêm nhu thật sự. Chúa chúc phúc cho nhưng tâm hồn nghèo khó, hiền lành, đau buồn, đói khát điều công chính, thương xót người, lòng trong sạch, ăn ở thuận hòa và chịu sự bách hại vì lẽ công chính, họ sẽ được no hưởng niềm vui của Nước Trời. Tám Mối phúc thật là Kim Chỉ Nam sống đạo và là các nhân đức cao qúy cần thực hành. Đường dẫn vào Nước Trời có rất nhiều nẻo. Mỗi nẻo đường đều cần có đức khiêm nhượng làm căn bản. Trong sự phấn đấu để nên trọn lành, tâm hồn chúng ta cần có sự kiên tâm, nhịn nhục và hạ mình. Chịu mất mát thua thiệt để chiến thắng. Người ta thường nói: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân.
Càng ở chức vụ cao, càng phải khiêm hạ phục vụ. Sự giầu có trong của cải, danh vọng và địa vị là dấu chỉ được chúc phúc. Người giầu có cần chia sẻ cho những người túng thiếu. Người giầu có của cải vật chất vẫn có thể sống tinh thần nghèo khó. Họ biết dùng của cải đời tạm này như phương tiện phục vụ. Tiền cho đi là đồng tiền có giá trị cả lượng lẫn phẩm. Chúa Giêsu phán dạy: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước trời là của họ (Mt 5, 3). Người nghèo dễ có tâm tình khiêm nhượng hơn, vì họ không cậy dựa vào chính họ. Người nghèo là người thấp cổ bé miệng dễ bị đàn áp và bóc lột, nên họ cần được sự bao vệ chở che và giúp đỡ. Chúa Giêsu cũng đã trải nghiệm đời sống trong cảnh nghèo. Sống khó nghèo là một nhân đức. Một trong ba lời khấn quan trọng của các tu sĩ dòng là lời khấn sống khó nghèo. Chúng ta biết khi buông bỏ được sự tham lam tiền của và danh vọng, cuộc sống sẽ thanh thản hơn. Các tu sĩ không giữ tiền bạc làm của riêng, nhưng chia sẻ đời sống cộng đoàn để cùng nâng đỡ lẫn nhau.
Sống nhân đức khiêm nhượng cũng đòi hỏi sự từ bỏ ý riêng của mình. Hãm bớt cái ‘tôi’ kiêu căng, tham lam và độc tài. Khi biết bước xuống là chúng ta đang tiến lên một bước. Hạ mình xuống, chúng ta không đánh mất mình, nhưng là cơ hội để nhận diện chỗ đứng của mình rõ ràng hơn. Kinh nghiệm thực tế, chẳng khi nào chúng ta sống khiêm tốn cho đủ. Đôi khi chúng ta nhận định để tự an ủi rằng: Nhìn lên tôi chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống tôi cũng còn hơn nhiều người. Biết rằng mỗi người đều có cá tính riêng biệt. Chúng ta không thể so sánh hay xếp loại vị thế. Sự khiêm nhường không cần thứ bậc trong phục vụ, nếu làm được việc gì giúp ích cho đồng loại, chúng ta cố gắng sẵn sàng.
Lạy Chúa, đôi khi chúng con muốn đến để đựơc phục vụ thay vì phục vụ tha nhân. Chúng con muốn ăn trên ngồi trốc và ra lệnh điều khiển hơn là bỏ công sức phục vụ. Xin cho chúng con học biết thái độ khiêm tốn để phục vụ tốt cho anh chị em.

11. Đi tìm hạnh phúc
Trong dịp đầu năm, chúng ta thường cầu chúc cho nhau 365 ngày hạnh phúc. Trong những bức thư, chúng ta thường nguyện ước cho nhau gặp nhiều may mắn, thế nhưng trái chín hạnh phúc vẫn ở ngoài tầm tay của chúng ta, vì cả chúng ta lẫn những người chung quanh không ai có đủ yêu thương và đủ quyền phép để thực hiện những điều mong ước. Bởi đó đau khổ vẫn chồng chất trong cuộc sống, đau khổ vì nghèo đói, vì bệnh tật, vì chết chóc. Đau khổ vì thất bại, vì chia ly, vì những cám dỗ đè nặng. Và hạnh phúc mãi mãi vẫn là một khát vọng chưa một lần nguôi ngoai.
Tôi còn nhớ trong cuốn giới luật yêu thương, Đức cha Bùi Tuần đã viết: Cuộc đời chúng ta là một chuyến đi, đi từ khát vọng này sang khát vọng khác. Chẳng lúc nào mà chúng ta không ước mơ, nhưng cũng chẳng có sự gì làm cho chúng ta được no thỏa. Trong mọi ước muốn to nhỏ, hình như chúng ta vẫn tìm hoài một hạnh phúc vô biên. Niềm hạnh phúc vô biên ấy là gì để rồi chúng ta lên đường tìm kiếm và đầu tư cuộc đời chúng ta vào đó?
Có người cho rằng: hạnh phúc trong cuộc sống đó là sắc đẹp và vẻ quyến rũ, để rồi suốt ngày họ lo trau chuốt cho thân xác của họ. Nhưng sắc đẹp ấy tồn tại được bao lâu? Mười hay mười lăm năm là cùng, để rồi chúng ta cũng phải già nua với tuổi đời chồng chất.
Có người cho rằng: Tiền bạc sẽ đem lại hạnh phúc. Nhưng thực sự có phải là như vậy hay không? Paul Getty là chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Tài sản của ông lên tới hàng tỷ mỹ kim. Tuy nhiên cũng vì thế mà hàng ngay ông nhận được cả trăm bức thư tống tiền và hăm dọa sẽ ám sát ông, để rồi ông đã phải sống trong cảnh cô đơn, như chính ông đã thú nhận: Tôi chưa bao giờ được hạnh phúc. Tôi là một kẻ bất hạnh nhất.
Có người cho rằng: Địa vị và danh tiếng chính là mục đích của cuộc đời. Vậy thử hỏi những người đã có một thời vàng son, nắn giữ uy quyền tuyệt đối, như các vua chúa thời xưa, vậy bây giờ họ ở đâu? Hay thân xác họ cũng đã phải trở về với bụi đất và chìm vào quên lãng, như Nguyễn Du đã từng than thở:
- Bất tri tam bách dư niên hậu.
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
- Biết rồi ba trăm năm sau,
Nào ai còn khóc một câu thương mình.
Và sau cùng, có người đi tìm hạnh phúc trong tình yêu, thế nhưng liệu họ có được thỏa lòng ước mơ hay lại như kinh nghiệm đã diễn tả: Yêu nhau trong ba ngày, ghét nhau trong ba tháng và chịu đựng nhau suốt ba mươi ba năm…Hạnh phúc của tình yêu thì chỉ thoáng qua, những đau khổ của nó lại kéo dài trong suốt cả cuộc đời.
Vậy đối với chúng ta, niềm hạnh phúc đích thực là gì? Tôi xin thưa niềm hạnh phúc đích thực của chúng ta là chính Thiên Chúa và được sống với Ngài mãi mãi trên quê trời, vì chỉ mình Ngài mới có đủ tình yêu và khả năng thực hiện mọi điều chúng ta mơ ước mà thôi. Đối với chúng ta, chỉ có một sự cần thiết, đó là tìm kiếm Chúa và cứu rồi linh hồn, như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi.
Bởi đó đời sống chúng ta phải là một cuộc phiêu lưu đi tìm kiếm Chúa, phải là một hành trình đi về với Chúa. Đã là một cuộc hành trình thì phải có một hướng đi, một con đường nhất định. Con đường ấy chính là cái đạo mà Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta, bởi vì đạo chính là đường. Cái đạo ấy, con đường ấy được gồm tóm trong giới luật yêu thương, và cụ thể hơn được diễn tả qua tám mối phúc thật mà chúng ta vừa nghe.
Chúa Giêsu đã thổi vào tâm hồn chúng ta một luồng gió mới, đã gieo vào cõi lòng chúng ta một tinh thần mới, hoàn toàn khác biệt với tinh thần thế gian. Phúc thật tám mối là như bản hiến chương Nước Trời, gồm tóm những điều căn bản và cần thiết nhất, phải được coi như là những tiêu chuẩn hướng dẫn cho đời sống chúng ta.
Hãy thực thi tinh thần của bài giảng trên núi về tám mối phúc thật, để chúng ta tìm thấy cho mình niềm hạnh phúc đích thực ở đời này và nhất là ở đời sau.

12. Hạnh Phúc ơi, Mi là gì?
(Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cái tựa đề bài viết có vẻ như là tựa đề một khúc ca, một bản tình ca. Hẳn nhiên không phải vô tình nhưng xin thú thực là có chủ ý. Kitô hữu chúng ta, nếu là người trưởng thành và được “xem là ngoan đạo” thì chắc chắn thuộc nằm lòng kinh “phúc thật tám mối”. Mẹ Giáo hội đã minh nhiên khẳng định rằng “tám mối phúc” chính là bản Hiến Chương Nước Trời”. Dưới một góc độ nào đó thì bản Hiến Chương cũng gần tương tự với bản Hiến Pháp của một quốc gia. Chúng ta dễ dàng đồng thuận với nhau về tầm quan trọng cũng như vị trí, vai trò tối thượng của bản Hiến Pháp trong việc định chế các luật lệ để điều hành các tổ chức, sinh hoạt của một đất nước. Vị trí, vai trò của bản Hiến Chương trong các tổ chức xã hội lớn bé cũng có tầm quan trọng không thể phủ nhận, cho dù trong thực tế, có thế lúc này, lúc kia, nơi này nơi nọ, việc tuân thủ không được chặt chẽ và nghiêm túc.
Một ngộ nhận thường thấy khi đề cập đến các mối phúc của Tin mừng đó là người ta dễ bị cám dỗ tìm cách giải thích, biện luận và minh chứng vì sao khó nghèo là có phúc, vì sao sầu khổ là có phúc… Trong khi đó hạnh phúc thật mà Chúa Kitô loan báo không ở cái vế đầu của câu nói mà ở vế sau. Để hiểu rõ điều này xin đan cử câu chuyện đã từng xảy ra về một ông lão nghèo hành nghề bán vé số kiếm kế sinh nhai bỗng nhiên thành tỉ phú. Một ngày kia, vé số bán không hết, ông lão mệt quá nên không đem số vé dư trả lại đại lý. Ai ngờ có trong số vé dư ấy có một cặp mười lại trúng giải độc đắc. Người ta bèn nói rằng ông lão bán vé số có phúc vì trúng số độc đắc bạc tỉ. Như thế cái được gọi là có phúc không phải ở vế “làm nghề bán vé số” hay ở vế “không trả lại số vé không bán được” mà ở nơi vế “trúng giải độc đắc bạc tỉ” kiểu như trên trời rơi xuống.
Vậy chúng ta cần khẳng định rằng hạnh phúc thật chính tình trạng được ở trong Nước Trời, được có Nước Trời làm gia nghiệp, được Thiên Chúa ủi an, thương xót, được nhìn thấy Thiên Chúa, được gọi là con Thiên Chúa, được Thiên Chúa ân thưởng trên trời, nghĩa là các vế thứ hai của các mối phúc. Các vế thứ nhất của các mối phúc không phải là những điều kiện để có hạnh phúc, nhưng chỉ là những tình trạng được ban phúc, những tình trạng đã đón nhận hạnh phúc được ban.
Để hiểu điều này chúng ta cần đối chiếu với Tin Mừng thánh Luca. Các nhà nghiên cứu Tin Mừng đồng thuận với nhau rằng thánh sử Luca tường thuật các dữ kiện liên quan đến các mối phúc thì sát thực tiển hơn so với Tin mừng thánh Matthêu. “Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: ‘Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng…”(Lc 6,20-23).
Hạnh phúc thật là Nước Trời, là chính Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã đoái thương ban hạnh phúc ấy cho tất cả mọi người, cho cả những người mà dưới con mắt thế gian hay theo nếp nghĩ của con người là bất hạnh là kém cõi là ngu dại, là kém phận… Thực tế cho thấy khi Chúa Kitô đi rao giảng tin mừng, thì rất nhiều người vốn bị xem như là bé phận, hèn mọn đã biết mở rộng tâm hồn đón nhận ân phúc Người ban. Trái lại, có nhiều người mà thế gian cho là may mắn thì không nhận được ân phúc ấy, nói đúng hơn là họ đã chối từ hạnh phúc được ban. Thánh sử Luca sau khi tường thuật những lời chúc phúc của Chúa Kitô thì tường thật tiếp liền những lời cảnh báo về các mối họa với những người giàu có, những người đang được no nê, vui cười, đang được mọi người ca tụng (x.Lc 6,24-26).
Những hạng người này bị chúc dữ hay nói đúng hơn là cảnh báo về tại họa không phải vì họ giàu, đang được no nê hay vui cười…nhưng vì họ đã đặt hạnh phúc thật sai chỗ, sai đối tượng. Họ đã lầm tưởng rằng của cải, các hoàn cảnh thuận lợi, danh phận đời này là hạnh phúc thật. Chính vì thế họ đã khước từ Chúa Kitô, khước từ Nước Trời mà Thiên Chúa ban tặng.
Các mối phúc thật hay Bản Hiến Chương Nước Trời không chủ ý nói đến những điều kiện để có hạnh phúc nhưng là trình bày nội dung của hạnh phúc đích thật. Đó là Thiên Chúa, là Nước Trời mà Người ban tặng cho nhân loại. Hạnh phúc đích thật chính là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, một quà tặng vượt quá mọi khả năng chiếm hữu của con người. Con người chỉ có thể đón nhận ân phúc ấy bằng lòng tin. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng nhấn mạnh chân lý này trong thư gửi tín hữu giáo đoàn Galata và giáo đoàn Rôma (x.Gl 2,16.19-21; Rm 3,28-30).
Có thể nói rằng tám mối phúc như khó nghèo, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người…là những cách thế biểu lộ niềm tin, những con đường sống đức tin. Và chúng ta cũng có thể nói rằng ngoài những con đường, những cách thế rõ nét ấy thì vẫn có đó muôn vàn con đường sống đức tin, muôn muôn vàn cách thế biểu lộ niềm tin. Có thể xem đây là sự giao thoa giữa tám mối phúc đã được kể. “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !”(Lc23,42). Không biết người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm nào đã đi con đường nào của bát phúc, nhưng anh ta đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giêsu. Và anh đã được trao ban hạnh phúc đích thực là Nước Trời ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,43).
Cũng như Bản Hiến Pháp của một quốc gia vừa có tính hướng dẫn, vừa có tính quy định những thể chế, tổ chức, luật lệ của quốc gia ấy, thì Bản Hiến Chương Nước Trời khi cho biết đâu là hạnh phúc thật và con đường để có hạnh phúc thật sẽ có tính hướng dẫn và quy định các tổ chức, sinh hoạt…của đoàn tín hữu Kitô không chỉ trong tư cách cá nhân mà cả trong tư cách là đoàn dân của Thiên Chúa. Mong sao mọi tổ chức sinh hoạt của Giáo hội, mọi nghi tiết Phụng vụ, mọi luật lệ được ban hành… biết lấy Bản Hiến Chương Nước trời làm tiêu chuẩn quy chiếu. Và ước gì được một lần trong đời chúng ta không chỉ cất tiếng hát mà còn thực sự cảm nhận và xác tín lời một bài thánh ca khá quen thuộc: “vì ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc…?”

13. Nỗi khao khát
Bill Gates, nhà tỷ phú trẻ tuổi người Mỹ, chuyên kinh doanh về máy điện toán, nhiều năm liên tiếp đạt danh hiệu “người giàu nhất thế giới”. Theo tạp chí Forbes bình chọn mỗi năm, tài sản cá nhân của Gates hiện đã lên đến 36,4 tỉ USD (1997) và đang sinh sôi nảy nở rất nhanh. Mỗi ngày, ông chủ công ty Microsoft này thu nhập 42,5 triệu USD.
Nhiều người ao ước được giàu có và danh tiếng như ông vua phần mềm máy tính này, thậm chí chỉ xin được bằng cái số lẻ của ông thì đã vô cùng hạnh phúc. Bởi vì “Có tiền mua tiên cũng được!” Hay như thời nay người ta thường nói:
“Đồng tiền là Tiên là Phật
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng che thân,
Là cán cân công lý,
Đồng tiền là hết ý”.
Nhưng Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại tuyên bố: “Hạnh phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3). Hơn nữa, Người còn cho là hạnh phúc những ai hiền lành, sầu khổ, bị bách hại…
Giáo Hội gọi đó là Hiến Chương Nước Trời, nghĩa là chỉ những ai sống và thực thi những điều ấy mới được làm công dân của Nước Trời.
Với người không có niềm tin thì đó là một điều hết sức nghịch lý. Nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, bị bách hại… không thể mang lại hạnh phúc mà chỉ đem đến những bất hạnh thiệt thòi, khinh bỉ mà thôi.
Như vậy phải chăng Đức Giêsu ngăn cản nền văn minh tiến bộ của nhân loại đang vươn tới hùng cường, thịnh vượng sao? Phải chăng Người ủng hộ cho hành động bóc lột và đàn áp? Hoàn toàn trái lại. Người đã nói: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Vì thế, làm môn đệ Đức Giêsu là phải xua đuổi nghèo nàn và lạc hậu khỏi thế giới này, là phải đẩy lui đau khổ và bất công xa rời con người. Đó là những vị khách không mời mà đến, và chúng ta phải có nhiệm vụ tống khứ chúng ra khỏi mái nhà của nhân loại. Đây là mục tiêu giải quyết của Kitô giáo, và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.
Đức Hồng Y Tonini tuyên bố: “Giáo Hội trở nên nghèo bởi vì Giáo hội tràn đầy Thiên Chúa. Giáo Hội nghèo bởi vì Giáo Hội có nhiều thứ vĩ đại hơn”. Nếu Chúa đã nói: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó”, “Phúc cho những ai hiền lành”, “Phúc cho những ai sầu khổ”, “Phúc cho những ai bị bách hại”, là bởi vì họ đã khiêm tốn nhận mình thiếu thốn, bất lực, nên đặt trọn niềm tin cậy và phó thác nơi Người.
Nếu Chúa đã dạy: “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch” “Phúc cho những ai khao khát công chính, “Phúc cho những ai xây dựng hòa bình”, Phúc cho những ai xót thương người”, là bởi vì họ đã quyết tâm sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và nhiệt tâm phục vụ anh em.
Tận thẳm sâu của tâm hồn, ai cũng có nỗi khao khát cháy bỏng được sống hạnh phúc, ai cũng muốn người khác đem lại phúc lộc cho mình. Nhưng hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người biết đem lại hạnh phúc cho kẻ khác, và hết lòng quảng đại với tha nhân. Đức Giêsu đã dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Nhà truyền giáo Albert Schweiltzer quả quyết: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.
Hạnh phúc đích thực không đo bằng của cải con người thu tích được, không tùy thuộc nơi những thành đạt mà họ có, cũng không đến từ danh vọng mà con người chiếm hữu, nhưng chính là do nơi họ biết hoàn toàn tín thác vào Chúa mà thôi. Sự giàu có đích thực là sự giàu có ở trái tim, không phải ở túi tiền.

14. Chín lần hạnh phúc
Người ta có thể làm cho lễ Các thánh trở nên lễ của hạnh phúc hay không? Dầu sao Tin Mừng ngày hôm nay cũng nói lên điều đó! Chín lần “hạnh phúc”. Và đầu tiên là: “Các ngươi hãy vui mừng hoan hỉ, phần thưởng của các ngươi sẽ lớn lao ở trên Trời”.
Đám mây đầu tiên trên ngày lễ này đó là thì tương lai “Các ngươi sẽ là...Các ngươi sẽ được... Các ngươi sẽ thấy...”. Chính với những thì tương lai kiểu này mà người ta đã giễu cợt những người bất hạnh. Người ta dễ dàng tìm thấy trên đó những bài thuyết giáo khó chịu và những bản văn hoang tưởng của Nã phá Luân!: Khi một người chết đói bên cạnh một người khác no đầy, không thể nào làm cho người đó chấp nhận sự khác biệt này nếu không có một người có uy tín nói với họ: Thiên Chúa muốn như thế, phải có người nghèo và người giàu trên thế gian này, nhưng sau đó và trong vĩnh cửu sự chia sẻ sẽ được thực hiện theo cách khác”.
Các mối phúc chính là hạnh phúc trong tương lai và những sự đảo ngược đầy ấn tượng, những người đầu tiên sẽ là những người cuối cùng. Nhưng không như Nã phá Luân nghĩ, theo nghĩa đó đơn giản là một sự phân phối lại và chỉ có trong tương lai mà thôi. Hạnh phúc được ban tặng ngay từ bây giờ cho tất cả mọi người dười hai hình thức một cuộc hành trình tiến về niềm vui hoàn toàn và một cuộc hành trình đã có hạnh phúc. Giá như mỗi năm họ làm cho lễ Các thánh trở nên một ngày suy niệm về sự hy vọng.
Chúng ta là những người của hy vọng, những người của Tin Mừng. Một ngày kia, tại Palextin, một người đã cất tiếng nói: “Nước Trời kia rồi! Nước Trời đây là ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Từ đây bất cứ người nào cũng có thể hướng tới hạnh phúc được mô tả nơi trang cuối cùng của Thánh Kinh: “Tôi thấy trời mới và đất mới. Tôi nghe có tiếng nói: Kìa nhà tạm Chúa ở giữa nhân loại. Họ sẽ là dân tộc của Ngài và Ngài sẽ là Thiên Chúa ở giữa nhân loại. Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ, sẽ không còn chết nữa, hết tang chế, hết kêu than, đau đớn, vì những cái trước kia qua đi rồi” (Kh 21, 1-4).
Chính điều này mà chúng ta mừng vào lễ Các thánh: tất cả chúng ta được mời gọi đi vào trong thế giới mới của sự vui mừng lớn lao. Nhưng phải nói đi nói lại rằng ngay từ bây giờ chúng ta là những người của cái tương lai này. Sự liên tục giữa đất và trời không phải luôn luôn được nhận thức một cách rõ ràng. Chúng ta sẽ không nhận lãnh một phần bánh Trời được đo lường và trả giá bằng cuộc sống mà chúng ta đang sống, khó nhọc, lo âu và đau khổ. Chúng ta sẽ mãi mãi là khả năng của niềm vui mà chúng ta tìm kiếm nơi chúng ta trên thế gian này. Chúng ta sẽ là con người của niềm vui mà chúng ta đang tạo nên. Người ta không chinh phục nước trời mà là trở thành nước trời.
Với những mối phúc. Những mối phúc này là một tinh thần và là một hình ảnh. Tinh thần của Nước trời, bầu không khí và những tập tục của Nước trời. Còn hình ảnh là hình ảnh của vị sáng lập, vị vua mẫu mực: đó là Chúa Giêsu, Hgaì đã là người nghèo hèn, khiêm nhu, ôn hoà, trong trắng và bị bách hại. Khi nói “Phúc cho”, Ngài biết Ngài nói về điều gì, về sự trộn lẫn giữa hiện tại và tương lai. Điều này làm cho chúng ta hạnh phúc như Ngài đã từng hạnh phúc. Chúa Giêsu hạnh phúc vì đã là một con người. Điều kỳ lạ là người ta rất ít nói về điều này.
Chúng ta có thể ngay lập tức trở thành một “chân phước” khi chúng ta sống trong niềm hy vọng, nếu tôi dám nói như thế. Niềm hy vọng dặc biệt này được gọi là “vì Chúa” bởi vì nó nối kết chúng ta với Chúa trong khi đảm bảo rằng Chúa muốn cho chúng ta hoan hỉ và sẽ làm tất cả để cho chúng ta hạnh phúc: “Thầy nói cùng các con những điều này để các con được vui mừng và sự vui mừng đó được đầy đủ” (Ga 15,11). Cho nên trước hết các mối phúc này khẳng định với chúng ta rằng Chúa ở với chúng ta. Nhưng chúng cũng cho chúng ta biết những sở thích của Ngài và ở đây lọt vào một điêù phiền nhiễu: Thiên Chúa có thích sự đau khổ hay không? Tại sao Ngài ưa thích người nghèo, người khiêm hạ, người bị bách hại?
Tôi tin rằng câu trả lơì nằm ở phía tấm lòng của những kẻ đáng thương này. Thiên Chúa tìm kiếm những người con và đặc biệt là Ngài tìm ra họ trong các hoàn cảnh khó khăn đó. Đây không phải là lý thuyết mà là thực tế. Khi lặp đi lặp lại chín lần “Phúc thay”, Chúa Giêsu nói đến kinh nghiệm riêng của Ngài. Rất muốn làm vui lòng Cha Ngài, Chúa Giêsu đã kinh nghiệm rằng con người chỉ thực sự là con của Chúa khi ở trong một tình trạng nghèo khổ đáng thương nào đó.
Đến lượt chúng ta hãy thử kinh nghiệm về các mối phúc này. Chúng chỉ làm cho người ta mỉm cười hoặc nghiến răng nếu nhìn từ xa. Nhưng những người cố gắng thử nghiệm thì nhận thấy kinh nghiệm và nói lên kinh nghiệm đó: họ cảm thấy hạnh phúc... vì được hạnh phúc như Chúa Kitô.

15. Phúc cho người sống những mối phúc.
(‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Tự nhiên ai cũng muốn hạnh phúc, nhưng hạnh phúc rất khó tìm thấy. Nó thường trượt khỏi tay chúng ta giống như bánh xà phòng ướt nơi phòng tắm. Tất cả chúng ta đều cố gắng để được hạnh phúc, nhưng chúng ta lại không luôn luôn đồng ý với những gì mà sự hạnh phúc có. Điều đó giống như những cảm hưởng khác nhau trong âm nhạc và thực phẩm vậy. Chúng ta khác nhau cho dù bây giờ chúng ta có phung phí tiền bạc vào những gì sẽ làm cho chúng ta được hạnh phúc, hoặc chúng ta sẽ để dành cho “những ngày mưa gió” trong tương lai.
Tất cả những gì mà người ta nghĩ là hạnh phúc thì Chúa Giêsu lại không nghĩ vậy, giáo huấn của Người hoàn toàn biệt lập về sự hạnh phúc là gì, làm thế nào và khi nào chúng ta đạt được hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều đã nghe lời giáo huấn của Người nhưng có lẽ chúng ta hoàn toàn thất bại trong việc nắm bắt cho dù là một đặc tính duy nhất mà Chúa Giêsu đã tuyên bố.
Chúng ta gọi giáo huấn này của Người là những mối phúc, từ “beatus” theo nghĩa Latinh có nghĩa là hạnh phúc. Đầu tiên chúng ta nhận thấy rằng những mối phúc không phải là những điều luật, cũng không phải là những lời khuyên. Chúng là những lời tuyên bố. Chỉ một điều duy nhất mà hôm nay Chúa Giêsu đã nói chúng ta phải làm, đó là “hãy sung sướng và vui mừng”. Những điều khác, Người muốn trình bày những gì mà hạnh phúc phải gồm có, Người nói thẳng những người hạnh phúc là những người nghèo, người khóc lóc, người đau buồn và người đói khát. Ngài cũng nhấn mạnh những người hạnh phúc là những người bày tỏ sự thương xót, người kiến tạo hoà bình và người chịu đau khổ, bắt bớ. Đó không phải là danh sách mà chúng ta sẽ chọn lựa cho chính mình. Nếu chúng ta phải nhận lấy sự nghèo khổ, khóc lóc, đói khát như những món quà Giáng sinh, chúng ta sẽ nghĩ rằng ông già Noel phải trở thành ông già keo kiệt mới đúng.
Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông già keo kiệt dù người nói những điều mà nhiều người nghĩ là “bịp bợm” chứ làm sao hạnh phúc với những thứ ấy được, chìa khoá bài giáo huấn của Chúa Giêsu được tìm thấy trong mối phúc thứ sáu. Mối phúc ấy nói: “Phúc cho ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ xem thấy Thiên Chúa”.
Người có lòng trong sạch là những người giống như những vị thánh, trung tâm toàn bộ đời sống của họ là Thiên Chúa. Trong sự nghèo khổ, họ nhận ra sự giàu có thật chỉ tìm thấy nơi Thiên Chúa. Nơi sự đau buồn của họ, họ khám phá ra rằng niềm vui thật chỉ cảm nghiệm được ở nơi Thiên Chúa. Nơi sự thấp hèn, họ hiểu rằng chỉ có Thiên Chúa mới có thể nâng họ lên sống xứng đáng một con người. Trong sự đói khát, họ thấy giá trị của Thánh Thể, bởi Mình và Máu Chúa sẽ dẫn chúng ta tới bữa tiệc vĩnh cửu trên quê trời. Họ bày tỏ lòng thương xót mà không báo thù, họ đem đến sự an bình chứ không oán ghét, bởi vì họ biết rằng Thiên Chúa là nguồn mạch sự thương xót và bình an. Họ sẵn lòng chịu bắt bớ, bách hại bởi vì họ cảm thấy đặc ân được đau khổ và ngay cả cái chết chỉ là làm chứng cho sự thật.
Vì người có lòng trong sạch đặt trọng tâm vào Thiên Chúa nên họ nhận biết Chúa Giêsu đã thực hiện những gì Người đã rao giảng. Chúa Giêsu là người nghèo, người phải chịu nhiều đau buồn trong cuộc thương khó của Người. Người đã trở nên thấp hèn, bị khinh khi như là một tội nhân trên thập giá. Họ thấy Chúa Giêsu đã trải qua đói khát trong hoang địa để chuẩn bị cho sứ vụ của Người, Người đã chuyển giao sự trống rỗng của người đến cạn kiệt để rồi làm sung mãn chúng ta bằng sự sống và tình yêu của Người. Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng thương xót đối với những người tội lỗi và Người đã hiến dâng mọi sự như là đặc ân sự bình an của Người.
Mặc dù không có mối phúc nào là một lề luật, chúng ta tự mình cũng phải thực hiện cho tốt: “Hãy trở nên giống Chúa Giêsu. Hãy có lòng trong sạch. Hãy tập trung toàn bộ đời sống của bạn ở nơi Thiên Chúa”. Đó sẽ là lời khuyên tốt cho chính chúng ta. Trong việc thực hành, chúng ta có thể làm trọn vẹn một điều mà Chúa Giêsu hôm nay bảo chúng ta làm: “Hãy sung sướng và vui mừng vì phần thưởng của các con ở trên trời thì rất lớn lao”.

16. Bàn tay Chúa
(Lm Vũ Đình Tường)
Nhắc đến bàn tay Chúa ta liên tưởng đến bàn tay ra oai thần lực, sức mạnh vô song, làm lay chuyển sao trời, rẽ nước khiến lòng biển khô cạn hoặc ngay cả lấp biển, dời non. Hình ảnh oai hùng đó dường như vắng bóng trong cuộc đời rao giảng công khai của Đấng Cứu Thế. Nơi Ngài chúng ta gặp bàn tay thi ân, giáng phúc. Bàn tay ban ân sủng, bình an. Bàn tay mở sách thánh trong hội đường. Bàn tay vỗ về con người đau bệnh. Bàn tay vác về con chiên lạc. Bàn tay mở mắt người mù. Bàn tay dìu người què đứng dậy bước đi. Bàn tay mở tai người điếc nghe được. Bàn tay sờ nắp quan cho kẻ chết sống lại. Bàn tay tha tội cho người bắt quả tang tội ngoại tình. Bàn tay giang ra kéo Phêrô khỏi chìm dưới làn sóng biển. Bàn tay cầm bánh và cá trong tay dâng lời tạ ơn Chúa Cha trước khi phân phát thực phẩm cho đám đông. Bàn tay chắp trước ngực cầu nguyện cùng Chúa Cha sau bài giảng hay sau khi làm phép lạ. Bàn tay rẽ đám đông lên núi một mình cầu nguyện trước tiếng hoan hô, ca tụng Ngài là vua, giải thoát họ khỏi ách đô hộ. Bàn tay dâng bánh chúc tụng. Bàn tay dâng rượu thiết lập Giao Ước mới trong bữa tiệc li. Bàn tay rửa chân cho các môn đệ. Bàn tay trải dài trên thập tự mong đón nhận toàn thể nhân loại vào con tim nồng ấm.
Bàn tay xây dựng
Bàn tay Đấng Cứu thế gắn liền với việc xây dựng nước trời. Để làm gì? Để đón nhận những ai sống theo tinh thần Tám Mối Phúc Thật: sống nghèo khó, hiền lành, sầu khổ vì lẽ công chính, hay xót thương, trong sạch, xây dựng hoà bình, bị bách hại vì làm chứng nhân nước trời.
Tám Mối Phúc Thật nhấn mạnh đến đức nghèo khó. Nghèo khó bao gồm cả nghèo vật chất lẫn nghèo đức tin. Nhận biết mình nghèo khó nên sống phó thác, đặt trọn tin tưởng vào Chúa. Tự bản thân không có gì, thông minh, tài trí, sức khoẻ, tiền của và chức tước. Ta không làm chủ cả sự sống. Nghèo khó trong Chúa luôn sống tâm tình cảm tạ vì Chúa làm chủ mọi sự; ta chỉ là quản lí, coi sóc những gì Chúa giao phó.
Đời này từ bỏ mọi sự, giầu sang, tiền bạc lẫn chức tước bước theo Đức Kitô. Nếu Đức Kitô lại ban cho những gì trước đây họ đã từ bỏ thì giải thích sao cho thoả đáng việc từ bỏ lúc đầu để nhận lại nhiều hơn của cải vật chất sau này. Khó nghèo trong Chúa phải hiểu là có Đức Kitô là có tất cả vì nơi Ngài là nguồn sung mãn, là sức mạnh, là nguồn sống đời này và đời sau. Khó nghèo trong Chúa giúp sống đời sống khiêm nhường, hiền lành, xót thương, trong sạch, xây dựng hoà bình. Tất cả đều bắt nguồn từ ơn Chúa. Chúa đặt vào lòng người Tám Mối Phúc Thật để hướng dẫn con người sống theo đường lối Chúa. Trung thành sống Tám Mối Phúc Thật nhiều, ít, hay bất trung, phản nghịch do từng cá nhân tự quyết và chịu trách nhiệm về chọn lựa của riêng mình.
Phúc cho ai
Trong tám lần chúc phúc Đức Kitô luôn bắt đầu bằng câu: Phúc thay ai. Lời chúc phúc dành cho những ai sống Tám Mối Phúc Thật. Lời chúc thứ chín Đức Kitô nhắm đến các tông đồ, những người ngồi kề bên Chúa, từ bỏ mọi sự bước theo Đức Kitô. Lời chúc nhấn mạnh đến phần thưởng đời sau. Đời này họ bỏ mọi sự bước theo, đã thế họ còn bị bách hại, sỉ vả, vu khống đủ điều xấu xa không phải vì họ gây nên mà vì trung thành với Đức Kitô mà gặp sự khó, nên được Chúa ban ơn đặc biệt.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấy xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao Mt 5,12
Các tông đồ hiểu lầm đời sống khó nghèo Đức Kitô rao giảng. Vì thế có lần các ông thắc mắc. Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy để được gì? Đức Kitô đáp:
…. Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa anh em, chị em, mẹ con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi và sự sống đời đời ở đời sau. (Mc 10, 29tt).
Câu trả lời trên cho thấy ai trung thành sống Tin Mừng và chân thành theo Đức Kitô sẽ chia sẻ cuộc sống của Ngài. Cuộc đời của Ngài là cho đi tình thương, sống thể hiện ý Chúa Cha. Chia sẻ cuộc sống của Đức Kitô bao gồm cả vinh quang lẫn thập giá mà Đức Kitô tự nguyện vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chia sẻ cuộc sống cho anh chị em khác chính là thương mến mọi người như anh em cùng cha Giêsu, trong đại gia đình Chúa, trong Giáo Hội. Giầu có không phải là lắm bạc, nhiều tiền mà chính là tự do, không bị đồng tiền chi phối lối sống, cách suy nghĩ. Nghèo tiền của, giầu tình người chính là đời sống bác ái, yêu thương Đức Kitô chọn sống trong cuộc đời rao giảng công khai của Ngài. Một khi giầu bác ái, yêu thương sẽ không còn cảm thấy tiền bạc, địa vị, tiếng tăm là quan trọng nữa.
Lời chúc phúc
Khi Đức Kitô chúc phúc cho ai, Ngài không phải chỉ ban cho người đó ơn bình an, sức mạnh và niềm vui nội tâm mà còn lên tiếng ca ngợi đồng thời ban ơn thiêng như phần thưởng dành riêng cho tâm hồn ngay chính. Sống công chính nhận phần thưởng hai lần.
Lần thứ nhất Chúa ban ơn bình an, sức mạnh và niềm vui nội tâm - ngay tại đời này - để người đó tiếp tục tiến bước trên con đường phục vụ, hy sinh làm chứng nhân cho Đức Kitô.
Lần thứ hai Chúa ban ơn cao trọng hơn đó là sự sống trường sinh. Phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Lời chúc phúc được thể hiện trong tương lai, trong ngày gặp lại Đức Kitô trên thiên quốc.
Hạnh phúc thay ai học sống nghèo khó vì Chúa và vì Tin Mừng.

17. Đường hẹp
(‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Khi Mẹ Têrêsa thành Calcutta còn sống, người ta kể lại rằng, một lần Mẹ đang rửa những vết ghẻ lở của người bị bệnh cùi thì có một thương gia giàu có đến thăm nhà, thấy Mẹ đang làm việc ấy, ông phát biểu ý kiến như sau: - Nếu có ai cho tôi một triệu bạc để làm công việc như Mẹ đang làm thì tôi cũng không dám làm.
Mẹ Têrêsa vui vẻ trả lời: - Tôi cũng vậy, nếu có ai cho tôi một triệu bạc tôi cũng không thể làm điều ông làm.
Tiền của vật chất không phải là yếu tố chính và chúng ta cũng không thể nào đo lường giá trị tinh thần của hành động con người bằng tiền của vật chất, nhưng đây là điều mà thường tình mỗi người chúng ta cũng dễ bị cám dỗ suy nghĩ và hành động như vậy, đó là hành động theo sự khôn ngoan của xác thịt, theo như bài đọc hai của thánh Phaolô Tông đồ nhắc lại cho chúng ta.
Bài Phúc âm hôm nay trình bày cho chúng ta một căn bản, một hiến chương cho đời sống đức tin của mình, đời sống đức tin của người môn đệ Chúa qua mọi thế hệ, trong mọi hoàn cảnh và chúng ta không thể nào hiểu được, cũng như không thể nào sống thực hành những điều phúc.
Tám mối phúc thật được ghi lại trong Phúc Âm hôm nay, trong một kiểu nói phàm trần với tâm thức tự nhiên con người, với lẽ khôn ngoan xác thịt như cách nói của thánh Phaolô Tông đồ. Chìa khoá để hiểu và sống những điều Phúc âm mà chính Chúa Giêsu Kitô đã dạy chúng ta là chính Ngài là Chúa. Chúa đã sống trọn vẹn những điều phúc này, nhất là trên núi Sọ khi để mình bị treo trên thập giá trong một hành động dâng hiến tuyệt đỉnh chính mình cho Thiên Chúa Cha, và chỉ khi nào chúng ta như Chúa Giêsu trên thập giá, bắt chước Chúa Giêsu trên thập giá chúng ta mới hiểu và mới sống như Chúa đã sống.
Không phải vì tiền của, vì danh vọng mà Mẹ Têrêsa có thể thực hiện những gì Mẹ đã làm cho những anh chị em thấp cùng nhất trong xã hội, nhưng chính là tình yêu Chúa tràn đầy nơi Mẹ, không phải nhờ tiền của mà con người có thể sống thánh thiện, sống thương xót, sống hòa bình, sống công bằng, sống mối phúc thật như Chúa Giêsu đã dạy, nhưng chính là tình yêu Chúa, nhờ Chúa biến đổi, nhờ sống kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta mới có đủ can đảm để sống những gì Chúa mời gọi chúng ta sống: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, phúc cho những ai hiền lành, phúc cho những ai đau buồn, phúc cho những ai đói khát điều công chính, phúc cho những ai hay thương xót, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính".
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được sống như Chúa, được sống kết hiệp với Chúa mỗi ngày một hơn để chúng ta có thể hiểu và sống tám mối phúc thật như Chúa đã sống. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trung thành với đức tin. Amen.

18. E.T. gọi về nhà
Phim "E.T." nói về một người hành tinh khác đến trái đất và bị lọt lại một mình. E.T. làm bạn với cậu bé Elliot cùng những anh chị em của Elliot và nhiều người khác nữa. Họ đã vượt qua nhiều cuộc phiêu lưu thử thách và cuối cùng E.T. đã gọi về nhà và được phi thuyền của dân tộc E.T. trở lại đón. E.T. có nghĩa là "Extra Terrestrial". Mặc dù người làm phim không chủ ý luồn Phúc Âm vào cuốn phim nhưng nó lại hiện diện trong toàn cuốn phim.
Trước hết, the Extra Terrestrial đến trái đất như là biểu tượng Nhập Thế. Hơn nữa, trong cuộc phiêu lưu của E.T. nó gần như song song với câu truyện Thánh Kinh về Chúa Giêsu. E.T. chọn một số bạn thương mến và đi theo E.T. Hầu hết mọi người đều chống đối bọn họ, đặc biệt là các khoa học gia chỉ muốn giết E.T. để khảo nghiệm. E.T. cũng làm những phép lạ như làm cho cây khô sống lại, chữa lành bệnh nhân bằng cách sờ vào người bệnh. E.T. đi đâu cũng tạo nên cảnh thương yêu. Cuối cùng E.T. bị chết vì những người chống đối và rồi E.T tự phục sinh. Rồi phi thuyền trở lại và đón E.T. về, trong cảnh đi về ấy, Elliot nhìn lên bầu trời tựa như cảnh các môn đệ nhìn Chúa Giêsu lên trời vậy. Trước khi trở về quê hương của mình, E.T. đã nói lời cuối là: "Tôi sẽ ở với các bạn luôn mãi" (Mt 28,20).
Nếu chúng ta mở rộng lòng ra thì cuốn phim đó cũng gợi lại cho chúng ta một sự trong sáng, mủi lòng, tìm thấy một sự biết ơn mới đối với Chúa Giêsu vì khi Ngài xuống thế, vì Ngài đã chọn trái đất này làm quê hương của Ngài. Trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ làm cái việc gọi về quê hương hay tìm cách trở về. Thánh Gioan tông đồ đã viết: "Ngài đến và ở giữa chúng ta... Ngài đến nơi nhà Ngài". Chúa Giêsu đã yêu nhân loại quá mức nên Ngài không đến như một người xa lạ và chỉ chực chờ có cơ hội là bỏ ra đi ngay. Đúng hơn, Ngài đến và hòa nhập vào sự cô đơn, lo lắng, và tan nát của cả nhân loại.
Có sự trái ngược đó là Chúa Giêsu đến ở giữa chúng ta, đồng thời Ngài nói rằng thế gian này không phải là nhà của chúng ta. Ngài cho biết nhà chúng ta không phải ở thế giới này hay ở một thế giới kế cận nào. Nhà thật sự của chúng ta chính là sự quan hệ giữa nhân loại chứ không phải là nơi chốn. Và nhà thật sự của chúng ta là ở trong Chúa. Như Thánh Augustinh nói, chúng ta được dựng nên "với một tâm hồn không bao giờ nghỉ cho tới khi nào tìm thấy sự nghỉ yên trong Chúa".
Vấn đề chính đối với một số người trong chúng ta ngày nay đó là nhớ nhà. Chúng ta có thể không nhận ra, hay chối từ điều ấy, nhưng sự thổn thức luôn luôn hiện diện ở đó-- và sẽ chẳng bao giờ nó yên lặng cho tới khi chúng ta tìm thấy căn nhà thật sự của chúng ta là ở trong Thiên Chúa.
Điều ấy chẳng lạ lùng gì khi các ngụ ngôn của Chúa Giêsu thường nói về sự trở về nhà. Người con hoang đàng trở về trong vòng tay mở rộng đón mừng của người cha với đầy sự hoan lạc. Chúng ta cần phải có cảm nghiệm sự trở về này. Chúng ta phải trở về cùng Chúa, nếu như chúng ta muốn được chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Ngài. "Sự sống vĩnh cửu" đối với một số người cho rằng nó ở tương lai. nhưng Chúa Giêsu nói sự sống ấy chính là một tính chất thực tại của cuộc sống này chứ không phải một sự sống của chiều kích khác.
Sự sống vĩnh cửu là chính mối dây liên kết hiện tại, là cảm nhận sự Hiện Hữu của Tình Yêu Thiên Chúa trong toàn thể con người ta. "Phúc thay cho người có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ" Chúa Giêsu đã dạy thế trong bài Tin Mừng hôm nay (Mt 5:3). Nghèo trong nghĩa Thánh Kinh chính là sự nhận biết rằng toàn thể con người, sự sống mình lệ thuộc vào Chúa; nhận biết xa rời Ngài là chúng ta chẳng có gì hay sức mạnh để trở nên con người theo như chủ đích khi chúng ta được dựng nên; nhận biết sự thao thức băn khoăn tìm kiếm điều gì đó cao cả hơn của tâm hồn cho tới khi chúng ta tìm thấy nghỉ an trong Chúa.
"Phúc cho ai có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương"; "Phúc cho ai ăn ở thuận hòa vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5,7-9). Những điều ấy có nghĩa là sự toàn hảo của con người chúng ta lệ thuộc trên sự trở về của ta với Thiên Chúa và tha nhân. Trong và qua mối cảm nghiệm sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, chúng ta trở nên liên kết với hết mọi người qua tình yêu. Yêu Chúa và tha nhân không thể chia cách tách rời được.
Hãy để Ngài chỉ lối và hướng dẫn chúng ta; rồi chúng ta sẽ cảm nghiệm được tình yêu của Ngài ở ngay trong chúng ta. Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì họ sẽ tìm thấy bình an và chính họ sẽ xây dựng an bình.

19. Phúc thay
Trong Kinh Thánh, "Hạnh phúc" là tiếng ca tụng người biết làm cho ơn Chúa ban sinh lợi, nên họ cảm thấy hạnh phúc ngay từ bây giờ, và nếu họ luôn trung thành với con đường đã chọn, họ sẽ được nhìn nhận là người công chính trong giờ phán xét."(Tin Mừng thánh Matthêu, Centurion, 1991, tr.58)
1. Bốn mối phúc đầu của Matthêu: ca tụng người biết hướng về Thiên Chúa và từ chối bạo lực.
* "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ". Sự nghèo khó mà mối phúc này nhắm tới không phải là sự nghèo khó về vật chất; nhưng là thái độ của một người nghèo tự nhận mình không có quyền đòi hỏi gì trước mặt Chúa, trái lại mọi sự mình có đều do bàn tay nhân từ của Thiên Chúa.
J. Potel chú giải: “Người Kitô hữu phải nhìn nhận mình đã lãnh nhận sự sống nơi Thiên Chúa; mà Đức Giêsu dạy rằng phải nhận ra và yêu mến Ngài như một người Cha. Sự nghèo khó tinh thần chính là chấp nhận từ thẳm sâu lòng mình rằng sự sống là quà tặng thường xuyên của người Cha này. Thiên Chúa không cần lời khen ngợi, Ngài tự hiến một cách vô vị lợi: đó chính là nguồn mạch sự khiêm nhường Kitô giáo. Sự khiêm nhường triệt để này tạo nên phẩm giá của một con người và của tất cả mọi người. Thật vậy, phẩm giá này không dựa trên sự giàu có cũng như những đức tính nhân bản, nhưng dựa trên tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người, nhất là người nghèo. Chính đây là trọng tâm của Tin Mừng vĩnh cửu".
* "Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp". Mối phúc thứ hai này nối dài mối phúc trên từ một câu Thánh Vịnh 36: “Những ai hiền lành sẽ chiếm hữu trái đất và sẽ hưởng một nền hòa bình sung mãn". J. Potel nói tiếp: "Sự hiền lành là hoa trái của sự khó nghèo. Người nghèo thì không có phương tiện thể lý hay pháp lý bảo vệ mình. Vậy phải chăng người nghèo hoàn toàn trơ trọi trước những người không nhìn nhận quyền của mình? Không, vũ khí của họ chính là sự hiền lành, sự nhẫn nại, sự tín nhiệm vào Thiên Chúa. Sự chiến thắng vĩnh viễn không đến từ võ lực. Ngày nay người ta gọi nó là kết quả của sự không dùng bạo lực".
* "Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an". Tận đáy sâu của nỗi tuyệt vọng, người tín hữu vẫn thấy ánh lên một niềm hy vọng: "Tia hy vọng này là khuôn mặt của Thiên Chúa. Ngài đến gần để an ủi người đắm chìm trong cơn thử thách".
* "Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng". Rảo qua toàn bộ Kinh Thánh, Sự công chính ở mối phúc thứ bốn được hiểu là "tự điều chỉnh" tâm hồn và thái độ theo cách thế Thiên Chúa đã làm. Thiên Chúa ở đây là Đấng đã đến để gặp gỡ con người và nối kết với họ bằng giao ước. Như vậy ‘trọn đời mình, người Kitô hữu tìm cách đáp ứng những đòi hỏi tinh thần và luân lý do giao ước này đề ra bằng cách thực hiện "sự công chính" đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại’.
2. Bốn mối phúc sau hướng đến thái độ đặc trưng của người môn đệ Đức Kitô
* "Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương". Khi chiêm ngắm cách Thiên Chúa, Đấng nhân từ và xót thương cư xử với ta, người môn đệ của Đức Kitô học biết tha thứ những xúc phạm và trợ giúp anh em mình sống trong cảnh tuyệt vọng.
* "Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa". Sự trong sạch ở đây không có liên quan trực tiếp đến tình dục. Nó cũng không phải là sự chính trực, sự không giả dối, sự đi đôi giữa nói và làm. Sự trong sạch đây là con đường hợp nhất với Thiên Chúa.
* "Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa". Jean Potel giải thích: "Đối với Đức Giêsu, sống hòa bình bằng cách rèn luyện một đời sống hòa hợp và an lành không đủ, Ngài đòi một đức ái tích cực, nhất là khi không có hòa bình trong gia đình, nơi cộng đoàn Kitô hữu. Hòa bình sẽ được gọi không có biên giới cũng như tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. Những người xây dựng hoà bình là con Thiên Chúa: dĩ nhiên nhiệm vụ của con là tiếp tục công việc của Cha mình, mà điều Cha trên trời muốn là đem hoà bình đến cho con người".
* "Phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ". Trung thành tuân giữ giáo huấn của Đức Kitô như trong các mối phúc không phải là không có những hiểu lầm, những đối nghịch, những bách hại, vì những giá trị Nước Trời đi ngược lại với những giá trị thường được đề cao như những tiêu chuẩn cuộc sống. Đối với Đức Giêsu, những môn đệ bị bách hại của Ngài là những người nghèo thật sự của mối phúc thứ nhất. Họ chỉ có lời hứa Nước Trời cho những khổ đau họ gánh chịu.
Tất cả các mối phúc đều vẽ lên một khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Đức Giêsu. Jean Potel kết luận: "Đức Giêsu hân hoan đón nhận Nước Trời mà Ngài hết lòng chờ đợi và đã hoàn toàn dấn thân vì Nước Trời ấy. Cuộc đời, lời nói, hành vi của Ngài đều biểu lộ nơi Ngài một con người nghèo hèn, hiền lành, thương xót, trong sạch, kiến tạo hòa bình; một người chỉ sống vì Nước Trời đang đến, vì triều đại của Đấng mà các môn đệ Ngài sẽ cầu khẩn khi gọi là Cha".

20. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó
(Lm. Thiện Cẩm)
Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bê-na-rét bằng câu: "Vạn sự sự vô thường, vạn sự khổ", nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh, lão, bệnh, tử: Con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật, và cuối phải chết. Rõ thật cuộc đời chỉ là bể khổ!
Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện bên đất Pa-lét-tin, dõng dạc tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ!" (Mt 5,3)
Một người mang tiếng là bi quan yếm thế, người kia lại bị coi như không tưởng, lạc quan quá cỡ. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn.
Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ sức lực để nghiên cứu, suy tư, bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu.. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh hai bài giảng đó. Tuy nhiên có lẽ chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra, cả Đức Phật lẫn Đức Kitô, đều không có chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới Chân Như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng; còn kinh nghiệm của Đức Kitô, là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất (x. Mt 10,39), và sự sống trong cái chết (x. Ga 12,24-25)
Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Người không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Đức Kitô cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó, Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ "có tâm hồn" vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo hèn nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người.
Trong cuộc đời, xưa cũng như ngày nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời ở khách sạn 5 sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.
Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái TÂM. Bởi thế các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh.
Chính đó là lý do tại sao Đức Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, trong sạch, và biết xây dựng hòa bình. Thực ra tất cả những đức tính trên đây là những đức tính của "người nghèo của Thiên Chúa", của một anawim, theo truyền thống Kinh thánh. Người nghèo của Thiên Chúa, không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Người và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu Người.
Nói theo Đông phương chúng ta, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hòa điệu giữa lòng mình với lòng Trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống sao cho hợp lòng Trời và lấy lòng của trăm họ làm lòng mình, "dĩ bách tánh tâm vi tâm" (ĐĐK XLIX,1).
Theo truyền thống Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng, hạnh phúc là sukha, đó là tình trạng giống như tình trạng của một bánh xe, mà trong đó mọi sự ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hòa hợp với các thành phần khác, do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc, vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.
Nói tóm lại, không ai sướng khổ một mình hay chỉ tại mình, mà tất cả chúng ta liên đới và chịu trách nhiệm về hạnh phúc cũng như đau khổ của nhau. Vì thế mà trong Tám mối phúc thật, Đức Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.

21. Hạnh phúc
(Lm. Nguyễn Ngọc Long)
Hạnh phúc cần thiết cho đời sống mỗi người từ khi mở mắt chào đời cho tới khi nhắm mắt từ giã cuộc sống trần thế, ai củng mong muốn có hạnh phúc và ra công gắng sức để tìm hạnh phúc. Nhưng nếu hỏi hạnh phúc là gì, và làm thế nào để có được hạnh phúc? Có lẽ không mấy ai có thể cắt nghĩa cho rõ ràng được! Vì hạnh phúc không là điều đơn giản có thể thu tóm trong một định nghĩa hay một công thức, hay một bài viết. Hạnh phúc cũng không giống như chiếc áo, chiếc xe, hay cái nhà mà có thể vẽ ra thành hình hài có màu sắc, hay có thể mua sắm làm ra được.
Hạnh phúc là điều cảm thấy trong tâm hồn, trong cuộc sống, khi một biến cố, một lời nói cử chỉ mang lại niềm vui, mà họ chờ đợi từ lâu. Thí dụ, khi thi đỗ hay lam ăn phát đạt gặp dịp may, con cháu khỏe mạnh mau lớn, học hành giỏi giang, cước được người hằng mong ước, sang đoàn tụ với gia đình, được khen tặng tán thưởng, được khích lệ an ủi, thoát khỏi tai bay vạ gió, bình phục khỏe mạnh trở lại sau cơn bạo bệnh...
Trong Phúc âm, những người được Chúa chúc phúc, những người được gọi là hạnh phúc, lại có đời sống trái ngược. Họ phải gánh chịu cuộc sống đâu có gì sáng sủa mang lại hạnh phúc như chúng ta hiểu. Trái lại họ phải chịu phần thiệt thòi, sống hy sinh chịu đựng nhiều hơn là đàng khác! Tại sao Chúa lại gọi họ là những người có hạnh phúc? Phải chăng đó chỉ là những lời an ủi để họ bằng lòng với số phận "chịu vậy" cho xong?
"Phúc thay cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì nước trời là của họ" (Mt 5,3). Tất cả mọi người ai cũng cần có cuộc sống no đủ cơm ăn áo mặc, nhà ở, việc làm, cơ hội học hành thăng tiến cuộc sống cho xứng đáng nhân vị đời sống con người. Nhưng đời sống con người đâu chỉ gói trọn trong phạm vi bốn bức tường nhà ở của mình. Nó còn liên đới lan rộng và tùy thuộc với môi trường, với mọi người xung quanh nữa. Và đời sống con người đâu phải chỉ có nhu cầu cho thể xác, cho bao tử, cho sức khỏe, nhưng còn có nhu cầu thiêng liêng tinh thần nữa: Lòng tin tưởng biết ơn Đấng Tạo Hóa.
Người nghèo khó trong tâm hồn là người nhìn nhận Chúa là Cha đời mình và sống bác ái, chia sẻ với người xung quanh mình. Chính tình liên đới đó làm cho cuộc sống có ý nghĩa, có hạnh phúc.
Dưới con mắt của mọi người, những ai lâm cảnh hoạn nạn buồn sầu tủi khổ, họ là những người bất hạnh - Thử lòng trong đời đã có ai chưa một lần nào lâm cảnh này? - Nhưng đức tin dạy chúng ta: Thiên Chúa không bỏ họ một mình trong lúc sầu khổ, như Ngài đã hứa: "Con đừng sợ, trong cơn sầu khổ, Ta sẽ cứu độ con" (Is 43,1). Và trong hoàn cảnh bước đường cùng vẫn có những người anh chị em đồng loại sẵn sàng an ủi, giúp đỡ nhau. Điều này rất cần cho con người. Và chính điều này mang lại hạnh phúc cho cuộc sống.
Trong lúc gặp bước đường cùng khổ gian nan, mà biết có người cùng chia sẻ, cùng đồng hành với, sẽ cảm thấy được an ủi. Đời sống được an ủi, là đời sống có hạnh phúc.
Chúa chúc phúc cho những người có lòng nhân từ, lòng thông cảm với người khác (Mt 3,7-8). Có thể họ bị người đời cho là khờ dại hay "ăn cơm nhà, vác ngà voi hàng xóm". Nhưng đâu phải như thế. Họ là những người kiến tạo hoà bình. Vì họ không lợi dụng người anh chị em mình lúc yếu thế sa cơ để kiếm lợi cho riêng mình như cảnh "dậu đổ bìm bịp leo!", nhưng tìm cách tương trợ lẫn nhau "chị ngã em nâng".
Họ là những người không tìm cách, tìm dịp xa gần nhục mạ bôi nhọ danh dự người khác. Lòng đạo đức nhân bản là nền tảng đời sống đức tin của họ, như lời Chúa dạy: Yêu thương, tha thứ cả kẻ bách hại các con (Mt 5,44).
Và trong đời sống, thiết tưởng ai cũng đã có kinh nghiệm quý báu này: Ngày hôm nay người này có thể là người thù địch, hay người không đồng ý kiến, tư tưởng với ta, nhưng ngày mai họ có thể sẽ trở thành bạn, người làm ơn cho ta! Nhà chí sĩ Nguyễn Trãi thuở xưa trên bình diện quốc gia dân tộc trong hịch Bình Ngô Đại Cáo đã kêu gọi: "Lấy chí nhân thay cường bạo!" làm nền móng xây dựng hòa bình cho xã hội, kiến tạo tình người, bắc chiếc cầu thông cảm tha thứ làm hoà với nhau.
Những người được Chúa chúc phúc, được Chúa hứa cho đời sống hạnh phúc là những ai? Họ là những người tin theo Chúa, sống rao giảng tình yêu Chúa, tình yêu bác ái tha thứ, thắp sáng niềm hy vọng cho mọi người bằng chính đời sống mình trong môi trường họ sinh sống.
Qua đời sống như thế "Danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa trị đến". Và người khác tìm thấy niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn khi nhận ra tình yêu thương, tương trợ nhau.

22. Chúa là phúc thật
(Lm. Phạm Quốc Hưng)
"Hãy vui sướng và hân hoan, vì phần thưởng các ngươi lớn thật ở trên trời".
Người Ái Nhĩ Lan có một câu nói diễn tả lòng tự hào dân tộc của họ như sau: "Trên thế giới chỉ có hai loại người: những người Ái Nhĩ Lan và những người muốn trở thành người Ái Nhĩ Lan". Là người Việt Nam và cảm thấy tự hào về truyền thống anh hùng của Việt tộc, dĩ nhiên tôi không chấp nhận câu nói trên. Nhưng tôi cũng không dám sửa câu đó thành: "Trên thế giới chỉ có hai loại người: những người Việt Nam và những người muốn trở thành người Việt Nam." Vì tôi biết có những người không muốn nhận mình là người Việt Nam dù đã sinh ra trên quê hương Việt Nam và mang trong mình dòng máu Lạc Hồng.
Dù vậy, tôi không sợ lầm khi sửa câu trên thành: "Trên thế giới chỉ có hai loại người: những con người hạnh phúc và những con người không được hay chưa được hạnh phúc". Vì không có một người bình thường nào mà không mong mỏi khát khao hạnh phúc. Hạnh phúc viên mãn hay hạnh phúc đích thực bao giờ cũng là đối tượng tìm kiếm của trái tim nhân loại.
Nhưng làm thế nào để đạt được hạnh phúc?
Ai cũng mong muốn hạnh phúc, nhưng những quan niệm của con người về hạnh phúc, về cách thức để đạt được hạnh phúc thì thật khác nhau. Có người quan niệm hạnh phúc là có sức khỏe, nhan sắc, bạc tiền, tài năng, của cải, địa vị, học thức, và gia đình êm ấm thuận hoà. Người khác lại cho rằng hạnh phúc là được nhiều người ái mộ, làm được nhiều điều hữu ích cho xã hội, được đi vào lịch sử như những người hùng của nhân loại. Người khác nữa lại quan niệm hạnh phúc là phải từ bỏ mọi sự phiền toái của cuộc sống xã hội, sống ẩn dật như một loài thú đi hoang.
Trong Tin mừng hôm nya, Chúa Giêsu đã đưa ra những quy luật bất biến - chứ không phải một quan niệm vu vơ - để đạt đến hạnh phúc thực như con người hằng mong ước. Theo Ngài, những người hạnh phúc là
những người có tinh thần nghèo khó,
những người hiền lành,
những người ưu phiền,
những người đói khác sự công chính,
những người biết thương xót,
nhưng người tinh sạch trong lòng,
những người tác tạo hòa bình,
và những người bị bách bớ vì sự công chính.
Là Thiên Chúa và là Đấng tạo dựng nên chúng ta, Chúa Giêsu hiểu biết ta hơn là ta hiểu biết về chính mình. Ngài biết ta phải sống thế nào để đạt được hạnh phúc đích thực, nên Ngài đã chỉ cho ta biết những quy luật hạnh phúc trên. Nhưng điều này xem ra nghịch hẳn với quan niệm thông thường của con người về hạnh phúc. Nhưng đó là những chân lý không thể sai lầm.
Làm sao chúng ta biết được đây là những quy luật hạnh phúc chân thực nhất xưa nay? Vì những quy luật này đã được thể hiện nơi chính con người của Chúa Giêsu. Ngài đã sống trước khi giảng dạy chúng ta những điều ấy.
Thật vậy, nơi Chúa Giêsu chúng ta gặp thấy hiện thân của chính đức khó nghèo, chính sự hiền lành, chính sự ưu phiền, chính cơn đói khát công chính, chính lòng xót thương, chính lòng tinh sạch, chính sự hòa bình, và chính sự công chính đang bị bách bớ. Ngài là mẫu mực của tất cả những ai mà Ngài nhìn nhận là có phúc.
Nói cách khác, những quy luật trên sở dĩ gọi là những quy luật hạnh phúc bất biến vì chúng giúp người ta nên giống Chúa Giêsu và nên một với Ngài là Thiên Chúa làm người. Theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, chúng là những phương thức giúp ta "mặc lấy Chúa Kitô" và trở nên nên "đồng hình đồng dạng" với Người. Những quy luật này giúp chúng ta noi gương Chúa Giêsu, cắm sâu chôn chặt vào Thiên Chúa như nguồn hạnh phúc duy nhất của mình và sẵn sàng thoát ly tất cả những gì không phải là Chúa. Chúng sẽ giúp chúng ta thưa cùng Chúa những lời của Thánh vịnh gia:
"Tôi thưa cùng Yavê: Chính Người là Chúa của tôi, hạnh phúc của tôi, có đâu ngoài Người...
Yavê là phần cơ nghiệp, là chén của tôi,
chính Người là Đấng nắm giữ cơ đồ cho tôi!
Giây đo phần tôi rơi nhằm nơi tuyệt mỹ,
cơ nghiệp ấy làm cho tôi sung sướng!"
(Tv 16:2 & 5-6)
Điều quan trọng ở đây là chúng ta có dám dấn thân sống theo những quy luật hạnh phúc này hay không?
Sở dĩ cuộc đời chúng ta còn buồn tẻ chán chường, còn "sà sà mặt đất", còn chưa được thăng hoa là vì chúng ta chưa dám thực hành những điều mà miệng ta nhìn nhận là chân là thiện. Cũng chính vì thế mà ta chưa cảm nếm được sự ngọt ngào và sức mạnh của Lời Chúa. Đúng như tác giả sách Gương Chúa Giêsu nhận xét: "Sở dĩ nhiều người nghe giảng Phúc âm luôn mà vẫn không xúc động, là vì họ không có tinh thần Chúa Kitô. Muốn hiểu tỏ và nếm thử thi vị của Lời Chúa, cần phải tập sống đời sống của Chúa" (GCG Q.1 Ch. 1).
Trong quá trình phong thánh của Giáo hội, các vị á thánh là những người bắt đầu được dân chúng tôn kính nơi công cộng còn được gọi là những "chân phúc", những con người được phúc thật, được phần thưởng thiên đàng, được sống đời đời. Lý do Giáo hội tôn phong các ngài là vì Giáo hội nhận thấy nơi các ngài là hình ảnh của chính Chúa Giêsu là Nguồn mọi sự thánh, thấy sự hiện diện của chính Chúa nơi cuộc đời các ngài. Phần phúc của các ngài cũng là phần phúc được Chúa hứa ban cho mỗi tín hữu chúng ta.
Cuối cùng rồi thì nhân loại vẫn được chia thành hai loại như những con chiên lạc được tách khỏi đám dê trong bài giảng về ngày phán xét cùng tận (Mt 25:31-46): những người được phúc thật là những người mang hình ảnh Chúa Giêsu vì đã nổ lực sống thánh thiện noi gương Người và nhưng người đã tự khước từ phúc thật đời đời vì đã chối bỏ lời mời gọi sống thánh theo gương Chúa Giêsu khi còn ở trần gian và đã đánh mất hình ảnh Thiên Chúa nơi mình bằng lối sống đắm chìm trong tội.
Với lời mời gọi của Chúa Kitô, với sự trợ giúp của Ơn Chúa, với sự thúc bách của Chúa Thánh Thần, với gương sáng và lời chuyển cầu của Mẹ Maria và chư thánh, chúng ta còn ngần ngại gì mà chưa nỗ lực sống thánh để đạt được phúc thật?

23. Phúc thật, phúc giả
(Lm. Bùi Quang Tuấn)
"Bài Giảng Trên Núi" hay "Hiến Chương Nước Trời" là bản tổng hợp xúc tích nhất của Tin mừng Đức Kitô. Và "Tám Mối Phút Thật" chính là nền tảng căn bản nhất của "Bài Giảng Trên Núi" đó.
Thế nhưng không tránh khỏi một câu hỏi đầy tính hiện sinh: làm sao nghèo hèn, hiền từ, ưu phiền, đói khát, bị bắt bớ...mà lại có phúc được? Phải chăng Đức Giêsu đang ru ngủ hạng bần cùng khốn khó, như Marx có lần tuyên bố: Kitô giáo biện chứng cho sự nghèo đói của nhân loại và làm lụn bại tinh thần đấu tranh vượt thoát áp bức. Phải chăng là như thế?
Dựa vào đâu để khẳng định nghèo khó, ưu phiền, đau khổ là có phúc, đang khi thực tế lại như những "vô phúc" đáng loại trừ?
Một nhà tư tưởng đã có lý khi nhận định: ấy là dựa vào con người của Đức Giêsu, vì Ngài chính là hiện thân của khó nghèo, hiền lành, lắng lo, khát khao, thương xót, tinh tuyền, hoà bình, và khốn khổ vì công chính.
Không phải bởi lâm vào tình cảnh bế tắc nên Ngài phải chịu vậy, song đây là một sự tự nguyện chọn lựa để làm nên mẫu gương ân phúc cho con người. Ví dụ, có lần ma quỉ đến nói với Đức Giêsu: "Nếu ông cúi mình bái lạy tôi thì tất cả vinh quang giàu sang của thế gian sẽ thuộc về ông". Như vậy Chúa Giêsu có khả năng để nên giàu có, và giàu có lắm, vì được cả thế gian chứ không phải thường. Nhưng Ngài từ chối bái lạy "cha của bọn dối trá".
Hay sau khi hóa bánh cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu được người ta tôn vinh làm vua. Khi làm vua, chắc là sẽ sung sướng và cao sang hơn người. Ấy thế mà Kinh thánh lại nói: "Ngài trốn lên núi". Tại sao trốn? Phải chăng Đức Giêsu muốn khẳng định một điều: giá trị cao quí và cần thiết vô cùng không ở nơi của cải, cao sang, sức mạnh, chức quyền nhưng là nơi Thiên Chúa. Ai chọn lựa Thiên Chúa, ai đặt trọn niềm tin tưởng nơi Ngài chính là người có phúc nhất. Thánh vịnh đã xác nhận điều đó khi nói: "Phúc thay người đặt niềm tin tưởng nơi Chúa". Vì sao? Vì khi đặt niềm tin tưởng như thế:
"Họ như cây trồng bên suối nước,
Trổ sinh hoa trái đúng mùa
Lá cây không bao giờ tàn úa
Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt".
Thịnh đạt trong mọi công việc chính là phần phúc dành cho những ai chọn Thiên Chúa làm lẽ sống và con đường ngay thẳng của Tin mừng để bước đi, dù rằng nẻo đường đó không thiếu chật hẹp, gian nan, đau khổ và rướm máu. Thế nhưng có bước theo Chúa và gắng nên giống Ngài mới là phúc thật, còn ngược lại, thì dù được xem như thành công, giàu có, hạnh phúc, an lành, người ta vẫn là những kẻ vô phúc trong thiên hạ.
Mới đây, làng điện ảnh Hollywood thường đề cập đến nữ minh tinh Demi Moore, người rất được khán giả Hoa kỳ ái mộ, và cũng từng là vợ của Bruce Willis, một tài tử danh tiếng khác.
Nổi tiếng và giàu có, nhưng Demi lại đang sống trong tình trạnh mặc cảm, lo sợ, hối hận dày vò. Số là trước khi bước chân vào nghề điện ảnh, Demi đã làm một nghề tồi bại: cho chụp hình playboy thân xác của mình.
Mặc dầu đã tốn khá nhiều tiền mua lại các phim gốc, hầu xóa bỏ dấu tích của một thời thiếu đoan trang, Demi vẫn mang trong mình nỗi bất an lo sợ. Vì hiện nay đang có dấu hiệu xuất hiện các hình ảnh xấu xa của cô trên Internet.
Demi lo cho danh dự của mình một phần, nhưng nguy hiểm hơn, cô đang sợ một ngày kia, ba đức con gái bé bỏng của cô là Rumer, Scout, và Talluah sẽ nhìn thấy các hình ảnh "không nết na" của mẹ chúng trên Internet, hoặc bị bạn bè bắt gặp và đem ra trêu chọc. Demi không muốn chứng kiến cảnh các con ngây thơ vô tội phải xấu hổ đau khổ vì mình. Cô tâm sự: "Giấc mơ lớn lao nhất của tôi là tìm mọi cách thu hồi những tấm ảnh playboy đó và ném vào một đống lửa cho cháy tiêu tan". Demi cũng cho hay cô không kiêu hãnh chút nào khi có người khen cô đẹp vẹn toàn, bởi vì cô đã phạm một lỗi lầm rất lớn là để cho người ta chụp hình khỏa thân hầu sớm nổi danh và giàu có.
Thế đó, cứ tưởng vừa giàu sang có sang trọng, vừa xinh đẹp và được mến mộ thì hạnh phúc lắm. Nhưng sung sướng gì khi thâm tâm cứ bị dày xéo cắn rứt không nguôi.
Thử hỏi sống như thế là có phúc hay vô phúc? Thành ra có nhiều điều người ta tưởng "sướng lắm" hay "phúc lắm", nhưng khi đạt được rồi mới thấy bức rức, hụt hẫng, dày vò, dơ nhớp... bởi vì nỗi khát khao háo hức không phải là công chính và thẳng ngay.
Như vậy, con người chỉ có phúc thật khi khao khát Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Con người chỉ có bình an và thoả lòng thật sự khi bước đi trên nẻo đường thập giá của Phúc âm. Và con người chỉ có thể vui cười chiến thắng khi can đảm chiến đấu và chiến thắng bao dục vọng đam mê thế trần.
Đường lên thiên đàng khi nào cũng nhỏ hẹp và vất vả hơn đường xuống hỏa ngục đầy bóng mát thênh thang. Nhưng can đảm chọn lựa bước theo Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.

24. Xây dựng hoà bình
“Kể từ ngày 11/9/2001, ngày toà tháp đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ở thành phố New York, Mỹ bị bọn khủng bố tấn công khiến cho khoảng 3000 chết cho đến nay, thế giới đã không có một phút nào yên. Thật vậy, trong suốt ba năm qua, mặc cho những cố gắng của các chính phủ, nạn khủng bố vẫn không ngừng gia tăng trên một diện rộng chưa từng thấy. Đó là vụ đánh bom đảo du lịch Bali (Inđônêxia) làm 202 người chết hồi tháng 2/2002, vụ đánh bon nhà ga xe lửa ở Madrid (Tây Ban Nha) hồi tháng 3/2004 làm 191 người chết, rồi hàng loạt vụ đánh bom chung cư ở Nga khiến 300 người thiệt mạng. Và gần đây nhất là vụ bắt cóc con tin tại một trường học ở Beslan (Nga) hồi đầu tháng 9/2004 gây ra cái chết cho 326 người, và làm bị thương 727 con tin, và vụ đánh bom toà đại sứ Úc ở Jakarta (Inđônêxia) hồi thượng tuần tháng 9/2004 vừa qua đã khiến cho 9 người chết và 170 người bị thương…”
Giữa lúc nền hòa bình thế giới đang bị đe dọa nặng nề, thì qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta nghe vang vọng lời Chúa:
- Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Đúng thế, cho đến ngày hôm nay, hòa bình mãi mãi vần là một ước vọng sâu xa nhất của con người. Thế nhưng, chúng ta không thể ngồi yên để đón nhận hòa bình như đón nhận một quà tặng từ trời rơi xuống. Trái lại, chúng ta phải ra sức kiến tạo, phải tích cực góp phần xây dựng hòa bình.
Thế nhưng, việc kiến tạo và xây dựng hòa bình không phải được bắt đầu bằng những hội nghị bàn tròn hay bàn vuông, mà phải được bắt đầu ngay từ cõi lòng mỗi người. Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy trong đêm Giáng sinh, các thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
- Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Giờ đây trong thinh lặng và bình tĩnh, nhìn vào tận đáy tâm hồn, chúng ta sẽ nhận ra kẻ nội thù phá hoại sự bình an của bản thân và của người khác chính là sự ghen tức.
Thực vậy, sách “Cổ học tinh hoa” đã kể lại một mẩu chuyện như sau:
Có một vị tướng, trước khi xuất quân, đã khao tất cả các binh sĩ một bữa tiệc thịnh soạn bằng thịt dê. Không hiểu vì quên lãng hay vì nghĩ rằng là chỗ thân tình, nên đã không báo cho anh đánh xe. Thế là anh đánh xe nổi giận đùng đùng, cho rằng mình đã bị đối xử tệ bạc.
Sáng hôm sau khi ra trận, anh ta đã đánh xe và chở thẳng vị tướng và giao nộp cho quân địch.
Chỉ vì một miếng thịt dê và do lòng ghen tức mà anh đánh xe đã phản bội, đã phá đổ mọi tình nghĩa mà vị tướng đã dành cho anh trong suốt bao nhiêu năm trời.
Với chúng ta cũng vậy, nhiều khi chỉ vì một miếng thịt dê, nghĩa là chỉ vì những quyền lợi nhỏ mọn, nhưng được lòng ghen tức thúc đãy và thổi phồng, chúng ta sẵn sàng coi những người thân cận ruột thịt là kẻ thù của mình. Chúng ta quên đi mọi tình nghĩa cũ để rồi tìm mọi cách triệt hạ cho bằng được những kẻ chúng ta ghen tức.
Thế nhưng, chính sự ghen tức này đã làm cho tâm hồn chúng ta trở nên bất ổn và nhiều lúc còn dày vò cắn rứt vì những lời nói chì chiết và những hành động thô bạo của chúng ta.
Và hơn thế nữa, sự ghen tức còn hủy diệt sự bình an giữa chúng ta và người khác. Bởi vì một khi đã nhìn nhau bằng cặp mắt không mấy thiện cảm, làm sao chúng ta có thể tạo được sự hài hòa và cảm thông.
Chình vì thế, để góp phần xây dựng sự bình an giữa chúng ta và những người chung quanh, thì việc đầu tiên cần phải làm ngay, đó là hãy trục xuất kẻ nội thù nguy hiểm này ra khỏi cõi lòng chúng ta, đó là sự ghen tức. Bởi vì có đánh bật tận gốc rễ sự ghen tức, thì bấy giờ chúng ta mới có thể nhìn nhau bằng cặp mắt trong sáng và từ đó mới dễ dàng đi tới chỗ hiểu biết và cảm thông với nhau hơn. Đó phải là yếu tố căn bản cho một sự bình an chân chính.

25. Tám Mối Phúc
Khi còn bé tôi nghĩ rằng nếu đào một cái lỗ xuống đất và cứ tiếp tục đào, đào mãi, tôi có thể làm thành một con đường hầm từ Việt Nam xuyên qua trái đất sang đến Hoa Kỳ. Tất cả mọi người Mỹ, nhà cửa, ruộng vườn… là thế giới lộn ngược!
Đó là lý luận của trẻ con. Nhưng một thế giới lộn ngược đối với Chúa Giêsu không phải là một tư tưởng quá điên rồ. Chúa Giêsu trong bài giảng trên núi hôm nay, thánh Matthêu đã đưa ra Tám Mối Phúc làm đảo lộn những giá trị và sự khôn ngoan của con người. Những phúc lành của Chúa Giêsu là những giá trị bị lộn ngược.
Đang khi người ta chúc “Phúc cho những ai giàu có” thì Đức Giêsu lại nói “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Đang khi người ta chúc “Phúc cho những ai lanh lợi” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai hiền lành”. Đang khi người ta chúc phúc “Phúc cho những ai vui vẻ” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai đau buồn”. Người ta chúc “Phúc cho những ai tiệc tùng linh đình”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai đói khát điều công chính”. Người ta ước ao “Phúc cho những ai có quyền hành”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai hay thương xót người”. Người ta muốn “Phúc cho những ai có thân hình đẹp đẽ thon thả”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai có lòng trong sạch”. Người ta muốn “Phúc cho những ai gây tin giật gân”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa”. Đang khi người ta muốn “Phúc cho những ai có đủ tiền mướn luật sư giỏi” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính”. Lý do của sự đảo ngược giá trị này vì Chúa Giêsu rao giảng với tiêu chuẩn và uy quyền của thần linh. Chúa tập trung vào việc yêu mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân, còn người trần gian lại tập trung vào sự hưởng thụ ích kỷ và thỏa mãn khoái lạc.
Triết gia Aristốt xưa kia đã nói: “Hạnh phúc (happiness) là cái mà tất cả mọi người tìm kiếm”. Đó là điều tự nhiên của con người. Sự ao ước này có nguồn gốc thần linh: Thiên Chúa đã đặt nó trong trái tim con người để lôi kéo con người lại với Người. Do đó những điều con người nghĩ là hạnh phúc, nhưng không đưa họ về với Thiên Chúa, đều là hạnh phúc giả tạo, khoái cảm mau qua, và không phải là phúc lành thực sự.
Người nghiện rượu tin rằng hạnh phúc nằm trong chai bia, chai rượu. Một chai chưa đủ, rồi hai, ba chai. Sau đó lái xe về nhà, vượt đèn đỏ, gây tai nạn. Sáng sớm tỉnh dậy thấy mình mẩy băng bó đầy những thương tích. Từ đó anh học biết rằng hạnh phúc hứa ban bởi rượu là giả tạo, hoàn toàn không phải là phúc lành tí nào!
Thế gian có thể tìm kiếm được khoái cảm mà họ muốn, nhưng cũng có thể mất. Một sự thay đổi về tài sản của cải, một sự suy sụp về sức khỏe, một kế hoạch bị thất bại, một tham vọng không đạt được, và ngay cả một sự thay đổi của thời tiết… cũng có thể lấy đi cái hạnh phúc mong manh do thế gian mang lại.
Phúc lành của người Kitô hữu hoàn toàn khác biệt. Không một yếu tố ngoại giới nào có thể ảnh hưởng đến, hay hủy diệt nó được. “Và niềm vui của các con”, Đức Giêsu đã nói “không ai lấy mất được”. “Các mối phúc thật cho thấy một trật tự của hạnh phúc và ân sủng, của vẻ đẹp và bình an”.

26. Phúc Tám Mối
Vào năm 258, hoàng đế Valerian ban lệnh bắt tất cả các giám mục, linh mục và thầy sáu vào tù. Đức Giáo Hoàng Sixtus II là người bị bắt đầu tiên. Ngài liền tin tưởng trao lại tài sản của Giáo Hội cho thầy sáu Laurensô với những lời hướng dẫn phải phân phát cho các bà góa và trẻ mồ côi. Thầy sáu Laurensô đã làm đúng như lời dặn của Đức Giáo Hoàng Sixtus II.
Khi Đức Giáo Hoàng Sixtus II bị đem đi hành quyết, Laurensô đã đi theo ngài khóc lóc thảm thiết: “Thưa Đức Thánh Cha, ngài vội vàng đi đâu vậy? Và con phải làm gì đây? Tại sao ngài lại đi đến nơi hiến tế mà không có thầy sáu, người phụ giúp bàn thờ của ngài? Con đã thi hành lệnh truyền của ngài về tài sản của Giáo Hội”. Đức Giáo Hoàng đáp: “Con yêu dấu, ta sẽ không bỏ rơi con đâu. Con sẽ theo ta trong ba ngày nữa”.
Ngay sau đó, Laurensô đã bị bắt. Ông quận trưởng đã yêu cầu Laurensô phải trao nộp tài sản của Giáo Hội. “Giáo Hội thực sự rất giàu có”, Laurensô trả lời “Tôi sẽ chỉ cho ông thấy những tài sản đó, nhưng hãy cho tôi một thời gian ngắn để gom góp lại. Thời gian đã được ban, và Laurensô đã đi đến với các bà góa, trẻ mồ côi, những người què quặt, và già yếu mà Giáo Hội đã giúp đỡ. Ngài đã qui tụ họ lại xếp thành hàng dài đứng trước cửa nhà thờ, rồi mời ông quận trưởng đến và nói: “Thưa ông, đây là những tài sản của Giáo Hội!” Viên quận trưởng nổi giận và hứa sẽ ban cho Laurensô một cái chết đặc biệt: từ từ và đau đớn.
Sau đó Laurensô đã bị xích vào vỉ sắt nướng thịt, nằm trên ngọn lửa cháy riu riu. Tuy chịu cực hình, nhưng lòng khát khao của ngài hướng về Thiên Chúa quá lớn lao đến độ ngài không còn cảm thấy đau đớn. Nằm trên vỉ sắt một lúc, ngài nói với ông quận trưởng: “Xin ông hãy lật sang mặt bên kia, bên này đã chín đủ rồi”. Quân lính đã làm y như vậy. Sau đó ngài lại nói: “Bây giờ cả hai bên đã chín, tất cả đã sẵn sàng, hãy đem ra phục vụ!” Rồi ngài cầu nguyện cho tòa thánh Rôma, để nhờ đó, thế giới có thể đón nhận được đức tin. Đang khi ngước mắt hướng lên trời, ngài đã tắt hơi thở cuối cùng trong niềm vui hân hoan được trở về với Thiên Chúa hằng sống.
Nơi Thiên Chúa, người nghèo khổ đặt tất cả sự phó tác tin cậy, người đau buồn tìm sự ủi an, người tội lỗi xin ơn tha thứ, người ốm đau được ơn chữa lành, kẻ bị bách hại có sức mạnh và lòng can đảm phi thường… Họ hoàn toàn tùy thuộc nơi Ngài. Vì thế tất cả phúc lành được trao ban cho họ.
Mẹ Têrêsa Calcutta là một người phụ nữ sống cho tha nhân. Suốt đời của mẹ sống với Phúc Tám Mối của Chúa Giêsu. Mẹ phục vụ những người nghèo khó nhất trần gian là để bắt chước lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Ngay cả những người không phải là Kitô hữu đã nhìn vào mẹ Têrêsa và thấy mẹ có một điều gì đó giống như Thiên Chúa và có thể nối kết với Ngài. Một người ăn xin đang hấp hối bên vệ đường thành phố Calcutta, sau khi được cứu sống đã hỏi mẹ Têrêsa: “Trên trần gian này, có điều gì giống với Thiên Chúa không?” Mẹ trả lời: “Không, tôi đang cố gắng là một cái gì đó giống như Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa”.
Cha Henri Nouwen, tác giả nổi danh của nhiều tác phẩm tu đức, khi ngài còn sống đã gặp mẹ Têrêsa ở Rôma. Ngài nói rằng điều đáng chú ý nhất nơi mẹ Têrêsa, là mẹ thường xuyên tập trung vào Đức Giêsu. Dân chúng bu quanh lấy mẹ và đặt biết bao nhiêu câu hỏi. Mẹ đã trả lời với một nguyên tắc duy nhất: tập trung tất cả nơi Đức Giêsu. Những câu trả lời của mẹ, mới nghe có vẻ “đỏ mặt” vì đơn sơ và ngây thơ, phản ảnh những thói quen của một người sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa. Chính cha Nouwen cũng đã cảm nhận được một sức mạnh dịu dàng và êm đềm phát ra từ những câu trả lời đó.
Phúc Tám Mối là những con đường dẫn ta về Nước Trời theo gương Chúa Giêsu đã đi. Đó không phải là tám con người khác nhau, nhưng là tám bức hình chụp từ những góc cạnh khác nhau của cùng một người, người đặt hoàn toàn tin tưởng và tùy thuộc vào Chúa Giêsu Kitô, người sống theo giảng thuyết và trở nên giống như Ngài.
Ở Hoa Kỳ hằng năm những hãng xăng dầu thường phát hành miễn phí những tấm bản đồ chỉ đường. Lịch sử của những tấm bản đồ chỉ đường này bắt đầu vào năm 1895, khi tờ báo “Chicago Times Herald” vẽ ra lộ trình của cuộc đua xe hơi từ Chicago tới Waukegan cho các độc giả theo dõi. Từ đó trở đi những người lái xe đã bắt đầu đòi hỏi