Gương Thánh Nhân
Ngày 07/7 Chân Phước Emmanuel Ruiz (1804-1860)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Emmanuel Ruiz và Các Bạn (1804-1860)
Tại Syria, cha Emmanuel cùng với bảy tu sĩ dòng Phanxicô và ba giáo dân cương quyết không chối bỏ đức tin để theo Hồi Giáo. Các ngài bị tra tấn dã man trước khi chết vì đạo.
Lược sử
Chúng ta không biết gì nhiều về cuộc đời thơ ấu của Chân Phước Emmanuel Ruiz, nhưng cái chết anh hùng của ngài để bảo vệ đức tin đã được lưu truyền cho hậu thế.
Sinh trong một gia đình thanh bạch, khiêm tốn ở Santander, Tây Ban Nha, ngài là một linh mục dòng Phanxicô và phục vụ trong công cuộc truyền giáo ở Damascus, Syria. Vào lúc ấy, nơi đây có các cuộc nổi loạn chống với Kitô Hữu và đã khiến hàng ngàn người phải thiệt mạng.
Trong số đó có Cha Emmanuel, bề trên tu viện dòng Phanxicô, bảy tu sĩ khác và ba giáo dân. Khi đám người hung bạo bắt được các vị này, các ngài cương quyết không chối bỏ đức tin để theo Hồi Giáo. Họ bị tra tấn dã man trước khi chết vì đạo.Cha Emmanuel, các tu sĩ Phanxicô và ba giáo dân được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong chân phước năm 1926.
Suy niệm 1 - Không biết gì nhiều
Chúng ta không biết gì nhiều về cuộc đời thơ ấu của Chân Phước Emmanuel Ruiz.
Biết nhiều là điều tốt nhưng cũng không tốt bằng biết sâu. Chính vì thế xã hội vẫn thường đánh giá khả năng chuyên môn nhiều hơn, bằng việc tổ chức những môn học chuyên biệt, những ngành nghề chuyên khoa.
Ngay trong lãnh vực y khoa, cũng đào tạo khoa nội, khoa ngoại. Trong khoa nội, lại có tim, phổi, gan, thận...
Biết nhiều lại cần thiết phải đúng, vì nếu sai một li thì xa cả một dặm, nhất là trong phạm vi tôn giáo. Lịch sử Giáo Hội đã ghi đậm những vết trọng thương do các lạc thuyết hoặc ly giáo được khởi xướng bởi các vị kiến thức cao nhưng sai lầm, như một tu sĩ Pelagiô, một linh mục Luther hoặc một giám mục Nestorius.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn chấp nhận thà biết ít, nhưng biết đúng, nhất là hết mình sống điều biết đúng ấy.
Suy niệm 2 - Thơ ấu
Chúng ta không biết gì nhiều về cuộc đời thơ ấu của Chân Phước Emmanuel Ruiz.
Đời người nào cũng có một tuổi thơ. Riêng cuộc đời thơ ấu của Chân Phước Emmanuel Ruiz được trải qua trong một gia đình thanh bạch và khiêm tốn, như thế chắc không có gì nổi bật mà bình thường như bao trẻ khác đáng để được đề cập đến, nên không ai biết được gì nhiều.
Tuy nhiên sự thanh bạch và khiêm tốn của gia đình lại làm nền cho cuộc sống lành thánh và đạo đức của ngài, để khi lớn lên ngài có cơ sở vững chắc để đáp lại lời mời gọi của Chúa để dấn thân vào dòng Phanxicô với chức danh một linh mục truyền giáo và kết thúc bằng cái chết anh hùng nhằm bảo vệ đức tin.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc phụ huynh chú tâm chăm sóc tuổi thơ của con cái để qua chúng tạo một tương lai tốt đẹp cho xã hội cũng như cho Giáo Hội.
Suy niệm 3 - Truyền giáo
Chân Phước Emmanuel Ruiz là một linh mục dòng Phanxicô và phục vụ trong công cuộc truyền giáo ở Damascus, Syria.
Là một linh mục dòng Phanxicô, ngài sống thánh bằng việc thực thi đức vâng lời triệt để đối với quy luật nhà dòng được biểu hiện qua ý bề trên. Ngài sẵn sàng lên đường truyền giáo bất chấp hiểm nguy về tính mạng đang chờ đợi, vì nơi đấy có các cuộc nổi loạn chống với Kitô Hữu và đã khiến hàng ngàn người phải thiệt mạng.
Động lực chính yếu giúp ngài, đó là tấm gương chiếu sáng của Đức Giêsu để ngài noi theo. Trong vườn Dầu, Đức Giêsu thấy trước cuộc tử nạn với bao hình thức tra tấn dã man cùng với cái chết thảm khốc trên thập giá, khiến Ngài khiếp sợ đến mức mồ hôi toát ra máu (Lc 22,44) và van xin thoát khỏi, nhưng cuối cùng Ngài vẫn tiến bước vì vâng lời Chúa Cha (Mt 26,39).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống đời chứng nhân truyền giáo bằng việc nghiêm túc vâng giữ luật Chúa và Giáo Hội mọi lúc mọi nơi.
Suy niệm 4 - Chống
Nơi đây có các cuộc nổi loạn chống với Kitô Hữu và đã khiến hàng ngàn người phải thiệt mạng.
Sự chống đối ở địa phương truyền giáo này không chủ yếu bằng các hình thức bút chiến hoặc ngôn từ, mà bằng bạo lực với các cuộc sát hại như một cuộc bắt đạo, khiến hàng ngàn người cương quyết không chối bỏ đức tin để theo Hồi Giáo đều phải thiệt mạng.
Điều này thật dễ hiểu, vì đường lối thực hiện của Hồi Giáo là võ lực. Đối với họ, không bạn thì là thù, mà đã là thù thì họ không khoan nhượng mà phải tiêu diệt, đặc biệt các vị lãnh đạo, trong đó có Cha Emmanuel, bề trên tu viện, vì đánh chủ chiên thì đàn chiên sẽ tan tác (Mt 26,31).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng dùng võ lực mà dùng ái lực để chinh phục người theo đường hướng Chúa dạy là phải yêu kẻ thù nghịch (Mt 5,44).
Suy niệm 5 - Tra tấn
Họ bị tra tấn dã man trước khi chết vì đạo.
Tra tấn với các cực hình dành cho thân xác thường được sử dụng trong lãnh vực xã hội nhằm khảo cung hoặc tra vấn theo các mục đích dân sự hoặc quân sự. Và dĩ nhiên cũng có những quy định hợp pháp không được vượt quá giới hạn.
Từ đó người ta cũng lạm dụng vào lãnh vực tôn giáo với chủ đích đòi buộc thụ nhân phải khước từ niềm tin của mình, để chấp nhận theo tín ngưỡng người hành quyền mong muốn, theo lý của kẻ mạnh luôn thắng dầu đúng hay sai. Do đó xảy ra trường hợp vua Nabucôđônôxô và vua Đarius ra lệnh thay vì thờ vua thì được phép thờ Đức Chúa, khi chứng kiến phép lạ ba trẻ cũng như Đanien được sống an toàn (Đn 3,28-29;6,26-27).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà lãnh đạo đừng lạm dụng chức quyền để hành xử cách bất công đối với người thuộc quyền.
Suy niệm 6 - Chân phước
Cha Emmanuel, các tu sĩ Phanxicô và ba giáo dân được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong chân phước năm 1926.
Trong tiến trình phong thánh, Giáo Hội thường tiến hành công cuộc điều tra và từng bước phong lên các bậc: Tôi Tá Thiên Chúa, Chân Phước, Á Thánh và cuối cùng là Thánh.
Thật ra dưới cái nhìn của Thiên Chúa, tất cả những vị đã qua đời mà được lên thiên đàng đều được làm thánh nhân, nhất là các vị tử đạo, thậm chí những vị có mắc ít nhiều lầm lỗi nhẹ mà đã được thanh luyện đầy đủ ở luyện ngục. Chính vì thế Giáo Hội đã dành chung một ngày lễ vào ngày mồng 1 tháng 11 hằng năm để kính chung những vị không được tôn phong cách đặc biệt theo thủ tục.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tích cực sống mầu nhiệm Các Thánh Thông Công, bằng việc hằng cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục cũng như cầu xin cùng các vị đang được hưởng phước quê trời.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 06/7 Thánh Maria Goretti (1890-1902)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Maria Goretti (1890-1902)
Thánh Maria Goretti được coi là vị tử đạo nhưng khía cạnh cao trọng nhất của thánh nữ là sự tha thứ cho kẻ xúc phạm: ngài vẫn lưu tâm đến kẻ thù ngay cả sau khi chết.
Lược sử
Thánh Maria Goretti sống ở trần thế chỉ có 12 năm, nhưng câu chuyện cuộc đời của thánh nữ đã xúc động biết bao tâm hồn.
Maria Goretti là con gái của một gia đình nghèo người Ý, mà cha chết sớm, chỉ còn người mẹ tần tảo nuôi con. Cô không có cơ hội để đi học, do đó cũng không biết đọc và biết viết. Khi rước lễ lần đầu, cô là người thiếu nữ cao lớn nhất so với cả lớp.
Trong buổi trưa hè oi ả vào tháng Bảy, Maria một mình ngồi may vá trên các bậc thang trong căn nhà lụp xụp. Lúc ấy, cô chưa đến 12 tuổi, nhưng cơ thể cô đã phát triển đẫy đà. Một chiếc xe bò dừng ở bên ngoài, và người thanh niên hàng xóm là Alessandro, 18 tuổi, chạy vào nhà, bước vội lên cầu thang. Hắn tấn công Maria và lôi cô vào phòng ngủ để hãm hiếp. Cô kháng cự và kêu cứu, trong hơi thở dồn dập cô cho biết thà chết còn hơn là phạm tội. "Ðó là tội. Chúa không muốn như vậy. Anh sẽ xuống hỏa ngục vì tội này." Như một con thú điên, Alessandro rút dao đâm túi bụi vào người Maria Goretti.
Trong khi nằm ở bệnh viện, Maria đã tha thứ cho Alessandro trước khi từ trần.
Câu chuyện của Maria Goretti ngày càng lan rộng và lòng sùng mộ vị tử đạo trẻ tuổi ngày càng gia tăng, nhiều phép lạ đã được ghi nhận và chưa đầy nửa thế kỷ, Maria Goretti đã được tuyên xưng á thánh. Trong buổi lễ phong chân phước, mẹ của Maria Goretti (lúc ấy 82 tuổi), hai cô em gái và một em trai cùng xuất hiện với Đức Giáo Hoàng Piô XII ở bao lơn Công Trường Thánh Phêrô. Ba năm sau, vào năm 1950, ngài được phong thánh.
Thánh Maria Goretti được coi là vị tử đạo vì ngài đã chiến đấu chống trả hành động bạo lực của Alessandro. Thánh Maria Goretti được đặt làm quan thầy giới trẻ và các nạn nhân bị hãm hiếp.
Suy niệm 1 - Tâm hồn
Câu chuyện cuộc đời của thánh nữ đã xúc động biết bao tâm hồn.
Đức Hồng Y Sergio Sebastiani, chủ tịch Ủy Ban Các Hoạt Động Thương Mại Toà Thánh, mô tả các nhân đức của vị thánh này, bị giết lúc 11 tuổi do một thanh niên mà thánh nữ khước tữ những lời tán tỉnh: "Lòng tín thác vào Chúa Quan phòng, tình yêu đối với người láng giềng của mình, việc bác bỏ sự bạo hành, và sự tôn trọng chính phẩm giá người nữ, sự cầu nguyện và hợp nhất với Chúa, tính anh hùng của việc tha thứ vì yêu Chúa Kitô, niềm tin vào sự sống mai sau" thuộc vào số các nhân đức của thánh nữ.
Người viết tiểu sử của thánh nhân là Cha Giovanni Alberti thuộc Hội dòng Thương Khó, cha là người bảo vệ Đền dâng kính Maria Goretti tại Nettuno. Cha nói vị thánh là một mẫu gương phải được đề nghị "cho những trẻ trước tuổi trưởng thành ngày nay, vì trong khi yêu mến Chúa Kitô, vị thánh biết phải theo Chúa cách triệt để". Dầu sao, "những cử chỉ của vị thánh, những lựa chọn của vị thánh, sự khéo xử của vị thánh đối với kẻ xâm lược là những đức tánh thuộc về một cô gái biết ứng xử như một người nữ, một người nữ nhỏ biết hảnh diện mình được như vậy".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không sống vì được người đời ngưỡng mộ với các lời nhận xét tưởng thưởng mà tất cả vì đẹp lòng Chúa.
Suy niệm 2 - Không biết đọc và biết viết
Maria Goretti không có cơ hội để đi học, do đó cũng không biết đọc và biết viết.
Có lẽ Thánh Maria Goretti phải vất vả khi học giáo lý, nhưng ngài không trở ngại gì với đức tin. Thiên Chúa muốn chúng ta thánh thiện, đoan trang, tôn trọng thân xác con người, tuyệt đối vâng phục, hoàn toàn tín thác.
Trong một thế giới phức tạp, đức tin của thánh nữ thật đơn giản: Điều tiên quyết là đẹp lòng Thiên Chúa, và yêu mến Người bằng mọi giá.
Trong xã hội ngày nay, đức khiết tịnh hầu như đã chết, Thánh Maria Goretti như một đóa sen, tỏa hương thanh tú trong đám bùn lầy. Thánh Maria Goretti: mẫu triệt để cho các em trước tuổi trưởng thành.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu rằng đức tin và đức mến không đòi hỏi trình độ văn hóa mà chủ yếu là sống.
Suy niệm 3 - Tha thứ
Trong khi nằm ở bệnh viện, Maria đã tha thứ cho Alessandro trước khi từ trần.
Khía cạnh quan trọng nhất của thánh nữ là sự tha thứ cho kẻ xúc phạm, mà ngài vẫn lưu tâm đến kẻ thù ngay cả sau khi chết. Kẻ sát nhân bị án tù 30 năm. Trong một thời gian dài, hắn vẫn không ăn năn sám hối và hay bực tức. Một đêm kia hắn mơ thấy Maria, tay cầm một bông hoa và trao cho hắn. Kể từ đó, cuộc đời Alessandro thay đổi. Sau khi được trả tự do, hành động đầu tiên của Alessandro là đến xin người mẹ của Maria tha thứ cho mình.
Vittorio Marzoli, thị trưởng thành Nettuno, nơi có cuộc họp báo, nhận xét: "Đức trinh khiết của cô bé, khả năng tha thứ của cô, và sự ăn năn hối cải của kẻ sát nhân, là những chủ đề đáng suy nghĩ không những cho những kẻ tin, mà còn cho những kẻ không tin, bởi vì những thứ đó giúp vun trồng một chiều kích 'cao' của sự sống".
Cha Ciro Benedettini, phó giám đốc Phòng Báo Chí Vatican, nói thêm: "Những lựa chọn này, như thí mạng sống mình vì Chúa Kitô và tha thứ một kẻ xâm lược, không phải xảy ra do tình cờ". Ngài nhắc lại tuyên bố của Đức Piô XII, khi ngày 24/6/1950 ngài công bố Maria Goretti là một vị thánh: "Sự thánh thiện không phải là ứng biến".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn hun đúc tinh thần tha thứ song hành bằng mặt và bằng lòng ngay cả đối với kẻ thù (Mt 5,44).
Suy niệm 4 - Tử đạo trẻ tuổi
Câu chuyện của Maria Goretti ngày càng lan rộng và lòng sùng mộ vị tử đạo trẻ tuổi ngày càng gia tăng.
Cuộc tử đạo của thánh nữ đã xảy ra như thế nào? Trong buổi trưa hè oi ả vào tháng Bảy, Maria một mình ngồi may vá trên các bậc thang trong căn nhà lụp xụp. Lúc ấy, cô chưa đến 12 tuổi, nhưng cơ thể cô đã phát triển đầy đủ. Một chiếc xe bò dừng ở bên ngoài, và người thanh niên hàng xóm là Alessandro, 18 tuổi, chạy vào nhà, bước vội lên cầu thang.
Hắn tấn công Maria và lôi cô vào phòng ngủ để hãm hiếp. Cô kháng cự và kêu cứu, trong hơi thở dồn dập cô cho biết thà chết còn hơn là phạm tội. "Đó là tội. Chúa không muốn như vậy. Anh sẽ xuống hỏa ngục vì tội này." Như một con thú điên, Alessandro rút dao đâm túi bụi vào người Maria Goretti.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biến lòng sùng mộ vị tử đạo bằng chính cuộc sống, dầu cách tử đạo thiêng liêng không đổ máu.
Suy niệm 5 - Trẻ tuổi
Câu chuyện của Maria Goretti ngày càng lan rộng và lòng sùng mộ vị tử đạo trẻ tuổi ngày càng gia tăng.
Dịp kỷ niệm 100 năm Thánh nữ Maria Goretti qua đời, Đức Gioan Phaolô II đã huấn đức: Thiếu nữ yếu ớt nhưng là Kitô hữu trưởng thành này sẽ nói gì với giới trẻ ngày nay qua sự sống của Ngài, nhất là qua cái chết anh dũng của Ngài? Marietta, như tên gọi quen thuộc, nhắc nhở giới trẻ ngàn năm thứ ba rằng hạnh phúc thật kêu gọi đến lòng can đảm và tinh thần anh hùng, từ bỏ mọi liên lụy với sự dữ và sẵn sàng trả giá bản thân, kể cả cái chết, để chứng tỏ lòng trung của mình đối với Chúa và các giới răn Người.
Sứ điệp này hợp thời là dường nào! Ngày nay, thú vui và tính ích kỷ, hay có khi sự vô luân nữa, thường được tán dương, nhân danh những lý tưởng giả trá tự do và hạnh phúc. Cần phải tái khẳng định rõ ràng rằng Đức trinh khiết cả hồn cả xác phải được bảo vệ, bởi vì Đức trinh khiết "bảo tồn" tình yêu chân chính.
* Nhờ Chúa Giêsu, xin Thánh nữ Maria Goretti giúp tất cả giới trẻ kinh nghiệm tốt đẹp và niềm vui phúc tin mừng: "Phúc cho những ai có lòng thanh sạch, vì họ sẽ được xem thấy mặt Chúa" (Mt 5,8).
Suy niệm 6 - Tử đạo
Thánh Maria Goretti được coi là vị tử đạo vì ngài đã chiến đấu chống trả hành động bạo lực của Alessandro.
Đức Hồng Y Sergio Sebastiani nói: "Việc tử đạo của Marietta, như được biết bởi gia đình và bạn bè, là sự kết thúc của một hành trình nhân bản và thiêng liêng đã đạt tới mức triệt để tin mừng trong đời sống bình thường của một trẻ trước tuổi trưởng thành, và như vậy sự tử đạo đó vẫn duy trì sự hâm mộ và tươi tắn cho tới ngày nay".
Ngài giải thích: Tới tuổi 11, Marietta thu hút sự chú ý của Alessandro Serenelli, một chàng trai bị xao động đã cố gắng quyến rũ cô bé trong nhiều dịp. Lần cuối cùng anh chàng bị khước từ, nên phản úng thô bạo và đã đâm Marietta nhiều lát dao. Bị kết án tù khổ sai, Serenelli được trả tự do sau 27 năm hạnh kiểm tốt. Bà mẹ và các anh chị em ruột của Marietta hiện diện trong lễ phong thánh của cô. Trong đám đông những người dự lễ có Alessandro Serenelli, lúc ấy đã 66 tuổi, đang quỳ gối với hai hàng nước mắt sung sướng lăn dài trên gò má.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống tinh thần tử đạo bằng quyết tâm thà chết còn hơn là phạm tội.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 05/7 Thánh Antôn Zaccaria (1502-1539)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Antôn Zaccaria (1502-1539)
Cha Antôn Zaccaria thành lập hai tu hội, một cho nam giới và một cho nữ giới. Mục đích của tu hội là canh tân xã hội đang sa sút vào thời ấy, bắt đầu từ hàng giáo sĩ và tu sĩ.
Lược sử
Khi Martin Luther tấn công những lạm dụng trong Giáo Hội, lúc ấy một phong trào canh tân đang manh nha thành hình. Trong số những người của phong trào có Thánh Antôn Zaccaria.
Thuộc dòng dõi quý tộc, cha của Antôn Zaccaria mất sớm khi ngài mới hai tuổi, và mẹ ngài, người góa phụ 18 tuổi, ở vậy nuôi con. Bà tận tụy dạy dỗ đạo lý cho con ngay từ nhỏ. Khi 22 tuổi, Antôn lấy bằng tiến sĩ y khoa và làm việc ở Cremona, giúp đỡ người nghèo và siêng năng hoạt động tông đồ. Ngoài phần xác của con bệnh, ngài còn lo lắng đến phần hồn của họ, ngài là một giáo lý viên và được thụ phong linh mục lúc 26 tuổi.
Sự thánh thiện của Cha Antôn đã khích lệ nhiều người thay đổi đời sống, và như tất cả các vị thánh khác, ngài cũng bị nhiều người chống đối.
Đang khi trên đường công tác hòa giải, ngài bị bệnh nặng và được đưa về thăm người mẹ. Ngài từ trần ở Cremona khi mới 36 tuổi.
Suy niệm 1 - Canh tân
Khi Martin Luther tấn công những lạm dụng trong Giáo Hội, lúc ấy một phong trào canh tân đang manh nha thành hình. Trong số những người của phong trào có Thánh Antôn Zaccaria.
Sự hăng say canh tân của Thánh Antôn Zaccaria có lẽ khiến nhiều người ngày nay "thất vọng". Vào thời điểm mà nhiều người trong Giáo Hội lẫn lộn giữa thế quyền và thần quyền, thì lời rao giảng, lối sống của Thánh Antôn không khác gì một cản trở cần diệt trừ.
Nhưng lối sống ấy đích thực là linh đạo của Đức Kitô, một Đấng bị đau khổ, bị đóng đinh. Chúng ta cũng không thể "cao trọng hơn Thầy", và con đường thập giá luôn luôn là con đường dẫn đến vinh quang.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết canh tân xã hội và tha nhân với khởi điểm là canh tân chính bản thân mình thành người lành thánh.
Suy niệm 2 - Nhỏ
Bà tận tụy dạy dỗ đạo lý cho Antôn Zaccaria ngay từ nhỏ.
Ngay từ thời xa xưa, việc dạy dỗ cho con cái ngay từ thuở còn bé bỏng vẫn luôn được coi trọng, vì thế có câu: Dạy con từ thuở lên ba, hoặc uốn cây thì không uốn tre mà là uốn măng.
Từ bài học nhân gian, mẫu thân ngài đã biết vận dụng vào lãnh vực tôn giáo.Vì thế ngay từ khi ngài còn nhỏ, mẹ ngài đã tận tụy dạy dỗ đạo lý cho ngài. Nhờ căn bản đạo đức này mà khi lớn lên, ngài vẫn đứng vững không bị ngã gục trước sức tấn công của phe mệnh danh là Cải Cách của Martin Luther, hơn thế ngài còn gia nhập vào phong trào Canh Tân để đối kháng lại. Ngoài ra ngài còn sống đức ái với người nghèo, đặc biệt là các bệnh nhân, và tham gia các hoạt động tông đồ, để rồi sau đó làm linh mục để công việc phục vụ được hữu hiệu hơn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc phụ huynh tận tâm chăm sóc con cái không chì phần xác, phần nhân bản mà còn phần đạo lý và ngay từ lúc chúng còn bé.
Suy niệm 3 - Giáo lý viên
Antôn Zaccaria là một giáo lý viên.
Dầu rất bận rộn với công việc của một bác sĩ phải chăm sóc bệnh nhân tại bệnh viện cũng như tại tư gia, ngài cũng dành thì giờ để tham gia sinh hoạt của một giáo lý viên được xem như một bác sĩ tinh thần, một đàng nhằm chia sẻ gánh nặng của vị chủ chăn, đàng khác nhằm hun đúc tinh thần đạo đức như là nền tảng cho công tác y khoa.
Học được mẫu gương của mẫu thân đã biết vận dụng việc giáo dục nhân bản vào đạo lý, ngài cũng tranh thủ việc hành nghề y khoa, để không chỉ cứu chữa bệnh nhân về phần xác theo chức năng của một bác sĩ, mà ngài còn giúp họ về phần hồn, với nhiều cơ hội gần gũi và tiếp cận với bệnh nhân hằng ngày.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các giáo lý viên không chỉ dừng lại ở việc trao ban các kiến thức về đạo lý ở lớp học, mà còn giúp các học viên sống niềm tin, bằng chính cuộc sống gương mẫu của mình ở ngoài lớp nữa.
Suy niệm 4 - Thánh thiện
Sự thánh thiện của Cha Antôn đã khích lệ nhiều người thay đổi đời sống.
Sự thánh thiện của ngài chẳng những đã giúp chính bản thân ngài mà còn gặt hái được thành quả là giúp được rất nhiều người không xiêu theo phe Cải Cách và thay đổi đời sống mỗi ngày mỗi tốt lành hơn lên, đặc biệt nhờ vào việc ngài thành lập tu hội cũng như mời gọi thực thi một số việc đạo đức khác. Thật thế, khi được sai đến Milan trong một vài năm, ngài thành lập hai tu hội, một cho nam giới và một cho nữ giới. Mục đích của tu hội là canh tân xã hội đang sa sút vào thời ấy, bắt đầu từ hàng giáo sĩ và tu sĩ.
Vì rất cảm kích Thánh Phaolô, ngài đặt tên cho tu hội là Bácnabê - tên bạn đồng hành của Thánh Phaolô - và ngài hăng say rao giảng ở trong nhà thờ cũng như ngoài đường phố, tổ chức các nhóm truyền giáo và không xấu hổ khi công khai ăn năn sám hối. Ngài còn khuyến khích những hình thức sinh hoạt mới mẻ, như giáo dân cộng tác trong công việc tông đồ, siêng năng rước lễ, chầu Thánh Thể và rung chuông nhà thờ vào 3 giờ chiều thứ Sáu hàng tuần.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nỗ lực nên thánh để giúp người nên thánh, vì hiệu năng của men có thể làm dậy cả khối bột.
Suy niệm 5 - Chống đối
Như các vị thánh khác, Cha Antôn cũng bị nhiều người chống đối.
Đó là con đường của mọi môn đệ chân chính mà chính Chúa đã tiên báo: "Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.
Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy" (Ga 15,18-21).
Quả thế, vì ngài sáng lập tu hội với mục đích canh tân xã hội đang sa sút vào thời ấy cũng như đối phó với ảnh hưởng của phe Cải Cách, nên dễ hiểu mũi nhọn đầu tiên nhắm vào chính là phe Cải Cách. Nhưng đau đớn hơn, một đòn rất nặng giáng vào lại chính là nội bộ Giáo Hội. Đã hai lần, tu hội của ngài phải chịu sự điều tra của các giới chức trong Giáo Hội, và cả hai lần đều được miễn trừ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn mang tâm tình của các tông đồ khi bị chống đối, đó là "lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu (Cv 5,41).
Suy niệm 6 - Mẹ
Đang khi trên đường công tác hòa giải, ngài bị bệnh nặng và được đưa về thăm người mẹ.
Đã là môn đệ chân chính của Chúa thì phải coi trọng Chúa hơn mọi mối tình khác dầu là chính đáng ngay cả tình cha mẹ (Lc 14,26). Hiểu thế nên ngài dành cả cuộc đời lúc còn khoẻ mạnh để phục vụ Mẹ Giáo Hội với các chi thể xung quanh (Mt 12,49) chứ không tìm về thăm người mẹ ruột mình.
Nhưng dầu sao đi nữa, nếu không có người mẫu thân với sự chăm sóc tận tụy từ tấm bé thì làm gì có ngài với thành quả như thế. Nên lúc ngài lâm bệnh nặng và sắp từ trần, người ta đã đưa ngài về thăm mẹ ngài, để chuẩn bị ngài về với Mẹ trên trời. Nhưng đó là ý tốt của người chứ không của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khi giữ chữ hiếu đối với người đời thì đừng quên đạo hiếu đối với Chúa, nếu không hơn được thì tối thiểu là bằng chứ đừng thua kém.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 04/7 Thánh Elizabeth ở Bồ Ðào Nha (1271-1336)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Elizabeth ở Bồ Ðào Nha (1271-1336)
Thánh Elizabeth là gương mẫu tuyệt vời về sự tử tế đối với người nghèo và là người hòa giải thành công giữa các hoàng thân thái tử trong hoàng tộc và giữa các quốc gia.
Lược sử
Thánh Elizabeth là một công chúa Tây Ban Nha được gả cho Vua Denis Bồ Đào Nha khi mới mười hai tuổi. Ngoài sắc đẹp và tính tình dễ thương, thánh nữ còn là một người sùng đạo, tham dự Thánh Lễ hàng ngày. Elizabeth là một người vợ nết na thánh thiện. Bà có lòng thương người cách đặc biệt.
Biến cố này đã giúp nhà vua thay đổi lối sống tốt lành hơn. Ông xin lỗi vợ trước mặt mọi người và tỏ lòng hết sức tôn trọng bà.
Bà Elizabeth là gương mẫu tuyệt vời về sự tử tế đối với người nghèo và là người hòa giải thành công giữa các hoàng thân thái tử trong hoàng tộc và giữa các quốc gia
Suy niệm 1: Thánh Lễ
Ngoài sắc đẹp và tính tình dễ thương, thánh nữ còn là một người sùng đạo, tham dự Thánh Lễ hàng ngày.
Một biểu hiện cho tinh thần đạo đức và sùng đạo, đó là việc tham dự Thánh Lễ hàng ngày. Thánh nữ đã trung thành duy trì tập quán lành thánh này đến mức ngay trong những ngày cuối đời của nhà vua, bà không rời ông nửa bước, ngoại trừ khi đi lễ, cho đến khi ông được chết lành.
Ngoài những lợi ích thiêng liêng, Thánh Lễ còn ban những ơn lành hồn xác khi cần thiết. Chẳng hạn một chú tiểu hầu tốt lành nhờ tham dự Thánh Lễ mà được ơn cứu sống, và cũng dịp đó minh oan cho sự vô tội của thánh nữ, đồng thời ban ơn canh tân đời sống cho nhà vua.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con siêng năng tham dự Thánh Lễ hàng ngày để hưởng được những ơn lành hồn xác.
Suy niệm 2: Thánh thiện
Elizabeth là một người vợ nết na thánh thiện.
Sự thánh thiện của thánh nữ được tỏa sáng trong cung cách của một người vợ, khi gặp phải một người chồng vốn ban đầu rất yêu mến vợ nhưng sau đó ông là người đã gây nhiều đau khổ cho bà. Chẳng những ông không muốn bà siêng năng cầu nguyện cũng như luyện tập các nhân đức khác, mà ông còn xét ý trái cho vợ về tội không chung thủy.
Ngoài ra, với sự kiên nhẫn, bà còn chịu đựng sự bất trung của chồng và ngay cả nuôi nấng các người con riêng của ông. Đặc biệt trong những ngày cuối đời của ông, bà tận tình chăm sóc ông cả phần xác lẫn phần hồn với những khuyên bảo, đến mức không hề rời ông nửa bước cho đến khi ông được chết trong ơn nghĩa Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con các hiền mẫu biết chu toàn bổn phận làm vợ và làm mẹ như là phương cách nên thánh của mình.
Suy niệm 3: Thương người
Thánh nữ có lòng thương người cách đặc biệt.
Bà Elizabeth giúp đỡ của hồi môn cho các cô gái nghèo khi đi lấy chồng và thành lập nhiều tổ chức từ thiện, gồm một bệnh viện ở Coimbra, các nhà vãng lai cho khách đi xa, một trung tâm hoàn lương ở Torres Novas, và một cô nhi viện. Chính bà cũng đích thân chăm sóc bệnh nhân.
Sau cái chết của chồng cũng là nhả vua, bà từ giã việc triều chính để xin gia nhập tu viện dòng Thánh Clara Nghèo Hèn ở Coimbra. Sau khi bị từ chối, bà gia nhập dòng Ba Phanxicô và dựng một mái nhà đơn sơ gần tu viện. Trong mười một năm sau cùng, bà thi hành công việc bác ái nhiều hơn và sống hãm mình đền tội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con noi theo gương mẫu tuyệt vời của thánh nữ về sự tử tế đối với người nghèo theo khả năng của mình.
Suy niệm 4: Biến cố
Một biến cố đã giúp nhà vua thay đổi lối sống tốt lành hơn.
Có một lần, nhà vua tin lời nói dối của một tiểu hầu, vì ganh tị, đã dựng chuyện xấu xa về bà Elizabeth với các tiểu hầu khác. Tức giận, nhà vua sai tiểu hầu mà ông tin là có tội đi đến lò vôi. Người thợ nung vôi được lệnh là quăng vào lò bất cứ tiểu hầu nào đến đây đầu tiên. Chú tiểu hầu tốt lành vâng lệnh ra đi, không biết rằng cái chết đang chờ trước mặt.
Trên đường đi, theo thói quen, chú dừng chân tại một nhà thờ để dự lễ, nhưng Thánh Lễ đã bắt đầu được một nửa, do đó chú ở lại dự Thánh Lễ thứ hai. Trong khi đó, nhà vua sai tên tiểu hầu độc ác đến lò vôi để xem xét tình hình. Và đó chính là tiểu hầu bị quăng vào lò lửa! Khi nhà vua biết rõ câu chuyện, ông nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa đã gìn giữ chú tiểu hầu tốt lành, trừng phạt kẻ gian dối, và chứng minh sự vô tội của Hoàng Hậu Elizabeth.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết kịp thời canh tân đời sống trước mỗi biến cố Chúa gởi đến trong đời.
Suy niệm 5: Xin lỗi
Ông xin lỗi vợ trước mặt mọi người và tỏ lòng hết sức tôn trọng bà.
Người lịch sự ở bất cứ trình độ văn minh nào cũng được đánh giá trong lối xử sự bằng cụm từ luôn sẵn trên môi miệng: Xin lỗi và cám ơn.
Ngược lại dầu ở địa vị cao cở nào trong xã hội và có nhiều bằng cấp thế nào đi nữa, mà không biết dùng các cụm từ ấy, thì cũng được xem như một người thiếu văn hóa và thậm chí vô giáo dục.
Chính vì thế nhà vua đã thẳng thắn và mạnh dạn mở lời xin lỗi vợ và cũng là con dân của mình, nhất là không phải cách riêng tư mà công khai trước mặt mọi người. Đó không chỉ là một hành vi văn hóa và lịch sự mà có thể nói đó là một hành vi anh hùng của bậc quân tử.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu rằng việc xin lỗi không hạ giá cá nhân mình mà ngược lại làm gia tăng hơn, nhất là khi một người lớn xin lỗi một người nhỏ hơn.
Suy niệm 6: Hòa giải
Bà Elizabeth là người hòa giải thành công giữa các hoàng thân thái tử trong hoàng tộc và giữa các quốc gia.
Thánh nữ là người đạo đức được biểu hiện nổi bật qua việc siêng năng tham dự Thánh Lễ hằng ngày. Dĩ nhiên ngài thấu hiểu tinh thần của Chúa dạy về vấn đề hòa giải: "Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5,23).
Chắc hẳn với chính bản thân, ngài luôn giữ trọn để hằng ngày an tâm hiệp dâng Thánh Lễ. Nhưng với tha nhân thì sao? Tình thương người cách đặc biệt của ngài cũng đốc thúc ngài giúp họ sống tinh thần đó. Vì thế khi phát hiện có sự bất bình giữa họ dầu trong phạm vi nhỏ hẹp của hoàng tộc hay rộng lớn hơn của các quốc gia, thì ngài cũng hết mình can thiệp để giúp họ hòa giải với nhau, và luôn được thành công.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ cố gắng luôn giữ hòa khí với người mà còn giúp người giữ hòa khí với người khác nữa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 03/7 Thánh Tôma Tông Ðồ
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Tôma Tông Ðồ
Lời ngài tuyên xưng đã trở thành một phát biểu đức tin trong Tân Ước: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!" (x. Gioan 20:24-28), và lời ấy đã trở thành lời cầu nguyện được đọc cho đến tận thế.
Lược sử
Thật tội nghiệp cho Thánh Tôma! Chỉ có một câu nói của ngài mà bị gán cho cái tên "Tôma Hồ Nghi" trong suốt 20 thế kỷ. Nhưng nếu ngài nghi ngờ thì ngài cũng đã tin. Lời ngài tuyên xưng đã trở thành một phát biểu đức tin trong Tân Ước: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!" (x. Gioan 20:24-28), và lời ấy đã trở thành lời cầu nguyện được đọc cho đến tận thế. Cũng nhờ ngài mà Kitô Hữu chúng ta có được lời nhận định của Đức Giêsu: "Anh tin vì anh đã thấy Thầy. Phúc cho những người không thấy mà tin" (Gioan 20:29).
Thánh Tôma cũng nổi tiếng vì sự can đảm của ngài. Thánh Tôma còn được nhắc đến khi Đức Giêsu hiện ra sau Phục Sinh, tại Hồ Tibêria khi bắt được nhiều cá một cách lạ lùng.
Ngài đã chấm dứt cuộc đời qua sự đổ máu cho Thầy mình, đã bị đâm bằng giáo cho đến chết ở nơi gọi là Calamine.
Suy niệm 1: Câu nói
Chỉ có một câu nói của ngài mà bị gán cho cái tên "Tôma Hồ Nghi" trong suốt 20 thế kỷ.
Thật đáng thương cho người bị câm, và thật phúc cho người nói được. Tuy nhiên lời nói cũng có thể kèm theo những hậu quả tai hại với một cái giá phải trả rất đắt, vì một khi lời nói đã thốt ra thì không thể xóa đi được. Đó chính là trường hợp của thánh Tôma tông đồ. Vì lỡ lời mà ngài phải chịu tiếng cứng tin trải qua bao thế kỷ mãi không hết.
Cũng như xưa kia vì một lời hứa bốc đồng, khi hứng khởi trong buổi tiệc sinh nhật trước vũ điệu hấp dẫn của cô gái con bà Hêrôđiađê, mà vua Hêrôđê đã hạ lệnh chém đầu Gioan Tiền Hô đang bị giam cầm trong ngục, dầu tự thâm tâm nhà vua không muốn chút nào (Mt 14,3-11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn giữ gìn miệng lưỡi để không bị vấp phạm trong lời nói
Suy niệm 2: Hồ Nghi
Chỉ có một câu nói của ngài mà bị gán cho cái tên "Tôma Hồ Nghi" trong suốt 20 thế kỷ.
Thánh Tôma chia sẻ số phận của Thánh Phêrô, Thánh Giacôbê và Gioan (những người "con của sấm sét") Thánh Philípphê và lời thỉnh cầu dại dột của ngài khi muốn được nhìn thấy Chúa Cha -- thật vậy mọi tông đồ đều có những khiếm khuyết và thiếu hiểu biết.
Tuy nhiên, chúng ta không thể chỉ chú ý đến các khuyết điểm này, vì Đức Kitô đã không chọn những người vô dụng. Sự yếu đuối của các ngài vì bản tính loài người cho thấy sự thánh thiện là quà tặng của Thiên Chúa, chứ không phải công sức của con người; món quà ấy được ban cho những con người bình thường đầy khiếm khuyết; chính Thiên Chúa là người từ từ biến đổi những khuyết điểm ấy trở thành hình ảnh của Đức Kitô, can đảm, trung tín và nhân hậu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không cười chê khuyết điểm của người mà chủ yếu là khóc thương khiếm khuyết của mình.
Suy niệm 3: Phúc
Phúc cho những người không thấy mà tin.
Trong thực tế, chưa hẳn những gì được chứng nghiệm bằng khoa học hoặc bằng mắt thấy tai nghe thì mới có giá trị thực hữu. Đã có ai nhìn thấy khuôn mặt hoặc nghe được bằng tai giọng nói của các bậc tiền bối trong dòng tộc chưa, thế nhưng ai cũng thừa nhận đó là bậc sinh thành gốc gác của mình được biểu hiện trong các lễ nghi chạp giỗ hằng năm.
Thế mà Đức Kitô Phục Sinh đã chúc phúc cho chúng ta về những điều trong đạo thánh dầu chúng ta không thấy mà tin. Nhưng phúc lớn này sẽ trở thành mối họa không nhỏ cho những ai không sống niềm tin này.
Chúng ta tin có Chúa ở khắp mọi nơi, và Ngài thấu biết hết, cả những gì thầm kín trong tâm trí, thế sao chúng ta lại dễ dàng phạm tội. Niềm tin đâu rồi?
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống niềm tin để xứng với mối phúc Chúa ban.
Suy niệm 4: Can đảm
Thánh Tôma cũng nổi tiếng vì sự can đảm của ngài.
Có thể điều ngài nói là do bốc đồng -- vì ngài cũng bỏ chạy như các tông đồ khác khi Đức Giêsu bị bắt bớ -- nhưng chắc chắn ngài đã không giả dối khi nói lên ý muốn cùng chết với Đức Giêsu.
Đó là khi Đức Giêsu đề nghị đến Bêtania sau khi Lagiarô từ trần. Vì Bêtania rất gần với Giêrusalem, điều đó có nghĩa phải đi bộ ngang qua phần đất của kẻ thù và rất có thể sẽ bị giết chết. Nhận biết sự kiện này, Thánh Tôma nói với các tông đồ khác, "Chúng ta hãy cùng đi để chết với Thầy" (Ga 11,16b).
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn can đảm để dám thực hiện điều mình nói.
Suy niệm 5: Nhắc đến
Thánh Tôma còn được nhắc đến khi Đức Giêsu hiện ra sau Phục Sinh, tại Hồ Tibêria khi bắt được nhiều cá một cách lạ lùng.
Truyền thống nói rằng, sau biến cố Hiện Xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông Đồ đi rao giảng khắp nơi, và Thánh Tôma đã loan truyền Tin Mừng cho người Parthi, Medes, và Ba Tư; sau cùng ngài đến Ấn Độ, đem Đức Tin cho dân chúng ở vùng ven biển Malaba, mà giáo đoàn đông đảo ấy tự nhận họ là "Kitô Hữu của Thánh Tôma."
Thật vinh dự cho ngài, khi không chỉ được nhắc tới mà còn được tôn vinh là thánh nhân, để rồi cả tập thể dân biển Malaba hãnh diện nhận làm con cái của ngài, và nhất là hậu thế sau đó nhiều người đã vinh hạnh chọn ngài làm vị quan thầy cầu bàu cho mình, cũng như học đòi bắt chước các nhân đức trổi vượt của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp những ai mang thánh hiệu ấy cũng như mọi người chúng con luôn sống các ưu điểm của ngài.
Suy niệm 6: Đổ máu
Ngài đã chấm dứt cuộc đời qua sự đổ máu cho Thầy mình.
Được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần, Giáo Hội phải bước đi cùng một con đường mà Đức Kitô đã đi: con đường khó nghèo và vâng lời, phục vụ và hy sinh cho đến chết...
Và vì thế các tông đồ đã bước đi trong hy vọng. Vì Nhiệm Thể của Đức Kitô, là Giáo Hội, các ngài đã cung ứng những gì còn thiếu sót trong sự đau khổ của Đức Kitô qua những thử thách và đau khổ của các ngài (x. Col 1,24)" (Sắc lệnh Về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội, số 5).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng ngại hy sinh và đau khổ vì Chúa, vì đó là cách được thông phần vào Cuộc Tử Nạn của Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 02/7 Thánh Bernardino Realino (1530-1616)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Bernardino Realino (1530-1616)
Thánh Bernardino Realino là một cha giải tội gương mẫu, một vị thuyết giảng lôi cuốn, một thầy giáo cần cù của Ðức Tin cho người trẻ, một chủ chiên tận tụy cho các linh hồn.
Lược sử
Thánh Bernardino Realino sinh trong một gia đình quyền quý ở Capri, nước Ý. Sau khi được người mẹ chăm sóc, dạy bảo kỹ lưỡng về đạo giáo, lớn lên ngài theo học y khoa và học luật ở Đại Học Bologna.
Năm 32 tuổi, ngài được triệu về Naples để giữ chức phó toàn quyền. Ở đây ngài tham dự cuộc tĩnh tâm 8 ngày của các linh mục dòng Tên và đã xin gia nhập dòng này khi 34 tuổi.
Ngài làm việc cật lực ở Naples, tận tụy phục vụ người nghèo và giơi trẻ. Sau đó, ngài được sai đến Lecce là nơi ngài sống bốn mươi năm cuối cùng của cuộc đời.
Ngài nổi tiếng vì công cuộc tông đồ không ngừng nghỉ.. Ngài từ trần với lời cầu khẩn danh thánh Đức Giêsu và Đức Maria.
Suy niệm 1: Quyền quý
Thánh Bernardino Realino sinh trong một gia đình quyền quý ở Capri, nước Ý.
Xuất thân từ một gia đình quyền quý, ngài có đủ điều kiện để tiến thân và nhanh chóng thành đạt. Khi mới 26 tuổi, ngài lấy bằng tiến sĩ luật và làm thị trưởng Felizzano. Ngài còn là chánh án của thành phố. Sau hai nhiệm kỳ, ngài được bổ nhiệm chức vụ trưởng ty quan thuế ở Alesandria, và sau đó làm thị trưởng của Cassine, và Castelleone. Năm 32 tuổi, ngài được triệu về Naples để giữ chức phó toàn quyền. Không chỉ về mặt đời mà còn trong lãnh vực đạo, khi 34 tuổi ngài xin gia nhập dòng Tên. Ba năm sau, ngài được chỉ định làm Giám Đốc Đệ Tử Viện ở Naples. Và nhất là sau khi từ trần, ngài được Đức Giáo Hoàng Piô XII phong thánh năm 1947.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng lãng phí nhưng luôn biết vận dụng các điều kiện có sẵn trong tầm tay để vững bước tiến lên.
Suy niệm 2: Mẹ
Sau khi được người mẹ chăm sóc, dạy bảo kỹ lưỡng về đạo giáo, lớn lên Bernardino Realino theo học y khoa và học luật ở Đại Học Bologna.
Một câu nói khá quen thuộc có liên quan đến đời sống hôn nhân, đó là: đàng sau một người chồng thành đạt thường xuất hiện một người vợ trợ lực. Nhưng với trường hợp của Bernardino Realino thì khác, dầu thành đạt cả mặt đời lẫn mặt đạo, vì sau lưng ngài không ai khác mà chính là thân mẫu của ngài.
Thật thế với điều kiện kinh tế của một gia đình quyền quý, mẹ ngài đã chăm sóc ngài chu đáo để ngài không lạm dụng mà chơi bời lêu lõng nhưng theo đuổi hai môn y khoa và luật, nhờ đó nắm giữ được những chức vụ đáng kể về mặt đời. Nhất là bà cũng quan tâm dạy bảo kỹ lưỡng về mặt đạo, nhờ thế ngài không bị cuốn hút theo danh vọng trần thế mà tìm phục vụ trong lãnh vực tôn giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết vâng nghe những lời dạy bảo lành thánh của cha mẹ như một cách báo hiếu cho các ngài.
Suy niệm 3: Tĩnh tâm
Bernardino Realino tham dự cuộc tĩnh tâm 8 ngày của các linh mục dòng Tên và đã xin gia nhập dòng này khi 34 tuổi.
Thời gian ẩn dật trong vòng ba mươi năm của Đức Giêsu với chỉ ba năm hoạt động công khai là một hình ảnh dậm nét cho thấy tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ Thiên Chúa Cha trong thinh lặng tức một cuộc tĩnh tâm. Cuộc diện kiến của tiên tri Êlia với Thiên Chúa trên núi Khôrếp càng làm nổi bật giá trị của sự thinh lặng nội tâm tức tĩnh tâm, khi Người không đến trong sự ồn ào của cơn gió bão hoặc trận động đất hay đám lửa cháy mà trong sự thinh lặng của tiếng gió hiu hiu (1V 19,11-12).
Cũng nhờ tĩnh tâm mà Bernardino Realino thoát ra được nếp sống bận rộn náo nhiệt thường ngày do chức vụ xã hội tạo nên, để tìm về gặp gỡ Thiên Chúa trong bầu khí tĩnh lặng nội tâm với quãng thời gian 8 ngày.
Với kiến thức và với lòng đạo đức vốn có, ngài đã nhận ra tiếng Chúa mời gọi, đã được Chúa chinh phục và từ đó quyết định chuyển hướng cuộc đời, là thay vì bon chen giũa đời thì nhiệt thành phụng sự Chúa theo linh đạo của Dòng Tên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết tĩnh tâm đù tự tạo hay được tổ chức để dễ lớn lên trên đường nhân đức.
Suy niệm 4: Phục vụ
Bernardino Realino làm việc cật lực ở Naples, tận tụy phục vụ người nghèo và giới trẻ.
Đối tượng ngài lưu tâm phục vụ cách đặc biệt với tinh thần tận tụy, đó là người nghèo và giới trẻ. Lòng bác ái của ngài dành cho người nghèo và người đau yếu dường như vô bờ bến, đến mức thì giờ của ngài không còn là của ngài nữa mà là của giới bất hạnh. Bất kỳ ai đến bất cứ lúc nào đều được ngài ân cần và tiếp đón cách niềm nở, không ai ra về mà không thỏa mãn.
Với giới trẻ, ngài để lộ hẳn sự nhân hậu của ngài khiến sự ngại ngùng không còn. Ngay cả những trẻ đầy khuyết điểm cũng thoải mái đến với ngài để tâm sự và thành tâm tiếp nhận các lời chỉ bảo hữu ích của ngài để được canh tân đời sống. Không riêng gì giới trẻ mà lòng nhân hậu của ngài cũng đã giúp chấm dứt các mối thù truyền kiếp của nhiều người trong thành phố.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con học lấy bài học hiền lành của Chúa để gặt hái được thành quả trong việc xử sự với tha nhân, đặc biệt đối với người nghèo cũng như giới trẻ.
Suy niệm 5: Nổi tiếng
Cha Bernardino Realino nổi tiếng vì công cuộc tông đồ.
Tiếng tăm ngài vang dội đặc biệt về công cuộc tông đồ. Ngài là một cha giải tội gương mẫu, một vị thuyết giảng lôi cuốn, một thầy giáo cần cù của Đức Tin cho người trẻ, một chủ chiên tận tụy cho các linh hồn, cũng như là Giám Đốc trường Dòng Tên ở Lecce và là cha sở ở đây.
Sự trân quý của người dân Lecce đối với ngài quá lớn lao đến độ vào năm 1616, khi ngài đang hấp hối trên giường thì vị đại diện thành phố đã chính thức xin ngài bảo vệ cho người dân sau khi ngài từ trần. Không thể nói nên lời, Thánh Bernardino chỉ gật đầu chấp thuận.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ăn quả thì phải biết nhớ kẻ trồng cây, đặc biệt những hoa trái thiêng liêng nhận được từ các ân nhân.
Suy niệm 6: Danh thánh
Ngài từ trần với lời cầu khẩn danh thánh Đức Giêsu và Đức Maria.
Kêu cầu thánh danh Chúa Gie6su là con đường đơn giản nhất để cầu nguyện liên tục. Khi chăm chú và khiêm tốn kêu cầu liên tục như vậy, chúng ta không "lải nhải nói nhiều" (Mt 6,7), nhưng "nắm giữ Lời Chúa và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả" (Lc 8,15). Lời nguyện này có thể thực hiện mọi lúc", vì đây không phải là một việc khác bên cạnh công việc ta đang làm, nhưng là công việc duy nhất: yêu mến Thiên Chúa; nhờ đó mọi hoạt động của ta được sinh động và có giá trị trong Đức Giêsu (Sách Giáo Lý số 2668).
Đức Maria là Người Cầu Nguyện trọn hảo, là hình ảnh của Hội Thánh. Khi cầu cùng Mẹ, chúng ta cùng với Mê liên kết vào ý định của Chúa Cha, Đấng cử Con Một Người đến để cứu độ toàn thể nhân loại. Mẹ của Đức Giêsu trở thành Mẹ của toàn thể chúng sinh (Ga 19,27). Chúng ta có thể cầu nguyện cùng với Mẹ và kêu cầu Mẹ. Kinh nguyện của Hội Thánh được lời cầu nguyện của Đức Maria nâng đỡ và được kết hiệp với kinh nguyện của Mẹ trong niềm cậy trông (Sách Giáo Lý số 2679).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tập có thói quen đạo đức là kêu cầu thánh danh Chúa và Mẹ, đặc biệt trong giờ lâm tử.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 01/7 Chân Phước Junipero Serra (1713-1784)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Junipero Serra (1713-1784)
Lời trung thực nhất để diễn tả về Chân Phước Junipero là sự nhiệt huyết. Tinh thần đó xuất phát từ sự cầu nguyện chân thành và ý chí bất khuất.
Lược sử
Miguel Jose Serra sinh ở đảo Majorca Tây Ban Nha, và lấy tên Junipero khi gia nhập Dòng Phanxicô. Được thụ phong linh mục năm 1737, ngài dạy triết thần ở Đại Học Lulliana cho đến năm 1749 thì ngài chuyển sang công việc truyền giáo ở Tân Thế Giới và được gửi sang Mễ Tây Cơ.
Vào năm 1768, Cha Serra tiếp quản công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên (là những người đã bị chính quyền trục xuất cách sai lầm) trong tỉnh California Hạ và Thượng, lúc bấy giờ California là một tỉnh của Mễ Tây Cơ.
Cha Serra là một tông đồ hoạt động không biết mệt. Cuộc đời truyền giáo của Cha Junipero là một cuộc chiến. Để duy trì tinh thần truyền giáo hăng say ấy, ngài cầu nguyện hàng đêm, có khi từ nửa đêm cho đến sáng.
Ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước năm 1988.
Suy niệm 1: Tên
Miguel Jose Serra sinh ở đảo Majorca Tây Ban Nha, và lấy tên Junipero khi gia nhập Dòng Phanxicô.
Việc nhận một tên mới đối với một tu sĩ mới có lẽ không có gì mới lạ đối với thủ tục nhập dòng, vì đây như là một lời nhắc nhở, hay đúng hơn là một lời mời gọi đương sự được cải tên phải luôn ý thức, để dứt bỏ lối sống người thế trần trước kia mà tập tu cho phù hợp với lối sống tu trì của một tu sĩ đúng nghĩa.
Nhưng với ngài thì khác, vì dây là một dấu hiệu mang tính thần bí tiên báo cho một tương lai nhiều đổi thay của ngài. Là một linh mục, ngài trở thành một giáo sư dạy triết thần ở Đại Học Lulliana, rồi đến năm 1749 thì ngài chuyển sang công việc của một nhà truyền giáo ở Tân Thế Giới và được gửi sang Mễ Tây Cơ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có đổi thay gì thì cũng phải thay đổi theo chiều hướng tốt lành phù hợp với chương trình của Chúa.
Suy niệm 2: Giáo sư
Junipero dạy triết thần ở Đại Học Lulliana cho đến năm 1749 thì ngài chuyển sang công việc truyền giáo ở Tân Thế Giới.
Là một giáo sư, dĩ nhiên ngoài trình độ tri thức, ngài còn có những khả năng về sư phạm, đặc biệt việc trình bày giáo huấn cho đúng tầm mức hiểu biết và tiếp thu của thính giả.
Thật rất xứng hợp để ngài sử dụng trong lãnh vực truyền giáo cho người thổ dân da đỏ. Không lạ gì ngài đã hoán cải được cả hàng ngàn người da đỏ. Và nhất là với các nhà lãnh đạo quân sự không có cảm tình, ngài cũng tiếp cận và sống hòa nhã được, để không bị trục xuất như các vị tiền nhiệm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết song hành khải đạo và cả khải lòng nữa.
Suy niệm 3: Sai lầm
Cha Serra tiếp quản công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên (là những người đã bị chính quyền trục xuất cách sai lầm).
Con người vốn bất toàn nên ai cũng có thể sai lầm, ngay cả người đứng đầu dân (Is 9,15) hoặc đang nắm chính quyền như các vị hoàng đế. Thật vậy khi quyết định tấn công vua Aram để giành lại Ramốt Galaát, vua Akháp vua Ítraen đã mắc phải sai lầm khi không chịu thỉnh vấn sấm ngôn của Đức Chúa qua tiên tri Mikhagiơhu mà lại tìm đến các tiên tri giả, nên xuất trận và bị giết chết dầu đã cải trang thành lính (1V 22,35).
Con người có thể sai lầm, nhưng Chúa thì tuyệt đối không bao giờ sai lầm (2Cr 1,19), vì Người là Đấng chân thật tuyệt đối (Ga 14,6). Người có thể biến sự dữ thành điều lành cũng như uốn đường cong queo thành thẳng tắp. Vì thế Người đã dùng sự sai lầm của chính quyền khi trục xuất các vị truyền giáo Dòng Tên, để chuyển giao công việc cho Cha Serra với một mùa bội thu vượt trội ở cánh đồng truyền giáo này.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn mặc lấy tâm tình của Giuse khi ngỏ với các anh em tại đất Aicập: Chính Thiên Chúa đã gửi tôi đến đây để cứu sống anh em, chứ không phải các anh (St 45,7-8).
Suy niệm 4: Hoạt động
Cha Serra là một tông đồ hoạt động không biết mệt.
Cha Serra trách nhiệm phần lớn cho việc thành lập và phát triển Giáo Hội ở vùng ven biển phía Tây của Hoa Kỳ khi phần đất này vẫn còn là khu vực truyền giáo. Tổng cộng ngài đã sáng lập 21 trung tâm truyền giáo. Ngài từ trần vào ngày 28 tháng Tám 1784., vì sự lao nhọc trong việc tông đồ.
Lời trung thực nhất để diễn tả về Chân Phước Junipero là sự nhiệt huyết. Tinh thần đó xuất phát từ sự cầu nguyện chân thành và ý chí bất khuất. Châm ngôn của ngài là "luôn luôn tiến bước, đừng bao giờ lùi".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhiệt thành với công việc phụng sự Chúa và tha nhân dầu có phải thiệt thân
Suy niệm 5: Chiến
Cuộc đời truyền giáo của Cha Junipero là một cuộc chiến.
Cuộc chiến đối ngoại chống với giá lạnh và đói khát, với các nhà lãnh đạo quân sự không có cảm tình và ngay cả bị nguy hiểm đến tính mạng vì những người da đỏ. Nhưng cuộc chiến khốc liệt và gay go hơn cả mang tính đối nội, đó là cuộc chiến với bản thân, với bao chước cám dỗ muốn rút lui mỗi khi gặp khó khăn, nhất là sự chống đối liên tục đầy áp lực của giới có thẩm quyền, điều các vị tiền nhiệm không tránh được nên đành phải ra đi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quyết tâm sống châm ngôn của ngài là "luôn luôn tiến bước, đừng bao giờ lùi".
Suy niệm 6: Cầu nguyện
Cha Junipero cầu nguyện hàng đêm, có khi từ nửa đêm cho đến sáng.
Giấc ngủ vẫn thường là một liều thuốc linh nghiệm giúp con người phục hồi sinh lực nhanh chóng, vì thế cổ nhân có câu: Ăn được ngủ được là tiên. Chính Đức Giêsu đã từng tranh thủ thì giờ đi thuyền sang bờ bên kia để ngủ, dầu phải tựa đầu vào chiếc gối ở đàng lái (Mc 4,38).
Dĩ nhiên Cha Serra cũng biết thế, nhưng ngài nhận thấy việc cầu nguyện mới là lợi khí giúp ngài ổn định tinh thần, cũng như là vũ khí thiêng liêng giúp ngài vượt qua các thử thách đang đến dồn dập trong một trường cay nghiệt này. Vì thế thay vì ngủ, ngài đã cầu nguyện hàng đêm, có khi từ nửa đêm cho đến sáng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nắm giữ bí quyết Chúa chỉ dạy là có tỉnh thức cầu nguyện thì mới không sa chước cám dỗ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 30/6 Các Vị Tử Ðạo Tiên Khởi ở Rôma (c. 68 A.D.)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Các Vị Tử Ðạo Tiên Khởi ở Rôma (c. 68 A.D.)
Theo sử gia Tacitus, một "số đông" Kitô Hữu đã bị chết vì "sự thù hận của con người." Thánh Phêrô và Thánh Phaolô có lẽ cùng chung số phận với những người này.
Lược sử
Nhiều năm sau khi Đức Giêsu về trời, chỉ có khoảng một chục người Kitô Giáo ở Rôma, dù rằng họ không phải là những người tòng giáo của "vị tông đồ Dân Ngoại" (Rom 15:20). Khi Thánh Phaolô viết lá thư ấy vào khoảng 57-58 A.D. thì ngài chưa đến thăm họ.
Ở Rôma có nhiều người Do Thái. Có lẽ vì sự tranh chấp giữa những người Do Thái truyền thống và Do Thái theo Kitô Giáo mà Hoàng Đế Claudius đã trục xuất tất cả người Do Thái ra khỏi Rôma trong những năm 49-50 A.D.
Sử gia Suetonius nói rằng việc trục xuất là vì những xáo trộn trong thành phố "gây nên bởi một vài Kitô Hữu." Có lẽ sau khi Claudius từ trần, nhiều người đã trở lại đây vào năm 54, vì lá thư của Thánh Phaolô dường như viết cho một giáo đoàn Dân Ngoại đông đảo.
Vào tháng Bảy năm 64, hơn một nửa thành phố Rôma bị tiêu hủy vì hỏa hoạn. Người ta đồn rằng chính Hoàng Đế Nero đã gây ra thảm kịch này vì muốn nới rộng cung điện của ông. Nero đã mưu mô chuyển hướng bằng cách kết tội người Kitô Giáo. Theo sử gia Tacitus, một "số đông" Kitô Hữu đã bị chết vì "sự thù hận của con người." Thánh Phêrô và Thánh Phaolô có lẽ cùng chung số phận với những người này.
Suy niệm 1: Một chục
Nhiều năm sau khi Đức Giêsu về trời, chỉ có khoảng một chục người Kitô Giáo ở Rôma.
Số lượng người thật quá ít ỏi và bé nhỏ, trong tay lại không có chút quyền lực thế quyền. Với tầm nhìn của người đời, chắc hẳn tương lai thật mịt mù và đen tối. Thế nhưng với sự hiện diện và sự trợ giúp của quyền năng Thiên Chúa, hạt cải bé bỏng này đã vươn lên, trở thành cây to lớn khiến muôn người muôn nước có thể tìm đến núp bóng được.
Lịch sử dân Chúa từ thời Cựu Ước trải qua Tan Ước đã để lại không thiếu những chứng tích xác minh những con người vốn bình thường nhưng là lợi khí của Chúa thì cũng thực hiện được những việc phi thường, chẳng hạn như một trẻ Đavít hạ gục được tướng khổng lồ Gôliát, một góa phụ chân yếu tay mềm lại chém được đầu tướng hùng Hôlôphécnê, hoặc các tông đồ không có chữ nghĩa lại làm Thượng Hội Đồng không biết đối đáp thế nào.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vững tin vào quyền năng của Chúa là Đấng hằng làm được mọi sự.
Suy niệm 2: Tranh chấp
Sự tranh chấp giữa những người Do Thái truyền thống và Do Thái theo Kitô Giáo.
Bất cứ đâu Tin Mừng của Đức Giêsu được rao giảng, ở đó có sự chống đối như Đức Giêsu đã từng gặp, và nhiều người theo Ngài đã chia sẻ sự đau khổ và sự chết của Ngài.
Nhưng không một sức lực nào của loài người có thể ngăn chặn quyền năng của Thần Khí đang giải thoát thế giới. Máu của các vị tử đạo đã từng là, và sẽ luôn luôn là hạt giống đức tin.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đón nhận số phận: Trò thì không hơn thấy, tớ thì không hơn chủ (Mt 10,24).
Suy niệm 3: Trục xuất
Hoàng Đế Claudius đã trục xuất tất cả người Do Thái ra khỏi Rôma.
Hoàng Đế Claudius đã hạ lệnh trục xuất, có lẽ vì sự tranh chấp giữa những người Do Thái truyền thống và Do Thái theo Kitô Giáo. Sử gia Suetonius nói rằng việc trục xuất là vì những xáo trộn trong thành phố "gây nên bởi một vài Kitô Hữu".
Nhưng theo chương trình quan phòng nhiệm mầu của Thiên Chúa thì đây lại là thời điểm giúp cho các kitô hữu sống được tinh thần truyền giáo. Họ buộc phải rời địa phương cư trú để tìm đến những nơi khác lạ, tại đó bằng cuộc sống chứng nhân, họ có cơ hội giới thiệu Chúa cho người ngoại giáo để cùng tìm về đoàn tụ trong một ràn chiên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đọc ra và thực thi Thiên Ý hằng ẩn sâu trong các biến cố của cuộc đời.
Suy niệm 4:Hỏa hoạn
Vào tháng Bảy năm 64, hơn một nửa thành phố Rôma bị tiêu hủy vì hỏa hoạn. Người ta đồn rằng chính Hoàng Đế Nero đã gây ra thảm kịch này vì muốn nới rộng cung điện của ông. Nero đã mưu mô chuyển hướng bằng cách kết tội người Kitô Giáo.
Lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng. Câu nói này đã được hiện thực qua cách xử sự của Hoàng Đế Nero. Thay vì anh hùng nhận lấy trách nhiệm về tội ác của mình thì chạy tội bằng việc đẩy lỗi cho người Kitô Giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thà bị hại chứ đừng bao giờ làm hãi ai.
Suy niệm 5: Chết
Theo sử gia Tacitus, một "số đông" Kitô Hữu đã bị chết vì "sự thù hận của con người."
Đức Giáo Hoàng Clêmentê I, người kế vị Thánh Phêrô đã viết: "Chung quanh các đấng ấy là một đám đông những người được tuyển chọn, mặc dù là nạn nhân của sự ghen ghét, họ đã đem cho chúng ta gương mẫu cao quý nhất về sự chịu đựng khi bị tra tấn và sỉ nhục.
Vì sự đố kỵ mà các phụ nữ phải đau khổ, như bà Dirce hoặc các con gái của Danaus, họ phải đau đớn khủng khiếp vì các hành động thô bạo. Nhưng họ đã can đảm chu toàn đức tin bất kể sự yếu đuối của thân xác và đã chiếm được phần thưởng cao quý".
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin và ơn can đảm để dũng cảm chịu cực hình đến chết vì Chúa.
Suy niệm 6: Thù hận
Theo sử gia Tacitus, một "số đông" Kitô Hữu đã bị chết vì "sự thù hận của con người."
Đức Giáo Hoàng Clêmentê I, người kế vị Thánh Phêrô đã viết: "Chính vì sự đố kỵ và ghen ghét mà các trụ cột vĩ đại và chính trực của Giáo Hội đã bị bách hại và đã chiến đấu cho tới chết...
Trước nhất, Thánh Phêrô, vì sự ghen tương vô lý ngài phải đau khổ không chỉ một hoặc hai lần nhưng nhiều lần, và như thế ngài đã hy sinh làm chứng, đã đến nơi vinh hiển mà ngài đáng được. Vì sự đố kỵ và tranh chấp, Thánh Phaolô đã cho thấy cái giá của sự kiên trì. Ngài bị xiềng xích bảy lần, bị lưu đầy, và bị ném đá; là một sứ giả từ đông sang tây, ngài đáng được kính phục vì đức tin của ngài...
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sẵn lòng đóng trọn vai chiên hiền giữa đàn sói đói.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 29/6 Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (c. 64?)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (c. 64?)
Lược sử
Thánh Phêrô: Thánh sử Máccô chấm dứt phần thứ nhất của Phúc Âm với một tuyệt đỉnh thắng lợi. Sau khi ghi lại nhiều sự hồ nghi, hiểu lầm và chống đối Đức Giêsu, giờ đây Phêrô tuyên xưng đức tin: "Thầy là Đấng Thiên Sai" (Máccô 8:29b). Đó là một trong những giây phút huy hoàng của cuộc đời Thánh Phêrô, kể từ ngày ngài được kêu gọi ở Biển Galilê để trở thành kẻ lưới người.
Tân Ước rõ ràng cho thấy Phêrô là vị lãnh đạo các tông đồ, được Đức Giêsu chọn với một tương giao đặc biệt. Cùng với Giacôbê và Gioan, Phêrô được đặc ân chứng kiến sự Biến Hình, sự sống lại của một đứa trẻ đã chết và sự thống khổ trong vườn Cây Dầu. Bà mẹ vợ của Phêrô bị Đức Giêsu quở trách. Ngài được sai đi với Gioan để chuẩn bị cho lễ Vượt Qua trước khi Đức Giêsu từ trần. Tên của ngài luôn luôn đứng đầu các vị tông đồ.
Nhưng các chi tiết xác thực của Phúc Âm cho thấy các thánh sử không xu nịnh Phêrô. Hiển nhiên ngài là một người không biết giao tế. Và đó là sự an ủi lớn lao cho chúng ta khi thấy Phêrô cũng có những yếu đuối con người, ngay cả trước mặt Đức Giêsu.
Thánh Phaolô: Ngài từng là người Pharixiêu hơn ai hết, trung thành với luật Môisen hơn ai hết. Nhưng bây giờ bỗng dưng ngài xuất hiện trước các người Do Thái như một người lạc giáo của Dân Ngoại, một kẻ phản bội và chối đạo.
Tâm điểm đức tin của Phaolô thật đơn giản và tuyệt đối.
Vào ngày 29-6, chúng ta tưởng nhớ sự tử đạo của hai vị tông đồ.
Suy niệm 1: Lãnh đạo
Tân Ước rõ ràng cho thấy Phêrô là vị lãnh đạo các tông đồ.
Tên của ngài luôn luôn đứng đầu các vị tông đồ, cho xứng hợp với ý hướng muốn cắt đặt Phêrô vào vai trò lãnh đạo Hội Thánh của Đức Giêsu khi Ngài tuyên bố: "Thầy bảo với anh: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Anh cầm buộc gì dưới đất, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; anh tháo cởi điều gì dưới đất, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt 16,18-19).
Sau ngày phục sinh, Đức Giêsu lại tái xác nhận ý muốn này, khi chính thức công bố với Phêrô ở Biển Hồ Tibêria đến ba lần trong vòng ít phút: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy... Hãy chăn dắt chiên của Thầy... Hãy chăm sóc chiên của Thầy" (Ga 21,15-17).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tùng phục các vị lãnh đạo trong Giáo Hội.
Suy niệm 2: Đặc ân
Phêrô được đặc ân.
Ngoài đặc ân được Chúa chọn làm vị lãnh đạo Hội Thánh, Phêrô còn nhận được một số đặc ân riêng và chung khác. Ngài là người duy nhất được Đức Giêsu nói: "Này Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (Mt 16,17).
Cùng với Giacôbê và Gioan, Phêrô được đặc ân chứng kiến sự Biến Hình của Đức Giêsu trên núi Tabo (Mt 17,1-8), sự sống lại của một đứa trẻ đã chết (lc 8,49-56), và sự thống khổ của Đức Giêsu trong vườn Cây Dầu (Mt 26,37).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra và sống hết mình đặc ân được làm con Chúa của mỗi người chúng con.
Suy niệm 3: Yếu đuối
Phêrô cũng có các yếu đuối con người, ngay cả trước mặt Đức Giêsu.
Phêrô đã độ lượng hy sinh mọi sự, tuy nhiên ngài vẫn có thể hỏi một câu thật nông cạn như trẻ con, "Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?" (x. Mt 19:27). Ngài phải chịu sự tức giận vô cùng của Đức Kitô khi chống đối ý tưởng của một Đấng Thiên Sai đau khổ: "Satan, hãy lui ra sau Ta! Anh cản lối Ta. Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mt 16:23b).
Phêrô sẵn sàng chấp nhận lý thuyết về sự tha thứ của Đức Giêsu, nhưng dường như chỉ trong giới hạn bảy lần. Ngài đi trên mặt nước khi vững tin, nhưng bị chìm khi hồ nghi. Ngài không để Đức Giêsu rửa chân cho mình, nhưng lại muốn toàn thân được sạch. Ngài thề không khi nào chối Chúa trong bữa Tiệc Ly, và sau đó lại thề với người tớ gái là ngài không biết người ấy. Ngài trung thành chống lại sự bắt giữ Đức Giêsu bằng cách chém đứt tai tên Mankhô, nhưng sau cùng ngài lẩn trốn với các tông đồ khác. Trong sự phiền muộn vô cùng, Đức Giêsu đã nhìn đến ngài và tha thứ cho ngài, và Phêrô đi ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng thất vọng về thân phận yếu đuối của mình, nhưng biết chỗi dậy ngay sau mỗi lỗi phạm và dùng ngày giờ còn lại để bù đắp dầu phải hy sinh mạng sống.
Suy niệm 4: Chối đạo
Phaolô là một kẻ phản bội và chối đạo.
Ngài từng là người Pharixiêu hơn ai hết, trung thành với luật Môisen hơn ai hết. Với lòng nhiệt thành, ngài đã đồng lõa trong vụ án ném đá thánh Têphanô (Cv 7,58). Ngài xin thư giới thiệu để đi bắt các kitô hữu (Cv 9,1-2).
Nhưng bây giờ bỗng dưng ngài xuất hiện trước các người Do Thái như một người lạc giáo của Dân Ngoại, một kẻ phản bội và chối đạo, sau khi gặp được Đức Giêsu trên đường đi Đamát (Cv 9,3) và trở thành tông đồ của Chúa (Cv 9,15).
Phaolô không bao giờ mất sự yêu quý dòng dõi Do Thái của ngài, mặc dù ngài tranh luận nhiều với họ về sự vô dụng của Luật mà không có Đức Kitô. Ngài nhắc nhở cho Dân Ngoại biết rằng họ được tháp nhập vào tổ tiên của người Do Thái, là các người được Chúa chọn, là con cái của lời đã hứa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thật nhiều, vì theo đạo thì không khó lắm, nhưng sống đạo thì rất là khó.
Suy niệm 5: Đức tin
Tâm điểm đức tin của Phaolô thật đơn giản và tuyệt đối:
Chỉ Thiên Chúa mới có thể cứu chuộc nhân loại. Không một nỗ lực nào của con người -- ngay cả việc tuân giữ lề luật cặn kẽ nhất -- có thể tạo nên công trạng để chúng ta có thể dâng lên Thiên Chúa như của lễ đền tội và đền đáp các ơn sủng. Để được cứu chuộc khỏi tội lỗi, khỏi sự dữ và cái chết, nhân loại phải triệt để mở lòng cho quyền năng cứu độ của Đức Giêsu Kitô.
Tin vào Đức Giêsu Kitô và Đấng đã cử Người đến để cứu độ chúng ta là điều cần thiết để đạt được ơn cứu độ ấy. Vì "không có đức tin thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa" (Dt 11,6) và cũng không thể chia sẻ chức vị làm con Thiên Chúa, nên không ai được công chính hóa mà không cần Đức Tin, và "nếu không bền chí trong đức tin cho đến cùng" (Mt 10,22;24,13), không ai đạt tới cuộc sống muôn đời (Sách Giáo Lý số 161).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mở lòng ra với Chúa bằng việc sống đức tin đến cùng để được cứu độ.
Suy niệm 6: Tử đạo
Vào ngày 29-6, chúng ta tưởng nhớ sự tử đạo của hai vị tông đồ.
Ngày tháng này có từ năm 258, dưới thời bách hại của Valerian, khi các tín hữu tìm cách lấy xác của hai ngài để khỏi rơi vào tay các kẻ bách hại.
Kinh Thánh không ghi lại cái chết của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, hoặc bất cứ vị Tông Đồ nào, ngoại trừ Thánh Giacôbê con ông Giêbêđê (Cv 12,2), nhưng qua các bài đọc và truyền thuyết có từ thời Giáo Hội tiên khởi, các ngài đã tử đạo ở Rôma dưới thời Hoàng Đế Nêrô, và được chôn cất ở đây. Là một công dân Rôma, có lẽ Thánh Phaolô bị chặt đầu. Còn Thánh Phêrô, được biết ngài bị treo ngược đầu trên thập giá.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ chiêm ngắm các ngài như là rường cột của tòa nhà Giáo Hội, mà phải biến mình thành rường cột của xã hội ngày hôm nay bằng cuộc tử đạo thiêng liêng mỗi ngày.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 28/6 Thánh Irenaeus (130?-220)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Irenaeus (130?-220)
Tư tưởng của Thánh Irenaeus không chỉ giúp hình thành nền tảng thần học Kitô Giáo mà còn phô bầy và bài bác các sai lầm của phe Gnostic
Lược sử
Các văn bản của Thánh Irenaeus giúp ngài có một địa vị cao trọng trong các giáo phụ của Giáo Hội. Có lẽ ngài sinh vào khoảng năm 125, trong một vùng ven biển của Tiểu Á là nơi có đông người Kitô Giáo và ký ức về các tông đồ vẫn còn được trân quý. Ngài chịu ảnh hưởng rất nhiều của Thánh Polycarp là người đã từng được gặp các tông đồ hoặc các môn đệ trực tiếp của các ngài.
Khi các linh mục và nhà thừa sai người Á Châu đem tin mừng đến cho người Gaul và thiết lập một giáo hội địa phương ở Lyon, Thánh Irenaeus đã phục vụ ở giáo phận này.
Vào lúc ấy, tuy sự bách hại không còn nhưng lạc thuyết Gnostic tràn lan khắp xứ Gaul. Thánh Irenaeus đã can thiệp với đức giáo hoàng. Đức giáo hoàng đã phản ứng cách thuận lợi và hàn gắn được sự bất hòa.
Vào năm 1562, nhà thờ và hầm mộ của ngài bị phe Calvin tiêu hủy, mọi thánh tích của ngài dường như cũng tiêu tan.
Suy niệm 1: Giáo phụ
Các văn bản của Thánh Irenaeus giúp ngài có 1 địa vị cao trọng trong các giáo phụ của Giáo Hội.
Những thời kỳ Hội Thánh được canh tân cũng là những thời điểm nổi bật về huấn giáo. Có những vị thánh dành một phần quan trọng của thừa tác vụ cho huấn giáo, nên được gọi là giáo phụ, chẳng hạn thánh Syrilô và Gioan Kim Khẩu, Amrôxiô và Augúttinô.
Thánh Irenaeus cũng được gọi như thế, vì các tư tưởng của ngài không những giúp hình thành nền tảng thần học Kitô Giáo, mà còn phô bầy và bài bác các sai lầm của phe Gnostic, gìn giữ được đức tin Công Giáo khỏi những nguy hiểm của lạc thuyết.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết dành thì giờ đào sâu tác phẩm của các ngài để giữ vững đức tin chính truyền của mình.
Suy niệm 2: Ảnh hưởng
Thánh Irenaeus chịu ảnh hưởng rất nhiều của Thánh Polycarp.
Là môn đệ thân tín của thánh Gioan Tông Đồ, thánh Polycarp chịu ảnh hưởng rất nhiều của thánh Gioan để lôi kéo được nhiều người theo lạc giáo Marcion và Valentin về với Chúa. Từ kinh nghiệm bản thân đó, thánh Polycarp cũng cố tạo ảnh hưởng của ngài trên thánh Irenaeus, và kết quả là thánh Irenaeus cũng tích cực chống đối phe Gnostic để bảo vệ đức tin của đoàn chiên.
Thật vậy khi thấy các Kitô Hữu bị ảnh hưởng nặng nề bởi lạc thuyết, ngài biết việc phải làm là phô bầy các lầm lạc của phe Gnostic. Ngài viết năm cuốn sách mà trong đó nêu ra các sai lầm nội tại của các lạc thuyết, lưu hành rộng rãi và rất thành công trong việc đối phó với phe Gnostic.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của việc ảnh hưởng, để xa lánh người xấu và chỉ gần gũi với người tốt thôi.
Suy niệm 3: Phục vụ
Thánh Irenaeus đã phục vụ ở giáo phận này. Lúc đầu ngài phục vụ dưới quyền vị giám mục đầu tiên là thánh Pothinus. Vào năm 177, Irenaeus được sai đến Rôma, vì thế ngài không được phúc tử đạo như Đức Pothinus trong thời kỳ bách hại ở Lyons. Khi trở về, ngài kế vị đức giám mục trông coi giáo phận.
Hai thành quả đáng ghi nhớ của ngài trong thời gian phục vụ tại giáo phận, đó là việc bảo vệ thành công đức tin đoàn chiên trước ảnh hưởng của lạc giáo. Đồng thời ngài cũng hàn gắn được sự bất hòa giữa vị chủ chăn tối cao với một nhóm Kitô Hữu ở Tiểu Á khi rút lại hình phạt vạ tuyệt thông.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dầu ở địa vị nào cũng tìm phục vụ chứ đừng mong chờ được phục vụ.
Suy niệm 4: Bách hại
Vào lúc ấy, tuy sự bách hại không còn nhưng lạc thuyết Gnostic tràn lan khắp xứ Gaul.
Sự bách hại kéo theo cái chết về phần xác dành cho những người cương quyết bảo vệ đức tin với các cuộc tử hình không còn nữa, nhưng một cuộc bách hại tinh vi hơn với cái chết về phần linh hồn dành cho những ai chối bỏ đức tin tinh tuyền chạy theo các lạc thuyết thì lại đang trên đà bành trướng mạnh mẽ.
Ngài viết năm cuốn sách mà trong đó nêu ra các sai lầm nội tại của các lạc thuyết, đồng thời so sánh các thuyết ấy với Kinh Thánh và giáo huấn của các Tông Đồ. Công trình này, được viết bằng tiếng Hy Lạp mà ngay sau đó được dịch sang tiếng La tinh. Từ đó trở đi, ở bất cứ cấp độ nào, lạc thuyết Gnostic không còn là một đe dọa đối với đức tin Công Giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tỉnh thức về mối đe dọa của cuộc bách hại thiêng liêng hằng hoành hành trên khắp thế giới với các quyến rũ xấu xa của trần gian.
Suy niệm 5: Hàn gắn
Thánh Irenaeus đã can thiệp... và hàn gắn được sự bất hòa.
Một nhóm Kitô Hữu ở Tiểu Á bị Đức Giáo Hoàng Victor III ra vạ tuyệt thông vì họ không chấp nhận ngày tháng cử hành lễ Phục Sinh của Giáo Hội Tây Phương. Thánh Irenaeus đã can thiệp với đức giáo hoàng để rút lại hình phạt này.
Ngài cho thấy đó không phải là vấn đề quan trọng vì họ theo thói quen cũ mà Đức Polycarp và Đức Giáo Hoàng Anicetus không coi đó là sự chia cắt trong Giáo Hội. Đức giáo hoàng đã phản ứng cách thuận lợi và hàn gắn được sự bất hòa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn quan tâm đến việc làm lợi khí hòa giải cho bất cứ sự bất hòa nào.
Suy niệm 6: Thánh tích
Mọi thánh tích của Thánh Irenaeus dường như cũng tiêu tan.
Người ta không rõ Thánh Irenaeus từ trần vào lúc nào, nhưng tin là vào năm 202. Thi hài của ngài được chôn trong hầm mộ trong cung thánh của nhà thờ Thánh Gioan, và sau đó được đổi tên là Thánh Irenaeus. Vào năm 1562, nhà thờ và hầm mộ của ngài bị phe Calvin tiêu hủy, mọi thánh tích của ngài dường như cũng tiêu tan. Dầu thánh tích bị tiêu tan nhưng danh thơm tiếng tốt cũng như sự nghiệp bảo vệ đức tin của ngài lại vang xa đến tận cùng thế giới và lan tỏa mọi thế hệ mai sau.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con trân trọng thánh tích, và biểu hiện bằng việc sống giáo huấn của thánh nhân.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 27/6 Thánh Cyril ở Alexandria (376?-444)
- Ngày 26/6 Chân Phước Raymond Lull (1235-1315)
- Ngày 25/6 Chân Phước Jutta ở Thuringia (c. 1264?)
- Ngày 24/6 Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
- Ngày 23/6 Thánh Giuse Cafasso (1811-1860)
- Ngày 22/6 Thánh Paulinus ở Nola (354?-431)
- Ngày 21/6 Thánh Aloysius Gonzaga (1568-1591)
- Ngày 20/6 Thánh Tôma More (1478-1535)
- Ngày 19/6 Thánh Rômuanđô (950?-1027)
- Ngày 17/6 Thánh Gioan Fisher (1469-1535)