Suy Niệm Lời Chúa CN TN
Lời Ban Sự Sống Đời Đời
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lời Ban Sự Sống Đời Đời
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XXI – B
(Ga 6, 61 – 70)
Khởi đi từ tình mục tử ấp ủ đoàn chiên bơ vơ không người chăn
dắt (x. (Mc 6, 3034), Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép
lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 115). Từ của ăn vật,
Chúa gợi lên trong họ sự khát vọng trường sinh, muốn được họ phải
đi tìm Chúa, tin vào Chúa, ăn chính thịt và uống máu Chúa là bánh
hằng sống từ Trời xuống (x. Ga 6, 1660).
Với diễn từ của Chúa Giêsu về bánh hằng sống tại Hội đường Do
thái ở Capharnaum, nhiều người bỏ Chúa, còn các môn đệ không chấp
nhận điều ấy, họ nói : "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" (Ga 6,
60) Tại sao họ lại có thái độ khước từ Chúa đến như vậy? Còn chúng
ta ngày hôm nay thì sao ?
Có người khước từ
Vấn đề ở đây là "ăn thịt và uống máu" (Ga 6,54) một con người có
tên là Giêsu, đồng hương với họ để được sống đời đời. Chúa Giêsu cố
tình nói như thế, đây là một vấn đề rất cam go, một khúc quanh trong
cuộc đời công khai của Chúa. Dân chúng, và cả các môn đệ, trước đây
rất phấn khởi đi theo Chúa, thấy Chúa làm phép lạ; cả việc hóa bánh
ra nhiều cũng là một sự mạc khải về Ðấng Messia, khiến họ muốn
tung hô và tôn Chúa Giêsu làm vua Israel, nhưng chắc chắn ý Chúa
Giêsu không như vậy. Với diễn từ dài, Chúa làm dịu bớt sự phấn khởi
trong dân và tạo nên sự bất đồng nơi nhiều người. Chúa giải thích
hình ảnh bánh ấy chính là Chúa và khẳng định Người đã được Chúa
Cha sai đến để hiến mạng sống, ai muốn theo Người, thì phải kết hiệp
mật thiết với Người, và tham gia vào hy tế tình thương của Người.
Khi nghe những lời ấy, dân chúng hiểu rằng ông Giêsu này không
phải là Đấng Messia như họ tưởng. Người không tìm kiếm sự đồng
thuận để chinh phục thành Giêrusalem; trái lại, Người muốn vào
Thành để chia sẻ số phận của các vị ngôn sứ : hiến mạng sống trở nên
tấm bánh vì Thiên Chúa và cho loài người. Những tấm bánh đó, được
bẻ ra cho hàng ngàn người, không muốn khơi lên một hành trình đắc
thắng, nhưng tiên báo hy tế trên Thập Giá, trong đó Chúa Giêsu trở
thành Bánh được bẻ ra nuôi nhiều người, trở thành mình và máu được
dâng hiến để đền tội cho thế gian được sống. Chúa muốn đám đông
dân chúng tỉnh ngộ, nhất là khơi lên nơi các môn đệ một quyết định.
Và thực tế là : "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo
Người nữa " (Ga 6, 66)
Có người quyết tâm theo Chúa
Nếu có môn đệ nói : "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" (Ga 6,
60) trước sự hiến thân trọn vẹn của Chúa, là vì họ không muốn từ bỏ
bản thân, để cho mình tham dự và biến đổi đến độ sống nhờ Chúa khi
đón nhận hồng ân nay.
"Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" (Ga 6, 60), khó nghe vì
người ta lẫn lộn tự do với không bị ràng buộc, coi Thiên Chúa như
một giới hạn tự do, gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài. Chính ảo tưởng này
tạo ra lo âu sợ hãi và dẫn tới sự tiếc nuối quá khứ. Người Do thái
trong sa mạc đã nói : "Ước gì chúng tôi được chết vì tay Chúa ở đất
Ai Cập..." (Xh 16, 3); còn Êlia thì thưa : "Lạy Chúa, đã đủ rồi, xin cất
mạng sống con đi: vì con chẳng hơn gì các tổ phụ con" (1V 19, 4).
Tại thung lũng Sikhem, nơi tổ phụ Abraham và Xara trú ngụ.
Giôsua kêu mời dân ra đứng trước tôn nhan Thiên Chúa và làm một
quyết định dứt khoát : "Nếu các người không muốn tôn thờ Thiên
Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn ... tôn thờ ai hơn : hoặc là các thần
cha ông đã tôn thờ...hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các
ngươi đang ở, về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa".
Dân trả lời "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ
những thần Ngoại, Chúa là Thiên Chúa chúng tôi " (x. Jos 24, 1517).
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đòi hỏi thính giả của Chúa Giêsu làm
một quyết định tương tự sau khi nghe giảng về Bánh hằng Sống là
máu thịt Chúa. Nhưng vì lời chướng tai của mình, họ đã bỏ đi, chỉ còn
lại Phêrô và nhóm Mười hai. Phêrô mạnh dạn thưa : "Lạy Thầy chúng
con biết sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời"
(Ga 6, 68).
Hôm nay, chúng ta thưa với Chúa Giêsu rằng, lạy Chúa, trong sự
khiêm nhường thẳm sâu, tin tưởng vào Chúa là Lời cuối cùng và
chung kết của Thiên Chúa nhập thể, đến gặp gỡ chúng con. Chúa là
Lời vĩnh cửu, trở thành manna đích thực, là bánh sự sống (x. Ga 6,32
35), chúng con muốn trung thành với Chúa bây giờ và mãi mãi, cũng
như Phêrô : "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những
lời ban sự sống đời đời" (Ga 6, 68).
Chúa có lời ban sự sống
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II dạy : Những ai ăn Đức Kitô
trong Thánh Thể không cần phải chờ đến đời sau mới đón nhận được
sự sống vĩnh cửu, nhưng họ đã chiếm hữu sự sống đó ngay đời này,
như những hoa quả đầu tiên của sự viên mãn mai sau, sự viên mãn
liên quan đến toàn thể con người. Trong Thánh Thể, chúng ta cũng
nhận được bảo đảm là thân xác chúng ta sẽ được sống lại trong ngày
tận thế : "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ
cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (Ga 6,54). Sự bảo đảm này
về sự sống lại mai sau bắt nguồn từ sự kiện thân xác của Con Người,
được trao ban làm của ăn, là chính thân xác trong tình trạng vinh hiển
sau khi sống lại. Với Thánh Thể, chúng ta như thể biết được "bí mật"
của sự sống lại. Vì thế, Thánh Inhatiô thành Antiokia đã định nghĩa
cách xác đáng Bánh Thánh như là "linh dược đem lại sự bất tử, một
phương thuốc diệt trừ sự chết".
Chiều hướng cánh chung được gợi lên trong Thánh Thể...Khi cử
hành hy tế của Con chiên, chúng ta được liên kết với "phụng vụ" trên
trời và trở nên thành phần của một đoàn người đông đảo lớn tiếng
tung hô : "Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính
Con Chiên đã cứu độ chúng ta" (Kh 7,10). Thánh Thể quả thật là một
thoáng hiện của thiên đàng trên trái đất. Thánh Thể là một tia sáng
huy hoàng của Giêrusalem thiên quốc xuyên qua lớp mây mù của lịch
sử chúng ta và soi sáng cho cuộc hành trình của chúng ta. (Trích
Thông Điệp Ecclesia De Eucharistia số 1819)
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Muốn Sống Đời Đời Hãy Ăn Bánh Giêsu
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Muốn Sống Đời Đời Hãy Ăn Bánh Giêsu
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XX – B
(Ga 6, 24 – 35)
Khởi đi từ việc thấy đám đông dân chúng theo mình, Chúa
Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để
nuôi sống họ. Họ được ăn bánh no nê nên tiếp tục tìm kiếm và đi
theo Chúa. Vì không hài lòng với ý tưởng ấy, Chúa trách họ : "Các
ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng
vì các ngươi đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Sau lời trách, Chúa
gợi lên nơi lòng họ sự khát vọng tìm kiếm thay vì của ăn hay hư
nát, thì hãy tìm kiếm lương thực trường tồn là chính Chúa (x. Ga
6). Khát vọng sống trường sinh nổi lên trong họ, Chúamạc khải
cho họ luôn : "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này,
sẽ sống đời đời" (Ga 6, 51).
Hôm nay, tiếp tục diễn từ về bánh hằng sống, Chúa Giêsu kêu
gọi những người Do thái và cả chúng ta nữa, hãy đến mà ăn cho no
uống cho thoả. Nếu chúng ta khao khát sự sống trường sinh, thì
đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu
và đón nhận Người, bởi chính Người : "Là Bánh Hằng Sống từ trời
xuống, ai ăn bánh này, sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban,
chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga 6,51).
Lời Chúa trong sách Châm Ngôn giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn
ý nghĩa của lời Chúa Giêsu phán ở trên : " Sự khôn ngoan đã xây
nhà mình... Pha rượu, dọn bàn tiệc, và sai những nữ tỳ lên các nơi
cao trong thành mà công bố rằng: Hãy đến ăn bánh của ta, và uống
rượu ta đã pha cho các ngươi" (Cn 9, 1‐5).
Nhưng Đức Khôn Ngoan ở đây là ai vậy ?
Theo thánh Irênê, vị giáo phụ thời danh của Giáo hội thì Đức
Khôn Ngoan của Thiên Chúa không phải ai khác ngoài chính Ngôi
Vị Thứ Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đúng như sách Khôn Ngoan
mô tả : Người tìm thấy niềm vui giữa loài người ... "Người đã làm
người giữa muôn người ... Người đã trao ban sự sống và thiết lập
sự hiệp thông giữa Thiên Chúa với con người "(Kinh Tin Kính của
Thánh Irênê).
Con người có được sự sống là nhờ Đức Khôn Ngoan nhập thể
làm người thông ban sự sống ấy cho, và sở dĩ con người được hiệp
thông với Thiên Chúa lànhờ Đức Khôn Ngoan ở giữa loài người, là
chiếc cầu nối kết giữa con người với Thiên Chúa. Những lời cuối
trong diễn từ về Bánh Hằng Sống của Chúa Giêsu trong đoạn Tin
Mừng (Ga 6, 51‐58) hôm nay là bằng chứng.
Theo tác giả sách Châm Ngôn thì chính Đức Khôn Ngoan ban
tặng đồ ăn thức uống cho những kẻ ngây thơ, tín thành và ban
tặng sự sống cho kẻ bỏ đi sự ngây dại và bước đi theo đường lối
khôn ngoan (x. Cn 9, 6). Theo thánh Gioan, Chúa Giêsu chính là sự
Khôn Ngoan của Thiên Chúa từ trời nhập thể, đích thân mời gọi
chúng ta ăn Người, để có sự sống trong chúng ta : "Ta bảo thật các
ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài,
các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi" (Ga 6, 53). Bắt đầu
đặt bút viết Tin Mừng, Gioan đã viết: " Từ nguyên thủy đã có Ngôi
Lời" (Ga 1,1). Thiên Chúa đã dùng chính Ngôi Lời mà tạo thành vũ
trụ, nay lại sai Ngôi Lời xuống thế để ban cho chúng ta sự sống
vĩnh cửu. Tin và đón nhận Chúa Giêsu là tin và đón nhận sự khôn
ngoan của Thiên Chúa. Tự chúng ta không thể có sự sống đời đời
được, phải cậy nhờ vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa là Chúa
Giêsu. Vì thế, kết hợp cả hai dòng tư tưởng, một của thánh Gioan
và một của sách Khôn Ngoan, chúng ta thật hạnh phúc khi được
mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời : "Ai
ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời" (Ga 6, 54) và hơn
thế nữa còn được Người đến cắm lều ngay nơi lòng kẻ ấy : "Ai ăn
thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy" (Ga 6,
56).
Vậy, hãy nghe và thực hành lời khuyên của thánh Phaolô mà
thận trọng trong cách ăn nết ở : " đừng như những kẻ dại dột, song
như những người khôn ngoan" (Eph 5, 15). Ai bước theo đường lối
khôn ngoan, và cư ngụ trong nhà Đức Khôn Ngoan đã xây dựng,
ngồi tại bàn của của Đức Khôn Ngoan thì sẽ được ăn thoả thích
những đồ ăn mỹ vị và uống rượu ngon do Đức Khôn Ngoan dọn
sẵn cho.
Chính do sự khôn ngoan của Thiên Chúa, con cái Israel mới có
Manna từ trời rơi xuống làm lương thực để ăn dòng dã suốt 40
năm trường (x. Xh 16, 1‐ 36 ) ; Va nhờ lòng từ bi mà Chúa sai
Thiên Thần mang bánh đến cho Êlia ăn, nhờ "sức của nuôi ấy, ông
đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên
Chúa" (1V 19, 8) ; Hay do chạnh lòng thương, Chúa Giêsu đã làm
phép lạ hóa bánh ra nhiều cho "ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" (Ga 6,
11)
Cho dù là Manna từ trời xuống, hay bánh Thiên Thần mang đến
nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những
thứ bánh đó cũng chỉ là thứ lương thực rất tạm bợ, kẻ nào ăn
những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn phải chết, nghĩa là
không có sự sống nơi mình.
Hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định, Người là bánh bởi trời
xuống, Người đến làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là cái ước
vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là sự sống đời đời.
Nếu như trong sa mạc, Manna là quà tặng do lòng thương xót
của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, nay Mình
Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ
nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang.
Chẳng có gì chân thật và an ủi hơn cho những linh hồn khát khao
nên thánh, nên trọn lành hãy nhớ lời sách Châm Ngôn dạy : "Hỡi
những người ngây thơ hãy lại đây... hãy đến mà ăn bánh của ta, và
uống rượu do ta pha chế" (Cn 9, 5).
Lạy Chúa, xin phái Đức Khôn Ngoan của Ngài tới đồng lao cộng
khổ với chúng con, dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là
nguồn mạch mọi sự khôn ngoan, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể,
và siêng năng lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống
đời đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Mẹ Về Trời, Xin Cho Con Được Về Trời Với Mẹ
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Mẹ Về Trời, Xin Cho Con Được Về Trời Với Mẹ
LỄ ĐỨC MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI
(Lc 1, 3956)
Con rồng trong sách Khải Huyền được mô tả như là mầm mống của
sự chết chóc vì nó đứng « rình người nữ sắp sinh con để nuối lấy đứa
trẻ » (Kh 12, 4). Với từ ngữ và hình ảnh tượng trưng, sách Khải Huyền
còn gợi lên cuộc chiến lâu dài giữa sự sống và sự chết, giữa Satan với
Đức Kitô và Giáo hội của Người.
Chúng ta biết, cuộc chiến giữa sự sống và sự chết, giữa sự thiện và sự ác
là không cùng. Con người dù tiến bộ đến đâu đi chăng nữa, vẫn luôn mang
trong mình sự mỏng giòn. 1. Sự mỏng giòn của con người
Vốn mỏng giòn yếu đuối, cộng thêm lo âu, phiền muộn về sức khỏe,
việc làm, về công việc gia đình phải gánh vác, những mập mờ vô định
ngày mai của cuộc đời, lo con còn trẻ, lo cha mẹ khi đã về già, ốm đau
bệnh tật, khủng hoảng về luân lý...tất cả đè nằng lên lòng trí con người.
Làm sao không khỏi ngạc nhiên khi thấy thời đại chúng ta đang tụt hậu
trước những biến cố của cuộc đời?
Trước những bất hạnh của thế giới, có người buông xuôi để mặc cho
số phận, không làm gì hết. Có người cấp tiến hơn, quyết định từ bỏ một
phần. Có người từ chối truyền lại sự sống mà họ đã lãnh nhận và không
chịu nhận cái khả năng có thể cho tương lai của chính họ và xã hội. Dần
dần những nhà trẻ sẽ thay thế nhà hưu dưỡng !
Giữa cảnh đời lữ thứ, người kitô hữu sống ra sao ? Đức tin của chúng
ta thế nào khi đối diện với các thực tại như thế? Lễ Đức Maria hồn xác
về Trời mang lại cho họ hy vọng gì trong cuộc sống?
2. Cuộc chiến thắng !
Chúng ta long trọng cử hành lễ Đức Maria hồn xác về trời chứa chan
niềm hy vọng, giúp chúng ta trả lời những vấn nạn trên. Trước hết, niềm
tin của Giáo hội đối với tín điều Đức Piô XII đã xác quyết năm 1950.
Chúng ta tin Đức Maria, đã được đặc ân cả hồn lần xác về Trời. Điều đó
muốn nói rằng sự chiến thắng con rồng trong sách Khải Huyền hoàn tất
nơi Mẹ, Mẹ về ngự bên hữu Chúa để chuẩn bị chỗ cho chúng ta như
Thiên Chúa đã dành cho Mẹ.
Chúng ta tự hỏi, Đức Maria đã được rước lên Trời cả hồn lẫn xác có
làm chúng ta thay đổi không ?
Thánh Phaolô cho chúng ta câu trả lời : « Đức Kitô đã từ cõi chết
sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc » (1 Cr 15, 20 ).
Đức Giêsu sống lại, có người tin, người không tin. Nhưng, Đức Kitô,
Con Thiên Chúa đã sống lại thật, đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Việc Đức Maria hồn xác lên Trời là một thực tại khác : Đức Maria
không phải là Thiên Chúa ; Mẹ là nữ tử Israel, là một trong những thụ
tạo như chúng ta, là người nữ giữa muôn vàn phụ nữ trên trần gian. Mẹ
đã được tôn vinh, vinh quang của Mẹ liên quan đến chúng ta. Những đặc
ân của Mẹ là kết quả cụ thể của ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho
Mẹ và nhân loại (x. 1 Cr 15, 2026). Mẹ được vinh hiển là nhờ công
nghiệp của Chúa Kitô, Con của Mẹ. Việc Đức Maria được rước lên trời
cả hồn lẫn xác là sự thông phần cá biệt vào cuộc phục sinh của Con Mẹ,
và tiên báo cuộc phục sinh của các tín hữu (GLCG số 966).
Đức tin không nói cho chúng ta biết điều gì về cái chết của Đức
Maria. Có người cho rằng Đức Maria không chết, nhưng Đức tin nói với
chúng ta rằng sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Maria được
Thiên Chúa tôn vinh. Nơi Mẹ, cũng như Đức Giêsu Con Mẹ, cái chết
không phải là hết, sự chết đã bị đập tan. Trái đất không còn là nơi giam
hãm con người trong số phận đau thương, các tầng trời mở ra để loan
báo một tương lai sáng ngời cho nhân loại. Sự chết đã bị tiêu diệt bởi
sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa. Đó là niềm hy vọng lớn lao cho
chúng ta !
3. Sống trong hy vọng
Kinh Tạ Ơn của Đức Maria nêu rõ : « Chúa đã ra oai cánh tay thần
lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng, Chúa lật đổ những người quyền
thế, và nâng dậy những kẻ khiêm nhường. Phận đói nghèo Chúa ban của
đầy dư... Vì Người nhớ lại lòng thương xót » (x. Lc 1, 3956). Chắc chắn
Thiên Chúa không thể để chúng ta bị nghèo đói đè bẹp, khi chúng ta tin
vào lời Chúa hứa.
Mừng kính Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về trời, chúng ta không chỉ
mừng vì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những điều trọng đại, mà còn mừng
vì sự hiện hữu của nhân loại. Thánh Phaolô nói: « Anh em khỏi phải
phiền sầu như những người khác, những kẻ không có hy vọng » (1 Tx 4,
13). Chúng ta cố gắng hiểu để sống sao cho xứng danh là người hy vọng.
Người trẻ sống hy vọng, khi họ hướng đến một tương lai khác và
muốn sống quảng đại như Chúa muốn.
Những người ở bậc gia đình sống niềm hy vọng, bằng cách hiệp nhất
cùng nhau, thủy chung trong đời sống vợ chồng để yêu thương, trao ban
hạnh phúc và sự sống cho con cái.
Những người nam sống niềm hy vọng khi mau mắn đáp lại tiếng
Chúa gọi để trở nên những linh mục, phó tế trong Giáo hội, và lấy làm
hạnh phúc vì được cộng tác vào sứ mạng cao cả của Đức Kitô Mục Tử !
Chúng ta thật bất hạnh nếu chúng ta không có niềm hy vọng !
Người sống hy vọng còn là người dấn thân cải thiện đời sống xã hội
và làm việc công ích, lương thiện với mọi người, chăm sóc những người
ốm đau, bệnh tật, già nua để trao ban cho họ niềm tin và giá trị về sự
hiện hữu của chính mình. Những người sống hy vọng cũng còn là người
tránh xa bom đạn, bạo lực chiến tranh, không ham báo thù.
Vậy mỗi người chúng ta hãy sống hy vọng, hãy làm ngày lại ngày,
không buông tay, mặc cho những ngang trái của cuộc đời. Phúc cho
chúng ta, nếu chúng ta can đảm chiến đấu mỗi sáng khi thức dậy cho
cuộc sống đáng sống của mọi người trên trái đất, thì thật phúc cho chúng
ta, như Mẹ Maria khiêm nhường phục vụ Chúa : « Này từ nay muôn thế
hệ sẽ khen tôi có phước! » (Lc 1, 48)
Nếu như khi xưa Mẹ Thiên Chúa đã đến với bà Êlisabet, thì ngày
hôm nay Mẹ vẫn đến với chúng ta. Mẹ mở rộng vòng tay nói với chúng
ta rằng : hỡi con, hãy tin tưởng và hy vọng, vì Chúa đã dọn chỗ cho con.
Nữ Vương linh hồn và xác lên Trời. Cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
ÔI ! MẸ ĐẦY ƠN PHÚC
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
ÔI ! MẸ ĐẦY ƠN PHÚC
Suy niệm Lễ Vọng Đức Maria Hồn Xác về Trời
(Lc 11, 2728) "Kính mừng Maria đầy ơn phúc" (Lc 1, 28 ). Đó là lời đầu tiên của
Sứ Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ. Hôm nay từ miệng của một người
nữ thích giả đang nghe Chúa Giêsu giảng cũng cất cao giọng nói : "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú" ( Lc 11,
27 )
Vâng Đức Maria là đấng đầy ơn phúc, Mẹ là người diễm phúc. Bài
Tin Mừng theo thánh Luca Thánh lễ vọng chiều nay dìu chúng ta về với
Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc. Người việt ta vẫn thường nói : "Phúc
đức tại mẫu", nghĩa là theo quan niêm truyền thống, con cái được thừa
hưởng điều tốt lành, may mắn từ người mẹ, do cách ăn ở cư xử, sự
gương mẫu, cách giáo dục của người mẹ mà ra. Người mẹ chính là thầy
dạy đầu tiên của việc hình thành nhân bản nơi đứa con. Chẳng thế,
George Herbert đã viết một câu rằng: "Một bà mẹ tốt thì giá trị hơn cả
trăm ông thầy!" Người Do thái cũng vậy, khi Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng,
thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ vì ngưỡng mộ con người cũng
như cách giảng dạy của Chúa Giêsu, bà cho rằng, Thầy tài giỏi như thế,
hẳn là Mẹ Thầy phải là người có phúc lắm, nên bà đã không ngần ngại
vượt qua rào cản của chính mình là phục nữ, bà đã cất tiếng nói với Đức
Giêsu về Mẹ Người : "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã
cho Thầy bú" (Lc 11, 27).
"Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy" ( Lc 11, 27 )
Đức Maria là người diễm phúc, trước hết vì đã được Thiên Chúa yêu
thương và tuyển chọn : "Phúc thay kẻ được Người chọn lấy và cho lại
gần, nơi tiền đình của Người, nó sẽ lưu lại! " (Ps 65,5). Câu này ám chỉ,
dân có phúc là dân được Thiên Chúa trị vì, nhất là được Thiên Chúa
thiết lập ngai báu vương quốc của Ngài ngay giữa họ; người có phúc là
người được Thiên Chúa đến ở cùng, dĩ nhiên chúng ta nghĩ ngay đến
Đức Maria, Thiên Thần Grabirel chào và nói : "Thiên Chúa ở cùng bà "
(Lc 1, 28 ), và lời bà Êlisabeth xác nhận cái phúc của Mẹ : "Bà được
chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc" (Lc
1, 42 ). Phúc của Mẹ trổi vượt trên mọi thần thánh trên trời, Mẹ có phúc
vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng là Hồng Phúc đã đến cư ngụ
trong dạ Mẹ chín tháng mười ngày, đến khi chào đời, Mẹ đã ôm ấp bú
mớm nâng niu... những điều đó đã làm cho vai trò làm mẹ của Đức
Maria trở thành mật thiết, gắn liền với cuộc sống của Chúa Giêsu hơn ;
không những thế, Chúa Giêsu còn ở với Mẹ trong và đã vâng phục Mẹ
suốt nhiều năm. Giờ đây, Mẹ thật diễm phúc và Mẹ luôn hạnh phúc,
Chúa Giêsu Con Mẹ đã phủ đầy vinh quang của Ngôi Lời nhập thể trên
Mẹ bên trong cũng như bên ngoài, hạnh phúc của Mẹ vượt quá sự hiểu
biết của chúng ta.
"Phúc cho vú đã cho Thầy bú" ( Lc 11, 27 )
Mẹ là người trinh nữ duy nhất đã được vinh dự cưu mang, sinh hạ và
dưỡng nuôi Con Một Thiên Chúa Chúa cho trần gian. Người đàn bà khi
nghe Chúa Giêsu giảng đã không ngần ngại nói đến những nét đặc trưng
và kín đáo của một người mẹ, những gì nơi thân xác mẹ cần cho sự sống
của con. Ngoài lòng dạ của thân mẫu Thầy đã cưu mang Thầy, còn có "vú đã cho Thầy bú mớm" ba năm. Như thế, thân xác và tâm hồn mẹ là
cái nôi ru cho con lớn lên. Mẹ vừa cưu mang, vừa lo sinh, lo dưỡng.
Nếu "yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời" như
kiểu nói của văn hào shakespears, thì Đức Maria là người diễm phúc,
vì Mẹ được Chúa yêu thương, chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình
yêu của mình cho Thiên Chúa. Ngay trong mầu nhiệm lên Trời, Mẹ
Maria đã được diễm phúc hưởng nếm ơn phục sinh "hồn xác lên trời"
trước bất cứ ai, vì Mẹ chẳng vướng mắc tội truyền. Mẹ hạnh phúc tự
nhiên vì cưu mang Con Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng
chính Mẹ biết rõ hơn ai, Mẹ hạnh phúc siêu nhiên vì được Tình Yêu
Thiên Chúa cưu mang từ muôn thủa. Mẹ hạnh phúc là như thế đó, và
trong hạnh phúc của Mẹ chúng ta tìm thấy hạnh phúc của mỗi người
chúng ta.
Mẹ sẵn sàng cưu mang hạnh phúc của mỗi chúng ta
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã cưu mang và cho bú
mớm là Đấng Cứu Độ thế gian, mặc lấy xác phàm nhân loại và thánh
hiến với tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Trái đất là bệ dưới chân của
Đấng là Hồng Phúc. Nên trong hạnh phúc của Mẹ có hạnh phúc của mỗi
người chúng ta. Như Mẹ hiền, khi bồng ẵm Chúa Giêsu Con Mẹ, với
vòng tay rộng mở của tình mẫu tử, Mẹ ôm cả nhân loại trong tình yêu
của Người Con ấy, "vì nhân loại là chi thể của Thân mình Ngài" (Ep
5,30), và Mẹ không xấu hổ vì được gọi là Mẹ của tất cả những ai được
sinh ra trong Chúa Kitô nhờ ơn cứu chuộc của Người. Mẹ được gọi là
Evà mới "Mẹ của tất cả chúng sinh" (St 3,20), nhưng trong thực thế, Mẹ
là Mẹ của những kẻ chết... Vì Evà cũ đã không thực hành ý định của
Chúa cách trung thành, Mẹ là người đã hoàn thành mỹ mãn mầu nhiệm
ấy. Cũng như Giáo hội là mẹ của tất cả những ai tái sinh trong đời sống
Giáo hội. Giáo hội là mẹ của những người sống làm cho mọi người được
sống (Ga 11,25; 5,25s). Khi trao ban sự sống cho trần gian dưới nhiều
hình thức, Giáo hội đã trao bao sự sống cho tất cả những ai tìm thấy sự
sống của mình trong Đấng Hằng Sống.
Chính vì thế, người mẹ diễm phúc của Chúa Kitô là mẹ chúng ta nhờ
mầu nhiệm thân thể này, Mẹ cũng tỏ cho chúng ta biết Mẹ rất ân cần và
trìu mến... Và giờ đây chúng ta "ở trong sự che chở " của Mẹ "Đấng
Tối Cao", chúng ta "ngụ cung cấm của Ðấng Tối Cao, và trọ dưới bóng
của Ðấng Toàn năng; Tôi đã đặt Chúa luôn luôn trước mắt, vì có Người
bên hữu, tôi sẽ không lay! " (Ps 90,1; 16,8). Hơn nữa, vì Vua vinh quang
đã ngự nơi Mẹ, với tình mẫu tử hải hà, Mẹ sẽ chia sẻ vinh quang ấy cho
chúng ta.
Mẹ hạnh phúc, Mẹ cũng muốn con cái mình hạnh phúc, nên Mẹ dạy : "Người bảo gì các con cứ làm theo" (Ga 2, 5 ). Chúa Giêsu bảo: "Ai
nghe và giữ lời Thiên Chúa còn có phúc hơn" ( Lc 11, 28 ). Xin Mẹ giúp
chúng con vâng nghe và giữ lời Thiên Chúa, để trở nên những người con
diễm phúc của Mẹ. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sẽ Trường Sinh Nếu Ăn Bánh Giêsu
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sẽ Trường Sinh Nếu Ăn Bánh Giêsu
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XIX – B
(Ga 6, 41 – 52)
Ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, con người ở mọi nơi mọi
thời vẫn hằng khao khát sống sống trường sinh bất lão. Vì khát khao
vậy, nên người ta ra công tìm mọi cách để kéo dài sự sống bao nhiêu có
thể. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một thứ lương thực
trường tồn là chính Chúa: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn
bánh này, sẽ sống đời đời" (Ga 6, 51).
Bánh trong sa mạc
Trên hành trình về Đất Hứa, qua sa mạc Sin, giữa Êlim và Sinai, dân
Israel nổi loạn kêu trách Môsê đã dẫn họ ra khỏi Ai Cập để vào đây phải
chết đói (x. Xh 16,3). Môsê đã xinThiên Chúa ban cho Manna từ trời
xuống làm của ăn dòng dã 40 năm trường (x. Xh 16, 1 36 ).
Đến lượt Êlia, người Tisbê, ở Galaad, sứ ngôn của Thiên Chúa, trong
thời kỳ hạn hán không có mưa, có sương, Thiên Chúa đã dùng quạ ở
thung lũng Cơrít và bà góa thành Xarépta nuôi ông (x. 1V 17, 115). Và
trong cuộc hành trình đến núi Horeb của Thiên Chúa, ngài đã dùng
chính Thiên Thần mang bánh đến cho ông ăn, nhờ "sức của nuôi ấy, ông
đi bốn mươi ngày bốn mươi đêm mới tới Horeb, núi của Thiên Chúa"
(1V 19, 8).
Cho dù là Manna từ trời xuống nuôi dân Israel trong sa mạc, hay
bánh Thiên Thần mang đến cho Êlia nuôi sống người ta 40 ngày cùng
lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ nuôi sống con
người cách rất tạm bợ, kẻ ăn những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn
phải chết. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta bánh bởi trời
xuống là chính Chúa, Người đến làm no thỏa cái đói tinh thần con
người, ai ăn chính Người sẽ khỏi đói muôn đời, và nhất là khỏi chết đời
đời.
Bánh Giêsu
Thật không phải dễ để giúp những người Do thái thời Chúa Giêsu
đón nhận Chúa là Bánh Hằng Sống, thứ bánh họ cần thiết phải kiếm tìm,
và ăn không phải nhằm thỏa mãn thể lý trong một thời gian, nhưng còn
để sống vĩnh viễn. Chính vì thế, từ phép lạ hóa bánh ra nhiều làm thỏa
mãn cái đói thể xác của họ một cách lạ lùng, Người chuẩn bị họ đón
nhận lời loan báo, Người chính là bánh từ trời xuống (x. Ga 6, 41) làm
thỏa mãn một cách vĩnh viễn :"Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời" (Ga 6,
51).
Trong hành trình dài nơi sa mạc, toàn dân Do thái đã sống kinh
nghiệm Manna, bánh từ trời xuống dưỡng nuôi họ cho tới khi vào đất
hứa. Thật đáng ngưỡng mộ Thiên Chúa đã làm mưa Manna từ trời
xuống mỗi ngày cho cha ông chúng họ ăn no thỏa thích. Đó là lý do tại
sao người ta nói : "Bánh Thiên Thần phàm nhân được hưởng" (Tv 77,
25). Tuy nhiên, những người ăn bánh này trong sa mạc đều đã chết. Nay,
Chúa Giêsu là bánh đích thực do Thiên Chúa Cha ban xuống từ trời, ai
ăn sẽ khỏi phải chết muôn đời, bánh đó chính là thân mình Chúa Giêsu,
Người quả quyết: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này,
sẽ sống đời đời"(Ga 6, 51). Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống, là hồng ân
bởi trời, là chính Chúa ngự trên các tầng trời, có khả năng duy trì sự
sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi.
Người là lương thực ban sự sống vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một
Thiên Chúa, ở cung lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con
người sự sống tràn đầy, dẫn con người vào trong chính sự sống của
Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã thất bại, gặp phải điều cấm kỵ trong dân
Israel khi tuyên bố :"Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ
ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga 6, 51 ). Người dẫn
chứng : "Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết",
khiến họ kêu trách: "Chớ thì ông này chẳng phải là Giêsu, con ông
Giuse sao? Chúng ta đều biết rõ cha mẹ của ông. Vậy làm sao ông lại
nói: 'Ta bởi trời mà xuống"(Ga 6, 42). Họ không vượt qua được các
nguồn gốc trần gian, và vì thế họ khước từ tiếp nhận Chúa Giêsu như
Lời nhập thể của Thiên Chúa. Và như một hệ quả, họ đã mang án tử để
đi vào cõi chết vì không tin. Họ còn quá xa bánh bởi trời và không cảm
thấy đói bánh ấy.
Phần chúng ta giờ này đây phải tự hỏi xem chúng ta có thật sự tin
Chúa là bánh hằng sống, có cảm thấy đói Lời Chúa, đói bánh Giêsu
không? Nếu chúng ta cảm thấy đói thực sự, chúng ta hay tin vào Chúa
và để Thiên Chúa lôi kéo. Vì chỉ có ai được Thiên Chúa Cha lôi kéo, chỉ
có ai lắng nghe Người và để cho Người dậy dỗ, mới có thể tin nơi Chúa
Giêsu, găp gỡ Người và nuôi dưỡng mình bởi Người, và như thế tìm ra
sự sống thật, tìm ra con đường sự sống, công lý, sự thật và tình yêu. Vì
thật ra, ai ăn bánh hằng sống thì tin nơi Chúa, và ai tin thì ăn và trong
một cách vô hình họ được no thỏa.
Ngày hôm nay, qua bàn tiệc Thánh Thể, Chúa Giêsu cũng mời gọi
mỗi chúng ta hãy đến để đón nhận bánh ban sự sống, bánh bởi Trời đích
thực là chính thân mình Người: "Đây là Mình Thầy"; "Đây là Máu
Thầy"; "Ai tin và đón nhận sẽ được sống muôn đời".
Xin cho mỗi người chúng ta có lòng tin yêu Chúa hiện diện nơi Bí
Tích Thánh Thể, để qua việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa,
chúng ta được sống trường sinh. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy Tìm Bánh Hằng Sống Giêsu
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy Tìm Bánh Hằng Sống Giêsu
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XVII – B
(Ga 6, 24 – 35)
Phúc Âm chương 6 Tin Mừng Gioan được đưa vào giữa năm phụng
vụ, làm gián đoạn Tin Mừng Marcô đang được đọc trong mùa thường
niên B. Khởi đi từ việc thấy dân chúng theo mình rất đông, Chúa Giêsu
đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám
đông dân chúng. Họ theo Chúa vì cái bụng, Chúa không hài lòng nên
trách móc : "Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những
dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê" (Ga 6, 26). Chúa gợi
lên cho họ lòng khát vọng tìm kiếm thay lương thực trường tồn là chính
Chúa là tin vào Người (x. Ga 6).
Manna của ăn trong sa mạc
Nếu như vào một buổi sáng nọ, con cái Israel thấy có một thứ gì nho
nhỏ mịn màng như sương muối phủ mặt đất, họ liền hỏi nhau: "Man hu?
" Nghĩa là: "Cái gì đây? " (Xh 16, 14) Ngày hôm nay chúng ta cũng hỏi
nhau Manna là cái gì?
Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà
Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai cập. Trên hành trình về Đất Hứa để
chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa
mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, "Đó là bánh Thiên
Chúa ban... làm của ăn" (Xh 16, 16), không chỉ làm lương thực đi
đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa. Dân
Israel vẫn quan niệm ông Môsê là người đã cho họ ăn bánh bởi trời,
nhưng Chúa Giêsu đã chỉnh sửa ḷi là chính Thiên Chúa chứ không phải
ông Môsê là Đấng cho họ của ăn trong sa mạc, đồng thời mời gọi họ
nhìn nhận và tin vào chính Người là Bánh đích thực do Thiên Chúa của
cha ông họ gửi đến lúc này đây.
Bánh Giêsu
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng được no nê tùy thích, tưởng
rằng thời Mêssia đã đến, họ muốn tôn Chúa làm vua, nên tìm theo Chúa.
Gặp họ, Chúa muốn họ đi xa hơn, đã mất công tìm kiếm, thì hãy "ra
công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại
cho đến cuộc sống muôn đời" (Ga 6, 27). Chúa gợi lên nơi họ lòng khát
vọng trường tồn, khiến họ đặt câu hỏi : "Chúng tôi phải làm gì để gọi là
làm việc của Thiên Chúa?" (Ga 6, 28) Câu hỏi xem ra không có gì liên
quan đến Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vẫn có một tương quan, đó là "công
việc". Chúa chỉ cho họ: "Công việc của Thiên Chúa làcác người hãy tin
vào Đấng mà Ngài sai đến"(Ga 6, 29).
Ðức tin là điều căn bản. Đây không phải là theo một ý tưởng, một dự
án, mà là gặp gỡ Chúa Giêsu, một người sống động, để cho mình được
Chúa và Tin Mừng của Chúa lôi cuốn. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng
không dừng lại ở chân trời thuần túy nhân loại, nhưng mở rộng tới chân
trời của Thiên Chúa, chân trời của niềm tin. Người chỉ đòi hỏi một công
việc duy nhất là : tiếp nhận chương trình của Thiên Chúa, nghĩa là "tin
nơi Ðấng Thiên Chúa đã sai đến" (Ga 6, 29). Chúa Giêsu đã tự hiến
chính mình, trở nên bánh đích thật, "bánh từ trời xuống", chính Người là
Lời hằng sống của Chúa Cha. Gặp gỡ Người là chúng ta gặp gỡ Một
Thiên Chúa hằng sống.
Thật không phải dễ để dân chúng tin vào Người, họ đòi dấu lạ, gợi
nhớ manna, bánh mà cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Để giúp họ hiểu ý
nghĩa sâu xa của phép lạ Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn một cách lạ lùng
cái đói thể lý của họ, Người mời gọi họ đón nhận lời loan báo chính
Người là bánh từ trời xuống (x. Ga 6, 41) làm cho họ thỏa mãn một cách
vĩnh viễn. Nếu như cha ông họ trong hành trình dài trong sa mạc đã sống
kinh nghiệm về thứ bánh từ trời xuống là manna dưỡng nuôi họ cho tới
khi vào Đất Hứa. Giờ đây Chúa Giêsu nói về chính Người là "bánh từ
trời xuống", có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc
hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống
vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở trong lòng Thiên
Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, và đưa con
người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Chúa Giêsu khẳng định
với họ rằng : "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề
đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ" (Ga 6, 35). Người là bánh
từ trời xuống làm no thỏa cái đói tinh thần con người. Người là Lời của
Thiên Chúa nhập thể làm no thỏa cái đói khát của linh hồn con người
một cách vĩnh viễn.
Theo thánh Agustinô : "Chúa Giêsu khẳng định Người là bánh từ
trời xuống, và mời gọi dân chúng tin vào Người. Thật ra, ăn bánh hằng
sống có nghĩa là tin vào Chúa, ai ăn thì tin và ai tin thì ăn. Trong một
cách vô hình họ được no thỏa, cũng như trong một cách vô hình họ tái
sinh vào một cuộc sống sâu xa hơn, đích thật hơn; họ tái sinh từ bên
trong, trong nơi sâu thẳm của họ, và họ trở nên một con người mới"
(Omelie su Vangelo di Giovanni, 26,1).
Thánh Thể thần lương vượt thế trần
Nếu như trong sa mạc, manna là quà tặng do lòng thương xót của
Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót ấy là Đức Giêsu Kitô
Con Một Chúa, Đấng tự hiến mình làm Thần Lương không chỉ nuôi
sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy.
Manna xưa chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh
Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua
trần thế về tới quê trời vinh phúc. Trong sa mạc, manna chứng tỏ Chúa
không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế
giới bằng chính mình trong bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích ThánhThể,
người cô đơn tìm được nguồn an ủi ; người yếu đuối tìm được sức mạnh;
người tội lỗi tìm được ơn tha thứ ; người đau yếu tìm được sự chữa lành
; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần ; người hấp hối tìm được sự
đỡ nâng ; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự
thông cảm và âu yếm... Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, manna ngày
xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết quy tụ
mọi sự về Chúa, biết tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón
rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chính anh em hãy dọn cho họ ăn
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chính anh em hãy dọn cho họ ăn
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XVII – B
(Ga 6, 1 – 15)
Sống trong một thế giới khoa học phát triển tột bậc mệnh danh là thời hậu @, con
người đã đạt được những bước tiến vĩ đại với những công trình táo bạo, vượt quá sức
tưởng tượng như thám hiểm sao Hỏa, tiếp cận sao Diêm Vương, rất tự hào về sự dư dật
của cải và lương thực. Báo chí ngày nay cũng cho biết, chưa bao giờ con người có nhiều
của cải như thế. Ông Bilgate, tỷ phú người Mỹ gốc Do thái, người chuyên bán phần
mềm của vi tính, có tài khoản tại các ngân hàng trên thế giới tương đương với thu nhập
quốc dân của 40 nước nghèo. Một tên lửa được Mỹ bắn lên đốt cháy hàng bao tỷ đô la.
Chiến tranh tại Irắc, Syria và nhiều nơi trên thế giới tiêu huỷ biết bao tiền của, giết chết
bao sinh mạng con người. Ấy vậy mà, chưa bao giờ có nhiều người nghèo đói như ngày
nay. Tại sao có sự chênh lệch giầu nghèo trên thế giới như thế?
Thời Êlia, đứng trước đám đông dân chúng đói khát, Êlisê người của Thiên Chúa nói
: "Xin dọn cho dân chúng ăn" (2V 4, 42). Đầy tớ của người trả lời : "Tôi dọn bấy nhiêu
cho một trăm người ăn sao ?" (2V 4, 43) Đến thời Chúa Giêsu, các môn đệ Chúa khi
được yêu cầu lo cho đám dân chúng ăn, họ thưa : "Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng
ấy người". Êlisê ra lệnh : "Cứ dọn cho dân chúng ăn " (2V 4, 44). Còn Chúa Giêsu thì
bảo các môn đệ mình : "Cứ bảo người ta ngồi xuống"... Người phân phát cho các kẻ
ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" (Ga 6, 1012). Chúa Giêsu thấy đám đông đến với Người, từ ánh mắt đến trái tim, Người nhìn họ
không phải với ánh mắt loài người, nhưng với cái nhìn Mục Tử Nhân Lành đầy lòng từ
bi và thương xót, chứa đầy cảm xúc nảy sinh ước muốn nuôi dưỡng đám đông. Họ theo
Chúa vì họ thấy Người từ Thiên Chúa mà đến. Đám đông không chạnh lòng thương
Chúa Giêsu, nhưng Chúa Giêsu chạnh lòng thương họ. Chúa thấy dân chúng đói khổ,
đang cầu cứu, với gánh nặng mỗi ngày, ốm đau bệnh tật và đang chạy vạy. Chúa Giêsu "Chạnh lòng thương" đám đông, tình yêu và lòng thương xót của Đấng Cứu Thế trào
dâng. Người đã mời gọi các môn đệ cộng tác với Người vào công trình cứu chuộc và
yêu thương ấy, ngày nay Người vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta.
Đối diện với nhu cầu của biết bao người anh em nghèo đói, thiếu thốn chung quanh
ta và rộng lớn hơn là trên thế giới, chúng ta có thể nói: không thể nào đương đầu với
những tình trạng như vậy, và thế là sự co cụm, thiếu tình liên đới, nhất là tuyệt vọng bắt
đầu xâm chiếm tâm hồn chúng ta. Một lần nữa sứ điệp Lời Chúa nói với chúng ta rằng : "Cứ dọn cho dân chúng ăn!" (2V 4, 42)
Lời mời gọi trên vẫn đang vang vọng mạnh mẽ và cấp bách đối với chúng ta. Thiên
Chúatiếp tục yêu cầu chúng ta : "Cứ dọn cho dân chúng ăn!" (2V 4, 42) Chúa Giêsu
không chấp nhận sự thoái thác khi nói : "Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn
sao?" (2V 4, 43) hay : "Bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người" (Ga 6, 9). Lệnh Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải làm ngay lập tức. Chúa không cần
những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán lớn
lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế : "Ở đây có
một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá" (Ga 6, 9). Thật là ít ỏi, nghèo
nàn, Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn ấy. Có ít hãy đóng góp ít.
2
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy nhìn những người chung quanh bằng cái nhìn của tình
liên đới, đừng dửng dưng, vô cảm. Hãy nhìn anh em nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ
vơ, hãy an ủi họ, đừng có thờ ơ. Triệu chứng của sự thờ ơ xuất hiện, gặp người có hoàn
cảnh khó khăn, hoạn nạn mà không thấy xót xa, thương cảm, không muốn ra tay giúp
đỡ dù có điều kiện; đứng trước sự bất công, xấu xa, gian dối mà không thấy phẫn nộ,
nhức nhối; thấy những điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Dù là
thờ ơ, dửng dưng, hay mặc kệ, bất cần đều là vô cảm (x. Sứ Điệp Mùa Chay 2015). Chúa muốn loại bỏ sự vô trách nhiệm, phủi tay nơi các môn đệ. Họ đói, các con phải
lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ, nhưng đã đồng cảm thì
phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc.
Chính Chúa Giêsu đã nêu gương và chỉ đường cho chúng ta. "Người cầm lấy cầm lấy
bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn và cá cũng được phân phát
như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích" (Ga 6, 11). Đó chính là con đường phép lạ. Chắc
chắn đây không phải là ma thuật. Qua các hành động ấy, Chúa Giêsu đã biến đổi được
căn bệnh vô cảm, thoái thác trách nhiệm của con người đối với đồng loại.
Phép lạ Chúa Giêsu làm là để thể hiện tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.
Vì yêu thương, Chúa chữa lành các bệnh nhân, cho kẻ chết sống lại, nuôi sống đám
đông dân chúng. Cũng vì yêu thương, Chúa đến cứu giúp con người : phục hồi sự sống,
sức khỏe và phẩm giá con người cho họ. Các phép lạ Chúa Giêsu làm minh chứng lòng
thiện hảo của Thiên Chúa . Chúa đầy tràn sự sống, ánh sáng và tình yêu! Hết thảy mọi
người đều ăn no nê, nếu mọi người quan tâm đến nhau. Trong một lá thư mục vụ mùa chay của Đức cố Hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình
Tụng, ngài viết : "Hãy mở mắt ra mà nhìn, mở lòng ra mà thương, rộng tay mà chia sẻ
với 5 chiếc bánh và hai con cá mà Chúa đã đặt vào tay ta". 5 chiếc bánh và hai con cá ấy
là sức khoẻ, là tuổi trẻ, là con đàn cháu đống, là điều kiện hơn người..." Ngài viết tiếp "vì Đạo của chúng ta là Đạo của tình thương, về khoa học chúng ta vụng về, về văn hoá
chúng ta thấp kém, về văn minh chúng ta quê mùa. Chúng ta có thể thua họ nhiều điều,
nhưng Đạo không cho phép chúng ta thua họ về Tình Thương...". Noi gương bé trai trong Tin Mừng hôm nay, dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và 2 con cá
mà ta đang có, Chúa sẽ thực hiện những điều kinh ngạc. Ước gì mỗi người chúng ta hãy
cố gắng thực hành lời Chúa dạy, sống bác ái yêu thương, cùng nhau xây dựng một xã
hội văn minh tình thương như lòng Chúa mong ước. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tình mục tử ấp ủ đoàn chiên
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tình mục tử ấp ủ đoàn chiên
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XVI – B
(Mc 6, 30 – 34)
" Mục tử" là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong
trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã tự
ví mình là " mục tử, người chăn chiên" và dân Israel được Chúa chọn là đoàn chiên của
Chúa : "Ta sẽ quy tụ phần còn lại của đoàn chiên Ta ...Ta sẽ lùa chúng về đồng
cỏ..." (Gr 23, 3). Đến lượt Chúa Giêsu, khi thấy dân chúng bơ vơ tất tưởi, Người động
lòng trắc ẩn ví họ như : "Đàn chiên không người chăn dắt" (Mc 6, 34). Người cũng tự
nhận mình là "Người chăn chiên".
Hình ảnh người mục tử với đoàn chiên thật tuyệt đẹp, dễ thương và đầy cảm động,
diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa với Dân Ngài như " Mục tử" với "đoàn chiên".
Thông thường, trong Cựu Ước, người ta gọi Thiên Chúa là mục tử của dân Ngài (St
49, 24 – 31 ; Gr 31, 10 ; Mk 7,14 v.v ...) Sự so sánh này có nguồn từ đầu lịch sử thánh,
vì dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa, trước hết là Abraham từ Ur
đến Canđê, thứ đến là Môisen, kẻ chăn cừu nhận được mạc khải từ bụi gai đang cháy
trong sa mạc, cho tới Đavít cậu bé chăn cừu ở Belem.
Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành là một trong những hình ảnh lâu đời nhất
của Kitô giáo. Hình ảnh này được tìm thấy trong các hang toại đạo, người ta khắc vẽ
Chúa Giêsu với hình ảnh người chăn chiên dịu dàng và trìu mến, vác chiên trên vai, tìm
kiếm con chiên lạc, đưa chiên về với đoàn của chúng để chia sẻ cùng một đồng cỏ xanh
tươi. Khi lấy lại hình ảnh người mục tử và tự ví mình như thế, Chúa Giêsu đưa chúng ta
về với hình ảnh cổ xưa trong Kinh Thánh, chứng tỏ Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn
dắt dân, hơn thế nữa còn là Đấng trao ban sự sống cho dân : "Ta sẽ quy tụ phần còn lại
của đoàn chiên Ta từ khắp các xứ mà Ta đã phân tán chúng, Ta sẽ lùa chúng về đồng
cỏ, để chúng lớn lên và tăng số" (Gr 23, 3). Vì muốn trao ban nên một khi đã trao ban
thì Chúa bảo vệ giữ gìn. Các mục tử được Chúa trao cho chăn dắt đàn chiên Chúa
không cẩn thận, Chúa nổi giận đòi lại chiên : "Khốn cho các mục tử làm tản mát và xâu
xé chiên Ta... Các ngươi đã phân tán xua đuổi và không trông nom đoàn chiên Ta...Ta
sẽ xét xử những hành động gian ác của các ngươi. Ta sẽ cho chúng có những chủ chăn
để họ chăn dắt chúng" (Gr 23, 14). Chúa chăm sóc chiên của Chúa như thế nào?
Những cảm nghiệm của con chiên dẫn chứng sự chăm sóc của chủ chiên : "Trên đồng
cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn
tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng" (Tv 22, 13). Ðiều này có nghĩa là Thiên Chúa
muốn chúng ta không những sống mà còn sống dồi dào, Ngài muốn hướng dẫn chúng ta
tới các đồng cỏ tốt tươi, nơi chúng ta có thể được nghỉ ngơi bồi dưỡng, sự sống ấy bắt
nguồn từ tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con. Thiên Chúa không muốn con
người phải hư mất hay bị diệt vọng, nhưng muốn con người đạt tới cùng đích là sống
viên mãn tràn đầy. Ðó là điều mà bất cứ người mục tử nào cũng mong muốn cho đoàn
chiên.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự giới thiệu mình như Mục Tử của đoàn
chiên lạc nhà Israel. Cái nhìn của Chúa trên đám đông dân chúng là cái nhìn "mục tử"
đầy tình thương. Thánh Marcô viết : "Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng
thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy
dỗ họ nhiều điều" (Mc 6,34). Chúa Giêsu nhập thể dưới hình hài Thiên Chúa Mục Tử
2
với kiểu giảng dậy của Người và các việc Người làm, bằng cách chữa lành các người
đau yếu và tội lỗi, săn sóc những người ốm đau tật bệnh, để dẫn đưa họ đến bến bình an
trong tình xót thương vô bờ của Thiên Chúa là Cha.
Vì kẻ dữ luôn tìm cách phá hỏng công trình của Thiên Chúa, bằng cách gieo vãi chia
rẽ trong trái tim con người, giữa thân xác với linh hồn, giữa con người với Thiên Chúa,
trong các tương quan liên bản vị, xã hội, quốc tế và cả giữa con người và thụ tạo. Kẻ dữ
gieo rắc chiến tranh; Thiên chúa tạo dựng hòa bình. Hơn thế nữa, như thánh Phaolô
khẳng định : "Chúa Kitô là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một,
đã phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt sự hận thù trong thân xác của Người" (Ep
2,14). Ðể chu toàn công trình hòa giải triệt để ấy, Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, đã
phải trở thành Chiên Con, "Chiên Con Thiên Chúa... gánh tội trần gian" (Ga 1,29). Chỉ
như thế Người đã có thể thực hiện lời hứa tuyệt diệu của Thánh Vịnh: "Lòng nhân từ và
ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư
cho tới thời gian rất ư lâu dài" (Tv 23, 6).
Người mục tử dẫn dắt đoàn chiên không đành lòng đuổi chiên nhưng đưa chiên tới
đồng cỏ xanh tươi, tới suối nước trong lành. Tập hợp chiên lại xung quanh mình : "Mục
tử tốt lành thí mạng vì đoàn chiên" (Ga 10, 11). Người vừa là Mục tử và vừa là Cửa
chuồng chiên (Ga 10, 7) "Và chính nhờ Người mà chúng ta đôi bên được đến gần Cha
trong cùng một Thần Trí" (Eph 2 18). Nhờ Người mà chúng ta đi vào sự sống của Ba
Ngôi Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã yêu thế gian như thế đó, " Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu thí
mạng vì người mình yêu". "Thiên Chúa là tình yêu" Ngài đã yêu thế gian đến nỗi đã ban
Con Một (x. Ga 3, 16), không ngần ngại trao ban sự sống mình (x. Eph 2, 14)
Những lời trên thật cảm động và đầy an ủi biết bao cho nhân loại hôm nay, vì nó đáp
ứng khát vọng sâu thẳm của con người : đó là sống, sống viên mãn, sống vui và sống
đời đời! Xin Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Kitô, Nữ Vương Bình An, Đấng luôn sống
trong đồng cỏ Trời Cao, nơi Chiên Con Mục Tử hằng chăn dắt, cầu cho chúng con !
Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy đi nói tiên tri cho dân Ta
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hãy đi nói tiên tri cho dân Ta
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XV – B
(Mc 6, 7 13) "Hãy đi". Chúa phán cùng Amos : "Hãy đi nói tiên tri cho dân Ta" (Am 7, 15) ; "Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi" (Mc 6, 7). Chúa gọi Amos,
Chúa sai các tông đồ, Chúa cũng gọi mỗi người chúng ta. Hết thảy mọi tín hữu, ngoài
ơn gọi làm con cái Chúa, còn có ơn gọi làm ngôn sứ, và rao giảng Tin Mừng nữa.
Chúa chọn Amos và sai đi
Amos là người được Thiên Chúa chọn gọi và sai đi, khi ông chăn bò, Chúa túm lấy
ông, Chúa lôi ông đi. Dù không được đón tiếp, ông vẫn mạnh mẽ rao giảng chống lại sự
bất công, nhất là tố cáo nhà vua và các kỳ mục đã xúc phạm đến Thiên Chúa khiến cho
hành vi phụng tự của họ trở nên vô ích. Vì thế Amasia đuổi Amos khỏi vương quốc
Israel : "Hỡi tiên tri, người hãy trốn sang đất Giuđa, sinh sống và nói tiên tri ở đó. Chớ
tiếp tục nói tiên tri ở Bêthel, vì đó là thánh điện của vua và là đền thờ của vương quốc"
(Am 7, 1213). Nhưng Amos vẫn tiếp tục nhiệm vụ ngôn sứ của mình. Dẫu biết rằng,
việc phụng sự Thiên Chúa nơi Đền thờ và trong cung thánh là việc dành riêng cho chi
tộc Lêvi. Amos không chỉ trích điều Môisê thiết lập. Ông tự đặt mình vào vị trí chính
xác : "Tôi không phải là tiên tri, cũng không phải con của tiên tri. Tôi là một người
chăn bò và chuyên đi hái lá xung" (Am 7,14). Thiên Chúa đã chọn ông từ nơi khác đến
và trao cho ông sứ mạng này. Ông đến rao giảng điều Thiên Chúa phán chứ không rao
giảng những gì con người muốn nghe. Đây chính sứ mạng của Giáo hội, Giáo hội không
rao giảng điều các kẻ quyền thế muốn nghe. Tiêu chuẩn của các tông đồ là sự thật và
công lý, cả khi chống lại sự đồng tình của con người và quyền bính trần gian. Cộng
đoàn Giáo hội sơ khai cũng gặp những khó khăn tương tự như sự xuất hiện của thánh
Phaolô, "hoán cải trong giây lát".
Amasia yêu cầu Amos rời khỏi vương quốc thuộc chi tộc phía Bắc đi đến đất Giuđa,
vì ông không muốn nghe, Amos trả lời : "Khi tôi đang đi theo đàn chiên, thì Chúa dẫn
tôi đi và nói cùng tôi rằng: "Ngươi hãy đi nói tiên tri cho dân Israel của Ta" (Am 7,
15). Sứ mạng của Amos là phổ quát, Chúa sai đi nói tiên tri cho cả 12 chi tộc chứ không
riêng một chi tộc nào.
Chúa Giêsu sai các môn đệ
"Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con" (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con
cũng sai Giáo hội đi đến tận cùng trái đất. Ðây là sứ điệp phát xuất từ Thiên Chúa gửi
đến hết mọi người, ngõ hầu con người được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa. Các tông đồ là những người bình thường được Chúa chọn, gọi và sai từng hai người
đi, sau khi dạy các ông cầu nguyện, Người ban cho các ông quyền trên các thần ô uế là
những thần có lần làm các ông bất lực ! Dù là ai đi chăng nữa, gặp sự gì vượt quá khả
năng, cần có sự trợ giúp từ Trời Cao. Chúa Giêsu tin tưởng và dạy dỗ các ông để các
ông mang Tin Mừng đến tận cùng thế giới.
Thế là sáng kiến của Chúa Giêsu được thể hiện, mười hai ông được sai đi. Tông Ðồ
nghĩa là "được sai đi". Sự kiện Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cộng tác trực tiếp vào sứ
mệnh của Người, thể hiện khía cạnh yêu thương của Chúa. Chúa không chê sự trợ giúp
của con người vào công trình của Chúa. Người biết rõ giới hạn cũng như yếu đuối của
họ nhưng không khinh rể họ, trái lại còn ban cho họ phẩm giá là những người được
Chúa sai đi.
Chúa sai họ đi kèm theo các chỉ thị. Thứ nhất là tinh thần không dính bén tới tiền
bạc và các tiện nghi vật chất. Ra đi với hai bàn tay trắng để họ chỉ còn cậy dựa vào
chính Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới hoán cải được lòng người. Người cũng báo cho họ
biết không phải nơi nào họ cũng được tiếp đón, đôi khi bị khước từ và cũng có thể bị
bách hại. Nhưng họ phải luôn luôn nói nhân danh Chúa Giêsu và rao giảng Nước Thiên
Chúa mà không lo chuyện thành công.
Cử chỉ rũ bụi chân diễn tả sự không dính bén luân lý và vật chất, như để nói rằng
chúng tôi đã loan báo nhưng các bạn đã từ chối, và chúng tôi không muốn gì cho các
bạn cả. Sau hết, cùng với việc rao giảng là chữa lành bệnh tật theo gương Chúa Giêsu
để biểu lộ lòng lành của Người với các cử chỉ bác ái, phục vụ và sự tận hiến.
Chúa tiếp tục sai chúng ta
"Hãy đi !" Mệnh lệnh Chúa truyền cho Amos vẫn còn rất thời sự với chúng ta. Nếu
như tiên tri Amos lúc ấy thoái thác, thì ngày hôm nay một tâm thức khá phổ biến cổ võ
cho thái độ muốn rút lui trước những khó khăn vẫn tồn tại. Ðiều kiện đầu tiên để "ra đi"
là vun trồng một tinh thần cầu nguyện sâu xa, được nuôi dưỡng hằng ngày bởi việc lắng
nghe Lời Chúa.
Ở thời chúng ta, vẫn có những người nam nữ được Thiên Chúa chọn, túm lấy, khi họ
đang đối mặt với những lo lắng hằng ngày. Họ đang ở trong giáo xứ, chủng viện, tu
viện, hay trên cánh đồng truyền giáo. Khuôn mẫu của họ là Đức Kitô, Đấng đầu tiên
chấp nhận con đường thánh ý Chúa Cha vạch ra và cam kết trung thành với sứ mạng
cho đến chết và Phục sinh.
Chúng ta không dựa vào sức con người hay tìm kiếm thành công, mà phải dựa vào
chính Thiên Chúa. Vì là tạo vật của Thiên Chúa, nhận lãnh mọi sự từ Thiên Chúa.
Chúng ta không thể làm những gì chúng ta muốn. Chúng ta có nghĩa vụ phải làm những
gì Thiên Chúa muốn. Vì tất cả là hồng ân mời gọi ta thưa : "Lạy Chúa, con đây". Đừng
bao giờ phản đối hay từ chối lời mời gọi của Chúa, " Chính Chúa đã chọn tôi".
Thiên Chúa "đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta
được nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương. Chiếu theo
thánh ý Ngài, Ngài đã tiền định cho ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô, để
chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài" (Ep 1, 4). Đây là kế hoạch tình yêu
nhiệm mầu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ trợ giúp chúng con quảng đại đáp trả lại lời mời gọi của
Chúa để loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa bằng lời nói và trước hết bằng cuộc sống
hằng ngày của chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Họ cứng lòng khiến Chúa ngạc nhiên
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Họ cứng lòng khiến Chúa ngạc nhiên
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XIV B
(Mc 6, 1 6)
Bị hiểu lầm hay bị từ chối là những điều khiến người ta phiền lòng. Êdêkien, ngay
cả Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người cũng không đứng ngoài qui luật thường tình
ấy. Là ngôn sứ thì dù ở hội đường, hay trong gia đình, cũng sẽ gặp khó khăn và có thể
bị ruồng bỏ làkinh nghiệm của Chúa Giêsu và Êdêkien. Êdêkien được Chúa chọn, gọi
làm ngôn sứ cho dân đi lưu đầy cùng với ông : "Ta sai ngươi đến để nói với những con
cái dầy mặt cứng lòng... Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản
loạn" (Ed 2, 45). Chúa Giêsu về hội đường giảng dạy cho người đông hương cũng phát
buồn và thốt lên câu nói để đời : "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê
hương, gia đình họ hàng mình" (Mc 6, 4). Tại sao vậy ?
Biết rõ
Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại sự lúng túng của dân thành Nagiarét trước Chúa Giêsu
người đồng hương của họ đi xa trở về nơi hội đường. Vì họ đã quá biết gia thế của Chúa
Giêsu, biết rõ nên họ không đánh giá đúng về Người. Có lẽ đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu trở về Nagiarét, sau khi đi thi hành sứ mạng
công khai. Nagiarét là cái nôi của thời thơ ấu, thời niên thiếu của Chúa Giêsu. Nơi ấy có
gia đình, bà con, thân bằng quyến thuộc, bạn bè, quê hương, bản quán, nên khi Chúa
Giêsu trở về nhà họ biết ngay. Trong số họ có người đã từng thấy Chúa Giêsu được mẹ
ẵm bế, như bao nhiêu trẻ em khác. Con cái họ và Chúa Giêsu đều học chung một lớp,
cùng chơi và cười đùa với nhau. Cùng thảo luận những bài học về cái cửa, cái xà. Chúa
Giêsu đã từng cầm cưa, bào, đục, và nhất là nói giọng nói miền quê Nagiarét trong suốt
20 năm trời.
Lần trở về này nhằm ngày Sabát, Chúa vào hội đường, dân làng đón tiếp Chúa rất
vui vẻ. Tại đây, Chúa bắt đầu giảng dạy : "Nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của
Người, nên nói rằng : "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như
vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy?" (Mc 6, 2). Nói xong bỗng
nhiên thái độ của họ đổi hẳn vì những cái đã biết về Người. Sự gần gũi, thân thiện gia
đình, tình làng nghĩa xóm ấy làm cho họ ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan
và lời nói thốt ra từ miệng Người, cũng như các phép lạ Người làm tại Galilê sang từ
chối, khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người ở giữa làng họ và
họ "vấp phạm vì Người" (Mc 6, 3). Đã nhiều năm qua, gia đình Chúa Giêsu đã để lại những ấn tượng tốt về Người.
Trước sự ngạc nhiên và từ chối của dân thánh Nagiarét, cũng như sự thiếu lòng tin của
họ, Chúa Giêsu đã buông lời thở dài : "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở
quê hương, gia đình họ hàng mình ! " (Mc 6, 4). Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa
Cha Đấng tạo dựng thế gian nhưng thế gian đã không tiếp nhận Người.
Không được đánh giá đúng
Chúa Giêsu buồn vì thành kiến của đông hương về lý lịch của Chúa : cha mẹ, gia
đình và nghề nghiệp : "Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với
Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" (Mc
6, 3). Họ không thể đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa làm người.
2
Ông là ai ? Là câu hỏi được đặt ra trong toàn bộ Tin Mừng Marcô. (1, 24 và 25 – 1,
27 – 1, 34 – 4, 41 – 6, 14 và 15). Căn tính bí ẩn này là gì ? Trên đường hành trình với
các môn đệ từ Xêsarê đến Philiphê Chúa hỏi các ông "Phần anh em, anh em bảo Thầy
là ai ? " Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật
Ngày hôm nay, Thiên Chúa cần có câu trả lời từ phía con người đang tìm kiếm ý
nghĩa của Lời Chúa và bước vào cuộc đối thoại với Chúa. Người thợ mộc thành
Gagiarét là Thiên Chúa thật và là Người thật, Người là Đấng Cứu Độ duy nhất của
chúng ta, là Lời Chân lý dẫn đến Sự Sống đời đời. Hãy biết nhận ra Chúa, đừng để
Chúa đi qua. Mẹ Maria hòa mình vào đám đông để chiếm ngắm và lắng nghe người ta
nói về con Mẹ : "Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria !" (Mc 6, 3) Con bà
Maria và là Con Thiên Chúa, đó Bí Mật Tình Yêu của Thiên Chúa, Người bước vào đời
sống công khai bằng con đường khiêm tốn và nghèo khó. Người ngạc nhiên vì họ cứng
lòng tin, và buồn vì họ không chấp nhận bất cứ sự gì đến từ Người. Nghĩa xác thực
được thánh Marcô sử dụng ở đây theo tiếng Hy lạp, không phải Chúa Giêsu mong đợi
người đồng hương tin vào Thiên Chúa, nhưng là mong đợi phần lớn những người
Nagiarét : tin vào Người.
Tin Đức Giêsu là Thiên Chúa
Ngày hôm nay có người nói rằng: Nếu chúng ta sống vào thời các tông đồ, và chứng
kiến Chúa Giêsu như họ, chắc chúng ta cũng giống họ". Họ biết quê hương mình có
người tên là Giêsu nhưng không biết người đang nói với họ là Chúa Giêsu, Chúa Cả trời
đất...... Thực tế ngày hôm nay khác với ngày xa xưa ấy, vì nhiều người hạnh phúc hơn,
tin tưởng vào những điều đã đã nghe và đã thấy.
Vì, quả thật, ở giữa những người ẫu trĩ có một người khiêm nhường; là Thiên Chúa
thật đến dạy dỗ chúng dân. Người đến với những thu thuế và tội lỗi, đồng bàn ăn uống
với họ (Mt 9,11); Vì thế, có người miệt thị nói rằng : "Ông này chẳng phải bác thợ mộc
con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?" (Mc 6,3; Ga 6,42)
Nhưng Chúa Giêsu vần là Thiên Chúa thật và là người thật, các vua chúa trần gian phải
phụng thời Người ... Người hoàn toàn là con người như chúng ta : ăn, uống, ngủ, nghỉ,
đổ mồ hôi và mệt mỏi như chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Người
được gìn giữ khỏi hư nát và khỏi chết giữa muôn người. Giờ đây Người ngự bên hữu
Đức Chúa Cha (Mc 16,19), không gì có thể tách Người với Chúa Cha ...
Thật là kỳ diệu, để có thể nhận biết và tin rằng một người thế là Thiên Chúa, Đấng
tạo thành trời đất và mọi sự trên trời dưới đất ... Vì thế, hàng ngày chúng ta nghe Chúa
Giêsu thông truyền thánh ý Chúa Cha qua các tác giả Tin Mừng, chúng ta phải vâng
nghe, tuân giữ các giới răn của Người và tin vào Người.
Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa là Thiên Chúa thật và là người thật, là Đấng cứu độ
chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
- Chúa là Sự Sống
- Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
- Đặt niềm tin và hy vọng nơi Chúa
- Này là Mình Ta. Này là Máu Ta
- Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần
- 24/5 Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến
- Nên một như trong Thiên Chúa
- Yêu như Thầy yêu
- Để sinh trái phải kết hợp với cây Giêsu
- Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên