Gương Thánh Nhân
Ngày 26-05: Thánh Philipphe Nêrô Linh Mục (1515 - 1595)
- Viết bởi Gương Thánh Nhân
Ngày 26-05: THÁNH PHILIPPHÊ NÊRÔ
Linh Mục (1515 - 1595)
Thánh Philipphê Nêrô sinh năm 1515 tạo Florence. Bị mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, nhưng Philipphê có một bà Dì nhất mực yêu thương. Ngược lại Philipphê cũng rất vui tươi và ngoan ngùy đang cho mọi người yêu thích. Ngài hấp thụ được đức tin sâu xa nôi cha mẹ và các cha dòng Daminh ở tu viện thánh Marcô.
Năm 1533 Ngài đến sống với người cậu ở gần Naples để tập nghề kinh doanh. Ong cậu không có con thừa tự nên muốn dành gia tài cho Philipphê, nhưng thánh nhân thấy mình không có ơn gọi để sống cuộc đời như vậy. Và Ngài đi bộ về Roma, không tính toán cũng không có đồ dùng chi, Philipphê sẽ sống và chết tại Roma.
Một người đồng hương ở Roma cho Philipphê một căn phòng với điều kiện là dành ít thời gian dạy dỗ cho con cái họ. Thánh nhân đã sống đời cầu nguyện và học hành trong cô tịch, ngày ăn một bữa với bánh mì, nước và trái ôliu, ngủ trên sàn nhà. Trong khi theo môn triết học và thần học, Ngài vẫn tìm cách lôi kéo bạn bè vào nếp sống đạo đức, lo cải hoá người khác. Như vậy chính thánh nhân cũng bị cám dỗ và phải cố gắng để tự chủ, Ngài tăng thêm lời cầu nguyện và các việc hy sinh hãm mình.
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1544, trong khi cầu nguyện, Ngài thấy một vật gì như trái banh bằng lửa xoáy vào trong tim gây nên một cơn bệnh và một vết thương xưng lên dầu không đau đớn gì. Trong cuộc khám nghịệm sau khi chết người ta thấy hai xương sườn phía trên bị gãy và tạo ra một khoảng rộng lớn hơn.
Sau nhiều năm, Ngài bán hết sách vở và bắt đầu lo cho linh hồn người khác hơn là cho mình. Ngài hòa mình với các bạn trẻ ở các ngã tư , các cửa tiệm và các bờ sông, dùng đến sức thu hút tự nhiên lẫn siêu nhiên để dẫn họ về đường ngay.
Hòa mình vào nhóm các nhà giảng thuyết, Philipphê đã gây được nhiều ảnh hưởng nơi các giáo dân lẫn lương dân. Người ta cho rằng: Ngài làm nhiều phép lạ. Tuy nhiên, thánh nhân rất khiêm tốn và không dám nhận chức linh mục. Cuối cùng theo lời khuyên của cha giải tội, Ngài thụ phong linh mục năm 1551. Nhiệt tâm của Ngài thật mãnh liệt khi Ngài cử hành thánh lễ đầu tiên đến nỗi như có một luồng ánh sáng từ Ngài phát ra. Phần lớn thời gian trong ngày và cả ban đêm Ngài dành vào việc ngồi tòa giải tội. Nhận thấy có nhiều thanh niên và trẻ em biếng nhác, Ngài mở cửa không cho chúng vui tươi trò chuyện ca hát. Căn phòng ấy được mệnh danh là "Ngôi nhà của nịềm vui Kitô giáo". Mỗi chiều Ngài tổ chức buổi cầu nguyện chung cho các tín hữu. Muốn cho lời cầu nguyện khởi sắc, Ngài nhờ người bạn danh tiếng là nhạc sĩ Palestrina phổ nhạc các thánh thi. Nhà nghệ sĩ này coi Ngài như một người cha và đã qua đời trong cánh tay Ngài. các linh mục muốn dấn thân phù giúp Ngài đã họp thành một hội ái hữu và đó là tiền thân của dòng giảng thuyết.
Thánh Philipphê làm việc với một tính khí vui tươi đặc biệt. Ngày kia cộng đoàn một bạn trẻ đến báo tin cho Ngài biết hạnh phúc của mình đã được thân phụ cho theo học luật. Sau khi phác họa niềm vui hạnh phúc của mình như thế nào rồi, anh nghe hỏi:
- Học xong anh sẽ làm gì ?
- Con sẽ đậu bằng tiến sĩ luật .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ cãi những vụ kiện quan trọng, khó khăn để thành danh tiếng.
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ nên danh giá và giàu có thỏa lòng mong ước .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ sống sung sướng và hạnh phúc.
- Rồi sao nữa ?
- Rồi sao nữa ? sao nữa ? rồi con chết.
- Thánh nhân cao giọng hỏi tiếp: Rồi sao nữa ?
Và bạn trẻ không biết trả lời ra sao nữa, nhưng câu hỏi đã lọt vào trong tâm hồn cho đến khi hiến mình trong tu viện và chết lành thánh.
Cũng với tính khôi hài này. Thánh Philipphê đã sửa dạy được nhiều nết xấu của người ta. Chẳng hạn một phụ nữ quen tật nói xấu người khác được nghe thánh nhân dạy hãy mua một con gà giết chết, rồi vừa đi vừa nhổ lông trên đường tới gặp Ngài. Chị ta ngạc nhiên làm và như vậy. Tới nơi thánh nhân dạy : - Chị hãy trở về đường cũ và lượm hết các lông đó lại.
Người phụ nữ la lối không thể được vì gió thổi bay khắp chốn rồi. Thánh nhân mới nói: - Những lời nói xấu vu oan cho người ta một khi ra khỏi miệng sẽ truyền từ tai này qua tai nọ. Chị có thể lấy lại được không ?
Và thánh Nhân khuyên nhủ : - Khi muốn nói về một người nào làm khổ mình, hãy nói với Chúa mà thôi để cầu nguyện và giúp họ sửa sai.
Với những bức thư của thánh Phanxicô Xavier từ phương Đông gởi về, thánh Philipphê đã tìm cách theo Ngài để gieo vãi chính máu mình cho Chúa Kitô. Nhưng một thày dòng khổ tu đã nói với thánh nhân : - Dân An độ của Ngài ở tại Roma này.
Thế là thánh nhân ở lại Rôma trở thành "Tông đồ thành Rôma".
Năm 1622 khi được phong thánh, thì Phanxicô Xavie vị "Tông đồ của dân An độ" cũng được tuyên phong với Ngài.
Năm 1575, Đức giáo hoàng Gregoriô XIII đã cho Ngài và anh em linh mục thuộc nhóm Ngài một nhà thờ. Họ tái thiết thành một nhà thờ mới và ngày nay cũng chính là nhà mẹ ở Roma của dòng giảng thuyết. Philipphê được đặt làm bề trên của hội dòng mới, dòng giảng thuyết. Ngài hướng dẫn anh em trong dòng sống như như các linh mục triều, không có lời khấn nào đặc biệt, nhưng liên kết với nhau trong tình yêu thương nhau, trong một mục đích là phục vụ các linh hồn bằng việc cầu nguyện, giảng dạy và ban các phép bí tích. Ngài không đặt ra nhiều lề luật và ngày nay có tới 40 nhà dòng giảng thuyết gồm các phần tử sống theo đường lối của thánh Philipphê Nêrô.
Năm 1595, thánh Philipphê ngã bệnh. Ngày 25 tháng 5 Ngài dâng lễ và ngồi tòa như thường lệ. Nhưng sáng hôm sau Ngài bị thổ huyết, trong khi giơ tay chúc lành cho cộng đoàn và miệng lẩm bẩm : - Đây là tình yêu của con, hạnh phúc của lòng con và thánh nhân đã phó mình cho tình yêu.
(daminhvn.net)
Ngày 25/5 Thánh Mađalêna Sôphi Barat (1779 -- 1865)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Mađalêna Sôphi Barat (1779 -- 1865)
Năm 1800, thánh Mađalêna Barat cùng với ba phụ nữ khác thiết lập Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu, một tu hội giáo dục, phát triển trên toàn nước Pháp.
Lược sử
Sinh ở Burgundy, nước Pháp, trong một gia đình trồng nho, Thánh Mađalêna được sự hướng dẫn chu đáo và rất kỷ luật của người anh ruột, tên Louis, sau này là linh mục. Trong thời kỳ Cách Mạng, anh Louis bị cầm tù và sau đó cùng với cô em gái trốn lên Balê, là nơi thánh nữ được học hỏi về tôn giáo.
Mađalêna ao ước phục vụ Thiên Chúa qua tính cách của một trợ sĩ dòng Camêlô. Nhưng đó không phải là ý Chúa. Một nhóm linh mục người Pháp thuộc tu hội Thánh Tâm muốn thành lập một tu hội nữ để giáo dục các cô gái, và Cha Varin, người trưởng nhóm nghe biết về Mađalêna, do đó vào năm 1800, cha đã chấp nhận Mađalêna cùng với ba người khác như các nữ tu và giao cho họ công việc thiết lập một tu hội giáo dục. Nhà trường đầu tiên của Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu được thành lập ở Amiens năm 1801.
Sau một năm hoạt động, Mađalêna được chọn làm bề trên dù lúc ấy mới 23 tuổi -- trẻ hơn các nữ tu khác, và sơ đã điều hành tu hội trong vòng 63 năm kế tiếp.
Tu hội phát triển trên toàn nước Pháp, hấp thu các nữ tu thuộc tu hội Thăm Viếng ở Grenoble (trong số đó có Chân Phước Philippine Duchesne, là người đưa tu hội sang Hoa Kỳ năm 1818), và Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu đã được Đức Giáo Hoàng Lêô XII chính thức công nhận vào năm 1826.
Năm 1830 đệ tử viện của Tu Hội ở Poitiers bị lực lượng cách mạng đóng cửa, và Sơ Mađalêna đã thành lập một đệ tử viện khác ở Tân Tây Lan.
Cho đến khi ngài từ trần, ngày 21 tháng Năm 1865 ở Balê, tu hội đã thành lập được 105 trường trong 12 quốc gia.
Ngài được phong thánh năm 1925.
Suy niệm 1: Trồng nho
Thánh Mađalêna Sinh ở Burgundy, nước Pháp, trong một gia đình trồng nho.
Nghề trồng nho đòi hỏi một kỷ thuật mà Dức Giêsu đã ghi nhận như một bài học cho đời sống thiêng liêng: cành nào không sinh trái thì chặt đi để không phí phạm nhựa sống cho những cành khác; còn cành nào sinh hoa trái thì cũng cần cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn (Ga 15,2).
Từ kinh nghiệm bản thân trong nghề cùng với bài học từ Đức Giêsu, Mađalêna đã ứng dụng vào đời sống tu đức. Chẳng những ngài chặt bỏ đi những tính hư tật xấu vốn tồn tại nơi bản tính con người đã bị ảnh hưởng do tội nguyên tổ, mà ngài còn cắt tỉa đi nếp sống bình thường và chính đáng của một nữ nhi là lập gia đình, để theo đuổi chí hướng tu trì.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết hy sinh từ bỏ ngay cả những nhua cầu chính đáng nhưng phương hại đến con đường tiến đức.
Suy niệm 2: Kỷ luật
Thánh Mađalêna được sự hướng dẫn chu đáo và rất kỷ luật của người anh ruột, tên Louis, sau này là linh mục.
Ngay từ tấm bé, Mađalêna đã phải chịu sự hướng dẫn một cách rất kỷ luật của người anh ruột. Chắc hẳn ngài đã phải lấy làm khó chịu lắm. Nhưng cũng nhờ còn bé, nên ngài lại dễ đi vào khuôn khổ và nhờ đó dễ làm quen với môi trường đầy kỷ luật của đời tu trì sau này khi lớn lên, nhất là khi phải giúp chị em trong cộng đoàn tuân giữ kỷ luật với chức vụ bề trên.
Chính Đức Giêsu cũng đã từng va chạm đến các luật sĩ, vì Ngài không chỉ đưa ra cách giải thích luật của Ngài, nhưng còn giảng dạy như một Đấng có thẩm qytền chớ không như các luật sĩ (Mt 7,28-29). Ngài phải đương đầu với một số luật sĩ không chịu đón nhận cách giải thích của Ngài, dù lời giải thích này được bảo đãm bằng những dấu lạ kèm theo (Ga 5,36). Nhất là khi Ngài phủ nhận một số truyền thống của người phàm (Mc 7,8), nghĩa là của những người Pharisêu đang hủy bỏ Lời Thiên Chúa (Mc 7,13).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mặc lấy tinh thần giữ luật vì Chúa chứ không phải vì mình.
Suy niệm 3: Trốn lên
Trong thời kỳ Cách Mạng, anh Louis bị cầm tù và sau đó cùng với cô em gái trốn lên Balê, là nơi thánh nữ được học hỏi về tôn giáo.
Khi chưa cần thiết thì không cần phải liều mình để mất mạng sống, vì không nên thử thách quyền phép Thiên Chúa (Mt 4,7). Vì thế Đức Giêsu đã từng có lời khuyên dạy: Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác (Mt 10,23).
Cũng như Mô-sê đã từng trốn đi và đến trú ngụ ở miền Mađian sau khi giết chết một người Ai-cập (Cv 7,29). Ngôn sứ Ê-li-a cũng trỗi dậy, ra đi để thoát mạng sau hy lễ trên núi Các-men (1V 19,3). Hai anh em Louis và Mađalêna cũng trốn lên Balê.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan sáng suốt để biết tùy cơ ứng biến trong mọi tình huống.
Suy niệm 4: Ý Chúa
Đó không phải là ý Chúa.
Để chuẩn bị cho Mađalêna một sứ mạng trong một tu hội chuyên lo việc giáo dục, ý Chúa đã quan phòng sắp đặt cho ngài được sinh ra trong một gia đình sống bằng nghề trồng nho, được người anh ruột hướng dẫn một cách rất kỷ luật và đồng thời cùng rời quê trốn lên Balê là nơi thánh nữ được học hỏi về tôn giáo.
Dầu Mađalêna ao ước trở thành một trợ sĩ dòng Camêlô, nhưng đó không phải là ý Chúa. Do sáng kiến của một nhóm linh mục thuộc tu hội Thánh Tâm, một tu hội nữ để giáo dục các cô gái được ra đời. Vào năm 1800, Mađalêna cùng với ba người khác được chọn như các nữ tu, và sau 1 năm hoạt động, Mađalêna được chọn làm bề trên dù trẻ hơn các nữ tu khác.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con muốn đạt được thành quả trên đường đời thì hãy luôn sống thuận theo sự quan phòng của Thiên Ý.
Suy niệm 5: Trẻ
Mađalêna được chọn làm bề trên dù lúc ấy mới 23 tuổi -- trẻ hơn các nữ tu khác.
Tuổi già thường được kính tôn do được chồng chất nhiều kinh nghiệm, nên cũng thường được chọn vào các chức vụ hàng đầu với các công việc hệ trọng (Xh 3,16;18,12;2Sm 5,3;Er 6,7;Cv 11,30;15,4).
Thế mà nay Mađalêna lại được chọn làm bề trên với lứa tuổi còn rất trẻ và đàng khác còn trẻ hơn các nữ tu khác trong tu hội. Chắc hẳn ngài rất ngại ngùng, nhưng vì đức vâng lời và vì lợi ích chung, ngài đã nhận lời. Và dĩ nhiên các nữ tu khác dầu lớn tuổi hơn cũng vì đức vâng lời mà đón nhận tùng phục.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con gia tập đức vâng lời để dễ phục vụ lợi ích chung.
Suy niệm 6: Phát triển
Tu hội phát triển trên toàn nước Pháp.
Tu hội không chỉ phát triển lớn mạnh trên toàn lãnh thổ nước Pháp mà còn vượt ra khỏi biên cương vươn đến cả Hoa Kỳ và ở Tân Tây Lan. Không những tu hội mà công trình của tu hội thành lập cũng lên tới 105 trường trong 12 quốc gia.
Một trong các bí quyết đã giúp tu hội và công trình của tu hội phát triển lớn mạnh như thế là nhờ vào sự cần cù làm việc, như lời Thánh Mađalêna Barat thường nói với các nữ tu trong tu hội: "Sự cần cù làm việc vốn là kẻ thù của linh hồn bất toàn, luôn đem lại kết quả dồi dào cho những ai yêu mến Thiên Chúa".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi nhận và thực thi lời khuyên bảo của thánh nữ để gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 24/5 Thánh Maria Mađalêna Pazzi (1566 -- 1607)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Maria Mađalêna Pazzi (1566 -- 1607)
Thánh Maria Mađalêna Pazzi khám phá ra ơn cứu độ trong sự đau khổ. Khi đi tu, ngài ao ước chịu đau khổ vì Ðức Kitô trong suốt cuộc đời.
Lược sử
Thánh Maria Mađalêna Pazzi được Chúa ban cho ơn đặc biệt này thật nhiều đến nỗi người ta gọi ngài là "thánh ngây ngất."
Ngài tên thật là Catarina "de' Pazzi", sinh trong một gia đình quyền quý ở Florence năm 1566. Bình thường, ngài đã có thể lấy một người chồng giầu sang và an hưởng cuộc đời nhàn hạ, nhưng ngài đã chọn một con đường đặc biệt cho chính mình. Ngay từ khi chín tuổi, ngài đã tập suy niệm qua sự chỉ bảo của cha giải tội cho gia đình. Lúc 10 tuổi ngài được rước lễ lần đầu và một tháng sau đó ngài thề giữ mình đồng trinh. Khi 16 tuổi, ngài gia nhập Dòng Camêlô ở Florence chỉ vì muốn rước Mình Thánh Chúa hằng ngày (là một điều ngoại lệ vào thời ấy).
Vào dòng, Catarina lấy tên là Maria Mađalêna và khi bị từ chối không cho khấn trọn vì còn nhỏ tuổi, ngài lâm bệnh nặng. Tưởng ngài sắp chết, mẹ bề trên cho ngài khấn trọn khi còn nằm trên giường bệnh trong một nghi thức đặc biệt. Nhưng ngay sau đó, ngài rơi vào trạng thái ngây ngất (xuất thần) và kéo dài khoảng hai giờ đồng hồ. Trong vòng 40 ngày kế tiếp, trạng thái này liên tục xảy ra sau mỗi lần rước Mình Thánh Chúa. Những lần ngây ngất này đầy dẫy những cảm nghiệm hợp nhất với Thiên Chúa và chứa đựng những hiểu biết lạ lùng về chân lý của Thiên Chúa.
Để khỏi bị lừa gạt và để giữ lại các điều mặc khải, cha giải tội yêu cầu ngài kể lại các điều được cảm nghiệm để các nữ tu thư ký ghi chép lại. Chỉ trong vòng sáu năm, các trang giấy ghi chép ấy đã tổng hợp thành năm bộ sách lớn.
Những gì chúng ta cho là phi thường thì đối với thánh nữ lại là điều bình thường. Ngài có thể đọc được tư tưởng của người khác, và tiên đoán các biến cố tương lai. Ngay khi còn sống, ngài đã xuất hiện với vài người ở cách xa nhau và đã chữa nhiều người khỏi bệnh.
Qua những ơn sủng kỳ lạ của thánh nữ, chúng ta tưởng rằng ngài luôn luôn sống trong trạng thái tinh thần cao độ. Sự thật thì khác hẳn. Dường như Thiên Chúa cho phép ngài được gần gũi với Chúa một cách đặc biệt là để chuẩn bị cho thời gian cô độc khi thánh nữ cảm thấy đời sống tâm linh khô khan một cách kỳ lạ. Vào năm mười chín tuổi ngài bắt đầu thời kỳ năm năm dài thật khô khan và lẻ loi, bị cám dỗ đủ mọi mặt. Tâm hồn ngài lúc ấy như một căn phòng tối đen với chút ánh sáng thật yếu ớt mà chỉ làm bóng đêm thêm dầy đặc. Ngài thật buồn sầu đến nỗi đã hai lần toan tự tử. Tất cả những gì ngài có thể làm để chống trả các cám dỗ là kiên trì cầu nguyện, hãm mình, phục vụ tha nhân dù rằng tất cả những điều ấy dường như vô nghĩa.
Vào năm 1604, bệnh nhức đầu và tê bại khiến ngài phải nằm liệt giường. Tất cả các giác quan của ngài thật nhạy ứng đến độ bất cứ đụng đến đâu, thân thể ngài đau khủng khiếp. Sau ba năm chịu đựng, ngài từ trần năm 1607 khi 41 tuổi, và được phong thánh năm 1669.
Suy niệm 1: Ngây ngất
Người ta gọi Thánh Maria Mađalêna Pazzi là "thánh ngây ngất."
Sự ngây ngất huyền bí là trạng thái tinh thần vươn cao đến Chúa trong một phương cách có ý thức mà các giác quan nội tại và ngoại vi của con người đều tách biệt khỏi thế giới cảm giác.
Sự kết hợp mật thiết, mà Chúa ban cho các vị thần nghiệm, là một nhắc nhở cho tất cả chúng ta về sự kết hợp vinh phúc đời đời mà Người muốn ban cho chúng ta. Trong cuộc đời trần thế, Chúa Thánh Thần là động lực tạo nên sự ngây ngất huyền nhiệm qua các ơn sủng thiêng liêng. Sự ngây ngất xảy ra là vì khuyết điểm của thân xác và khả năng chịu đựng của thân xác dưới sức khai minh của Thiên Chúa, nhưng khi thân xác được thanh tẩy và vững mạnh, sự ngây ngất không còn xảy ra nữa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuẩn bị sự kết hợp với Chúa trên trời sau này bằng việc luôn sống tinh thần kết hợp với Chúa ngay từ đời này.
Suy niệm 2: Đặc biệt
Catarina "de' Pazzi" chọn một con đường đặc biệt cho chính mình.
Sinh trong một gia đình quyền quý ở Florence năm 1566, bình thường, ngài đã có thể lấy một người chồng giầu sang và an hưởng cuộc đời nhàn hạ, nhưng ngài đã chọn một con đường đặc biệt cho chính mình.
Thật thế, ngay từ khi chín tuổi, ngài đã tập suy niệm qua sự chỉ bảo của cha giải tội cho gia đình. Lúc 10 tuổi ngài được rước lễ lần đầu và một tháng sau đó ngài thề giữ mình đồng trinh. Khi 16 tuổi, ngài gia nhập Dòng Camêlô ở Florence chỉ vì muốn rước Mình Thánh Chúa hằng ngày (là một điều ngoại lệ vào thời ấy).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống ở đời, nhưng đừng theo cơn lốc của đời mà phải đặc biệt sống cho Chúa và thượng giới.
Suy niệm 3: Quan phòng
Vào dòng, Catarina lấy tên là Maria Mađalêna và khi bị từ chối không cho khấn trọn vì còn nhỏ tuổi, Thiên Chúa quan phòng đã sắp xếp cho ngài lâm bệnh nặng. Với tình huống bất đắc dĩ này, mẹ bề trên tưởng ngài sắp chết, nên cho ngài khấn trọn khi còn nằm trên giường bệnh trong một nghi thức đặc biệt.
Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phó thác với tình con thảo vào sự quan phòng của Cha trên trời, Đấng chăm sóc đến những nhu cầu nhỏ bé nhất của con cái: “Anh em đừng quá lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì? uống gì? Cha anh em Đấng ngự trên trời, biết anh em cần những thứ đó. Vậy trước hết phải lo tìm kiến Nước Chúa (Mt 6,31-33;10,29-31).
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để dễ phó thác vào Chúa quan phòng.
Suy niệm 4: Phi thường
Những gì chúng ta cho là phi thường thì đối với thánh nữ lại là điều bình thường.
Với đức khiêm tốn của một người thánh thiện, Catarina cho là bình thường, nhưng những sự việc này làm sao mà bình thường được. Chẳng hạn ngài có thể đọc được tư tưởng của người khác, và tiên đoán các biến cố tương lai. Ngay khi còn sống, ngài đã xuất hiện với vài người ở cách xa nhau và đã chữa nhiều người khỏi bệnh.
Nhất là ngay sau khi được khấn trọn, ngài rơi vào trạng thái ngây ngất (xuất thần) và kéo dài khoảng hai giờ đồng hồ. Trong vòng 40 ngày kế tiếp, trạng thái này liên tục xảy ra sau mỗi lần rước Mình Thánh Chúa. Những lần ngây ngất này đầy dẫy những cảm nghiệm hợp nhất với Thiên Chúa và chứa đựng những hiểu biết lạ lùng về chân lý của Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn chấp nhận làm những việc bình thường nhưng làm với một tinh thần phi thường.
Suy niệm 5: Khô khan
Catarina cảm thấy đời sống tâm linh khô khan một cách kỳ lạ.
Vào năm mười chín tuổi ngài bắt đầu thời kỳ năm năm dài thật khô khan và lẻ loi, bị cám dỗ đủ mọi mặt. Tâm hồn ngài lúc ấy như một căn phòng tối đen với chút ánh sáng thật yếu ớt mà chỉ làm bóng đêm thêm dầy đặc. Tất cả những gì ngài có thể làm để chống trả các cám dỗ là kiên trì cầu nguyện, hãm mình, phục vụ tha nhân dù rằng tất cả những điều ấy dường như vô nghĩa.
Những người thành tâm muốn cầu nguyện thường gặp khó khăn là sự khô khan. Tình trạng khô khan thường xảy đến trong chiêm niệm; khi ta cảm thấy xa cách Chúa, không còn hứng thú với những ý nghĩ hoài niệm và tâm tình thiêng liêng. Đây là lúc chúng ta cần lấy đức tin mà gắn bó với Đức Kitô trong cơn hấp hối và trong mờ tối (Sách Giáo Lý số 2731).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con kiên trì vượt qua giai đoạn khô khan, để tinh luyện đời sống cầu nguyện của chúng con.
Suy niệm 6: Đau khổ
Thân thể Catarina đau khủng khiếp.
Nhiều người ngay nay không thấy giá trị của sự đau khổ. Thánh Maria Mađalêna Pazzi khám phá ra ơn cứu độ trong sự đau khổ. Khi đi tu, ngài ao ước chịu đau khổ vì Đức Kitô trong suốt cuộc đời.
Lời di chúc của thánh nữ để lại cho các nữ tu trong dòng là: "Điều sau cùng tôi muốn xin các chị -- và tôi xin vì danh Chúa Giêsu Kitô -- đó là các chị chỉ yêu thương một mình Người, hoàn toàn tín thác vào Người và khuyến khích lẫn nhau tiếp tục chịu đau khổ vì yêu thương Người."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khám phá ra ơn cứu độ trong sự đau khổ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 23/5 Thánh Gioan Báptít Rossi (1698 -- 1764)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Báptít Rossi (1698 -- 1764)
Thánh nhân nổi danh là vị tông đồ của những người bị ruồng bỏ, những phụ nữ vô gia cư, những người ờ nhà thương và nhà tù.
Lược sử
Vị linh mục tài giỏi và thánh thiện này sinh ở làng Voltaggio thuộc giáo phận Genoa nước Ý. Khi còn là thiếu niên, thấy ngài thông minh, hai vợ chồng người bạn của gia đình đưa ngài về Genoa cho ăn học. Trong thời gian ba năm ở đây, ngài được sự chú ý của hai vị tu sĩ Capuchin, là người thường đến thăm gia chủ và đã phúc trình nhận xét của họ lên bề trên tỉnh dòng Capuchin, mà sau đó bác của ngài, là một kinh sĩ của nhà dòng ở Rôma đã xin cho ngài vào một trường ở Rôma ăn học, lúc 13 tuổi.
Trong thời gian theo học ở trường Collegium Romanum ngoài gương mẫu về học vấn và nhân đức, ngài còn tập hãm mình phạt xác theo gương các vị khổ tu mà ngài đọc được ở trong sách. Sự khổ cực cộng thêm chương trình học nặng nề đã dẫn đến cơn động kinh mà sau đó ngài phải nghỉ học. Sau này, ngài phục hồi sức khoẻ và hoàn tất việc học ở Minerva, nhưng không thể nào khoẻ mạnh được như trước.
Sau thời gian tu tập, ngài được thụ phong linh mục năm 23 tuổi và tận tụy rao giảng cho những người nông dân, người chăn nuôi từ quê lên tỉnh buôn bán, và ngài tìm cách giúp đỡ những phụ nữ vô gia cư phải sống ngoài đường phố qua công việc ăn xin hay làm điếm. Tiền của ngài kiếm được chỉ nhờ bổng lễ, nhưng khi được chính quyền địa phương và đức giáo hoàng giúp đỡ, ngài đã dùng tiền ấy để thuê một căn nhà cho những người nghèo lên tỉnh tạm trú.
Ngài hăng say rao giảng mọi nơi, ở nhà thờ, nhà thương, tu viện cũng như nhà tù khiến ngài nổi danh là vị tông đồ của những người bị ruồng bỏ, không khác gì Thánh Philíp Nêri.
Năm 1763, ngài kiệt quệ vì sự lao nhọc và bệnh tật. Sau một vài cơn kích xúc tim khiến ngài bị tê liệt, ngài đã từ trần ở Pellegrini năm 66 tuổi.
Thiên Chúa đã vinh danh ngài qua những phép lạ. Ngài được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII phong thánh năm 1881.
Suy niệm 1: Thánh thiện
Vị linh mục tài giỏi và thánh thiện này sinh ở làng Voltaggio thuộc giáo phận Genoa nước Ý.
Sự thánh thiện của ngài đã được bày tỏ ngay trong thời gian theo học ở trường Collegium Romanum, vì được đánh giá như một gương mẫu về học vấn và nhân đức, ngài còn tập hãm mình phạt xác theo gương các vị khổ tu. Sự khổ cực cộng thêm chương trình học nặng nề đã dẫn đến cơn động kinh mà sau đó ngài phải nghỉ học.
Khi được thụ phong linh mục năm 23 tuổi, ngài tận tụy rao giảng cho những người nông dân, người chăn nuôi từ quê lên tỉnh buôn bán, và ngài tìm cách giúp đỡ những phụ nữ vô gia cư phải sống ngoài đường phố qua công việc ăn xin hay làm điếm. Ngài hăng say rao giảng mọi nơi, ở nhà thờ, nhà thương, tu viện cũng như nhà tù khiến ngài nổi danh là vị tông đồ của những người bị ruồng bỏ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn phấn đấu trở thành những mẫu gương thánh thiện theo đấng bậc mình.
Suy niệm 2: Quan phòng
Khi còn là thiếu niên, thấy Rossi thông minh.
Được sinh ra ở một làng quê Voltaggio, sao Rossi lại có cơ may lên Rôma ăn học và tập tu để làm linh mục? Tất cả do sự quan phòng của Thiên Chúa.
Thật thế, thấy Rossi thông minh, hai vợ chồng người bạn của gia đình đưa ngài về Genoa cho ăn học. Trong thời gian ba năm ở đây, ngài được sự chú ý của hai vị tu sĩ Capuchin, là người thường đến thăm gia chủ và đã phúc trình nhận xét của họ lên bề trên tỉnh dòng Capuchin, mà sau đó bác của ngài, là một kinh sĩ của nhà dòng ở Rôma đã xin cho ngài vào một trường ở Rôma ăn học, lúc 13 tuổi. Sau thời gian tu tập, ngài được thụ phong linh mục năm 23 tuổi.
Tích truyện ông Giuse trong Cựu Ước cũng diễn đạt được một bài học về sự quan phòng của Thiên Chúa. Vì bị anh em ganh ghét do cha già Giacóp thương đặc biệt hơn, Giuse đã bị anh em lập mưu bán cho người lái buôn đang trên đường sang Aicập Tại đây Giuse giải mộng hợp lý cho vua Pharaon nên được cất nhắc làm tể tướng. Với chức vụ này, Giuse chẳng những giải quyết an toàn nạn đói hoành hành trong cả vùng và dịp này cũng đưa cả gia đình sang Aicập sinh sống (St 37-48).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín và sống niềm phó thác đường đời của chúng con theo sự dẫn dắt của tình Chúa quqn phòng.
Suy niệm 3: Thông minh
Khi còn là thiếu niên, thấy Rossi thông minh.
Vận dụng trí thông minh Chúa ban, Rossi chẳng những phát huy về phương diện văn hóa mà cả về nhân đức, đến mức trở thành một mẫu gương sáng cho bạn bè trong thời gian còn theo học, và nhất là đã dầu tư cho công việc rao giảng sau khi được làm linh mục.
Ngay từ thuở thiếu niên, Đức Giêsu cũng được các nhà thông thái ngạc nhiên khâm phục về trí thông minh của Ngài qua những lời đối đáp của Ngài (Lc 2,57). Khi lớn lên, Ngài cũng sử dụng trí thông minh này để làm tốt công việc rao giảng (1Ga 5,20), cụ thể Ngài đã mở trí cho hai môn đệ Emmau đón nhận được biến cố Phục Sinh (Lc 24,45).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng để tâm trí ra ngu si mê muội mà thờ lạy các ngẫu tượng hầu chuốc lấy cơn thịnh nộ của Chúa (Rm 1,18-23).
Suy niệm 4: Sách
Rossi tập hãm mình phạt xác theo gương các vị khổ tu mà ngài đọc được ở trong sách.
Sách vở là một thức ăn lý thú và hấp dẫn cho sinh hoạt trí thức và đời sống con người. Là thức ăn, sách vở mang tính bổ dưỡng cũng như tác hại tùy thuộc nó là tốt hay là xấu, vì thế cần phải biết chọn lọc kỹ lưỡng, chứ không phải sách vở gì cũng đọc được.
Nếu hiểu sách vở là thức ăn, nên cũng cần được tiêu hóa, bằng không chẳng sinh ích lợi gì. Rossi thấu hiểu chân lý này, nên chẳng những ghi nhận tấm gương của các vị khổ tu đọc được ở sách vở mà còn thực tập cáv việc hãm mình phạt xác nơi chính bản thân mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thà đọc ít mà suy gẫm và thực hành nhiều, còn hơn đọc nhiều mà chẳng tiêu hóa hết.
Suy niệm 5: Sức khoẻ
Rossi phục hồi sức khoẻ và hoàn tất việc học, nhưng không thể nào khoẻ mạnh được như trước.
Sức khoẻ không chỉ là vàng mà còn hơn cả vàng nữa, vì không thiếu trường hợp khi có người thân ngã bệnh, nhiều gia đình đã sẵn sàng chấp nhận mọi chi phí đến tan gia bại sản, để cứu bệnh nhân theo cách còn nước còn tát, cho dầu cuối cùng chỉ phải đón nhận kết quả là tiền mất tật mang.
Đàng khác một khi sức khoẻ đã bị đánh mất thì khó mà thu phục lại. Rossi sau khi ngã bệnh dù được hồi phục cũng không thể nào được khoẻ mạnh như trước. Sức khoẻ vốn có giá trị như thế nên cần biết tôn trọng và giữ gìn chu đáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con coi việc bảo vệ sức khoẻ tâm hồn còn hơn cả thân xác.
Suy niệm 6: Tiền
Rossi đã dùng tiền ấy để thuê một căn nhà cho những người nghèo lên tỉnh tạm trú.
Tiền của ngài kiếm được chỉ nhờ bổng lễ, nhưng khi được chính quyền địa phương và đức giáo hoàng giúp đỡ, ngài đã dùng tiền ấy để thuê một căn nhà cho những người nghèo lên tỉnh tạm trú.
Tiền là quan trọng và cần thiết vì nó có giá trị vạn năng đến mức có tiền mua tiên cũng được, nhưng cách sử dụng lại còn quan trọng và khẩn thiết hơn nhiều. Người con thứ trong dụ ngôn người cha nhân hậu vì sử dụng tiền để ăn chơi trác táng nên trở thành ngừoi con hoang đàng. Còn Rossi biết sử dụng tiền để giúp đỡ người khốn cùng nên được làm thánh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng tiền của Chúa ban trong việc phục vụ tha nhân hơn là bản thân.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 22/5 Thánh Rita ở Cascia (1381 -- 1457)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Rita ở Cascia (1381 -- 1457)
Thánh Rita được coi là quan thầy của những trường hợp khó khăn, nhất là có liên hệ đến hôn nhân. Ngài nổi tiếng về lòng bác ái và ăn chay hãm mình, và được đặc biệt chia sẻ sự thống khổ của Ðức Kitô bằng các vết mão gai trên đầu.
Lược sử
Trong nhiều thế kỷ, Thánh Rita ở Cascia là một trong những vị thánh nổi tiếng của Giáo Hội Công Giáo. Người ta thường gọi ngài là "Vị Thánh Bất Khả," vì bất cứ điều gì nhờ ngài cầu bầu đều được Thiên Chúa nhận lời.
Thánh Rita sinh ở Spoleto, nước Ý năm 1381. Ngay từ nhỏ ngài đã muốn dâng mình cho Chúa, nhưng vì vâng lời cha mẹ già, ngài phải kết hôn với một ông chồng thô bạo và nóng nẩy. Trong 18 năm, ngài kiên nhẫn dùng sự cầu nguyện và tử tế để đối xử với ông chồng luôn khinh thường và gian dâm. Sau cùng ông đã ăn năn hối lỗi và bị giết vì một mối thù truyền kiếp. Tưởng đã yên thân sau cái chết của chồng, ngài lại khổ tâm khi thấy hai người con trai thề quyết trả thù cho cha mình, và ngài đã cầu xin Thiên Chúa để cho họ chết còn hơn phạm tội giết người. Quả thật, cả hai lâm bệnh nặng, và ngài đã chăm sóc, khuyên giải hai con trở về với Thiên Chúa trong sự bình an trước khi lìa đời.
Bây giờ không chồng và không con, ngài xin gia nhập Dòng Augustine ở Cascia, nhưng bị từ chối vì không còn là trinh nữ. Với sự kiên trì và lòng tin mạnh mẽ, Thiên Chúa đã can thiệp để ngài được nhập dòng.
Trong đời sống tu trì, ngài nổi tiếng về lòng bác ái và ăn chay hãm mình. Lời ngài cầu nguyện cho những kẻ đau yếu thường được Thiên Chúa nhận lời. Ngoài ra, qua sự khuyên bảo, ngài đã đưa nhiều người trở về với đời sống Công Giáo.
Vào năm 1441, ngài được đặc biệt chia sẻ sự thống khổ của Đức Kitô bằng các vết mão gai trên đầu. Ngài từ trần ngày 22 tháng Năm 1457 khi 76 tuổi. Nhiều phép lạ đã xảy ra nhờ lời cầu bầu của ngài. Ngài được phong thánh năm 1900.
Suy niệm 1: Bất Khả
Người ta thường gọi Thánh Rita ở Cascia là "Vị Thánh Bất Khả," vì bất cứ điều gì nhờ ngài cầu bầu đều được Thiên Chúa nhận lời.
Đúng ra duy chỉ có một mình Thiên Chúa mới thật xứng với danh xưng Bất Khả để mọi người tôn vinh và ca ngợi. Đức Trinh Nữ Maria là khuôn mẫu tột đỉnh của niềm xác tín ấy, vì Mẹ đã tin rằng “không có gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc 1,37), và ca ngợi Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc kỳ diệu, Danh Người là Thánh” (Lc 1,49).
Một cách thức Thiên Chúa biểu lộ sự toàn năng của Người, đó là cung cách Người chăm lo cho những nhu cầu của con người (Mt 6,32), đặc biệt khi nâng họ lên làm nghĩa tử (2Cr 6,18). Thánh Rita dầu được gọi là "Vị Thánh Bất Khả" thì cũng chỉ là dụng cụ Người sử dụng để thi thố các hồng ân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chiêm ngắm sự kỳ diệu của vũ tru, để hằng xác tín về sự toàn năng của Thiên Chúa (Tv 135,6).
Suy niệm 2: Hôn nhân
Thánh Rita phải kết hôn với một ông chồng thô bạo và nóng nẩy.
Ngay từ nhỏ ngài đã muốn dâng mình cho Chúa, nhưng vì vâng lời cha mẹ già, ngài đã chấp nhận đi vào đời sống gia đình với một người chồng thiếu đạo đức với nhiều khuyết điểm như thô bạo và nóng nẩy, luôn khinh thường và gian dâm, để rồi có hai cậu con trai tội lỗi trong chí hướng báo thù.
Nhưng ngài kiên nhẫn dùng sự cầu nguyện và tử tế để đối xử với ông chồng, ông đã ăn năn hối lỗi. Cũng thế cả hai con trai tội lỗi lâm bệnh nặng, và ngài đã chăm sóc, khuyên giải hai con trở về với Thiên Chúa trong sự bình an trước khi lìa đời.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết dùng phương thế cầu nguyện và cách đối xử tử tế để giúp hoán cải tha nhân.
Suy niệm 3: Cầu nguyện
Trong 18 năm, Thánh Rita kiên nhẫn dùng sự cầu nguyện và tử tế để đối xử với chồng.
Bài học quan trọng cần lưu ý để giúp việc cầu nguyện có hiệu quả, đó là cầu nguyện cách kiên trì không bao giờ nản lòng thối chí, cho dầu phải mất cả thời gian dài 18 năm. Đây là một yếu tố thiết yếu mà Đức Giêsu đã dạy qua dụ ngôn người đàn bà góa xin một quan tòa minh xét và đạt được ước nguyện nhờ kiên trì kêu xin (Lc 18,1-5).
Ngoài yếu tố kiên trì, còn phải biết trợ lực cho lời cầu bằng thái độ sống tốt của chính mình. Thật thế nhờ dành thời gian cả bao nhiêu năm trời không rời bỏ Đền Thờ, ăn chay cầu nguyện và sớm hôm phụng thờ Thiên Chúa, mà bà Anna đã được phúc gặp gỡ Chúa Hài Nhi như lòng mong ước (Lc 2,36-38).
* Lạy Chua Giêsu, xin giúp chúng con biết kết hợp với lời cầu xin bằng thái độ sống tốt và sự kiên trì.
Suy niệm 4: Chết
Thánh Rita đã cầu xin Thiên Chúa để cho hai cậu con trai chết còn hơn phạm tội giết người.
Tình mẫu tử thật cao cả và bao la như biển Thái Bình đến mức dám hy sinh tất cả ngay cả mạng sống vì con cái. Nhưng một người mẹ đạo đức thánh thiện phải luôn biết đặt tình Chúa lên trên tất cả.
Chính vì thế Thánh Rita chấp nhận thà chứng kiến hai cậu con trai của mình chết còn hơn thấy chúng phạm tội giết người. Cũng thế bà mẹ thời vua Antiôkhô đã chẳng những can đảm chứng kiến cảnh tượng cả bảy người con của mình chịu cực hình, mà còn khuyên bảo chúng thà chết chứ không lỗi luật Chúa (2Mcb 7).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết đặt tình Chúa ở địa vị ưu tiên trên hết mọi sự kể cả những tình người chân chính.
Suy niệm 5: Can thiệp
Thiên Chúa đã can thiệp để Thánh Rita được nhập dòng.
Ngay từ nhỏ Thánh Rita đã muốn dâng mình cho Chúa, nhưng vì vâng lời cha mẹ già, ngài đã chấp nhận đi vào đời sống gia đình. Sau cái chết của người chồng và cả hai cậu con trai, ngài xin gia nhập Dòng Augustine ở Cascia, nhưng bị từ chối vì không còn là trinh nữ.
Với sự kiên trì và lòng tin mạnh mẽ, Thiên Chúa đã can thiệp để ngài được nhập dòng. Người ta kể rằng, một đêm kia Thiên Chúa đã đưa ngài vào trong khuôn viên của tu viện dù đã kín cổng cao tường. Thấy vậy, các nữ tu tin rằng ý Chúa muốn ngài được chấp nhận vào dòng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn xác tín vào tình yêu quan phòng của Chúa hằng can thiệp đúng lúc đúng thời.
Suy niệm 6: Thống khổ
Vào năm 1441, Rita được đặc biệt chia sẻ sự thống khổ của Đức Kitô bằng các vết mão gai trên đầu.
Các vết thương ấy thật đau đớn và chảy máu, xông mùi khó chịu đến độ ngài phải sống tách biệt với mọi người, tuy nhiên ngài vẫn coi đó là ơn sủng đặc biệt và xin được sức mạnh để gánh chịu cho đến chết.
Một nét độc đáo đáng làm mẫu gương cho mọi người noi theo, đó là Rita đã nhìn sự đau khổ của mình như một ơn sủng đặc biệt Chúa thương ban. Tâm tình mà thánh Phaolô tông đồ đã cảm nhận được như là một hồng phúc (Pl 1,29) và một nỗi vui mừng (Cl 1,24).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra giá trị của đau khổ để sẵn lòng đón lấy.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 21/5 Thánh Crispin ở Viterbo (1668 -- 1750)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Crispin ở Viterbo (1668 -- 1750)
Thánh Crispin quý trọng bất cứ ai mà Thiên Chúa đã đưa đến với thầy... Thầy được Chúa ban cho ơn chữa lành bệnh tật và bất cứ ai đến với thầy đều cảm thấy phấn khởi và được bình an trong tâm hồn.
Lược sử
Thánh Crispin tên thật là Phêrô Fioretti, sinh ở Viterbo, nước Ý. Ngài mồ côi cha ngay khi còn nhỏ. Vì hay đau yếu mà nhà lại nghèo, nên bà mẹ đã dâng cậu con trai năm tuổi cho Đức Mẹ. Biến cố đó không bao giờ phai nhạt trong đầu Phêrô mà sau này cậu thường coi Đức Maria như mẹ ruột của mình.
Vì nghèo không đủ tiền đi học, Phêrô theo ông chú học nghề đóng giầy, cho đến khi 25 tuổi, Phêrô gia nhập dòng Capuchin với tư cách thầy trợ sĩ và lấy tên là Crispin.
Sau khi khấn trọn, ngài được giao cho công việc đầu bếp cho nhà dòng ở Tolfa. Như lúc còn ngoài đời, ngài luôn luôn sùng kính Đức Mẹ và qua sự cầu nguyện của thầy, nhiều người đã được chữa lành về phần xác cũng như phần hồn.
Cùng với công việc đầu bếp, y tá, làm vườn, Thầy Crispin là người khất thực chính cho nhà dòng trong gần 40 năm. Ngay từ khi mặc áo dòng cho đến khi từ trần, thầy được Chúa ban cho ơn chữa lành bệnh tật và bất cứ ai đến với thầy đều cảm thấy phấn khởi và được bình an trong tâm hồn. Trong thời gian khất thực ở Orvieto, ngài không chỉ xin cho nhà dòng, mà còn xin cho tất cả những người nghèo ở đây.
Ngài đích thực là con cái của Thánh Phanxicô, luôn luôn vui vẻ và hăng say phục vụ cho đến khi từ trần vào lúc tám mươi hai tuổi. Ngài được Đức Giáo Hoàng Piô VII phong chân phước năm 1806 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh cho ngài năm 1982.
Suy niệm 1: Đức Mẹ
Vì hay đau yếu mà nhà lại nghèo, nên bà mẹ đã dâng cậu con trai 5 tuổi là Phêrô Fioretti cho Đức Mẹ.
Biến cố đó không bao giờ phai nhạt trong đầu Phêrô mà sau này cậu thường coi Đức Maria như mẹ ruột của mình. Như lúc còn ngoài đời, sau khi khấn trọn với tên dòng là Crispin, ngài luôn luôn sùng kính Đức Mẹ và nhờ đó được ơn chữa lành bệnh nhân:
Có lần một nhà quý tộc vì sống trác táng nên bị đau nặng và đến xin Thầy Crispin cầu nguyện. Thầy hỏi: "Thưa ngài, ngài muốn Đức Mẹ chữa ngài, nhưng nếu giả như có người xúc phạm đến Con của Mẹ thì người ấy có làm buồn lòng Đức Mẹ không? Nếu thực sự sùng kính Đức Mẹ thì không thể xúc phạm đến Con của Mẹ". Nhà quý tộc được lành bệnh, đã ăn năn sám hối và thay đổi đời sống.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chứng tỏ lòng sùng kính Đức Maria bằng một đời sống luôn sám hối và lành thánh.
Suy niệm 2: Đóng giầy
Vì nghèo không đủ tiền đi học, Phêrô theo ông chú học nghề đóng giầy.
Nghề đóng giầy thời ấy chưa có sự giúp đỡ của máy móc tinh vi như bây giờ nên rất nặng về thủ công, có nghĩa là đòi hỏi sự kiên trì, nhất là sự tỉ mỉ và độ chính xác rất cao cũng như thích hợp kích cỡ của mỗi chủ nhân sử dụng.
Điều này đã giúp ngài rất nhiều trong tương lai. Chẳng những ngài hiểu được cách sâu đậm lời Chúa dạy: Rượu mới phải đổ vào bầu mới (Lc 5,38), mà sau khi nhập dòng, ngài còn thích ứng được với các công việc phức tạp mà bề trên trao phó như làm đầu bếp, y tá, làm vườn, thậm chí làm người khất thực.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết cởi bỏ con người cũ với các tính hư tật xấu, để mặc lấy con người mới với ơn làm con Chúa (Ep 4,22-24).
Suy niệm 3: Chữa lành
Qua sự cầu nguyện của thầy Crispin, nhiều người đã được chữa lành về phần xác cũng như phần hồn.
Ngay từ khi mặc áo dòng cho đến khi từ trần, thầy được Chúa ban cho ơn chữa lành bệnh tật, và đặc biệt là ơn chữa lành liên kết giữa phần xác cũng như phần hồn, như trường hợp của nhà quý tộc nêu trên.
Thật rất gần với đường hướng chữa lành của Đức Giêsu mà Ngài hằng muốn bày tỏ mỗi khi có dịp. Chẳng hạn như lúc Ngài chữa lành người bại liệt qua lời tha tội (Mc 2,5), dầu gây bất mãn nơi lòng các kinh sư (Mt 9,3), và nhất là không phải chỉ cứu sống phần xác của Maria Mácđala mà còn cả phần hồn của chị nữa (Ga 8,1-11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấu hiểu ước muốn của Chúa, để luôn quan tâm chữa bệnh phần hồn hơn phần xác.
Suy niệm 4: Khất thực
Thầy Crispin là người khất thực chính cho nhà dòng trong gần 40 năm.
Trong thời gian khất thực ở Orvieto, ngài không chỉ xin cho nhà dòng, mà còn xin cho tất cả những người nghèo ở đây. Ngài thật sự khéo léo vận dụng nhiệm vụ của nhà dòng để phát huy tình thương Chúa đến cho tất cả những ai cần đến.
Đúng như Cha Henri de Lubac, dòng Tên, đã nhận định và viết: "Chúng ta phải yêu quý thời đại của chúng ta, nhưng không nhượng bộ tinh thần của thời đại, có như thế, mầu nhiệm Kitô Giáo trong chúng ta sẽ không bao giờ mất sức sống" (Sự Huy Hoàng của Giáo Hội, t. 183).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng các tiến bộ của thời đại về phương tiện truyền thông để truyền bá tin mừng Chúa.
Suy niệm 5: Đến với thầy
Bất cứ ai đến với thầy Crispin đều cảm thấy phấn khởi và được bình an trong tâm hồn.
Thời hoạt dộng công khai, Đức Giêsu cũng đã mở rộng cõi lòng để đón tiếp mọi hạng người, không phân biệt người lớn cũng như trẻ con (Mc 10,14), người lành mạnh cũng như bệnh hoạn tật nguyền kể cả bệnh nhân phong cùi (Mt 4,23;Lc 17,12), người dân ngoại cũng như ngoại kiều (Mt 15,22;Lc 7,2), và cả người thu thuế tội lỗi (Lc 7,37;19,2).
Theo gương đó, Thánh Crispin quý trọng bất cứ ai mà Thiên Chúa đã đưa đến với ngài và trong bất cứ thời gian nào. Thánh Crispin đã trở nên cuốn phúc âm sống động cho anh em dòng và cho người dân ở Orvieto. Sự thánh thiện của ngài đã khuyến khích họ sống bí tích rửa tội một cách độ lượng hơn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tập sống hòa mình và gần gũi với mọi người, để dễ giúp họ trở về với Chúa.
Suy niệm 6: Phục vụ
Thầy Crispin luôn luôn vui vẻ và hăng say phục vụ cho đến khi từ trần.
Một mẫu gương nổi bật trong đời sống phục vụ mà Thánh Crispin để lại và mời gọi chúng ta, đó là phục vụ không phải chỉ với tinh thần hăng say mà nhất là vui vẻ. Yếu tố vui vẻ phải là yếu tố căn bản phải có để làm nên giá trị công việc (Rm 12,8).
Đức Giêsu đã nêu bật ý nghĩa ấy trong trường hợp nhắc nhở Mácta, khi thấy chị này dầu phục vụ hết mình và rất tốt nhưng thiếu yếu tố vui vẻ, vì chị đã cằn nhằn Chúa không để ý tới để bảo cô em Maria phụ giúp chị một tay, mà cứ để chị tất bật phục vụ một mình (Lc 10,40).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn giữ thái độ vui vẻ phục vụ để làm tăng thêm giá trị công việc.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 19/5 Thánh Giáo Hoàng Celestine V (1215 -- 1296)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giáo Hoàng Celestine V (1215 -- 1296)
Thánh Celestine sống khổ hạnh. Thân xác càng tiều tụy thì tinh thần ngài càng thăng tiến. Nhiều người đến với ngài và bắt chước lối sống khổ hạnh ấy. Ngài làm giáo hoàng chỉ có năm tháng, rồi quyết định từ chức, và quỳ gối tạ tội trước Hồng Y Ðoàn vì đã không chu toàn nhiệm vụ cai quản Giáo Hội.
Lược sử
Thánh Celestine, tên thật là Phêrô Morrone, sinh trong một gia đình nghèo ở nước Ý và ngài là thứ mười một trong gia đình mười hai người con. Năm hai mươi tuổi, Phêrô từ giã mái trường và sống khổ hạnh trong một hầm nhỏ mà ngài đào ở dưới đất. Sau ba năm, ngài gia nhập dòng Biển Đức và được thụ phong linh mục ở Rôma.
Đến năm 1246, ngài trở về Abruzzi, và sống năm năm trong một cái hang ở Morrone, gần núi Sulmona. Để chống lại các cám dỗ, ngoài thời giờ cầu nguyện và đọc Kinh Thánh, ngài lao động thật cực nhọc hoặc sao chép lại các sách thiêng liêng. Ngài không bao giờ ăn thịt và giữ chay bốn lần trong một năm. Ngoài ra, ngài còn mặc áo nhặm, đeo giây lưng bằng sắt, ngủ trên mặt đất hoặc tấm ván thô và dùng củi hoặc đá để gối đầu. Thân xác ngài càng tiều tụy thì tinh thần ngài càng thăng tiến. Nhiều người đến với ngài và bắt chước lối sống khổ hạnh ấy. Sau cùng ngài phải thành lập một dòng tu và cho đến khi từ trần, trên toàn Âu Châu đã có ba mươi sáu đan viện và sáu trăm đan sĩ nam nữ sống theo quy luật của ngài.
Sau khi Đức Giáo Hoàng Nicôla IV từ trần, Giáo Hội không có người kế vị trong hai năm và ba tháng, và vì nghe tiếng thánh thiện của Cha Phêrô, hồng y đoàn đã chọn ngài làm giáo hoàng, lúc ấy đã tám mươi bốn tuổi. Ngài đau khổ khi nghe tin ấy, nhưng phải chấp nhận và lấy tên là Celestine V. Quyết định ấy đã đưa đến nhiều thảm họa vì Đức Celestine không thích hợp với vai trò giáo hoàng trong bất cứ khía cạnh nào khác, ngoại trừ sự thánh thiện.
Ngài làm giáo hoàng chỉ có năm tháng. Bởi vì ngài quá khiêm tốn và đơn sơ nên bị nhiều người lợi dụng. Ngài trở thành con cờ chính trị của Vua Charles II nước Naples. Không bao lâu nhiều vấn đề phức tạp đã xảy ra trong Giáo Hội. Sau cùng, ngài quyết định từ chức, và quỳ gối tạ tội trước Hồng Y Đoàn vì đã không chu toàn nhiệm vụ cai quản Giáo Hội. Thật là một nghĩa cử khiêm tốn biết chừng nào!
Tưởng được yên thân để sống đời ẩn dật như trước, nhưng hậu quả của các quyết định trong thời gian ngài làm giáo hoàng đã để lại nhiều nghi vấn nơi vị tân giáo hoàng kế nhiệm, do đó, Đức Boniface VIII đã giam ngài trong thành Fumone. Ở đây, ngài bị sỉ nhục và chịu gian khổ, nhưng không hề than thở một lời. Trái lại, ngài còn gửi thư cho Đức Boniface cho biết ngài rất hài lòng và không còn muốn gì hơn. Ngài thường nói: "Tôi không mong muốn gì hơn ở thế gian này ngoài căn phòng nhỏ hẹp; và họ đã cho tôi toại nguyện."
Trong thời gian tù đầy, ngài thường hát thánh vịnh đêm ngày. Một ngày trong tháng Năm 1296, ngài báo trước với lính canh là ngài sẽ chết vào cuối tuần. Thật vậy, sau khi kết thúc bài thánh vịnh trong giờ kinh sáng ngày thứ Bảy 19-5, ngài trút hơi thở cuối cùng. Trong mười tháng tù đầy, ngài không bao giờ giảm bớt lối sống khắc khổ.
Nhờ lời cầu bầu của ngài, nhiều phép lạ đã được ghi nhận, và ngài được Đức Clêmentê V phong thánh năm 1313.
Suy niệm 1: Khổ hạnh
Phêrô từ giã mái trường và sống khổ hạnh trong một hầm nhỏ mà ngài đào ở dưới đất.
Để thể hiện cuộc sống khổ hạnh, ngài tự chọn lấy một nơi ăn chốn ở là hầm nhỏ lúc năm 20 tuổi suốt ba năm. Đến năm 1246, khi trở về Abruzzi, ngài sống năm năm trong 1 cái hang ở Morrone, gần núi Sulmona. Trong 10 tháng tù đầy, ngài cũng không bao giờ giảm bớt lối sống khắc khổ.
Còn về việc ăn mặc, ngài không bao giờ ăn thịt và giữ chay bốn lần trong một năm. Ngoài ra, ngài còn mặc áo nhặm, đeo giây lưng bằng sắt, ngủ trên mặt đất hoặc tấm ván thô và dùng củi hoặc đá để gối đầu
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu rằng khổ hạnh góp phần giúp chúng con làm chủ được các bản năng và đạt tới tự do nội tâm.
Suy niệm 2: Cám dỗ
Để chống lại các cám dỗ, ngoài thời giờ cầu nguyện và đọc Kinh Thánh, Phêrô lao động thật cực nhọc hoặc sao chép lại các sách thiêng liêng.
Đức Giêsu cũng đã từng bị Xatan cám dỗ đến ba lần sau thời gian sống cô tịch trong hoang địa, nhưng Ngài đã đẩy lui được những cuộc tấn công ấy để mang lại chiến thắng vẻ vang. Nhờ đâu? Ngài đã dùng phương thế sử dụng Lời Chúa.
Với thánh trẻ Đaminh Saviô, cậu cũng bị các bạn học quyến ru trốn học đi bơi hay đi chơi... Saviô đã tìm hết cách để chối từ nhưng các bạn cố lôi cuốn cậu, thuyết phục cậu chẳng có tội lỗi gì khi làm thế... Cuối cùng Saviô đành phải nói, cậu sẽ đi nhưng để cậu về xin phép ba mẹ đã... Thế là cậu thoát được những mời mọc mà thường tình các bạn trẻ khó mà tránh thoát.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn vận dụng mọi phương thế để không sa vào chước cám dỗ.
Suy niệm 3: Thánh thiện
Vì nghe tiếng thánh thiện của Cha Phêrô, hồng y đoàn đã chọn ngài làm giáo hoàng.
Là người thánh thiện, ngài không bị chi phối bởi ước muốn trèo cao danh vọng thường tình của thân phận làm người ở đời, nên ngài cảm thấy đau khổ khi nghe tin được chọn làm giáo hoàng, nhưng cũng vì thánh thiện, ngài cam lòng chấp nhận và lấy tên là Celestine V.
Là người thánh thiện, khi thấy không chu toàn nhiệm vụ cai quản Giáo Hội, ngài quyết định từ chức, và quỳ gối tạ tội trước Hồng Y Đoàn. Hơn thế ngài chấp nhận bị Đức Boniface VIII giam ngài trong thành Fumone. Ở đây, ngài bị sỉ nhục và chịu gian khổ, nhưng không hề than thở một lời. Trái lại, ngài còn gửi thư cho Đức Boniface cho biết ngài rất hài lòng và không còn muốn gì hơn. Trong thời gian tù đầy, ngài thường hát thánh vịnh đêm ngày và không bao giờ giảm bớt lối sống khắc khổ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đào sâu đời sống thánh thiện, để dẻ dàng đón nhận mọi nghịch cảnh xảy ra trong cuộc đời.
Suy niệm 4: Đơn sơ
Bởi vì ngài quá khiêm tốn và đơn sơ nên bị nhiều người lợi dụng.
Đơn sơ là một đức tính tốt và thường được gặp thấy ở trẻ nhỏ, như cổ nhân có nói: ra đường hỏi người già, còn về nhà hỏi trẻ nhỏ. Chính vì thế Đức Giêsu chẳng những không khinh dễ trẻ nhỏ, mà còn quan tâm ôm ấp chúng và lấy chúng làm mẫu gương (Mc 10,13-16;Mt 18,3).
Tuy nhiên trong cách xử thế, tính đơn sơ cần phải được bổ túc bởi sự khôn ngoan như lời Chúa dạy: phải đơn sơ như bồ câu nhưng phải khôn như rắn (Mt 10,16), một yếu tố thật quan trọng và cần thiết đến mức khi vua Salômôn lên ngôi thì ông chỉ xin cho được ơn đó (1V 3,11-12).
* Lạy Chúa Giêsu, xin thương ban cho chúng con được ơn khôn ngoan và cả tính đơn sơ nữa.
Suy niệm 5: Khiêm tốn
Thật là một nghĩa cử khiêm tốn biết chừng nào!
Là con người khiêm tốn, ngài không cảm thấy hồ hởi và vui sướng mà ngược lại cảm thấy đau khổ khi nghe tin được chọn làm giáo hoàng, vì tự nhận thấy khả năng yếu kém của mình.
Cũng chính vì thế khi không chu toàn nhiệm vụ cai quản Giáo Hội, ngài làm một nghĩa cử khiêm tốn là quyết định từ chức, và quỳ gối tạ tội trước Hồng Y Đoàn. Hơn thế ngài chấp nhận bị Đức Boniface VIII giam trong thành Fumone với bao sỉ nhục và gian khổ.
* Lạy Chúa Giêsu,xin giúp chúng con học lấy bài học khiêm tốn mà Chúa đã dạy.
Suy niệm 6: Gian khổ
Ở trong tù, ngài bị sỉ nhục và chịu gian khổ.
Thánh Celestine quả là một vị giáo hoàng gian khổ cả tinh thần lẫn thể xác. Ngài phải nén lòng hy sinh ý riêng để đón nhận chức vụ giáo hoàng dầu không muốn chút nào. Ngài đau đớn khi thấy vì không thích hợp với vai trò ấy, mà nhiều vấn đề phức tạp đã xảy ra trong Giáo Hội như một thảm họa.
Và nhất là ước muốn sống đời ẩn dật và khổ hạnh không bao giờ được thỏa mãn. Vào cuối đời, ngài lại phải từ chức, và quỳ gối tạ tội trước Hồng Y Đoàn, cũng như bị giam cầm trong tù ngục với bao sỉ nhục mãi đến chết. Một nỗi đau tột cùng, đó là dầu phải chịu bao nhiêu gian khổ, ngài vẫn yên lặng cam chịu, không chia sẻ cũng không hề than thở một lời.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cam lòng chịu khổ vì Chúa và vì tha nhân mà không chờ mong được an ủi.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 18/5 Thánh Giáo Hoàng Gioan I (c. 526)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giáo Hoàng Gioan I (c. 526)
Thánh Giáo Hoàng Gioan I bị đau khổ vì một hoàng đế tham quyền. Ngài bị hoàng đế Theodoric bắt giam, và đã từ trần ngày 18 tháng Năm 526 sau những ngày bị đối xử tệ hại trong tù.
Lược sử
Thánh Giáo Hoàng Gioan I, người xứ Tuscan, là tổng-phó-tế của hàng giáo sĩ Rôma, được chọn để kế vị Đức Hormisdas mà lúc bấy giờ đã già yếu. Bất kể sự phản đối, ngài bị Theodoric -- là vua của Ý, người hăng hái bảo vệ phe lạc giáo Arian -- sai đi Constantinople để thuyết phục Hoàng Đế Justin bớt khắt khe trong việc chống đối phe Arian mà một sắc lệnh của vua buộc phe này phải trao trả các nhà thờ cho người Công Giáo ở Đông Phương. Theodoric đe dọa rằng nếu Đức Gioan thất bại trong nhiệm vụ, thì người Công Giáo chính thống ở Tây Phương sẽ bị trả đũa.
Nhiệm vụ thật khó khăn nhưng chuyến đi thật vinh quang. Bất cứ đâu ngài đến đều được dân chúng vui mừng tiếp đón. Khi đến Constantinople, Hoàng Đế Justin đã dành mọi vinh dự cho ngài. Vào Chúa Nhật Phục Sinh, 19-4-526, ngài đội vương miện tấn phong cho Hoàng Đế Justin. Ngoài ra, các giám mục Đông Phương cũng hăng say thề trung thành với Rôma.
Khi Đức Gioan trở về Ravenna, thủ phủ của Theodoric, ngài khám phá rằng Theodoric đã giết chết người bạn tâm giao của ngài là triết gia vĩ đại Severinus Boethius, cũng như bố vợ của ông là Symmachus. Về phần Theodoric, vì nghi ngờ Đức Gioan thông đồng với Hoàng Đế Justin nên ngay khi ngài đặt chân lên đất Ý, Theodoric đã cho người bắt giam ngay lập tức.
Phần vì mệt mỏi sau cuộc hành trình, cộng thêm sự đau khổ vì đối xử tệ hại, ngài ở tù không lâu và đã từ trần ngày 18 tháng Năm 526. Ngài được chôn cất ở bên ngoài thành Ravenna, nhưng sau đó thi hài của ngài được đưa về Rôma và chôn cất trong Đền Thánh Phêrô.
Suy niệm 1: Kế vị
Thánh Giáo Hoàng Gioan I, người xứ Tuscan, là tổng-phó-tế của hàng giáo sĩ Rôma, được chọn để kế vị Đức Hormisdas mà lúc bấy giờ đã già yếu.
Một định luật thường xảy ra trong thiên nhiên cũng không phải hiếm thấy trong sinh hoạt đời người, đó là sóng sau xô sóng trước, nhất là khi người đi trước đã luống tuổi già yếu. Vì thế Đức Hormisdas vì tuổi tác đã nhường ngôi vị Giáo Hoàng lại cho Đức Gioan I.
Một điểm đáng khâm phục và đáng học đòi bắt chước cho những người cầm quyền, đó là biết thắng vượt chước cám dỗ tham quyền cố vị. Đức Giêsu đã từng nêu gương sáng khi trấn an các tông đồ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16,7).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị lãnh đạo không sa vào chước cám dỗ tham quyền cố vị.
Suy niệm 2: Sai đi
Đức Gioan I bị Theodoric -- là vua của Ý, người hăng hái bảo vệ phe lạc giáo Arian -- sai đi Constantinople.
Với cương vị của một vị Thủ Lãnh tối cao trong Giáo Hội, chắc hẳn Đức Gioan I luôn mang tâm lý thường tình là sai người thuộc quyền đi. Thế nhưng trong tình cảnh thế quyền đang có ảnh hưởng lớn trên thần quyền vào thời đó, Đức Gioan I đã khiêm tốn và sáng suốt nhìn đến lợi ích của Giáo Hội trên bản thân để lên đường theo sự sai phái của vua Theodoric.
Là vị Giáo Hoàng tiên khởi được Đức Giêsu chính thức trao quyền (Mt 16,18;Ga 21,15-17), Phêrô khiêm tốn và đặt lợi ích của Giáo Hội trên bản thân, để ghi nhận lời bình phẫm mang tính xây dựng của Phaolô về vấn đề cắt bì (Ga 2,11-13), để rồi tổ chức cuộc nhóm họp tại Giêrusalem với biểu quyết cắt bì hay không đều không giá trị mà chỉ tin, chịu phép rửa và giữ các điều răn Thiên Chúa (Cv 15,1-29).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị lãnh đạo luôn khiêm tốn và đặt lợi ích chung trên bản thân.
Suy niệm 3: Trả đũa
Theodoric đe dọa rằng nếu Đức Gioan thất bại trong nhiệm vụ, thì người Công Giáo chính thống ở Tây Phương sẽ bị trả đũa.
Kẻ trả thù luôn là hạng tiểu nhân, vì nói lên thế yếu kém và bất lực làm điều tốt của mình; còn người không trả thù mới là hạng quân tử, vì nói lên thế thượng phong không giống với kẻ xấu, mà đủ lực làm những điều tốt như yêu thương và cầu nguyện cho họ.
Kẻ trả thù thoạt đầu như cảm nếm được sự ngọt ngào, nhưng chẳng bao lâu cay đắng sẽ chiếm chỗ của nó với những hành vi bạo tàn, như do nghi ngờ, Theodoric đã giết chết người bạn tâm giao của Đức Gioan I là triết gia vĩ đại Severinus Boethius, cũng như bố vợ của ông là Symmachus, đồng thời đã cho người bắt giam Đức Gioan I.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi nhớ rằng kẻ thù nguy hiễm nhất và đáng sợ nhất chính là bản thân mình.
Suy niệm 4: Vinh quang
Nhiệm vụ thật khó khăn nhưng chuyến đi thật vinh quang.
Thật thế bất cứ đến đâu, Đức Gioan I đều được dân chúng vui mừng tiếp đón. Khi đến Constantinople, Hoàng Đế Justin đã dành mọi vinh dự cho ngài. Vào Chúa Nhật Phục Sinh, 19-4-526, ngài đội vương miện tấn phong cho Hoàng Đế Justin. Ngoài ra, các giám mục Đông Phương cũng hăng say thề nguyền trung thành với Rôma. Nhiệm vụ khó khăn lại dẫn đến vinh quang, nhưng vinh quang trần thế này lại khiến vua nghi ngờ và hạ lệnh bắt giam ngài khi ngài trở về, để với cái chết rũ tù vì đức tin, ngài mới được hưởng vinh quang bất diệt trên trời.
Đức Giêsu cũng được dân chúng suy tôn làm vua trần thế (Ga 6,15) với việc cung nghinh Ngài vào thành Giêrusalem bằng việc trải áo choàng xuống mặt đường cũng như chặt nhành chặt lá rải trên lối đi cùng lời reo hò tung hô vạn tuế (Mt 21,8-9). Nhưng tất cả chỉ để dẫn đến cuộc Tử Nạn đẫm máu của Ngài, để rồi sau cái chết thập giá Ngài mới thật sự được Phục Sinh vinh quang (Lc 24,26).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng chạy tìm vinh quang trần thế chóng qua, mà phải cố đạt được vinh quang thiên đàng, cho dầu phải khổ đau ở đời.
Suy niệm 5: Nghi ngờ
Vì nghi ngờ Đức Gioan thông đồng với Hoàng Đế Justin nên ngay khi ngài đặt chân lên đất Ý, Theodoric đã cho người bắt giam ngay lập tức.
Ngược lại tổ phụ Ápraham đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công chính (Rm 4,20-22).
Khi tới Giêrusalem, ông Saolô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, nghi ngờ ông vì họ không tin ông là một môn đệ. May thay có ông Banaba liền đứng ra bảo lãnh (Cv 9,26-28). Nhờ đó mà Giáo Hội đã không đánh mất đi một vị tông đồ dân ngoại nhiệt thành và thánh thiện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ nghi ngờ ai điều gì, vì chẳng những dễ bị sai lầm mà còn lỗi đức cậy nữa.
Suy niệm 6: Đau khổ
Phần vì mệt mỏi sau cuộc hành trình, cộng thêm sự đau khổ vì đối xử tệ hại, ngài ở tù không lâu và đã từ trần.
Chúng ta không thể chọn lựa những đau khổ mà chúng ta phải chịu. Thánh Giáo Hoàng Gioan I bị đau khổ vì một hoàng đế tham quyền. Đức Giêsu đau khổ vì những nghi ngờ của những người cảm thấy bị đe dọa vì chân lý, vì sự thẳng thắn của Đức Giêsu.
Đó là cái giá chung mà các sứ giả Tin Mừng phải có để cứu độ chúng sinh và làm cho muôn người được nên công chính (Is 53,4.11), đúng như lời Đức Giêsu đã nói: "Nếu thế gian ghét bỏ anh em, hãy biết rằng thế gian đã ghét bỏ Thầy trước" (Ga 15,18), vì không có thành quả nào mà không gặt hái được từ đau khổ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhìn đến giá trị tích cực của đau khổ để dễ dàng chấp nhận.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 17/5 Thánh Paschal Baylon (1540 - 1592)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Paschal Baylon (1540 - 1592)
Một đặc tính của Thầy Paschal là sùng kính Thánh Thể. Ngoài những thời giờ bận rộn vì nhiệm vụ, bất cứ khi nào có cơ hội, thầy thường dành để cầu nguyện trước Thánh Thể.
Lược sử
Trong cuộc đời Thánh Paschal, đế quốc Tây Ban Nha cực kỳ có thế lực ở Tân Thế Giới, mặc dù sau đó không lâu, Pháp và Anh đã làm suy giảm thế lực này. Thế kỷ 16 thường được gọi là Thời Đại Vàng Son của Giáo Hội Tây Ban Nha.
Thánh Pascal sinh ở Aragon, Tây Ban Nha trong một gia đình nghèo nhưng đạo đức. Trong khoảng thời gian từ bảy đến 24 tuổi, ngài làm nghề chăn cừu và bắt đầu một cuộc sống rất hãm mình. Ngài luôn luôn cầu nguyện, ngay cả khi làm việc và nhất là khi tiếng chuông nhà thờ báo hiệu lúc dâng Mình Thánh trong Thánh Lễ.
Năm 1564, Pascal gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn và tận tụy hiến thân cho cuộc đời ăn năn đền tội.
Một đặc tính của Thầy Pascal là sùng kính Thánh Thể. Ngoài những thời giờ bận rộn vì nhiệm vụ, bất cứ khi nào có cơ hội, thầy thường dành để cầu nguyện trước Thánh Thể. Cuộc đời thầy đầy dẫy những phép lạ chữa lành mà dân chúng được lãnh nhận qua sự cầu nguyện của thầy. Tuy là thầy trợ sĩ nhưng lúc bấy giờ rất nhiều người tìm đến thầy để xin cố vấn.
Ngay cả cái chết của thầy cũng được ghi dấu bằng một biến cố bất thường. Người ta kể rằng thầy trút hơi thở cuối cùng khi linh mục nâng Mình Thánh lên cao trong Lễ Hiện Xuống.
Thầy Pascal được phong thánh năm 1690, và năm 1897, ngài được đặt làm quan thầy của các tổ chức cũng như nghị hội về Thánh Thể.
Suy niệm 1: Vàng Son
Thế kỷ 16 thường được gọi là Thời Đại Vàng Son của Giáo Hội Tây Ban Nha.
Tính Vàng Son của Giáo Hội Tây Ban Nha được đánh dấu không bằng các lãnh vực trổi vượt khác nhưng chỉ vì đã phát sinh một số các vị thánh như Y-Nhã ở Loyola, Phanxicô Xaviê, Têrêsa ở Avila, Gioan Thánh Giá, Phêrô ở Alcantara, Phanxicô Sôlanô và Salvator ở Horta.
Theo hướng đó, chớ gì mỗi tín hữu không dành tâm huyết và nỗ lực trong việc theo đuổi các thành công trên đường đời với các lãnh vực trần thế, nhưng đầu tư tất cả sinh lực cho công cuộc nên thánh, và xem đó là thời điểm vàng son của đời mình, nếu đạt được kết quả mong muốn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tự nhủ và động viên chính mình: người khác nên thánh được, sao tôi lại không.
Suy niệm 2: Đạo đức
Thánh Pascal sinh ở Aragon, Tây Ban Nha trong một gia đình nghèo nhưng đạo đức.
Tinh thần đạo đức của Pascal luôn được chỉ đạo theo hướng sống mà ngài đã ghi lại: "Hãy suy nghĩ kỹ về điều này: Hãy tìm kiếm Thiên Chúa trên hết mọi sự. Thật đúng khi bạn tìm kiếm Thiên Chúa trước hết và trên hết mọi sự, bởi vì Thiên Chúa cao cả sẽ ban cho bạn những gì bạn cầu xin. Điều này cũng giúp bạn sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa và kính mến Người cách tuyệt hảo hơn".
Chính vì ngài luôn đặt hàng đầu việc tìm kiếm Thiên Chúa trên hết mọi sư, nên mặc dù ngài được khuyến khích học làm linh mục, nhưng ngài chọn làm thầy trợ sĩ. Và trong những quãng thời gian khác nhau, thầy sẵn sàng đảm trách bất cứ công việc gì dù là giữ cửa, nấu ăn, làm vườn và chính yếu là đi khất thực.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng chạy theo thói bon chen của người đời, nhưng hãy luôn tìm kiếm Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Suy niệm 3: Chăn cừu
Trong khoảng thời gian từ bảy đến 24 tuổi, Pascal làm nghề chăn cừu.
Xuất thân từ một gia đình nghèo, từ bảy đến 24 tuổi, Pascal phải làm nghề chăn cừu. Với công việc này, ngài đã có cơ hội rèn luyện cho mình những đức tính cần thiết để phục vụ tha nhân sau này: hết mình chu toàn nhiệm vụ, yêu thương chăm sóc cũng như thấu hiểu tâm tính từng cá nhân một.
Do dó dầu chỉ là một thầy trợ sĩ với các chức vụ rất khiêm tốn trong cộng đoàn trong những quãng thời gian khác nhau, như là giữ cửa, nấu ăn, làm vườn và chính yếu là đi khất thực, thế nhưng lúc bấy giờ rất nhiều người tìm đến thầy để xin cố vấn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên chăm làm việc theo hướng rèn luyện bản thân.
Suy niệm 4: Hãm mình
Trong khoảng thời gian từ bảy đến 24 tuổi, Pascal làm nghề chăn cừu và bắt đầu một cuộc sống rất hãm mình.
Với nếp sống quen thuộc hãm mình, vào năm 1564, khi gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn, ngài tận tụy hiến thân cho cuộc đời ăn năn đền tội. Ngài rất thận trọng tuân giữ lời khấn khó nghèo.
Với bản thân, ngài không bao giờ phí phạm thức ăn hay bất cứ gì được sử dụng trong nhà dòng. Với tha nhân, khi là người giữ cửa và tiếp đón các người nghèo đến xin giúp đỡ, ngài lại nổi tiếng là độ lượng. Đôi khi, các tu sĩ trong dòng phải ngăn cản sự phóng khoáng của ngài!
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống khó cho mình, còn tỏ ra rất dễ dàng với tha nhân.
Suy niệm 5: Cầu nguyện
Thầy Pascal luôn luôn cầu nguyện, ngay cả khi làm việc.
Cuộc đời thầy đầy dẫy các phép lạ chữa lành mà dân chúng được lãnh nhận qua sự cầu nguyện của thầy. Truyền thuyết cũng kể rằng có một người bị mù vì đã nhìn Thánh Nữ Anê với ước muốn dâm dục, và sau khi được ngài cầu nguyện cho, họ đã sáng mắt.
Cũng nhờ lời cầu nguyện mà Phêrô đã làm phép lạ cải tử hoàn sinh bà Tabitha có nghĩa là Linh Dương ở Giaphô (Cv 9,36-42). Và Phaolô cũng cứu sống một thiếu niên tên là Êutykhô ngã từ tầng lầu thứ ba xuống (Cv 20,7-12).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên chăm cầu nguyện không vì hiệu lực phép lạ mà là vì lợi ích thiêng liêng cho bản thân.
Suy niệm 6: Thánh Thể
Một đặc tính của Thầy Pascal là sùng kính Thánh Thể.
Ngoài những thời giờ bận rộn vì nhiệm vụ, bất cứ khi nào có cơ hội, thầy thường dành để cầu nguyện trước Thánh Thể. Cũng thế việc cầu nguyện trước Thánh Thể chiếm nhiều thời giờ và năng lực của Thánh Phanxicô. Hầu hết các lá thư của thánh nhân đều thúc giục sự sùng kính Thánh Thể. Thánh Pascal cũng noi gương đó.
Một giờ cầu nguyện trước Thánh Thể có thể dạy bảo chúng ta rất nhiều điều. Một số người Công Giáo đạo đức ngày nay thấy rằng công việc của họ được phong phú hóa là nhờ những giây phút dành để cầu nguyện và chiêm niệm trước Thánh Thể.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con càng ngày gia tăng lòng mộ mến bí tích Thánh Thể, để dành nhiều thì giờ hơn cho công việc này.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 16/5 Thánh Simon Stock (1165 - 1265)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Simon Stock (1165 - 1265)
Thánh Simon Stock đã giúp thay đổi dòng Cát Minh từ hình thức ẩn tu sang hình thức tu sĩ khất thực, cai quản nhà dòng với sự thánh thiện và khôn ngoan, và đã phát triển dòng từ Anh Quốc ra khắp Âu Châu…
Lược sử
Thánh Simon Stock sinh ở Kent, nước Anh năm 1165. Chúng ta không được biết gì nhiều về thời niên thiếu của thánh nhân, ngoại trừ một truyền thuyết nói rằng tên "Stock", có nghĩa "thân cây", do bởi ngay từ khi mười hai tuổi, thánh nhân đã sống ẩn dật trong chỗ lõm sâu của thân cây sồi. Và khi trưởng thành ngài hành hương đến Đất Thánh là nơi ngài gia nhập nhóm tu sĩ Cát Minh và sau đó theo họ về Âu Châu.
Thánh Simon Stock thành lập nhiều cộng đoàn Cát Minh, nhất là trong các khuôn viên Đại Học như Cambridge, Oxford, Paris, và Bologna, và ngài là người đã giúp thay đổi dòng Cát Minh từ hình thức ẩn tu sang hình thức tu sĩ khất thực. Năm 1254, ngài được chọn làm Bề Trên Tổng Quyền của Dòng ở Luân Đôn. Thánh Simon cai quản nhà dòng với sự thánh thiện và khôn ngoan, và đã phát triển dòng từ Anh Quốc ra khắp Âu Châu nhờ nhân đức của ngài cũng như ơn nói tiên tri và làm phép lạ.
Thánh Simon Stock thường được nhắc đến qua một thị kiến ngài được thấy ở Cambridge, Anh Quốc, ngày 16 tháng Bảy năm 1251, lúc đó Dòng Cát Minh đang bị đàn áp. Trong thị kiến ấy, Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra với thánh nhân, tay cầm khăn choàng mầu nâu. Đức Mẹ nói: "Hỡi con yêu dấu, hãy nhận lấy khăn choàng này của Dòng con; đó là dấu hiệu đặc biệt nói lên lòng quý mến của Mẹ đã dành cho con và con cái Dòng Cát Minh. Những ai từ trần khi mang khăn này sẽ không bị lửa đời đời. Đó là phù hiệu của sự cứu chuộc, là khiên thuẫn khi gặp nguy hiểm, và là lời hứa được bảo vệ và sự bình an đặc biệt."
Thánh Simon từ trần ở Bordeaux, nước Pháp ngày 16 tháng Năm 1265. Dù Thánh Simon Stock chưa bao giờ được chính thức phong thánh, nhưng ngài được sùng kính từ lâu và Tòa Thánh cho phép cử hành lễ kính ngài.
Suy niệm 1: Tên
Chúng ta không được biết gì nhiều về thời niên thiếu của Thánh Simon Stock, ngoại trừ một truyền thuyết nói rằng tên "Stock", có nghĩa "thân cây".
Ngài có tên như thế là do bởi ngay từ khi mười hai tuổi, thánh nhân đã sống ẩn dật trong chỗ lõm sâu của thân cây sồi.
Hình ảnh thân cây làm nên tên ngài diễn tả phần nào con người của ngài. Phần bị mất khiến thân cây bị lõm sâu muốn nói lên tinh thần từ bỏ các đam mê trần tục và hy sinh các quyền lợi chính đáng nhưng nguy hiểm để sống đời ẩn dật trong rừng sâu. Thân cây với nhựa sống dồi dào với các ưu điểm là nhân đức, cũng như ơn nói tiên tri và làm phép lạ đã làm trổ sinh nhiều cành cây là các cộng đoàn Cát Minh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống đúng và xứng với tên kitô hữu của chúng con.
Suy niệm 2: Thành lập
Thánh Simon Stock thành lập nhiều cộng đoàn Cát Minh.
Chẵng những ngài thành lập nhiều cộng đoàn Cát Minh, nhất là trong các khuôn viên Đại Học như Cambridge, Oxford, Paris, và Bologna, mà nhất là có thể nói ngài là người đã giúp thay đổi dòng Cát Minh từ hình thức ẩn tu sang hình thức tu sĩ khất thực.
Không dừng lại ở đó, vào năm 1254, ngài được chọn làm Bề Trên Tổng Quyền của Dòng ở Luân Đôn. Thánh Simon cai quản nhà dòng với sự thánh thiện và khôn ngoan, và đã phát triển dòng từ Anh Quốc ra khắp Âu Châu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức tầm quan trọng của việc sống thánh trong việc thánh hóa môi trường và tha nhân.
Suy niệm 3: Phát triển
Thánh Simon cai quản nhà dòng với sự thánh thiện và khôn ngoan, và đã phát triển dòng từ Anh Quốc ra khắp Âu Châu nhờ nhân đức của ngài cũng như ơn nói tiên tri và làm phép lạ.
Theo đó sự phát triển lớn mạnh của nhà dòng là do hai yếu tố cơ bản: sự phối hợp hòa điệu giữa sự thánh thiện và khôn ngoan cũng như nhân đức của Thánh Simon và ơn nói tiên tri và làm phép lạ mà Chúa ban cho ngài.
Sự phát triển lớn mạnh của cộng đoàn tín hữu sơ khai với số lượng khoảng ba ngàn người theo đạo chỉ sau một bài giảng của Tông Đồ Phêrô (Cv 2,41) chắc chắn cũng nhờ vào lòng can đảm rao giảng của ngài, nhưng đồng thời cũng nhờ vào sự trợ giúp của ơn Chúa, qua phép lạ làm cho mọi người hiện diện đều nghe như tiếng mẹ đẻ, dầu lời phát ra chỉ là tiếng địa phương của phát ngôn nhân (Cv 2,5-11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín: không có Chúa thì chúng con không làm được điều gì tốt.
Suy niệm 4: Thị kiến
Thánh Simon Stock thường được nhắc đến qua một thị kiến ngài được thấy.
Trong thị kiến ấy, Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra với thánh nhân, tay cầm khăn choàng mầu nâu. Đức Mẹ nói: "Hỡi con yêu dấu, hãy nhận lấy khăn choàng này của Dòng con; đó là dấu hiệu đặc biệt nói lên lòng quý mến của Mẹ đã dành cho con và con cái Dòng Cát Minh. Những ai từ trần khi mang khăn này sẽ không bị lửa đời đời. Đó là phù hiệu của sự cứu chuộc, là khiên thuẫn khi gặp nguy hiểm, và là lời hứa được bảo vệ và sự bình an đặc biệt".
Khăn choàng (do bởi tiếng Latinh, scapula, có nghĩa "xương bả vai") gồm hai mảnh vải, một mảnh ở trước ngực và mảnh kia ở đằng sau, được nối với nhau bằng dây vải bắt ngang qua vai. Trong một số dòng tu, các tu sĩ nam nữ mặc khăn choàng dài từ vai đến gót chân như áo khoác ngoài. Giáo dân thường mang khăn choàng bên trong quần áo thường; gồm hai mảnh vải chỉ độ vài phân vuông mà người Việt chúng ta thường gọi là "áo Đức Bà".
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con qua Đức Maria một hình thức đạo đức có lợi cho phần rỗi linh hồn.
Suy niệm 5: Áo Đức Bà
Hỡi con yêu dấu, hãy nhận lấy khăn choàng này của Dòng con.
Khăn choàng này người Việt chúng ta thường gọi là "áo Đức Bà". Tuy bất cứ ai cũng có thể mặc "áo Đức Bà" nhưng phải có một linh mục cử hành nghi thức này.
Ngoài ra, phải mang "áo Đức Bà" một cách xứng đáng, nếu quên không mang áo này trong một thời gian, lợi ích sẽ không còn. Giáo Hội Công Giáo cho phép sử dụng mười tám loại "áo Đức Bà" khác nhau thường làm bằng nỉ mầu nâu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có mang “áo Đức Ba” thì mang một cách xứng đáng, và mang mãi không bao giờ quên.
Suy niệm 6: Chính thức
Dù Thánh Simon Stock chưa bao giờ được chính thức phong thánh, nhưng ngài được sùng kính từ lâu và Tòa Thánh cho phép cử hành lễ kính ngài.
Mọi kitô hữu đã chết sau khi nhận Phép Rửa, nếu họ không có gì cần thanh luyện... thì các linh hồn này đã, đang và sẽ được ở trên trời trong Nước Trời và trong Thiên đàng cùng Đức Kitô, được nhập đoàn các thánh thiên thần... được xem thấy Thiên Chúa trực tiếp (Sách Giáo Lý số 1023). Như thế Simon đã là thánh nhân trước mặt Chúa, cho dù trước mặt người đời, ngài chưa bao giờ được chính thức phong thánh.
Thật vậy, việc Hội Thánh công bố mầu nhiệm Phục Sinh nơi các ngài (tức chính thức phong thánh)... nhằm trình bày cho các tín hữu những gương mẫu của các ngài, để các gương sáng này lôi kéo mọi người đến với Chúa Cha qua Chúa Kitô; và nhờ công nghiệp các ngài, Hội Thánh lãnh nhận được những hồng ân của Thiên Chúa (Sách Giáo Lý số 1173). Nhưng không hẳn tất cả đều được chính thức phong thánh, vì thế có một lễ chung cho các thánh nhân vô danh được mừng hàng năm được gọi là Lễ Chư Thánh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm sống thánh trước mặt Chúa, còn việc được Hội Thánh chính thức phong thánh hay không, không quan trọng.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 15/5 Thánh Isidore (1070 - 1130)
- Ngày 14/5 Thánh Matthias
- Ngày 13/5 Thánh Pancratius (c. 304)
- Ngày 12/5 Thánh Nereus và Thánh Achilleus (thế kỷ I)
- Ngày 11/5 Thánh Y-Nhã ở Laconi (1701 - 1781)
- Ngày 10/5 Chân Phước Damien ở Molokai (1840 - 1889)
- Ngày 09/5 Thánh Catarina ở Bôlônha (1413 -- 1463)
- Ngày 06/5 Thánh Ðaminh Saviô (c. 1857)
- Ngày 06/5 Chân Phước Gerard ở Lunel (thế kỷ 13)
- Ngày 04/5 Thánh Peregrine (1265 -- 1345)