Gương Thánh Nhân
Ngày 27/6 Thánh Cyril ở Alexandria (376?-444)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Cyril ở Alexandria (376?-444)
Ngài là thần học gia sáng chói nhất của truyền thống Alexandria. Văn bút của ngài có đặc tính chính xác về tư tưởng, lập trường rõ ràng, và lý luận sắc bén. Ngài đã viết nhiều luận án làm sáng tỏ học thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Nhập Thể nhằm ngăn chặn lạc thuyết Nestorius và Pelagian.
Lược sử
Thánh Cyril sinh ở Alexandria, Ai Cập. Ngài là cháu của Đức Theophilus, thượng phụ của Alexandria. Sau khi học xong kinh điển và thần học, ngài được chính bác của mình tấn phong linh mục và tháp tùng Đức Theophilus đến Constantinople để tham dự Thượng Hội Đồng Oak nhằm truất phế Đức Gioan Kim Khẩu (sau này mới biết là bị kết tội oan).
Khi Đức Theophilus từ trần vào năm 412, ngài lên kế vị bác của mình sau cuộc tranh đấu với phe ủng hộ người đối thủ là Timotheus. Ngay sau khi lên ngôi, Đức Cyril bắt đầu tấn công lạc thuyết Novatianô.
Vào năm 430, Đức Cyril lại xung đột với Nestorius, thượng phụ của Constantinople.
Vào năm 431, Đức Giáo Hoàng Celestine ra lệnh cho Đức Cyril truất phế Nestorius. Trong Đại Công Đồng Ephêsô lần thứ ba, với sự tham dự của hai trăm giám mục và dưới sự chủ tọa của Đức Cyril, công đồng đã lên án mọi giáo thuyết của Nestorius là sai lầm trước khi Đức Tổng Giám Mục Gioan ở Antiôkia và bốn mươi hai môn đệ ủng hộ giáo thuyết của Nestorius kịp đến tham dự. Khi thấy mọi sự đã lỡ, họ tổ chức một công đồng riêng để truất phế Đức Cyril. Hoàng Đế Theodosius II bắt giữ cả hai người, Đức Cyril và Nestorius nhưng sau đó đã trả tự do cho Đức Cyril khi các đại diện của đức giáo hoàng xác nhận các quyết định của công đồng.
Hai năm sau, Đức Tổng Giám Mục Gioan, đại diện cho các giám mục ôn hòa ở Antiôkia, đã ký kết một thỏa ước với Đức Cyril và cùng lên án Nestorius. Trong quãng đời còn lại, Đức Cyril đã viết nhiều luận án làm sáng tỏ học thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Nhập Thể nhằm ngăn chặn lạc thuyết Nestorius và Pelagian khỏi ăn sâu vào cộng đồng Kitô Hữu.
Ngài là thần học gia sáng chói nhất của truyền thống Alexandria. Văn bút của ngài có đặc tính chính xác về tư tưởng, lập trường rõ ràng, và lý luận sắc bén. Các văn bản của ngài gồm các nhận định về Thánh Gioan, Thánh Luca, và ngày lễ Ngũ Tuần, các luận thuyết về thần học tín lý, cũng như các thư từ và bài giảng. Ngài được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên xưng là tiến sĩ Giáo Hội vào năm 1882.
Suy niệm 1:. Tranh đấu
Khi Đức Theophilus từ trần vào năm 412, Đức Cyril lên kế vị bác của mình sau cuộc tranh đấu với phe ủng hộ người đối thủ là Timotheus.
Có thể nói cuộc đời của Đức Cyril là một cuộc đời tranh đấu không ngừng. Ngài phải tranh đấu dể được lên ngôi, rồi từ đó phải tiếp tục tranh đấu với lạc thuyết Novatianô, phải ngăn chặn lạc thuyết Nestorius và Pelagian khỏi ăn sâu vào cộng đồng Kitô Hữu.
Để thực hiện cuộc tranh đấu cho người Kitô hữu và vì cộng đồng Kitô Hữu, ngài đã phải tranh đấu trước hết với chính bản thân mình. Ngài không tìm an nhàn và yên thân để đồng lõa với các lạc thuyết, mà ngài nhọc công đào sâu đức tin chính truyền để đả phá các học thuyết sai lầm, để rồi chấp nhận bị họ chống đối đến mức đòi truất phế, cũng như bị giam cầm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết xã thân cứu người và cứu đời dầu có phải tranh đầu với quỷ ma suốt đời.
Suy niệm 2: Lạc thuyết Novatianô
Đức Cyril bắt đầu tấn công lạc thuyết Novatianô với việc đóng cửa các nhà thờ; đuổi những người Do Thái ra khỏi thành phố; và phản bác một số hành động của quan đầu tỉnh Orestes là người theo phe Novatianô.
Lạc thuyết Novatianô chủ trương chối bỏ hiệu năng của bí tích Giải Tội. Và lý do khiến xảy ra lạc thuyết này là do Novatianô không chịu từ chức để trao quyền cho vị đắc cử. Dĩ nhiên lạc thuyết này đã bị Đức Giáo Hoàng Cornêliô kết án.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn kiên vững niềm tin bằng việc siêng năng đi lãnh nhận bí tích Giải Tội.
Suy niệm 3: Lạc thuyết Nestorius
Vào năm 430, Đức Cyril lại xung đột với Nestorius, thượng phụ của Constantinople Nestorius là người cho rằng Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa vì Đức Kitô là Thiên Chúa chứ không phải con người, hậu quả là không thể dùng chữ theotokos (người-mang-Thiên-Chúa) áp dụng cho Đức Maria. Đức Cyril thuyết phục được Đức Giáo Hoàng Celestine I triệu tập một công đồng ở Rôma nhằm lên án Nestorius, và chính ngài cũng hành động tương tự trong công đồng Alexandria.
Vào năm 431, Đức Giáo Hoàng Celestine ra lệnh cho Đức Cyril truất phế Nestorius. Trong Đại Công Đồng Ephêsô lần thứ ba, với sự tham dự của hai trăm giám mục và dưới sự chủ tọa của Đức Cyril, công đồng đã lên án mọi giáo thuyết của Nestorius là sai lầm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn vững tin Đức Maria là Mẹ của Chúa và cũng là Mẹ Thiên Chúa.
Suy niệm 4: Thiên Chúa Ba Ngôi
Đức Cyril đã viết nhiều luận án làm sáng tỏ học thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Nhập Thể.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống kitô hữu. Đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa, cội nguồn phát sinh mọi mầu nhiệm khác của đức tin và là ánh sáng chiếu soi các mầu nhiệm ấy. Đây là giáo huấn căn bản nhất và trọng yếu nhất theo "phẩm trật các chân lý đức tin". Trọn lịch sử cứu độ chỉ là lịch sử về đường lối và các phương tiện mà Thiên Chúa chân thật và duy nhất là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dùng để tự mặc khải, để giao hòa và kết hợp với Người những ai từ bỏ tội lỗi (Sách Giáo Lý số 234).
Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm đức tin hiểu theo nghĩa chặt chẽ nhất, một trong những mầu nhiệm được ẩn giấu trong Thiên Chúa... không ai biết được nếu ơn trên không mặc khải. Chắc chắn Thiên Chúa đã để lại dấu vết của bản thể Ba Ngôi trong công cuộc tạo dựng và trong dòng mặc khải Cựu Ước. Nhưng trước cuộc nhập thể của Con Thiên Chúa và sứ vụ của Chúa Thánh Thần, mầu nhiệm Ba Ngôi vẫn là một mầu nhiệm mà nguyên lý trí của loài người và ngay của đức tin của Ítraen xưa cũng không thể vươn tới được (Sách Giáo Lý số 237).
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con tuyên xưng có một Thiên Chúa duy nhất mà Người có Ba Ngôi.
Suy niệm 5: Nhập Thể
Đức Cyril đã viết nhiều luận án làm sáng tỏ học thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Nhập Thể.
Trong sự kết hợp kỳ diệu của mầu nhiệm Nhập Thể, "bản tính nhân loại được đảm nhận, chứ không bị tan biến", nên trải qua dòng lịch sử, Hội Thánh tuyên xưng Đức Gie6su có một linh hồn thật với mọi hoạt động tri thức và ý chí, và một thân xác thật của con người. Nhưng đồng thời Hội Thánh luôn nhắc rằng bản tính nhân loại của Đức Kitô đã được Ngôi Vị thần linh của Con Thên Chúa đảm nhận, nên thộc riêng về Ngôi Vị ấy.
Trong Ngôi Vị đó, tất cả những gì là con người và hành động của Người, đều là của "một trong Ba Ngôi Thiên Chúa". Như vậy, Con Thiên Chúa thông truyền cho nhân tính Người cách thức hiện hữu riêng của bản vị mình trong Ba Ngôi. Do đó, trong linh hồn và trong thân xác Người, Đức Kitô biểu lộ theo cách thế nhân loại cung cách hành xử của Thiên Chúa Ba Ngôi (Sách Giáo Lý số 470).
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con đồng tuyên tín Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã làm người, nhưng vẫn luôn là Thiên Chúa.
Suy niệm 6: Lạc thuyết Pelagian
Đức Cyril đã viết nhiều luận án nhằm ngăn chặn lạc thuyết Nestorius và Pelagian khỏi ăn sâu vào cộng đồng Kitô Hữu.
Lạc thuyết này mang tên từ người khởi xướng là Pelagiô, vốn là một tu sĩ thuộc thế kỷ thứ năm, chủ trương rằng tự do ý muốn của con người là yếu tố quyết định về sự trọn lành của mỗi một người, và ông cho rằng con người không cần ơn của Thiên Chúa để được cứu rỗi. Và dĩ nhiên lạc thuyết này đã bị kết án tại công đồng Carthage vào năm 418 dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Zosimus..
Nhờ thập giá vinh hiển, Đức Kitô đã cứu độ tất cả mọi người. Người cứu chuộc họ khỏi ách nô lệ tội lỗi (Sách Giáo Lý số 1741). Ân sủng Đức Kitô không hề chèn ép tự do của chúng ta, khi tự do đi đúng hướng của Thiên Chúa và điều thiện mà Thiên Chúa đã đặt trong lòng con người (Sách Giáo Lý số 1742).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức rằng tự do không phải muốn nói hoặc làm gì thì nói và làm mà phải đi đúng hướng của Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 26/6 Chân Phước Raymond Lull (1235-1315)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Raymond Lull (1235-1315)
Chân Phước Raymond đã tận tụy trong việc loan truyền Phúc Âm, đặc biệt cho việc hoán cải người Hồi Giáo.
Lược sử
Hầu hết cuộc đời của Chân Phước Raymond là để giúp đỡ công cuộc truyền giáo và ngài từ trần khi truyền giáo ở Bắc Phi.
Raymond là con của một viên tướng chỉ huy ở Palma, Majorca và được làm việc dưới triều của Vua James I xứ Aragon, với công việc đại quản gia của triều đình. Tuy đã lập gia đình, nhưng Raymond vẫn còn gian díu với các thê thiếp. Một hôm khi đang viết thư cho tình nhân thì Raymond được thị kiến Đức Kitô, và năm lần tiếp đó. Sau cuộc hành hương đến Compostela và Rocamadour, ngài gia nhập dòng ba Phanxicô, chia tài sản cho vợ con và tận hiến cuộc đời còn lại cho việc hoán cải người Hồi Giáo.
Lui về đời sống ẩn dật, ngài sống như một vị ẩn tu. Sau nhiều lần thất bại, sau cùng vào năm 1311 ngài đã thành công. Chân Phước Raymond sáng tác rất nhiều.
Suy niệm 1: Truyền giáo
Hầu hết cuộc đời của Chân Phước Raymond là để giúp đỡ công cuộc truyền giáo và ngài từ trần khi truyền giáo ở Bắc Phi.
Chân Phước Raymond đã tận tụy trong việc loan truyền Phúc Âm. Sự thờ ơ của các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội cũng như sự chống đối ở Bắc Phi đã không làm ngài nản chí.
Ba trăm năm sau, hoạt động của ngài bắt đầu có ảnh hưởng ở Mỹ Châu. Khi người Tây Ban Nha bắt đầu truyền giáo ở Tân Thế Giới, họ đã theo ý tưởng của ngài và thành lập các trường truyền giáo để chuẩn bị cho công cuộc này.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nỗ lực và bền tâm gieo trồng điều lành, còn các hiệu quả khác cứ giao phó cho Chúa định liệu.
Suy niệm 2:. Thị kiến
Raymond được thị kiến Đức Kitô, và năm lần tiếp đó.
Với Saolô, chỉ cần một lần duy nhất gặp gỡ Đức Kitô trên đường đi Đamát là đủ để hoán cải và trở nên tông đồ Phaolô. Còn với Raymond thì phải kéo dài đến năm lần liên tiếp. Điều này cho thấy lòng Chúa thật nhân từ và hết mực quan tâm người tội lỗi. Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi và kiên trì mời gọi cho đến khi đạt được kết quả.
Biết thế nhưng chúng ta đừng lạm dụng tình thương của Chúa, một hãy mau mắn đáp trả và vội vã quay về, kẻo phải hối tiếc vì một khi ơn Chúa đã ban cho thì khó có thể trở lại. Đừng bàng quan xét đoán việc mấy người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết có tội hay không, mà hãy chủ quan kiểm điểm lại mình mà sám hối ăn năn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tự xét mình hơn là xét người để canh tân cuộc sống kịp thời.
Suy niệm 3: Hồi Giáo
Do bất mãn cá nhân với "tòa thánh" La Mecque, vào năm 622, Mahomet tự xưng là tông đồ và tiên tri của Allah và sáng lập Hồi Giáo, với việc chấp nhận đa thê, ly dị, chế độ nô lệ, và đường lối thực hiện là võ lực. Lập trường này đã bị Đức Giáo Hoàng Bôniphaxiô V kết án.
Raymond sau khi được thị kiến đã tận hiến cuộc đời còn lại cho việc hoán cải người Hồi Giáo. Vào năm 79 tuổi, chính Raymond đến Bắc Phi để truyền giáo. Một đám đông người Hồi Giáo đã thịnh nộ ném đá ngài ở thành phố Bougie nhưng được các thủy thủ người Genoa cứu thoát. Trên con tầu trở về nước, ngài đã từ trần khi gần đến Majorca.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dành cả cuộc đời mình để không chỉ hoán cải người khi có dịp mà nhất là hoán cải chính mình.
Suy niệm 4:. Ẩn dật
Lui về đời sống ẩn dật, ngài sống như một vị ẩn tu.
Trong thời gian chín năm, ngài viết về mọi loại kiến thức mà công trình ấy giúp ngài xứng với danh hiệu "Tiến Sĩ Khai Sáng". Với chín năm ẩn dật mà ngài đạt được danh hiệu ấy thật không phải là một giá quá đắt, vì với Đức Giêsu, chỉ với ba năm công khai hoạt động, mà Ngài phải dùng đến ba mươi năm ẩn dật để chuẩn bị.
Để trở thành vị giảng thuyết lừng danh, vị giáo sư thần học đầu tiên cho cộng đoàn, cũng như làm bao phép lạ và nhất là thánh nhân, thánh Antôn ở Pađua đã phải sống trong một nơi hiu quạnh, chấp nhận công việc rửa chén trong nhà bếp trong nhiều năm tháng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết giá trị của thời gian ẩn dật để vận dụng và sử dụng cách hữu ích cho mình và cho người.
Suy niệm 5: Thành công
Raymond thực hiện nhiều cuộc hành trình đến Âu Châu để thuyết phục các giáo hoàng, các hoàng đế và thái tử trong việc thiết lập các trường đặc biệt nhằm chuẩn bị cho các nhà thừa sai trong đại công cuộc truyền giáo.
Sau nhiều lần thất bại, sau cùng vào năm 1311 ngài đã thành công, khi Công Đồng Vienne ra lệnh cho thành lập các phân khoa dạy tiếng Do Thái, Ả Rập và Canđê tại các trường đại học Bologna, Oxford, Balê và Salamanca.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống bài học thâm thúy của trường đời: thất bại là mẹ thành công, để không bao giờ nản chí.
Suy niệm 6: Sáng tác
Chân Phước Raymond sáng tác rất nhiều.
Ngài viết trên 300 luận án về triết học, âm nhạc, hàng hải, luật pháp, thiên văn, toán học, và thần học (hầu hết bằng tiếng Ả Rập). Ngài cũng sáng tác thi văn thần nghiệm và được coi là người tiên phong của Thánh Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá trong lãnh vực này.
Sáng tác là một ơn Chúa ban, nhưng cũng là một niềm đam mê hữu ích cho cuộc sống, và đồng thời là một nghĩa cử bác ái cho tha nhân. Khi sáng tác, tác giả đòi hỏi phải động não, phải suy tư, phải nghiền ngẫm và nhất là không đánh mất thì giờ vào các việc vô ích. Những suy tư ấy dầu không phải là tuyệt tác thì cũng là một món ăn tinh thần đóng góp cho bửa tiệc tri thức thêm phong phú và dồi dào tùy nghi người dùng lựa chọn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tập luyện đức khiêm tốn qua việc sáng tác, để mạnh dạn sáng tác nhằm phục vụ cho mình và cho người.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 25/6 Chân Phước Jutta ở Thuringia (c. 1264?)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Jutta ở Thuringia (c. 1264?)
Chân Phước Jutta nhìn thấy diện mạo của Thiên Chúa trong các người bất hạnh và cảm thấy vinh dự khi được phục vụ.
Lược sử
Vị thánh quan thầy của nước Phổ sinh trong một gia đình giầu có và quyền thế nhưng từ trần cách đơn sơ như một người nghèo. Sau khi kết hôn với một người quý tộc và đạo đức, Jutta và chồng sống rất đạo hạnh, cả hai quý trọng chân lý và cố gắng trau dồi nhân đức.
Trong một cuộc hành hương đến các thánh địa ở Giêrusalem, người chồng lâm bệnh và từ trần. Bà quả phụ Jutta ở vậy nuôi con. Sau khi con cái đã khôn lớn và có đủ nhu cầu cho đời sống, bà Jutta quyết định sống một cuộc đời chỉ để làm vui lòng Thiên Chúa. Bà bán mọi y phục, nữ trang, đồ đạc đắt tiền và gia nhập dòng Phanxicô Thế Tục, với chiếc áo dòng tầm thường.
Kể từ đó trở đi, cuộc đời bà tận tụy cho tha nhân: chăm sóc người đau yếu, nhất là người bị cùi; lo cho người nghèo ngay ở các lều tranh lụp xụp của họ; giúp đỡ người tàn tật và mù lòa mà bà cho họ sống ngay trong nhà. Nhiều người quý tộc thời ấy đã cười nhạo bà Jutta là không biết dùng thời giờ cho đúng. Nhưng bà Jutta đã nhìn thấy diện mạo của Thiên Chúa trong các người bất hạnh và cảm thấy vinh dự khi được phục vụ.
Vào khoảng năm 1260, trước khi từ trần không lâu, bà Jutta sống gần các người ngoại đạo ở miền đông nước Đức. Ở đó, bà dựng 1 mái nhà đơn sơ và không ngừng cầu nguyện cho sự hoán cải của những người chung quanh. Trong nhiều thế kỷ, bà được sùng kính như vị quan thầy đặc biệt của nước Phổ.
Suy niệm 1: Giầu có
Vị thánh quan thầy của nước Phổ sinh trong một gia đình giầu có và quyền thế nhưng từ trần cách đơn sơ như một người nghèo. Bản Hiến Chương Nước Trời với tám mối phúc thật của Đức Giêsu vạch ra một hướng sống hạnh phúc đi ngược hoàn toàn với quan niệm người đời.
Phúc cho người nghèo, trong khi ai cũng sợ nghèo và mơ được giàu có. Phúc cho người ăn ở hiền lành, trong khi thực tế cho hay người hiền thường chịu thiệt thòi và kẻ thắng mới được làm vua...
Phải chăng đó là ảo tưởng vì không ai thực hiện được và chấp nhận sống theo? Chân phước Jutta đã cho câu trả lời xác thực. Xuất thân từ một gia đình giàu có và quyền thế, nhưng ngài không bị cuốn theo dòng xoáy ấy, cho dầu bị giới quý tộc thời ấy cười nhạo, ngược lại ngài đạt được hạnh phúc trong lối sống nghèo ngay ở đời này và đi vào cõi phúc ở đời sau.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết thực hiện ước mơ hạnh phúc không theo quan niệm người đời mà theo hướng sống của Chúa.
Suy niệm 2: Nghèo
Vị thánh quan thầy của nước Phổ sinh trong một gia đình giầu có và quyền thế nhưng từ trần cách đơn sơ như một người nghèo.
Để có thể chết như một người nghèo, Jutta đã thật sự sống như một người nghèo. Để làm vui lòng Chúa, Đấng vốn giàu có trở nên nghèo khó (2Cr 8,9), dầu giàu có, bà bán mọi y phục, nữ trang, đồ đạc đắt tiền và gia nhập dòng Phanxicô Thế Tục, với chiếc áo dòng tầm thường.
Là người nghèo, bà có thể dễ dàng đến với người nghèo và sống cho người nghèo, đặc biệt người ngoại đạo ở miền đông nước Đức. Ở đó, bà dựng một mái nhà đơn sơ và không ngừng cầu nguyện cho sự hoán cải của những người chung quanh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chấp nhận kiếp nghèo của cải vật chất nhưng thật giàu lòng thương người.
.Suy niệm 3: Đạo hạnh
Jutta và chồng sống rất đạo hạnh, cả hai quý trọng chân lý và cố gắng trau dồi nhân đức.
Là người đạo hạnh, cả hai vợ chồng rất quý trọng chân lý. Cả hai đều hết mực sống đức chung thủy trong bậc hôn nhân kitô giáo, đến mức khi chồng qua đời, bà Jutta vẫn sống đời góa bụa nuôi con chứ không tái giá, để thể hiện lòng trung thành với chồng đến chết.
Là người đạo hạnh, cả hai vợ chồng luôn cố gắng trau dồi nhân đức. Với điều kiện kinh tế sẵn có, họ không quản ngại đường xa cách trở, họ hy sinh thì giờ để lên đường tham gia các cuộc hành hương, để cầu nguyện và học đòi các nhân đức nơi các thánh tích. Và trong một cuộc hành hương đến các thánh địa ở Giêrusalem, người chồng đã lâm bệnh và từ trần.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đi đâu hoặc gặp ai thì cũng đều chú tâm học hỏi các nhân đức để mỗi ngày mỗi nên hoàn thiện hơn.
Suy niệm 4: Quả phụ
Bà quả phụ Jutta ở vậy nuôi con.
Là người Á Đông, chúng ta quá quen thuộc với câu nói liên quan đến nghĩa vợ chồng trong nếp sống gia đình: Phu tử tòng tử, có nghĩa là chồng chết rồi thì ở góa vậy để thờ chồng và nuôi con. Lời răn dạy này cũng được đón nhận cách trân trọng trong xã hội Việt Nam trải qua bao thế kỷ với không thiếu những trường hợp ngay cả các góa phụ còn trẻ tuổi.
Đã là điều hay điều tốt thì mang tính phổ quát, nghĩa là ở đâu cũng vậy. Vì thế trong một cuộc hành hương đến các thánh địa ở Giêrusalem, người chồng đã lâm bệnh và từ trần. Bà Jutta đã chấp nhận ở vậy chứ không tái giá để nuôi con. Một đàng bà muốn nói lên lòng chung thủy tuyệt đối của bà với chồng vượt xa cả rào cản của quy luật hôn nhân, và nhất là bà muốn thể hiện tình yêu đối với chồng, để thay chồng và cùng với chồng dầu vắng bóng tiếp tục bổn phận giáo dục con cái nên người.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không sống nệ luật với những gì cấm đoán hoặc cho phép mà phải vươn xa hơn đến tình yêu trọn hảo.
Suy niệm 5: Tha nhân
Kể từ đó trở đi, cuộc đời bà Jutta tận tụy cho tha nhân.
Bà chăm sóc người đau yếu, nhất là người bị cùi. Sự dị dạng của thân thể do căn bệnh hủy hoại không làm bà e sợ hay chùn bước. Các vết thương ung thối và lở loét không làm bà ghê tỡm hoặc ngại bị lây nhiễm. Lòng thương người cao độ của bà đã lướt thắng tất cả.
Hơn thế bà còn tìm đến tận nơi bất kể thời tiết và đường sá không tốt lành, để lo cho người nghèo ngay ở các lều tranh lụp xụp của họ; bà sẵn lòng giúp đỡ người tàn tật và mù lòa đến mức đón rước họ về nhà và bà cho họ sống ngay trong nhà. Tất cả cũng chỉ vì tình yêu tha nhân cao độ của bà.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tìm biết thương người hơn được người thương mến.
Suy niệm 6: Phục vụ
Bà Jutta đã nhìn thấy diện mạo của Thiên Chúa trong các người bất hạnh và cảm thấy vinh dự khi được phục vụ.
Sở dĩ bà Jutta có lòng thương người cao độ bằng các việc bác ái phi thường nhằm phục vụ các người bất hạnh, là nhờ bà nắm được bí quyết then chốt là nhìn thấy diện mạo của Thiên Chúa trong các người bất hạnh, điều mà Đức Giêsu đã từng dạy bảo, cụ thể trong cuộc phán xét được Tin Mừng Mátthêu ghi lại ở chương 25.
Như thế ai cũng thừa biết được rằng giúp người là giúp Chúa. Nhưng ít có ai khám phá thêm như bà Jutta: đó là một niềm vinh hạnh mà Chúa ban cho. Vì tự bản chất, Chúa quá đầy đủ để không cần có ai trợ giúp. Thế nhưng Chúa tạo nên cách ấy để cho con người có cơ hội tạo nên công nghiệp như là giá mua lấy phần phúc thiên đàng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chẳng những nhận ra Chúa nơi tha nhân mà còn lấy làm vinh dự được phục vụ, để nhờ đó chúng con không đánh mất cơ hội nào tạo nên công nghiệp.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 24/6 Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
Thánh Gioan được sai đi chuẩn bị con đường cho Chúa Giêsu. Lời rao giảng của ngài thách đố mọi Kitô Hữu chúng ta hãy có lối sống xứng hợp của những người theo Ðức Kitô...
Lược sử
Đức Giêsu gọi Gioan là người cao trọng nhất trong tất cả mọi người và là người đến trước Ngài: "Ta nói với các ngươi, trong những người sinh ra bởi phụ nữ, không ai cao trọng hơn Gioan..." Nhưng có lẽ Thánh Gioan sẽ hoàn toàn đồng ý với điều Đức Giêsu nói thêm sau đó: "Tuy nhiên, người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông ta" (Luca 7:28).
Có một thời gian Thánh Gioan sống trong sa mạc, là vị ẩn tu. Ngài loan báo nước trời đã gần đến, và mời gọi mọi người hoán cải đời sống. Mục đích của ngài là chuẩn bị con đường cho Đức Giêsu. Ngài nói, phép rửa của ngài là để ăn năn sám hối. Nhưng Đấng sắp đến sẽ rửa với Thần Khí và lửa. Gioan không xứng đáng để xách dép cho Người. Thái độ của Thánh Gioan đối với Đức Giêsu là: "Ngài phải gia tăng; tôi phải nhỏ đi" (Gioan 3:30).
Trong khi thanh tẩy những kẻ tội lỗi, Thánh Gioan đã khiêm tốn nhận ra Đấng Thiên Sai và nói: "Tôi cần được thanh tẩy bởi Ngài" (Mt 3:14b). Nhưng Đức Giêsu nhất định, "Hãy tiếp tục thi hành, vì như vậy chúng ta mới giữ trọn đức công chính" (Mt 3:15b).
Sự cao trọng của Thánh Gioan, một địa vị then chốt trong lịch sử cứu chuộc, được nhận thấy qua tường thuật của Thánh Luca về sự sinh hạ và các biến cố sau đó của Thánh Gioan -- cả hai yếu tố này đều xảy ra song song với cuộc đời của Đức Giêsu.
Có lẽ Thánh Gioan không nghĩ là Nước Trời được hoàn tất một cách tuyệt hảo trong sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu. Vì bất cứ lý do gì, (trong khi ở tù) ngài đã sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu xem có phải Người là Đấng Thiên Sai hay không. Câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy Đấng Thiên Sai mang hình ảnh Người Tôi Tớ Đau Khổ trong sách tiên tri Isaia. Chính Thánh Gioan cũng đã chia sẻ trong sự đau khổ của Đấng Cứu Tinh, ngài đã chết vì sự trả thù của Herodias.
Suy niệm 1: Cao trọng
Đức Giêsu gọi Gioan là người cao trọng nhất trong tất cả mọi người và là người đến trước Ngài. Thánh Gioan thách đố mọi Kitô Hữu chúng ta hãy có lối sống xứng hợp của những người theo Đức Kitô -- hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Ngoại trừ Mẹ Thiên Chúa, không ai có chức năng cao cả hơn trong việc khai mở ơn cứu độ.
Tuy nhiên, Đức Giêsu nói, người bé mọn nhất Nước Trời còn cao trọng hơn Thánh Gioan, vì chính ơn sủng tinh tuyền nhất mà Thiên Chúa Cha đã ban cho. Sự khắc khổ cũng như sự nổi tiếng của Thánh Gioan, khi ngài can đảm tố giác những điều xấu xa -- tất cả là bởi ngài tận hiến triệt để và hoàn toàn cuộc đời ngài cho thánh ý Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra và sống ơn sủng tinh tuyền nhất mà Thiên Chúa Cha đã ban cho, nhờ đó mà chúng con vốn là những người bé mọn nhất Nước Trời lại được trở nên cao cả.
Suy niệm 2: Ẩn tu
Có một thời gian Thánh Gioan sống trong sa mạc, là vị ẩn tu. Tin Mừng theo Thánh Macô và Thánh Matthêu diễn tả con người của Thánh Gioan như một vị ẩn tu. Ngài mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng.
Phần đầu của Tin Mừng Luca chương 3 lại diễn tả Thánh Gioan một con người cương quyết với lời lẽ của một vị ẩn tu như đinh đóng cột đã khiến dân chúng tưởng ông là Êlia hay một tiên tri nào khác. "Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt và quăng vào lửa"- "Ai có hai áo thì chia cho người không có. Ai có ăn thì cũng hãy làm như vậy".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tinh thần của một vị ẩn tu dầu đang phải sinh hoạt trong môi trường xã hội nhân gian.
Suy niệm 3: Chuẩn bị
Mục đích của Gioan Tẩy Giả là chuẩn bị con đường cho Đức Giêsu. Với sứ mạng tiền hô gói ghém trong tên gọi, ngài chuẩn bị cho mình bằng việc tu thân trong sa mạc cô tịch suốt thời niên thiếu và trai trẻ trước khi xuất hiện với hoạt động công khai.
Với sứ mạng chuẩn bị, ngài thu hút được rất nhiều người đến bờ sông Giođan, và một số người đã coi ngài như Đấng Thiên Sai. Nhưng ngài không giữ lại cho mình mà luôn luôn chỉ đến Đức Giêsu, ngay cả một số môn đệ của ngài cũng được sai đến để trở thành các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Và cuối cùng ngài cũng rút lui hoàn toàn bằng cái chết trong tù ngục để nhường chỗ cho Đức Giêsu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống đúng chức năng của mình là không giữ lại cho mình gì cả mà tất cả phải trao trọn vẹn về cho Chúa.
Suy niệm 4: Sám hối
Thánh Gioan nói: phép rửa của ngài là để ăn năn sám hối. "Điều này không chỉ đúng có một lần từ lâu trong quá khứ. Nó luôn luôn đúng, vì điều ngài kêu gọi là sự sám hối và đó luôn luôn là con đường dẫn vào Nước Trời. Ngài không phải là một nhân vật mà chúng ta có thể quên đi vì Đức Giêsu, sự sáng thật, đã xuất hiện.
Thánh Gioan luôn luôn xứng hợp vì ngài kêu gọi sự chuẩn bị mà tất cả mọi người cần phải thi hành. Do đó, hàng năm có bốn tuần lễ trong lịch trình Giáo Hội để chúng ta lắng nghe tiếng gọi của Thánh Gioan Tẩy Giả. Đó là các tuần Mùa Vọng" (Giáo Lý Công Giáo).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết sống tinh thần sám hối mỗi ngày, do thân phận vô nhân thập toàn của mình.
Suy niệm 5: Khiêm tốn
Trong khi thanh tẩy những kẻ tội lỗi, Thánh Gioan đã khiêm tốn nhận ra Đấng Thiên Sai. Ngài nói: "Tôi cần được thanh tẩy bởi Ngài" (Mt 3,14b). Nhưng Đức Giêsu nhất định, "Hãy tiếp tục thi hành, vì như vậy chúng ta mới giữ trọn đức công chính" (Mt 3,15b). Sự khiêm tốn của ngài được biểu lộ qua việc ngài thực thi như lời Đức Giêsu dạy. Với quần chúng, khi được hỏi thì ngài với tâm tình tự hạ dọn đường cho Chúa Kitô, ngài trả lời: "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa. Hãy sửa đường cho thẳng để Chúa đi....Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người" (Jn 1,23.27).
Đức Giêsu, một con người đích thực và khiêm tốn cũng là Thiên Chúa hằng hữu, đã sẵn sàng thi hành bổn phận của bất cứ ngươi Do Thái tốt lành nào. Thánh Gioan như vậy đã công khai đi vào tập thể của những người đang chờ đợi Đấng Thiên Sai. Nhưng khi tự trở nên một phần tử của cộng đồng ấy, quả thực ngài thuộc về Đấng Cứu Tinh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tâm tình khiêm tốn tự hạ để xứng được liệt vào dòng dõi của Chúa.
Suy niệm 6: Sinh hạ
Sự cao trọng của Thánh Gioan, một địa vị then chốt trong lịch sử cứu chuộc, được nhận thấy qua tường thuật của Thánh Luca về sự sinh hạ và các biến cố sau đó của Thánh Gioan. Ngày sinh nhật kỳ diệu của Thánh Gioan được bao quanh bởi các biến cố cũng thật diệu kỳ. Cả hai phụ mẫu mang tiếng là hiếm muộn ngay từ thời trẻ trung có thể sinh con, nay đến tuổi già nua không thể có con theo định luật nhân thế thường tình thì nay lại mang thai và sinh hạ Gioan.
Đang là thai nhi trong dạ mẫu thân, Gioan lại được đặc ân sạch tội nguyên tổ nhân cuộc thăm viếng của Đức Maria và thai nhi Giêsu. Vào ngày đặt tên, thân phụ Dacaria được xóa bỏ hình phạt bị câm, để có thể cất tiếng ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tô điểm ngày sinh nhật trên đời của chúng con bằng cuộc đời lành thánh để có được ngày sinh nhật trên trời.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 23/6 Thánh Giuse Cafasso (1811-1860)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giuse Cafasso (1811-1860)
Việc sùng kính Thánh Thể đã đem lại nhiệt huyết cho các hoạt động của Thánh Giuse Cafasso.
Lược sử
Thánh Giuse Cafasso là một trong những linh mục thánh thiện có chân trong tổ chức Dòng Ba Phanxicô. Cha mẹ ngài là nông dân ở vùng Piedmont, nước Ý.
Ngay khi còn là một thanh niên, Giuse Cafasso đã yêu quý Thánh Lễ và nổi tiếng về sự khiêm tốn cũng như hăng say cầu nguyện. Sau khi thụ phong linh mục năm 1833, ngài được bổ nhiệm về một chủng viện ở Turin. Ở đây ngài hoạt động đặc biệt chống với ảnh hưởng của lạc thuyết Jansen và sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của Giáo Hội. Cha Giuse dùng phương cách của Thánh Francis "de Sales" và Thánh Anphong Liguori để điều hòa sự khắc khổ quá đáng mà thời ấy rất phổ thông trong các chủng viện.
Cha Giuse đề nghị các linh mục tham dự vào Dòng Ba Phanxicô. Ngài thúc đẩy việc sùng kính Thánh Thể và khuyến khích rước lễ hàng ngày. Ngoài nhiệm vụ dạy học, Cha Giuse còn là một người giảng thuyết có tài, là cha giải tội nhân từ và là bậc thầy tổ chức tĩnh tâm. Nổi tiếng về hoạt động của ngài với các tử tù, Cha Giuse đã giúp nhiều tù nhân chết lành trong ơn nghĩa của Chúa.
Cha Gioan Bosco là một trong những học trò của Cha Giuse. Chính ngài khuyến khích Cha Gioan Bosco thành lập dòng Salesian để hoạt động cho giới trẻ ở Turin.
Cha Giuse từ trần ngày 23 tháng Sáu ở Turin và được phong thánh năm 1947.
Suy niệm 1: Thánh Lễ
Ngay khi còn là một thanh niên, Giuse Cafasso đã yêu quý Thánh Lễ và nổi tiếng về sự khiêm tốn cũng như hăng say cầu nguyện.
Đến nhà thờ vào các giờ lễ sáng nhất là ngày thường, chúng ta ít gặp thấy sự hiện diện của tầng lớp thanh niên. Trường hợp của Giuse Cafasso đang sốt sắng tham dự Thánh Lễ hằng ngày thật là ngoại lệ, chẳng qua vì chàng thanh niên này dạt dào tâm tình yêu quý Thánh Lễ.
Không lạ gì khi được thụ phong linh mục, một hoạt động đặc biệt và nỗi bật của ngài là hết sức nỗ lực chống lại với ảnh hưởng của lạc thuyết Jansen, vốn chủ trương bản tính loài người quá hư hỏng vì tội nguyên tổ nên không có khả năng chống lại sự cám dỗ, không xứng đáng được rước lễ thường xuyên. Ngài thúc đẩy việc siêng năng đi tham dự Thánh Lễ và khuyến khích rước lễ hàng ngày.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn dị ứng với lạc thuyết Jansen, bằng việc sống tinh thần của thánh Giuse Cafasso.
Suy niệm 2: Thánh Thể
Ngài thúc đẩy việc sùng kính Thánh Thể và khuyến khích rước lễ hàng ngày.
Việc sùng kính Thánh Thể đã đem lại nhiệt huyết cho các hoạt động của Thánh Giuse Cafasso. Trong lịch sử Giáo Hội, sự sùng kính Thánh Thể là đặc tính của nhiều người Công Giáo gương mẫu, trong số đó có Thánh Phanxicô Assisi, Đức Giám Mục Fulton Sheen, Đức Hồng Y Joseph Bernardin và Mẹ Têrêsa Calcutta.
Để thể hiện lòng sùng kính Thánh Thể, thánh Katharine Drexel cũng để lại một phương cách như tấm gương soi. Vào những năm cuối đời, vì bị liệt, Mẹ không đến nhà thờ được, Mẹ chọn giải pháp âm thầm cầu nguyện trong căn phòng nhỏ với đôi mắt nhìn về phía cung thánh, nơi Chúa Giêsu Thánh Thể đang hiện diện và Mẹ rước lễ cách thiêng liêng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn dọn lòng xứng đáng, để rước Chúa cách thực thụ hoặc thiêng liêng, hầu gia tăng lòng sùng kính Chúa Thánh Thể.
Suy niệm 3: Giảng thuyết
Ngoài nhiệm vụ dạy học, Cha Giuse còn là một người giảng thuyết có tài, là cha giải tội nhân từ và là bậc thầy tổ chức tĩnh tâm.
Với kiến thức và chuyên môn của một cha giáo chủng viện, ngài luôn nắm bắt vấn đề. Ngài luôn tôn trọng thính giả để rồi hằng ngày nghiên cứu học hỏi cũng như đào sâu ngần nào có thể, và nhất là chuẩn bị bài vở kỹ lưỡng, tuyệt đối không bao giờ lười biếng dọn bài.
Đặc biệt ngài cũng luôn quan tâm đến tầm mức hiểu biết của thính giả để rồi không trình bày sự hiểu biết sâu rộng của mình cách lý thuyết và khoái khẩu. Với bản chất thực tế xuất thân từ một gia đình nông dân, ngài học Đức Giêsu để lồng vào bài giảng thuyết những hình ảnh hoặc câu chuyện xác minh rất gần gũi với thính giả, hầu giúp họ tiếp thu dễ dàng hơn, nhất là dẫn họ đi vào cuộc sống.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết tôn trọng và quan tâm đến người nghe để làm chủ được điều và giờ mình nói.
Suy niệm 4: Giải tội
Ngoài nhiệm vụ dạy học, Cha Giuse còn là một người giảng thuyết có tài, là cha giải tội nhân từ và là bậc thầy tổ chức tĩnh tâm.
Lòng nhân từ là chìa khóa giúp ngài đóng tròn vai trò của một cha giải tội, khi mở cửa tâm hồn của bao tội nhân, kể cả những người đứng về phía lạc thuyết Jansen đang chống đối Giáo Hội. Với bản thân, nhờ lòng nhân từ, ngài vượt qua được những bực bội để mở lòng ân cần đón tiếp bao vị khách không mời mà tới, và tới vào những giờ giấc không thuận tiện.
Với tội nhân, lòng nhân từ giúp ngài cảm thông được với thân phận yếu hèn của kiếp người khó đứng vững được trước sức tấn công tinh quái của các chước cám dỗ quỷ ma, và thấu hiểu được lòng khắc khoải trông chờ của tình thương tha thứ của Thiên Chúa, cũng như mối nhiệt huyết của Vị Mục Tử nhân lành đối với con chiên lạc đàn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn xử sự nhân từ với mọi hạng người, để xứng làm con của Chúa là Cha đầy lòng từ nhân
Suy niệm 5: Tĩnh tâm
Ngoài nhiệm vụ dạy học, Cha Giuse còn là một người giảng thuyết có tài, là cha giải tội nhân từ và là bậc thầy tổ chức tĩnh tâm.
Tĩnh tâm là chặng đường dừng chân để kiểm tra quãng đường trải qua cũng như lấy lại sinh khí để tiếp tục hành trình tiến đến đích điểm. Xét về phương diện này, Cha Giuse được đánh giá là bậc thầy tổ chức tĩnh tâm. Một yếu tố giúp ngài thành danh trong công việc này, đó là đức khiêm tốn.
Lòng khiêm tốn giúp ngài nhận ra mình cũng là tội nhân như bao người khác với nhiều khuyết điểm và lầm lỗi, nên dễ gần gũi, từ tốn và chân thành giúp tha nhân kiểm điểm đời sống, để sửa chữa quá khứ bất toàn, và vững tâm hướng về tương lai tươi đẹp, với hạnh phúc viên mãn thiên đàng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết vận dụng thời điểm tĩnh tâm để mỗi lần mỗi nên tốt hơn.
Suy niệm 6: Tử tù
Nổi tiếng về hoạt động của ngài với các tử tù, Cha Giuse đã giúp nhiều tù nhân chết lành trong ơn nghĩa của Chúa.
Là cha giải tội nhân từ, ngài không chỉ yên vị chờ đợi tội nhân đến, mà ngài còn lên đường theo gương Đức Giêsu chạy tìm chiên lạc đàn, cụ thể những tội nhân công khai đã bị kết án tử hình hiện đang bị giam giữ chờ ngày ra pháp trường. Và ngài đã giúp nhiều tù nhân chết lành trong ơn nghĩa của Chúa.
Là cha giải tội nhân từ, ngài cón thấy được nhiều bạn trẻ hư hỏng trong đám bụi đời cũng cần được giúp đỡ và được cảm hóa, ngay từ lứa tuổi thiếu niên. Chính ngài đã khuyến khích Cha Gioan Bosco vốn là một trong những học trò của ngài, để thành lập dòng Salesian nhằm hoạt động cho giới trẻ ở Turin.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nỗ lực hoán cải các tội nhân hiện tại, để có được được thánh nhân tương lai.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 22/6 Thánh Paulinus ở Nola (354?-431)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Paulinus ở Nola (354?-431)
Ðức Paulinus là một người hài hòa giữa con tim và trí óc. Các thư từ của ngài cho thấy sự khiêm tốn, tính tình dễ mến, thích khôi hài, trọng kỷ luật, và đời sống chiêm niệm của ngài.
Lược sử
Qua thư từ của các thánh khác mà chúng ta biết được cuộc đời và đặc điểm của Thánh Paulinus mà ngài là bạn của các thánh Augútinô, Giêrôme, Martin, Grêgôriô và Ambrôsiô.
Sinh ở Bordeaux, nước Pháp, Paulinus thuộc dòng dõi quý tộc Rôma mà cha ngài là một pháp quan ở Gaul (Pháp). Gia đình ngài làm chủ không biết bao nhiêu ruộng đất ở Ý và Aquitaine. Paulinus được theo học ở trường Bordeaux về luật Rôma, thi văn, hùng biện, khoa học và triết. Sau đó ngài trở thành một luật sư có tiếng.
Sau khi cha mất sớm, Paulinus được Hoàng Ðế Gratian bổ nhiệm làm nghị sĩ Rôma khi mới 25 tuổi và một năm sau, ngài làm thống đốc Campania, cư ngụ ở vùng đồi núi Nola, ở phía đông Naples. Dường như Paulinus không thích sự phù hoa và danh vọng của chức quyền.
Sau khi được chứng kiến cảnh dân chúng được chữa lành ở mộ Thánh Felix, là quan thầy của Campania, Paulinus đã có ý định trở lại Kitô Giáo. Ngài hy sinh bộ râu cho Thánh Felix, từ chức thống đốc và trở về sống với người mẹ đang mong đợi ngài.
Sau khi du lịch đến Tây Ban Nha, Paulinus kết hôn với bà Therasia. Vào năm 36 tuổi, trước sự chứng kiến của người vợ, Paulinus (cùng với người em trai) được rửa tội bởi vị giám mục thánh thiện của Bordeaux là Thánh Delphinus.
Vào thời bấy giờ, Paulinus được gặp gỡ, chuyện trò với những người thánh thiện đương thời, tỉ như Thánh Martin ở Tours đã chữa lành con mắt thương tích của Paulinus một cách lạ lùng, và có lẽ sự hoán cải của người bạn tâm giao, Thánh Augustine, là động lực sau cùng thúc đẩy Paulinus theo Kitô Giáo.
Theo Ðức Kitô có nghĩa sống khó nghèo, do đó Paulinus đã bán tất cả tài sản ở Gaul và phân phát tiền bạc cho các người nghèo và những người làm công cho gia đình. Khi hai ông bà sang Tây Ban Nha, bà Therasia cũng bán tất cả đất đai của mình và dùng tiền của để chuộc các người nô lệ và các con nợ.
Hai ông bà có được một con trai, nhưng chỉ sau một tuần lễ, đứa bé đã từ trần cách đột ngột. Cho rằng cơ thể của bà Therasia không thích hợp để sinh con, Paulinus coi việc từ bỏ quyền làm chồng như một hành động bác ái, do đó hai người thề sống khiết tịnh và sống với nhau như anh em trong suốt cuộc đời.
Vì đời sống thánh thiện của hai ông bà, dân chúng ở Barcelona đã kiệu Paulinus đến trước mặt vị giám mục và yêu cầu tấn phong Paulinus làm linh mục, và ngài đã đồng ý với điều kiện của Paulinus là không bị ràng buộc vào một giáo xứ hay giáo phận. Sau đó Thánh Ambrôsiô là người đã chỉ dẫn cho Paulinus về nhiệm vụ linh mục.
Ðể sống lý tưởng của một chủ chăn, hai ông bà Paulinus và Therasia đã biến căn nhà của họ thành nơi tiếp đón người nghèo và người vô gia cư. Bà Therasia sống ở tầng trệt như một người quản lý, còn tầng trên là một đan viện mà Paulinus và các ẩn tu khác biến thành một trung tâm đan sĩ đầu tiên ở Tây Phương với lối sống cực kỳ kham khổ.
Vào năm 410, trước khi bà Therasia từ trần không lâu, dân chúng ở Nola đã chọn Paulinus làm giám mục. Quả thật ngài là vị giám mục tài giỏi vào thời ấy. Ðức Paulinus tiếp tục sống ở đan viện, ngài xây hệ thống thoát nước cho Nola cũng như các nhà thờ ở đây và ở Fondi.
Ðức Paulinus là một người hài hòa giữa con tim và trí óc. Các thư từ của ngài cho thấy sự khiêm tốn, tính tình dễ mến, thích khôi hài, trọng kỷ luật, và đời sống chiêm niệm của ngài. Những bút tích của ngài để lại chứng tỏ ngài là một thi sĩ Kitô Giáo và cũng là một tay viết văn xuôi có hạng.
Suy niệm 1: Bạn
Thánh Paulinus là bạn của các thánh Augútinô, Giêrôme, Martin, Grêgôriô và Ambrôsiô.
Nếu tư tưởng lớn thường gặp nhau, thì đời sống lành thánh cũng giúp người ta dễ gần gũi nhau và kết thành bạn hữu thân tình với nhau, để giúp đỡ nhau vươn lên trên đường thánh thiện.
Với Thánh Martin ở Tours, con mắt thương tích của Paulinus đã được chữa lành một cách lạ lùng. Và có lẽ động lực sau cùng thúc đẩy Paulinus theo Kitô Giáo chính là sự hoán cải của người bạn tâm giao, Thánh Augútinô. Sau đó Thánh Ambrôsiô là người đã chỉ dẫn cho Paulinus về nhiệm vụ linh mục.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết kết giao với những người bạn tốt để tốt hóa những điểm tốt vốn có của mình.
Suy niệm 2: Danh vọng
Paulinus không thích sự phù hoa và danh vọng của chức quyền.
Với trình độ kiến thức sâu rộng về luật Rôma, thi văn, hùng biện, khoa học và triết, ngài trở thành một luật sư có tiếng. Với tiếng tăm vang dội này, ngài lại được Hoàng Đế Gratian lưu ý và bổ nhiệm ngài làm nghị sĩ Rôma khi mới 25 tuổi và một năm sau, ngài làm thống đốc Campania.
Con đường danh vọng thế trần mở ra trước mắt ngài một cách xán lạn, nhất là với một chàng thanh niên đầy nhựa sống đang ở lứa tuổi còn rất trẻ. Thế nhưng sự phù hoa và danh vọng chức quyền lại không phải là điều ngài ham thích, vì không hợp với bản chất khiêm tốn và lòng đam mê hướng sống chiêm niệm của ngài. Chính vì thế ngài đã trở lại đạo và chọn lối sống đan viện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thắng vượt chước cám dỗ về danh vọng trần thế, để miệt mài và mãi mê tìm về quê trời.
Suy niệm 3: Trở lại
Paulinus đã có ý định trở lại Kitô Giáo.
Ý định trở lại Kitô Giáo của ngài nảy sinh từ việc ngài chứng kiến cảnh dân chúng được chữa lành ở mộ Thánh Felix, là quan thầy của Campania. Từ ý định chuyển sang hành động, Ngài hy sinh bộ râu cho Thánh Felix và nhất là từ chức thống đốc.
Ngoài sự kiện trên, có lẽ sự hoán cải của người bạn tâm giao, Thánh Augútinô, là động lực sau cùng thúc đẩy Paulinus theo Kitô Giáo.Vào năm 36 tuổi, trước sự chứng kiến của người vợ, Paulinus (cùng với người em trai) được rửa tội bởi vị giám mục thánh thiện của Bordeaux là Thánh Delphinus.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra tiếng gọi trời cao qua mỗi sự kiện và biến lời mời gọi ấy thành hành động.
Suy niệm 4: Theo Đức Kitô
Theo Đức Kitô có nghĩa sống khó nghèo.
Do đó Paulinus đã bán tất cả tài sản ở Gaul và phân phát tiền bạc cho các người nghèo và những người làm công cho gia đình. Khi hai ông bà sang Tây Ban Nha, bà Therasia cũng bán tất cả đất đai của mình và dùng tiền của để chuộc các người nô lệ và các con nợ.
Để sống lý tưởng này, hai ông bà Paulinus và Therasia đã biến căn nhà của họ thành nơi tiếp đón người nghèo và người vô gia cư. Bà Therasia sống ở tầng trệt như một người quản lý, còn tầng trên là một đan viện mà Paulinus và các ẩn tu khác biến thành một trung tâm đan sĩ đầu tiên ở Tây Phương với lối sống cực kỳ kham khổ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quyết tâm sống khó nghèo như một biểu hiện đậm nét cho thiện chí muốn theo Đức Kitô, chứ đừng rút lui như chàng thanh niên giàu có được ghi lại trong Tin Mừng.
Suy niệm 5: Từ trần
Hai ông bà có được một con trai, nhưng chỉ sau một tuần lễ, đứa bé đã từ trần cách đột ngột. Paulinus cho rằng cơ thể của bà Therasia không thích hợp để sinh con, ngài coi việc từ bỏ quyền làm chồng như một hành động bác ái, do đó hai người thề sống khiết tịnh và sống với nhau như anh em trong suốt cuộc đời.
Quả là một cuộc sống hôn nhân độc đáo và cũng là một tấm gương cho bao gia đình không con. Mục đích của hôn nhân có việc truyền sinh, nhưng đó không phải là mục đích duy nhất và tất cả. Đàng khác có con mà là con hư hỏng thì thà không có con còn hơn. Đồng thời dành thì giờ và tâm huyết mà lo cho con thì làm sao sánh được với việc dồn tất cả để cùng nhau lo việc Chúa khi không có con.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc vợ chồng biết đón nhận Thiên Ý và hết mình thực thi.
Suy niệm 6: Thánh thiện
Hai ông bà có một đời sống rất thánh thiện.
Vì đời sống thánh thiện của hai ông bà, dân chúng ở Barcelona đã kiệu Paulinus đến trước mặt vị giám mục và yêu cầu tấn phong Paulinus làm linh mục, và ngài đã đồng ý với điều kiện của Paulinus là không bị ràng buộc vào một giáo xứ hay giáo phận.
Vào năm 410, trước khi bà Therasia từ trần không lâu, dân chúng ở Nola đã chọn Paulinus làm giám mục. Quả thật ngài là vị giám mục tài giỏi vào thời ấy. Đức Paulinus tiếp tục sống ở đan viện, ngài xây hệ thống thoát nước cho Nola cũng như các nhà thờ ở đây và ở Fondi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống thánh thiện được biểu hiện qua niềm xác tín của Thánh Paulinus, khi ngài thường đau yếu vì thể xác không được khỏe mạnh, nhưng luôn thản nhiên tuyên bố "sự yếu đuối của thân xác là một ích lợi cho tinh thần, khi xác thịt thiệt thòi thì tinh thần hoan hỉ."
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 21/6 Thánh Aloysius Gonzaga (1568-1591)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Aloysius Gonzaga (1568-1591)
Thánh Aloysius sinh trong một gia đình quý tộc, nhưng đời sống như thiên thần, và cái chết thật thánh thiện.
Lược sử
Thánh Aloysius là một người nổi tiếng thời bấy giờ vì ngài sinh trong một gia đình quý tộc, nhưng đời sống như thiên thần, và cái chết thật thánh thiện.
Aloysius là con cả của Hầu Tước Ferrante ở Castiglione nước Ý, phục vụ dưới triều Philip II của Tây Ban Nha. Cha ngài mong cho con mình trở nên một nhà lãnh đạo quân sự tài ba, do đó ngay từ khi bốn tuổi Aloysius đã được tự do tung tăng trong trại lính, làm quen với các vũ khí. Nhưng khi lên bảy, đời sống tâm linh Aloysius thay đổi lạ lùng và hàng ngày cậu đã đọc kinh sách, thánh vịnh và đặc biệt kính mến Đức Maria. Càng nhìn thấy sinh hoạt triều đình bao nhiêu, Aloysius càng chán ngán bấy nhiêu và tìm cách khuây khỏa qua hạnh các thánh.
Chính trong thời gian này, khi nghe biết về công cuộc truyền giáo của các cha dòng Tên ở Ấn Độ, Aloysius đã có ý định đi tu và tập sống kham khổ cũng như tụ tập các trẻ em nghèo để dạy giáo lý cho chúng . Mơ ước đi tu của Aloysius phải trải qua bốn năm tranh đấu với chính người cha của mình cũng như sự dụ dỗ của rất nhiều chức sắc trong triều. Sau cùng, Aloysius đã chinh phục được tất cả và được nhận vào đệ tử viện dòng Tên lúc 17 tuổi.
Vì nhận thấy sức khỏe yếu kém của Aloysius, các cha giám đốc đã buộc Aloysius phải chấm dứt sự kham khổ, phải ăn nhiều hơn, phải sinh hoạt với các đệ tử khác và không được cầu nguyện ngoài những giờ ấn định. Aloysius được gửi lên Milan đi học, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên đã phải trở về Rôma.
Vào năm 1587, Aloysius tuyên khấn. Được vài năm sau, trận dịch hạch tấn công Rôma. Các tu sĩ dòng Tên mở một bệnh viện của nhà dòng. Chính cha bề trên cũng như nhiều linh mục đích thân chăm sóc bệnh nhân. Dù sức khỏe yếu kém, Aloysius cũng tận tình phục vụ bệnh nhân và bị lây bệnh. Sau ba tháng bệnh hoạn, Aloysius đã từ trần ngày 21 tháng Sáu 1591, lúc ấy mới 23 tuổi.
Đời sống thánh thiện của Aloysius được cha linh hướng Robert Bellarmine (sau này là thánh) minh xác. Và ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII phong thánh năm 1726 và được đặt làm quan thầy các học sinh Công Giáo.
Suy niệm 1 Nổi tiếng
Thánh Aloysius là một người nổi tiếng thời bấy giờ.
Ngài được nổi tiếng dĩ nhiên vì ngài sinh trong một gia đình quý tộc, nhưng không chỉ thế mà nhất là vì đời sống của ngài được đánh giá như thiên thần, với cái chết thật thánh thiện.
Đời sống thánh thiện của ngài được cha linh hướng Robert Bellarmine (sau này là thánh) minh xác. Và ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII phong thánh năm 1726 và được đặt làm quan thầy các học sinh Công Giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ dựa vào thế giá của gia đình mà phải tự mình sống tốt để xứng với sự đáng giá cao của bao người và nhất là được chính Thiên Chúa khen thưởng.
Suy niệm 2:. Suy niệm 2 : Thay đổi
Khi lên 7, đời sống tâm linh Aloysius thay đổi lạ lùng.
Thay vì tự do tung tăng trong trại lính, làm quen với các vũ khí, hàng ngày cậu đã đọc kinh sách, thánh vịnh và đặc biệt kính mến Đức Maria.
Cuộc thay đổi được chín mùi vào lúc 13 tuổi, cùng với người em, Aloysius theo cha mẹ lên triều đình và cả hai giữ nhiệm vụ phục dịch cho Don Diego, thái tử người Asturias ở Tây Ban Nha. Càng nhìn thấy sinh hoạt triều đình bao nhiêu, Aloysius càng chán ngán bấy nhiêu và tìm cách khuây khỏa qua hạnh các thánh. Chính trong thời gian này, khi nghe biết về công cuộc truyền giáo của các cha dòng Tên ở Ấn Độ, Aloysius đã có ý định đi tu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có thay đổi thì luôn đổi thay theo chiều hướng tốt như một thu thuế trở thành tông đồ Mátthêu, chứ đừng như Giuđa Ítcariốt từ một tông đồ trở thành kẻ phản bội.
Suy niệm 3: Ý định đi tu
Aloysius đã có ý định đi tu. Để thể hiện ý định đi tu, ngài đã tập sống kham khổ cũng như tụ tập các trẻ em nghèo để dạy giáo lý cho chúng. Dầu đã có những bước khởi đầu rất tốt đối với bản thân bằng việc sống kham khổ như một tu sĩ, cũng như đối với tha nhân bằng việc dạy giáo lý cho các trẻ em nghèo, nhưng ước nguyện ấy cũng phải vượt qua nhiều chặng đường gian khổ tiếp theo.
Mơ ước đi tu của ngài phải trải qua một thời gian dài 4 năm để tranh đấu với chính người cha của mình cũng như sự dụ dỗ của rất nhiều chức sắc trong triều, vì tất cả đều muốn ngài trở nên một nhà lãnh đạo quân sự tài ba. Sau cùng, ngài đã chinh phục được tất cả và được nhận vào đệ tử viện dòng Tên lúc 17 tuổi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con kiên trì theo đuổi những chí nguyện tốt lành mãi cho đến lúc biến ước mơ thành hiện thực.
Suy niệm 4: Sức khỏe
Vì nhận thấy sức khỏe yếu kém của Aloysius, các cha giám đốc đã buộc Aloysius phải chấm dứt sự kham khổ, phải ăn nhiều hơn, phải sinh hoạt với các đệ tử khác và không được cầu nguyện ngoài những giờ ấn định. Aloysius được gửi lên Milan đi học, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên đã phải trở về Rôma. Trong một trận dịch hạch tấn công Rôma, dầu sức khỏe yếu kém, Aloysius cũng tận tình phục vụ bệnh nhân. Cũng vì sức khỏe yếu kém, nên ngài bị lây bệnh, và sau ba tháng bệnh hoạn, ngài đã từ trần.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết quý trọng và giữ gìn sức khỏe, nhưng phải sẵn lòng đón nhận hiện trạng do Chúa an bài ban cho.
Suy niệm 5: Lây bệnh
Aloysius cũng tận tình phục vụ bệnh nhân và bị lây bệnh. Không dám xét đoán cách bất công và thiếu trung thực. chính vì sức khỏe yếu kém, nên ngài bị lây bệnh. Nhưng cũng phải công bằng mà nghĩ rằng chính vì ngài quá tận tình phục vụ nên phải bị lây đến chết, trong lúc đó cả cha bề trên cũng như nhiều linh mục đích thân chăm sóc bệnh nhân mà có ai bị sao đâu.
Điều cần lưu ý là việc lây bệnh thân xác dầu có nguy cơ mất mạng như trường hợp của ngài, nhưng lại được phần phúc thiên đàng. Còn lây bệnh tinh thần nhất là lây nhiễm tội ác thì thật đáng tránh xa, vì gây hậu quả đánh mất linh hồn, như trường hợp quần chúng dân Do thái hùa theo lời xúi giục của nhóm đầu mục mà xin tha Baraba và lên án giết Đức Giêsu với bản án tử hình thập giá.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hết mình chăm sóc bệnh nhân phần xác dầu phải bị lây nhiễm, nhưng tuyệt đối đừng bao giờ để bị lây nhiễm tinh thần với các điều tội lỗi xấu xa.
Suy niệm 6: Thánh thiện
Đời sống thánh thiện của Aloysius được cha linh hướng Robert Bellarmine (sau này là thánh) minh xác.
Lời minh xác về đời sống thánh thiện của Aloysius thật có giá trị, vì đó là lời minh xác của một cha linh hướng, vốn nhận ra chẳng những những biểu hiện bên ngoài mà còn thấu hiểu nội tâm sâu xa nữa. Nhất là cha Robert Bellarmine là một cha có thế giá về mặt đạo đức, vì sau này ngài cũng được phong thánh.
Lời minh xác ấy càng được củng cố và nêu bật một cách hợp pháp qua việc Aloysius được vị chủ chăn tối cao của Giáo Hội hoàn vũ là Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII chính thức phong thánh năm 1726 và được đặt làm quan thầy các học sinh Công Giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn chú tâm sống thánh thiện, và biết dùng phương cách ấy để lôi cuốn mọi người về với Chúa, như làn hương thơm ngào ngạt dâng lên Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 20/6 Thánh Tôma More (1478-1535)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Tôma More (1478-1535)
Trên đoạn đầu đài, Thánh Tôma More, Vị Tử Đạo của Đức Giáo Hoàng và quan thầy của các luật gia, tuyên bố với đám đông rằng ngài chết như "một tôi trung của nhà vua - nhưng trước hết là tôi trung của Thiên Chúa."
Lược sử
Thánh Tôma More sinh ở Luân Đôn năm 1478. Sau khi thông thạo căn bản tôn giáo và kinh điển, ngài theo học luật ở Oxford. Sau đó, ngài là một luật sư và lập gia đình với bà Jane Colt có bốn người con. Ngài dành nhiều thời giờ cho việc giáo dục con cái. Chính ngài là một người trí thức và là bạn của hàng thức giả thời bấy giờ như Linacre, Fisher và Erasmus.
Tôma More thăng tiến mau chóng trong sự nghiệp.
Vào năm 1532, giữa lúc tột đỉnh danh vọng và sự nghiệp, Tôma More từ chức khi nhà vua nhất định duy trì lập trường của ông về vấn đề hôn nhân và uy quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng.
Tôma More bị tống giam ở Ngục Luân Đôn. Mười lăm tháng sau, ngài được đưa ra tòa về tội phản quốc.Trên đoạn đầu đài, ngài tuyên bố với đám đông rằng ngài chết như "một tôi trung của nhà vua -- nhưng trước hết là tôi trung của Thiên Chúa". Ngài bị chém đầu ngày 6 tháng Sáu năm 1535.
Năm 1935, ngài được Đức Giáo Hoàng Piô XI tuyên xưng là "Vị Tử Đạo của Đức Giáo Hoàng" và đặt làm quan thầy của các luật gia.
Suy niệm 1 Căn bản
Sau khi thông thạo căn bản tôn giáo và kinh điển, Tôma More theo học luật ở Oxford.
Môn học gì cũng đòi hỏi phải có căn bản, vì nếu để mất yếu tố then chốt ấy thì không thể nào tiến xa lên được. Hiểu thế nên ngay từ đầu, ngài đã xây dựng tòa nhà trí thức mình bằng nền móng vững chắc ấy, nhất là trong lãnh vực tôn giáo.
Đó cũng là lý do giúp chúng ta hiểu được vì sao ngài đã đứng vững được trong niềm tin chính truyền trước bao chước cám dỗ của thời cuộc, thậm chí trước sức tấn công đủ mặt của nhà vua, để rồi cuối cùng chấp nhận bị tù tội và bị đổ ra giọt máu cuối cùng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết xây nhà đức tin mình trên nền đá vững chắc, để không phải bị sụp đổ trước bao bão tố của cuộc đời.
Suy niệm 2 Giáo dục
Tôma More dành nhiều thời giờ cho việc giáo dục con cái.
Là luật sư, là thành viên trong Nghi Viện và cũng là Quan Chưởng Ấn, chắc hẳn ngài rất bận rộn trong công việc. Nhưng ngài cũng không quên một nhiệm vụ quan trọng phải đảm trách trong phạm vi gia đình, đó là trách nhiệm của môt người cha. Nên ngài đã sắp xếp để dành nhiều thời giờ cho việc giáo dục con cái.
Ngài tâm sự: "Mỗi ngày đều có các cơ hội xúc phạm đến Thiên Chúa, nên tôi phải trang bị cho mình trong cuộc chiến đấu ấy bằng việc rước Mình Thánh Chúa. Nếu tôi cần sự soi dẫn và khôn ngoan để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề, tôi phải đến với Đấng Cứu Độ để tìm sự khuyên bảo và sáng suốt của Người."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tìm đến Bí Tích Thánh Thể như là lẽ sống và nguồn trợ lực hữu hiệu cho đời mình.
Suy niệm 3 Thăng tiến
Tôma More thăng tiến mau chóng trong sự nghiệp.
Ngài là một luật sư nổi tiếng và được chọn vào Nghi Viện khi mới 22 tuổi. Từ đó, ngài tiếp tục thăng quan tiến chức cho đến 47 tuổi, ngài được sự chú ý của vua Henry VIII và được chọn làm Quan Chưởng Ấn kế vị Đức Hồng Y Wolsey.
Đường đời của ngài xem ra rất thành công và đáng cho nhiều người thèm khát. Nhưng sự nghiệp tôn giáo đối với ngài mới là điều quan trọng và đáng được phấn đấu hơn, vì được lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì. Chính vì thế ngài đã chọn con đường tử đạo, nhờ đó vào năm 1935, ngài được Đức Giáo Hoàng Piô XI tuyên xưng là "Vị Tử Đạo của Đức Giáo Hoàng".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cương quyết chọn Chúa hơn tất cả mọi sự trên đời này.
Suy niệm 4:. Từ chức
Vào năm 1532, giữa lúc tột đỉnh danh vọng và sự nghiệp, Tôma More từ chức khi nhà vua nhất định duy trì lập trường của ông về vấn đề hôn nhân và uy quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng.
Vì vua Henry VIII muốn li dị bà Catherine ở Aragon, là người không sinh được con trai để nối dõi và muốn đặt các con người vợ lẽ làm thừa kế. Tôma More không đồng ý với hành động của nhà vua, và cũng không công nhận Henry là thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Anh, như nhà vua đã tự xưng nhằm mục đích tách biệt khỏi Giáo Hội Rôma và khước từ quyền bính của đức giáo hoàng.
Trên đỉnh cao danh vọng trần thế, vậy mà Tôma More quyết định từ chức để phản đối lập trường của nhà vua, để rồi chấp nhận bị tống ngục và bị hành quyết, quả là một quyết định anh hùng, thật xứng với vị tiền bối Gioan Tiền Hô, Đấng cũng đang được mọi người tôn vinh nhưng vì phản đối cuộc hôn nhân bất chính của vua Hêrôđê nên bị tống ngục và bị chém đầu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm chấp nhận mọi thiệt thòi đời này vì Chúa và vì đức tin tinh tuyền.
Suy niệm 5 Tòa
Tôma More bị tống giam ở Ngục Luân Đôn. 15 tháng sau, ngài được đưa ra tòa về tội phản quốc.
Trước tòa ngài cho biết là không thể hành động trái với lương tâm, và cầu chúc các quan tòa rằng "tất cả chúng ta sẽ gặp nhau ở đời sau trong hạnh phúc thiên đàng để được cứu chuộc đời đời."
Thái độ hiên ngang và không hãi sợ trước tòa để có được một lời phát biểu như thế, chắc hẳn phải nhờ vào sự hỗ trợ của Chúa Thánh Thần như Đức Giêsu đã từng đề cập tới (Mt 10,20), và đã được minh chứng cách đậm nét ở trường hợp các tông đồ (Cv 4,13-21).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn vững tin vào sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần trong mọi nghịch cảnh.
Suy niệm 6 Trung thành
Trên đoạn đầu đài, Tôma More tuyên bố với đám đông rằng ngài chết như "một tôi trung của nhà vua -- nhưng trước hết là tôi trung của Thiên Chúa". Ngài bị chém đầu ngày 6 tháng Sáu năm 1535.
Là một quân sư và nhà ngoại giao hàng đầu, Tôma More không tương nhượng các quy tắc đạo lý của chính ngài để chiều theo nhà vua, vì biết rằng sự trung thành đích thực với quyền bính không có nghĩa mù quáng chấp nhận những gì người cầm quyền mong muốn. Tôma More đã can đảm trung thành với lý tưởng ấy cho đến giọt máu cuối cùng.
Lòng trung thành cần phải được đánh giá qua các thử thách. Thử thách càng lớn và càng nhiều thì lòng trung thành càng có giá trị cao cả. Với Tôma More, chẳng những ngài hy sinh cả sự nghiệp trần thế đầy quang vinh mà còn cả mạng sống. Trong khi đó chỉ với ba mươi đồng bạc thì Giuđa Ítcariốt đã đánh mất lòng trung thành để phản bội Thầy mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vượt qua mọi thử thách lớn nhỏ trong đời, để minh chứng lòng trung thành với Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 19/6 Thánh Rômuanđô (950?-1027)
Thánh Rômuanđô (950?-1027)
Thánh Rômuanđô đã trốn trong một đan viện gần Ravenna trong 40 ngày để ăn năn đền tội cho cha mình cũng như cho sự đồng lõa của chính ngài, thời gian 40 ngày ấy thực sự đã hoán cải con người của ngài.
Lược sử
Thánh Rômuanđô thuộc dòng họ quyền quý ở Ravenna, nước Ý và quãng đời thanh thiếu niên của ngài không có gì là đặc biệt. Một ngày kia, ngài chứng kiến cảnh người cha nóng tính của ngài đã giết chết người bà con trong cuộc tranh chấp về đất đai. Quá hoảng sợ, ngài trốn trong một đan viện gần Ravenna trong 40 ngày để ăn năn đền tội cho cha mình cũng như cho sự đồng lõa của chính ngài.
Lẽ ra ngài đã trở về cuộc sống bình thường như trước, nhưng thời gian 40 ngày ấy thực sự đã hoán cải con người của ngài.
Ngài khao khát được tử đạo vì Đức Kitô và đã được đức giáo hoàng cho phép để đi truyền giáo ở Hung Gia Lợi. Nhưng khi đến nơi ngài phải trở về vì lâm trọng bệnh và vì cao tuổi. Trong 30 năm tiếp đó, ngài đi khắp nước Ý để thành lập các đan viện và viện khổ tu ở miền bắc và trung nước Ý. Năm viện khổ tu ngài thành lập ở Camaldoli đã trở thành nhà mẹ của Dòng Camaldoli, có truyền thống tổng hợp giữa đời sống khổ tu giữa Đông và Tây và dưới quy luật Biển Đức đã được ngài biến cải.
Ngài từ trần ở Piceno, nước Ý năm 1027.
Suy niệm 1 Đất đai
Trong cuộc tranh chấp về đất đai.
Đất đai là tài nguyên Chúa ban cho mỗi gia đình sử dụng. Tùy cách sử dụng mà con người có thể trở nên tốt hoặc xấu. Với hai vợ chồng Khanania và Saphira, họ bán đất để lấy tiền phụ giúp các gia đình nghèo theo sự sắp xếp của các tông đồ. Ý tốt này đã bị họ thực hiện không đúng mức bằng việc họ dối trá khi trao nộp nên bị phạt chết (Cv 5,9). Còn Banaba cũng bán đất nhưng giao nộp thành thật tất cả, nên được chọn làm tông đồ (Cv 4,37;13,2).
Cũng vì đất đai, người cha nóng tính của Rômuanđô đã giết chết người bà con. Chứng kiến cảnh tượng đó, ngài hoảng sợ, nên trốn trong một đan viện gần Ravenna trong 40 ngày để ăn năn đền tội cho cha mình cũng như cho sự đồng lõa của chính ngài. Và thời gian 40 ngày ấy thực sự đã hoán cải con người của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng tranh giành đất đai đời này mà nỗ lực giành lấy trời mới đất mới trên thiên đàng.
Suy niệm 2 40 ngày
Thời gian 40 ngày ấy thực sự đã hoán cải con người của Rômuanđô.
Do đó, thay vì trở về nhà, Rômuanđô đã xin gia nhập dòng Biển Đức. Sau ba năm, ngài từ giã đan viện để đi tìm một đời sống khắc khổ hơn, và trở nên một môn đệ của vị ẩn sĩ Marinus gần Venice.
40 ngày sánh với một đời người thật không dài, nhưng nếu biết tận dụng thì cũng nhận được nhiều hiệu quả. Rômuanđô đã dùng nên thời gian ấy nên đã tiến bước trên đường nên thánh. Các tông đồ xưa cũng tận dụng quãng thời gian 40 ngày của Thầy Giêsu còn ở tại thế trước khi về trời, nên cũng được củng cố niềm tin để kế tục sứ nghiệp rao giảng của Thầy mình, và trở thành những thánh nhân sáng chói.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng lãng phí thời giờ Chúa ban, để từng giây phút trở nên công nghiệp mau lấy nước trời.
Suy niệm 3 Khao khát
Rômuanđô khao khát được tử đạo vì Đức Kitô và đã được đức giáo hoàng cho phép để đi truyền giáo ở Hung Gia Lợi.
Tử đạo là một mối phúc được Chúa giới thiệu trong Bảng Hiến Chương Nước Trời (Mt 5,10-12). Cũng như mọi tín hữu ngoan đạo, đặc biệt những người đang sống trong thời bách hại, Rômuanđô cũng có chung niềm khao khát chính đáng ấy.
Nhưng niềm ước mơ ấy cần được hiện thực trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa được biểu hiện qua ý bề trên. Do đó ngài đã trình với đức giáo hoàng để được phép đi truyền giáo ở Hung Gia Lợi, vốn được xét là môi trường có nhiều cơ hội để được tử đạo nhất.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết phó dâng niềm khao khát của chúng con trong việc thực thi Thiên Ý.
Suy niệm 4:. Bệnh
Khi đến nơi Rômuanđô phải trở về vì lâm trọng bệnh và vì cao tuổi.
Bệnh tật vẫn luôn là một hiện tượng tiêu cực xảy đến trong đời người, và dĩ nhiên không một ai mong muốn. Nhưng với một người lành thánh thì họ luôn nhận ra ý hướng tích cực như một sự an bài của Thiên Chúa. Rômuanđô đọc được Thiên Ý nên ngài trở về quê nhà và dành thời gian 30 năm tiếp đó, để đi khắp nước Ý và thành lập các đan viện và viện khổ tu ở miền bắc và trung nước Ý.
Cũng thế thánh Antôn khao khát được tử đạo theo gương một số tu sĩ dòng Phanxicô bị bách hại bởi người Moor và được tử đạo ở Morocco. Ngài đến Phi Châu để rao giảng cho người Moor. Nhưng ngay sau đó, ngài lâm bệnh nặng phải trở về Ý, để rồi từ bỏ niềm khao khát ấy mà chấp nhận sống trong một nơi hiu quạnh, với công việc rửa chén trong nhà bếp và dành thời giờ để cầu nguyện, đọc Kinh Thánh. Từ đó ngài trở nên một vị thánh lừng danh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết đón nhận bệnh tật như một lời mời gọi của Chúa phải vận dụng thời gian chũa bệnh, để thực thi chương trình Chúa muốn chứ không phải bản thân muốn.
Suy niệm 5 Thành lập
Năm viện khổ tu Rômuanđô thành lập ở Camaldoli đã trở thành nhà mẹ của Dòng Camaldoli, có truyền thống tổng hợp giữa đời sống khổ tu giữa Đông và Tây và dưới quy luật Biển Đức đã được ngài biến cải.
Thành lập một tổ chức, nhất là sáng lập một tu viện, đây không phải là một công việc dễ dàng. Và càng khó khăn hơn nữa khi phải duy trì sự sống còn cũng như sự phồn vinh của nó. Điều này giúp thấy giá trị của thánh Rômuanđô với bao công khó và hy sinh, khi không chỉ sáng lập một mà năm tu viện.
Ngoài công nghiệp của thánh Rômuanđô, còn thấy rõ đây là tác phẫm của Thiên Chúa. Đúng như một nhận định sáng suốt của luật sư Gamalien vốn cũng là nhân viên trong Hội Đồng Dothái, về nhóm Thêôđa và Giuđa cũng như Giáo Hội Chúa: Nếu mưu đồ và công việc là do phàm nhân thì ắt sẽ tan rã, còn nếu do Thiên Chúa thì không thể phá được (Cv 5,34-39).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tìm ra ý Chúa và thực thi công việc của Chúa để nó có giá trị trường tồn.
Suy niệm 6 Biến cải
Năm viện khổ tu ngài thành lập ở Camaldoli đã trở thành nhà mẹ của Dòng Camaldoli, có truyền thống tổng hợp giữa đời sống khổ tu giữa Đông và Tây và dưới quy luật Biển Đức đã được ngài biến cải.
Đức Kitô là vị lãnh đạo nhân từ, nhưng Ngài mời gọi chúng ta trở nên hoàn toàn thánh thiện. Thỉnh thoảng, trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta vẫn được thách đố nên thánh bởi những người tận tụy hy sinh, với tinh thần hăng say, và thực sự thay đổi.
Dĩ nhiên, chúng ta không thể trở nên hoàn toàn giống họ, nhưng điều đó không làm mất ý nghĩa lời kêu gọi của mỗi người chúng ta là hãy mở lòng cho Thiên Chúa tùy theo hoàn cảnh của từng người.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hết mình nên thánh bằng việc sống trọn ơn gọi của mình theo hoàn cảnh của chính mình.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 17/6 Thánh Gioan Fisher (1469-1535)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Fisher (1469-1535)
Thánh Gioan Fisher là một con người học thức, thân quen với giới trí thức và chính trị thời bấy giờ. Ngài đã chịu tử đạo vì không chấp nhận cho Henry, vua nước Anh, ly dị vợ và tự xưng mình là thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Anh Quốc.
Lược sử
Thánh Gioan Fisher thường có liên hệ với Erasmus, Thomas More và những người thuộc phong trào nhân bản thời Phục Hưng. Bởi đó, cuộc đời ngài không có nét bề ngoài như đời sống các thánh khác. Đúng hơn, ngài là một con người học thức, thân quen với giới trí thức và chính trị thời bấy giờ.
Gioan Fisher sinh ở Beverley, Yorkshire Anh Quốc, tốt nghiệp Đại Học Cambridge, thụ phong linh mục năm 1491 và lấy bằng Tiến Sĩ Thần Học năm 1501. Ngài có tài quản trị nên được nhà trường lần lượt giao cho các chức vụ tổng giám thị, phó chưởng ấn và chưởng ấn. Trong thời gian này, ngài là cha giải tội của mẹ vua Henry VII và đã khuyên bảo bà dùng của cải một cách bác ái, cũng như đưa môn thuyết giảng vào hai đại học lớn ở Anh. Cũng chính thời gian này, ngài làm bạn với Erasmus và Thomas More.
Vào năm 1504, ngài được làm giám mục ở Rochester và cai quản giáo phận nghèo nàn này trong ba mươi năm; ngài đích thực là một giám mục, sống làm gương cho các linh mục và chú ý đến đời sống tâm linh của họ. Chính Đức Giám Mục Fisher là một văn bút và vị giảng thuyết sáng giá. Các bài giảng của ngài về ăn năn sám hối được tái bản đến bảy lần trước khi ngài từ trần.
Trong mưu toan hãm hại Đức Fisher, tất cả các quan trong triều đều tuyên thệ chấp nhận Đạo Luật Thừa Kế, ngoại trừ Đức Giám Mục Fisher và Thomas More, cả hai từ chối. Cả hai người bị tống ngục Tower, khi ấy Đức Fisher đã 65 tuổi và bệnh tật đang làm hao mòn sức khỏe của ngài.
Vào năm 1535, nhà vua đưa Đức Gioan ra tòa về tội phản quốc. Ngài bị kết án và bị hành quyết, thi thể ngài bị để nằm nguyên ngày trên giàn chém và đầu của ngài bị treo trên cầu Luân Đôn. Hai tuần sau, Thomas More cũng bị xử tử.
Đức Gioan Fisher và Thomas More được phong thánh năm 1935.
Suy niệm 1 Học thức
Gioan Fisher là một con người học thức,
Là con người học thức, ngài thân quen với giới trí thức và chính trị thời bấy giờ. Ngài tốt nghiệp Đại Học Cambridge, thụ phong linh mục năm 1491 và lấy bằng Tiến Sĩ Thần Học năm 1501. Ngài đưa môn thuyết giảng vào hai đại học lớn ở Anh. Cũng chính thời gian này, ngài làm bạn với Erasmus và Thomas More.
Với sự tràn lan của giáo phái Luther, ngài đã tham dự vào các cuộc tranh luận. Tám cuốn sách ngài viết để chống với lạc giáo đã đem lại cho ngài địa vị hàng đầu của các thần học gia Âu Châu. Cần nhận xét ở đây là Đức Gioan Fisher là con người học thức, nên không bao giờ dùng lời lẽ hạ cấp để nhục mạ đối phương như trong các cuộc tranh luận thời bấy giờ, nhưng ngài dùng lý lẽ để khuyên bảo những người lầm đường lạc lối.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống và xử sự xứng hợp với tư cách của một người học thức nhất là với địa vị của người con Chúa.
Suy niệm 2 Giám mục
Ngài có tài quản trị nên được nhà trường lần lượt giao cho các chức vụ tổng giám thị, phó chưởng ấn và chưởng ấn.
Với biệt tài quản trị và nhất là lòng đâo đức thánh thiện, vào năm 1504, ngài được làm giám mục ở Rochester và cai quản giáo phận nghèo nàn này trong ba mươi năm; ngài đích thực là một giám mục, sống làm gương cho các linh mục và chú ý đến đời sống tâm linh của họ. Chính Đức Giám Mục Fisher là một văn bút và vị giảng thuyết sáng giá.
Năm 1527, ngài được yêu cầu xem xét vấn đề hôn nhân của vua Anh là Henry VIII. Nhà vua muốn li dị hoàng hậu hiện thời là Catherine ở Aragon vì bà không sinh được con trai nối dõi. Đức Fisher đã làm vua Henry tức giận khi tuyên bố hôn nhân cũ của nhà vua vẫn còn giá trị, và sau này Đức Fisher còn từ chối không chấp nhận Henry là thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Anh Quốc như nhà vua tự xưng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị giám mục sống được như lời của Erasmus đã nói về Đức Gioan Fisher như sau: "Ngài là con người mà thời bấy giờ không ai sánh được về sự chính trực của đời sống, về học thuật và về nét cao quý của linh hồn".
Suy niệm 3 Giải tội
Thời gian này, Gioan Fisher là cha giải tội của mẹ vua Henry VII.
Là cha giải tội, ngài đã khuyên bảo bà dùng của cải một cách bác ái. Vì chưng "làm phúc bố thí là cho Thiên Chúa vay mượn" (Cn 19,17), là "đái tội lập công" (Đn 4,24). Đồng thời "việc bố thí cứu cho khỏi chết và không để rơi vào cõi âm ty, vì trước mặt Đấng Tối Cao, của bố thí là một lễ vật quý giá cho những ai làm việc bố thí" (Tb 4,10-11).
Là cha giải tội và cũng là một văn bút cũng như là vị giảng thuyết sáng giá, ngài rất quan tâm đến việc giúp người hoán cải đời sống, nên đã dành thì giờ biên soạn rất nhiều bài giảng giá trị. Các bài giảng của ngài về ăn năn sám hối được tái bản đến bảy lần trước khi ngài từ trần.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ thưởng thức mà nhất là thực hành lời mời gọi sám hối gói ghém trong các bài giảng thuyết.
Suy niệm 4 Làm gương
Gioan Fisher đích thực là một giám mục, sống làm gương cho các linh mục và chú ý đến đời sống tâm linh của họ.
Ngày nay, có nhiều vấn đề được nêu lên về việc tích cực tham gia sinh hoạt xã hội của linh mục và giáo dân. Đức Gioan Fisher đã trung thành với ơn gọi giám mục của ngài. Ngài cương quyết duy trì giáo huấn của Giáo Hội; lý do ngài bị tử đạo là vì trung thành với Rôma. Ngài đã can dự đến các sinh hoạt văn hóa cũng như tranh chấp chính trị thời bấy giờ.
Sự can dự này khiến ngài phải thắc mắc về tư cách đạo đức của người lãnh đạo quốc gia. "Giáo Hội có quyền, đúng hơn là nhiệm vụ, để đề cao sự công bằng trong lãnh vực xã hội, quốc gia và quốc tế, để lên án những bất công, khi các quyền căn bản của con người và sự cứu độ của họ đòi hỏi" (Công Bình Trong Thế Giới, Thượng Hội Đồng Giám Mục 1971).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn trung thành với Chúa và Giáo Hội ở bất cứ lãnh vực nào của trần thế.
Suy niệm 5 Tống ngục
Cả hai người bị tống ngục Tower.
Trong mưu toan hãm hại Đức Fisher, đầu tiên vua Henry buộc tội ngài là không phúc trình các "mặc khải" chống đối nhà vua của sơ Elizabeth Barton.
Sau đó ngài bị triệu đến để thề chấp nhận Đạo Luật Thừa Kế. Đức Giám Mục Fisher và Thomas More từ chối, vì Đạo Luật này hợp pháp hóa sự li dị của Henry cũng như chấp nhận ông là thủ lãnh của Giáo Hội Anh. Cả hai người bị tống ngục Tower.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cam lòng chịu bị tống ngục hoặc tù tội chỉ với lý do duy nhất là vì Chúa.
Suy niệm 6 Hành quyết
Đức Fisher bị kết án và bị hành quyết.
Vào năm 1535, đức giáo hoàng tấn phong Đức Gioan Fisher làm hồng y, nhà vua lại càng thêm tức giận và đã gài bẫy để đưa Đức Gioan ra tòa về tội phản quốc. Ngài bị kết án và bị hành quyết, thi thể ngài bị để nằm nguyên ngày trên giàn chém và đầu của ngài bị treo trên cầu Luân Đôn.
Thi thể Đức Giêsu đã bị treo trên thập giá trên đồi Canvê để người đời cười chê nhưng mầu nhiệm thay lại mang ý nghĩa để những ai tin mà nhìn lên thì được cứu sống. Thi thể Đức Gioan Fisher bị để nằm nguyên ngày trên giàn chém và đầu thì bị treo lên lại trở nên tấm gương soi cho hậu thế, và cụ thể một bằng chứng hùng hồn là hai tuần sau, Thomas More cũng bị xử tử..
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không quan tâm đến cách chết mà là hướng chết: chết thế nào để được về bên Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 16/6 Thánh Gioan Phanxicô Regis (1597-1640)
- Ngày 15/6 Thánh Germaine Cousin (1579-1601)
- Ngày 14/6 Thánh Albert Chmielowski (1845-1916)
- Ngày 13/6 Thánh Antôn ở Padua (1195-1231)
- Ngày 12/6 Thánh Giáo Hoàng Lêô 3 (c. 816)
- Ngày 11/6 Thánh Barnabas (thế kỷ thứ nhất)
- Ngày 10/6: Chân phước JOACHIMA (1783-1854)
- Ngày 09/6 Thánh EPHREM Phó Tế, Tiến Sĩ Hội Thánh (306 - 373)
- Ngày 08/6 Chân phước ISABELLE nước Pháp (c. 1270)
- Ngày 07/6 Tôi Tớ Thiên Chúa Giuse Perez (1890-1928)