Gương Thánh Nhân
Ngày 17/7 Thánh Phanxicô Sôlanô (1549-1610)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Phanxicô Sôlanô (1549-1610)
Thánh Phanxicô Sôlanô cố gắng kêu gọi người thực dân Tây Ban Nha sống đức tin của mình, và cố gắng bảo vệ người thổ dân khỏi bị áp bức.
Lược sử
Thánh Phanxicô Sôlanô sinh ở Andalusia, Tây Ban Nha, theo học trường của các cha dòng Tên, và năm 1569, ngài gia nhập dòng Phanxicô Hèn Mọn. Sau khi thụ phong linh mục, với tất cả nhiệt huyết ngài thi hành mục vụ ở phía nam Tây Ban Nha trong việc cứu vớt các linh hồn.
Sau đó, ngài được sai đi truyền giáo ở Peru, Nam Mỹ. Khi gần đến Peru, con tầu bị bão và mắc cạn. Trong hai mươi năm ở các vùng mà bây giờ là Á Căn Đình, Bovilia và Paraguay, ngài làm việc không ngừng nghỉ cho người thổ dân và người thực dân Tây Ban Nha.
Người ta nói rằng Cha Phanxicô Sôlanô có tài học tiếng bản xứ rất mau chóng, và sau một vài phép lạ ngài được dân chúng gọi là "người kỳ diệu của Tân Thế Giới". Ngài từ trần ở Lima và được phong thánh năm 1726.
Suy niệm 1: Mục vụ
Cha Phanxicô Sôlanô thi hành mục vụ ở phía nam Tây Ban Nha.
Là một linh mục, ngài phải thi hành mục vụ nhưng với tất cả nhiệt huyết nhằm cứu vớt các linh hồn. Ngài đã duy trì tinh thần này suốt đời không chỉ ở Tây Ban Nha khi còn trai trẻ, mà cả khi đã lớn tuổi với sứ vụ truyền giáo tại môi trường mà bây giờ là Á Căn Đình, Bovilia và Paraguay. Ngài thể hiện tinh thần này bằng cách làm việc không ngừng nghỉ cho người thổ dân và người thực dân Tây Ban Nha.
Một công tác mục vụ mà ngài cũng quan tâm đáng ứng kịp thời dầu hiểm nguy, đó là cứu chữa các bệnh nhân. Trong thời gian có trận dịch ở Granada, ngài tận tụy chăm sóc các bệnh nhân và chính ngài cũng bị lây bệnh nhưng đã bình phục mau chóng. Một trong những thói quen của ngài, rất giống Cha Thánh Phanxicô, là chơi vĩ cầm cho các bệnh nhân thưởng thức và thường hát các bài mừng kính Đức Mẹ trước bàn thờ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị mục tử cũng đặc biệt quan tâm đến việc cứu với linh hồn các bệnh nhân mắc phải các căn bệnh hiểm nghèo thậm chí có thể bị lây nhiễm khi tiếp cận chỉ bảo.
Suy niệm 2: Truyền giáo
Cha Phanxicô Sôlanô được sai đi truyền giáo ở Peru, Nam Mỹ.
Qua kinh nghiệm bản thân, Thánh Phanxicô Sôlanô biết, nhiều khi đời sống Kitô Hữu là một trở ngại lớn cho việc truyền giáo. Chính thánh nhân đã sống làm gương, và thúc giục người đồng hương Tây Ban Nha sống xứng đáng với ơn gọi khi được rửa tội. Một cách điển hình hơn, khoảng năm 1601, ngài được gọi về Lima, Peru, là nơi ngài cố gắng kêu gọi người thực dân Tây Ban Nha sống đức tin của mình. Ngài còn cố gắng bảo vệ người thổ dân khỏi bị áp bức.
Ngài cảm nghiệm và thấu hiểu tâm trạng của Đức Giêsu trên bước đường truyền giáo khi phải nặng lời khiển trách các đầu mục Dothái: "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào... Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người" (Mt 23,13.15).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nỗ lực truyền giáo bằng đời sống chứng nhân, chứ đừng phản chứng gây tác hại cho công cuộc này.
Suy niệm 3: Bão
Khi gần đến Peru, con tầu bị bão và mắc cạn.
Với sứ mạng truyền giáo, ngài ý thức yếu tố chứng nhân thật quan trọng, nên ngài đã sống lời chỉ dạy của Vị Mục Tử: "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên" (Ga 10,11-13).
Do đó, trong khi giông bão đang phá vỡ con tầu ra từng mảnh, mọi người được lệnh phải bỏ tầu bơi vào bờ thì Cha Phanxicô Sôlanô đã can đảm ở lại, cứu vớt những người nô lệ da đen còn kẹt trong khoang tầu. Ngoài một số bị chìm, tất cả đã được cứu thoát và đưa đến Lima, Peru.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức yếu tố chứng nhân thật quan trọng, đặc biệt trong công cuộc truyền giáo.
Suy niệm 4: Không ngừng nghỉ
Cha Phanxicô Sôlanô làm việc không ngừng nghỉ cho người thổ dân và thực dân Tây Ban Nha.
Làm việc không ngừng nghỉ, đó là tinh thần mà ngài sống theo mẫu gương của Thiên Chúa hằng làm việc liên lĩ (Ga 15,17) qua cách Người bảo tồn thụ tạo mà Người đã tạo dựng nên, vì nếu không có bàn tay quan phòng và bảo trì của Thiên Chúa thì tất cả sẽ trở về cát bụi (Tv 104,27-29).
Theo gương Đức Giêsu, để cứu người và giới thiệu Chúa cho con người, Người phải xuống trần làm người và dùng ngôn ngữ của loài người. Cha Phanxicô Sôlanô cũng đầu tư hết thì giờ để học tiếng bản xứ và người ta nói rằng ngài có tài học tiếng bản xứ rất mau chóng. Đàng khác ngài thấu biết các bài học trường đời: ở dưng là mẹ của đói khát (Tb 4,13) và nhàn cư vi bất thiện (Hc 33,28), nên ngài phải làm việc không ngừng nghỉ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng vì lười biếng mà viện cớ là không có thì giờ, nhưng hãy biết sắp xếp công việc hợp lý để luôn có đủ thì giờ làm việc.
Suy niệm 5: Kỳ diệu
Sau một vài phép lạ, Cha Phanxicô Sôlanô được dân chúng gọi là "người kỳ diệu của Tân Thế Giới".
Phép lạ cũng có nghĩa là những việc kỳ diệu mà thông thường một người bình thường không thể làm được. Vì thế khi chứng kiến những điều lạ lùng ngài thực hiện, dân chúng cũng gọi ngài là con người kỳ diệu.
Thật ra ngài đã từng bị lây nhiểm khi chăm sóc bệnh nhân nhưng rồi lại mau chóng bình phục thì cũng là một điều diệu kỳ. Nhất là phương cách chữa bệnh bằng tâm lý và thiên linh vào thời đó mà có hiệu quả cũng có thể được xét là kỳ diệu, khi ngài cho bệnh nhân nghe vĩ cầm và các bài hát kính Đức Mẹ
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra sự kỳ diệu trong tiến trình thông thường của bản thân và vũ trụ để tôn vinh Thiên Chúa diệu kỳ.
Suy niệm 6: Từ trần
Cha Phanxicô Sôlanô từ trần ở Lima và được phong thánh năm 1726.
Khi Cha Phanxicô Sôlanô đang hấp hối, một thầy trợ sĩ nói với ngài: 'Thưa cha, khi Chúa đưa cha lên thiên đàng, xin cha hãy nhớ đến con trong vương quốc vĩnh cửu ấy".
Với sự hân hoan, Cha Phanxicô trả lời: "Thật đúng như vậy, cha sẽ vào thiên đàng nhưng đó là nhờ sự thống khổ và cái chết của Đức Giêsu Kitô; cha chỉ là một người rất tội lỗi. Khi cha đến quê trời, cha sẽ là người bạn tốt của con".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn là bạn tốt của mọi người khi sống cũng như khi chết.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 16/7 Ðức Bà Núi Camêlô
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ðức Bà Núi Camêlô
Áo Đức Bà núi Camêlô tượng trưng cho sự bảo vệ đặc biệt của Ðức Maria và kêu gọi người mang áo ấy hãy tận hiến cho ngài trong một phương cách đặc biệt.
Lược sử
Từ thế kỷ 12, ở núi Camêlô đã có các vị ẩn tu sống gần một suối nước mà Tiên Tri Elijah từng sinh sống ở đây. Họ xây một nguyện đường dâng kính Đức Mẹ. Cho đến thế kỷ 13, họ được gọi là "Các Tiểu Đệ của Đức Bà Núi Camêlô." Sau đó, họ dành một ngày đặc biệt để mừng kính Đức Maria. Vào năm 1726, ngày lễ ấy trở nên chính thức trong Giáo Hội hoàn vũ dưới tên Đức Bà Núi Camêlô. Qua nhiều thế kỷ, các tu sĩ Camêlô tự coi mình có liên hệ đặc biệt với Đức Maria. Các thần học gia và các thánh vĩ đại của dòng Camêlô thường cổ động lòng sùng kính Đức Maria và bênh vực cho đặc tính Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria.
Có một truyền thuyết nói rằng Đức Maria đã hiện ra với Thánh Simon Stock, một bề trên Dòng Camêlô, và đã trao cho ngài một khăn choàng, bảo ngài hãy cổ động lòng sùng kính khăn ấy.
Suy niệm 1: Núi Camêlô
Từ thế kỷ 12, ở núi Camêlô đã có các vị ẩn tu sống gần một suối nước mà Tiên Tri Elijah từng sinh sống ở đây.
Đề cập đến núi Camêlô, không ai không nghĩ ngay đến Tiên Tri Elijah, không hẳn về nơi ngài đã từng sinh sống ở đây, mà nhất là về một hy lễ đã được tiến hành ở đây, hay đúng hơn một cuộc chiến căng thẳng không cân bằng lực lượng chút nào đã xảy ra giữa duy chỉ một mình Tiên Tri Elijah với bốn trăm năm mươi ngôn sứ của Baan. Tất cả nhằm giúp toàn dân bày tỏ lập trường chọn theo Thiên Chúa hay Thần Baan qua việc hy lễ được Vị nào tiếp nhận.
Hy lễ là mỗi bên một con bò mộng, chặt ra và đặt trên củi nhưng không châm lửa. Mỗi bên kêu cầu Vị của mình. Vị nào đáp lại bằng lửa thì Vị đó là Vị chân chính vì toàn năng. Các ngôn sứ của Baan khởi sự kêu xin từ sáng đến trưa nhưng vẫn không có hiệu quả. Đến lượt Tiên Tri Elijah, ngài lấy 12 phiến đá dựng lên bàn thờ kính Chúa và đào mương chung quang, xếp củi và đặt lể vật lên, rồi cho đổ nước ướt đẫm tràn xuống đầy mương. Bấy giờ ngài cầu nguyện và Chúa khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi của lễ, củi, đá và bụi, cả nước trong mương cũng hút cạn luôn (1V 18,20-39).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng khập khiễng hai chân, nhưng chỉ thờ phượng duy chỉ một mình Chúa mà thôi
Suy niệm 2: Suối nước
Từ thế kỷ 12, ở núi Camêlô đã có các vị ẩn tu sống gần một suối nước mà Tiên Tri Elijah từng sinh sống ở đây.
Nước rất cần thiết cho sự sống cũng như cho các sinh hoạt của con người như tạo không khí mát mẻ và tắm rửa. Do đó các vị ẩn sĩ đã chọn một địa điểm ở núi Camêlô và gần một suối nước, nhằm bảo đảm cuộc sống vừa thân xác vừa tinh thần theo mẫu gương cầu nguyện của Tiên Tri Elijah.
Nước trong hy lễ của Tiên Tri Elijah càng làm tăng thêm sức mạnh đầy quyền năng của Thiên Chúa mà vị tiên tri đã khéo đạo diễn, khiến những người diện kiến phải chịu khuất phục, để chỉ phải còn lại một lập trường duy nhất là chọn theo Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết chọn Chúa trong từng giây phút của cuộc đời trước mọi chước cám dỗ đầy tinh quái của quỷ ma.
Suy niệm 3: Gọi
Cho đến thế kỷ 13, họ được gọi là "Các Tiểu Đệ của Đức Bà Núi Camêlô".
Ngay từ thuở ban đầu, các tu sĩ dòng Cát Minh thường được gọi là các "Tiểu Đệ của Đức Bà Camêlô." Danh xưng này có nghĩa, các ngài không chỉ coi Đức Maria như một "người mẹ", mà còn là một "người chị".
Chữ chị nói lên ý nghĩa Đức Maria rất gần với chúng ta. Ngài là người con của Thiên Chúa và do đó có thể giúp chúng ta trở nên con cái xứng đáng của Thiên Chúa. Ngài còn giúp chúng ta quý trọng tha nhân như anh chị em mình. Ngài giúp chúng ta nhận thức rằng mọi người đều thuộc về một gia đình của Thiên Chúa. Chỉ khi nào mọi người đều tin tưởng như vậy thì nhân loại mới hy vọng tìm thấy con đường dẫn đến bình an.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống tình huynh đệ với mọi người nhất là mỗi khi đọc kinh Lạy Cha.
Suy niệm 4: Mừng kính
Họ dành một ngày đặc biệt để mừng kính Đức Maria.
Vào năm 1726, ngày lễ ấy trở nên chính thức trong Giáo Hội hoàn vũ dưới tên Đức Bà Núi Camêlô, và hiện nay hiện mừng kính vào ngày 16 tháng 7 hằng năm trong niên lịch phụng vụ của Giáo Hội. Qua nhiều thế kỷ, các tu sĩ Camêlô tự coi mình có liên hệ đặc biệt với Đức Maria.
"Nhiều hình thức tôn sùng Mẹ Thiên Chúa mà Giáo Hội đã chấp nhận trong khuôn khổ giáo lý lành mạnh và chính thống, tùy theo khuynh hướng và sự hiểu biết của người tín hữu để đảm bảo rằng, trong khi người mẹ được tôn vinh thì người Con cũng được nhận biết cách xứng hợp, đươc kính mến, được vinh danh và các giới răn của Người được tuân giữ, vì qua Người mà muôn vật được tạo thành (x. Cl 1,15-16) và trong Người mà Thiên Chúa Cha hài lòng vì tất cả được viên mãn nơi Người (x. Cl 1,19) (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, 66).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ sùng kính Đức Maria trong ngày chính lễ này mà cả suốt năm và suốt đời.
Suy niệm 5: Các thánh
Các thần học gia và các thánh vĩ đại của dòng Camêlô thường cổ động lòng sùng kính Đức Maria và bênh vực cho đặc tính Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria.
Thánh Têrêsa Avila gọi Dòng Camêlô là "Dòng của Đức Trinh Nữ." Thánh Gioan Thánh Giá cho rằng Đức Maria đã cứu ngài khỏi chết đuối khi còn nhỏ, đã dẫn dắt ngài đến dòng Camêlô và đã giúp ngài thoát khỏi tù ngục. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu tin rằng Đức Maria đã chữa ngài khỏi bệnh. Vào ngày Rước Lễ Lần Đầu, ngài dâng mình cho Đức Maria. Trong những ngày cuối đời, ngài thường nói về Đức Maria.
Đặc tính Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria được các ngài bênh vực vì đó là một tín điều mà vào ngày 8 tháng Mười Hai 1854, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã chính thức tuyên bố trong Hiến Chế Ineffabilis Deus, và nhất là khoảng hơn ba năm sau, vào ngày 11 tháng Hai 1858, chính Đức Maria đã hiện ra với Bernadette Soubirous tại Lộ Đức vào ngày 24 tháng Ba, và tự xưng là: "Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thể hiện tinh thần bênh vực tín điều này bằng việc hết mình sống sạch tội, ít là các tội cố tình.
Suy niệm 6: Khăn choàng
Có một truyền thuyết nói rằng Đức Maria đã hiện ra với Thánh Simon Stock, một bề trên Dòng Camêlô, và đã trao cho ngài một khăn choàng, bảo ngài hãy cổ động lòng sùng kính khăn ấy.
Khăn choàng là một hình thức biến đổi của áo Đức Bà. Nó tượng trưng cho sự bảo vệ đặc biệt của Đức Maria và kêu gọi người mang khăn ấy hãy tận hiến cho ngài trong một phương cách đặc biệt.
Hiển nhiên, điều này không có nghĩa được cứu chuộc một cách lạ lùng. Đúng hơn, khăn choàng nhắc nhở chúng ta nhớ đến lời mời gọi của Phúc Âm là hãy siêng năng cầu nguyện và hãm mình đền tội -- là lời mời gọi mà Đức Maria đã thể hiện một cách tốt đẹp nhất.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chủ yếu sống đúng tinh thần mà các biểu hiệu nhắc nhở và mời gọi.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 15/7 Thánh Bonaventura
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Thánh BÔNAVENTURA
Giám mục, tiến sĩ hội thánh.(1221 - 1274)
Sinh năm 1221 tại Bagnorea, gần Viterbo, thánh Bonaventura là con ông Giovanni di Fidanza và bà Ritella. Ngài được đặt tên là Giovanni, lúc lên bốn, Ngài lâm trọng bệnh vô phương cứu chữa. Người mẹ vội ẵm Ngài tới gặp thánh Phanxicô khó khăn. Thánh nhân thương cha mẹ dâng lời cầu nguyện và Giovanni hết bệnh. Sung sướng, người mẹ kêu lên: "Obuona Ventura" (Ôi biến cố phúc hậu). Từ đó Giovanni mang tên Bônaventura. Ngài theo học tại dòng anh em hèn mọn.
Tới tuổi 15, Bonaventura theo học tại Paris, trung tâm ánh sáng thời đó. Ngài sống thanh trong đến nỗi Alexandre de Hales nhận xét: - Anh giống như Adam chưa hề phạm tội.
Ngài kết thân với sinh viên tài ba khác là Thomas Aquinô. Ngỡ ngàng về sự hiểu biết của bạn mình. Thomas hỏi Bonaventura xem Ngài đã học sách nào ? Bonaventura chỉ cây thánh giá trả lời: - Đây là nguồn mọi hiểu biết của tôi. Tôi học Chúa Giêsu bị đóng đinh.
Năm 1257, Ngài được chọn làm bề trên cả dòng Phanxicô. Tình thế Ngài phải đối diện rất là phức tạp. Trong dòng đang có sự phân rẽ giữa những người nhiệt tâm muốn tuân giữ nghiêm nhặt luật dòng và những người muốn chước giảm. Nhờ sự thánh thiện và tài khéo léo, Bonaventura đã giải quyết các vấn đề cách ổn thỏa, đến nỗi Ngài đang được gọi là Đấng sáng lập thứ hai của dòng. Trong kỳ đại hội ở Narbonne 1250, Ngài đã ban hành hiến pháp đầu tiên cho dòng. Sau đó Ngài liên tiếp thăm viếng không biết mệt các tỉnh dòng để quan sát việc thực hiện bản quy luật này.
Chính Ngài tổ chức việc học hành cho các giáo sĩ trong dòng, làm cho công cuộc tông đồ được phổ biến rộng rãi đến cả những bậc thức giả lẫn giới bình dân. Chính Bonaventura là một nhà dòng giảng thuyết có biệt tài. Ngài đã giảng thuyết từ các tu viện, tới các thành phố ở Au Châu, trước mặt vua Luy IX Đức giáo hoàng. Luôn luôn Ngài thu phục được cảm tình của thính giả.
Một thầy dòng khiêm tốn tên là Gilles hỏi Ngài: - Các cha thông thái, được Chúa ban cho nhiều tài năng. Còn chúng con, chúng con có thể làm gì được ?
Bonaventura trả lời: - Nếu Chúa ban cho một người tài năng khác là ơn yêu mến Ngài thế là đủ rồi, và là kho tàng quí báu nhất.
Thầy dòng hỏi tiếp: - Một người không biết đọc biết viết có thể yêu mến Thiên Chúa như một nhà thông thái biết mọi sự không ?
Thánh nhân trả lời: - Chắc chắn rồi, một bà già có thể yêu Chúa hơn cả một nhà tiến sĩ thần học.
Thày dòng vui vẻ la lớn: - Một bà già có thể yêu Chúa hơn cả cha Bonaventura của chúng ta nữa.
Ngài còn tiếp: - Biết một chút về Chúa còn hơn là biết mọi sự trong trời đất.
Ngoài những hoạt động bên ngoài ấy. Bonaventura còn lo viết sách để huấn luyện các tu sĩ và những sách về triết học, thần học và thánh kinh. Chúng ta có thể kể đến cuốn "chú giải luật dòng Phanxicô", "hạnh tích thánh Phanxicô" nhất là cuốn "hành trình của linh hồn hướng về Thiên Chúa".
Trong nỗ lực xây dựng Hội Thánh, Bonaventura luôn tỏ ra khiêm tốn. Người ta kể rằng: Đức giáo hoàng Grêgoriô X truyền cho thánh Thomas và thánh Bonaventura soạn thảo bộ kinh lễ Thánh Thể. Khi hai vị vào yết kiến đức giáo hoàng trình bày công việc, thánh Bonaventura xé nát bản văn của mình.
Cùng với lời khiêm tốn ấy, Bonaventura đã từ chối chức Tổng giám mục thành York mà Đức giáo hoàng Clêment IV đề nghị, lòng khiêm tốn ấy không ngăn cản sự cương quyết và can đảm của Ngài chống lại thuyết sai lầm của thuyết Aristote và Avéoes... Nhưng Đức giáo hoàng Grêgoriô X đã quyết định đặt Ngài làm hồng y cai quản giáo phận Albanô và truyền Ngài về Roma ngay.
Khi hai sứ thần mang mũ hồng y đến, Ngài còn đang rửa chén. Ngày 28 tháng 5 năm 1273 Ngài nhận chức và là cánh tay đắc lực của đức giáo hoàng. Phần đóng góp của Ngài vào sự hợp nhất Giáo hội Hy lạp và Roma tại công đồng Lyon thật lớn lao.
Nhưng khi công đồng Lyon còn đang nhóm họp thì Bonaventura từ trần ngày 14 tháng 7 năm 1274. Đức Sixtô IV phong Ngài lên bậc hiển thánh năm 1482 và đức Sixtô V đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1858. Người ta gọi Ngài là "Tiến sĩ sốt mến".
(daminhvn.net)
Ngày 14/7 Thánh Camillô Lellis, Linh mục
- Viết bởi HẠNH CÁC THÁNH
Thánh Camillô Lellis, Linh mục
Thánh Camillô Lellis là con của ông Gioan Laliis, một hiệp sĩ danh giá trong quân đội của Chales-Quint. Mẹ Ngài thuộc vào một gia đình thời danh nhất ở Neples. Từ những năm đầu thời hôn nhân, họ có được một người con, nhưng lại bị cất đi ngay, khi đứa bé còn ở trong nôi. Lúc bà Lellis 60 tuổi, sau bao lời cầu xin khẩn thiết, bà đã sinh ra Camillô vào ngày 25 tháng 5 năm 1550. Khi đang mang thai, bà đã thấy mộng con trẻ mang trên ngực một hình thánh giá, có vô số trẻ em theo sau. Mộng thấy vậy, bà lo sợ rằng mình sẽ sinh hạ một người con làm đầu bọn cướp, Camillô mới sinh ra ít lâu thì mồ côi mẹ. Chưa được 6 tuổi, Ngài lại mồ côi cha. Do những tai họa này, việc giáo dục Camillô bi bỏ mặc.
Những buổi đầu đời của con trẻ đã chứng thực điều lo sợ của người mẹ là đúng. Camillô biếng nhác và phóng túng, lao mình vào cuộc chơi. Đến tuổi 19, Ngài theo đuổi binh nghiệp và năm năm sau Ngài xuất ngũ.
Người thanh niên này phung phí hết tài sản và lâm cảnh cùng quẫn, phải làm phụ hồ cho công trình xây cất nhà cho các cha Phanxicô. Tại Fermô, Ngài gặp hai thầy dòng và mến phục nết đạo đức khiêm tốn của hai vị. Tự đáy lòng, Camillô nguyện một ngày kia sẽ nhập dòng. Bỏ binh nghiệp, Ngài đến nhà dòng Phanxicô ở Aquila. Một người cậu của Camillô giữ cổng nhà dòng này. Camillô kể lại cho ông nghe tất cả những gì đã qua và xin được mặc áo dòng. Cha giữ cửa biết rõ quá khứ đau lòng của cháu, muốn thử thách ơn kêu gọi bất ngờ này đã từ khước trong một thời gian.
Camillô lại rơi vào cơn rối loạn. Ngài trở nên bất hạnh đến nỗi phải đi ăn xin cùng với một người lính cùng khốn khổ như Ngài. Ngày lễ thánh Anrê năm 1574, Ngài ăn xin ở cửa nhà thờ Manfredonia. Một lãnh chúa đi qua. Ông thương tình đề nghị Camillô làm việc cho nhà dòng. Camillô nhận lời, ngày kia trước lời khuyên nhủ của một cha dòng, Ngài động lòng và bật tiếng khóc.
- Lạy Chúa, thật là khốn cho con. Tại sao con biết Chúa trễ quá ? Sao con có thể giả điếc làm ngơ trước bao nhiêu lời mời gọi của Chúa như vậy được. Xin Chúa tha thứ cho con là đứa tội lỗi khốn nạn. Xin hãy cho con đủ thời gian đền bù tội lỗi của con.
Lúc đó Camillô 25 tuổi. Ngài xin nhập dòng ngày hôm đó và được nhận vào tập viện. Nhưng một mụn nhọt ở chân mở miệng, Ngài phải đi chữa trị. Lành bệnh Ngài trở lại dòng, nhưng mụn nhọt lại mở miệng. Các bác sĩ cho rằng ung nhọt này vô phương chữa trị. Ngài được nhận vào một bệnh viện nan y ở Roma. Nơi đây Camillô nhận ra ơn gọi của mình. Ngài thấy các nhân viên được trả lương như vô tâm trước nỗi đau đớn của các bệnh nhân. Ngài tận tụy phục vụ các bệnh nhân ngày đêm. Ngài còn qui tụ các bạn thành một để thực hành đức ái nữa. Trên ngực họ đeo một thánh giá đỏ. Công việc nặng nề và các bạn Ngài thường tỏ ra lo lắng. Camillô nhắc cho họ lời của thánh Catarina thành Siêna:
- Hãy lo cho ta và ta sẽ lo lắng cho con.
Camillô được đặt cai quản nhà thương, lệnh Ngài đưa ra là:
- Hãy phục vụ bệnh nhân như phục vụ chính Chúa Giêsu vậy.
Để phục vụ hữu ích hơn, Ngài đã theo lời khuyên của Đức Hồng Y Taragi để tiến tới chức linh mục. Nhưng trở ngại quá lớn, vì học thức Ngài còn quá kém. Một thị kiến đã giúp Ngài can đảm thắng vượt mọi khó khăn. Ngài thấy Chúa Kitô đưa tay ra nói:
- Camillô, con đừng sợ chi, cha sẽ giúp đỡ con và ở cùng con.
32 tuổi, Ngài không mắc cỡ khi ngồi với các em nhỏ để học vần Latinh. Sự kiên trì đã giúp người kinh viện này vượt qua mọi khó khăn. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1584, Camillô thụ phong linh mục và dâng thánh lễ đầu tiên tại nhà thờ thánh Giacôbê. Vài tháng sau, Ngài được trao phó cho cai quản nhà thờ Đức Bà hay làm phép lạ. Tại đây, Ngài thiết lập một tu hội. Anh em qui tụ quanh Ngài dấn thân phục vụ những người hấp hối ở bất cứ nơi nào. Họ luôn trung thành với lời khuyên của Ngài: Hãy hồi tâm để dâng lên những lời kinh nguyện tắt và các bạn sẽ được nâng đỡ đặc biệt bên cạnh các bệnh nhân. Chớ gì họ biết cầu xin ơn tha thứ, biết dâng cái chết của họ hợp với sự chết của Chúa Giêsu Kitô và xin Người đón nhận linh hồn họ vào lòng nhân từ Người.
Năm 1586, Đức giáo hoàng Sixtô V chấp thuận chương trình của Ngài. Năm 1588, Ngài được gọi đến lập tu viện ở Napples. Nơi đây Ngài đã thực hiện những hành vi đức ái kỳ diệu đối với các nạn nhân của một cơn dịch hạch. Năm 1591, Đức giáo hoàng Grêgôriô XV đã nâng tu hội của Ngài thành dòng tu, ngoài ba lời khấn còn có lời khấn thứ tư là hiến thân phục vụ nhân loại đau khổ, dầu bởi bất cứ bệnh tật nào. Dòng thánh Camillô phổ biến khắp nước Ý và còn phổ biến sang cả Pháp, Tây Ban Nha.
Con số tu sĩ và nhà dòng ngày một nhiều. Tuy nhiên, lòng tin tưởng của Camillô vào Chúa quan phòng thật vô bờ. Các chủ nợ lo âu hỏi Ngài:
- Bao giờ cha mới trả hết nợ cho chúng tôi ?
Ngài trả lời:
- Đừng sợ gì Thiên Chúa quyền năng không gởi cho chúng ta món tiền nào sáng mai sao ?
Các chủ nợ cười nói:
- Thời phép lạ đã qua rồi.
Nhưng rồi vài ngày sau, Ngài được những túi tiền lớn đủ để trả nợ. Sự quan phòng cho thấy rằng các phép lạ có mãi cho những ai phó thác cho Chúa. Khi tuổi cao, Camillô vẫn không giảm bớt những phục vụ bên cạnh các người đau khổ. Thấy vậy, các bệnh nhân nói:
- Cha nghỉ đi kẻo té ngã mất.
Nhưng các Ngài trả lời:
- Này các con, cha là nô lệ của các con, cha phải làm mọi sự có thể làm được để phục vụ các con.
Đi từ giường này tới giường khác, Ngài tự nhủ:
- Hạnh phúc tôi mong đợi lớn lao đến nỗi mọi đau khổ đều thành niềm vui của tôi. Kiệt sức vì công việc và đau đớn, Camillô Lellis chỉ còn là một bộ xương. Khi thấy giờ chết tới gần, Ngài vui sướng:
- Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: nào ta đi về nhà Chúa.
Được đưa về phòng, Ngài còn nói trong nước mắt:
- Lạy Chúa, con biết con là một tội nhân ghê gớm. Nhưng xin hãy cứu con nhờ lòng nhân lành Chúa.
Ngày 14 tháng 7 năm 1614 Camillô Lellis qua đời. Năm 1746, Đức giáo hoàng Bênêdictô đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.
Thánh Camillô Lellis đã ý thức tận căn thân phận con người tội lỗi của mình. Ngài đã tỏ lòng sám hối và đền bù tội lỗi qua việc phục vụ bệnh nhân. Xin Chúa vì công nghiệp của thánh nhân, cho chúng ta cũng biết hết lòng vì những công việc bác ái Chúa đang cần sự cộng tác của mỗi chúng ta cho xã hội hôm nay.
(tổng hợp)
Ngày 13/7 Thánh Henry II (972-1024)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Henry II (972-1024)
Rất bận rộn, nhưng Hoàng Ðế Henry vẫn dành thời giờ cho Thiên Chúa trong sự suy niệm và sinh hoạt đạo đức.
Lược sử
Thánh Henry thuộc dòng dõi nhà vua mà cha là Công Tước xứ Bavaria, mẹ là công chúa xứ Burgundy. Ngay từ nhỏ, ngài được sự dạy bảo kỹ lưỡng của Thánh Wolfgang, là Giám Mục của Ratisbon. Năm 995, ngài kế vị cha làm Công Tước xứ Bavaria và năm 1002, sau khi người bác là Vua Otto III từ trần, ngài lên ngôi hoàng đế nước Ðức.
Vua Henry rất để ý đến hạnh phúc của người dân. Ðể bảo vệ công chính, nhiều lần ngài phải dẫn quân đi chiến đấu với các kẻ thù ở trong cũng như ngoài nước. Các chiến thắng không làm ngài tự đắc trở nên vô tâm mà ngài rất độ lượng và khoan hồng với kẻ thù.
Khoảng năm 998, ngài lập gia đình với một phụ nữ thánh thiện là Cunegundes. Sau này bà cũng được tuyên xưng là thánh. Vào năm 1014, cả hai người được ban thưởng cho danh hiệu hoàng đế và hoàng hậu của Thánh Ðế Quốc Rôma. Ðây là một vinh dự lớn lao vì chính Ðức Giáo Hoàng Bênêđích VIII đã đội vương miện cho hai người.
Tuy thừa hưởng tất cả những giầu sang và quyền thế ở trong tay, Hoàng Ðế Henry luôn nhớ đến các chân lý vĩnh cửu và suy niệm trong lòng. Thay vì đi tìm các vinh dự chóng qua của trần thế, ngài để ý đến những công việc làm vinh danh Thiên Chúa, trong đó sự thịnh vượng của Giáo Hội cũng như duy trì kỷ luật trong hàng giáo sĩ là điều ngài lưu tâm. Có lần ngài ao ước được từ chức để sống như một đan sĩ, nhưng theo lời khuyên bảo của đan viện trưởng ở Verdun, ngài đã ở lại ngôi vị.
Trong thời gian trị vì, ngài thành lập rất nhiều đoàn thể đạo đức, xây dựng nhiều cơ sở sinh hoạt tâm linh cũng như các đan viện và nhà thờ mới.
Ngài từ trần năm 1024, khi mới năm mươi hai tuổi và được phong thánh năm 1146.
Suy niệm 1 - Dòng dõi
Thánh Henry thuộc dòng dõi nhà vua.
Cha ngài là Công Tước xứ Bavaria, mẹ là công chúa xứ Burgundy. Năm 995, ngài kế vị cha làm Công Tước xứ Bavaria và năm 1002, sau khi người bác là Vua Otto III từ trần, ngài lên ngôi hoàng đế nước Đức.
Nếu về mặt đời, nhờ ngài thuộc dòng dõi nhà vua nên có điều kiện thuận lợi để lên ngôi hoàng đế nước Đức. Nhưng một điều kiện quan trọng hơn, đó là nhờ ngài khổ luyện bao năm tháng, để có đủ phẩm chất và năng lực xứng với ngai vàng hơn các người khác trong dòng tộc. Dầu vậy, ngài cũng không hề quên rằng ngài cũng đang thuộc một dòng dõi ưu việt hơn, đó là dòng dõi của Thiên Chúa (Cv 17,18-29), vì thế thay vì đi tìm các vinh dự chóng qua của trần thế, ngài luôn để ý đến những công việc làm vinh danh Thiên Chúa, để trở thành một hoàng đế thánh nhân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con lưu tâm chu toàn bổn phận song hành của một người công dân vừa của trần thế vừa của Nước Trời.
Suy niệm 2 - Nhỏ
Ngay từ nhỏ, Henry được sự dạy bảo kỹ lưỡng của Thánh Wolfgang, là Giám Mục của Ratisbon.
Thật may mắn cho ngài có được bậc phụ huynh có ý thức trách nhiệm giáo dục rất cao. Các đấng đã chẳng những quan tâm dạy dỗ ngài ngay từ lúc ngài còn bé, mà còn ủy thác công tác trọng đại này cho một vị đáng kính và rất đáng tin tưởng, đó là Thánh Wolfgang, là Giám Mục của Ratisbon.
Nhưng phải kể đến một thái độ rất đáng khâm phục được xem như là một mẫu gương cho giới trẻ, đó là tinh thần khiêm tốn học hỏi và chăm ngoan tiếp thu trong cuộc sống thực hành hằng ngày, như một trẻ Samuen ngoan hiền xưa kia, chứ không như hai cậu con trai hư hỏng và ngỗ nghịch Khópni và Pinkhát của tư tế Hêli (1Sm 2,34;3,19).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn là một đệ tử ngoan hiền, để mang lại lợi ích cho bản thân và tha nhân trong tương lai.
Suy niệm 3 - Dân
Vua Henry rất để ý đến hạnh phúc của người dân.
Là một vị hoàng đế đạo đức, với quyền bính trong tay, ngài không đi theo đường hướng cai trị thông thường của các vị lãnh tụ là dùng quyền và uy mà quản cai và thống trị dân, nhưng ngài sống theo lời dạy bảo và gương lành của Chúa để đóng vai của người tôi tớ mà phục vụ dân (Mt 20,25-28).
Chính vì thế ngài không tìm hạnh phúc cho riêng mình, mà chì để ý đến hạnh phúc của người dân, để làm mọi cách cho họ được hạnh phúc. Hay nói đúng hơn ngài xem hạnh phúc của người dân là chính hạnh phúc của mình. Thậm chí ngài đích thân ra chiến trường để bảo vệ cuộc sống an bình và ấm no cho toàn dân nước.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tìm vui trong việc phục vụ chứ đừng chờ mong được phục vụ.
Suy niệm 4:. Công chính
Để bảo vệ công chính, nhiều lần ngài phải dẫn quân đi chiến đấu với các kẻ thù ở trong cũng như ngoài nước.
Là một vị hoàng đế thánh thiện, ngài tìm cách sống mối phúc Chúa hứa ban cho người khao khát trở nên người công chính (Mt 5,6), và do đó ngài rất dị ứng với tình trạng bất công xảy ra không chỉ trong nước mà ở ngoài nước, nên ngài mạnh dạn thực hiện nhiều cuộc chiến với các kẻ thù nghịch.
Đúng ý Chúa và nhờ ơn Chúa, ngài đã giành được nhiều chiến thắng. Nhưng điều đáng lưu ý là các chiến thắng ấy không làm ngài tự đắc trở nên vô tâm không phù hợp với bản chất lành thánh đạo dức vốn phải yêu kẻ thù như lời Chúa dạy, nên ngài đối xử rất độ lượng và khoan hồng với kẻ thù.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết phân định rõ điều xấu và người xấu, để rồi quyết tâm tận diệt sự xấu bằng cách hết mình giúp người xấu trở thành người tốt.
Suy niệm 5 - Hôn nhân
Khoảng năm 998, Henry lập gia đình với một phụ nữ thánh thiện là Cunegundes.
Một người công giáo ở đời không sống ở bậc tu trì thì thông thường phải lập gia đình. Là một vị hoàng đế đạo đức thánh thiện, ngài không theo đuổi các hấp lực khác như một vua đồng tên là Henry VIII ở Anh Quốc đã vì vấn đề hôn nhân mà lập ra Anh Giáo. Ngài cương quyết chọn lấy tiêu chuẩn ưu việt là sự thánh thiện.
Quả thật sau này bà Cunegundes cũng được tuyên xưng là thánh. Vào năm 1014, cả hai người vợ chồng được ban thưởng cho danh hiệu hoàng đế và hoàng hậu của Thánh Đế Quốc Rôma. Đây là một vinh dự lớn lao vì chính Đức Giáo Hoàng Bênêđích VIII đã đội vương miện cho hai người.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp giới trẻ khi bước vào đời sống gia đình luôn biết chọn lấy tiêu chuẩn ưu việt là sự thánh thiện.
Suy niệm 6 - Vinh danh Thiên Chúa
Tuy thừa hưởng tất cả những giầu sang và quyền thế ở trong tay, Hoàng Đế Henry luôn nhớ đến các chân lý vĩnh cửu và suy niệm trong lòng.
Thay vì đi tìm các vinh dự chóng qua của trần thế, ngài để ý đến những công việc làm vinh danh Thiên Chúa, trong đó sự thịnh vượng của Giáo Hội cũng như duy trì kỷ luật trong hàng giáo sĩ là điều ngài lưu tâm.
Có lần ngài ao ước được từ chức để sống như một đan sĩ, nhưng theo lời khuyên bảo của đan viện trưởng ở Verdun, ngài đã ở lại ngôi vị.
Trong thời gian trị vì, ngài thành lập rất nhiều đoàn thể đạo đức, xây dựng nhiều cơ sở sinh hoạt tâm linh cũng như các đan viện và nhà thờ mới. Gương mẫu đời sống của Thánh Henry khiến chúng ta phải nhìn lại sự bận rộn của đời sống chúng ta. Có ai bận rộn bằng một ông vua, nhưng Hoàng Đế Henry vẫn dành thời giờ cho Thiên Chúa trong sự suy niệm và sinh hoạt đạo đức.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con noi gương Thánh Henry, luôn sắp xếp thời giờ để hàng ngày trở về với nguồn sinh lực của chúng con, là Thiên Chúa toàn năng.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 12/7 Thánh Gioan Gualbert (993-1073)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Gualbert (993-1073)
Tận tụy sống khó nghèo và hèn mọn, thánh Gioan Gualbert đã cảm kích các cộng đoàn trong việc chăm sóc người nghèo và người đau yếu, và trở nên người canh tân Giáo Hội mà các giáo hoàng đã giao phó cho ngài.
Lược sử
Sinh trong dòng họ quý tộc Visdomini ở Florence, Tuscany nước Ý, ngay từ nhỏ Gioan đã được học hỏi về đạo lý nhưng tâm hồn người thanh niên ấy bị lôi cuốn bởi những phù vân của thế gian hơn là đời sống đạo đức. Qua một biến cố đau thương, Chúa đã mở mắt Gioan. Ðó là cái chết thảm thương của Hugo, người em duy nhất của Gioan bị kẻ thù sát hại. Càng đau đớn bao nhiêu, Gioan càng quyết chí trả thù bấy nhiêu.
Vào một ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Gioan bắt gặp kẻ thù trên con đường mòn dẫn đến Florence. Hắn chỉ có một mình và không cách chi trốn thoát được. Gioan rút gươm ra tiến đến tấn công, định đâm chết kẻ thù ngay tại chỗ, nhưng người này đã buông vũ khí, quỳ gối xuống một cách tuyệt vọng và hắn phó thác linh hồn cho Chúa, nhắm mắt chờ đợi. Hành động ấy đã khiến Gioan do dự. Anh nhìn xuống kẻ thù và bỗng nhớ đến lời Ðức Kitô trên thập giá đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Anh ôm lấy kẻ thù, tha thứ cho hắn và đi đến một nhà thờ ở Florence cầu nguyện với hàng nước mắt tuôn rơi vì nhớ đến đời sống tội lỗi của mình.
Sau đó Gioan gia nhập đan viện San Miniato ở Florence để ăn năn sám hối và siêng năng luyện tập các nhân đức, hy vọng sẽ sống mãi ở đây; nhưng khi đan viện trưởng từ trần và một đan sĩ khác đã hối lộ để lên được chức vụ này, Gioan ghê tởm bỏ đi. Ngài muốn tìm một cuộc sống không bị ảnh hưởng bởi các thối nát trong Giáo Hội thời bấy giờ mà hàng giáo sĩ có thê thiếp, đầy dẫy nạn con ông cháu cha và buôn thần bán thánh. Trong một ít lâu, Gioan sống với các đan sĩ Camaldoli tại đan viện Thánh Rômuanđô, nhưng sau đó ngài quyết định thành lập một tổ chức hoàn toàn mới.
Sau khi được tặng cho một ít đất ở Vallombrosa, cùng với sự giúp đỡ của một vài đan sĩ, ngài xây một đan viện nhỏ thật khiêm tốn, tuân giữ các quy luật nguyên thủy của Thánh Bênêđích. Ở đây, ngài tận tụy sống khó nghèo và hèn mọn. Thật vậy, ngài chưa bao giờ nhận chức linh mục và ngay cả từ chối nhận các chức nhỏ.
Cộng đoàn Vallombrosa đã cảm kích các cộng đoàn khác trong việc chăm sóc người nghèo và người đau yếu. Sau đó, các cộng đoàn này trở thành một phần tử của Dòng Vallombrosa sống theo quy luật của Ðức Gioan. Qua phương cách này Ðức Gioan trở nên người canh tân Giáo Hội mà các giáo hoàng đã giao phó cho ngài.
Bất cứ đan viện nào được thiết lập, Ðức Gioan luôn nhắc nhở họ phải xây dựng một cách vừa phải với vật liệu rẻ tiền và số tiền còn dư phải dùng để giúp đỡ người nghèo. Thật vậy, lòng bác ái của ngài được thể hiện qua một quy luật, mà bất cứ người nào đến xin nhà dòng đều được cấp dưỡng.
Ngay khi còn sống, Ðức Gioan đã nổi tiếng về sự khôn ngoan cũng như ơn tiên tri và làm phép lạ. Các giáo hoàng như Ðức Lêô IX, Ðức Stêphanô X đều đến nói chuyện với ngài. Ðức Giáo Hoàng Alexander II cho rằng Ðức Gioan đã có công trong việc xoá bỏ nạn buôn thần bán thánh trong quốc gia của ngài. Mặc dù được sự quý trọng của các giáo hoàng, Ðức Gioan vẫn luôn luôn khiêm tốn.
Ngài từ trần ngày 12 tháng Bảy 1073, hưởng thọ khoảng 80 tuổi.
Suy niệm 1 - Nhỏ
Ngay từ nhỏ Gioan đã được học hỏi về đạo lý.
Nhưng tâm hồn người thanh niên ấy bị lôi cuốn bởi những phù vân của thế gian hơn là đời sống đạo đức. Điều này cho thấy một sự thật phũ phàng luôn tồn tại trong các gia đình. Dĩ nhiên cách chung người cha người mẹ nào cũng mong muốn con cái mình nên tốt, nên tìm đủ cách giáo dục chúng.
Thế mà kết quả chờ đợi lại trái ngược. Không thiếu những người con hư thân mất nết xảy ra trong các gia đình có người cha người mẹ vốn tốt lành đạo đức và có ý thức trách nhiệm dạy dỗ con cái. Điều này cho thấy tầm ảnh hưởng rất quan trọng của môi trường xấu của xã hội. Chính vì thế có lần để chữa lành một người mù ở Bếtsaiđa, Đức Giêsu đã dẫn anh ta ra khỏi làng, và sau khi chữa lành thì khuyên anh đừng trở vào làng (Mc 8,23.26).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc phụ huynh luôn quan tâm đến môi trường để việc giáo dục con cái được hoàn mỹ.
Suy niệm 2 - Biến cố
Qua một biến cố đau thương, Chúa đã mở mắt Gioan.
Đó là cái chết thảm thương của Hugo, người em duy nhất của Gioan bị kẻ thù sát hại. Càng đau đớn bao nhiêu, Gioan càng quyết chí trả thù bấy nhiêu. Vào một ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Gioan bắt gặp kẻ thù trên con đường mòn dẫn đến Florence. Hắn chỉ có một mình và không cách chi trốn thoát được. Gioan rút gươm ra tiến đến tấn công, định đâm chết kẻ thù ngay tại chỗ, nhưng người này đã buông vũ khí, quỳ gối xuống một cách tuyệt vọng và hắn phó thác linh hồn cho Chúa, nhắm mắt chờ đợi.
Hành động ấy đã khiến Gioan do dự. Anh nhìn xuống kẻ thù và bỗng nhớ đến lời Đức Kitô trên thập giá đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Anh ôm lấy kẻ thù, tha thứ cho hắn và đi đến một nhà thờ ở Florence cầu nguyện với hàng nước mắt tuôn rơi vì nhớ đến đời sống tội lỗi của mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết giá trị cao quý của mỗi biến cố để không đánh mất cơ hội canh tân đời sống.
Suy niệm 3 - Thối nát
Gioan muốn tìm một cuộc sống không bị ảnh hưởng bởi các thối nát trong Giáo Hội thời bấy giờ.
Khi gia nhập đan viện San Miniato ở Florence, ngài hy vọng sẽ sống mãi ở đây để ăn năn sám hối và siêng năng luyện tập các nhân đức, nhưng ngài đã chứng kiến một cảnh thối nát. Đó là khi đan viện trưởng từ trần, thì một đan sĩ khác đã dùng cách hối lộ để lên được chức vụ này.
Tình trạng thối nát còn hoành hành nơi hàng giáo sĩ với việc có thê thiếp, đầy dẫy nạn con ông cháu cha và buôn thần bán thánh. Chính vì những sự thối nát này mà Đức Kitô phải luôn "hiến mình vì Hội Thánh, thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền" (Ep 5,25-27).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng sa lầy vào mặt tiêu cực nhưng biết dùng lối sống tích cực để diệt trừ mặt tiêu cực.
Suy niệm 4 - Khiêm tốn
Gioan xây một đan viện nhỏ thật khiêm tốn
Sau khi rời đan viện San Miniato ở Florence, trong một ít lâu, ngài sống với các đan sĩ Camaldoli tại đan viện Thánh Rômuanđô, nhưng sau đó ngài quyết định thành lập một tổ chức hoàn toàn mới, nhưng thật khiêm tốn: vì chỉ với một ít đất được tặng ở Vallombrosa, với sự giúp đỡ của một vài đan sĩ, cũng như chỉ tuân giữ các quy luật nguyên thủy của Thánh Bênêđích và đồng thời sẵn sàng tiếp thu những cái hay của các cộng đoàn khác, chẳng hạn việc chăm sóc người nghèo và người đau yếu..
Nổi bật nhất là sự khiêm tốn của vị sáng lập là chính ngài. Ở đây, ngài tận tụy sống khó nghèo và hèn mọn. Mặc dù được sự quý trọng của các giáo hoàng, ngài vẫn luôn luôn khiêm tốn. Thật vậy, ngài chưa bao giờ nhận chức linh mục và ngay cả từ chối nhận các chức nhỏ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn nhận ra rằng nhận một chức vụ là để phục vụ như một công cụ, chứ không phải để được nổi danh hay lợi nhuận.
Suy niệm 5 - Cảm kích
Cộng đoàn Vallombrosa đã cảm kích các cộng đoàn khác trong việc chăm sóc người nghèo và đau yếu.
Được nuôi sống về mặt đạo đức bằng tinh thần khiêm tốn, cộng đoàn mới thành lập này không tự tôn với linh đạo mình, để coi thường các cộng đoàn khác, nhưng thành tâm khám phá những điều hay nét đẹp của họ với tâm tình cảm kích và khâm phục, đến mức học hỏi và áp dụng để phong phú hóa đường lối của mình.
Chính tinh thần này đã đạt được một hiệu quả không tưởng. Đó là các cộng đoàn khác bị thu hút bởi lối sống đầy hấp dẫn này, vì tư tưởng lớn thường gặp nhau, nên dần dần trở thành một phần tử của Dòng Vallombrosa sống theo quy luật của Đức Gioan.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn nhận ra cái hay của người để học theo và biến thành của chính mình.
Suy niệm 6 - Canh tân
Đức Gioan trở nên người canh tân Giáo Hội mà các giáo hoàng đã giao phó cho ngài.
Đường hướng canh tân của ngài thật đơn giản nhưng hiệu quả: Bất cứ đan viện nào được thiết lập, Đức Gioan luôn nhắc nhở họ phải xây dựng một cách vừa phải với vật liệu rẻ tiền và số tiền còn dư phải dùng để giúp đỡ người nghèo. Thật vậy, lòng bác ái của ngài được thể hiện qua một quy luật, mà bất cứ người nào đến xin nhà dòng đều được cấp dưỡng.
Nhờ vậy ngay khi còn sống, Đức Gioan đã nổi tiếng về sự khôn ngoan cũng như ơn tiên tri và làm phép lạ. Các giáo hoàng như Đức Lêô IX, Đức Stêphanô X đều đến nói chuyện với ngài. Đức Giáo Hoàng Alexander II cho rằng Đức Gioan đã có công trong việc xóa bỏ nạn buôn thần bán thánh trong quốc gia của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng tìm làm những việc phi thường trong hướng canh tân, mà khiêm tốn làm các việc trong tầm tay nhưng cách phi thường.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 11/7 Thánh Bênêđích (Biển Ðức) (480?-543)
- Viết bởi HẠNH CÁC THÁNH
Thánh Bênêđích (Biển Ðức) (480?-543)
Thật đáng tiếc là không ai viết nhiều về một vị đã thể hiện biết bao kỳ công ảnh hưởng đến nếp sống đan viện Tây Phương. Thánh Bênêđích được đề cập đến nhiều trong các Ðối Thoại của Thánh Grêgôriô Cả sau khi ngài chết khoảng năm mươi năm, nhưng đó chỉ là các sơ thảo của biết bao điều lạ lùng trong cuộc đời thánh nhân.
Ngài sinh trong một gia đình lỗi lạc ở Nursia, thuộc miền trung nước Ý, theo học tại Rôma và ngay từ khi còn trẻ, ngài đã thích đời sống đan viện. Lúc đầu, ngài là một vị ẩn tu sống trong một cái hang ở Subiaco, xa lánh thế giới nhiều chán nản mà lúc bấy giờ giặc ngoại giáo đang lan tràn, Giáo Hội bị phân chia bởi ly giáo, dân chúng đau khổ vì chiến tranh, đạo lý ở mức độ thấp nhất.
Sau đó không lâu, ngài thấy không thể sống cuộc đời ẩn dật ở gần thành phố, dù lớn hay nhỏ, do đó ngài đi lên núi cao, sống trong một cái hang và ở đó ba năm. Trong một thời gian, một số đan sĩ chọn ngài làm vị lãnh đạo, nhưng họ cảm thấy không thể theo được sự nghiêm nhặt của ngài. Tuy nhiên, đó cũng là lúc ngài chuyển từ đời sống ẩn tu sang đời sống cộng đoàn. Ngài có sáng kiến quy tụ các nhánh đan sĩ khác nhau thành một "Ðại Ðan Viện", đem lại cho họ lợi ích của sự hợp quần, tình huynh đệ, và luôn luôn thờ phượng dưới một mái nhà. Sau cùng, ngài khởi công xây dựng một đan viện nổi tiếng nhất thế giới ở núi Cassino, cũng là nơi phát sinh dòng Bênêđích.
Cũng từ đó, một quy luật từ từ được hình thành nói lên đời sống cầu nguyện phụng vụ, học hỏi, lao động chân tay và sống với nhau trong một cộng đoàn dưới một cha chung là đan viện trưởng. Sự khổ hạnh của Thánh Bênêđích được coi là chừng mực, và đời sống bác ái của ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người chung quanh. Trong thời Trung Cổ, tất cả các đan viện ở Tây Phương dần dà đều sống theo Quy Luật Thánh Bênêđích.
Lời Bàn
Giáo Hội được nhiều ơn ích qua sự tận tụy của dòng Thánh Bênêđích về phụng vụ, không những chỉ các nghi thức phong phú được cử hành hiện nay nhưng còn các nghiên cứu học thuật của các phần tử trong dòng. Ðôi khi phụng vụ bị lầm lẫn với nhạc đời, với trống đàn đầy nhịp điệu kích động. Chúng ta phải biết ơn những người đã duy trì và thích ứng truyền thống đích thực về thờ phượng trong Giáo Hội.
Lời Trích
"Nói cho đúng, phụng vụ phải được coi là một sùng bái chức tư tế của Ðức Giêsu Kitô. Trong phụng vụ, con người được thánh hóa qua các dấu hiệu có thể cảm nhận được bằng giác quan...; trong phụng vụ, sự thờ phượng đầy đủ được thi hành bởi Nhiệm Thể của Ðức Giêsu Kitô, đó là, bởi Ðầu và các chi thể của Ngài.
"Từ đó xuất phát mọi nghi thức phụng vụ, vì đó là một hành động của Linh Mục Kitô và Thân Thể của Ngài là Giáo Hội, là một hành động thiêng liêng, vượt quá mọi thứ khác" (Hiến Chế Tín Lý về Phụng Vụ, 7).
Ngày 10/7 Thánh Vêrônica Giuliani (1660-1727)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Vêrônica Giuliani (1660-1727)
Ước ao của Thánh Vêrônica là được giống Ðức Kitô bị đóng đinh và mong ước ấy đã được nhận lời với năm dấu thánh. Ba mươi lăm năm cuối cuộc đời là thời gian Sơ Vêrônica hoàn toàn đắm chìm trong Ðức Kitô.
Lược sử
Ước ao của Thánh Vêrônica là được giống Đức Kitô bị đóng đinh và mong ước ấy đã được nhận lời với năm dấu thánh.
Thánh Vêrônica tên thật là Ursula Giuliani, sinh trưởng ở Mercatello nước Ý. Ngay từ khi còn nhỏ, Ursula đã được các cảm nghiệm thần bí. Từ đó trở đi, Ursula hãm mình phạt xác và bị chính Satan tấn công nhiều lần. Vào năm 17 tuổi, sau khi thuyết phục được người cha không ép buộc đi lấy chồng, Ursula gia nhập dòng Thánh Clara Hèn Mọn do các tu sĩ Capuchin điều khiển và lấy tên là Vêrônica.
Giới chức quyền trong Giáo Hội ở Rôma muốn thử nghiệm các vết thương của Sơ Vêrônica và mở cuộc điều tra.
Vào năm 56 tuổi, mặc dù ngài phản đối, các nữ tu trong dòng đã chọn ngài làm bề trên và ngài đã giữ chức vụ ấy trong 11 năm cho đến khi từ trần. Sơ Vêrônica rất sùng kính Thánh Thể và Thánh Tâm. Ngài dâng hiến những đau khổ của mình cho công cuộc truyền giáo. Sơ Vêrônica được phong thánh năm 1839.
Suy niệm 1 - Giống Đức Kitô bị đóng đinh
Ước ao của Thánh Vêrônica là được giống Đức Kitô bị đóng đinh và mong ước ấy đã được nhận lời với năm dấu thánh.
Ước ao được nên giống Đức Kitô là nỗ lực chung của mọi kitô hữu. Nhưng nét đặc thù của thánh nữ là được giống Đức Kitô bị đóng đinh. Vì sao thế? Người ta kể lại khi mẹ của ngài hấp hối, bà đã gọi năm cô con gái đến cạnh giường và phó thác mỗi người con cho một vết thương của Chúa Giêsu. Ursula được phó thác cho vết thương cạnh sườn bên dưới trái tim Chúa Giêsu.
Di chúc của một người đời, dầu đó là của một người mẹ, vẫn có giá trị thuyết phục, đến mức giúp định hướng sống cho cả cuộc đời Ursula, để nhờ đó trở thành thánh nhân. Phương chi di chúc của Ngôi Hai Thiên Chúa Làm Người mà trước khi ra đi chịu chết Ngài đã để lại: "Ước gì họ được nên một" (Ga 17,11.21-23).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống tình hiệp nhất với nhau nhờ luôn hiệp nhất làm một với Chúa vốn là nguồn hiệp nhất.
Suy niệm 2 - Năm dấu thánh
Ước ao của Thánh Vêrônica là được giống Đức Kitô bị đóng đinh và mong ước ấy đã được nhận lời với năm dấu thánh.
Tại sao Thiên Chúa lại ban năm dấu thánh cho Thánh Phanxicô Assisi và cho Thánh Vêrônica? Chỉ có Thiên Chúa mới biết được các lý do sâu xa, nhưng như Tôma Celano giải thích, các dấu thánh bên ngoài là để xác nhận lòng quý mến thập giá hằng ngày của các thánh nhân. Các dấu thánh xuất hiện trên thân thể của Thánh Vêrônica đã bắt nguồn từ lâu trong tâm hồn ngài. Đó là một kết quả xứng hợp với lòng yêu mến Thiên Chúa của thánh nữ cũng như sự bác ái của ngài đối với các nữ tu trong dòng. Tôma Celano nói về Thánh Phanxicô như sau: "Mọi vui thú thế gian là thập giá cho ngài, vì ngài đã mang thập giá Đức Kitô được ăn sâu trong tâm hồn. Và vì thế năm dấu thánh mới hiện ra bên ngoài thân thể, vì tự bên trong các dấu thánh ấy đã được phát sinh từ tâm trí của ngài" (2 Celano, #211).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sẵn lòng vác thập giá Chúa mỗi ngày để cũng được phục sinh vinh quang với Chúa.
Suy niệm 3 - Thần bí
Ngay từ khi còn nhỏ, Ursula đã được các cảm nghiệm thần bí.
Ngài viết: "Tôi nhớ là khi bảy hay tám tuổi, Đức Giêsu đã hiện ra với tôi hai lần trong Tuần Thánh." Từ đó trở đi, Ursula hãm mình phạt xác. Đức Giêsu đã tỏ lòng quý mến ngài đặc biệt qua nhiều lần hiện ra và dưới nhiều hình thức. Có những lúc tưởng như sơ đã bị dập mặt xuống đất, nhưng lại được bảo bọc trong sự chiêm niệm thần bí.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn xác tín về sự hiện diện của Chúa với sự trợ giúp ưu việt, vì chúa không bao giờ xa rời người yêu mến Chúa thật lòng.
Suy niệm 4 - Satan
Ursula hãm mình phạt xác và bị chính Satan tấn công nhiều lần.
Trong những năm đầu đệ tử viện, ngài làm việc trong nhà bếp, bệnh xá, phòng thánh và là người giữ cửa. Vào lúc 34 tuổi, ngài làm giám đốc đệ tử viện và đã giữ chức vụ này trong 22 năm. Trong thời gian tu trì, Sơ Vêrônica thường bị Satan quấy phá. Nó xô ngài ngã xuống cầu thang, nó giả dạng làm sơ giám đốc và đánh đập ngài tàn nhẫn.
Ba mươi lăm năm cuối cuộc đời là thời gian Sơ Vêrônica hoàn toàn đắm chìm trong Đức Kitô. Thiên Chúa đã thử thách để sơ phải trải qua sự khô khan khủng khiếp. Satan cũng lợi dụng cơ hội này để tấn công ngài dữ dội. Chính trong thời gian ấy, Đức Giêsu đã trao vương miện mão gai của Chúa cho sơ. Và điều ấy đã hoàn tất việc chuyển trao tất cả năm dấu thánh của Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra sự hiện diện của Satan qua các chước cám dỗ, để tỉnh thức lướt thắng hầu được phần thưởng Chúa ban sau đó.
Suy niệm 5 - Điều tra
Giới chức quyền trong Giáo Hội ở Rôma muốn thử nghiệm các vết thương của Sơ Vêrônica và mở cuộc điều tra.
Trong thời gian điều tra, một nỗi đau giúp ngài sống mầu nhiệm Thương Khó của Đức Kitô một cách đậm đà thắm thiết nhất, đó không phải là việc ngài tạm thời phải từ chức giám đốc đệ tử viện, bởi lẽ có lần các nữ tu trong dòng đã chọn ngài làm bề trên, mà ngài đã từ chối. Nhưng nỗi đau đớn làm nên thập giá lớn nhất ngài phải vác lấy, đó là ngài không được phép tham dự Thánh Lễ hàng ngày, ngoại trừ ngày Chúa Nhật và ngày lễ buộc. Trong những điều kiện khắt khe ấy, ngài vẫn không cay đắng, và sau đó cuộc điều tra đã phục hồi chức giám đốc cho ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ham thích tham dự Thánh Lễ, để không phải hối tiếc khi sức khoẻ hoặc điều kiện xã hội không cho phép.
Suy niệm 6 - Truyền giáo
Ngài dâng hiến những đau khổ của mình cho công cuộc truyền giáo.
Khi xác nhận sứ mệnh truyền giáo của mọi kitô hữu qua bí tích Rửa Tội, Giáo hội vẫn tôn vinh đặc sủng của những tâm hồn thiện nguyện rởi bỏ xứ sở, để lên đường đi đến những địa phương xa lạ, thậm chí ngoài biên giới quốc gia, như một Thánh Phanxicô Xavie với chức danh bổn mạng các xứ truyền giáo.
Nhưng Giáo Hội vẫn luôn khuyến khích và đề cao các hình thái khác, dầu hiện diện tại chỗ không phải đi đâu cả, miễn là hướng về công cuộc truyền giáo, như cách thế của một Vêrônica hoặc của một Têrêxa Hài Đồng Giêsu vốn cũng được mang chức danh là bổn mạng các xứ truyền giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chu toàn bổn phận truyền giáo của mình theo điều kiện hiện tại của mình.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 09/7 Thánh Nicôla Pieck và Các Bạn (c. 1572)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Nicôla Pieck và Các Bạn (c. 1572)
Cha Nicôla và các bạn, các "vị tử đạo ở Gorcum," đã can đảm tuyên xưng đức tin, đặc biệt về bí tích Thánh Thể, dù có bị bắt, bị tra tấn, bị mọi loại sỉ nhục, và bị treo cổ cho đến chết.
Lược sử
Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể chọn phương cách và thời điểm để làm chứng cho đức tin.
Vào năm 1568, các quốc gia thuộc Hà Lan bây giờ nổi dậy chống với các thái tử Tây Ban Nha. Ở phương bắc, cuộc nổi dậy còn chống với đạo Công Giáo. Các binh lính theo phái Calvin và chống Tây Ban Nha quy tụ thành một đạo quân ô hợp, vô kỷ luật, lục lọi các làng ven biển để cướp bóc. Khi bị hàng giáo sĩ khiển trách, họ quay sang tấn công Giáo Hội và chiếm giữ thành phố Gorkum. Ðể trả thù, họ bắt các giáo sĩ ở Gorkum và nhốt tất cả trong một nhà tù thật tồi tệ.
Ở phương bắc, cuộc nổi dậy còn chống với đạo Công Giáo. Cha Nicôla và các bạn (gồm 11 linh mục dòng Phanxicô và tám linh mục triều) còn được gọi là các "vị tử đạo ở Gorcum," đã bị bắt, bị tra tấn, bị mọi loại sỉ nhục, và được hứa trả tự do nếu các ngài công khai từ bỏ giáo huấn Công Giáo về sự hiện diện thật sự của Ðức Kitô trong bí tích Thánh Thể và quyền tối thượng của đức giáo hoàng. Các ngài đã can đảm tuyên xưng đức tin. Sau nhiều lần tra tấn và bị nhục nhã, vào ngày 9 tháng Bảy 1572, các ngài bị lột trần truồng, để như Ðức Kitô, bị người đời "khinh miệt và ruồng bỏ", và bị treo cổ cho đến chết. Thân xác các ngài bị chặt ra từng mảnh và bị ném xuống cống.
Sau đó không lâu, nơi các ngài tử đạo đã trở nên trung tâm hành hương và đã có nhiều phép lạ xảy ra ở đây. Tất cả đã được phong thánh vào năm 1867.
Suy niệm 1 - Chọn
Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể chọn phương cách và thời điểm để làm chứng cho đức tin.
Dầu con người đã được ban đặc ân tự do, nhưng không phải tùy ý sử dụng để muốn chọn gì thì chọn, mà phải tự do chọn lựa làm theo Thiên Ý, vì thực chất "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại" (Ga 15,16).
Vì không phải chúng ta chọn Chúa mà chính Chúa đã chọn chúng ta, nên phương cách và thời điểm để làm chứng cho đức tin cũng tùy thuộc hoàn toàn vào Chúa. Thật thế, vì muốn được tử đạo, Antôn Pađua đã chuyển sang dòng Phanxicô để đi truyền giáo cho người Moor. Nhưng ngay sau đó, ngài lâm bệnh nặng phải trở về Ý và sống đời chứng nhân đức tin tại đây.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết chọn theo Thiên Ý, vì đó là con đường nên thánh chắc chắn nhất.
Suy niệm 2 - Đức tin
Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể chọn phương cách và thời điểm để làm chứng cho đức tin.
Hãy để ý đến giáo huấn mà các vị tử đạo phải đối diện. Coi Thánh Thể chỉ là sự tưởng nhớ Đức Kitô và từ chối quyền lãnh đạo của đấng kế vị Thánh Phêrô dường như có vẻ dễ dàng.
Thánh Nicôla và đồng bạn biết rõ tín điều này nằm trong hoạch định của Thiên Chúa muốn ban cho dân của Người, do đó các ngài không từ chối đức tin. Bí tích Thánh Thể và người kế vị Thánh Phêrô sẽ là khí cụ trong việc khôi phục sự hợp nhất Kitô Hữu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vững tin vào giáo huấn Công Giáo về sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể và quyền tối thượng của đức giáo hoàng.
Suy niệm 3 - Chống
Ở phương bắc, cuộc nổi dậy còn chống với đạo Công Giáo.
Sao đạo Công Giáo gặp phải sự chống đối này? Vào năm 1568, các quốc gia thuộc Hà Lan bấy giờ nổi dậy chống với các thái tử Tây Ban Nha.
Các binh lính theo phái Calvin và chống Tây Ban Nha quy tụ thành một đạo quân ô hợp, vô kỷ luật, lục lọi các làng ven biển để cướp bóc. Khi bị hàng giáo sĩ khiển trách, họ quay sang tấn công Giáo Hội và chiếm giữ thành phố Gorkum. Để trả thù, họ bắt các giáo sĩ ở Gorkum và nhốt tất cả trong một nhà tù thật tồi tệ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chấp nhận nói lên sự thật cho dầu không chỉ mất lòng mà còn phải mất đầu nữa.
Suy niệm 4 - Tử đạo
Cha Nicôla và các bạn (gồm 11 linh mục dòng Phanxicô và 8 linh mục triều) còn được gọi là các "vị tử đạo ở Gorcum".
Cha Nicôla nói: 'Đã đến lúc chúng ta được nhận lãnh từ Thiên Chúa phần thưởng cho sự tranh đấu mà chúng ta khao khát từ lâu, là triều thiên hạnh phúc vĩnh cửu.'
Ngài khuyến khích các đồng bạn đừng sợ chết, cũng đừng hèn nhát mà mất triều thiên được chuẩn bị cho họ và sẵn sàng đặt trên trán họ. Sau cùng ngài cầu xin cho mọi người sẽ hân hoan bước theo con đường mà họ thấy ngài đang tiến bước. Với những lời ấy, ngài hân hoan bước lên đoạn đầu đài mà không ngừng khích lệ các đồng bạn cho đến khi nghẹt thở không còn nói được nữa" (Tường Thuật Tử Đạo).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng sợ chết, đừng hèn nhát kẻo đánh mất triều thiên hạnh phúc vĩnh cửu.
Suy niệm 5 - Nhục nhã
Sau nhiều lần tra tấn và bị nhục nhã.
Không kể đến phương cách hành hạ thân xác các vị tử đạo bằng nhiều lần tra tấn với nhiều hình thức, họ còn nghĩ đến việc tra tấn tinh thần các ngài bằng việc hạ nhục các ngài.
Vào ngày 9 tháng Bảy 1572, các ngài bị lột trần truồng, để như Đức Kitô, bị người đời "khinh miệt và ruồng bỏ", và bị treo cổ cho đến chết. Hơn thế thi thể các ngài còn bị chặt ra từng mảnh và bị ném xuống cống.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thà bị nhục vì Chúa với đời sống lành thánh, còn hơn bị nhục do tội lỗi chúng con phạm.
Suy niệm 6 - Hành hương
Nơi các ngài tử đạo đã trở nên trung tâm hành hương và đã có nhiều phép lạ xảy ra ở đây.
Nhóm người bách hại sử dụng lối hành xử dã man cả thân xác lẫn tinh thần bằng việc tra tấn và hạ nhục các vị tử đạo là nhằm cho người đời khinh miệt và ruồng bỏ các ngài.
Thế nhưng quyền năng Thiên Chúa đã biến sự dữ thành sự lành, khi cho nơi hành hình các ngài trở nên trung tâm hành hương với nhiều phép lạ xảy ra ở đây, khiến người người hâm mộ sùng kính tìm đến kêu cầu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vững tin vào quyền năng Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 08/7 Chân Phước Gregory Grassi và Các Bạn (k. 1900)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Gregory Grassi và Các Bạn (k. 1900)
Gregory Grassi được sai đến Trung Hoa, làm Giám Mục của giáo phận Bắc Shanxi. Vào năm 1900, trong cuộc nổi dậy của các võ sĩ, cùng với 14 nhà truyền giáo Âu Châu và 14 tu sĩ Trung Hoa, ngài chịu tử đạo vào thời kỳ bách hại ngắn ngủi nhưng đẫm máu.
Lược sử
Các nhà thừa sai Kitô Giáo thường bị bắt trong các cuộc chiến chống với chính quốc gia của mình. Gregory Grassi sinh ở Ý năm 1833, thụ phong linh mục năm 1856 và năm năm sau ngài được sai đến Trung Hoa Lục Địa. Sau đó Cha Gregory được tấn phong làm Giám Mục của giáo phận Bắc Shanxi. Vào năm 1900, trong cuộc nổi dậy của các võ sĩ, cùng với 14 nhà truyền giáo Âu Châu và 14 tu sĩ Trung Hoa, ngài chịu tử đạo vào thời kỳ bách hại ngắn ngủi nhưng đẫm máu ấy.
Tất cả bị chết chém vào ngày 9 tháng Bảy 1900. Ba giáo dân Trung Hoa khác bị giết ở Shanxi chỉ vì làm việc cho các tu sĩ Phanxicô và bị bắt cùng với các người khác. Ba tu sĩ Phanxicô người Ý cũng được tử đạo trong tuần đó ở tỉnh Hunan. Tất cả các vị tử đạo được phong chân phước vào năm 1946.
Suy niệm 1 - Của mình
Các nhà thừa sai Kitô Giáo thường bị bắt trong các cuộc chiến chống với chính quốc gia của mình.
Đức Giêsu đã từng xót xa thốt lên về số phận của vị sứ giả Tin Mừng: "Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình" (Lc 4,24) hoặc thê thảm hơn: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi" (Mt 13,57).
Vì kẻ thù chính là người nhà (Mt 10,36), là sói đội lốt chiên (Mt 7,15), nên không tài nào nhận ra. Và thảm kịch xảy ra lại càng gia tăng niềm đau xót hơn là đối với một người xa lạ. Do đó Đức Giêsu đã than thở về trường hợp của Giuđa Ítcariốt: "Thà nó đừng sinh ra thì hơn!"(Mt 26,24).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thà bị người phản bội chứ đừng bao giờ bội phản ai.
Suy niệm 2 - Nổi dậy
Vào năm 1900, trong cuộc nổi dậy của các võ sĩ, cùng với 14 nhà truyền giáo Âu Châu và 14 tu sĩ Trung Hoa, Gregory Grassi chịu tử đạo.
Sao xảy ra cuộc nổi dậy này? Khi các chính phủ Anh, Đức, Nga và Pháp buộc nhà cầm quyền Trung Hoa phải nhượng bộ đất đai vào năm 1898, cả một phong trào chống người ngoại quốc nổi dậy ở Trung Hoa càng ngày càng mãnh liệt cho đến năm 1990.
Lúc báy giờ ngài làm Giám Mục của giáo phận Bắc Shanxi. Theo gương Đức Giêsu vốn dẫn đầu đoàn các tông đồ tiến lên Giêrusalem chịu Tử Nạn (Mc 10,32), vì Mục Tử nhân lành thì phải hy sinh mạng sống vì đàn chiên (Ga 10,11.14-15), ngài chấp nhận chịu tử đạo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các chủ chăn luôn tiên phong vác thập giá cho đến chết như một tấm gương soi cho đàn chiên.
Suy niệm 3 - Tử đạo
Gregory Grassi chịu tử đạo vào thời kỳ bách hại ngắn ngủi nhưng đẫm máu ấy.
"Tử đạo là một phần của bản chất Giáo Hội, vì nó biểu lộ cái chết của Kitô Hữu trong hình thức tinh tuyền, là một cái chết vì đức tin không chịu kiềm chế. Qua sự tử đạo, sự thánh thiện của Giáo Hội, thay vì thuần túy vẫn chỉ có tính cách không tưởng, đã thể hiện một diễn đạt tỏ tường cần thiết nhờ ơn sủng của Thiên Chúa.
Ngay từ thế kỷ thứ hai, người chấp nhận cái chết vì đức tin Kitô Giáo hoặc luân lý Kitô Giáo được coi là một 'chứng nhân'. Danh từ này xuất phát từ Phúc Âm, vì Đức Giêsu Kitô là 'chứng nhân trung tín' tuyệt đối (Kh 1,5; 3,14)" (Karl Rahner, Tự Điển Thần Học, tập 2, trang 108-109).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con anh dũng sống đời chứng nhân giữa một xã hội sống xa rời đức tin và phi luân lý này.
Suy niệm 4 - Ngắn ngủi
Gregory Grassi chịu tử đạo vào thời kỳ bách hại ngắn ngủi nhưng đẫm máu ấy.
Thời kỳ bách hại tuy ngắn ngủi nhưng thật đẫm máu, với cái chết vì đạo của năm giám mục, 50 linh mục, hai trợ sĩ, 15 nữ tu và 40.000 Kitô Hữu Trung Hoa đã bị giết.
Tuy nhiên, số giáo dân Công Giáo Trung Hoa vào năm 1906 là 146.575 đã tăng lên đến 303.760 vào năm 1924. Sự hy sinh lớn lao đã đem lại kết quả lớn lao.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vững sống niềm xác tín rằng máu tử đạo luôn trổ sinh con nhà có đạo.
Suy niệm 5 - Chết chém
Tất cả bị chết chém vào ngày 9 tháng Bảy 1900.
Cùng một cách bị tử hình vào cùng một ngày nêu trên gồm có hai mươi sáu vị tử đạo bị bắt theo lệnh của Yu Hsien, quan đầu tỉnh Shanxi. Đó là năm vị thuộc dòng Phanxicô Hèn Mọn; bảy vị thuộc tu hội Phanxicô Truyền Giáo của Đức Maria - là các vị tử đạo tiên khởi của tu hội. Về phía người Trung Hoa có bảy chủng sinh và bốn giáo dân, tất cả đều thuộc dòng Ba Phanxicô. Ba giáo dân Trung Hoa khác bị giết ở Shanxi chỉ vì làm việc cho các tu sĩ Phanxicô và bị bắt cùng với các người khác.
Ngoài ra phải kể đến ba tu sĩ Phanxicô người Ý cũng được tử đạo trong tuần đó ở tỉnh Hunan, dầu khác ngày nhưng cũng cùng bị chết chém. Đầu rơi máu đổ, nhưng tinh thần bất khuất của các ngài vẫn hiện diện trên bầu trời Trung Quốc như ánh sao sáng chói dẫn đưa hậu thế vượt qua biển đời cập bến thiên đàng bình an. Dòng máu tươi thắm của các ngài thấm đậm miền đất khô đạo khiến trổ sinh những bông hoa kitô hữu rực rỡ sắc màu, chỉ trong vòng hai thập niên từ 1900 đến 1924 đã có số lượng tăng hơn gấp đôi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu được giá trị tất yếu phải có của việc hạt lúa phải mục nát đi mới trổ sinh được bộng hạt.
Suy niệm 6 - Làm việc
Ba giáo dân Trung Hoa khác bị giết ở Shanxi chỉ vì làm việc cho các tu sĩ Phanxicô.
Chưa hẳn ba giáo dân này bị bắt và bị chém chết vì làm việc cho các tu sĩ Phanxicô vốn là người ngoại quốc, theo tinh thần bài ngoại của phong trào nổi dậy thời ấy. Thật ra họ cũng muốn khởi đầu cuộc bách hại bằng việc cô lập hóa các tu sĩ ngoại quốc, để các vị này tự động rút lui.
Nhưng chắc chắn lý do khiến ba giáo dân này bị giết là vì họ là những người kitô hữu. Chẳng những họ sống đạo, mà còn sống cách tích cực qua cách làm việc cho các tu sĩ, nghĩa là hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo của các tu sĩ này, theo phương cách và điều kiện của họ. Chính vì thế cái chết của họ được xét là tử đạo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết dùng việc làm để thánh hóa bản thân và tha nhân.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 07/7 Chân Phước Emmanuel Ruiz (1804-1860)
- Ngày 06/7 Thánh Maria Goretti (1890-1902)
- Ngày 05/7 Thánh Antôn Zaccaria (1502-1539)
- Ngày 04/7 Thánh Elizabeth ở Bồ Ðào Nha (1271-1336)
- Ngày 03/7 Thánh Tôma Tông Ðồ
- Ngày 02/7 Thánh Bernardino Realino (1530-1616)
- Ngày 01/7 Chân Phước Junipero Serra (1713-1784)
- Ngày 30/6 Các Vị Tử Ðạo Tiên Khởi ở Rôma (c. 68 A.D.)
- Ngày 29/6 Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (c. 64?)
- Ngày 28/6 Thánh Irenaeus (130?-220)