Dân Chúa Âu Châu

Lời Chúa: Ed 47, 1-2. 8-9. 12; 1 Cr 3, 9b-11. 16-17; Ga 2, 13-22 và Kn 6,12-16; Tx 4,13-18; Mt 25,1-13

 

MỤC LỤC

LỄ CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ


1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ
3. Sẵn sàng (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
4. Thánh đường – Đền thờ Thiên Chúa (JM. Lam Thy ĐVD.)
5. Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
6. Bài giảng lễ Cung hiến Thánh đường Latêranô của Lm. Giuse Đinh Tất Quý
7. Đền thờ mới
8. Latêranô và những ngôi Đền Thờ (Lm. Vũ Xuân Hạnh)
9. Đền thờ tâm hồn (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
10. Cung Hiến Thánh Đường Latêranô
11. Đền Thờ Tâm Hồn (Enzodi)
12. Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ
13. Tôi sẽ xây dựng lại
14. Đền thờ mẹ của tất cả các nhà thờ
15. Nhà thờ của giáo xứ
16. Đền Thờ sống động (AM Trần Bình An)
17. Biểu tượng của Đức tin (P. Trần Đình Phan Tiến)

18. Lễ cung hiến Thánh đường Latêranô (Lm. Đan Vinh)
19. Ngôi nhà và Đền Thờ của Thiên Chúa (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
20. Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa (Lm. Đa-minh Trần Đình Nhi)
21. Cung hiến Đền Thờ Latêranô (Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC)

CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN A
1. Khôn ngoan và Tỉnh thức (Trầm Thiên Thu)
2. “Ta không biết các ngươi”
3. Kẻ khờ dại đánh mất Nước Trời! (Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
4. Chúa sẽ đến
5. Sẵn sàng
6. Tỉnh thức
7. Sẵn sàng
8. Vừa mang đèn, vừa mang dầu
9. Mười người trinh nữ (Radio Veritas Asia)
10. Cảnh giác và sẵn sàng đón Chúa (Lm Vũ Thái Hòa)
11. Sống ngày cuối đời
12. Trinh nữ khôn ngoan (ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)

13. Khôn ngoan chuẩn bị đón Chúa đến bất ngờ (Lm Đan Vinh)

thumb1

A. BẢN VĂN

A1. CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ

Bài đọc I (Ed 47, 1-2. 8-9. 12)

Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Người ấy lại nói với tôi: “Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến. Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.

Bài đọc II (1 Cr 3, 9b-11. 16-17)

Anh em thân mến, anh em là toà nhà của Thiên Chúa. Theo ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi như một kiến trúc sư lành nghề, đã đặt nền móng, còn kẻ khác thì xây lên. Nhưng mỗi người hãy xem coi mình xây lên thế nào? Vì chưng không ai có thể xây dựng một nền tảng khác, ngoài nền tảng đã được xây dựng là Đức Kitô.

Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy. Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy.

Tin Mừng (Ga 2, 13-22)

Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”.

Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”.

Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy”. Chúa Giêsu trả lời: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Ngưòi Do-thái đáp lại: “Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?” Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.

A2. CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN A

Bài đọc I (Kn 6,12-16)

12 Ðức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai mến chuộng Ðức Khôn Ngoan, thì Ðức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Ðức Khôn Ngoan, thì Ðức Khôn Ngoan cho gặp.13 Ai khao khát Ðức Khôn Ngoan, thì Ðức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. 14 Ai từ sáng sớm đã tìm Ðức Khôn Ngoan, thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Ðức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà.15 Ðể tâm suy niệm về Ðức Khôn Ngoan là đạt được sự minh mẫn toàn hảo. Ai vì Ðức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được mọi lo âu.16 Vì những ai xứng đáng với Ðức Khôn Ngoan, thì Ðức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Ðức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Ðức Khôn Ngoan đều đến với họ.

Bài đọc II (Tx 4,13-18)

(13) Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. (14) Vì nếu chúng ta tin rằng Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Ðức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Ðức Giêsu. (15) Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. (16) Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Ðức Kitô sẽ sống lại trước tiên; (17) rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. (18) Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau.

Tin Mừng (Mt 25,1-13)

(1) Khi ấy, Đức Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể. (2) trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. (3) Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. (4) Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. (5) Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. (6) Nửa đêm, có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!” (7) Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. (8) Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” (9) Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn”. (10) Ðang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. (11) Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: “Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” (12) Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!” (13) Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.

[Mục Lục]

 

B. CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM

B1. LỄ CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ

Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Đại thánh đường La-tê-ra-nô được gọi “là Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”, bởi vì đây là Đền Thờ đầu tiên được chính quyền hợp pháp công nhận trên đế quốc Rô-ma và cũng là nhà thờ chánh tòa của địa phận Rô-ma, nơi có ngai tòa Đức Giáo Hoàng.

Lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô được ghi nhận vào thế kỷ XI. Thánh đường này đã bị tàn phá, đoạn được tái thiết, được Đức Thánh Cha Benoit XIII vào năm 1726 cung hiến một cách long trọng và được xác định mừng lễ vào ngày 9 tháng 11.

Nhưng Giáo Hội không cử hành một hoài niệm, cho dù quan trọng đến mấy đi nữa. Khi tưởng niệm lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô, Giáo Hội muốn nhấn mạnh sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội. Giáo Hội liên kết vào ngày lễ cung hiến nầy tất cả mọi thánh đường là Nhà Thiên Chúa và là nơi cầu nguyện. Hơn thế nữa, Giáo Hội cử hành Đền Thờ còn cao quý hơn nhiều, đó là Giáo Hội và tất cả thành viên của mình là những viên đá sống động. Thử hỏi có đền thờ nào, dù lớn lao đến mầy đi nữa cũng do bàn tay con người xây dựng nên, làm thế nào có thể so sánh với đền thờ là con người được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài? “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3: 16).

Ed 47: 1-2, 8-9, 12

Bài Đọc I trích từ sách Ê-dê-ki-en. Đây là sứ điệp của ngôn sứ lưu đày ở Ba-by-lon gởi đến cho toàn thể dân Thiên Chúa. Trong thị kiến, ông đã miêu tả Đền Thờ l‎ý tưởng sẽ thay thế Đền Thờ của vua Sa-lô-mon bị đạo quân Ba-by-lon tàn phá. Ông thấy dòng nước không bao giờ cạn tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Dòng nước thần diệu nầy chảy đến đâu sức sống dâng trào đến đó.

1Cr 3: 9-11, 16-17

Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô sánh ví cộng đồng Ki-tô hữu với Nhà Thiên Chúa mà nền móng là Đức Giê-su Ki-tô. Ngôi nhà nầy được xây dựng bằng cuộc sống của những người Kitô hữu, những viên đá sống động. Mỗi người Kitô hữu cũng là Đền Thờ Thiên Chúa, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ.

Ga 2: 13-22

Tin Mừng Gioan thuật lại sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Qua đó, Đức Giê-su muốn cho hiểu rằng Đền Thờ đích thật sẽ là thân thể phục sinh của Ngài.

BÀI ĐỌC I (Ed 47: 1-2, 8-9, 12)

Trước tiên, sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là sứ điệp của một vị ngôn sứ lưu đày. Sau khi Na-bu-cô-đô-nô-so, vua Ba-by-lon, đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 598 trước Công Nguyên, tư tế Ê-dê-ki-en là một trong số đoàn người đầu tiên bị phát lưu đến Ba-by-lon. Chính từ một ngôi làng Tel-Aviv nhở bé bên bờ sông Cơ-va bên Ba-by-lon, nơi ông sống và qua đời có lẽ vào năm 571 tCN, mà vị ngôn sứ ngỏ lời với toàn thể đồng bào của ông. Để tưởng nhớ ông, vị ngôn sứ tiên báo sự phục sinh của dân Ít-ra-en, người ta lấy tên Tel-Aviv đặt cho một thành phố hiện nay.

Sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một tư tế. Đã là tư tế trước khi Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ của Ngài, ông có một tâm hồn tư tế, ưu tư về tính thánh thiện của phụng tự và tôn kính những định chế tôn giáo. Ông tiên báo Đền Thờ Giê-ru-sa-lem sẽ bị phá hủy thành bình địa. Trong lưu đày, ông biết rằng sấm ngôn của ông đã được ứng nghiệm, nhưng trong thị kiến, ông nhìn thấy một Đền Thờ Mới và miêu tả Đền Thờ này cách tỉ mỉ.

Sứ điệp của Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một nhà thị kiến, vì thế, chứa đựng biết bao những cuộc xuất thần. Bản văn được trích dẫn hôm nay kết thúc với việc mô tả Đền Thờ lý tưởng sẽ thay thế đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Thị kiến của vị ngôn sứ trộn lẫn thực tại địa l‎ý với biểu tượng vườn địa đàng, nhưng mặc khải một ‎nghĩa mới.

1. Thực tại địa lý

Dòng nước chảy đến đâu đem lại màu xanh tươi cho đôi bờ sông đến đó: đủ loại cây trái mọc lên, cành lá sum sê, đơm bông kết trái quanh năm. Có thể thị kiến nầy diễn tả thực tại địa l‎ý miền Pa-lét-tin. Dòng suối Xê-đơ-ron, khi chảy đến chân đền thờ, nước dâng cao nhờ hợp lưu với dòng suối Ghi-bon (dòng suối nầy cung cấp nguồn nước chính cho thành thánh Giê-ru-sa-lem và hồ Si-lô-ê) và một con sông nhánh Ain Rogel. Nhờ yếu tố thiên nhiên nầy, vua Giô-si-gia (716-687 tCN) đã xây dựng hệ thống dẫn nước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Cũng có thể Ê-dê-ki-en đã mượn hình ảnh mà ông thấy ở Ba-by-lon những hệ thống dẫn thủy nhập điền, nhờ đó đất khô cằn trở thành những cánh đồng màu mỡ xanh tươi.

2. Biểu tượng vườn địa đàng

Nhưng thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en trước hết là biểu tượng vườn địa đàng như được miêu tả trong St 2, theo đó có bốn dòng sông chảy bao quanh để nuôi dưỡng cây trái xanh tươi, biểu tượng sự phú túc tâm linh, đặc quyền của con người trước khi phạm tội.

Đền Thờ tương lai mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en miêu tả là dấu chỉ của việc Đức Chúa sẽ trở về và ngự trị giữa dân Ngài tại Giê-ru-sa-lem. Dân Ngài sẽ tìm lại sự thánh thiện và phong nhiêu tâm linh, được biểu tượng bởi dòng nước trào dâng từ thánh điện, nghĩa là Đức Chúa sẽ rộng lòng tha thứ cho dân và ban cho họ muôn vàn ân sủng.

Đức Giê-su sẽ hiện tại hóa sứ điệp nầy vào chính mình. Vào ngày bế mạc tuần lễ Lều, ngày người ta dâng hy lễ cầu xin mưa thuận gió hòa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su cất tiếng kêu mời: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.” Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 37-38).

Nước biểu tượng sự sống thần linh chạy xuyên suốt Cựu Ước. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en diễn tả sứ điệp của mình theo lối nói ngoa ngữ báo trước thể loại văn chương khải huyền. Quả thật, kiểu nói nầy tái xuất hiện trong các sách khải huyền Do thái (sách Kha-nốc), cũng như trong sách Khải Huyền của thánh Gioan: “Rồi thiên thần chỉ cho tôi thấy một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha lê, chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên. Ở giữa quảng trường của thành, giữa hai nhánh sông, có cây Sự Sống sinh trái mười lần, mỗi tháng một lần; lá cây dùng thuốc chữa lành các dân ngoại” (Kh 22: 2).

3. Bên phải Đền Thờ

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng nói về thần dược và thánh thánh Giê-ru-sa-len trên trời. Ngôn sứ xác định nước tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Bên phải là biểu tượng phía mặt trời mọc, phía ánh sáng và sự sống. Thật là ý nghĩa biết bao khi nghệ thuật Kitô giáo trong suốt nhiều thế kỷ trình bày Đức Giê-su trên thập giá mang lấy ở bên cạnh sườn phải của Ngài vết thương bị lưỡi đồng đâm thâu, từ đó máu và nước phun vọt ra, dấu chỉ bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể phát sinh sự sống đời đời.

4. Đền Thờ

Vào Ngày lễ Cung Hiến Đền Thờ, phụng vụ mời gọi chúng ta suy niệm về Đền Thờ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en là một tư tế, ông không thể quan niệm một tôn giáo của Đức Chúa mà không có một nơi được thánh hiến để dân Ngài có thể cùng nhau quy tụ lại để phụng sự Thiên Chúa của mình cho thật xứng hợp. Nói cách khác, với tư cách là một tư tế, ngôn sứ không thể nào quan niệm rằng cuộc sống đạo mà không có Đền Thờ được. Tuy nhiên, trong cảnh lưu đày, dân Ít-ra-en không có Đền Thờ, vì thế họ không thể dâng lên Thiên Chúa của mình những lời khẩn nguyện và những hy lễ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thực sự là một trong số những người sống trong cảnh ngộ nầy. Trong những cơn xuất thần của mình, ông thấy vinh quang Thiên Chúa rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem (11: 32-33) đến bên bờ sông Cơ-va, nơi ông cùng với dân chúng đang sống cảnh lưu đày (1: 1). Lúc đó, vị ngôn sứ thoáng thấy hình thức phụng tự tinh thần. Đức Chúa đích thân hiện diện ở giữa dân Ngài, vì thế, ở đâu dân Ngài hiện diện ở đó Thiên Chúa đồng hiện diện với dân Ngài. Ngài đồng hiện diện giữa dân Ngài để cùng chia sẻ cảnh lưu đày khổ cực với dân Ngài. Dân Ngài thực sự là Đền Thờ của Thiên Chúa (ch. 37-38).

BÀI ĐỌC II (1Cr 3: 9b-11, 16-17)

Thánh Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Thánh nhân đã sống 18 tháng trong thành phố nầy. Sau ngài, các vị loan báo Tin Mừng khác đến tiếp nối công việc của thánh nhân.

Dân Cô-rin-tô, vốn ham mê tranh luận, thích những bài diễn thuyết lời hay ý đẹp. Vì thế, cộng đoàn Kitô hữu Cô-rin-tô cũng chia bè kết nhóm, mỗi nhóm ngưỡng mộ một nhà giảng thuyết: nhóm theo phe thánh Phao-lô, nhóm theo phe ông A-pô-lô, một nhà giảng thuyết có tài hùng biện, và nhóm trưng dẫn thánh Phê-rô. Thánh Phao-lô cực lực lên án thái độ chia bè kết nhóm nầy, bởi vì, chúng biến cộng đoàn Kitô hữu thành những trường phái khôn ngoan của các bậc hiền nhân Hy-lạp. Trong đoạn thư trích dẫn hôm nay, thánh Phao-lô bày tỏ những lời khiển trách và những lời khuyên nhủ như phần kết luận. Như thói quen của mình, thánh nhân đưa ra cuộc tranh luận và định nghĩa cộng đoàn Ki-tô hữu là gì.

1. Nhà Thiên Chúa

Cộng đoàn Ki-tô hữu là Nhà Thiên Chúa. Dù các nhà loan báo Tin Mừng tiếp nối nhau để xây dựng toà nhà này là ai đi nữa, nền móng không ai khác chính Đức Giê-su Ki-tô. Nếu thánh Phao-lô đã đặt viên đá đầu tiên, thì mỗi nhà loan báo Tin Mừng khác lần lượt góp phần vào việc xây dựng công trình nầy theo cách thức của mình. Thánh nhân tự xem mình có trách nhiệm gìn giữ nền tảng vững chắc của tòa nhà cũng như nếp sống đạo hạnh của những người tiếp nối sứ mạng của ngài. Dù ám chỉ đến những bè phái của các Kitô hữu Cô-rin-tô, nhưng những lời khuyên này có giá trị đối với tất cả các cộng đoàn Kitô hữu ở khắp nơi và muôn thế hệ. Những lời khuyên của thánh Phao-lô thường hằng bảy tỏ nỗi bận lòng của thánh nhân về đức chính trực của những người loan báo Tin Mừng. Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô cũng sử dụng cùng một hình ảnh: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Kitô” (1P 2: 5).

2. Đền Thờ Thiên Chúa

“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”. Chúng ta lưu ý rằng ở đây thánh Phao-lô không dùng từ“hieron” theo nghĩa đơn thuần “nơi thánh”, nhưng từ “naos” theo nghĩa “nơi cực thánh”của Đền Thờ, chúng ta có thể dịch “thánh điện” hay “cung thánh”. Cộng đoàn Kitô hữu đích thật là nơi cực thánh vì Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài và mỗi người Ki-tô hữu là “nơi cực thánh”, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ trong chúng ta.

Khái niệm “đền thánh tinh thần” thật ra có cội nguồn ở Cựu Ước, đặc biệt từ thời lưu đày Ba-by-lon. Những người bị phát lưu đã kinh qua một tôn giáo trơ trụi, không Đền Thờ, không hy lễ, một tôn giáo nội tâm. Vào lúc đó, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã phác họa ý tưởng theo đó Đền Thờ đích thật của người tín hữu là chính Đức Chúa (Bài Đọc I).

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, đương thời với ngôn sứ E-dê-ki-en, đã loan báo rằng sẽ đến một ngày Luật của Thiên Chúa sẽ không còn ghi khắc trên bia đá nhưng trong lòng của mỗi người, đó sẽ là dấu chỉ Giao Ước Mới (Gr 31: 31-33). Ngay trước thời Đức Ki-tô, phái Ét-xê-nô đã đoạn tuyệt với Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, không thừa nhận hy lễ và chuyên tâm vào đời sống cộng đoàn. Đối với họ, đền thờ đích thật đó là cộng đoàn Kum-ran trên bờ Biển Chết.

Sau cùng, không phải Đức Giê-su đã công bố rằng đền thờ đích thật chính là “thân thể Ngài” trong đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay sao? Đó là Đền Thờ tinh thần mà thánh Phao-lô xác định. Vả lại ý tưởng này không xa lắm với khái niệm Giáo Hội là thân thể của Đức Ki-tô, mà thánh nhân sẽ khai triển sau nầy. Đó là đời sống thánh thiện của cộng đoàn Ki-tô hữu, vừa bao gồm toàn thể vừa mỗi một thành viên, ở đó Thánh Thần cư ngụ. Việc dẫn nhập những bè phái vào trong cộng đoàn Ki-tô hữu không gì khác hơn là hành động phá hoại Đền Thờ Thiên Chúa và là hành động tự hủy, vì “Đền Thờ nầy chính là anh em”. Thánh Phao-lô mạnh mẻ cảnh báo các Kitô hữu Cô-rin-tô bị phân năm xẻ bảy nầy.

TIN MỪNG (Ga 2: 13-25)

Sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Ba Tin Mừng Nhất Lãm đặt sự kiện nầy vào tiền cảnh của biến cố Tử Nạn, vì thế, biến cố nầy được xem như giọt nước làm tràn ly phẩn nộ của giai cấp lãnh đạo Do thái giáo; trong khi thánh Gioan đặt sự kiện này vào đầu sứ vụ công khái của Đức Giê-su, ngay sau tiệc cưới Ca-na và sau thời gian lưu lại ít ngày ở Ca-phác-na-um.

Phần mở đầu của câu chuyện nầy xác định khung cảnh và địa điểm: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ nầy được lập đi lập lại đến ba lần (2: 13; 6: 4; 11: 5) xác định ba lần Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua, phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công khai của Ngài.

Phản ứng của Đức Giê-su thật khác thường. Ngài lấy dây bện làm roi mà xua đuổi những người buôn bán, lật nhào bàn ghế, đổ tung tất cả tiền bạc của họ và giải thích hành động của mình: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Phải chăng qua hành động của mình, Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài đến để phục hưng tôn giáo Ít-ra-en qua việc thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau sẽ bị phá hủy? Để hiểu trọn vẹn ‎ý nghĩa của sựu kiện quá đặc biệt nầy, trước hết phải đặt nó vào khung cảnh ngoại tại, đoạn vào khung cảnh tôn giáo, tức khung cảnh của lễ Vượt Qua, và sau cùng vào văn mạch của Tin Mừng Gioan.

1. Khung cảnh bên ngoài

Đền Thờ tọa lạc trên một khuôn viên rộng lớn được bao quanh bởi những hàng hiên. Khi bước qua những dãy hàng hiên, người ta vào trong tiền sảnh được gọi “tiền sảnh dân ngoại”, vì lương dân được phép đến đây để cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái. Tiếng Hy lạp: “hieron”, được sử dụng ở đây phải được hiểu là “nơi thánh” hay “thánh địa” chứ không phải “naos” (nơi cực thánh) ở bên trong Đền Thờ. Tiếp đó, phạm vi thánh, nơi được dành riêng cho dân Do thái, được phân chia thành những tiền đình riêng biệt, tiền đình dành cho nữ giới và tiền đình dành cho nam giới, và cuối cùng tiền đình dành cho các tư tế.

Chính ở nơi “tiền sảnh dân ngoại” mà những người buôn bán súc vật dùng cho các hy lễ. Công việc buôn bán rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng những vị tư tế cao cấp – đứng đầu là thượng tế – đã hưởng nhiều lợi nhuận ở đây. Những người đổi tiền cũng ở trên tiền sảnh nầy đáp ứng nhu cầu mộ đạo của các tín hữu, vì người Do thái không được phép dâng hiến cho Đền Thờ những hiện kim được xem đồng tiền “ô uế” do có đúc hình vị hoàng đế hay vị thần ngoại giáo nào đó (Mt 22: 15-21). Những người đổi tiền hưởng huê hồng. Phải nhận ra rằng sự hiện diện của những người buôn bán súc vật và những người đổi tiền đáp ứng nhu cầu cần thiết của khách hành hương từ xa lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem dâng hy lễ hay cúng tiền bạc cho Đẻn Thờ, đặc biệt vào những ngày đại lễ.

2.Khung cảnh lễ Vượt Qua

Khung cảnh lễ Vượt Qua đem lại cho sự kiện nầy ý nghĩa sâu xa. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán súc vật ra khỏi khuôn viên Đền Thờ, vì đây là thánh địa được dành riêng cho cầu nguyện. Nhưng hơn nữa, Ngài xua đuổi những súc vật dành cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “Con Chiên” sát tế, lễ tế đích thật của lễ Vượt Qua, lễ tế duy nhất nầy từ nay sẽ thay thế tất cả lễ tế khác. Như vậy, kiểu nói: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”cũng ngụ ý rằng còn có một lễ Vượt Qua khác nữa, lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu mà con chiên bị sát tế là Đức Giê-su. Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy “tiền sảnh dân ngoại”, vì từ nay Ngài đã phá hủy mọi hàng rào ngăn cách giữa Do thái và dân ngoại. Dân ngoại cũng được mời gọi dự phần vào cùng ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.

3. Văn mạch của Tin Mừng Gioan

Khi đặt biến cố nầy vào thời kỳ đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su, thánh k‎ý để lộ những ý định của mình: ông muốn dẫn đưa người đọc vào trong mầu nhiệm của Đức Giê-su: Đấng mà thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a, Đấng ấy ở Giê-ru-sa-lem hành xử như Con Thiên Chúa trong mối quan hệ mật thiết chưa từng có.

Trước hết, ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban rượu mới, tiên báo rượu sẽ là máu của Ngài. Ở Giê-ru-sa-lem, đáp lại việc người Do thái đòi hỏi dấu lạ, Đức Giê-su loan báo một đền thờ mới sẽ là thân thể của Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ nầy đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Trong ba Tin Mừng nhất lãm, lời tuyên bố nầy của Đức Giê-su được các người làm chứng gian lập lại trong phiên toà của Thượng Hội Đồng, nhưng được sửa đổi với ác tâm, thay vì: “Các ông cứ phá hủy đền thờ nầy đi” thì lại: “Tôi có thể phá hủy…” (Mc 14: 58).

Ngoài ra, thánh Gioan chủ ý đặt lời nầy trên môi miệng của chính Đức Giê-su: “Nội ba ngày, tôi sẽ xây lại” để chỉ biến cố Phục Sinh của Ngài, như sau nầy Ngài tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).

Hơn nữa, trong cùng một câu chuyện, thánh Gioan có ý sử dụng từ “hieron” với nghĩa “nơi thánh” để chỉ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng dành riêng từ“naos” với nghĩa “thánh điện”hay “cung thánh”, tức là nơi cực thánh nhất của Đền Thờ, để nói về Thân Thể của Ngài. Sau khi Đức Giê-su sống lại, các môn đệ nhớ lại những lời mà Đức Giê-su đã nói vào dịp nầy: “Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”.

Tình tiết Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ “gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái” theo Tin Mừng Gioan chất chứa biết bao ý nghĩa.

[Mục Lục]

Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm PX Vũ Phan Long, ofm: ĐỨC GIÊSU TẨY UẾ ĐỀN THỜ

1. Ngữ cảnh

Lần đầu tiên, tác giả Ga có một bản văn song song với các TMNL (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc 19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:

- Trong khi TM IV đặt biến cố này vào đầu sứ vụ của Đức Giêsu, các TMNL lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.

- Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga 2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc 11,17 và các bản văn song song) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.

- Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các TMNL: Mc 11,28 và các bản văn song song).

Trong quá khứ, người ta thường đề nghị một giả thuyết, theo chiều hướng dung hòa (concordism): Đức Giêsu đã đuổi những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (TMNL). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản văn của Ga và của các TMNL, có những nét tương đồng, khiến người ta phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái, và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga 2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47).

Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và bài của TMNL: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?

1. Đa số các nhà chú giải Công Giáo và nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Ga. Luận điểm chính nằm trong chi tiết về thời gian do Ga 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm 20/19 tCN (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 sau CN: thời điểm này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các TMNL đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các TMNL chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt Qua duy nhất. Còn khi đọc TM Ga, chúng ta thấy ít nhất Đức Giêsu lên Giêrusalem ba lần để tham dự lễ Vượt Qua (Ga2,13; 6,4 và 11,55).

2. Những người nghiêng về các TMNL thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Ga đã đưa bài tường thuật này ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ngài trung thành với quan điểm ngài đã biểu lộ trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (2,4.11): ngài muốn quy hướng toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, ngài muốn rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán xét.

Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào, bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.

Đặt vào trong ngữ cảnh TM IV, chúng ta thấy bài này nối tiếp truyện Tiệc cưới Cana ở 2,1-11. Trong truyện Tiệc cưới Cana, có nhiều phạm trù chỉ thời gian (trước/sau; thiếu/dồi dào; rượu xoàng/rượu ngon); trong bài tường thuật Thanh tẩy Đền Thờ, lại có nhiều phạm trù chỉ không gian (Đền Thờ/xua đuổi/khỏi nơi đây/nhà Cha tôi). Do đó, có thể nói rằng, trong ngày đầu, tác giả Ga giới thiệu Đức Giêsu như là Đấng thánh hóa cả những thời gian lẫn những không gian thánh thiêng của Israel.

2. Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);

2) Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);

3) Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).

3. Vài điểm chú giải

- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời gian của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử. Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết định “giết Người”.

- trong Đền Thờ (en tô hierô, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh, có thể gọi là “cung thánh”). Từ ngữhierôn được dùng 13 lần (x. cả naon trong Ga 2,19.20.21).

- Các môn đệ của Người nhớ lại (17):Sau khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu lạ Thầy đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay.

- Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm về tình trạng tiêu cực vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong TM IV, tác giả không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và Dân Do Thái đã từ chối tin vào Đức Kitô. Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của Dân này đang được đề cập đến.

- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy…”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy…”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử làcác ông phá hủy…”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Từ ngữ naos có thể hiểu là Đền Thờ đúng nghĩa.

- bốn mươi sáu năm (20):Đền Thờ, với phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay cung cấp tiền bạc sửa sang lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe, Ant. jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công việc đã kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7). Vào thời điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy khởi điểm là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm 27 hoặc 28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và 30-9-28.

- là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô. Với lời giải thích của thánh Phaolô (1 Cr 3,16 và 12,27; x.Ep 2,21 và 4,12), Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô Phục Sinh, và tất cả các tín hữu được kết hợp với Người.

- Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại … Họ tin (22): Mc cứ đều đặn ghi nhận rằng các môn đệ không hiểu. Ga thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.

- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể xác định rõ tác giả Ga ám chỉ tới đoạn Cựu Ướcnào. Có thể so sánh Cv 2,24t; 13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 15/16,10). Chúng ta ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng một bình diện (so sánh Ga 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.

- nhiều kẻ tin (23):Nhiều người tin rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu nhiệm bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải là không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).

4. Ý nghĩa của bản văn

Đức Giêsu cũng tham dự vào mộtđại lễ khác. Đây không phải là mộtlễ của mộtđôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình và mọi người thân thuộc trong khung cảnh mộtthôn làng như Cana ở Galilê, nhưng là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã làm cho họ thành mộtdân độc lập và thành Dân Ngài.

* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)

Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã làm tăng thêm tình trạng náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và đã ra tay cứu chữa lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới mộtphương diện hoàn toàn khác. Là mộtngười khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê, Người đã gây ra mộtsự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân, phần ít cao quý nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt chân đến.

Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc šeqel bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là mộtsinh hoạt đáng trọng, nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính Người. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.

Nay đã được đặt để trong chức năng Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi trông đang đến … Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim… Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi (các thừa tác viên Đền Thờ) …” (Ml 3,1-3).

Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21). “Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?” (Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp bằng biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động tương ứng với chân lý này.

Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi: “Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng … Và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới “Giờ” rồi.

Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác giả Tv 68/69: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân …”, thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ Nạn, khi tuyên bố rằng Tv này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 68/69,5; x. Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 68/69,32). Người chính là Đấng công chính chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc. 19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.

* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (18-22)

“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đức Giêsu đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30; 9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc 11,16; 1 Cr1,22).

Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãyphá hủy …”, hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy…”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy …”. Trong bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể làm như thế được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương, đã quen với giọng văn bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý nhắm vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự sống (4,11-15), như những người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34) [xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.

Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ tự mạc khải ra vĩnh viễn. Trong TM IV, có nhiều lần người Do Thái hiểu lầm Đức Giêsu; thường các hiểu lầm đó liên hệ đến mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu (Kitô học Ga): 2,19-21; 6,51-53; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19.

Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Ga cho chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người. Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi), và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.

Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến mộtcái chết khốc liệt do việc làm và yêu sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa của Đức Giêsu cho Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên” thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).

* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (23-25)

TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.

+ Kết luận

Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì yêu mến Chúa Cha, Người đã đuổi những con buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Chúa Cha, vì muốn hoàn toàn dành ngôi nhà này cho Chúa Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Chúa Cha, trong khi vẫn làm chủ chính mình.Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của Thiên Chúa Cha.

Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách của Đền Thờvà xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong Đức Giêsu Phục Sinh.

5. Gợi ý suy niệm

1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?

2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi Người phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bộ TM IVlà một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như mộtsự phó thác vào Đấng được Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đề ra những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?

3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy: lời của Đức Giêsu có mộttrọng lượng như chính lờiKinh Thánh. Nhờ được Kinh Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng củaKinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã chết và đã sống lại.

4. Để thực hiện được điều này, cần nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua mộtđoạn đường dài cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con đường của chúng ta chăng?

[Mục Lục]

Bài 3. SẴN SÀNG
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn luôn cảm thấy lúc nào cũng có những điều mới lạ, những dụ ngôn, những ví dụ, những câu chuyện Chúa đưa ra để dạy dỗ, để răn đời luôn hấp dẫn, luôn mới mẻ dù rằng có những đọan Tin Mừng chúng ta đã đọc rất nhiều lần.Chúa Giêsu luôn dùng những gì thực tế nhất, ấn tượng và đánh động nhất để dạy con người, để giới thiệu Nước Trời. Dụ ngôn 10 trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể là một ví dụ điển hình. Dụ ngôn này có người đã thuộc nằm lòng, có người đã nghe nhiều lần, nhưng hầu như lúc nào đoạn Tin Mừng này cũng làm con người say mê vì sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, dạy dỗ nhân loại, dạy dỗ con người phải tỉnh thức để đón nhận nước trời, đón nhận Thiên Chúa.

Đoạn Tin Mừng này là một dụ ngôn bởi vì chẳng có một đám cưới nào ở trần gian này lại tổ chức cái kiểu đó. Mà cũng chẳng có cuộc rước dâu nào lại như thế.Chàng rể nếu có đến trễ. Các cô dâu cũng chẳng thể nào ngủ được vì quần áo cưới, đầu tóc, trang điểm. Tất cả những hình thức bề ngoài như quần áo, đầu tóc, sự trang điểm luôn phải làm các cô dâu phải tỉnh thức. Dụ ngôn này là một lời cảnh tỉnh nhân loại, cảnh tỉnh mọi người phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Trong dụ ngôn này, chàng rể cư xử một cách khác thường không như các chàng rể bình thường. Chúa Giêsu muốn nói đến một chàng rể đặc biệt và tiệc cưới, đám cưới cũng rất đặc biệt. Tiệc cưới này đòi mọi người phải tuân thủ những luật lệ khác với những luật lệ thông thường nơi những đám cưới chúng ta thường tham dự. Ở đây 10 cô trinh nữ phù dâu biểu tượng cho toàn thể nhân loại, toàn thể con người trên thế gian này được Thiên Chúa yêu thương, đón mời vào dự tiệc cưới nước trời. Dầu và đèn là những phương tiện cần có để tham dự tiệc cưới. Mười cô phù dâu lại có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh của nhân loại, của con người. Trong nhân loại hay giữa con người, có người khôn, có người dại. Đó là cái trớ trêu của con người và là cái dí dỏm của đoạn Tin Mừng này. Khôn hay dại được đánh giá bằng việc con người có sẵn sàng hay không sẵn sàng tỉnh thức. Tất cả 10 trinh nữ phù dâu đều ngủ chứ chẳng có cô nào thức. Đó là cái nghịch lý của dụ ngôn. Tuy nhiên, cái khôn và cái dại được đo lường dựa trên tiêu chuẩn các cô có cẩn thận và sẵn sàng hay không ? Năm trinh nữ khôn ngoan đã ngủ vùi nhưng họ khôn trong tư thế, trong thái độ sẵn sàng. Còn năm cô khờ dại đã ngủ trong tư thế thờ ơ, chểnh mảng. Nên khi nghe tin chàng rể đến thì đã quá muộn rồi. Việc chàng rể đến chậm, đến trễ, đến bất ngờ ám chỉ giờ của Chúa đến. Chắc chắn Chúa sẽ đến nhưng Ngài đến cách bất ngờ, đột xuất, nên ai khôn sẽ sẵn sàng. Dầu cũng có nghĩa là dầu bác ái, dầu yêu thương. Chỉ có tình yêu mới thắp sáng được ngọn đèn đức tin của người tín hữu.

Chúa Giêsu đã luôn cảnh tỉnh mọi người : “Hãy tỉnh thức và sẵn sàng”. Tỉnh thức để mau mắn nghe bước chân Chúa đến và sẵn sàng đón Chúa để cùng vào nước trời với Ngài. Bởi vì, muốn đón Chúa, chúng ta phải có đèn, đèn muốn có tác dụng, muốn cháy sáng phải có dầu, mà dầu đốt mãi, đốt liên tục thì cũng sẽ hết, giờ Chúa đến lúc nào chúng ta cũng chẳng rõ, cũng chẳng hay biết được.Bởi vậy, muốn chắc chắn, chúng ta phải khôn ngoan dự trữ dầu mà càng dự trữ dầu càng nhiều càng tốt. Dầu ở đây tượng trưng cho đức tin, cho đời sống thánh thiện, cho đời sống công chính, bác ái, và đời sống lương thiện, chân chính và thiện hảo của chúng ta. Đời sống của mỗi người luôn là một cái gì đó xem ra rất mỏng manh, cuộc đời mau tàn, mau chấm dứt. Nhưng chúng ta nào thấy trước hoặc biết được lúc nào cuộc đời của chúng ta sẽ chấm dứt, sẽ qua đi. Tốt nhất là chúng ta phải khôn ngoan như năm cô trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn là tỉnh thức và sẵn sàng, nghĩa là chúng ta phải sống theo ý Chúa, sống đời sống của Chúa như thánh Phaolô viết : “Đối với sống là Đức Kitô”; “Tôi sống không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Tôi đã sống và loan báo Tin Mừng cho người Dân tộc Kơho từ nhiều năm nay. Điều anh chị em Dân tộc gây ấn tượng cho tôi nhiều nhất đó là sự hồn nhiên, phó thác của họ cho Thiên Chúa hằng ngày bởi vì họ không bôn chen, không tham lam và không dự trữ của cải như những người khôn ở thế gian thường làm. Tuy nhiên, sự hồn nhiên, trong sáng của họ là dầu họ đang dự trữ tràn trề để sẵn sàng đón Chúa và lãnh nhận nước trời.

Xin mượn lời của Nicolas Tarralle để kết thúc bài chia sẻ này : “Trong ngày lễ cung hiến Đền Thờ Latêranô, Tin mừng cho chúng ta nghe một lệnh cứng rắn của Đức Giêsu : “Đừng biến nhà Cha tôi…”. Điều nói về Đền Thờ Giêrusalem cũng đúng cho nhà thờ chính tòa giáo phận Roma, cũng như cho mỗi ngôi nhà thờ của chúng ta.Nhưng khi đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, Đức Giêsu chủ yếu báo tin về một ngôi đền mới của Thiên Chúa : không chỉ làm bằng đá mà bằng xương bằng thịt; không chỉ giới hạn trong một khuôn viên thánh thiêng, mà được nới rộng theo chiều khích của thế giới. Ngôi Đền mới này là chính thân thể người… Cùng với Đức Kitô, chúng ta vượt qua các không gian phụng vụ chúng ta cử hành để đi vào đức tin. Cuộc vượt qua này được thể hiện ở những địa điểm cụ thể, như ngôi mộ trống nơi ông Gioan nhìn thấy tấm khăn liệm xếp lại : “Ông đã thấy và đã tin…” Các ngôi nhà thờ chúng ta là những địa điểm biệt đãi, nơi chúng ta nhận ra những dấu chỉ tương ứng với lời kinh Thánh, để tia sáng đức tin lóe lên: “Vâng, lạy Chúa, chúng con tin !”

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng để đón Chúa đến bất cứ lúc nào và Xin cho chúng con trở nên Đền Thờ xứng đáng cho Thiên Chúa ngự. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Bữa tiệc nói tới trong đoạn Tin mừng hôm nay là bữa tiệc nào ?
2. Thế nào là khôn, thế nào là khờ theo Tin mừng ?
3. Đèn là gì ? Dầu là gì ?
4. Đền thờ Chúa nói là Đền thờ nào ?
5. Mười cô trinh nữ tượng trưng cho ai ?

[Mục Lục]

Bài 4. THÁNH ĐƯỜNG – ĐỀN THỜ THIÊN CHÚA
JM. Lam Thy ĐVD.

Đời sống người tín hữu luôn gắn liền với Thánh đường, nên mỗi Thánh đường thường chất chứa biết bao kỷ niệm vui buồn của họ. Chính từ nơi thánh thiêng ấy, họ lớn lên trong niềm tin và trào dâng niềm hy vọng giữa cuộc đời đầy thử thách gian nan. Theo từ nguyên thì Thánh đường là ngôi nhà lớn của người có đức hạnh siêu phàm, thông đạt mọi sự. Việt Nam dùng từ Thánh đường để chỉ Đền Thờ Thiên Chúa, vì thế người bình dân thường gọi là Nhà Thờ. Ngay từ Cựu Ước đã có chuyện vua Đa-vit mơ ước xây một ngôi nhà cho Đức Chúa ngự, “Nhưng ngay đêm ấy, có lời ĐỨC CHÚA phán với ông Na-than rằng: “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít: ĐỨC CHÚA phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao? ĐỨC CHÚA báo cho ngươi biết là ĐỨC CHÚA lập cho ngươi một nhà… Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra – và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi.” (2Sm 7, 4-13). Ngôi nhà để tôn kính danh Chúa chính là Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.

Tuy nhiên, theo thời gian, thì dần dần con người đã lợi dụng Đền Thờ làm nơi buôn bán, thậm chí còn coi Đền Thờ như một nơi để mua quan bán tước, tranh danh đoạt lợi, tranh bá đồ vương, bàn mưu tính kế để xâm lấn cõi bờ giữa những quốc gia (đế quốc xâm lăng tiểu nhược quốc). Đó là lý do giải thích tại sao Đức Giê-su phải “Tẩy uế Đền Thờ” (Tin Mừng CN.XXXII/TN-A – Ga 2, 13-22). Cơn thịnh nộ của Chúa bốc cao: “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (Ga 2, 15-16). Và từ một sự kiện hữu hình (tẩy uế Đền Thờ Giê-ru-sa-lem), Đức Giê-su cho đám đông biết chính Người mới là Đền Thờ Thiên Chúa đích thực, và tiên báo: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” Cuộc khổ nạn và phục sinh vinh hiển của Người đã nói lên tất cả.

Tất cả đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Ngôi Đền thánh thiêng Giê-su Ki-tô bị phá hủy (cuộc Tử Nạn) và tới ngày thứ ba đã được xây dựng lại (Phục Sinh). Và ngôi đền vật chất Giê-ru-sa-lem cũng bị đế quốc La-mã san thành bình địa vào năm 70. Cũng vì thế, nên ba thế kỷ đầu Giáo Hội tiên khởi không có Thánh đường. Thực ra, không phải người Công Giáo không có khả năng xây dựng; nhưng vì đế quốc Rô-ma bách hại các tín hữu, nên mọi sinh hoạt tôn giáo thời ấy phải làm lén lút tại nghĩa trang ngầm dưới lòng đất, gọi là hang toại đạo. Chỉ đến thế kỷ IV, khi tướng Constantino giao chiến với đạo quân của hoàng đế Massenzio, thì có phép lạ xảy ra: Trên bầu trời bỗng xuất hiện hình ảnh cây Thánh Giá với hàng chữ La-tinh sáng tỏ: “cứ dấu hiệu này ngươi sẽ chiến thắng”. Constantino đã cho khắc hình Thánh giá trên các khiên thuẫn của binh sĩ và quả nhiên ông đã chiến thắng. Sau khi lên ngôi hoàng đế, thì đến năm 313, ông ra chiếu chỉ tại Milano, ngưng bách hại Ki-tô hữu, cho tự do hành đạo, và ra lệnh trả lại tất cả tài sản đã tịch thu của Giáo Hội trong thời kỳ bách hại của các hoàng đế tiền nhiệm. Sau cùng, hoàng đế Constantino trở lại đạo Công giáo và ấn định Chúa nhật là ngày nghỉ hằng tuần; đồng thời dâng hiến cung điện của ông làm Đền Thờ Chúa Cứu Thế. Không những thế, ngài còn khuyến khích, động viên các tín hữu xây cất Đền Thờ ở khắp nơi.

Đền thờ do hoàng đế Constantino cung hiến được gọi bằng tên của ngài: Đền Thờ La-tê-ra-nô. Đó là Thánh đường đầu tiên của Giám mục Rô-ma (Giáo hoàng), và cũng là Nhà thờ Chính tòa Giáo phận Rô-ma. Thánh đường này được gọi là “Mater et Caput”, là Mẹ và là Đầu của tất cả Nhà thờ khác trên thế giới. Đền thờ này đánh dấu sự trỗi dậy của Ki-tô giáo. Thật vậy, sau chiếu chỉ của hoàng đế Constantino công bố lệnh cấm bách hại Ki-tô giáo, một cộng đoàn Ki-tô hữu đã xuất đầu lộ diện, công khai cử hành phụng vụ và biểu lộ đời sống đức tin. Từ đó, Đền Thờ La-tê-ra-nô trở thành biểu trưng cho chính Giáo Hội. Vì tầm quan trọng này, nên lễ Cung Hiến Đền Thờ Thánh Gio-an La-tê-ra-nô hằng năm được cử hành với bậc lễ kính vào ngày 9 tháng 11, quan trọng hơn cả lễ Cung Hiến Đền Thờ Thánh Phê-rô và Phao-lô (cử hành với bậc lễ nhớ vào ngày 18 tháng 11). Vào thế kỷ thứ XVI, mặc dù Đền Thờ La-tê-ra-nô không còn ưu việt là Đền Thờ Mẹ, vì đã có hai Đền Thờ lớn mới được xây dựng: Đền Thờ thánh Phê-rô và thánh Phao-lô. Tuy nhiên, vì Đền thờ La-tê-ra-nô lúc đầu được dâng kính Chúa Cứu Thế, nên lễ Cung Hiến Đền Thờ La-tê-ra-nô vẫn còn mang dấu chỉ Đền Thờ Mẹ để hướng lòng mọi người xây dựng đời mình trở nên Đền Thờ cho Chúa ngự. (1Cr 3, 16-17).

Thánh Phao-lô rất ưu ái với khái niệm Đền Thờ, ngài nói với tín hữu Cô-rin-tô: “Trong Người, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí.” (Ep 2, 21-22); “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3, 16); “Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” (1Cr 6, 19). Rõ ràng trong bối cảnh các Thư gửi giáo đoàn tại Cô-rin-tô và Ê-phê-xô, thì đền thờ không phải chỉ là một kiến trúc vật chất, mà còn là hình ảnh tiêu biểu sự thánh thiện mà Chúa Thánh Linh tạo ra nơi những người sống trong Chúa Ki-tô và liên kết với Giáo Hội.

Nói như vậy, thì những Đền Thờ được kiến trúc bằng vật chất có còn cần thiết nữa không? Thực ra, khi nói Đức Giê-su là Đền Thờ Thiên Chúa đích thực; mỗi Ki-tô hữu vì được đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô nên đã trở thành Đền Thờ của Thiên Chúa, thì cốt ý chỉ là nhằm để xác định tính biểu trưng, tầm quan trọng bậc nhất của Đền Thánh – nơi thờ phượng Thiên Chúa và cũng là nơi Người ngự. Còn với con người trần thế, với tư tưởng bất toàn nhưng lại chỉ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền), nên những Thánh đường thì vẫn rất cần phải có cụ thế. Ấy cũng bởi vì Đền Thờ vật chất là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa, để lắng nghe Lời Người và thân thưa với Người (Ds 7, 89). Hơn thế nữa, Đền Thờ vật chất còn là dấu chỉ ơn Cứu Độ, bởi vì Đền Thờ và Hội Thánh đều bởi nguyên ngữ trong Thánh Kinh bằng tiếng La-tinh: “Ecclesia”. Như thế, chính Đền Thờ (kiến trúc bằng vật chất) diễn tả cụ thể sự hiện diện của Giáo Hội; đồng thời trở nên dấu chỉ sứ mệnh của Hội Thánh là công bố và ban phát ơn cứu độ của Thiên Chúa (sứ vụ Truyền Giáo). Đó là lý do giải thích tại sao Đức Giê-su Ki-tô Thiên Chúa muốn người Do Thái xây Đền Thờ Giê-ru-sa-lem thật đẹp, để tiên trưng vẻ huy hoàng của Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc, diễn tả Nước Trời (Kh 21, 2-27).

Trong Đền Thánh vinh quang đó, “các tôi tớ Người sẽ thờ phượng Người. Họ sẽ được nhìn thấy tôn nhan Người, và thánh danh Người ghi trên trán họ. Sẽ không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời.” (Kh 22, 3-5). Đó là những tín hữu khi còn tại thế đã thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí như lời Thánh Phao-lô xác quyết: “những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, là những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Ki-tô Giê-su, chứ không cậy vào xác thịt” (Pl 3, 3). Sự thánh thiện đó trở nên việc đích thực thờ phượng Thiên Chúa hằng sống trong tinh thần và chân lý, như Thánh Gio-an khẳng định: “Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 24).

Ý thức vấn đề, người Ki-tô hữu không chỉ mừng kính ngày “Cung hiến Thánh đường La-tê-ra-nô” bằng hình thức bề ngoài, mà cần phải nâng cao và đi sâu vào ý nghĩa cao trọng của Đền Thờ Thiên Chúa nơi các Thánh đường cũng như nơi chính thân xác của mình. Từ đó, hãy cầu nguyện xin Thần Khí Chúa luôn “Tẩy uế Đền Thờ” bản thân cho khỏi những tì vết xấu xa, những tội lỗi chất chồng, ngõ hầu xứng đáng là Đền Thờ Thiên Chúa, hiệp thông cùng Giáo Hội trong Đền Thánh Rô-ma (Vatican). Chính tại Đền Thờ Giáo Hội, người Ki-tô hữu và Giáo Hội chia sẻ trong Thần Khí Sự Thật dưới tất cả mọi dạng thức thánh hóa: thanh tẩy khỏi tội lỗi (1 Pr 4, 8), soi sáng trí khôn (Ga 14, 26), tuân giữ các giới răn (Ga 14, 23), kiên trì trong hành trình tới sự sống đời đời (Ep 1, 13-14; Rm 8, 14-16), và lắng nghe điều chính Chúa Thánh Linh nói với Hội Thánh: “Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta sẽ cho ăn quả cây sự sống trồng nơi ngự uyển của Thiên Chúa.” (Kh 2, 7). Ước được như vậy.

Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những viên đá sống động để xây nên một ngôi đền thánh, nơi Chúa ngự muôn đời. Xin cho Hội Thánh là dân Chúa ngày càng thêm đông và dồi dào ân sủng để trở nên thành thánh Giê-ru-sa-lem trên trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Cung hiến Thánh đường La-tê-ra-nô).

[Mục Lục]

Bài 5. Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Việc dùng một nơi đặc biệt để cầu nguyện và thờ phượng đã có từ rất xa xưa. Tuy nhiên, mãi khoảng năm 1000 trước Công nguyên ngôi đền thờ đầu tiên mới được vua Solomon xây dựng tại Giêrusalem để dành riêng cho Thiên Chúa, công trình này mất khoảng bảy năm rưỡi, lễ cung hiến đền thờ kéo dài tám ngày, và hằng năm được người Do Thái nhớ lại.

Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Giáo hội bị bách hại không thể xây dựng đền thờ, buộc phải cử hành các mầu nhiệm của Thiên Chúa tại nhà riêng hoặc trong các hầm mộ, hay trên các ngôi mộ của các vị tử đạo.

Năm 313 sau khi hoàng đế Constantinô ban hành đạo luật cho phép các kitô hữu tự do hành đạo, đền thờ đầu tiên được cất. Hoàng đế đã nhượng cho Đức Giáo hoàng Melchiade khu đất của dòng họ Laterani, và truyền xây đền thờ. Năm 324 thánh Giáo hoàng Silvestro cử hành lễ cung hiến đền thờ mang tước hiệu kính Chúa Cứu thế này, và chỉ từ sau thế kỷ VI mới thêm các tước hiệu hai thánh Gioan Tiền hô và Gioan thánh sử, từ đó được gọi là đền thánh Gioan Lateranô. Sau đó vào năm 334 Constantinô cho xây một giếng rửa tội nơi mà thánh Giáo hoàng Silvestro rửa tội cho ông, một dinh giáo chủ, nơi các giáo hoàng cư ngụ cho đến khi di chuyển sang Avignon. Đền thờ Lateranô hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm ngày cung hiến được mệnh danh là “mẹ của tất cả các đền thờ ở Rôma và trên toàn thế giới”.

Câu hỏi được đặt câu hỏi: Cung hiến nhà thờ này có nghĩa là gì? Tại sao phải mừng kỷ niệm cách trọng thể ?

Giữa lòng thế giới, trước cái nhìn của Thiên Chúa và loài người, trong một hành vi đức tin khiêm tốn và vui mừng, con người với khả năng trí tuệ khôn lường Chúa ban là những kiến trúc sư, thợ mộc, thợ nề, nghệ nhân ưu tú, kiến thiết công trình nghệ thuật đã dùng những tài nguyên thiên nhiên như phiến đá, cây gỗ, đất cát, xây dựng lên một khối lượng vật chất là đền thờ. Đây là một dấu chỉ hữu hình về Thiên Chúa vô hình, Đấng là Ánh sáng, là chiều cao cả và là chính vẻ đẹp.

Trong bối cảnh ấy, vị kiến trúc sư đã nối kết thực tại thế giới và lịch sử cứu độ. Ông đã đưa vào trong thánh đường này những viên đá, cây cối và đời sống con người, để tất cả công trình sáng tạo đều hợp tiếng chúc tụng Chúa. Ông đã vượt thắng sự tách biệt giữa lương tâm con người và lương tâm Kitô, giữa cuộc sống ở trần thế chóng qua này và sự cởi mở đối với đời sống vĩnh cửu, giữa vẻ đẹp của vạn vật và Thiên Chúa Đấng là chính vẻ đẹp, bằng những viên đá, những đường nét, mặt bằng và chiều thẳng.

Đền thờ là thân thể Chúa Kitô

Salomon đã xây cho minh một ngôi đền bằng đá và gỗ vì ông là một tiên tri, … Còn Thiên Chúa hằng sống Đấng dựng nên cả đất trời, ngự trên chín tầng trời… Tại sao Thiên Chúa lại đòi xây dựng một đền thờ ? Phải chăng Ngài bị tước mất chỗ ngự ? Hãy nghe lời Stêphanô lên tiếng trước Công nghị, trước lúc chịu khổ hình : “Còn Salômôn, đã xây nhà cho Người. Nhưng Ðấng Tối Cao hẳn không phải ngụ nhờ trong những vật tay phàm làm ra, như tiên tri đã nói” (Ac 7,47- 48). Vì thế từ đó đền thờ được xây để tiên báo thân thể Đức Kitô. Đền thờ đầu tiên chỉ là “bóng” của các điều sẽ đến; còn với Ðức Kitô mới có “mình”. (Col 2,17) : khi ánh sáng xuất hiện, bóng tối sẽ rút lui. Hiện nay chúng ta tìm kiếm đến thờ do vua Salomon xây ư ? Chỉ còn một đống đổ nát. Tại sao nó bị đổ nát ? Thưa là vì thực tại mà ông loan báo đã hoàn thành. Đền thờ đích thực là chính thân mình Chúa Kitô, cũng bị đổ vỡ, nhưng Người đã trỗi dậy, và sẽ không bao giờ đổ nát nữa…(Thánh Augustinô 354-430, Bài giảng số 3, 4 ; PLS 2, 664)

Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa

Còn thân xác chúng ta thì sao ? Là chi thể của thân mình Đức Kitô. Thánh Phaolô nói : “Anh em không biết sao? thân xác anh em là những chi thể của Ðức Kitô!” (1Cr 6,15). Khi nói : “Thân xác anh em là những chi thể của Ðức Kitô” nghĩa là thân xác chúng ta liên kết với đầu là Đức Kitô “Ngài là đầu của Thân mình” (x. Cl 1, 18), làm thành một đền thờ duy nhất, đền thờ Thiên Chúa.

Cùng với thân mình Đức Kitô, thân xác chúng ta là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Trước khi được thanh tẩy, chúng ta là miếu thờ ma quỷ, nhưng sau khi được thanh tẩy, chúng ta thành đền thờ của Đức Ki-tô. Thiên Chúa không chỉ ngự trong những đền do tay con người làm ra, cũng không chỉ ngự trong những ngôi đền bằng gỗ bằng đá, nhưng đặc biệt Người ngự trong linh hồn đã được dựng nên giống hình ảnh Người và do chính tay Người xây lên : Vì thế, thánh Phaolô đã nói : “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy” (1 Cr 3,16-17).

Gia đình là đền thờ

Như Thánh Gia Nazareth khi xưa, hoàn cảnh sống ngày nay đã biến đổi sâu xa và người ta đã đạt được những tiến bộ rất lớn trong các lãnh vực kỹ thuật, xã hội và văn hóa. Chúng ta không thể hài lòng với những tiến bộ ấy. Chúng ta còn phải luôn nghĩ đến những tiến bộ về luân lý, như sự quan tâm, bảo vệ và giúp đỡ gia đình, vì tình yêu quảng đại và không thể phân ly giữa một người nam và một người nữ là khung cảnh hữu hiệu và là nền tảng sự sống con người trong khi được cưu mang, sinh ra, lớn lên và kết thúc tự nhiên. Nơi nào có tình thương và lòng chung thủy, thì nơi đó tự do đích thực được nảy sinh và trường tồn.

Hân hoan mừng ngày cung hiến đền thờ, chúng ta không được dùng những hành động xấu xa để phá huỷ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì chúng ta cũng phải chuẩn bị chính tâm hồn chúng ta như thế.

Chúng ta muốn thấy ngôi thánh đường sạch sẽ ư ? Đừng làm cho linh hồn bạn ra ô uế vì những nhơ bẩn của tội lỗi. Chúng ta muốn vào ngôi thánh đường kia như thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, theo lời Người đã hứa : Ta sẽ ngự giữa họ và sẽ đi đi lại lại giữa họ.

[Mục Lục]

Bài 6. Bài giảng lễ Cung hiến Thánh đường Latêranô của Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Kính thưa anh chị em,

Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô.

Đây là vương cung thánh đường xưa nhất và mang nhiều ý nghĩa nhất trong số rất nhiều thánh đường ở Roma.

1. Theo lịch sử thì đền thờ này được xây nên ngay sau khi Hội Thánh vừa thoát ra khỏi tình trạng hang toại đạo có nghĩa là vừa thoát ra khỏi tình trạng bị bắt bớ dưới các triều hoàng đế Rôma. Năm 313 lệnh bắt đạo được bãi bỏ. Năm 320 tự do tôn giáo được pháp luật công nhận và bảo hộ. Sự việc này đã làm nức lòng các tín hữu và ngay lập tức người ta nghĩ ngay đến việc phải xây dựng những đền thờ để làm công việc thờ phượng Chúa cho xứng đáng. Trong số những nhà thờ được xây vào lúc đó người ta đặc biệt chú ý đến ngôi đền thờ dành cho vị Giám Mục Roma đồng thời cũng là vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội phụ trách. Chính Hoàng đế Constantinô đã xin hiến nơi ông đã được rửa tội trong cung điện Latêranô để làm cơ sở cho việc xây dựng ngôi đền thờ này. Người ta cũng đã khiêng cái bàn thờ nơi các Giám mục Roma đã từng dâng lễ trong những năm bị bắt bớ về đặt ở trong ngôi thánh đường mới. Lúc đầu người ta dâng đền thờ này để kính Đấng Cứu Thế. Về sau người ta lại gọi đền thờ này là Vương cung Thánh đường dâng kính Thánh Gioan Tẩy giả. Rồi từ đời này qua đời khác, đền thờ Latêranô luôn được coi là Nhà thờ chính tòa của các vị Giám mục thành Roma mà tất cả các Giáo Hội trên thế giới đều coi là Giáo Hội Mẹ. Đến thế kỷ thứ XVI thì ngôi vị này mới được chuyển đổi qua một ngôi Đền thờ mới: đó là Đền thờ thánh Phêrô hiện ở trong cung điện Vaticanô. Xét về phương diện lịch sử và ý nghĩa, thì sự thay ngôi đổi vị này không có ảnh hưởng gì đến ngôi đền thờ đặc biệt chúng ta mừng kính hôm nay. Chính vì thế mà hằng năm cả Hội Thánh vẫn hướng về nó như người mẹ muôn thuở đã sinh ra hàng hà sa số những người con trên mặt đất này.

Như vậy, về phương diện lịch sử chúng ta thấy việc mừng kính có một giá trị rất thiết thực. Nó hướng chúng ta về một quá khứ hào hùng của Giáo Hội, một quá khứ nói theo kiểu của Renan đã có thời phải thở bằng máu, nhưng lại là một quá khứ để lại những tấm gương về đời sống anh hùng, về niềm tin bất khuất và nhất là về một lòng yêu mến vô bến bớ đối với Thiên Chúa, làm cho những thế hệ đi sau phải noi gương. Nhắc lại những biến cố như thế thật là việc nên làm nhất là đối với chúng ta ngày hôm nay.

2. Nhưng thử hỏi có phải khi mừng lễ cung hiến thánh đường Lateranô, Giáo Hội chỉ có ý nhắm tới mục đích này mà thôi không? Không! Giáo Hội còn muốn cho chúng ta nghĩ tới những mục đích khác.

Như anh chị em đã biết: Đền thờ có một vai trò rất quan trọng trong sinh hoạt của cộng đoàn dân Chúa.

* Tiên tri Ézékiel đã cho chúng ta thấy một quan niệm rất đẹp về đền thờ. Đền thờ là nhà của Thiên Chúa. Chính từ nơi đây mà Thiên Chúa thi thố ân huệ cho dân của Người. Chính vì quan niệm về đền thờ như thế cho nên những người Do Thái rất quí trong đền thờ. Hằng năm những người Do Thái ngoan đạo đều phải lên đền thờ để được chu toàn bổn phận của mình đối với Thiên Chúa.

* Đó là hình ảnh một đền thờ trong Cựu Ước. Đến Tân ước thì chúng ta thấy ý nghĩa của đền thờ không còn dừng lại ở đó. Chúa Giêsu đã đẩy ý nghĩa của nó lên một cấp độ cao hơn. Đền thờ trong Cựu Ước tuy đã là vô cùng quí giá, thế nhưng dù quí đến đâu đi nữa thì giá trị của nó cũng chỉ là vật chất. Dù được làm bằng những thứ quí giá nhất trên đời đi nữa thì đây cũng chỉ là những thứ bằng vàng, bằng bạc, chưa phải là thứ đền thờ Thiên Chúa mong muốn. Thiên Chúa còn muốn một loại đền thờ khác. Đây không phải là đền thờ bằng những nguyên liệu đất đá nhưng là bằng chính cõi lòng của con người. Trong câu truyện Chúa thanh tẩy đền thờ mà bài Tin Mừng hôm nay ghi lại chúng ta thấy được điều đó.

* Như vậy thì chúng ta đã rõ việc mừng lễ cung hiến đền thờ Lateranô hôm nay không phải chỉ là một việc làm ôn lại lịch sử mà là một việc làm củng cố niềm tin của chúng ta. Chúng ta mỗi người là đền thờ của Thiên Chúa. Mỗi người là đền thờ cũng có nghĩa là mỗi người có chỗ cho Chúa trong tâm hồn của mình. Một thi sĩ Đức nói: Chúa có giáng sinh ra cả 1000 lần ở Belem cũng vô ích cho bạn nếu Ngài không sinh ra được ở trong hồn của bạn” Như vậy thì trách nhiệm của mỗi người thật nặng nề. Thánh Phaolô nói một câu mà tôi cho là rất khủng khiếp: “Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em”. (1Cr 3,17)

“Ai phá hủy đền thờ của Thiên Chúa thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy”.

Vậy phải biết quí trọng con người chúng ta. Anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Chúng ta phải làm gì để chu toàn được bổn phận đó? Tôi xin để nghị một vài công việc.

Giống như một toà nhà muốn cho nó được đứng vững và tồn tại lâu dài chúng ta phải biếtbảo trì nó. Bảo trì bằng cách săn sóc chăm lo cho nó. Chăm lo như thế nào?

1. Trước hết hãy lo cho nó được sạch sẽ. Trong Tin Mừng Chúa Giêsu đã mô tả tầm hồn của một người tội lỗi là tâm hồn chất chứa đầy những thói hư tất xấu như “gian tà, giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian, và vu không” và Chúa bảo “đó là những cái làm cho con người ra ô uế”(Mt 15,19-20). Một tâm hồn như thế không thể xứng đáng với sự hiện diện của Thiên Chúa được.

2. Tiếp theo muốn cho một ngôi nhà được đẹp đẽ chúng ta phải biết trang hoàng cho nó.Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galata đã mô tả tâm hồn thánh thiện là một tâm hồn được trang hoàng bằng hoa quả của Thánh Thần. Hoa quả đó là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa và tiết độ” (Ga 5,22-23)

3. Sau cùng một ngôi nhà dù được trang hoàng đẹp đẽ cách mấy đi nữa nhưng nếu nó không có sức sống thì nó cũng trở thành vắng lạnh không phát huy được tác dụng. Tôi có dịp đi tham nhiều nơi bên Âu Mỹ….nơi có rất nhiều nhà thờ bây giờ không còn hoạt động. Nhiều nhà thờ trở thành một tụ điểm du lịch cho khách đến tham quan…Tâm hồn của chúng ta cũng vậy nếu không có sức sống sớm muộn gì nó cũng trở thành lạnh lẽo hoang tàn. Hãy làm cho tâm hồn chúng ta có sức sống bằng cách để cho ơn Chúa hoạt động trong chúng ta. Thánh Phaolô dã dám tự hào mà noí: “Tôi đã không để cho ơn Chúa ra vô ích trong tôi”(1Cr 15,10)

Ngày kia Bà thánh Catarina thành Sienna bị một cơn cám dỗ dường như quá sức của mình. Bà phải vất vả lắm mới qua được cơn cám dỗ này. Sau khi cơn cám dỗ qua đi, Bà thấy Chúa hiện ra và bà liền hỏi Chúa:

- Lạy Chúa lúc tâm hồn con bị cám dỗ đầy dẫy những hình ảnh tối tăm nhơ nhớp như thế thì Chúa ở đâu?

Chúa trả lời:

- Con yêu quí của Cha, Cha ở ngay trong lòng của con.

- Trong lòng của con? Lẽ nào Chúa lại ở trong lòng của con trong những lúc như thế được?

- Vậy con hãy trả lời cho Cha hay: Cơn cám dỗ đó đã làm cho con vui sướng hay cực khổ?

- Lạy Chúa khi đó con vô cùng đau buồn và khổ cực.

- Con biết ai đã làm cho con đau buồn và cực khổ như vậy nếu không phải là Cha ở trong lòng con? Con có tin rằng nếu không có Cha ở trong con thì cơn cám dỗ dã lôi kéo con, làm cho con sa ngã phạm tội rồi không? Phần con, con đã hết sức chống cự, còn Cha Cha đã giúp con chiến thắng. Chiến đấu sẽ làm cho con trở nên vững mạnh và giúp con có thêm nhiều công nghiệp.”

[Mục Lục]

Bài 7. Đền thờ mới

Theo tập tục của người Do Thái, thì những khách hành hương trở về đền thờ vào những dịp lễ lớn, thường phải dâng lễ vật và nộp thuế. Lễ vật có thể là chiên bò, cũng có thể là bồ câu tuỳ theo khả năng tài chánh của mình. Lễ vật có thể từ xa đem tới, nhưng để cho tiện, người ta đã tổ chức việc buôn bán các giống vật này ngay tại khuôn viên đền thờ. Mặt khác, người ta không thể dùng loại tiền của nhà nước đang lưu hành để mua các lễ vật hay để nộp thuế vì sợ ô uế, cho nên phải đổi ra những đồng tiền của đền thờ. Do đó việc buôn bán và đổi tiền ở đây đã trở thành một thứ dịch vụ phục vụ cho việc tế lễ.

Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy Chúa Giêsu đã hành động và hành động của Ngài đã làm cho người Do Thái hết sức kinh ngạc. Thực vậy, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán bò chiên, bồ câu và những người ngồi đổi tiền. Không phải chỉ bằng những lời quát mắng mà bằng cả roi vọt. Ngài săn đuổi cả người lẫn vật ra khỏi đền thờ, lật đổ bàn ghế của những kẻ đổi tiền. Và Ngài đã xác định cho thấy ý nghĩa của việc Ngài đã làm: Hãy mang khỏi nơi đây những vật này. Đừng biến nhà Cha thành một cái chợ. Đồng thời Ngài cũng còn muốn nói lên rằng: Kiểu tế lễ của người Do Thái đã lỗi thời, đã mất hết ý nghĩa, và đã biến dạng thành một việc buôn bán để trục lợi. Như vậy thì đền thờ chỉ còn là một cái chợ không hơn không kém. Tình tạng này không thể được tiếp tục.

Người Do Thái có lẽ đã hiểu được dụng ý sâu xa của Chúa Giêsu, cho nên họ đã đòi Chúa Giêsu phải cung cấp cho họ một dấu chứng tỏ Ngài có quyền làm như vậy. Và Chúa Giêsu đã đưa ra một dấu chứng hoàn toàn mới lạ, mà người Do Thái không bao giờ ngờ tới, Ngài đã xác quyết: Đền thờ chính là thân xác của Ngài. Câu trả lời của Ngài chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của sự chết và sống lại.

Thực vậy, được chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, các tông đồ mới có thể xác quyết được rằng: Khi nói đến một đền thờ bị phá huỷ và được xây dựng lại ba ngày sau đó, Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến chính thân xác của Ngài. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy việc tế lễ theo kiểu cũ đã qua và với sự hiện diện của Ngài, thì đã bắt đầu một giai đoạn mới trong việc tôn thờ Thiên Chúa. Đền thờ là nơi con người thờ phượng Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là nơi Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Một sự hiện diện tạo hạnh phúc và cứu độ. Trong niềm tin của các tông đồ, chính Đức Kitô sống lại đã thể hiện đầy đủ ý nghĩa của đền thờ. Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người. Đồng thời cũng là trung tâm thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Bởi đó, mỗi người chúng ta cũng cần phải kiểm điểm lại quan niệm về đạo cũng như cách thức sống đạo của chúng ta. Để xem chúng ta đã thực sự đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta bước đi hay chưa. Con đường dẫn chúng ta tới ơn cứu độ và tới niềm hạnh phúc Nước Trời.

[Mục Lục]

Bài 8. Latêranô và những ngôi Đền Thờ
Lm. Vũ Xuân Hạnh

Kể từ sau khi Chúa Giêsu về trời, với việc các thánh tông đồ nói riêng, các Kitô hữu đầu tiên nói chung, ra đi truyền bá Tin Mừng, Hội Thánh bắt đầu hiện diện giữa lòng thế giới. Thay vì đón nhận sự hiện diện ấy, chính quyền đế quốc Rôma bắt đầu nghi kỵ và ác cảm. Gần 300 năm (từ những năm cuối thập niên 50 trải dài đến những năm 310), cuộc bắt đạo lần lượt qua mười triều đại hoàng đế (khởi đi từ Nero đến Diokletian). Thế nhưng, suốt 300 năm ròng rã phải sống chui nhủi trong những hang toại đạo, những hốc đá, rừng rậm… như một thứ “Hội Thánh hầm trú”, vậy mà không một sức mạnh của bạo quyền nào có thể đè bẹp đức tin, tưởng chừng quá non nớt, quá mới mẽ của các Kitô hữu tiên khởi.

Đức tin có sức mạnh riêng, có lý lẽ riêng, có sự sống riêng của nó. Sức mạnh, lý lẽ, cũng như sự sống riêng ấy là một khối tinh thần. Khối tinh thần ấy không thuộc về lý trí, hay trí tuệ, nhưng thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, một huyền nhiệm của trời cao (chứ không phải của con người). Đã là sức mạnh của cả một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, làm gì có bất cứ một sức mạnh nào khác có thể vượt qua!

Ngay từ khởi đầu của Hội Thánh, một đức tin xem ra chẳng đáng kể gì về bề dày thời gian, đã có thể lướt thắng mọi trở ngại. Bởi thế, mãi cho đến hôm nay, đức tin ấy, một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng ấy, đã được tinh luyện hàng ngàn năm, chắc chắn không dễ gì lay chuyển. Lịch sử vẫn còn đó, như dấu tích, như bằng chứng, hơn nữa như bài học xác đáng cho con người thời đại…

Sau một thời gian quá dài, không sao đổi dời lòng tin của các Kitô hữu, đến năm 313, hoàng đế Constantin ký sắc lệnh Milan công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc Lamã. Sau thời gian đó, hoàng đế tiếp tục thực hiện một nghĩa cử đáng trân trọng: Ông trao tặng Đức Thánh Cha Miltiad một cung điện lộng lẫy nằm trên đồi Coelius: cung điện Latêranô ngày nay. Một thời gian không lâu sau đó, Đức Thánh Cha đã cho xây bên cạnh cung điện này một Đại Thánh đường, đó là Đại Thánh đường Latêranô. Và ngày 9. 1. 324, Đức Sylvester đã long trọng cung hiến Đại Thánh đường này.

Ngay từ đầu, Thánh Đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế, với tước hiệu Vương Cung Thánh đường Chúa Cứu Thế. Thế kỷ XII, nó cũng được dâng kính thánh Gioan Baotixita và thánh Gioan tông đồ. Đại thánh đường Latêranô được xem là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”. Sở dĩ nhà thờ này có một chỗ đứng quan trọng trong Giáo Hội như thế là vì bốn lý do:

- Đây là ngôi thánh đường đầu tiên được công nhận trong đế quốc.

- Đây là nhà thờ đầu tiên trước mọi nhà thờ trong Giáo Hội. Một ngôi nhà thờ mang nhiều ý nghĩa lịch sử: Trong thời gian bị bắt đạo, Hội Thánh không thể xây một ngôi thánh đường nào. Các thánh lễ và các buổi tụ tập cầu nguyện đều lén lút tổ chức trong các nhà tư, trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh Tử Đạo. Sau khi được chính quyền công nhận, các tín hữu, từ chỗ lén lút bước vào xã hội công khai, Đại Thánh đường đầu tiên này là nơi duy nhất và sang trọng nhất, để họ dâng kính Thiên Chúa việc thờ tự của mình.

- Đây là Vương Cung Thánh đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Giáo hoàng.

- Hội Thánh chính là đền thờ của Thiên Chúa, mỗi Kitô hữu như những viên gạch sống động đắp xây ngôi Đền Thờ Hội Thánh. Vì ý nghĩa lịch sử lớn lao và có cả một bề dày hiện diện giữa lòng Hội Thánh, Đại Vương Cung Thánh đường Latêranô là ngôi Đền Thờ được Hội Thánh chấp nhận như một biểu trưng cho một ngôi Đền Thờ to lớn là chính Hội Thánh, nơi mà Thiên Chúa trao tặng hết tình yêu của Người và ưa thích ngự vào.

Ngoài chính bản thân ngôi Đền thờ Latêranô là Đại Thánh đường cổ xưa nhất, nơi đây còn có giếng rửa tội lâu đời nhất của Rôma. Tại giếng rửa tội này, hàng ngàn tân tòng đã đến đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong các đêm vọng Phục Sinh. Cung điện Latêranô còn là nơi hội họp của 250 Công Đồng, trong đó có bốn Công Đồng chung. Các Đức Giáo hoàng đã cư ngụ tại đây trong hơn 1.000 năm, mãi cho đến thế kỷ XIV, Đức Nicôlas V mới dời Giáo Đô về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô.

Qua các trận hỏa hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức, của Pháp… Đền thờ Latêranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngày 28. 4. 1726, sau một công trình tái thiết lớn, Đức Thánh Cha Bênêditô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9. 11 hàng năm làm ngày lễ tưởng niệm cung hiến Đại Thánh đường Latêranô.

Nhưng trong thánh lễ kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Latêranô hôm nay, Hội Thánh không dừng lại ở việc tưởng niệm một lịch sử đã qua đi từ lâu. Nhưng qua việc tưởng niệm này, Hội Thánh muốn chúng ta hướng tới sự tôn thờ một Ngôi Đền Thờ sang trọng, lớn lao, chất chứa mọi ngôi đền thờ, và vượt trên mọi ngôi đền thờ, và mọi ngôi đền thờ dù theo nghĩa hiện thực hoặc tinh thần, đều chỉ tìm thấy ý nghĩa của mình nơi Ngôi Đền Thờ ấy. Đó chính là Ngôi Đền Thờ mang tên Giêsu Kitô. Vì chỉ có Chúa Kitô mới là Đền Thờ đích thực như chính Người đã ám chỉ về mình trong bài Tin Mừng của lễ Cung Hiến Đền Thờ Latêranô: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi. Nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”. Và lời này được thánh Gioan Tông đồ giải thích ở cuối bài Tin Mừng: “Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”.

Mừng lễ cung hiến Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi nhà thờ vật chất, ta hướng về Ngôi Đền Thờ Rất Thánh là Chúa Kitô, để nhận ra Người cũng chính là Ngôi Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi đền thờ khác là chúng ta. Ngôi Đền Thờ Mẹ rất Thánh ấy đã chấp nhận “hủy mình ra không”. Và chấp nhận được “phá hủy” như thế, để nên nguồn lợi lớn lao cho mỗi ngôi đền thờ con của Ngôi Đền Thờ Mẹ, là chính chúng ta: Người mang ơn cứu độ, mang lại sự sống trường cửu cho ta.

Hiểu được ý nghĩa của bài học về sự tự hiến nơi Chúa Giêsu như thế, đến lượt mình, bạn và tôi cũng hãy là những người biết dùng tất cả tài năng, sức lực, sự khôn ngoan để chung tay xây dựng cuộc đời, xây dựng Hội Thánh. Nếu một ngôi đền thờ vật chất bị phá hủy, nó chỉ trơ lại một đống đổ nát. Nhưng nếu một ngôi đền thờ là chính mỗi con người biết “phá hủy” và chấp nhận để cuộc đời “phá hủy” mình, nghĩa là biết chấp nhận tự hiến, ngôi đền thờ ấy sẽ sinh ra không biết bao nhiêu lợi ích cho chính mình và cho muôn người.

Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những ngôi đền thờ sống động, để cùng nhau xây nên một ngôi đền thánh vinh hiển là Hội Thánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cho đi chính bản thân để phụng sự Chúa và phục vụ con người. Chỉ có cho đi trong tinh thần tự hủy, chúng con mới có thể làm rạng danh Chúa và xứng đáng là những ngôi đền thờ có Chúa ngự. Hay nói cho đúng, chỉ khi nào có Chúa ngự, con người chúng con mới xứng đáng gọi là đền thờ.

[Mục Lục]

Bài 9. Đền thờ tâm hồn
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.

1. Giới thiệu Đền Thờ Latêranô

Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha. Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới.

Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế. Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ. ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144.Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng.

Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, đươc xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590).

Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản cóGiếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008).

2. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ

Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.

Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này.

Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.

Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.

Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.

Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ.

Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.

Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.

Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.

Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của những người đổi bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.

Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.

Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy.”Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11).

Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.

“Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5).

3. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?

- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.

Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.

- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.

Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16).

Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.

- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện”

Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.

Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.

4. Xây dựng đền thờ tâm hồn.

Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn mình.

Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.

Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).

Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;

Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.

[Mục Lục]

Bài 10. Cung Hiến Thánh Đường Latêranô

Trong những thế kỷ đầu, Hội thánh luôn bị bách hại nên không xây dựng được ngôi Thánh đường nào. Các cuộc lễ và cầu nguyện đều tổ chức trong các nhà tư hoặc trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh tử đạo.

Mãi đến năm 324, Đức Giáo Hoàng Synvếttrô mới cung hiến cung điện Latêranô làm Đại Thánh Đường dâng kính Chúa Cứu Thế. Cung điện này do hoàng đế Côngtăntin nhường cho ngài làm nơi cư ngụ. Và ngài đã trú ngụ tại đây cho đến thế kỷ 14 mới dời về Vaticăn. Đây là ngôi Thánh Đường cổ kính nhất, được gọi là “Mẹ và Đầu của tất cả mọi Thánh đường trên thế giới”.

Thánh Đường Latêranô được gọi là mẹ tất cả các Thánh Đường vì là Thánh Đường đầu tiên được chính quyền công nhận trong đế quốc Lamã, và cũng vì đây là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Đức Giáo Hoàng.

Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Côngtăntin được Đức Giáo Hoàng Synvếttrô rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Rôma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa Kitô.

Để kỷ niệm ngày cung hiến Đại Thánh Đường này, Hội thánh tổ chức mừng lễ hôm nay. Ngày lễ này đáng chúng ta mừng kính, vì nó nhắc mọi người nhớ thánh đường là nhà cầu nguyện, là nhà của Thiên Chúa, là nơi Thánh và đáng kính sợ, là hình ảnh Giêrusalem trên trời và là cửa Thiên đàng. Tất cả các đồ dùng nơi đây đều được thánh hiến: giếng rửa tội là nơi chúng ta được tái sinh làm con Chúa, tòa cáo giải là nơi chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tòa giảng giúp chúng ta nghe Lời Chúa, bàn thờ nơi dâng hiến Chiên Thiên Chúa là Đấng xóa bỏ tội lỗi thế gian, nhà tạm là nơi Vua muôn vua ẩn mình… Kể cả những viên gạch xây dựng đền thờ cũng nhắc chúng ta nhớ tâm hồn mỗi người là những viên đá sống động của ngôi thánh đường thiêng liêng, như lời thánh Xêdariô nói: “Anh em rất thân mến, hôm nay nhờ ơn Chúa, chúng ta hân hoan cử hành ngày giáp năm của đền thờ này. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dĩ nhiên Kitô hữu có lý để lấy lòng tin mà tôn kính ngày trọng đại của Mẹ Hội thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội thánh họ đã được tái sinh một cách thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần thứ nhất, chúng ta đã là đối tượng cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn nhờ cuộc tái sinh, chúng ta đã được trở nên đối tượng của lòng Người thương xót. Quả thế, lần sinh ra thứ nhất đưa tới sự chết, còn cuộc tái sinh gọi ta về sự sống thật…”

“Vì vậy anh em rất thân mến, nếu chúng ta muốn hân hoan cử hành ngày kỷ niệm cung hiến Đền thờ, chúng ta không được dùng những việc xấu xa phá đổ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Nói thế là để mọi người hiểu rằng: Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì ta cũng phải sửa soạn tâm hồn ta như thế”.

“Bạn muốn thấy Thánh đường sạch sẽ ư? Đừng làm linh hồn bạn nhơ nhớp vì dơ bẩn tội lỗi. Bạn muốn thấy Thánh đường trong sáng ư? Thì Thiên Chúa cũng muốn bạn đừng để tâm hồn tối tăm, nhưng hãy làm như lời Chúa nói, để ánh sáng việc lành chiếu sáng trong tâm hồn chúng ta, và Đấng ngự trên trời sẽ được hiển vinh. Bạn muốn vào nhà thờ thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, đúng như lời Người đã hứa: và Ta sẽ ở với chúng và đi lại với chúng”

+ Ghi nhớ

Hằng ngày tôi lo gìn giữ linh hồn sạch tội, trong sáng, để xứng đáng nên đền thờ Chúa ngự.

+ Lời nguyện

Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những viên đá sống động để xây nên một ngôi đền thánh, nơi Chúa ngự muôn đời.

Xin cho Hội thánh là dân Chúa ngày càng thêm đông và dồi dào ân sủng, để trở nên thành thánh Giêrusalem trên trời.

Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 11. Đền Thờ Tâm Hồn
Enzodi

Khoảng năm 312, hoàng đế Rôma Constantinô vừa mới trở lại Kitô giáo, đã dâng tặng Đức giáo hoàng Miltiade (311-314) cung điện Latêrani trên núi Coelius. Một ít thời gian sau, Đức giáo hoàng cho xây ở đây một thánh đường, đó là vương cung thánh đường Latêranô, là ngôi thánh đường cổ nhất và có địa vị cao nhất trong số các thánh đường của phương Tây. Một truyền thống nói rằng thánh đường này được Đức Giáo Hoàng Sylvestre (314-335) cung hiến ngày 9 tháng 1 năm 324. Bảng chữ trên cửa lớn của thánh đường ghi : “Mẹ và Đầu của mọi thánh đường”. Thật vậy, vương cung thánh đường này là nhà thờ chính của Đức giáo hoàng trên cương vị Giám mục Rôma, nhưng vì ngài cũng là mục tử tối cao của Hội Thánh Công Giáo, nên các nhà thờ thuộc nghi lễ Rôma trên toàn thế giới, khi long trọng mừng kỷ niệm thánh đường Latêranô, thì đồng thời cũng mừng sự hiệp nhất hoàn vũ của Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô, và thánh đường là biểu tượng của sự hiệp nhất đó.

Ban đầu thánh đường được cung hiến dưới tước hiệu Vương cung thánh đường Chúa Cứu Thế, sau đó được dâng kính hai thánh Gioan Tẩy Giả và Gioan Tông Đồ ; thực vậy, thánh đường này có giếng rửa tội cổ xưa nhất của Rôma : hàng ngàn tân tòng đến đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong đêm Phục Sinh. Vì vậy thánh đường này đã giữ lại tước hiệu Thánh Gioan Latêranô (Saint-Jean-de-Latran). Sau khi bị hư hại nặng vì chiến tranh, hoả hoạn và bỏ hoang, thánh đường đã được Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIII cho xây dựng lại và được cung hiến lại năm 1726.

Cung điện Latêranô là một phức hợp gồm các căn hộ, phòng họp lớn của các công đồng, thư viện và tu viện, và đã là toà của các vị Giáo hoàng trong hơn một ngàn năm, cho đến khi Đức Giáo Hoàng Nicolas V (1477-1455) rời Coelius và đến ở Vaticanô. Cung điện này cũng từng là nơi nhóm họp của 250 công đồng, trong đó có 4 Công Đồng Chung. Bị hỏa hoạn năm 1308 và bị bỏ hoang trong thời các Giáo hoàng đến ở Avignon, cung điện đã bị tàn phá và được xây dựng lại thời Đức giáo hoàng Sixtô Quint (1585-1590). Trong một toà nhà ngày nay được ngăn đôi, có gian Thánh và gian Cực Thánh (nhà thờ cũ của Giáo hoàng).

Thông điệp và tính thời sự

a. Đoạn sách thứ nhất trong hai đoạn được đề nghị cho bài đọc 1 trích từ sách Êdêkien (47, 1. . .12) có đoạn này : Có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ và chảy về phía đông… Người ấy đưa tôi ra ngoài và nói với tôi : “Nước này chảy về miền đất phía đông, xuống vùng thung lũng Giorđan, và đổ ra biển Chết và làm cho nước biển hóa lành. Nước chảy đến đâu thì mọi sinh vật sẽ được sống và sinh sôi nảy nở. . .”

Trong đoạn sách này, ta thấy rõ ràng biểu tượng về phép rửa, và về Hội Thánh như là Dân Thiên Chúa và như là Đền Thờ. Điều này cũng nhắc nhớ chúng ta rằng lịch sử cứu độ có tính đặc trưng bí tích và được hoàn thành nơi Đức Kitô, Đấng thể hiện nơi bản thân Người chân lý viên mãn của mỗi biểu tượng, kể cả biểu tượng về Đền Thờ, như thánh Gioan nhấn mạnh trong Tin Mừng của thánh lễ (2, 13-22): “Nhưng Đền Thờ mà Người (Chúa Giêsu) nói đến, đó là thân mình Người.”

Tiếp theo chủ đề bí tích, phép rửa và Kitô học, đoạn sách thứ hai được đề nghị cho bài đọc 1 (1 Cr 3, 9…17) triển khai chủ đề giáo hội học, vì các tín hữu giống như những viên đá sống động, những vật liệu làm thành toà nhà thiêng liêng được đặt trên viên đá góc là Đức Kitô: Anh em là nhà được Thiên Chúa xây lên. . .Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.

b. Trong nhiều thế kỷ, thánh đường Latêranô từng là nơi mà nền phụng vụ của Giáo hoàng được triển khai những bước đầu tiên, trước khi nó truyền lại kiểu cách cử hành của nó cho tất cả các Giáo Hội phương Tây. Ở đây thánh đường Latêranô không chỉ là một “trung tâm mới của thế giới”, thay thế cho Giêrusalem, mà còn là một kiểu mẫu cho mọi thánh đường, cũng được gọi là mẹ, vì sinh ra những con cái Thiên Chúa qua phép rửa, và cũng vì sinh ra những Giáo Hội và cộng đoàn khác qua lực đẩy truyền giáo của những thánh đường này. Do đó, cử hành lễ kỷ niệm này cũng có nghĩa là trở về nguồn khai sinh và phát triển của người Kitô hữu, phần tử của một Giáo Hội địa phương được sinh ra bởi phép Rửa, được trở nên phong phú bởi phép Thêm Sức và được nuôi dưỡng bởi Thánh Thể. Tuy nhiên, mọi Giáo Hội địa phương đều gắn kết với Giáo Hội Mẹ, được biểu trưng bằng Giáo Hội Rôma, với nhà thờ lớn là vương cung thánh đường Latêranô, “Mẹ và Đầu của mọi Giáo Hội”.

c. Chúng ta thấy rõ tính thời sự của lễ này : là những phần tử sống động của Giáo Hội địa phương, tất cả chúng ta có trách nhiệm làm cho Giáo Hội này noi gương Giáo Hội mẹ, sinh ra những Giáo Hội và cộng đồng khác, đi ra khỏi những bức tường kín hay những ranh giới địa lý của mình, để mở ra cho toàn thế giới.

Cũng vậy, mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô nhắc chúng ta nhớ lại phép rửa tái sinh của chúng ta: “… Trước khi chịu phép rửa, chúng ta là những đền thờ của ma quỉ ; sau khi chịu phép rửa, chúng ta được trở nên những đền thờ của Thiên Chúa… Vì thế, thánh Phaolô đã nói : Đền thờ của Thiên Chúa là thánh, và đền thờ đó chính là anh em.” Nhưng ân huệ này đòi hỏi chúng ta rất nhiều : “Anh em muốn có một thánh đường sáng láng ư ? Đừng để tội lỗi làm nhơ bẩn tâm hồn anh em. Nếu anh em muốn thánh đường được chiếu sáng, và Thiên Chúa muốn điều đó, hãy để ánh sáng của các việc lành chiếu sáng nơi anh em…” (Trích một bài giảng của thánh Césaire d’Arles, trong Giờ Kinh Sách).

[Mục Lục]

Bài 12. Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ

1. Lời nguyện mở đầu

Lạy Thiên Chúa của sức mạnh và lòng thương xót,
Xin hãy che chở chúng con khỏi mọi nguy biến.
Xin ban cho chúng con sự tự do tinh thần,
sức khỏe trong tâm trí và cơ thể để làm công việc của Chúa trên thế gian.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa,
Đấng hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần,
Một Thiên Chúa, đến muôn thuở muôn đời. Amen.

2. Suy Niệm

- Bối cảnh: Đoạn Tin Mừng của chúng ta có một giáo huấn rõ ràng và không thể nhầm lẫn của Chúa Giêsu trong Đền Thờ. Trước đây, ông Gioan Tẩy Giả đã được chứng kiến Chúa Giêsu nói rằng Người là Đấng Mêssia (1:29); các môn đệ đầu tiên, dựa trên biểu lộ của Gioan Tẩy Giả, đã công nhận Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai đích thực: để mở đầu cho một lễ Vượt Qua mới và một giao ước mới, để mang đến sự giải thoát cho nhân loại (Ga 1:35-51); tại Cana, Chúa Giêsu ban phép lạ đầu tiên để cho thấy vinh quang của Người (Ga 2:1-12): vinh quang sẽ được nhìn thấy, sự vinh quang có thể được dự liệu trước; do đó, tự nó biểu lộ. Đó là vinh quang của Chúa Cha hiện diện trong con người của Đức Giêsu và tự biểu lộ tại lúc khởi đầu hoạt động của Người, bằng cách này, dự đoán “giờ” của Người đã đến (17:1). Vinh quang của Chúa được thể hiện bằng cách nào? Thiên Chúa khôi phục lại mối quan hệ mới với nhân loại cách nhưng không; Người kết hợp mật thiết với loài người và ban cho họ có khả năng yêu thương như Ngài yêu thương, qua Chúa Thánh Thần, Đấng thanh tẩy tâm hồn loài người và làm cho loài người trở thành con Thiên Chúa. Tuy nhiên, thật là cần thiết để nhận thức được rằng tình yêu Thiên Chúa không thay đổi, được thể hiện trong Đức Giêsu, tương ứng với đức tin, với lòng gắn bó riêng.

- Chúa Giêsu và Đền Thờ: Giờ đây Chúa Giêsu đang ở tại Giêrusalem, trong Đền Thờ ứng nghiệm lời tiên Malakhi (Ml 3:1-3), Người công bố mình là Đấng Cứu Thế. Sự có mặt như thế của Chúa Giêsu thì đã tạo ra sự căng thẳng hơn cả những giáo lý của Người. Bây giờ, người đọc hiểu rằng làm thế nào mà các cuộc tranh chấp lớn với người Do Thái luôn luôn xảy ra trong Đền Thờ; ở nơi này, Chúa Giêsu đã nói lên lời tố giác đáng kể của mình; nhiệm vụ của Người là xua đuổi người ta ra khỏi Đền Thờ (2:15; 10:4). Trong trường hợp cuối cùng, Chúa Giêsu bị kết án bởi vì Người bị coi như là mối nguy hiểm cho Đền Thờ và cho người Do Thái. Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái: đây là dịp Người biểu lộ công khai và mặc khải cho tất cả mọi người rằng chính Người là Đấng Cứu Thế. Trong dịp lễ, thành Giêrusalem đầy những khách hành hương đến từ tất cả các miền và do đó các hành động của Người sẽ có tác dụng lớn trong toàn cõi Paléstine. Khi đến Giêrusalem, Chúa lập tức được nhìn thấy trong Đền Thờ, nơi có một số người bán bò, cừu, và bồ câu và những người đổi tiền ngồi ở đó. Cuộc chạm trán trong Đền Thờ không phải với những người tìm kiếm Thiên Chúa mà với những kẻ buôn thần bán thánh: số tiền trả để mở một sạp bán hàng phải được nạp cho thày thượng tế. Chúa Giêsu dùng cơ hội này (Lễ Vượt Qua) tại nơi này (Đền Thờ) để ban cho một phép lạ. Người lấy dây roi, một dụng cụ biểu tượng của Đấng Mêssia, Đấng trừng phạt những tệ nạn và hành động tội lỗi, và Người xua đuổi tất cả mọi người ra khỏi Đền Thờ, cùng với chiên cũng như bò. Điều đáng ghi nhận là hành động của Người đối với những kẻ bán chim bồ câu (câu 15). Chim bồ câu là động vật được dùng cho của lễ toàn thiêu tạ tội (Lv 9:14-17), là phương tiện hy sinh đền tội và thanh tẩy (Lv 12:8; 15:14,29), đặc biệt là nếu người dâng của lễ là người nghèo (Lv 5:7; 14:22,30 và các câu tiếp theo). Những người bán chim bồ câu, có thể xem như là, đã buôn bán sự hòa giải với Thiên Chúa bằng tiền bạc.

- Nhà của Cha Ta. Câu nói muốn chỉ ra rằng Chúa Giêsu trong hành động của mình cư xử như một Người Con. Chúa đại diện cho Chúa Cha trên thế gian. Họ đã biến nơi thờ phượng Thiên Chúa thành nơi mua bán đổi chác. Đền Thờ không còn là nơi để gặp gỡ Thiên Chúa, mà là một cái chợ nơi mà sự hiện diện của tiền bạc đang làm chủ. Việc thờ phượng đã trở thánh cái cớ để trục lợi. Chúa Giêsu công kích vào cơ quan đầu não của người Do Thái là đền thờ: biểu tượng của dân chúng và của sự chọn lựa. Người tố cáo rằng Đền Thờ đã bị tước bỏ nhiệm vụ lịch sử của nó: là dấu chỉ nhà của Thiên Chúa ở giữa dân của Người. Phản ứng đầu tiên về hành động của Chúa Giêsu đến từ các môn đệ là những người liên đới đến Thánh Vịnh 69:10: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”. Phản ứng thứ hai đến từ các thượng tế là những kẻ lợi dụng danh nghĩa của những người buôn bán trong Đền Thờ: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy?” (câu 18). Họ đòi hỏi Người tỏ ra một dấu chỉ; Người cho họ biết đó là cái chết của Người: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại” (câu 19). Chúa Giêsu là Đền Thờ bảo đảm sự hiện diện của Thiên Chúa trên thế gian, sự hiện diện tình yêu của Chúa; cái chết trên cây thập giá sẽ làm cho Người là Đền Thờ duy nhất và khẳng định của Thiên Chúa. Đền Thờ được tạo ra bởi bàn tay loài người đang bị mục nát; Đức Giêsu sẽ thay thế cho Đền Thờ ấy, bởi vì bây giờ Người là sự hiện hữu của Thiên Chúa trên thế gian này; Chúa Cha hiện diện trong Người.

3. Một vài câu hỏi cá nhân

- Bạn có hiểu rằng dấu hiệu tình yêu của Thiên Chúa dành cho bạn không còn là Đền Thờ nữa mà là một Người: Đức Giêsu bị đóng đinh không?

- Bạn có biết rằng dấu hiệu này được trao cho riêng bạn để mang lại sự giải thoát dứt khoát của bạn không?

4. Lời Nguyện Kết

Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu, là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
Nên dầu cho địa cầu chuyển động, núi đồi có sập xuống biển sâu, ta cũng chẳng sợ gì. (Tv 46,1-2)

[Mục Lục]

Bài 13. Tôi sẽ xây dựng lại

Hôm nay chúng ta mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô.

Đây là vương cung thánh đường cổ kính nhất của Hội Thánh, là nhà thờ chính toà của Đức Thánh Cha, giám mục Rôma, là Mẹ của mọi nhà thờ trên thế giới.

Cung hiến thánh đường là dâng cho Chúa một ngôi nhà để dành riêng cho việc phụng tự.

Khi được cung hiến để trở thành nhà của Thiên Chúa, thánh đường cũng trở nên nhà của các tín hữu. Nơi Thiên Chúa hiện diện và thi ân, cũng là nơi con người họp nhau để tôn thờ, cảm tạ.

Dù nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại, mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa hẹn gặp con người.

“Hãy phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Đức Giêsu không có ý nói đến đền thờ Giêrusalem. Ngài muốn nói đến chính thân thể Ngài, thân thể bị phá hủy và được xây dựng lại, thân thể bị giết chết và được phục sinh.

Đức Giêsu phục sinh trở nên Đền Thờ của Giao Ước mới.

Ai ai cũng được mời gọi bước vào Đền Thờ này.

Chỉ nơi đây, con người mới gặp được Thiên Chúa.

Hội Thánh cũng được ví như một Đền Thờ thiêng liêng, mỗi tín hữu là một viên đá sống động (x. 1Pr 2, 4-8), và Đức Kitô là viên đá góc, là nền (x. 1Cr 3, 11).

Thánh Phaolô không ngần ngại khẳng định “Đền thờ của Thiên Chúa chính là anh em” (1Cr 3,17). Hơn thế nữa, ngài còn nói: “Thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần” (1Cr 6,19)

Như thế cả Hội Thánh và từng Kitô hữu đều là Đền Thờ.

Đền Thờ chủ yếu lại không phải là những toà nhà có thể bị thời gian bào mòn, bị chiến tranh phá hủy.

Đền thờ là những con người sống động.

Đền thờ quan trọng nhất là con người Đức Giêsu phục sinh, một con người đầy tràn sức sống của Thánh Thần.

Mọi Đền thờ đều phải qui về Đền thờ đó.

Không gắn bó với Đấng phục sinh và Thánh Thần của Ngài, chẳng Đền thờ nào là Đền thờ thực sự.

Khi thấy nhà Cha trở thành nơi buôn bán, Đức Giêsu đã nổi giận, vì nhiệt tâm đối với Cha.

Chúng ta thường thiếu một chút giận dữ hồn nhiên như vậy, vì chúng ta yêu quá ít và sợ quá nhiều. Chúng ta dửng dưng với những gì liên hệ đến Thiên Chúa.

Có nhiều nhà thờ, đền thờ cần tu bổ. Nhà thờ đầu tiên là con người tôi.

Xin Đức Giêsu cứ thanh tẩy chúng ta bằng Thánh Thần, cứ tiếp tục lật đổ và trục xuất những gì ô uế.

Ước gì chúng ta cung hiến lại bản thân mình cho Chúa để Hội Thánh thật sự là Đền thờ, nhờ đó cả thế giới cũng trở thành Đền thờ của Chúa.

Gợi ý chia sẻ

Thân xác là Đền thờ của Thiên Chúa. Chưa bao giờ thân xác được chiều chuộng như bây giờ, và cũng chưa bao giờ thân xác bị coi rẻ như bây giờ. Theo bạn, đâu là những hình thức chiều chuộng thân xác quá đáng và đâu là những hình thức khinh miệt thân xác?

Bạn nghĩ gì về nhà thờ bạn thường đến dự lễ? Theo bạn, thế nào là một ngôi nhà thờ lý tưởng?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.

Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.

Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa.

Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.

Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.

Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.

Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.

Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.

Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.

[Mục Lục]

Bài 14. Đền thờ mẹ của tất cả các nhà thờ

Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến đền thờ Latêranô. Đền thờ xây cất với tư cách là nhà thờ của giáo phận Rôma, trọng tâm hiệp thông và hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội công giáo.

Đền thờ Latêranô được xem như là đền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ của thành Rôma và của toàn thế giới. Toàn thể Giáo Hội công giáo mừng lễ kỷ niệm cung hiến đền thờ này để nói lên sự hiệp thông Giáo Hội. Giáo Hội Chúa hiện diện khắp nơi trên thế giới được hiệp nhất và hiệp thông với nhau. Như thế, đền thờ Latêranô còn là dấu hiệu mời gọi hiệp thông và hiệp nhất. Sự hiệp thông và hiệp nhất này đã được bắt đầu trước hết nơi tâm hồn con người đón nhận Tin Mừng của Chúa và tôn thờ Ngài trong sự thật và trong tinh thần. Đền thờ bằng đá không còn ý nghĩa nếu không có đền thờ tinh thần nơi tâm hồn con người, nếu con người không biến tâm hồn mình làm đền thờ sống động cho Thiên Chúa ngự trị.

Con người mọi thời đại đều bị cám dỗ trần tục hóa đền thờ, trần tục hóa niềm tin tôn giáo như những kẻ buôn bán đổi tiền được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Mỗi người Kitô chúng ta từng xác tín điều này và góp phần của mình để giúp anh chị em chung quanh cũng được soi sáng hiểu như vậy. Đây là một trong những trách nhiệm của từng người Kitô đối với anh chị em mình. Đó là chỉ cho anh chị em mình phải biết tôn thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải đạo.

Chiều kích mầu nhiệm của Giáo Hội vượt ra bên ngoài cơ cấu hữu hình và đồng thời nhắc nhở cho mỗi người chúng ta về bổn phận phải làm sao, hay làm chứng cho anh chị em được hiểu và trở thành kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực trong Thánh Thần và trong sự thật. Đây chính là ý nghĩa mà lễ mừng cung hiến đền thờ Latêranô nhắc lại cho mỗi người chúng ta hôm nay.

Lạy Chúa,

Xin biến đổi mỗi người chúng con trở thành đền thờ sống động của Chúa và trở thành những kẻ tôn thờ Chúa đích thực như lòng Chúa mong ước trong sự thật và trong Thánh Thần.

[Mục Lục]

Bài 15. Nhà thờ của giáo xứ

Hôm nay, chúng ta mừng kỷ niệm ngày cùng hiến đền thờ Latêranô. Đền thờ này vốn được coi như là nhà thờ chính tòa của Đức Giáo Hoàng, với tư cách là Giám Mục giáo phận Rôma. Nhân dịp này tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về vai trò của nhà thờ, của thánh đường trong giáo xứ.

Khi một em nhỏ mở mắt chào đời, cha mẹ của em thường bàn bạc với nhau xem sẽ đặt tên gì cho em. Các ngài mở lịch và đặt cho em không những một tên gọi bình thường, mà còn chọn cho em một tên thánh nữa. Chẳng hạn như Maria, Giuse, Phêrô, Anna…

Vị thánh mà em nhỏ ấy mang tên sẽ là vị thánh bổn mạng, vị thánh quan thầy của em. Vì thánh ấy sẽ nâng đỡ và gìn giữ em trên vạn nẻo đường đời.

Cũng thế đối với ngôi nhà thờ của giáo xứ. Cụ thể là ngôi nhà thờ của giáo xứ An Sơn chúng ta, được đặt tên là nhà thờ Vô Nhiễm, vì được đặt dưới sự bảo trờ của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Và rồi trong một năm, cứ đến ngày 8 tháng 12, tất cả chúng ta, những người con trong giáo xứ, đều mừng kính Mẹ như vị bổn mạng của mình. Chính vì thế, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu để xin Mẹ luôn nâng đỡ và gìn giữ cộng đoàn chúng ta trong sự bình an, yêu thương và hợp nhất.

Chúng ta đã thấy trong thời gian chiến tranh, biết bao nhiêu ngôi nhà thờ đã đã bị tàn phá, đã bị sụp đổ do bom đạn của hận thù, để rồi chỉ còn là một đống gạch vụn. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ che chở cho ngôi nhà thờ của giáo xứ, được luôn luôn an toàn.

Tới đây chúng ta nhắc cho anh chị em một sự thật: Giáo xứ là một gia đình. Chính tại gia đình này, chúng ta tìm thấy được một tình mến thương đậm đà và những kỷ niệm thật êm đềm và tươi đẹp.

Phải, giáo xứ chính là một gia đình và ngôi nhà thờ này chính là ngôi nhà tổ được dành cho mọi người.

Thực vậy, chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm tới, sau khi đã mở mắt chào đời, để lãnh nhân bí tích Rửa Tội, sinh chúng ta trong đời sống siêu nhiên của người con cái Thiên Chúa.

Chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được lãnh nhận bí tích Thêm sức, giúp chúng ta trưởng thành trong đời sống đức tin, nhờ đó chúng ta trở thành những người lính can đảm, chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô.

Chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được rẽ vào một khúc quanh mới của cuộc đời, khi chúng ta cùng với người chúng ta thương mến, tay trong tay tiến lên bàn thánh để cử hành bí tích Hôn phối.

Và sau cùng chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta sẽ từ giã mọi người để trở về nhà Cha sau cuộc hành trình dương thế, hầu đón nhận niềm hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những người tôi tớ trung thành phụng sự Ngài.

Và nhất là chính tại ngôi nhà thờ này, mỗi ngày đều diễn ra cái quang cảnh xum họp thật đầm ấm và dạt dào yêu thương. Thực vậy, trong một gia đình, cha mẹ và con cái thường quây quần bên mâm cơm nóng sốt, chứ không phải ngày nào cũng ăn cơm hộp hay giắt nhau ra hàng quán, ra tiệm ăn. Cũng vậy, chính tại ngôi nhà thờ nay, mỗi ngày chúng ta đều cùng nhau quây quần bên bàn tiệc Thánh Thể để chia sẻ với nhau một của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, rồi từ đó, chúng ta sẽ có được những hành động bác ái và yêu thương, tha thứ và gíup đỡ cho những người chung quanh.

Tuy nhiên, chúng ta đã thực sự cư xử với nhau như những người con của gia đình giáo xứ hay chưa?

[Mục Lục]

Bài 16. Đền Thờ sống động
AM Trần Bình An

Vào năm 1866, Cha Trần Lục thừa lệnh Đức Cha Chiêu (Mgr. Theurel) đến kinh đố Huế, triều yết Vua Tự Đức, để xin trả lại làng Vĩnh Trị cho người Công Giáo, ngài có dịp quan sát các đền đài, lăng tẩm thật lộng lẫy. Cha Trần Lục tự hỏi: “Tại sao một vì Vua trần thế thì ở trong một ngôi đền lộng lẫy như thế, mà Vua Trên Trời lại không ở một ngôi đền như vậy?” Từ cuộc thăm viếng này, ngài nảy ra ý định xây một ngôi đền theo kiến trúc dân tộc Việt Nam, như các đền lăng tẩm ở Huế, để dâng kính Thiên Chúa, dâng kính Mẹ Maria và các Thánh…

Năm 1891, Cha Trần Lục khởi xây Nhà thờ kính Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi, cũng gọi là Nhà Thờ Lớn, bây giờ là Nhà Thờ chính tòa Phát Diệm, sau này thánh hiến ngày 7.10. 1991. Nhà thờ 4 mái ngói, xây theo phong cách Á đông, pha chút Gô tích. Cả kiến trúc gồm có 9 vì kèo với 9 giai thợ khác nhau, do vậy mỗi vỉ kèo mang một nét văn hoá riêng biệt, thể hiện khiếu thẩm mỹ phong phú của những người thợ thủ công lành nghề. Nhà thờ dài 74 mét, cao 16 m, rộng 21m. Có 48 cột lim lớn, trong đó 16 cột ở giữa, chu vi mỗi cột 2,35 m, cao 11m và nặng 7 tấn. Trên mỗi cột khắc tên Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse. Nhà thờ gồm 9 gian: gian cung thánh, gian kiệu và 7 gian giáo dân. Gian cung thánh đặt một bàn thờ lớn làm bằng một phiến đá nguyên khối, dài 3m, rộng 0,9m, cao 0,8m, nặng khoảng 20 tấn. Mặt trước và hai bên được chạm trổ các loài hoa đặc trưng của bốn mùa, làm cho bàn thờ như được phủ một chiếc khăn màu thạch sáng. Chiêm ngưỡng, Bà Yvonne Schultz xúc động: “Các Ngài hãy ngắm cả cái bàn thờ chính đục nổi, chạm bóng mà sơn son thiếp vàng chói lọi… Có lẽ khắp hoàn cầu không có những nhà thờ nào rực rỡ như trong nhà thờ ở Phát Diệm, trùng trùng điệp điệp những bức phù điêu, càng vào trong, càng lộng lẫy.”(Illustration, 9.11.1929)

Gian cung thánh hoàn toàn chạm trổ, sơn son thiếp vàng lộng lẫy trên gỗ theo kiểu Á đông, với mây, tre trúc và các hoa văn dân tộc, mà đường nét, màu sắc vẫn còn rực rỡ sau hơn 100 năm. Ngoài ảnh Đức Mẹ Mân Côi, Thánh Đa Minh và Thánh nữ Catarina, củng như các thiên thần, Cha Sáu còn khắc họa đậm nét Giáo hội tại Việt Nam qua chân dung 6 vị Tử Đạo: Thánh Anê Đê Lê Thị Thành, Thánh Micae Hồ Đình Hy, Thánh Phêrô Cao, Thánh Phao lô Phan Khắc Khoan, Thánh Nicôla Bùi Đức Thể, Thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ. Trên tường hai bên, 14 bức phù điêu Đàng Thánh Giá chạm nổi trên gỗ khá tinh vi nghệ thuật. (Đức Ông Phanxicô Borgia Trần Văn Khả, Nhà thờ chính tòa Phát Diệm, Trần Lục)

Hành hương Nhà thờ chánh tòa Phát Diệm phong phú bản sắc kiến trúc, để cùng nhau hướng tâm hồn mừng lễ cung hiến Đền thờ Latêranô, cũng được gọi là “Mẹ và là đầu của mọi nhà thờ trên thế giới.” Tin Mừng Thánh Gioan tường thuật Đức Giêsu tẩy uế đền thờ Giêrusalem, để mời gọi Kitô hữu thanh luyện tâm hồn mình, xứng đáng trở nên Đền Thờ sống động, như chính Người đã thực thi gương mẫu.

Đền Thờ khiêm nhu

Vào Đền Thờ, nổi cơn giận thánh, Đức Giêsu lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.”(Ga 2, 15-16)

Trong khi đó, Tin Mừng Nhất Lãm đều ghi Lời Chúa còn xung thiên nộ khí, dữ dội, đau đớn, nhức nhối, phẫn uất và xót xa hơn thế nữa: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp!” (Mt 21, 13; Mc 11, 17; Lc 19, 46)

Đức Giêsu luôn mong đợi tín hữu khiêm tốn, ý thức thân phận tội lỗi, phản bội, đến Đền Thờ cầu xin ăn năn, sám hối, như người thu thuế thành tâm đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực, vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13)

Xua đuổi của cải, tiền bạc, gian xảo, lưu manh, chức tước, danh lợi, kiêu căng, bất nhân, ra khỏi tâm hồn, là noi gương Đức Giêsu đã xua đuổi khỏi Đền Thờ chiên bò, bồ câu, tiền bạc. Ngày xưa, Môsê đã buộc tư tế phải thanh tẩy toàn thân trước khi bước vào Lều Hội Ngộ. (Xh 40, 32) Bởi vì, không ai làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được. (Mt 6, 24; Lc 16, 13)

Đền Thờ hạnh ngộ

Trong các đại lễ, Đức Giêsu vẫn lên Đến Thờ gặp gỡ Cha Người (Lc 2, 41-50). Đồng thời Đền Thờ còn là nơi gặp gỡ tha nhân, như người công chính Simêon và ngôn sứ Anna. (Lc 2, 25-35; 36-38). Hằng ngày, Đức Giêsu đều sốt sắng cầu nguyện sáng tối, để Đền Thờ Người luôn được hạnh ngộ với Chúa Cha. Cũng như Người luôn tìm đến và kêu gọi những con chiên lạc bầy, lem lấm tội lỗi, bất hạnh, người thu thuế, kẻ bán hoa, người hoang đàng, nghèo khổ, bệnh tật, …

Mỗi khi cầu nguyện, suy gẫm, mỗi khi viếng Thánh thể, đọc và nghe Lời Chúa, rước Mình Thánh Chúa, là tín hữu được tiếp đón Chúa ngự vào Đền Thờ cá nhân. Đồng thời, mỗi khi xả kỷ vị tha, dấn thân, phục vụ cộng đồng, giúp đỡ người nghèo khổ, là Đền Thờ tín hữu cũng đón tiếp, gặp gỡ tha nhân chân tình, chứa chan thương yêu. Như thế, Đền Thờ sống động trở thành nơi hạnh ngộ giữa Thiên Chúa và tha nhân. “Ta bảo thật, mỗi lần anh em làm những sự ấy cho một kẻ hèn mọn trong anh em Ta, thì được kể như làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 31-40).

Đền Thờ hiến tế

“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.” (Tv 69, 10) Lời tiên báo của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn và chết trên thập giá sau này của Người, vì hoàn toàn vâng phục thực hiện Thánh Ý Chúa Cha, muốn cứu độ con người khỏi cái chết đời đời.“Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” (Ga 2, 19) Đền Thờ là chính thân thể Đức Giêsu sẽ chịu khổ nạn và chịu chết, sau ba ngày phục sinh.

Với tư cách là chi thể của Đức Giêsu, mỗi Kitô hữu đều là Đền Thờ của Thiên Chúa. “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” (1Cr 6,15) Vì thế Thánh Phaolô khuyên tín hữu sống sao xứng hợp để tôn thờ Thiên Chúa: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 12, 1)

Hiến dâng thân thể cho Thiên Chúa là noi gương Đức Giêsu hiến thân, Mình và Máu đổ ra cứu chuộc thế gian, sẵn sàng chịu mọi khổ nhục, tra tấn, roi vọt, hoạn nạn vì danh Chúa.“Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.” (Lc 9, 23)

“Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác Thánh Giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác Thánh Giá của mình? Anh hùng thinh lặng khó lắm!” (Đường Hy Vọng, số 171)

Lạy Chúa Giêsu, Người vốn là Đền Thờ Thiên Chúa, kinh xin Người cải hóa, canh tân, thanh tẩy Đền Thờ bản thân chúng con trở nên xứng đáng để long trọng đón tiếp, hạnh ngộ Chúa và tha nhân.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã vinh dự trở nên Đền Thờ Thiên Chúa, khi Mẹ thưa hai tiếng “Xin Vâng.” Kính xin Mẹ dạy chúng con luôn biết chân thành thưa hai tiếng ấy cùng Chúa luôn. Amen.

[Mục Lục]

Bài 17. BIỂU TƯỢNG CỦA ĐỨC TIN
P. Trần Đình Phan Tiến

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn. Đức Giêsu – Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã trở nên Hữu Hình như phàm nhân, ngoại trừ tội lỗi. Là biểu tượng của tình thương, lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì vốn dĩ là Thiên Chúa, nên vô hình, siêu nhiên, nên chi không đáp ứng tính tự nhiên hữu hình cho phàm thế. Vì vậy, Người đã trở nên hữu hình cho phàm nhân và vì phàm nhân. Vì vậy, “Người đã từ Trời xuống thế, bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, và đã làm Người” (Kinh Tin Kính).

Như vậy, khi nói đến biểu tượng là nói đến sự nhìn thấy tỏ tường, đó là nhu cầu của phàm nhân. Vâng, nhưng ý nghĩa phần chia sẻ hôm nay xin mượn cụm từ “BIỂU TƯỢNG CỦA ĐỨC TIN” làm chủ đề. Vâng, như vậy, chủ đề chia sẻ hôm nay nói lên điều gì, thưa quý vị. Thưa, nói lên : “Công Trình Cứu Chuộc” của Thiên Chúa qua Đức Kitô. Bởi vì, Người là Thiên Chúa thật và là Người thật. Muốn nhận ra Người là Thiên Chúa thật, thì phải có Đức Tin, như vậy, Đức Tin mang ý nghĩa siêu nhiên. Còn nếu muốn nhận ra Người là Người thật, thì phải tin vào Giáo Hội của Người.

Hôm nay, Giáo Hội Công Gíao Mừng Kính Lễ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ LATERANO, điều nầy có nghĩa là Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu qua Giáo Hội. Vì Giáo Hội được mệnh danh như là “Hiền Thê của Đức kitô”. Như vậ, biểu tượng của Đức Tin là Giáo Hội, biểu tượng của Giáo Hội là Đức Kitô.

Theo đó, một biểu tượng hữu hình đó là Thánh Đường Laterano. Vâng, đây là một chứng tích vật chất, nhưng là một kỳ tích thiêng liêng, bởi vì, nơi thờ phượng, nơi hình thành lên, nhờ sự nhen nhúm của biết bao thánh tích anh hùng tử đạo, những vị thánh tiên khởi của giáo đoàn Roma, đã xây dựng nên bởi Đức Tin và máu đào. Có thể nói, trước khi Đạo Công Giáo lan rộng khắp nơi trên hoàn cầu, thì nơi đây chính là căn nhà đầu tiên để tôn thờ Thiên Chúa, theo Đường Lối của Đấng Cứu Thế Giêsu. Đây là ngôi Thánh Đường không những mang tính nghệ thuật cao cho đến nay, không lỗi thời, mà còn là một biểu tượng của niềm tin thời sơ khai. Mặc nhiên , nơi đây là “cái nôi” của Giáo Hội, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Là biểu tượng của tình thương, để từ đây lan tỏa khắp bốn phương, hầu thực thi Lời dạy của Đức Kitô, là : “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ, Nhân DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN” (Mt 28, 19).

Nếu chúng ta có dịp chiêm ngắm một ngôi thánh đường ở trong nước có tuổi đời trên một trăm năm, trăm năm mươi năm, sừng sững nguy nga, trang nghiêm mà duyên dáng, toát lên nét thánh thiện cổ kính, mang tính lịch sử, vượt trên ý nghĩa tôn giáo, mà ai ai cũng ngưỡng mộ. Vâng, đó là một chứng tích về thời gian của một niềm tin, về mặt hữu thể.

Còn chính tại trung tâm của Giáo Hội Công Gíao Hoàn Vũ đó là Thánh Đường Laterano. Vâng, biết như vậy, để chúng ta được tự hào, vì có một thánh Đô nguy nga tráng lệ biểu tượng của niềm tin Kitô giáo. Vì mặc nhiên, chúng ta được phép tự hào trong Chúa, như thánh Phao-lô day: “Thưa anh em, những gì là tốt đẹp, thì anh em hãy tự hào trong Chúa…”.

Vì : “Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Laterano là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantino xây và được ĐGH Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh đường nầy được tiếp tục là nhà thờ Chính Tòa của Đức Giáo Hòang, Giám Mục Rôma. Vì vậy, được gọi là :“Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis”, là Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới. Chiều dài 130 m, có 5 gian, gian chính dài 87 m, rộng 16m. Có 12 tượng thánh Tông Đồ bằng cẩm thạch trắng. Bước vào Đền Thờ, bên phải c1o đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Sylvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất 47m, và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ ở Ai-cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa Giáng Sinh. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chính tòa của Đức Giáo Hoàng của Giáo Phận Rôma, vì vậy Đền Thờ thánh Gioan ở Laterano mang ý nghĩa nhắc nhở “Hồng Ân Rửa Tội” với tất cả ý nghĩa của ơn nầy, hầu nhắc nhở các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu-Kitô (Trích tài liệu của Roma).

Theo đó, chúng ta thấy, Thánh Đường Laterano là một nơi biểu tượng tôn giáo , niềm tin và tính lịch sử trọng đại, mà mọi tín hữu khắp hoàn cầu đều mong muốn tìm về, để chiêm ngưỡng kỳ tích vừa hữu thể, vừa thiêng liêng, đó là Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Laterano.

Bây giờ xin trở lại phần suy niệm Lời Chúa hôm nay (Ed 47, 1-2 ;8-9; 12) ( 1Cr 3, 9c- 11 ; 16-17) (Ga 2, 13-22).

KhởI đi từ bài đọc I ( Ed 47 , 1-2: 8-9 ;12), cho chúng ta thấy một mầu nhiệm từ nguồn nước Thanh Tẩy. Đó là “BIỂU TƯỢNG NƯỚC THÁNH TẨY”, mà sau nầy Giáo Hội dùng Lời Kinh Thánh nầy mà lập nên lời kinh rảy Nước Thánh trước mỗi Thánh Lễ. Nước này chảy đến đâu đều được tẩy rửa và có sự sống nơi đó. Ý nghĩa nầy tượng trưng Bí Tích Thánh Tẩy, là chính Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người. Như vậy, chính là “BIỂU TƯỢNG CỦA NIỀM TIN”, cho mọi kẻ tin.

Tiếp đến là Bài đọc II thánh thư thánh Phao-lô (1Cr 3, 9c -11; 16-17)thánh Phao-lô xác tín cách quả quyết, đền thờ của Thiên Chúa chính là Thân xác và linh hồn của người Kitô hữu. Vì mỗi Kitô hữu chính là đền thờ của Thiên Chúa, vì Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong họ. Theo đó, thân xác và linh hồn của những ai bước theo Đức Kitô đều được thánh hiến cho Thiên Chúa. Vì vậy, ai phá hủy đền thờ tâm hồn và thân xác của họ , thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. (C 16-17).

Thánh vịnh 45 , 2, 4: 12 cho thấy “Chúa là Đồn lũy chở che con”, chính là dòng nước sự sống nơi đó là Thánh Điện của Thiên Chúa muôn muôn đời.

Theo đó, Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay( Ga 2, 13-22), là phần B . Lễ Vượt Qua thứ I. Thuộc PHẦN 1. LOAN BÁO NHIỆM CỤC MỚI- THUỘC PHẦN. II- SỨ VỤ RAO GIẢNG CỦA CHÚA GIÊSU.

Có thế thấy, đây là điểm nổi bật của Tin Mừng theo thánh Gioan, bởi vì mở đầu cho hành trình cứu chuộc của Đức Kitô, Người lên Giêsusalem, việcđầu tiên Người làm là tẩy uế Đền Thờ. Một công việc, một hành động mà giới luật sĩ, biệt phái cho là phạm thượng. Bởi vì, sau khi được xây dựng lại ( lần III ), thì đền Thờ Giêrusalem phải mất 46 năm. Nhưng, Chúa Giêsu bảo : “Hãy phải nó đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại.” Vì, mặc nhiên, Đền Thờ Giêrusalem vật chất nầy đã bị phá hủy và xây dựng lại hai lần rồi, chứ không phải là đền thờ nguyên thủy. Chúng ta thấy, khi nói như thế, Chúa Giêsu đã dùng một biểu tượng của sự tự nguyện “nộp mình” chịu chết cho nhân loại, tiêu biểu là dân tộc Israel. Một dân tộc mà Thiên Chúa đoái thương trước hết. Sự ô uế, tội lỗi công khai phức tạp điễn ra nơi Đền thánh, là phạm thánh, tuy mục đích ấy là phục vụ đền thánh. Thiên Chúa không đồng ý việc thờ phượng như vậy. Chúa Gie6su, trước khi tự nguyện nộp mình, thì đây là một trong những sứ vụ của Người. Chúng ta thấy tầm quan trọng như thế nào trong việc Chúa Giêsu tẩy uến Đền Thờ. Người rất mực hiền lành và nhân từ, điểm nầy nổi bật trong việc tự nộp mình chịu chết, nhưng khi xúc phạm đến Đền Thờ,việc phụng thờ Thiên Chúa cách chính đáng, thì Người không thể dửng dưng. Việc làm nầy hoàn toàn phù hợp với tư cách Thiên Sai của Chúa Giêsu, chúng ta thấy, sự hiền lành và khiêm nhường tuyệt đối nơi Chúa Giêsu, không phải là sự thiếu trách nhiệm trong việc xúc phạm đến Thiên Chúa trong việc tôn thờ. Sự hiền lành của Chúa Giêsu phát xuất từ chân lý, từ tình thương cứu độ nhân loại. Nhưng, việc “giận dữ” trong việc xua đuổi sự ô uế là việc của Đấng Thiên Sai. Chúng ta có nhắm mắt làm ngơ khi nhìn thấy sự thờ phượng thiên cháu bị xúc phạm không ? Chúng ta có ngụy biện rằng thờ phượng Thiên Chúa trong tâm hồn là đủ, khi thấy những cớ sở thờ phượng bị ô uê theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, Chúng ta có can đảm lên tiếng bênh vực theo khả năng của mình hay làm ngơ, “sống chết mặc bay, của thầy bỏ túi “. Những cơ sở của Giáo Hội bị trưng dụng, bị chiếm hữu phi pháp, bị lấy đi bỏ phế, không sử dụng, không cho sử dụng vì mục đích tôn giáo. Chúng ta có biết : “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây phải bị thiệt thân”( Ga 2, 17) không? Hay chúng ta bàng quang cho rằng: “Nhiệm vụ rao giảng là chính chứ không phải là cơ sở vật chất ”. Chúng ta có mặc lấy sự can đảm của Chúa Thánh Thần trong việc “Tẩy uế đền thờ” như Chúa Giêsu không?

Căn cứ Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta thấy việc “tẩy uế đền thờ” mà hôm nay Chúa Giêsu thực hiện, chính là một trong những việc đầu tiên của Người khi thi hành sứ vụ công khai. Sau việc kêu gọi các môn đệ, đi theo Người. Sau phép lạ “Tiệc Cưới Ca-na “, thì đây là sự kiện quan trọng trong bối cảnh thực thi sứ vụ công khai của Người. Đây cũng là “chi tiết” chỉ có nơi Tin Mừng theo thánh Gioan ( Ga 2, 13 -22).

Thiết nghĩ đây chính là “Lửa mến nhiệt thánh tông đồ” của mỗi Kitô hữu, cũng là một trong những sứ vụ truyền giáo, mà qua hàng ngàn, hằng lớp những người bước theo Chúa Kitô phải mặc lấy đó là :

” Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải bị thiệt thân “ . ( Ga 2, 17).

Vì đây cũng là trọng tâm trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Kitô. Chứ đừng nghĩ rằng: Giáo Hội chỉ rao giảng Tin Mừng là chính “chứ không phải là đất đai”. Vô hình trung, quên mất trách nhiệm đề cao công bằng trong xã hội, theo Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội. Thật tiếc thay !

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng lửa nhiệt thành mà thiêu đốt sự nguội lạnh, để tăng lòng mến là sự nhiệt thành lo việc nhà Chúa là Cha trên Trời, mà dùng lửa Thánh Linh để thanh tẩy. Xin cho những ai bước theo Chúa cũng quyết tâm thực hành điều Chúa truyền dạy. Dù phải tổn hao tâm lực , vì sự nhiệt thành ấy là lửa mến trong chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen./.

[Mục Lục]

Bài 18. LỄ CUNG HIẾN THÁNH ÐƯỜNG LATÊRANÔ
Lm. Đan Vinh

1. LỜI CHÚA: Ga 2,13-22

2. TÌM HIỂU:

1) Lịch sử của và cấu trúc thánh đường La-tê-ra-nô:

Vương cung Thánh đường thánh Gio-an La-tê-ra-nô là một trong những ngôi thánh đường đầu tiên của Hội thánh Công giáo. Thánh đường này được hoàng đế Con-stan-ti-nô xây dựng và được thánh hiến vào năm 324 để dâng kính Chúa Cứu Thế. Đây là nhà thờ chánh tòa của Giám Mục thành Rôma là Đức Giáo Hoàng, và được mang danh là “Mẹ của mọi nhà thờ” trên thế giới. Cũng giống như các đền thờ khác, thánh đường La-te-ra-nô đã nhiều lần bị hỏa hoạn. Đến thế kỷ thứ 16, đã đươc xây dựng lại như ngày nay dưới thời Đức Giáo Hoàng Sis-tô V (1585-1590).

Thánh đường La-tê-ra-nô có chiều dài 130 m, chia thành 5 gian. Gian chính dài 87 m, rộng 16 m, có tượng 12 tông đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào thánh đường, bên phải có cây đàn phong cầm vĩ đại với 2000 ống. Sau tòa giảng là Giếng rửa tội mà theo truyền thuyết, tại đây hoàng đế Con-stan-tine đã được Đức Giáo Hoàng Sil-ves-tro ban bí tích rửa tội. Phía ngoài bên trái nhà thờ, có cây tháp cao tới 47 mét làm bằng đá hoa cương màu đỏ.

2) Về đại lễ Vượt Qua của đạo Do thái :

Đối với dân Do thái, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm biến cố dân Do thái vượt qua biển Đỏ do Mô-sê lãnh đạo để về Đất Hứa là xứ Ca-na-an. Lễ Vượt qua được tổ chức hằng năm vào ngày 15 tháng Ni-san, tức tháng 4 Dương lịch. Mọi người Do thái từ 12 tuổi đều tham gia cuộc hành hương về Giê-ru-sa-lem tham dự đại lễ. Cả những người Do thái tản mác khắp thế giới cũng về tham dự ngày đại lễ quan trọng nhất trong năm này. Dầu ở đâu, người Do thái vẫn ước mơ được về dự lễ Vượt Qua tại thành Giê-ru-sa-lem quê nhà ít nhất một lần trong đời. Trong thời gian giảng đạo, vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đều về thủ đô dự lễ cùng với các môn đệ.

3) Thuế Đền Thờ là thuế nào ?

Đây là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên hằng năm phải đóng vào đên thờ Giê-ru-sa-lem. Mỗi năm, người Do thái phải đóng thuế đền thờ trị giá nửa đồng siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật. Đồng siếc-lơ là loại tiền đơn giản do đền thờ phát hành, Các đồng tiền này phân biệt với đồng tiền Rô-ma: Trên đồng tiền này không có hình và ký hiệu của hoàng đế Rô-ma như tiền Rô-ma lưu hành ngoài xã hội. Để tạo điều kiện giúp người dân đóng thuế cho đền thờ, các tu tế cho lập các bàn đổi từ đồng tiền Rô-ma sang đồng tiền Đền thờ. Tiền huê hồng từ tiền Rô-ma sang đồng siếc-lơ băng một phần tư ngày công lao động. Do đó số tiền thuế Đền thờ và số lợi tức do việc đổi tiền mang lại là rất lớn.

4) Tại sao Đức Giê-su nổi giận và Người đã làm gì với bọn người này ? :

- Điều khiến Đức Giê-su nổi giận là những tệ nạn bóc lột khách hành hương với giá cắt cổ của bọn con buôn do các thượng tế cấp phép hoạt động. Thật là tồi tệ khi tôn giáo đã bị bon đầu mục và đám con buôn Do thái lạm dụng trục lợi bất chính, gây bao thiệt hại cho người nghèo..

- Bên cạnh bàn đổi tiền, một số người lại mang bò, chiên, bồ câu đến bán cho khách thập phương dâng vào đền thờ. Luật này quy định các con vật được dâng làm của lễ phải lành lặn không mang tỳ vết. Các con vật trước khi dâng phải qua cuộc kiểm định. Tuy nhiên mỗi con vật được mua bán trong đền thờ lại đắt gấp 15 lần so với bên ngoài.

- Chính những điều này đã khiến Đức Giê-su bức súc nổi giận. Người đã lấy các đoạn dây thừng bện lại làm roi và đuổi bọn con buôn cùng đoàn vật là chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người cũng làm tung tóe và lcòn ật đổ bàn ghế của chúng.

5) Phải đánh giá thế nào về cơn giận của Đức Giê-su ?

- Trong Tin mừng rất ít khi Đức Giê-su tỏ thái độ nóng giận. Trừ vài ba trường hợp nặng lời quở trách thói giả hình của người Pha-ri-sêu (x. Mt 23,13-32), hay trách mắng Si-mon Phê-rô (x. Mt 16,23), còn Đức Giê-su luôn tỏ ra bình thản trước các biến cố xảy ra: Người đón nhận nụ hôn phản bội của môn đồ Giu-đa (x. Mt 26,50); im lặng trước những lời vu cáo buộc tội của các đầu mục Do thái trước thượng hội đồng Do thái (x. Mt 26,59-63), im lặng khi bị cáo gian trước tòa Phi-la-tô (x.Mt 27,12); Người cũng cầu xin Chúa Cha tha tội và bào chữa lỗi cho những kẻ hành hạ Người “vì họ không biết việc họ làm” (x Lc 23,34).

- Vậy tại sao Đức Giê-su lại nỗi giận, xua đuổi con buôn ra khỏi đền thờ và nói: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16), vì: “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).

Qua những từ: Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a xưa đã trách mắng dân Do thái ( x Gr 7,11).

- Đức Giê-su đã làm một cuộc thanh tẩy Đền thờ do lòng yêu mến nhà Chúa, như lời thánh vịnh: “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10). Về sau dân Do thái đã quyết định giết Đức Giê-su khi xét xử Người trước thượng hội đồng và tòa Phi-la-tô (x Mt 26,65-66).

3. SUY NIỆM:

1) Vai trò của nhà thờ thời Cựu Ước và Tân Ước:

Trong thời Cựu ước, đền thờ và hòm bia giao ước là những nơi đặc biệt dành riêng cho việc thờ phượng như lời Đức Chúa: “Từ nay Ta sẽ ghé mắt nhìn và lắng tai nghe lời cầu nguyện dâng lên ở nơi đây. Vì Ta đã chọn và thánh hoá nhà này, để muôn đời Danh Ta ngự tại đây” (2 Sb 7,15-16). Điều này giải thích thái độ nổi giận của Đức Giê-su với những người đổi tiền bạc trong đền thờ, vì họ đã biến nhà thờ phượng Chúa Cha thành nơi buôn bán (x. Ga 2,16). Trong thời Tân Ước, Đức Giê-su có lần đã khẳng định với người phụ nữ Sa-ma-ri-a: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem… Giờ những người thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,21-23). Tuy nhiên, nhà thờ và nhà tạm vẫn luôn là nơi cầu nguyện, cử hành việc phụng tự và là nơi lưu giữ Mình Thánh Chúa.

2) Tại sao Hội thánh mừng kính một ngôi thánh đường bằng vật chất ? :

Hôm nay là lễ cung hiến Đền Thờ La-tê-ra-nô. Có người thắc mắc: tại sao Hội thánh lại mừng kính mừng một ngôi thánh đường, thay vì thờ kính Chúa, Đức Mẹ hay các thánh như thường lệ ? Sở dĩ Hội thánh mừng kính thánh đường La-tê-ra-nô, vì là nhà thờ chính toà của Đức Thánh Cha, và là biểu hiệu của hai điều quan trọng này: Một là nói lên sự hiệp nhất của các tín hữu, là nơi liên kết mọi thành phần trong cộng đoàn trở thành thân mình mầu nhiệm của Chúa là Hội thánh. Trong đó Đức Giê-su là đầu, và mọi tín hữu đều là anh em của nhau. Hai là thánh đường là nơi sinh hoạt đức tin: Hằng ngày hằng tuần, các tín hữu hội họp trong nhà thờ để cùng cầu nguyện và làm việc thờ phượng tạ ơn và cầu xin các ơn lành hồn xác.

3) Phải chăng chỉ cần giữ đạo tại tâm, không cần phải đến nhà thờ? :

Có những người cho rằng Thiên Chúa hiện diện ở khắp nơi, nên người ta có thể cầu nguyện với Ngài bất cứ lúc nào và ở đâu, chứ không cần phải đến nhà thờ mới thờ phường được.

Thực ra, nên nhớ rằng: loài người chúng ta có 5 giác quan, nên cần phải có những biểu hiệu bên ngoài như nhà thờ, bàn thờ, tượng ảnh, đèn nến… để khơi dạy đức tin và tâm tình đạo đức trong lòng của các tín hữu. Chính khi đến nhà thờ hiệp thông cầu nguyện sẽ được Chúa nhậm lời. Ngoài ra, nhờ có nhà thờ hữu hình mà các tín hữu cũng được nâng đỡ rất nhiều về đức tin. Khi làm việc thờ phượng chung tại nhà thờ, người tín hữu sẽ được ăn hai của ăn là Lời Chúa và Mình thánh Chúa. Ngoài ra khi bị khô khan, nếu biết cậy trông và phó thác mọi sự trong quyền năng của Chúa khi cầu nguyện tại nhà thờ thì đức tin của chúng ta sẽ ngày một tăng cường.

4) Vai trò quan trọng của nhà thờ đối với đức tin:

a) Nhà thờ là trung tâm sinh hoạt đức tin của người tín hữu: Nhà thờ là nơi gắn liền mọi sinh hoạt đức tin: Từ khi mới sinh, ta đã được cha mẹ đưa đến nhà thờ để lãnh nhận bí tích rửa tội. Đến tuổi khôn, chúng ta được xưng tội, rước lễ lần đầu và thêm sức trong nhà thờ. Khi lỡ sa ngã phạm tội, chúng ta đến nhà thờ để được lãnh ơn giao hòa với Chúa qua bí tích giải tội. Khi lập gia đình, đôi thanh niên nam nữ cùng nhau đến nhà thờ cử hành bí tích hôn phối. Khi một người đươc gọi lên chức thánh, chúng ta đến nhà thờ chính toà tham dự thánh lễ truyền chức phó tế và linh mục. Khi bị bệnh nặng có nguy cơ tử vong, chúng ta đến nhà thờ xin linh mục ban bí tích xức dầu bệnh nhân, hoặc mời linh mục đến tư gia hay bệnh viện ban các bí tích sau hết. Rồi khi nhắm mắt lìa đời, thân xác chúng ta lại được người thân rước ra nhà thờ tham dự thánh lễ an táng trước khi được chôn cất tại nghĩa trang hay hỏa thiêu và được gửi tro cốt vào trong nhà chờ phục sinh.

b) Thái độ phải có khi vào nhà thờ:

- Về y phục: Nhà thờ không những là nhà của Thiên Chúa, mà còn là nhà của Hội thánh, trong đó mỗi tín hữu là một thành viên. Khi đến gặp gỡ một nhân vật quan trọng, chúng ta phải ăn mặc lịch sự đẹp đẽ. Cũng vậy, khi đến gặp Chúa Giê-su tại nhà thờ, chúng ta cần chuẩn bị một tâm hồn thanh sạch, với thái độ trang nghiêm phù hợp, để biểu lộ niềm tin tưởng và yêu mến của chúng ta đối với Thiên Chúa và chắc chắn sẽ làm vui lòng Ngài.

- Cử chỉ tôn kính: Thánh đường công giáo nếu được cung hiến sẽ trở thành nơi thờ phượng chung. Trong thánh đường luôn có Chúa Giê-su Thánh thể hiện diện trong nhà tạm, nên cần phải biểu lộ đức tin bằng cử chỉ tôn kính như bái gối, cúi mình. Người Do thái hay Hồi giáo khi đến Đền thờ luôn tỏ thái độ tôn kính đền thờ và bàn thờ dâng lễ vật, bằng việc để giày dép ở ngoài nhà thờ.

- Thờ Chúa trong tâm hồn: Mỗi người tín hữu đều có bổn phận biến tâm hồn trở thành một nhà thờ, xứng đáng cho Chúa vào ngự trị. Trong ngôi thánh đường thiêng liêng này, mỗi người chúng ta có bổn phận thắp lên ngọn nến đức tin, giúp chúng ta vững bước trên đường tin yêu phó thác. Trái tim của chúng ta phải là bàn thờ, mỗi ngày được dâng lên Chúa của lễ cao quý là tâm tình yêu mến biết ơn kèm theo những việc lành cụ thể để kết hiệp với lễ vật cao trọng nhất là Chúa Giê-su, đã dâng mình trên thánh giá xưa, nay tiếp tục tái hiện trong bí tích Thánh thể trên bàn thờ để nhờ đó chúng ta sẽ nhận được ơn cứu độ.

- Xây dựng tâm hồn trở thành đền thờ của Thiên Chúa: Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và được cung hiến khi chúng ta chịu phép rửa tội như lời thánh Phaolô: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3,16). Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá. Bởi vì đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Giê-ru-sa-lem đi nữa thì một ngày kia, cũng sẽ bị sụp đổ như lời Đức Giê-su: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,6). Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi, trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Người ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người.

5) Dốc quyết: Đền thờ nói tới ở đây chính là thân thể của Đức Giê-su mà mỗi tín hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa Giê-su chính là một đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa đích thực, trong tinh thần và chân lý (Ga 4,24). Mỗi người quyết tâm làm gì để biến thân xác nên đền thờ dâng kính Thiên Chúa?

4. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su. Tin mừng lễ kính đền thờ La-tê-ra-nô hôm nay cho thấy Chúa đã nổi giận thẳng tay xua đuổi bọn con buôn ra khỏi đền thờ, vì họ đã làm ô uế đền thờ khi biến một nơi dành để thờ phượng Thiên Chúa thành nơi buôn bán đầy xảo trá bất công và gian ác. Xin Chúa cũng hãy ngự vào lòng con mỗi lần con dự lễ và rước lễ, xin hãy xua đuổi các tội lỗi và các thói hư ra khỏi lòng trí chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng trở thành ngôi đền thờ sống động của Thiên Chúa. Amen.

[Mục Lục]

Bài 19. NGÔI NHÀ VÀ ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Một trong những địa điểm hấp dẫn du khách tại các nước Châu Âu như Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Đức … là các ngôi nhà thờ nguy nga lộng lẫy với kiến trúc độc đáo và các bức họa nổi tiếng của thời Trung Cố hay Phục Hưng. Khi du khách, dù có đạo hay không, bước chân vào bất cứ ngôi thánh đường nào trong các ngôi nhà thờ nổi tiếng ấy thì đều có một cảm giác lâng lâng và bình an lạ thường.

Hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm Lễ/Sự kiện Cung Hiến Đền Thờ Latêranô là một trong những Đền Thờ nổi tiếng của Thành Rôma và là Đền Thờ của Giáo Hoàng La Mã. Các bài Sách Thánh của thánh lễ đều nói về Đền Thờ trong Do-thái giáo và Ki-tô giáo. Nhưng Đền Thờ có giá trị nhất đối với Thiên Chúa lại là chính mỗi tâm hồn, mỗi con người Ki-tô hữu chúng ta.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Trong bài đọc 1 (Ed 47,1-2,8-9.12): Tôi đã thấy dòng nước từ cửa Đông Đền Thờ tuôn ra và tẩt cả những ai được nước ấy thanh tẩy đều hưởng ơn cứu độ.

2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 3,9c-11.16-17): Anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 2,13-22): Đền thờ Đức Giêsu muốn nói chính là Thân Thể Người.

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

-là Đấng đã cho ngôn sứ Ê-dê-kien một thị kiến nhiều ý nghĩa về Đền Thờ Giê-ru-sa-em với mạch nước trong lành, tưới mát các cánh đồng và làm cho tôm cá sinh sôi nẩy nở. Mạch nước ấy còn có sức thanh tẩy, làm cho con người nên trong sạch, thánh thiện. Đó là hình ảnh của mỗi cá nhân, mỗi cộng đoàn được Thiên Chúa cư ngụ trong đó như cư ngụ trong nhà hay trong Đền Thờ của mình (bài đọc 1).

- là Đấng đã cho soi sáng cho Tông đồ Phao-lô để ngài có giáo huấn sâu sắc và sinh động về vai trò, vị thế của mỗi tín hữu là ngôi nhà và là Đền Thờ của Thiên Chúa, của Thánh Thần (bài đọc 2).

- là chính Chúa Giê-su, Đấng đã dũng cảm bảo vệ sự tinh tuyền, thánh thiện của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và mạnh tay thanh tẩy Đền Thờ ấy khỏi những ô uế mà người Do-thái đã tạo ra. Chúa Giê-su còn dùng hình ảnh của Đền Thờ ấy để báo trước về cuộc phục sinh sau khi Người vị giết chết (bài Phúc Âm).

3.2 Giáo Huấn của Thiên Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?) hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là tin vào Lời mạc khải của Thiên Chúa: “Anh em là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên, anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa”

IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như tạo vật đối với Đấng Tạo Hóa, như môn đệ đối với Thầy.

4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa

- Trước hết, mỗi người, mỗi cộng đoàn cần phải có nhận thức mới về chính mình: là ngôi nhà của Thiên Chúa, là Đền Thờ của Thiên Chúa, là nơi cư ngụ, là điểm thường trú của Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Mỗi người, mỗi cộng đoàn cũng cần có nhận thức mới về những người sống chung quanh: họ cũng là ngôi nhà của Thiên Chúa, là Đền Thờ của Thiên Chúa, là nơi cư ngụ, là điểm thường trú của Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần;

- Kế đến, mỗi người, mỗi cộng đoàn cần phải có tô điểm, trang trí cho thật đẹp, thật mỹ thuật ngôi nhà của Thiên Chúa, Đền Thờ của Thiên Chúa là bản thân mỗi người. Tô điểm, trang trí bằng cách ăn nết ở cũng như bằng các nhân đức và việc lành thánh;

- Sau cùng, mỗi người, mỗi cộng đoàn cần phải sống mật thiết với Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần là Đấng đang ngự trong ngôi nhà, trong Đền Thờ của Người.

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 «Nhưng công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho mọi người sống trên thế gian này để họ sống ngay thẳng, chính trực, nhờ nhận thức rằng không có gì mà Thiên Chúa không biết, không tường.

X. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
Đ. Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Anh em là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên, anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa.»Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho mọi thành phần Dân Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các hồng y, giám mục, cho các linh mục và tu sĩ nam nữ, để mọi Ki-tô hữu thể hiện lòng biết ơn sâu xa của mình đối với Thiên Chúa và Chúa Kitô Giêsu.

5.3 «Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.»Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho mọi người thuộc giáo xứ/cộng đoàn chúng ta để ai nấy biết trân trọng và gìn giữ linh hồn mình cho thanh sạch.

5.4 «Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.» Chúng ta hãy hiệp dâng lời cầu cho những người bảo vệ sự tinh tuyền của tôn giáo, sự tốt đẹp của xã hội và thế giới, sự trong lành của môi trường sinh thái.

[Mục Lục]

Bài 20. Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa
Lm. Đa-minh Trần Đình Nhi

Thánh Gio-an mô tả Chúa Giê-su luôn là một con người nhiệt tâm, nhiệt tâm với những sứ mệnh Chúa Cha trao ban và nhiệt tâm với tất cả những ai cần đến sự giúp đỡ của Người.Sự nhiệt tâm ấy được biểu lộ qua những công việc Người làm trong khi thi hành kế hoạch cứu độ.Biến cố Người đuổi những kẻ buôn bán và đổi tiền bạc ra khỏi Đền Thờ chỉ là một trong những hành vi được thúc đẩy bởi động lực nhiệt tâm lo việc nhà Chúa.Vậy chúng ta học được gì qua hành động này của Chúa Giê-su?

Thánh Gio-an ghi lại thời gian xảy ra sự kiện là “gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái”. Chắc chắn đây là thời điểm Giê-ru-sa-lem náo nhiệt do khách hành hương lui tới, đồng thời cũng là dịp để các con buôn tha hồ “bóc lột” họ trong những dịch vụ buôn bán.Đền Thờ không nhận tiền ngoại quốc, nên người ta phải đổi ra tiền Do-thái.Thế là những kẻ đổi bạc bắt chẹt khách hành hương để làm giàu.Những kẻ buôn bán chiên bò cũng chẳng chịu thua, tìm đủ cách lợi dụng lòng mộ đạo của khách hành hương mà tăng giá chiên bò lên.Thật đúng là “sào huyệt của bọn cướp” như lời Chúa Giê-su đã nhận định (Mát-thêu 21:13)!Thấy cảnh chướng tai gai mắt xúc phạm đến Đền Thờ của Cha Người, Chúa Giê-su thẳng tay tìm cách “thanh tẩy”, trước hết là những ô uế bên ngoài như chiên bò và tiền bạc, rồi đến những ô uế bên trong là lòng tham lam của cải và bất kính đối với Thiên Chúa.Tuy nhiên Người cũng đủ khôn ngoan và bình tĩnh để không đi tới bạo động, bằng cách “lấy dây làm roi” đánh đuổi cả người lẫn loài vật ra khỏi Đền Thờ.Dây roi đâu có giết được người ta, mà mục đích chỉ là xua đuổi họ thôi!

Như vậy, chúng ta nhận thấy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa đòi hỏi người ta phải nhận biết những giới hạn.Đâu phải hễ cứ nhiệt tâm lo việc nhà Chúa là có quyền phê bình chỉ trích tất cả những gì không vừa ý mình.Linh mục không thể “nhiệt tâm” đến độ lên tòa giảng là lớn tiếng mắng mỏ con chiên bổn đạo.Giáo dân cũng không vì nhiệt tâm mà kéo bè kéo cánh tìm cách nói xấu và hạ uy tín của linh mục hay của những người làm việc tông đồ cho giáo xứ.Lại có những thứ nhiệt tâm trá hình, mượn “lòng yêu nước” để lên án cách cư xử khôn ngoan của các giám mục đối với một số chính sách của chính quyền…

Trái ngược với thứ nhiệt tâm để bảo vệ che chở mình là thứ “nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”.Nhiệt tâm cách này thì không ai có thể qua mặt được Chúa Giê-su.Vì hăng say rao giảng Tin Mừng, Người đã trở thành cái đích cho những soi mói, bắt bẻ, dọa nạt của những kẻ thù là nhóm thượng tế, Pha-ri-sêu và kinh sư.Vì thương xót người tội lỗi, yếu đau bệnh tật, bị ma quỷ cầm buộc, mà Chúa Giê-su đã bất chấp luật ngày sa-bát để bênh vực, chữa lành và tha thứ tội lỗi, để rồi Người bị kết án là không tuân thủ Lề Luật và truyền thống cha ông.Cuối cùng, vì nhiệt tâm đối với toàn thể nhân loại đang nằm dưới ách nô lệ tội lỗi và sự chết, Chúa Giê-su đã chịu “thiệt thân” theo nghĩa đen, chết nhục nhã trên thập tự, để chu toàn “việc nhà Chúa” là phục hồi cho họ sự tự do và chức phận làm con cái Chúa.

Sống sứ điệp Tin Mừng

Vương cung Thánh đường Latêranô là một biểu tượng của Giáo Hội Chúa Ki-tô, giống như Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là biểu tượng của Do-thái giáo ngày xưa.Theo dòng lịch sử, Đền Thờ đã bị phá hủy, còn Thánh đường Latêranô tuy trải qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn kiên vững.Chúa Giê-su đã hứa gìn giữ Giáo Hội được bền vững trước quyền lực tử thần (Mát-thêu 16:18) vì nền móng của Giáo Hội là chính Chúa Giê-su Ki-tô.Nhưng Giáo Hội không chỉ là những ngôi thánh đường bằng gỗ đá hay kim loại, mà chủ yếu là mỗi Ki-tô hữu bằng xương bằng thịt, như thánh Phao-lô quả quyết:“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cô-rin-tô 3:11,16).

Vậy lễ cung hiến Thánh đường Latêranô hôm nay là một nhắc nhở cho mỗi người chúng ta về lòng nhiệt tâm đối với việc nhà Chúa.Mọi tín hữu hãy tùy theo khả năng và những đặc sủng Chúa ban mà cố gắng xây dựng Giáo Hội tại trần gian.

[Mục Lục]

Bài 21. LỄ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ LATÊRANÔ
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC

Thưa anh chị em,

Hôm nay chúng ta mừng lễ kỷ niệm cung hiến thánh đường Latêranô. Đây là vương cung thánh đường cổ kính nhất của Hội Thánh, là nhà thờ chính toà của Đức Thánh Cha, giám mục thành Rôma, và là Mẹ của mọi nhà thờ trên thế giới.

Cung hiến thánh đường là dâng cho Chúa một ngôi nhà, để dành riêng cho việc phụng tự. Đồng thời nhà thờ là nơi các tín hữu họp nhau để tôn thờ, cảm tạ Chúa và cử hành mầu nhiệm đức tin. Dù nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại, mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người. Chỉ nơi đây, con người mới gặp gỡ được Thiên Chúa trong niềm tin.

Mừng kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Latêranô hôm nay, Hội Thánh không dừng lại ở việc tưởng niệm một công trình mang tính lịch sử. Nhưng qua việc tưởng niệm này, Hội Thánh muốn chúng ta hướng tới sự tôn thờ một Ngôi Đền Thờ lớn lao hơn, chất chứa mọi ngôi đền thờ, và vượt trên mọi ngôi đền thờ, đó chính là Ngôi Đền Thờ mang tên Giêsu Kitô.

Thật vậy, chỉ có Chúa Kitô mới là Đền Thờ đích thực như chính Ngài đã ám chỉ về mình trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”.

Như thế, Đức Giêsu không có ý nói đến đền thờ Giêrusalem, nhưng Ngài muốn nói đến chính đền thờ thân thể Ngài, thân thể bị phá hủy và được xây dựng lại; thân thể bị giết chết và được phục sinh. Đức Giêsu phục sinh trở nên Đền Thờ của Giao Ước mới, mọi tín hữu được mời gọi bước vào Đền Thờ này.

Anh chị em thân mến,

Hội Thánh sánh ví như một Đền Thờ thiêng liêng và mỗi tín hữu là một viên đá sống động, mà Đức Kitô là tảng đá nền.

Thánh Phaolô khẳng định “ Đền thờ của Thiên Chúa chính là anh em”. Hơn thế nữa, ngài còn nói: “Thân xác anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần”. Như thế cả Hội Thánh và từng Kitô hữu chúng ta đều là Đền Thờ thiêng liêng, được thánh hiến qua Bí tích rửa tội.

Đền thờ Giêrusalem là nơi để thờ phượng Thiên Chúa; nhưng người Do thái đã tục hóa biến đền thờ thành nơi tụ tập buôn bán, đổi chác… vì thế, Chúa Giêsu đã thịnh nộ xô đổ bàn ghế, xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ.

Theo tư tưởng của thánh Phaolô tông đồ, tâm hồn mỗi Kitô hữu cũng là một đền thờ, thế nhưng, nhiều Kitô hữu đã biến đền thờ tâm hồn mình thành nơi đổi chác, buôn bán khi quá bận tâm về tiền tài, đam mê xấu, danh vọng thấp hèn, địa vị trần thế…

Mỗi người chúng ta, dù là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân -lúc này đây- thử xét xem: Nếu hôm nay Chúa Giêsu ‘bước vào’ đền thờ tâm hồn tôi, Ngài sẽ nổi giận về điều gì? Ngài xua đuổi những gì? Ngài hất đổ những gì?

Chớ gì nhân ngày mừng kỷ niệm cung hiến thánh đường Latêranô, Mẹ của các nhà thờ Công giáo trên toàn thế giới hôm nay, chúng ta được mời gọi bảo vệ ngôi nhà thờ giáo xứ chúng ta. Hơn nữa, không chỉ làm đẹp ngôi nhà thờ vật chất này, mỗi người chúng ta cũng nên ý thức giữ gìn tâm hồn luôn trong sạch để xứng đáng là đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Đồng thời, chúng ta cũng luôn mở rộng vòng tay, sẵn sàng chia sẻ với những anh chị em bất hạnh, để tất cả chúng ta cùng liên kết với nhau trong một tình yêu. Nhờ đó, chúng ta có thể xây dựng một ngôi Đền thờ thật đẹp, ấm cúng tình người, tình Chúa, nơi mà muôn dân có thể đến để tôn thờ cảm tạ Chúa.

Chúng ta chung lời tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho giáo xứ chúng ta có được ngôi nhà thờ khang trang, để hằng ngày, chúng ta đến gặp gỡ Chúa hiệp thông với nhau trong lời kinh, nhất là cử hành thánh lễ thờ phượng tôn vinh Chúa. Đồng thời, chúng ta càng hạnh phúc hơn khi được Chúa ngự vào đền thờ tâm hồn mình.

Tuy nhiên, vì mải mê lo toan cho cuộc sống hằng ngày, cùng với những tội lỗi chất chồng theo năm tháng, ngôi đền thờ tâm hồn chúng ta lắm khi trở nên tục hóa. Vì thế, xin Chúa thanh tẩy đền thờ tâm hồn chúng ta như Chúa đã thanh tẩy đền thờ Giêrusalem năm xưa.

Qua lời Chúa hôm nay, xin cho chúng ta biết quan tâm trân trọng nhà thờ, vì nhà thờ là nhà của Chúa, là nơi thờ phượng Chúa. Xin cho chúng ta biết gìn giữ đền thờ tâm hồn trong sạch để xứng đáng là nơi Chúa ngự. Amen.

[Mục Lục]

B2. CHÚA NHÂT 32 THƯỜNG NIÊN A

Bài 1. Khôn ngoan và Tỉnh thức
Trầm Thiên Thu

Khôn ngoan là một nhân đức cần thiết trong cuộc sống. Người khôn ngoan là người biết tiên liệu và dự phòng mọi thứ có xảy ra bất ngờ. Khôn ngoan không có nghĩa là học cao, vì có cả một bụng chữ cũng chưa chắc khôn ngoan. Người không học nhiều nhưng vẫn có thể khôn ngoan. Sống lâu cũng chưa chắc khôn ngoan hơn người ít tuổi. Menander (342-291 trước công nguyên) xác định: “Tóc bạc không sinh ra sự khôn ngoan”.

Sự khôn ngoan là một nhân đức liên quan sự tỉnh thức. Sự tỉnh thức hoặc sự cảnh giác rất cần thiết. William Arthur Ward (1921-1994, Hoa Kỳ) so sánh: “Khắc ghi một sự thật lớn lao vào trí nhớ là đáng nể, nhưng khắc ghi sự thật đó vào đời mình mới là khôn ngoan”. Sách Giảng Viên cho biết: “Người khôn biết mở mắt nhìn, kẻ dại bước đi trong tăm tối” (Gv 2:14).

Trước khi có thể đạt được quyền lực, chúng ta phải đạt được sự khôn ngoan để có thể dùng tốt quyền lực đó, nếu không sẽ rất nguy hiểm.

Vua Salômôn thực sự khôn ngoan khi xin Chúa ban cho được khôn ngoan và hiểu biết để lãnh đạo dân. Và rồi ông đã có mọi thứ, vì điều ông xin đã làm Thiên Chúa hài lòng: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi” (1 V 3:11-13; 1 Sbn 1:11-12).

KHÔN NGOAN

Sự khôn ngoan vô cùng cần thiết: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà” (Kn 6:12-14).

Hãy thử suy nghĩ vài “điều nhỏ” này: (1) Nếu chỉ biết sáng xách ô đi, chiều xách ô về, ăn uống, xem ti vi, rồi ngủ, thế thì người đó chẳng khác gì loài động vật; (2) Nếu bạn chỉ có ý định ăn cắp một cái gì đó của người khác thì đó cũng là lúc đen tối nhất của cuộc đời rồi; (3) Người thầy mà không dạy cho học trò biết ham muốn học tập thì đó là người thầy tồi; (4) Học trò mà không biết lắng nghe thầy cô giảng bài thì đó là học trò ngu dốt, không có trách nhiệm với chính bản thân mình, chẳng hy vọng gì mai sau; (5) Người nóng vội, bộp chộp, động thái đó ảnh hưởng xấu tới cả tinh thần lẫn thể lý, ảnh hưởng xấu tới cả những người xung quanh, xét về phương diện tinh thần thì người đó không hơn gì một con chó giữ nhà; (6) Sống mà không có ước mơ, luôn than phiền, người đó chẳng khác loài tầm gửi, chỉ biết bám víu vào cây khác để hút nhựa sống, hoặc như loài đỉa hút máu người khác để sống. Và còn nhiều điều khác tương tự như vậy. Đó là ích kỷ, chỉ biết yêu mình, không sáng suốt và không khôn ngoan!

Sự Khôn ngoan rất tuyệt vời. Người khôn ngoan là người sâu sắc, nói ít, nghe nhiều, trầm lặng để thấm nhuần đức khôn ngoan vào máu thịt: “Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự minh mẫn toàn hảo. Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được mọi lo âu. Vì những ai xứng đáng với Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ” (Kn 6:15-16). Ở đây không là sự khôn ngoan của phàm nhân mà là sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa.

Người khôn ngoan biết tìm kiếm những thứ bền vững, không hư hỏng, dù cho họ có thể bị coi là “điên rồ” trong tầm nhìn của loài người. Nhưng điều trường cửu đó là điều thuộc về Thiên Chúa. Hằng ngày họ cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài” (Tv 63:2-3).

Người khôn ngoan là người chuyên tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và họ có được Thiên Chúa. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm và chia sẻ: “Ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca. Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với Ngài. Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui” (Tv 63:8).

Thiếu khôn ngoan, người ta sẽ khắc khoải, bất an và nuối tiếc. Người ta trở nên bình an thư thái khi được ơn Chúa tác động. Đó là dạng “giác ngộ” theo thuyết nhà Phật. Lúc về già, thi sĩ Bùi Giáng sống như người mất trí, ông lang thang khắp nơi với phong cách rất “bụi”. Ông đã từng than thở:

Ta cứ ngỡ trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ!

Trong thi phẩm “Dại Khôn”, thi sĩ Trần Tế Xương nhận định:

Thế sự đua nhau nói dại khôn
Biết ai là dại, biết ai khôn

Chẳng biết ai dại, ai khôn. Chúng ta tưởng người khôn mà hóa ra người dại, chúng ta tưởng người dại mà hóa ra người khôn: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người” (1 Cr 1:25). Nhưng khôn ngoan nhất là đây: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan” (Tv 111:10). Làm người sống ở đời, chẳng ai biết ngày mai trời mưa hay nắng, cũng không thể biết cuộc đời mình ra sao, vì thế mà luôn cần tỉnh thức. Người khôn ngoan là người luôn biết tỉnh thức!

TỈNH THỨC

Thiên Chúa đã cảnh báo mỗi người chúng ta: “Nếu ngươi không tỉnh thức thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi” (Kh 3:3). Bão lũ, lụt lội, giông tố, động đất, sóng thần,… không ai biết lúc nào, dự báo thời tiết cũng chỉ là dự đoán, không thể biết chắc thời điểm nào. Ngay giữa lòng thành phố Saigon mà có nhà tự dưng sụp hố làm lọt xe và người xuống. Ai có thể dự đoán? Chắc chắn là “bó tay” thôi!

Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Ngài luôn hiện hữu trong mọi biến cố lịch sử của cuộc đời mỗi người. Danh nhân thông thái Rabindranath Tagore (Rabīndranātha Thākura, 1941-1961, Ấn Độ) đã cảm nhận sâu sắc về Đấng Toàn Năng: “Bạn không nghe thấy bước chân Người thầm lặng đó sao? Người tới và luôn luôn thường tới. Người tới và luôn luôn thường tới hằng giờ, hằng đêm, hằng ngày, hằng thời đại,… Người tới và luôn luôn thường tới qua lối đi nho nhỏ trong rừng, vào những ngày Xuân đượm nắng ngạt ngào. Người tới và luôn luôn thường tới trên xe mây ầm ầm tiếng sấm, vào những đêm Thu mưa ướt tối mù. Bước chân Người đã giẫm lên tim tôi đang ôm nặng những nỗi buồn dai dẳng. Khi niềm vui trong tôi ngời sáng, ấy là do chân Người vàng óng chạm vào”. Tư tưởng của R. Tagore rất gần với Công giáo, đặc biệt là tập thơ “Lời Dâng” (Gitanjali), với bút danh Bhānusiṃha (Sư Tử Thái Dương).

Tương tự, tác giả Thánh Vịnh cũng thân thưa: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5). Thật vậy, đến từng sợi tóc trên đầu chúng ta cũng đã được Thiên Chúa đếm cả rồi (Mt 10:30; Lc 12:7).

Sợi tóc chẳng là gì mà Thiên Chúa còn quan phòng, huống chi chuyện sinh – tử, liên quan mạng sống của con người. Thánh Phaolô cho biết: “Về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu” (1 Tx 4:13-14).

Sống ở đời, người ta không chỉ đi bằng đôi chân, mà quan trọng hơn, đó là phải đi bằng cái đầu. Cũng vậy, sống không chỉ cần lương thực nuôi sống thân xác, mà quan trọng hơn, đó là phải cần lương thực nuôi sống tinh thần và linh hồn. Kitô hữu cần cả Thánh Thể và Lời Chúa.

Thánh Phaolô giải thích: “Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau” (1 Tx 4:15-18). Qua đó, chúng ta biết chắc chắn thời đại của chúng ta là thời cánh chung, nhưng không biết chúng ta có được diễm phúc chứng kiến thời điểm lịch sử vĩ đại nhất hay không.

Vì không biết nên chúng ta mới phải tỉnh thức, và không ngừng sống trong tình trạng tỉnh thức, nghĩa là phải sống yêu thương đến từng chi tiết: “Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy, vì công việc họ làm. Hãy sống hoà thuận với nhau. Thưa anh em, chúng tôi khuyên nhủ anh em: hãy khuyên bảo người vô kỷ luật, khích lệ kẻ nhút nhát,nâng đỡ người yếu đuối, và kiên nhẫn với mọi người” (1 Tx 5:13-14).

Trình thuật Tin Mừng hôm nay là dụ ngôn “Mười Cô Trinh Nữ” (Mt 25:1-13), nêu rõ vấn đề “tỉnh thức”. Đây là một trong các dụ ngôn “quen thuộc”, đặc biệt nói về thời điểm cánh chung, nói chi tiết là liên quan ngày tận thế riêng của mỗi người chúng ta.

Chúa Giêsu ví Nước Trời giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, có năm cô dại và năm cô khôn. Các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Các cô khôn mang đèn và mang chai dầu dự trữ. Vì chú rể đến chậm, nên các cô ngủ thiếp. Nửa đêm, có tiếng báo “chú rể đến”. Bấy giờ, tất cả các cô đều thức dậy và sửa soạn đèn.

Tuy nhiên, đèn của năm cô dại cạn dầu, không đủ sáng. Họ xin dầu các cô khôn. Năm cô khôn không dám vì không thể đủ dầu thắp đèn sáng cho mình và cho người khác, thế nên họ bảo năm cô dại ra hàng mà mua dầu. Đang lúc năm cô dại đi mua dầu thì chú rể tới, năm cô khôn đã sẵn sàng nên được đi theo chú rể vào phòng dự tiệc cưới. Sau đó, cửa liền đóng lại.

Ngay lúc đó, năm cô dại về đến nơi và gọi cửa. Nhưng chú rể bảo: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!”. Thế là xong! Vì thế, Chúa Giêsu vừa căn dặn vừa cảnh báo:“Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”.

Ai khôn, ai dại thì đã rõ, không còn mơ hồ hoặc phỏng đoán. Người mà chúng ta tưởng là khôn lại chỉ là người dại, người mà chúng ta tưởng là dại lại chính là người khôn. Cũng trong thi phẩm “Dại Khôn”, thi sĩ Trần Tế Xương đã “ngộ” ra và kết luận:

Này kẻ nên khôn đều có dại
Làm người có dại mới nên khôn

Ai nên khôn mà không khốn một lần? Đau khổ càng nhiều thì kinh nghiệm càng dày. Ngay cả trong lĩnh vực tinh thần hoặc tâm linh, chúng ta thấy tuyết tương đối của Bác học Einstein vẫn đúng. Kỳ diệu thật! Tất nhiên chính Thiên Chúa đã tác động để ông khả dĩ thấu hiểu quy luật tự nhiên và đưa ra định luật như vậy.

Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, xin dạy chúng con thấu triệt lẽ khôn ngoan (Tv 51:8). xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan (Tv 90:12). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

[Mục Lục]

Bài 2. “Ta không biết các ngươi”

Bữa tiệc cưới kỳ lạ khởi đầu tốt đẹp: có đến mười cô phù dâu! Chúng ta nghĩ đến những chiếc áo dài đẹp và những nụ cười, chú rể hơi vụng về, cô dâu xinh xắn.

Có điều này phá tan sự thơ mộng: năm trong số mười cô này bị coi là “khờ dại”. Người ta chú ý đến họ và vạch ra sự thiếu lương tri của họ. Đặt ra những câu hỏi về năm cô “khôn ngoan” từ chối chia sẻ dầu trong đèn của họ là điều vô ích vì đây không phải là vấn đề. Một dự ngôn vạch ra đường lối của mình mà không quan tâm tới những yếu tố không phù hợp.

Cho nên chúng ta hãy thử đi thẳng vào bài học về dầu bị thiếu. Sự thiếu sót nào có nguy cơ làm cho chúng ta trở thành nhữngkẻ khờ dại? Người khờ dại trong dụ ngôn chính là người Kitô hữu đã lên đường nhưng không chuẩn bị. Người đó tức khắc rơi vào trong một cuộc sống tầm thường, ít có tính cách Tin Mừng. Năm cô khờ dại biểu thị cho những kẻ ít can đảm, những kẻ bị tước vũ khí do sự chờ đợi và thời gian. Họ có nguy cơ bị giật mình khi nghe la lên: “Đây là chàng rể, đây là sự gặp gỡ Chúa!”

Tuy nhiên chúng ta nghĩ đến sự gặp gỡ cuối cùng. Chúng ta biết rằng để thành công thì phải gặp được Chúa Giêsu ở dưới thế gian này, trong Kinh nguyện, Thánh thể, Tin Mừng, bí tích người anh em (Mt 25,40). Nhưng tất cả những điều này phải trả giá và chúng ta làm chậm kỳ hạn: “Ngày mai, tôi sẽ bắt đầu”. Chúng ta làm như thể mình là chủ thời gian vậy!

Thậm chí khi đang tĩnh tâm, dưới cú sốc của một biến cố hoặc một chứng cứ gây xáo trộn, chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, thì chúng ta cũng không nghe được lời van xin lo lắng của Ngài, bởi vì Ngài biết rõ chúng ta: “Các con hãy luôn luôn tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào giờ nào”.

Do đó phải nghĩ đến giờ phút này mà thôi hay sao? Không, sẵn sàng để nghe tiếng gọi này, chính là sống hết mình điều mà chúng ta đang sống. “Linh đạo hiện tại”, có nghĩa là sử dụng tốt cuộc sống hằng ngày, trở nên những ứng viên tốt nhất để gặp gỡ Chúa. Ý nghĩa có tính cách Tin Mừng của thời gian là: hôm nay phải chuẩn bị dầu cho ngày mai, đồng thời phải luôn luôn can đảm để sống Tin Mừng vào bất cứ lúc nào trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào. Nếu không, sẽ phải đi đến cùng những bữa tiệc cưới buồn này, sẽ phải đứng ngoài cửa phòng tiệc và nghe những lời nặng nề hơn nữa, xoá tan mọi niềm hy vọng: “Ta không biết các ngươi”. Vào ngày tận thế Chúa Giêsu sẽ chỉ công nhận “những người của Ngài”, tức những kẻ đã cố gắng làm ánh sáng Tin Mừng không biết mệt mỏi bằng cách không ngừng dự trữ dầu.

Nếu câu nói dễ sợ “Ta không biết các ngươi” đập vào chúng ta như Chúa Giêsu muốn, chúng ta hãy suy niệm về hai cách xử sự: những cô khôn ngoan, những cô khờ dại. Còn chúng ta, cái đèn chúng ta ở đâu?

[Mục Lục]

Bài 3. Kẻ khờ dại đánh mất Nước Trời!
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng:

- Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?

Các gia nhân đáp:

- Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.

Người quản gia nói:

- Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.

Tất cả đều ngạc nhiên hỏi:

- Làm sao quản gia biết là ông chủ không lên trời?

Người quản gia nói:

- Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được!

Vâng, thái độ thiếu khôn ngoan của nhà phú hộ trên cũng có thể là thái độ của chính chúng ta! Chúng ta đã thiếu chuẩn bị cho một cuộc ra đi ắt phải có của kiếp người là rời bỏ chốn dương gian lắm tội tình. Ai trong chúng ta cũng tin rằng bên kia sự chết đó là cõi thiên thai, là thiên đàng cực lạc, là Nước Trời vĩnh cửu. Ðó là nơi mà ai cũng ước mong sẽ được cư ngụ vĩnh viễn sau cuộc đời đầy khổ ải trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại thiếu chuẩn bị một cách cẩn thận, kỹ lưỡng. Họ không bao giờ chuẩn bị một hành trang cần thiết nào cho cuộc sống đời sau. Họ sống như không bao giờ chết. Họ tiêu pha đời mình trong những đam mê trần tục. Họ ngụp lặn đời mình trong biển đời hư danh và truỵ lạc. Họ quên rằng trời cao mới là quê hương đích thực. Trần gian là tạm bợ. Thiên đàng mới là vĩnh cửu.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở về thái độ thiếu chuẩn bị cho cõi đời sau qua dụ ngôn 10 trinh nữ phụ dâu. Trong đó có 5 cô khờ dại. Họ được mời làm phụ dâu, đáng lẽ họ phải chuẩn bị thật kỹ càng để giúp cho tiệc cưới được chu đáo và long trọng. Thế nhưng, họ lại lười biếng và thiếu trách nhiệm. Họ lười biếng nên lăn quay ra ngủ. Họ thiếu trách nhiệm nên chẳng chuẩn bị chi cả. Dầu tượng trưng cho sức sống tươi trẻ, đầy năng động, tràn đầy nhựa sống nhưng đã cạn kiệt, không còn đủ sức tỏa sáng chung quanh. Nên khi cơ sự tới. Họ muốn thắp lên một ngọn đèn cũng không đủ khả năng. Họ cầu cứu người khác, nhưng thời gian đã không còn. Cơ hội để cùng tân lang vào dự tiệc đã vuột khỏi tầm tay của họ. Cánh cửa cuộc đời đã khép. Số phận của họ đã được định đoạt. Họ bị loại trừ trong thất vọng và khổ đau.

Có biết bao lần vì lười biếng mà ta đã đánh mất những cơ hội tốt đẹp trong cuộc đời. Có biết bao lần vì thiếu trách nhiệm mà ta đã hành xử một cách cẩu thả, cho qua lần chiếu lượt với những công việc được giao. Cơ hội vào Nước Trời sẽ không có trong tầm tay của những kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm với cuộc sống của mình. Vì con đường vào Nước trời là con đường hẹp đầy chông gai, sỏi đá. Con đường của hy sinh, của phấn đấu không ngừng vươn lên mỗi ngày, mới mong đạt tới vinh quang Nước Trời. Vì phương thế vào Nước trời là lối sống thực thi triệt để giới răn mến Chúa – yêu người, nên kẻ muốn vào Nước Trời phải chu toàn bổn phận đối với Chúa và tha nhân với đầy đủ ý thức và trách nhiệm. Lười biếng và thiếu trách nhiệm thường đi đôi với nhau. Kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm không những bị cha mẹ, anh em bè bạn loại trừ mà cả cánh cửa sự sống đời sau cũng khép lại và từ chối đón nhận họ.

- Có những kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm với vợ con nên tối ngày rượu chè, cờ bạc… gây khổ đau cho vợ con

- Có những người vợ biếng nhác việc nhà “đi vác tù và hàng tổng”, họ tham gia rất nhiều hội đoàn nhưng lại thiếu trách nhiệm với tổ ấm của mình.

- Có những người con lười biếng chỉ biết ăn chơi, đua đòi nhưng lại thiếu trách nhiệm với chính bản thân của mình nên sa đà tội lỗi.

Họ là đại diện cho các cô phụ dâu thiếu chuẩn bị dầu nến bước vào đời sau. Vì ngày tân lang tới hay có thể nói là ngày chết của mỗi người chúng ta hoàn toàn bất ngờ. Chúng ta không ai biết trước được ngày ra đi. Không ai biết được cách thức ra đi. Do đó, sự khôn ngoan luôn đòi hỏi chúng ta phải tỉnh thức trong mọi sự. Phải chu toàn bổn phận của mình một cách chu đáo. Phải có trách nhiệm với cuộc sống để khi ra đi chúng ta luôn mang tâm trạng bình an. Chúng ta sẽ không hối tiếc vì để lịm tắt ngọn lửa yêu thương trong cuộc đời chúng ta.

Ước gì mỗi người chúng ta đừng vì lười biếng mà ru ngủ đời mình trong những đam mê yếu đuối, và lầm lạc. Ước gì bình dầu yêu thương trong tâm hồn chúng ta luôn đầy tràn chan chứa hầu có thể thắp sáng tình yêu Chúa trên muôn vạn nẻo đường chúng ta đi, và làm nóng lại tình yêu của Chúa giữa nhân gian tội tình hôm nay. Xin cho chúng ta luôn đủ khôn ngoan để chuẩn bị dầu đèn luôn cháy sáng là những hành vi bác ái đầy yêu thương thấm đượm tình Chúa, tình người. Amen.

[Mục Lục]

Bài 4. Chúa sẽ đến

Đối với mười cô trinh nữ, thì việc chàng rể sẽ đến là một xác tín mãnh liệt và hiển nhiên. Họ đã chuẩn bị đèn đuốc, đã đi nghênh đón và đợi chờ chàng rể tại một nơi đã được ấn định. Họ tin chắc chắn rằng chàng sẽ tới. Tin chắc đến độ không còn lo âu và băn khoăn trước sự chậm trễ của chàng. Họ đã thiếp đi và ngủ cả. Đó là dấu chỉ cho thấy tâm hồn họ thật bình thản. Còn đối với chúng ta thì sao?

Chúng ta cũng tin chắc chắn rằng Chúa sẽ đến. Tuy nhiên, đôi lần việc chờ đợi đã làm cho niềm tin ấy bị lu mời và phai nhạt. Ngài sẽ đến, nhưng xem ra mọi sự lại diễn ra một cách quá bình thường. Ngài sẽ đến, nhưng lại chẳng có dấu chỉ gì báo trước. Ngài sẽ đến, nhưng sao lại vẫn thinh lặng., một sự thinh lặng dễ sợ. Sự hao mòn của thời gian dễ dàng tàn phá lòng kiên nhẫn của chúng ta.

Những câu hỏi bắt đầu được đặt ra, rồi những nghi vấn được chen vào làm cho niềm xác tín bị lung lay. Thêm vào đó, những kiến thức hời hợt và nông cạn sẽ làm phut tắt ngọn đèn nội tâm của chúng ta và đặt trong chúng ta một tình trạng dửng dưng nào đó, bởi vì các biến cố đã được tiên báo xem ra thật đáng nghi ngờ. Bấy giờ, nếu thình lình xảy ra những tai ương hoạn nạn, thì sự chờ đợi có thể chìm sâu vào thất vọng và bị coi là hoàn toàn vô ích.

Chúa sẽ đến, đó là một điều chắc chắn và là một xác tín phải được củng cố trong suốt cuộc đời chúng ta. Đó không phải là một giả thuyết, nhưng là một thực tại hiển nhiên của tương lai. Và vì liên hệ tới tương lại, nên đó cũng chính là một viễn tượng duy nhất chắc chắn như cái chết phần xác của chúng ta. Ước gì niềm xác tín này làm cho cõi lòng chúng ta được tràn ngập an bình và tâm hồn chúng ta được hoàn toàn thanh thản.

Chúa sẽ đến và Ngài sẽ đến một cách bất ngờ. Đó là khía cạnh thứ hai trong câu chuyện mười cô trinh nữ. Vào nửa đêm, có tiếng hô to:

- Kìa chàng rể đến.

Như thế, việc chuyển sang một ngày mới cũng là việc chuyển đổi từ tình trạng này đến tình trạng kia. Bất ngờ và cưỡng chế, đó là đặc tính của việc Chúa đến trong Lời mà chúng ta đang nghe lúc này đây của thánh lễ. Đấy là như một dấu báo hiệu: Trước đó, nó đã cho thấy thật là phi lý nếu chúng ta tưởng rằng mình sẽ có đủ thời giờ để canh chừng. Không báo trước như một tiếng sét giữa bầu trời quang đãng, như một tiếng kèn bất chợt vang lên, hay như một con đường đi Đamas khiến cho Phaolô bị quật ngã, xem ra rất bình thường nhưng lại có tính cách quyết định cho số phận đời đời.

Cuộc viếng thăm trọng đại này sẽ áp đặt và mang đi tất cả, nhưng đồng thời cũng ban sự sống cho những gì phù hợp với nó và cho những ai đợi chờ nó.

Tuy nhiên, hăng hái trông mong và hăm hở đi đón mừng Chúa đến với một đức tin kiên vững mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải tích cực chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, bằng cách tích lũy cho mình thật nhiều những việc lành phúc đức, thật nhiều những hành động bác ái yêu thương, thật nhiều những thái độ xả thân phục vụ những người hèn mọn chung quanh chúng ta. Chỉ một đời sống hoàn toàn dấn thân cho Chúa và cho anh em mới có thể rạng gnời như đèn sáng trong đêm tối trần gian và cho phép chúng ta được yên giấc ngàn thu vì biết rằng Chúa sẽ mở cho chúng ta cánh của phòng tiệc của Ngài.

[Mục Lục]

Bài 5. Sẵn sàng

Theo tục lệ tại các nước Trung Đông, thì trong dịp đám cưới, nhà gái thường tổ chức những cuộc vui chơi suốt ngày. Thỉnh thoảng người ta lại loan báo cho biết:

- Chàng rể sắp đến.

Trong thực tế, nửa đêm vào lúc bất ngờ nhất, chàng rể mới xuất hiện. Chàng đến với đèn đuốc sáng trưng để đón cô dâu. Đáp lại, cô dâu cùng các cô phù dâu, cũng phải mang đèn đuốc sáng trưng để bắt đầu cuộc rước về nhà chồng.

Đoạn Tin mừng hôm nay cũng cho hay là chàng rể đến chậm. Sự chậm trễ này cũng là điều bình thường và phần lớn xảy ra là do nhà trai chưa đạt được thỏa thuận về các sính lễ phải đem sang nhà gái trước khi rước dâu.

Tục lệ này tương đương với việc “thách cưới” ở Việt Nam mà dân gian đã có những lời diễu cợt như sau:

- Em là con gái nhà giàu,

Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao.

Cưới em trăm tấm lụa đào,

Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.

Ở Trung Đông, tục lệ này còn nặng nề hơn nữa, đến nỗi cuộc rước dâu có thể bị đình hoãn tới đêm hôm sau do cuộc thương lượng và thỏa thuận kéo dài lê thê…

Vì thế không lạ gì khi thấy các cô phù dâu thiếp đi rồi ngủ cả. Các cô tuy không buộc phải tỉnh thức, nhưng buộc phải sẵn sàng để đón chàng rể với đèn cháy sáng cầm trên tay.

Câu chuyện trên được áp dụng vào hai lãnh vực. Lãnh vực nhân loại và lãnh vực cá nhân.

Trước hết là lãnh vực nhân loại. Như chúng ta đã biết chàng rể trong câu chuyện là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô. Ngài sẽ đến viếng thăm nhân loại vào ngày cuối cùng của vũ trụ vật chất, để phán xét chung hết thảy mọi người.

Tuy nhiên quan trọng hơn đó là lãnh vực cá nhân. Ngài sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta vào ngày sau hết của cuộc đời để phát xét riêng mỗi cá nhân và ấn định số phận đời đời của chúng ta.

Điều Ngài đòi hỏi nơi chúng ta không phải chỉ là tỉnh thức để biết được ngày giờ nào Ngài sẽ viếng thăm, nhưng cần thiết hơn, đó là thái độ sẵn sàng, để khi Ngài đến, chúng ta không bị bẽ bàng, hut hẫng và đắng cay vì sẽ bị loại trừ.

Vào năm 79 sau công nguyên, thành phố Pompei với trên 20.000 dân bất ưng bị một ngọn núi lửa vùi lấp dưới lớp tro bụi dày hơn 5 thước.

Các nhà khảo cổ đã đào bới và tìm thấy những bộ xương người mà thịt rữa được thay thế bằng những lớp tro chai cứng. Hay họ dùng thạch cao để đắp lại thành hình người theo dựa theo những bộ xương trong tư thế y hệt lúc xảy ra tai nạn núi lửa. Những khuôn đức ấy cho thấy hành vi cuối cùng của một số người trong thành.

Trước hết là một người mẹ trẻ đang ôm chặt đứa con trong vòng tay của mình. Tiếp đến là một người lính gác trong bộ áo giáp với vũ khí trong tay, vẫn đứng thẳng tại vị trí của mình, còn người khác thì tay cầm gươm, chân đạp trên đống vàng, bên cạnh là năm xác chết, có lẽ đó là những người đến để cướp bóc hay hôi của.

Nếu như hôm nay Chúa đến viếng thăm, liệu chúng ta có ở trong tư thế sẵn sàng với đôi tay chất đầy công nghiệp và một tâm hồn trong trắng, như năm cô trinh nữ khôn ngoan cầm đèn sáng đi đón chàng rể hay không?

[Mục Lục]

Bài 6. Tỉnh thức

Chúa Giêsu hay nói về đám cưới, vì đám cưới của người Do Thái sống ở Palestine thời Chúa Giêsu là một cơ hội lễ lạc linh đình. Theo William Barclay, toàn thể dân làng được mời tham dự vào đoàn rước chú rể và cô dâu về nhà mới, họ đứng hai bên đường ca hát và chúc mừng những lời tốt đẹp nhất. Đôi tân hôn không đi xa để hưởng tuần trăng mật, nhưng ở tại nhà, suốt cả tuần lễ tiệc tùng, và được đối đãi quý trọng như hoàng tử và công chúa. Đây là tuần lễ quan trọng đáng ghi nhớ nhất trong đời của một người. Do đó, theo luật lệ của các thầy Rabbi, ngày lễ cưới là ngày hoan lạc vui tươi, tất cả khách đến tham dự được miễn trừ không phải giữ luật ăn chay.

Thánh lễ cưới theo nghi thức tây phương, cô dâu đóng vai trò quan trọng với nghi thức rước dâu. Khi cô dâu xuất hiện, mọi người đều đứng lên tập trung vào cô dâu đẹp đẽ trong y phục áo cưới tiến lên bàn thờ với đoàn rước và tiếng nhạc hoan ca. Còn chú rể chỉ đứng chờ đợi sẵn trên bàn thờ đón tiếp cô dâu.

Trái lại, trong nghi thức đám cưới Do Thái, chú rể là người quan trọng. Mọi người phải chờ đợi và đón chú rể. Trước hết, nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rể phải đi tới nhà cô dâu để thương lượng với người cha hay anh em của cô dâu về tiền bạc, quà cáp, của hồi môn… vào lúc mặt trời lặn. Thời đó chưa có đồng hồ, nên không thể định rõ giờ giấc để đón rước chàng rể từ nhà cô dâu về nhà chú rể được. Hơn nữa, theo phong tục, chú rể thường cố ý trì hoãn và kéo dài cuộc thương lượng để cô dâu và những nàng phù dâu phải chờ đợi trong hồi hộp và ngạc nhiên. Vì suốt ngày tiệc tùng, dạ vũ, nên chờ đợi đến khuya thường mệt mỏi và buồn ngủ. Mười cô trinh nữ được mời tham dự có bổn phận phải chuẩn bị sẵn sàng đèn đuốc để thắp sáng đường đi rước chú rể, cô dâu và khách đến tiệc cưới. Đây là một vinh dự rất đặc biệt cho các cô trinh nữ được mời.

Tuy nhiên, theo bài Phúc âm diễn tả, năm cô khờ dại chưa chuẩn bị sẵn sàng, không mang theo đủ dầu cần thiết, khi chú rể đến thì họ lại hết dầu. Điểm rất quan trọng cần lưu ý ở đây là thời xưa không ai được phép ra đường vào ban đêm mà không có đèn, nhất là trinh nữ. Vì bóng đêm với đầy dẫy sự nguy hiểm của gian tà tội lỗi!

Thánh Augustinô đã chú giải như sau: “Năm cô trinh nữ khờ dại trong bài Phúc âm hôm nay thực sự là ngu xuẩn. Họ khờ dại vì đã chểnh mảng giữ giới răn dễ dàng hơn, đó là mến Chúa và yêu người, để liều lĩnh giữ giới răn về sự thanh khiết”. Họ phải yêu thương tha nhân bằng việc thắp đèn dầu của mình soi sáng đường đi cho mọi người đến đón chú rể. Họ ngu xuẩn vì họ đã bỏ qua giới răn quan trọng và dễ thi hành này, “mến Chúa và yêu người”, để giữ một giới răn khó khăn là sự trong sạch. Theo William Barclay, tiệc cưới là những ngày hội vui tươi và linh đình, kéo dài cả tuần lễ. Ăn uống, vui chơi, đàn ca và khiêu vũ không chỉ dành riêng cho đôi tân hôn, nhưng cả bạn bè và những người thân đều được mời tham dự. Do đó, những cô trinh nữ khờ dại đã bị loại ra, uổng mất cơ hội hoan lạc đáng kể này!

Những nhân viên sĩ quan và thủy thủ đoàn cấp cứu của con tàu Titanic rất giống với những cô trinh nữ khờ dại trong dụ ngôn của Chúa Giêsu. Họ đã không chuẩn bị đầy đủ cho điều có thể xảy ra vì họ tin rằng con tàu của mình không thể chìm nổi, nhưng trong một số trường hợp họ cũng không biết điều khiển máy móc làm cho những chiếc thuyền cấp cứu hạ thấp xuống nước nữa. Do đó, khi tai nạn xảy đến, tất cả chỉ là một đám đông hỗn độn: thủy thủ đoàn không được huấn luyện không biết phải làm gì. Và khi họ phát ra những chiếc phao cấp cứu, họ mới khám phá thấy rằng tất cả những dụng cụ cấp cứu và phao nổi đã quá ít so với số hành khách và thủy thủ đoàn.

Đừng bắt chước năm cô trinh nữ khờ dại. Họ nghĩ rằng có thể mượn được dầu từ người khác. Chúng ta cũng không thể nào vay mượn được đời sống tinh thần của người khác. Phải tự phát triển đời sống đạo đức của riêng mình. Không ai có thể sống dùm cho chúng ta. William Barclay ví von rằng, chúng ta không thể nào vay mượn được tính tình và nhân đức giống như vay tiền từ thẻ tín dụng! Năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô trinh nữ khờ dại là những biểu tượng của những cách sống của con người. Xin Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để biết sống sẵn sàng vâng theo đường lối của Thiên Chúa.

[Mục Lục]

Bài 7. Sẵn sàng

Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.

Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.

Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như mười trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.

Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại. Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.

Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau: Bá tước Henri đơ Bavie, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài. Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôngang. Một hôm thánh Uôngang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ: “Sau sáu…” chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi. Henry suy nghĩ mãi, không hiểu “sau sáu…” nghĩa là gì? Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng? Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc. Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra. Ngài cho rằng: sau sáu tuần chăng? Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần. Sáu tuần lại qua đi vô sự. Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng? Sáu tháng lại qua đi. Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng? Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức. Sau sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế. Dầu vậy, ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết. Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.

Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực. Dụ ngôn mười cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn và cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm khô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.

Chúng ta hãy nhớ: một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành. Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.

[Mục Lục]

Bài 8. Vừa mang đèn, vừa mang dầu

Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết. Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình. Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Điện Biên Phủ, nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết. Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ, lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật. Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.

Đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ, như chú rể đến lúc nửa đêm. Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan, hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.

Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự. Chắc họ đã lo trang điểm cho mình. Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn. Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya. Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới. Nhưng muộn quá!

“Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”

Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm, khiến đèn của mình hết dầu. Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan, vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya. Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng, không mang dầu dự trữ.

Có đèn. Không đủ! Đèn cần phải sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ. Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.

Mang danh là Kitô hữu. Không đủ! Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ! Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa. Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương.

Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại, có những người đèn đã hết dầu từ lâu…

Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.

Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung, của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.

Cần châm thêm dầu mỗi ngày…

Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.

Tỉnh thức không phải là không ngủ… Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.

Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa, nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.

Chẳng ai biết lúc nào tận thế. Chẳng ai biết giờ chết của mình. Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nơi con người nào. Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.

Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức, khi nhận ra mình đã mê muội.

Gợi ý chia sẻ

Nạn ma tuý đã đi vào trường học và tác hại trên người trẻ. Theo ý bạn, phải làm gì để ngăn chặn?

Nếu định nghĩa ma tuý là tất cả những chất gây nghiện, khiến con người có nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao, không thể cưỡng lại được, thì theo ý bạn, đâu là những thứ ma tuý hiện nay đang mê hoặc giới trẻ? (rượu, cờ bạc, bạo lực, tình dục…)

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.

Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.

Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào…

Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.

Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

[Mục Lục]

Bài 9. Mười người trinh nữ
Radio Veritas Asia

Tháng mười một là tháng dành riêng cho các linh hồn, nên chúng ta dừng lại để suy nghĩ một vài tư tưởng về cái chết. Chắc hẳn Chúa không muốn cho cuộc đời chúng ta chìm đắm trong một màu tang tóc và từng giây từng phút luôn nơm nớp lo sợ, nhưng Chúa muốn chúng ta sẵn sàng và nhìn vào cái chết với đôi mắt lạc quan tin tưởng và hy vọng.

Cái chết sẽ dạy cho chúng ta biết cuộc đời này tuy ngắn ngủi và chóng qua nhưng lại là một kho tàng quí giá, bởi vì nhờ nó chúng ta có thể chiếm được Nước Trời, và một khi nó đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Bởi đó chúng ta hãy biết lợi dụng những năm tháng hiện tại để chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, hầu sẵn sàng lên đường dấn thân vào một cuộc hành trình cô đơn và bi thảm nhất, đó là cái chết.

Thật là hạnh phúc và tốt đẹp nếu ta có được một linh hồn luôn chuẩn bị và sẵn sàng, nhưng cũng thật bẽ bàng và cay đắng nếu ta chết đi trong tình trạng tội lỗi và thù nghịch cùng Chúa. Lúc đó ta sẽ mất cả chì lẫn chài, cả vốn lẫn lời, cả đời này lẫn đời sau, cả thân xác lẫn linh hồn.

Trên bia mộ của những người thời xưa người ta thường thấy những chữ tuyệt vời trên đó: “Người này đã nghỉ yêu trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa”. Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi bác ái yêu thương để dù Chuía có đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết, chúng ta vẫn sẵn sàng và vui mừng kêu lên: “Lạy Chúa, này con xin đến”. Thế nhưng chúng ta đã chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng này chưa? Trong cơn hấp hối người ta hỏi thánh nữ Magarita:

- Có cần gì nữa chăng?

Thánh nữ trả lời:

- Không, tôi đã sẵn sàng.

Nếu như đêm nay chúng ta phải đến trước tôn nhan Chúa, nếu như chút nữa đây Chúa gọi chúng ta, liệu chúng ta đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa? Liệu chúng ta đã trả hết món nợ đối với Chúa và đối với anh chị em hay chưa? Liệu chúng ta đã tẩy xóa hết tội lỗi trong tâm hồn qua Bí Tích Giải Tội hay chưa? Nếu chúng ta biết chuẩn bị ngay từ bây giờ, nếu như mỗi khi chiều xuống chúng ta ngồi hồi tâm xét mình và chúng ta chỉ ngủ yên khi tâm hồn mình đã gội rửa tẩy sạch qua tâm tình sám hối ăn năn. Nếu chúng ta luôn giữ được tấm áo trắng trong ngày lãnh nhận Phép Rửa Tội, nếu ngọn nến đức tin vẫn còn cháy sáng trong cuộc đời, thì quả thật chúng ta là người có phúc và cái chết không còn là một giây phút kinh hoàng và khiếp hãi nữa.

Cuộc đời là một chuyến viễn du trong đêm tối, nhưng bên kia là bình minh ló hiện. Cuộc đời chúng ta là một hành trình trên mặt biển đầy sóng, nhưng bên kia là bến bờ hạnh phúc, ở đó Thiên Chúa đang mở rộng vòng tay để chờ đón chúng ta. Nếu bây giờ chúng ta đã chuẩn bị và sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan, thì khi Chúa đến chúng ta sẽ không chết nhưng thực sự bắt đầu sống, vì bấy giờ chúng ta được sinh ra cho cuộc sống mới, cuộc sống muôn đời.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khử trừ tội lỗi trong tâm hồn và chất đầy trên đôi tay nhỏ bé những công việc sáng chói là những hành động bác ái yêu thương, để khi Chúa đến chúng con sẽ được Chúa đón nhận vào bàn tiệc Nước Trời. Amen.

[Mục Lục]

Bài 10. Cảnh giác và sẵn sàng đón Chúa
Lm Vũ Thái Hòa

Khung cảnh lễ cưới trong dụ ngôn rất quen thuộc với thính giả của Chúa Giêsu: tại nhà cha mẹ mình, cô dâu chờ chú rể đến rước để làm lễ chúc lành và ăn tiệc cưới tại nhà trai. Khi chú rể và đoàn phù rể kéo đến đón cô dâu, đoàn phù dâu sẽ ra đón rước với đèn, đuốc sáng. Sở dĩ đám cưới làm vào ban tối vì ban ngày thời tiết rất oi bức. Trước đó, hai gia đình thương lượng với nhau, về của hồi môn chẳng hạn. Vì thế, nhà gái có thể chờ lâu, có khi đến nửa đêm.

Câu chuyện đám cưới tưởng sẽ diễn tiến tốt đẹp, không ngờ kết cuộc thật thảm hại, với những chi tiết rất khó tin: năm cô khôn ích kỷ không chịu chia sẻ dầu, bắt năm cô dại đi mua dầu lúc đêm khuya, về đến cửa phòng tiệc đóng kín, và thái độ của chú rể đối với các cô đến chậm.

Thực ra, đây chỉ là bài dụ ngôn, nên chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa tổng quát của nó. Để hiểu rõ hơn dụ ngôn hôm nay, chúng ta phải đặt dụ ngôn trong thời điểm Chúa Giêsu giảng dạy về ngày quang lâm của Người. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự cần thiết của sự cảnh giác vì không ai biết ngày nào, giờ nào Người sẽ trở lại để phát xét chung. Không phải được chọn cầm đèn ra đón chú rể là tự động được vào dự tiệc cưới, cũng như không phải chỉ xưng mình là người Ki-tô hữu là được cứu rỗi! Giấy chứng chỉ rửa tội không phải là vé vào cửa miễn phí và tự động của Nước Trời đâu!

Trong dụ ngôn có năm trinh nữ được khen là khôn, không phải do sự khôn ngoan tự nhiên của mình, nhưng vì thông hiểu dự định của Thiên Chúa. Còn năm cô kia bị chê là dại, không phải do sự đãng trí và sơ suất của mình, nhưng do một thái độ tinh thần quên Chúa. Vấn đề quan trọng nhất là việc chú rể đến trễ. Qua dụ ngôn này, Chúa dạy chúng ta ý nghĩa của thời gian. Đó là một thử thách của đức tin. Sự cảnh giác và sẵn sàng là hai chữ quan trọng nhất trong dụ ngôn này. Chúng ta phải cảnh giác vì Chúa Ki-tô sẽ đến lúc mà không ai ngờ tới.

Mặc dù nói về sự trở lại của Chúa Ki-tô, dụ ngôn cũng cho chúng ta một bài học về lợi ích trước mắt và cụ thể, đó là giúp mỗi người chúng ta chuẩn bị cho cái chết của mình. Tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn, nhắc nhở chúng ta phải luôn chuẩn bị: sự chuẩn bị cần phải tích cực và cá nhân.

- Chuẩn bị tích cực: được nhập vào đoàn rước chờ đợi hoặc mang đèn vẫn chưa đủ, mỗi người chúng ta cần phải tích trữ dầu, có nghĩa là phải luôn duy trì tinh thần và đức tin sống động, trong tình bác ái. Có như thế, sự chuẩn bị mới trọn vẹn.

- Chuẩn bị cá nhân: ngày đó, chúng ta tưởng có thể nhờ cậy vào người khác. Không! Người khác có thể giúp chúng ta, nhưng họ không thể thay thế chúng ta được. Sự tương trợ là điều trọng yếu trong đời sống Ki-tô giáo, nhưng mỗi người có trách nhiệm riêng của mình. Một số người cảm thấy khó chịu về tính ích kỷ của năm trinh nữ khôn ngoan. Họ không thể cho mượn dầu, vì có nhiều điều chúng ta không thể cho mượn được, tình yêu chẳng hạn. Chúng ta không thể thay thế lòng ước ao bằng đồ vật được! Chúa Giêsu nói: Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! (Lc 12,49). Lửa tình yêu đó đã nung đốt chúng ta khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Nhưng sau đó, chúng ta có gìn giữ cho ngọn lửa được sáng mãi hay không?

Câu kết luận của Chúa Giêsu Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào nhấn mạnh ý nghĩa của dụ ngôn. Sự mong đợi Chúa trở lại không phải là một thời gian trống rỗng nhưng là thời gian chuẩn bị tích cực. Lịch sử cứu độ vẫn tiếp diễn. Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng! Đừng để lỡ ngày giờ đón rước Chúa Ki-tô khi Người trở lại, cũng như trong giờ sau hết của chúng ta. Chúng ta có hẹn với Chúa mọi lúc trong cuộc sống của chúng ta. Khi có chuyện vui, Chúa mời gọi chúng ta san sẻ niềm vui đó. Khi có chuyện buồn (bệnh tật, tang…), Chúa mời gọi chúng ta không sống khép kín, nhưng đến với những ai đang cùng chung hoàn cảnh. Họ cần được người khác hiểu, thông cảm, khuyến khích và song hành với họ. Như thế, trong mọi nơi và mọi lúc, chúng ta luôn cầm đèn sáng và làm chứng rằng Chúa Ki-tô là ánh sáng thế gian.

[Mục Lục]

Bài 11. Sống ngày cuối đời

Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn 1200 người tại 20 thành phố khác nhau về việc chuẩn bị chết. Câu hỏi được đặt ra là: “Nếu bạn chỉ còn một ngày cuối cùng để sống, bạn sẽ làm gì?”. Kết quả của cuộc thăm dò cho thấy:

* 57% phụ nữ được hỏi cho biết họ sẽ sống ngày cuối cùng đó với gia đình.

* 42% các ông được hỏi cho biết họ cũng muốn sống ngày cuối cùng đó với gia đình.

* 32% các ông các bà đều muốn được sống với gia đình mình trong những giờ phúc cuối đời.

* chỉ có 12% các bà và 26% các ông thích ở một mình hoặc cùng với bạn bè trong ngày cuối cùng của cuộc sống.

Thưa anh chị em, những con số trên đây có lẽ không đại diện cho ước muốn hay suy nghĩ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, xuyên qua kết quả của cuộc thăm dò này, chúng ta cũng có thể đọc được một tâm trạng chung của con người khi đứng trước cái chết; đó là nỗi sợ cô đơn. Cái chết là một cuộc ra đi đơn độc, một chia lìa vĩnh viễn, nhất là với những người thân yêu của chúng ta. Nếu câu hỏi trên đây được đặt cho chúng ta trong giờ phút này, chúng ta sẽ làm gì?

Có lẽ chúng ta còn nhớ câu chuyện của một vị thánh trẻ khi được hỏi về cách thế chuẩn bị chết:

Giữa một đám trẻ đang chơi đùa, viên giám thị đặt câu hỏi: “Nếu ngay bây giờ chúng con biết mình sắp chết, chúng con sẽ làm gì?”. Một số em bé trả lời: “Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện”. Một số em khác cho biết: “Con sẽ đi xưng tội để dọn mình chết lành…”. Chỉ có một cậu bé điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát con có chết, thì giờ này con vẫn tiếp tục cuộc chơi”. Đó là câu trả lời của thánh trẻ Luy Gonzaga. Và câu trả lời đó đã làm cho viên giám thị ưng ý nhất, bởi vì nếu giải trí lành mạnh là một bổn phận trong lúc này, thì việc thánh hóa trước tiên phải nằm trong bổn phận hằng ngày: giờ nào việc nấy.

Nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, nếu chúng ta biết gặp gỡ Chúa trong từng sinh hoạt, nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa trong từng phút giây… thì cái chết chỉ là một nối dài của cuộc gặp gỡ thân tình này. Người luôn trung thành với những gặp gỡ trong giây phút hiện tại sẽ không phải sợ hãi trong cuộc gặp gỡ tối hậu là cái chết.

Vì thế, thưa anh chị em, qua câu chuyện dụ ngôn 10 cô phù dâu đi đón chàng rể trong Tin Mừng hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta phải tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng cho ngày giờ Chúa đến. Vì ngày giờ Chúa đến sẽ bất ngờ, không được báo trước. Dụ ngôn cho thấy có 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. Có nhiều người bị trách là “khôn nhà dại chợ”. “Khôn” những chuyện vặt vãnh mà lại “khờ” những chuyện trọng đại. “Khôn” những chuyện nhất thời hôm nay để rồi “dại” những chuyện ngàn đời mai sau. Có lẽ 5 cô khờ dại này đến giờ chót mới khôn ra (khôn đột xuất) và chạy đi mua “khôn”thì không kịp nữa rồi! Vì thế, chúng ta phải biết khôn ngay đi! Tin Mừng hôm nay đã cảnh giác chúng ta tỏ tường rồi đấy!

Bài học về sự khôn ngoan đã được Chúa Giêsu nói đến trong ví dụ về người khôn xây nhà trên nền đá (Mt 7, 24). Đó là người “nghe và thi hành Lời Chúa”. Khôn là chuẩn bị sống ngày hôm nay không gì khác hơn là “nghe và thi hành Lời Chúa”. Trung thành sống điều này là ta đã xây dựng cho mình một nền tảng vững chắc để có thể đứng vững trong đêm tối âm u hay trong mưa sa bão táp. Ngược lại, không thi hành Lời Chúa, ta sẽ bị coi là kẻ khờ dại, vì đã xây nhà đời mình trên nền cát…

Năm cô khờ dại đã uổng công đi đón và mòn mỏi đợi chờ để rồi cứ phải ở bên ngoài phòng tiệc cưới. Vì thế, nghe và thi hành Lời Chúa là một thái độ sống khôn ngoan để dù thức hay ngủ, ta vẫn ở trong tư thế sẵn sàng. Việc Chúa đến sẽ không còn là chuyện bất ngờ nữa mà là một cuộc hẹn hò gặp gỡ đầy ý nghĩa đã được chờ đợi.

Đừng chậm trễ nữa, thưa anh em chị em, vì cửa Nước Trời chỉ mở ra cho những người hôm nay sẵn sàng dự tiệc, cho những người hôm nay mang canh cánh bên lòng nỗi ưu tư thi hành ý muốn của Chúa, chứ không dành cho những kẻ chỉ biết nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa” ngoài môi miệng, để rồi phải nghe trả lời: “Ta không biết các ngươi!” câu trả lời này cũng là lời phán quyết của Thẩm Phán tối cao trong ngày phát xét cuối cùng.

Anh chị em thân mến, hôm nay vẫn còn thời giờ để chúng ta “khôn”, vẫn còn thời giờ để chúng ta đổ đầy dầu vào bình mà mang theo, vẫn còn thời giờ để xây dựng đời mình trên nền tảng thực thi Lời Chúa và Chàng Rể cũng đang đến loan báo niềm vui hội ngộ. Hãy sẵn sàng ra đón, để cùng Tân Lang vào dự tiệc Nước Trời hưởng niềm vui vô tận.

Đối với những ai đã sẵn sàng, đèn Tin-Yêu thắp sáng trong tay, họ sẽ được sung sướng gặp mặt Chúa: Thánh nữ Têrêxa Avila mấp máy nói lên với Chúa trước khi tắt thở: “Lạy Chúa Giêsu, này là giờ chúng ta gặp nhau”. Trong khi chị Thánh Têrêsa Giêsu Hài Đồng âu yếm thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”, đôi mắt xuất thần nhìn thẳng vào một điểm trên pho tượng Đức Mẹ, nét mặt tươi tắn, rồi nhắm mắt lại, ra đi nhẹ nhàng. Đồng hồ chỉ 7 giờ 20 phút, tối ngày 30 tháng 9 năm 1897.

Hai người trinh nữ khôn ngoan đã cầm đèn thắp sáng Tin Yêu ra đón Chúa và đã được gặp gỡ “Người Tình Lang” muôn thuở của mình.

Lạy Chúa Giêsu,

nếu ngày mai Chúa đến,

chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng…

Xin nuôi dưỡng nơi chúng con

niềm tin vững vàng

và niềm hy vọng nóng cháy

để tất cả những gì chúng con làm

đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

[Mục Lục]

Bài 12. Trinh nữ khôn ngoan
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 25,1-13

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Đám cưới là một sinh hoạt bình thường của con người. Chúa đã dùng một sinh hoạt bình thường của xã hội để nói về Nước Trời cho mọi người dễ hiểu. Qua dụ ngôn này, Chúa sánh ví Nước Trời giống như một đám cưới. Chúa chính là chàng rể. Linh hồn là trinh nữ. Giờ Chúa đến là giờ ta từ giã đời này. Tiệc cưới là hạnh phúc Nước Trời. Bóng đêm là những thử thách ta gặp trên đường về Nước Trời. Chàng rể đến muộn nói lên tính cách bất ngờ của giờ chết. Qua dụ ngôn này, Chúa hé mở cho ta mấy chân lý về Nước Trời.

Hạnh phúc Nước Trời là được sống với Chúa. Hình ảnh con người sống với Thiên Chúa được diễn tả thật sinh động qua hình ảnh đám cưới. Cưới ai là cho người ấy được ngang hàng, được chung hưởng địa vị, chia sẻ quyền lợi. Chúa đến cưới lấy con người. Cho con người được vào sống trong nhà Chúa, được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Được sống với Chúa và được Chúa yêu thương, linh hồn sẽ không còn mơ ước điều gì hơn nữa.

Con người được Chúa trân trọng. Hình ảnh chàng rể đến giữa đêm khuya thật gợi ý. Chúa đến tận nơi tìm ta. Chúa không triệu ta đến như ông vua ra lệnh cho thần dân. Nhưng Chúa trân trọng đến đón rước linh hồn. Và để đến tìm ta, Chúa phải vượt suối băng ngàn, đi trong đêm hôm khuya khoắt. Chúa yêu thương ta biết bao.

Mọi người được mời gọi. Chúa mong ước mọi người được ơn cứu độ. Chúa mong ước cho ta được hạnh phúc. Dựng nên con người, Chúa muốn mọi người được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Nên cả mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn để đi đón chàng rể. Cả mười cô được dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô đều tham dự vào đám rước dâu và vào dự tiệc cưới.

Nhưng ai có đủ điều kiện mới được vào. Điều kiện được diễn tả như ngọn đèn cháy sáng. Đi rước dâu đòi phải cầm đèn. Đèn ai sáng mới được dự vào đám rước. Đèn tắt bị loại ra ngoài. Những người cầm đèn sáng là những người tha thiết yêu mến Chúa nên chăm lo thực hành lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể. Còn những người đèn tắt là những người tuy cũng muốn vào dự tiệc cưới nhưng không chịu chuẩn bị. Họ là những người tin theo phong trào, giữ đạo theo dư luận, có tên trong sổ rửa tội, nhưng đời sống hoàn toàn như người không có đức tin. Có đèn mà không có dầu. Có đèn mà đèn để tắt. Có đạo mà không giữ đạo. Biết luật Chúa nhưng không chịu thực hành.

Các con Thiếu Nhi Thánh Thể thân mến,

Thánh Thể vốn là một bữa tiệc Chúa Giêsu mời gọi ta vào dự. Được dự tiệc Thánh Thể là được đồng bàn với Chúa. Thánh Thể là bữa tiệc hạnh phúc vì trong Thánh Thể Chúa yêu thương hiến mình cho ta. Thánh Thể là bữa tiệc đem lại sự sống đời đời. Thánh Thể là bữa tiệc cưới trong đời ta được kết hiệp nên một với Chúa. Thật hạnh phúc cho ta.

Vì yêu thương, nên Chúa Giêsu cũng đã từ trời xuống thế tìm ta. Để được con người Chúa đã phải trải qua biết bao vất vả khó nhọc. Nhất là phải chịu nhục nhã và chịu chết nữa. Hôm nay Chúa vẫn ở trong nhà chầu chờ đợi ta.

Trong nhà thờ luôn có ngọn đèn chầu. Khi không có ai thờ phượng Chúa, thì có ngọn đèn chầu lúc nào cũng thắp sáng để thờ phượng Chúa. Thiếu Nhi Thánh Thể nguyện là những ngọn đèn chầu ơ bên cạnh Chúa. Mỗi khi các con đến viếng Chúa Giêsu Thánh Thể, các con trở nên những ngọn đèn chầu. Càng có nhiều ngọn đèn chầu và những ngọn đèn chầu càng sáng lâu thì trái tim Chúa càng được sưởi ấm.

Ngọn đèn chầu của các con được sáng lâu và sáng mạnh là nhờ các con sống bí tích Thánh Thể. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống để tuân theo thánh ý Đức Chúa Cha, Thiếu Nhi Thánh Thể hãy luôn yêu mến và làm theo ý Chúa. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống vì tha nhân. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết yêu mến mọi người. Như Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết khiêm tốn phục vụ mọi người. Như Chúa Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng mọi người. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết chia sẻ cơm áo với những người nghèo, viếng thăm an ủi những người buồn khổ. Thực hành bí tích Thánh Thể là chất dầu giữ cho ngọn đèn tâm hồn các con luôn cháy sáng. Với ngọn đèn cháy sáng trên tay, các con sẽ an ủi Chúa Giêsu Thánh Thể và khi Chúa đến, các con sẽ cầm đèn cháy sáng cùng Chúa vào tham dự hạnh phúc Nước Trời.

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1- Dụ ngôn 10 cô trinh nữ có ý nghĩa gì?
2- Bạn chuẩn bị thế nào để được vào dự tiệc Nước Trời?
3- Chúa đến bất ngờ. Điều này dạy ta phải làm gì để sẵn sàng đón Chúa.

[Mục Lục]

Bài 13. KHÔN NGOAN CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN BẤT NGỜ
Lm Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 25,1-13

2. Ý CHÍNH:

Đức Giê-su sẽ đến lần thứ hai vào ngày tận thế để phán xét và mở Tiệc cưới Nước Trời. Chỉ những người khôn biết luôn tỉnh thức và trong tư thế sẵn sàng mới được vào dự. Còn những người dại không thực hành tình mến Chúa yêu người, sẽ bị lọai ra bên ngòai. Đức Ki-tô sẽ đến bất ngờ vào giờ chết của mỗi người hay trong ngày tận thế chung cả nhân lọai. Do đó, mọi tín hữu cần luôn tỉnh thức và chuẩn bị sẵn dầu đèn là ơn thánh để bất cứ khi nào Chúa đến, họ cũng được vào tham dự bữa tiệc vui với Người

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-2: + Mười cô trinh nữ: Trinh nữ là các thiếu nữ chưa chồng. + Cầm đèn của mình ra đón chú rể: Dụ ngôn dựa theo phong tục cưới xin của dân Do thái thời Đức Giê-su. Việc cưới xin thường diễn ra vào ban đêm. Mấy hôm trước ngày cưới, hai bên đàng trai đàng gái đặt tiệc riêng đãi bà con bạn bè của mình. Rồi đến chính ngày cưới, hai họ nhập lại chung để ăn uống tại bên họ nhà trai. Nghi thức quan trọng nhất trong đêm rước dâu như sau: khoảng 6 giờ chiều bắt đầu ngày mới, chàng rể cùng các phù rể cầm đuốc lên đường đến nhà đàng gái. Khi đó cô dâu và các cô phù dâu sẽ sửa soạn cây đèn để chờ đón họ đàng trai. Khi chàng rể đến đón dâu, đám rước sẽ khởi hành đi về nhà trai và nhập bàn tiệc. Các cô phù dâu phải mang theo bình dầu và cầm đèn cháy sáng đứng chung quanh cô dâu chú rể trong nghi thức khai mạc tiệc cưới. Ở đây Đức Giê-su mượn phong tục lễ rước dâu này để dạy môn đệ “Phải luôn canh thức và sẵn sàng”. Người tự ví mình giống như chàng rể. Người sẽ đến lần thứ hai vào ngày tận thế để phán xét và mở tiệc cưới Nước Thiên Đàng cho nhân loại. Chỉ những người nào khôn ngoan, thể hiện qua thái độ luôn tỉnh thức và trong tư thế sẵn sàng mới có đủ điều kiện được vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời. Còn những người dại biểu hiệu qua thái độ thiếu chuẩn bị, không sống tình mến Chúa yêu người, sẽ không được vào tham dự bữa tiệc cưới Nước Trời. Đồng thời dụ ngôn cũng nhấn mạnh việc “Chàng rể Giê-su sẽ đến bất ngờ” trong giờ chết của mỗi người hay vào ngày tận thế chung của nhân loại. Do đó, mọi tín hữu phải luôn canh thức chờ đợi Đức Giê-su sẽ đến lần thứ hai bất cứ vào lúc nào.

- C 3-4: + Năm cô dại: Dại vì không biết tiên liệu nên đã không đem bình dầu theo, hoặc có đem mà không đủ dùng, nên khi chàng rể đến thì đèn đã bị tắt. Thái độ khờ dại thể hiện qua hành vi tắc trách: có nhiệm vụ đi đón chú rể, nhưng lại không quan tâm chuẩn bị dầu cho cây đèn của mình. Đây là những kẻ cố chấp không tin Đức Giê-su hay là những người tuy có đức tin nhưng lại lười biếng cầu nguyện dâng lễ và không thực hành Lời Chúa, nên không đủ điều kiện để được Chúa tiếp nhận vào dự bàn tiệc Nước Trời đời sau. + Năm cô khôn: Khôn vì biết tiên liệu nhìn xa, nên đã mang đền có đủ dầu để chờ đón chàng rể đến vào giữa đêm khuya. Đây là những tín hữu đã xây tòa nhà đức tin trên nền đá vững chắc là nghe và thực hành Lời Chúa (x. Mt 7,24). Họ có nếp sống đạo đức và được dồi dào ân sủng của Chúa, luôn sống đức tin bằng việc thực hành đức cây và đức mến. Họ xứng đáng được Chúa cho vào thiên đàng trong giờ chết của họ và trong ngày tận thế chung của toàn thể nhân lọai.

- C 5-6: + Vì chàng rể đến chậm: Chàng rể là Đức Ki-tô sẽ đến bất ngờ trong giờ chết của mỗi người hay trong ngày tận thế để phán xét chung nhân loại. + Nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả: Thiếp đi và ngủ diễn tả sự “thức lâu chầu mỏi !”. Tuy vậy các cô khôn vẫn có thể ra đón Chúa đến bất ngờ vì luôn mang theo đèn chứa dầu đầy bình. Cũng vậy, những người công chính sẽ luôn có thái độ sẵn sàng do thường xuyên lãnh nhận các phép bí tích và thực hành giới răn mến Chúa yêu người. + Nửa đêm: Là thời gian nối tiếp giữa ngày hôm trước với ngày hôm sau, tượng trưng cho giờ chết là sự chuyển tiếp từ cuộc sống trần gian sang cuộc sống đời sau. Ngòai ra nửa đêm còn là lúc người ta dễ ngủ say và mất cảnh giác nhất.+ Kìa chú rể, hãy ra đón đi: Chú rể ám chỉ Chúa Ki-tô sẽ đến trong giờ chết của mỗi chúng ta hoặc đến với cả nhân loại vào ngày tận thế.

- C 7-9: + Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị: Tới giờ chết các cô dại mới ý thức về sự thiếu dầu trong đèn thì đã quá muộn. + Các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn: Vì trong giờ chết họ sẽ không thể cậy nhờ được người khác giúp đỡ.

- C 10-11: + Chính khi họ đi mua dầu là lúc chú rể đến: Câu này cho thấy: Đừng đợi tới giờ chết mới sám hối thì đã trễ. Chúng ta cần ý thức và luôn sống theo thánh ý Thiên Chúa ngay lúc còn đang sống. + Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới:Những người luôn kết hiệp với Chúa sẽ có thể ra đón Đức Ki-tô đến vào bất cứ khi nào. + Và cửa đóng lại: Giờ chết là lúc chấm dứt số phận mỗi người. Những ai được vào dự tiệc cưới sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời. Còn những kẻ đang từ chối gia nhập Hội thánh sẽ không được hưởng ơn cứu độ. + Thưa Ngài xin mở cửa cho chúng tôi: Lời cầu xin này nhắc lại lời Đức Giê-su: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa ! Là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Cũng như trong dụ ngôn “Tiệc cưới”, Những ai cố tình chống lại Thiên Chúa, hoặc không tin và không chịu sống giới răn yêu thương sẽ bị loại khỏi thiên đàng đời sau (x. Mt 22,13).

- C 12: + Tôi không biết các cô: Giờ chết là giờ phán xét công thẳng và những ai cố tình không tin sẽ không thể được hưởng ơn tha thứ nữa. + Vậy anh em hãy canh thức: Đây là chủ đích của Đức Giê-su khi dạy dụ ngôn này. + Vì anh em không biết ngày nào, giờ nào:Không biết giờ Chúa sẽ kêu gọi là giờ chết. Chính thái độ tỉnh thức sẵn sàng sẽ giúp người ta luôn sống trong ơn nghĩa Chúa và quyết tâm làm các việc lành.

4. CÂU HỎI:

1) Hãy cho biết phong tục lễ rước dâu của người Do thái diễn ra thế nào ? 2) Mười cô trinh nữ được phân thành hai lọai khôn dại là do đâu ? 3) Chi tiết các cô trinh nữ không được vào dự tiệc cưới Nước Trời nhằm dạy chúng ta bài học gì về đức tin ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13).

2. CÂU CHUYỆN: ĐÓN CHÚA ĐẾN THĂM

Một buổi sáng nọ, người ta thấy bác thợ đóng giày thức dậy từ sáng sớm. Sau khi dọn dẹp cửa hàng ngăn nắp, bác vào phòng khách ngồi đợi đón vị khách quý là Chúa Giê-su, mà đêm hôm ấy bác đã nằm mơ gặp mặt Người và Người hứa sẽ ghé nhà thăm bác vào lúc ban ngày. Đột nhiên có tiếng gõ cửa gấp. Bác thợ giày vui sướng vì không ngờ Chúa lại đến thăm bác vào lúc sáng sớm. Nhưng khi cửa mở thì người đứng ngòai không phải là Chúa Giê-su, mà là ông lão phát thư quen thuộc. Mặt ông ta bị tím tái do thời tiết ngoài trời băng giá. Bác liền mở rộng cửa đón ông vào ngồi bên lò sưởi ấm áp. Rồi bác đi pha bình trà nóng mời khách. Sau khi tiễn người đưa thư, bác thợ giày lại ngồi chờ. Nhìn qua khung kính cửa sổ, bác thấy một bé gái đang đứng khóc ngoài hiên. Bác ra mở cửa đón em vào nhà hỏi chuyện. Em cho biết đã đi vào rừng từ sáng sớm để kiếm củi khô về nấu nước xông giải cảm cho mẹ em. Do trời mưa tuyết trắng xóa khiến em bị lạc không tìm ra đường về nhà. Nghe vậy, bác thợ giày vội viết vài chữ dán ngòai cửa thông báo cho vị khách quý là Chúa Giê-su biết mình sẽ vắng nhà đến chiều, để đưa cô bé về nhà của cô. Khi tìm thấy ngôi nhà của em và thấy mẹ em đang bị sốt run rẩy nằm trên giường, bác vội đi mời ông bác sĩ gần đó đến thăm bệnh và cho toa, rồi bác đi mua thuốc mang về cho người bệnh uống. Khi bệnh nhân đã hồi phục sức khỏe bác mới vội về nhà thì trời đã khuya. Bác thợ đóng giầy chẳng còn thiết gì đến ăn uống, nằm vật ra giường nhắm mắt ngủ say như chết. Trong giấc ngủ, một lần nữa bác lại nằm mơ gặp được Chúa Giê-su. Người vui vẻ nói với bác: “Ta cám ơn con hôm nay đã đón Ta vào nhà để sưởi ấm khi Ta đang lạnh cóng. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà, đã chăm sóc giúp ta đang đau được sớm bình phục. Vì mỗi khi con phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật, là con đã phục vụ cho chính Ta đó” (x. Mt 25,40-42).

3. SUY NIỆM:

1) Cần khôn ngoan chuẩn bị đón chàng rể đến bất ngờ:

Dụ ngôn diễn tả khung cảnh một cuộc rước cô dâu về nhà chồng. Chú rể bắt đầu rời nhà vào lúc chập tối để đến nhà cô dâu. Khi đến nơi thì đã khuya, có mười cô trinh nữ cầm đèn cùng cô dâu ra đón chú rể. Rồi bỗng nhiên năm chiếc đèn của năm cô khờ tự nhiên bị tắt ngúm vì hết dầu. Bấy giờ chỉ còn năm cô khôn các cô dại nên các cô dại phải đi mua thì đã trễ. Khi các cô trở về đã bị chú rể từ chối tiếp nhận. Dụ ngôn ám chỉ Đức Giê-su ví như chàng rể sẽ bất ngờ đến với mỗi người chúng ta vào giờ chết. Để được tham dự vào bàn tiệc cưới là thiên đàng đời sau, chúng ta cần luôn tỉnh thức giống như năm cô trinh nữ khôn ngoan luôn chuẩn bị đèn chứa dầu đầy bình. Phải tránh thái độ như năm cô trinh nữ khờ dại mang đèn mà không chuẩn bị có dầu sắn trong đèn. Số phận của hạng người này là sẽ bị Vua Thẩm Phán Giê-su từ chối: “Tôi bảo thật các cô: Tôi không biết các cô !”.

2) Bài học về sự khôn ngoan:

- Cần thực hành Lời Chúa: Nếu người tín hữu chỉ tuyên xưng đức Tin thì chưa đủ, nhưng cây đèn đức tin phải chứa đầy dầu ân sủng là đức Cậy, để có thể tỏa chiếu ánh sáng đức mến qua các việc lành thực thi Lời Chúa. Chúa sẽ đến bất ngờ với mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta phải luôn tỉnh thức nhờ việc năng đọc và suy niệm Lời Chúa, để nhận ra ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa: “Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51b).

- “Hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào !”: Canh thức không phải là không ngủ. Trong dụ ngôn hôm nay, tất cả các cô trinh nữ đều đã ngủ. Thế nhưng các cô khôn ngoan vẫn có thể sẵn sàng ra đón chàng rể đến bất ngờ nhờ biết canh thức. Qua đó Chúa muốn dạy chúng ta: Phàm làm bất cứ việc gì, nếu muốn thành công cũng cần phải biết tiên liệu, nghĩa là chuẩn bị sẵn sàng để kịp thời ứng phó với mọi hoàn cảnh bất ngờ. Một học sinh muốn thi đậu phải biết chăm chỉ học hành ngay từ đầu năm học. Một doanh nhân muốn làm ăn phát đạt cần có tầm nhìn xa để chuẩn bị trước các yếu tố cần cho việc kinh doanh, hầu kịp thời nắm bắt cơ hội làm ăn. Bác nông dân muốn có một mùa gặt bội thu cũng phải chuẩn bị trước giống lúa tốt ngay từ vụ mùa trước… Nói chung, trong bất cứ ngành nghề nào, nếu không biết tiên liệu thì sẽ khó đạt được thành công. Riêng về sự sống đời sau, chúng ta cần ý thức về cái chết và chuẩn đón Chúa đến bằng viếc xét mình sám hối trước khi đi ngủ. Nỗi ngày ngay từ khi thức dậy cần tập thành thói quen dâng ngày mới cho Chúa. Rồi trong ngày năng dâng lên Chúa những lời nguyện tắt kèm theo một việc làm cụ thể để chu toàn các bổn phận đối với bản thân, gia đình, xã hội và Giáo Hội.

- Cần chuẩn bị loại dầu nào cho đèn đức tin của mình ?Lời Chúahôm naycho ta biết điều cần thiết để được hưởng hạnh phúc đời đời là thực hành mến Chúa yêu người, yêu người cụ thể từ trong tư tưởng, lời nói đến việc làm. Vì chúng ta không thể sống trong «Thiên Chúa là Tình Yêu» (1 Ga 4,8.16), nếu chúng ta không có tình yêu của Thiên Chúa trong tâm hồn. Tông đồ Phao-lô đã dạy các tín hữu điều cần để được vào Nước Trời đời sau là phải sống đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mên. Trong ba nhân đức ấy, đức Mến là cao trọng nhất (x. 1 Cr 13,13).

4. THẢO LUẬN: 1) Dầu chúng ta cần chuẩn bị cho cây đèn đức tin là gì ? Ánh sáng phát ra từ cây đèn đức tin là lọai ánh sáng nào ? 2) Hôm nay tôi phải làm gì để chứng tỏ mình là người khôn luôn chuẩn bị để sẵn sàng chờ đón Chúa đến bất cứ lúc nào ?

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Nếu ngày mai Chúa đến gọi con về thì chắc con sẽ vô cùng lúng túng. Con lúng túng vì đến giờ này con vẫn chưa chu toàn nhiệm vụ loan báo Tin Mừng được Chúa trao qua phép rửa tội và thêm sức ! Cây đèn đức tin của con hiện vẫn đang thiếu dầu ân sủng, nên chưa thể chiếu tỏa ánh sáng tình thương của Chúa, chưa chiếu soi cho anh em lương dân nhận biết ánh sáng Tin mừng để giúp họ nhận biết tin thờ và yêu mến Chúa.

- LẠY CHÚA. Xin cho con mỗi tối quyết tâm dành ra ít phút để kiểm điểm cây đèn đức tin của mình để kịp thời khắc phục sửa chữa. Xin cho con mỗi ngày làm ít nhất một việc tốt để giúp anh em lương dân nhận biết Chúa là Tình Yêu đang hiện diện trong lòng con, hầu sau này họ cũng được tham dự bàn tiệc Nước Trời với con. Xin cho con thực hành theo lời của một người cha đã khuyên đứa con trai thân yêu của ông như sau: “Con ơi, ngày con sinh ra, đôi mắt con vừa nhìn thấy ánh sáng, mọi người đều vui cười với con mà con lại khóc. Con hãy sống thế nào, để một ngày kia, đến giờ sau hết, mọi người đều tràn lệ mà con lại có thể mỉm cười” (Guy de Larigandie).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

[Mục Lục]