Gương Thánh Nhân
Ngày 27/7 Chân Phước Antôniô Lucci (1682-1752)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Antôniô Lucci (1682-1752)
Thánh Lucci thường đến thăm các giáo xứ và canh tân đời sống phúc âm của giáo dân trong địa phận. Ngài dùng tiền lương của giám mục để hỗ trợ cho công việc giáo dục và bác ái.
Lược sử
Antôniô cùng học chung và là người bạn của Thánh Francesco Antonio Fasani, là người đã ra tòa án Giáo Hội để làm chứng cho sự thánh thiện của Antôniô sau khi ngài từ trần. Sinh ở Agnone miền nam nước Ý, đó là một thành phố nổi tiếng về sản xuất chuông và đồ đồng, Antôniô có tên rửa tội là Angelo.
Ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII chọn làm giám mục của Bovino (gần Foggia).
Trong 23 năm làm giám mục, Đức Lucci thường đến thăm các giáo xứ và canh tân đời sống phúc âm của giáo dân trong địa phận. Ngài dùng tiền lương của một giám mục để hỗ trợ cho công việc giáo dục và bác ái.
Ngài được phong chân phước năm 1989, ba năm sau khi người bạn của ngài là Cha Francesco Antonio Fasani được phong thánh
Suy niệm 1:. Học
Antôniô cùng học chung và là người bạn của Thánh Francesco Antonio Fasani, là người đã ra tòa án Giáo Hội để làm chứng cho sự thánh thiện của Antôniô sau khi ngài từ trần.
Để biết thì phải học. Đó là con đường thông thường mọi người phải dấn bước. Vì thế ngài theo học trường của các tu sĩ Phanxicô và gia nhập cộng đoàn này khi 16 tuổi. Antôniô hoàn tất chương trình tu tập ở Assisi và thụ phong linh mục năm 1705.
Sau đó, ngài tiếp tục học và lấy bằng tiến sĩ thần học. Không dừng lại đó, ngài gia tăng việc học trong cơ hội được bổ nhiệm làm giáo sư ở Agnone, Ravello và Naples, nhất là năm năm sau được làm giáo sư ở trường Thánh Bônaventura ở Rôma, vì dạy tức là học, học lúc soạn bài cũng như học lúc giảng dạy.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên cần học, nhất là học cho biết Chúa và học sống theo gương Chúa.
Suy niệm 2: Làm chứng
Antôniô cùng học chung và là người bạn của Thánh Francesco Antonio Fasani, là người đã ra tòa án Giáo Hội để làm chứng cho sự thánh thiện của Antôniô sau khi ngài từ trần.
Như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã viết trong năm 1975, con người ngày nay "được cảm kích bởi các chứng nhân hơn là người giảng dạy, và nếu họ nghe những người này, đó là vì người giảng dạy cũng là các chứng nhân" (Phúc Âm Hóa Trong Thế Giới Ngày Nay, 41).
Các thánh và các chân phước của của Hội Thánh nói chung và của dòng Phanxicô nói riêng đều là những chứng nhân đức tin sống động. Vì thế theo sự thúc giục của bề trên dòng, Đức Giám Mục Lucci đã viết cuốn sách về các thánh và các chân phước của dòng Phanxicô trong 200 năm đầu tiên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ chiêm ngắm chứng từ của các thánh nhân mà cố gắng học theo các nhân đức của các ngài.
Suy niệm 3: Nổi tiếng
Antôniô sinh ở Agnone miền nam nước Ý, đó là một thành phố nổi tiếng về sản xuất chuông và đồ đồng.
Hình ảnh chiếc chuông với những tiếng vang xa và những âm thanh độc đáo không cơ sở nào vượt qua cũng cho thấy sự nổi tiếng của thành phố Agnone về khía cạnh sản xuất.
Một yếu tố không nhỏ góp phần vào sự nổi tiếng ấy, chính là sự hiện diện của người con của thành phố mang tên Antôniô với đời sống thánh thiện và tài giỏi nổi bật ngay cả thời sinh tiền của ngài, đến mức Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII phát biểu khi chọn ngài làm giám mục: "Tôi vừa chọn được một thần học gia xuất chúng và vị đại thánh làm giám mục Bovino".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nếu không được tài giỏi thì nỗ lực sống thánh để làm rạng danh Giáo Hội.
Suy niệm 4: Chọn
Antôniô được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII chọn làm giám mục của Bovino.
Trước khi được chọn làm giám mục, đời ngài cũng được trải qua những cuộc tuyển chọn khác. Trước hết ngài được chọn làm linh mục năm 1705. Sau đó được bổ nhiệm làm giáo sư ở Agnone, Ravello và Naples. Ngài cũng là cha bề trên nhà dòng ở Naples. Được bầu làm bề trên giám tỉnh năm 1718, và năm sau đó ngài được bổ nhiệm làm giáo sư trường Thánh Bônaventura ở Rôma.
Ngài giữ chức vụ này cho đến năm 1729, ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII chọn làm giám mục của Bovino (gần Foggia). Đức giáo hoàng cho biết: "Tôi vừa chọn được một thần học gia xuất chúng và vị đại thánh làm giám mục Bovino". Nhất là sau khi từ trần, ngài được Hội Thánh tấn phong chân phước vào năm 1989.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con đã được chọn làm con Chúa, xin giúp chúng con nỗ lực được chọn vào hàng ngũ các người hưởng phúc thiên đàng
Suy niệm 5: Thăm
Trong 23 năm làm giám mục, Đức Lucci thường đến thăm các giáo xứ và canh tân đời sống phúc âm của giáo dân trong địa phận.
Là vị chủ chăn của giáo phận, đặc biệt với trọng trách ban hành bí tích Thêm sức, chắc hẳn ngài có điều kiện để thực hiện các chuyến viếng thăm mục vụ tại các giáo xứ thuộc quyền. Nhưng ở đây điểm nổi bật cần đề cao, đó là ngài thường xuyên thăm viếng, dĩ nhiên ngoài những lần đến thăm để ban hành bí tích.
Sở dĩ ngài đề cao việc thăm viếng mục vụ này, là khi đẩy mạnh việc canh tân đời sống phúc âm của giáo dân, ngài đã quyết sống sát phúc âm như một tấm gương cho đoàn chiên. Một điểm rõ nét trong phúc âm không ai không nhận ra ngay, đó là Đức Giêsu không đóng khung ở bàn giấy như một viên chức, nhưng luôn lên đường (Mc 10,17) và cũng truyền các tồng đồ phải ra đi (Lc 9,52;Mt 28,19).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị chủ chân thấy được giá trị của việc thăm viếng trong công tác mục vụ của mình.
Suy niệm 6: Tiền lương
Đức Lucci dùng tiền lương của một giám mục để hỗ trợ cho công việc giáo dục và bác ái.
Là vị mục tử nhân lành, ngài sống tinh thần hiến mạng vì đàn chiên theo gương Đức Giêsu (Ga 10,11), chẳng những ngài dùng các ngân khoản có được từ các ân nhân mà còn sử dụng ngay chính tiền lương của mình cho công việc giáo dục và bác ái.
Vẫn biết ngài được quyền sử dụng tiền lương cho các nhu cầu cá nhân, vì thợ thì đáng được nuôi ăn (Mt 10,10), nhưng ngài cũng là con người sống phúc âm, ngài đã từng suy niệm về nghĩa cử của bà góa được Đức Giêsu khen thưởng (Mc 12,41-44), chẳng lẽ ngài chịu thua kém tinh thần của góa phụ nghèo ấy sao?
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thật keo kiệt cho mình để có thể rất quảng đại cho người cũng như cho các công tác từ thiện.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 26/7 Thánh Gioankim và Thánh Anna
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioankim và Thánh Anna
Thánh Gioankim và Thánh Anna đại diện cho một chuỗi những người trung tín thi hành bổn phận, âm thầm không ai biết đến, kiên trì sống đức tin để tạo nên một bầu khí thuận tiện cho sự giáng trần của Ðấng Thiên Sai.
Lược sử
Trong Kinh Thánh, các thánh sử Mátthêu và Luca cung cấp cho chúng ta phả hệ của Đức Giêsu. Nhưng bên ngoại của Đức Giêsu thì bị lãng quên, chúng ta không có một dữ kiện gì về các đấng sinh thành ra Đức Maria. Ngay cả tên Gioankim và Anna cũng xuất phát từ một truyền thuyết. Các đức tính nổi bật của Đức Maria cho thấy một gia tộc khắng khít. Thánh Gioankim và Thánh Anna -- dù những tên tuổi này có thật hay không -- đã đại diện cho một chuỗi thế hệ của những người trung tín thi hành bổn phận, kiên trì sống đức tin để tạo nên một bầu khí thuận tiện cho sự giáng trần của Đấng Thiên Sai, nhưng họ vẫn âm thầm không ai biết đến.
Suy niệm 1: Phả hệ
Trong Kinh Thánh, các thánh sử Mátthêu và Luca cung cấp cho chúng ta phả hệ của Đức Giêsu.
Các ngài đi ngược trở về tổ tiên dòng họ của Người chỉ để chứng minh rằng Đức Giêsu là cực điểm của các lời hứa trọng đại.
Vì Mátthêu chủ yếu viết cho người Do thái, nên ngài dừng lại ở Ápraham (Mt 1,1), vốn được biểu dương là cha của các kẻ tin (Rm 4,11), là tổ phụ của một dân tộc mới (St 17,5), là nhân vật lịch sử đã thừa hưởng những lời hứa quan trọng của Thiên Chúa (Lc 1,73;Dt 6,13).
Còn Luca thì viết chung cho dân ngoại, nên ngài lần mãi đến con người đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng nên là Ađam (Lc 3,38), vốn là nguyên tổ của cả loài người (St 2,7) và cùng với Evà vợ mình là những nhân vật tiên khởi được đón nhận lời hứa ban ơn cứu độ của Thiên Chúa (St 3,15).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức chúng con đã thuộc về dân thánh, dân riêng, dân của Chúa (1Pr 2,9-10), chúng con phải sống thánh.
Suy niệm 2:. Lãng quên
Bên ngoại của Đức Giêsu thì bị lãng quên.
Phải trung thực và thẳng thắn nói rằng không phải bị lãng quên mà đúng hơn là không được đề cập đến. Một đàng, theo quan niệm thời đó ở tại Ítraen cũng như tại Việt Nam chúng ta, vai trò của giới phụ nữ không được quan tâm, đặc biệt trong lãnh vực gia phả. Chính vì thế có câu: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô.
Đàng khác, vấn đề nối dõi tông đường thường đặt lên hàng đầu, đến mức khía cạnh đạo đức luân lý cũng được châm chước. Từ đó nảy sinh việc đa thê, bà Xarai hiếm muộn đã giải quyết bằng cách chính bà tác hợp cho Ápram chồng bà với người nữ tỳ của bà là Haga để từ đó có con nối dõi (St 16,1-2). Hoặc hai cô con gái của ông Lót đã phục rượu cha mình và lần lượt đến với ông để từ đó có con nối dõi cho cha (St 19,30-38).
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống trong một xã hội văn minh hiện nay với đường hướng nam nữ bình quyền, xin giúp chúng con tôn trọng và tin dùng họ vào các công việc hợp pháp và thích hợp.
Suy niệm 3: Truyền thuyết
Ngay cả tên Gioankim và Anna cũng xuất phát từ một truyền thuyết.
Truyền thuyết này được viết lại sau khi Đức Giêsu về trời khoảng hơn một thế kỷ. Tuy nhiên, đức tính anh hùng và thánh thiện của các ngài được suy đoán từ bầu khí của toàn thể gia tộc Đức Maria.
Dù chúng ta dựa trên truyền thuyết về thời kỳ thơ ấu của Đức Maria hoặc suy đoán từ các dữ kiện trong Phúc Âm, Đức Maria là một thể hiện của biết bao thế hệ những người siêng năng cầu nguyện mà chính ngài là một người đắm chìm trong các truyền thống đạo đức của người Do Thái.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vượt qua các truyền thuyết để nắm bắt ý nghĩa ẩn tàng trong đó: có Đức Maria có nghĩa là có các ngài.
Suy niệm 4:. Đức Maria
Các đức tính nổi bật của Đức Maria khi ngài thi hành các quyết định, khi liên lỉ cầu nguyện, khi trung thành với quy luật tôn giáo, khi bình tĩnh trước những khủng hoảng và khi tận tâm với người bà con.
Tất cả những điều này cho thấy một gia tộc khắng khít, yêu thương nhau biết nhìn đến các thệ hệ tương lai trong khi vẫn duy trì truyền thống tốt đẹp của quá khứ, đồng thời cũng cho thấy câu nói: "con nhà tông không giống lông thì giống cánh", có nghĩa là một Đức Maria thánh thiện thì phụ mẫu Gioankim và Anna sinh ra ngài cũng rất đạo đức.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các người làm con cái hãy biết báo hiếu cha mẹ bằng lối sống tốt để làm rạng danh cha mẹ mình.
Suy niệm 5: Thế hệ
Thánh Gioankim và Thánh Anna -- dù những tên tuổi này có thật hay không -- đã đại diện cho một chuỗi thế hệ.
Đây là "ngày lễ của các ông bà". Nó nhắc nhở cho các ông bà về trách nhiệm của họ là phải thiết lập gia phong cho các thế hệ tương lai: Họ phải làm sống lại các truyền thống và trao truyền cho con cháu. Nhưng ngày lễ này cũng có ý nghĩa cho các thế hệ trẻ. Nó nhắc nhở người trẻ rằng cái nhìn chín chắn, giầu kinh nghiệm của người già là sự khôn ngoan không nên coi thường hoặc bỏ qua.
... Gia đình là nền tảng của xã hội. Trong đó, nhiều thế hệ đến với nhau để giúp đỡ nhau lớn lên trong sự khôn ngoan và để hòa hợp quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác của đời sống xã hội" (Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, 52).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dù lớn nhỏ đều dùng dịp lễ này để xét lại trách nhiệm của đấng bậc mình đối với gia phong.
Suy niệm 6: Âm thầm
Thánh Gioankim và Thánh Anna vẫn âm thầm không ai biết đến.
Cuộc đời các ngài thật âm thầm đến mức không ai biết đến, cũng như bao người đã đến trong đời rồi đi. Nhưng nhờ sự nổi danh của người con là Đức Maria mà tên tuồi của các ngài lại được nêu bật. Thật đúng như câu nói: "con nhà tông không giống lông thì giống cánh", có nghĩa là một Đức Maria thánh thiện thì phụ mẫu Gioankim và Anna sinh ra ngài cũng rất đạo đức, đáng được nêu danh cho bao người noi theo.
Sự âm thầm có khi lại có giá trị rất quan trọng đến mức không thể không có. Có các ngài thì mới có Đức Maria. Các ngài có đạo đức thì mới có một Maria thánh thiện. Cũng như phải có một chuyên gia Wadner làm sân cỏ âm thầm chăm sóc hằng năm sân bãi, thì các cuộc thi đấu làng banh nỉ ở Wimbledon mới được diễn ra tốt đẹp đúng hạn kỳ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bỏ quên lời khen thưởng đối với các nhân sự và công việc âm thầm vốn đóng góp không nhỏ cho thành quả của các cuộc tổ chức rầm rộ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 25/7 Thánh Giacôbê Tông Ðồ (1461-1503)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giacôbê Tông Ðồ (1461-1503)
Thánh Giacôbê là một trong ba người được ưu tiên chứng kiến Chúa Hiển Dung, được thấy con gái ông Giairút sống lại và có mặt trong giờ thống khổ của Ðức Giêsu trong vườn Giệtsimani, và là tông đồ đầu tiên chịu tử đạo.
Lược sử
Thánh Giacôbê là anh của Thánh Gioan Thánh Sử. Cả hai được Đức Giêsu mời gọi khi họ đang trên thuyền đánh cá, làm việc với người cha ở biển Galilê.
Thánh Giacôbê là một trong ba người được ưu tiên.
Có hai biến cố trong Phúc Âm diễn tả tính khí của thánh nhân và người em. Sau đó Đức Giêsu dạy họ bài học về sự khiêm tốn phục vụ.
Trong một trường hợp khác, Giacôbê và Gioan chứng minh rằng biệt hiệu mà Đức Giêsu đặt cho họ: "con của sấm sét". Hiển nhiên Thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên chịu tử đạo (Cv 12,1-3a).
Chúng ta đừng nhầm lẫn Thánh Giacôbê với tác giả của Thư Thánh Giacôbê, hoặc vị lãnh đạo của cộng đồng Giêrusalem.
Suy niệm 1: Mời gọi
Thánh Giacôbê là anh của Thánh Gioan Thánh Sử. Cả hai được Đức Giêsu mời gọi khi họ đang trên thuyền đánh cá, làm việc với người cha ở biển Galilê.
Trước đó, Đức Giêsu đã gọi một đôi anh em khác cũng từ một hoàn cảnh tương tự, đó là Phêrô và Anrê (Mt 4,18-22). Một thái độ đồng nhất của các tông đồ đầu tiên được Thánh Sử Mátthêu ghi nhận trước lời mọi của Đức Giêsu, đó là tất cả không chần chừ mà ngay lập tức các ngài liền bỏ mọi sự để lên đường đi theo Chúa (Mt 4,20.22)..
Samuen xưa kia cũng có tâm tình đó dầu còn trẻ và dầu còn đang trong giấc ngủ. Nghe tiếng Chúa gọi, ngài cũng vội vàng chỗi dậy đáp lời "Dạ, con đây", và lập tức chạy đến cùng Thầy Cả Hêli, vì chưa nhận ra ơn mặc khải cho ngài (1Sm 3,7), dầu chỉ trong một đêm ngài bị đánh thức đến ba lần (1Sm 3,4.6.8).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mau mắn đáp lời Chúa cụ thể qua các tiếng chuông báo hiệu giờ cử hành phụng vụ.
Suy niệm 2: Ưu tiên
Thánh Giacôbê là một trong ba người được ưu tiên.
Ngài cùng với Phêrô và em ngài là Gioan được ưu tiên chứng kiến Chúa Hiển Dung (Mt 17,1), được thấy con gái ông Giairút sống lại (Mc 5,37) và có mặt trong giờ thống khổ của Đức Giêsu trong vườn Giệtsimani (Mt 26,37), trong khi các tông đồ khác thì không được như thế.
Ngoài ra ngài là vị tông đồ được vinh phúc hưởng triều thiên tử đạo đầu tiên trong nhóm các tông đồ. Thật ra nếu xét về hồng phúc này thì phải nêu lên trường hợp của Thánh Têphanô là vị tử đạo đầu tiên (Cv 7,59-60), nhưng ngài chỉ là vị Phó Tế (Cv 6,5) chứ không phải là tông đồ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra ơn huệ được làm con Chúa cũng là một điểm ưu tiên để sống sao cho xứng đáng.
Suy niệm 3: Tính khí
Có 2 biến cố trong Phúc Âm diễn tả tính khí của Giacôbê và người em.
Thánh Mátthêu kể rằng mẹ của hai ông đến với Đức Giêsu để xin cho hai ông được chỗ ngồi vinh dự trong vương quốc: một bên phải, một bên trái Đức Giêsu (Mt 20,20-28). Các tông đồ khác phẫn nộ khi thấy tham vọng của Giacôbê và Gioan. Thánh Luca ghi chuyện hai ngài nóng giận đến mức hiếu sát trước thái độ dân làng Samari cản lối đi của Chúa (Lc 9,51-56).
Phương cách mà Phúc Âm đề cập đến các tông đồ là một nhắc nhở tốt đẹp về ý nghĩa của sự thánh thiện. Trong Phúc Âm, chúng ta không thấy đề cập nhiều đến các đức tính của các ngài như những sở hữu cố định mà nhờ đó họ được phần thưởng thiên đàng. Thay vào đó, Phúc Âm nhấn mạnh đến Nước Trời, đến quyền năng rao giảng Tin Mừng mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Còn về phần đời sống cá nhân của các ngài, chúng ta thấy Đức Giêsu đã thanh luyện họ khỏi những hẹp hòi, nhỏ nhen, bất nhất.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con học theo gương Chúa bao dung trước các khuyết điểm của người và kiên nhẫn thanh luyện họ.
Suy niệm 4:. Phục vụ
Đức Giêsu dạy họ bài học về sự khiêm tốn phục vụ.
Mục đích của quyền bính là để phục vụ. Họ không được áp đặt ý muốn của mình trên người khác, hay sai bảo người khác. Đây là vị thế của chính Đức Giêsu. Ngài là tôi tớ của tất cả; sự phục vụ được giao phó cho Ngài là tuyệt đối hy sinh tính mạng mình.
Đức Giêsu không chỉ chủ trương phục vụ "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28) và chỉ dạy "Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em" (Mc 10,43-44) mà còn nêu gương: Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau (Ga 13,5).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dầu lớn dầu nhỏ cũng đều khiêm tốn phục vụ lẫn nhau theo đường hướng Chúa.
Suy niệm 5: Biệt hiệu
Giacôbê và Gioan chứng minh về biệt hiệu mà Đức Giêsu đặt cho họ: "con của sấm sét".
Biệt hiệu này rất thích hợp với họ qua sự kiện này: Người Samaritanô không đón tiếp Đức Giêsu vì Người đang trên đường đến Giêrusalem. "Thấy thế, hai môn đệ là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: 'Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không?' Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông..." (Luca 9,54-55).
Tính khí nóng giận của Giacôbê đã thay đồi từ đấy. Vì thế khi Giacôbê thấy thảm cảnh vua Hêrôđê ra tay ngược đãi các kitô hữu tiên khởi đến mức hạ lệnh chém đầu ngài (Cv 12,1), ngài vẫn không phản kháng mà theo gương Thầy Chí Thánh tỏ thái độ như cừu câm nín khi bị xén lông, thậm chí như chiên hiền lành bị mang đi giết, (Cv 8,32).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được tai hại của tính nóng giận như câu nói "giận mất khôn", để kịp thời sửa đổi bằng tính hiền lành.
Suy niệm 6: Tử đạo
Hiển nhiên Thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên chịu tử đạo.
Chúa Kitô, trong Người mà sự mặc khải trọn vẹn của Thiên Chúa tối cao được hoàn tất (x. 2 Cor. 1,20;2,16; 4,6), truyền dạy các tông đồ rao giảng Phúc Âm cho muôn dân, đó là nguồn mạch của mọi chân lý cứu độ và lời luân lý, và vì thế thông ban cho họ ơn sủng của Thiên Chúa...
Mệnh lệnh này được trung tín thực hiện bởi các tông đồ, là những người, qua lời giảng, qua gương mẫu, và qua các quy định, (đặc biệt qua hành vi tử đạo) đã truyền lại những gì họ nhận được từ miệng Đức Kitô, bởi sống với Người, và bởi những gì Người làm hoặc những gì các tông đồ học hỏi được qua sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần" (Hiến Chế về Mặc Khải Thiên Chúa, 7).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm tiếp nối sứ vụ của các tông đồ trong thời đại chúng con đang sống, dầu phải chịu tử đạo.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 24/7 Chân Phước Louise ở Savoy (1461-1503)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Louise ở Savoy (1461-1503)
Louise là em của vua Louis IX nước Pháp, và kết hôn với Thái Tử xứ Chalon. Trong cung điện của họ, không có sự xa hoa phung phí. Ðôi vợ chồng này còn thuyết phục các tiểu thư, hoàng tử của triều đình sống sát với Phúc Âm hơn.
Lược sử
Vào ngày 28 tháng Mười Hai, ngày lễ các Thánh Anh Hài, một bé gái được sinh trong gia đình Công Tước ở Savoy và là em của vua Louis IX nước Pháp. Em bé được đặt tên là Louise, để nói lên sự ngây thơ và thánh thiện của em.
Khi còn trẻ Louise đã yêu quý sự cầu nguyện và cô độc. Trong các ngày lễ kính Đức Mẹ, cô thường ăn chay, chỉ có bánh mì và nước lạnh.
Do sự dàn xếp của người chú, Louise kết hôn với Thái Tử xứ Chalon, một thanh niên đức hạnh biết quý trọng nếp sống thanh bạch của Louise.
Vào năm 27 tuổi, Louise trở thành người góa bụa và sau đó bà lui về một đời sống đơn giản để cho phép bà tận tụy trong công việc bác ái và ăn chay đền tội. Vì không có con, bà gia nhập Dòng Thánh Clara Nghèo Hèn ở Orbe. Trong thời gian ấy, bà chứng tỏ là một gương mẫu xứng đáng của sự khiêm tốn và vâng phục. Sau một cơn trọng bệnh, bà từ trần ngày 24 tháng Bảy 1503, khi mới 42 tuổi. Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI đã phong chân phước cho bà vào năm 1839.
Suy niệm 1:. Tên
Em bé được đặt tên là Louise, để nói lên sự ngây thơ và thánh thiện của em.
Kinh Thánh cũng để lại cho chúng ta nhiều trường hợp điển hình về việc danh xưng thường gắn liền với ý nghĩa và sứ mạng của đời người. Môsê với nghĩa cứu vớt chẳng những nói lên sự kiện được công chúa Ai Cập cứu vớt lên khỏi nước (Xh 2,10), mà còn tiên báo sứ mạng của Môsê sẽ cứu dân Ítraen ra khỏi đất nô lệ của Pharaô (Xh 3,10). Gioan có tên là Tiền Hô và Tẩy Giả vì ngài sống sứ vụ dọn đường và làm phép rửa (Ga 1,23.28).
Tên Louise muốn nói lên sự ngây thơ và thánh thiện của ngài vốn được bày tỏ trong cuộc đời yêu thích cô độc dể dễ cầu nguyện, rồi ăn chay hãm mình đặc biệt trong cách ăn mặc dầu ở địa vị cao sang. Rồi khi góa bụa thì gia tăng việc bác ái và và ăn chay đền tội. Nhất là khi bà gia nhập Dòng Thánh Clara Nghèo Hèn ở Orbe, thì chứng tỏ là một gương mẫu xứng đáng của sự khiêm tốn và vâng phục.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống đúng và xứng với danh xưng Kitô hữu của mình.
Suy niệm 2: Cô độc
Khi còn trẻ Louise đã yêu quý sự cầu nguyện và cô độc.
Ngoài phương cách cầu nguyện mang tính cộng đồng, việc cầu nguyện riêng thường cần đến sự yên lặng nhất là về mặt nội tâm, nên yếu tố cô độc cũng rất cần thiết.
Các trẻ ở Phatima và Lộ Đức hưởng được đặc ân đức Maria hiện ra cũng thường dành thì giờ cô tịch ngoài đồng vắng dịp chăn chiên chăn cừu để cầu nguyện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tạo cho mình bầu khí thinh lặng nội tâm để có thể cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc.
Suy niệm 3: Đức Mẹ
Trong các ngày lễ kính Đức Mẹ, Louise thường ăn chay, chỉ có bánh mì và nước lạnh.
Mặc dù bề ngoài, cô cũng mặc các y phục đắt tiền và đeo nữ trang quý báu phù hợp với địa vị của cô, nhưng bên trong lớp nhung lụa đó là chiếc áo nhặm để nhắc nhở với cô rằng: linh hồn là điều cần được chăm sóc hơn cả.
Cách thức kín đáo bày tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ của ngài quả đẹp lòng Mẹ vì rất đúng ý Chúa đã dạy bảo: "Khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh (Mt 6,16-18).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống thật với mình và với Chúa, chứ đừng sống giả hình bên ngoài vì người đời.
Suy niệm 4: Kết hôn
Do sự dàn xếp của người chú, Louise kết hôn với Thái Tử xứ Chalon, một thanh niên đức hạnh biết quý trọng nếp sống thanh bạch của Louise.
Một thiếu nữ thánh thiện được lập gia đình với một người chồng đức hạnh, để rồi cả hai đồng lòng cùng giúp nhau trau dồi nếp sống đạo đức, thật quý hóa dường nào!
Trong cung điện của họ, không có những xa hoa phung phí. Đôi vợ chồng này còn thuyết phục các tiểu thư, hoàng tử của triều đình sống sát với Phúc Âm hơn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc vợ chồng luôn biết hợp lòng quan tâm đến việc chăm sóc linh hồn mình và cả tha nhân nữa.
Suy niệm 5: Góa bụa
Vào năm 27 tuổi, Louise trở thành người góa bụa.
Với tư cách là vợ của một thái tử, ngài phải sống đúng địa vị mình để giữ thanh danh cho chồng, đặc biệt trong cách trang phục, dầu ngài vẫn mặc áo nhặm bên trong, để nhắc nhở đến tầm quan trọng ưu việt của sự sống phần hồn của địa vị làm con Thiên Chúa.
Nhưng sau khi chồng mất để trở thành người góa bụa, ngài không còn bị ràng buộc bởi chức vị thế trần của cung điện nữa, ngài lui về một đời sống đơn giản, đặc biệt trong cách ăn mặc. Đồng thời ngài được phép sử dụng thì giờ nhiều hơn để tận tụy trong công việc bác ái và ăn chay đền tội. Vì không còn chồng và cũng chẳng có con, ngài an tâm gia nhập Dòng Thánh Clara Nghèo Hèn ở Orbe.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các góa phụ cũng biết dành thời gian còn lại để hết mình phụng thờ Chúa và phục vụ tha nhân như Thánh nữ Louise hay bà Giuđích (Gđt 8,8) hoặc như bà Linh Dương (Cv 9,36).
Suy niệm 6: Gương mẫu
Louise chứng tỏ là một gương mẫu xứng đáng của sự khiêm tốn và vâng phục.
Xuất thân từ cung điện với địa vị vợ của một thái tử, ngài vào dòng và bằng lòng sống khiêm tốn như các chị em khác trong mọi sự. Ngài không nhận một sự ưu đãi hoặc một sự kính nể nào khác, mà vui lòng được đối xử như mọi nữ tu khác trong dòng.
Lòng khiêm tốn này được thể hiện đậm nét trong việc ngài hết lòng vâng phục mọi lệnh truyền cũng như các sắp đặt của bề trên với bất cứ công tác gì dầu hèn kém nhất. Là người vợ của thái tử vốn được kính trọng và thường xuyên sai khiến người thuộc quyền, nay ngài phải vâng lời trong từng chi tiết. Vì thế ngài đã trở thành mẫu gương cho cộng đoàn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết luôn hư vô hóa mình để dễ sống được đức khiêm tốn và vâng lời.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 23/7 Thánh Bridget ở Thụy Ðiển (1303?-1373)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Bridget ở Thụy Ðiển (1303?-1373)
Các thị kiến về Đức Kitô chịu đóng đinh làm nền tảng cho đời sống thánh Bridget - chú trọng đến đức ái. Cuộc đời thánh nữ còn chứng minh rằng sự thánh thiện có thể thực hiện được giữa nơi chính trường.
Lược sử
Từ lúc bảy tuổi trở đi, Thánh Bridget đã được thị kiến Đức Kitô trên thánh giá. Các thị kiến ấy làm nền tảng cho đời sống thánh nữ -- luôn luôn chú trọng đến đức ái hơn là trông đợi các ơn huệ thiêng liêng. Khi mười bốn tuổi, vâng lời cha, ngài kết hôn với vua Thụy Điển là Magnus II và có tám ngươi con (người con thứ là Thánh Catarina ở Thụy Điển). Sau khi nhà vua từ trần ngài sống một cuộc đời rất khổ hạnh.
Vào Năm Thánh 1350, Thánh Bridget bất chấp bệnh dịch đang lan tràn khắp Âu Châu, ngài thực hiện cuộc hành hương đến Rôma. Ngài không bao giờ trở về Thụy Điển. Chuyến hành hương sau cùng của ngài đến Đất Thánh thì bị hỏng vì đắm tầu và cái chết của người con trai. Các biến cố ấy cũng dẫn đến cái chết của ngài vào năm 1373. Ngài là quan thầy của nước Thụy Điển.
Suy niệm 1: Thị kiến
Thánh Bridget đã được thị kiến Đức Kitô trên thánh giá.
Các thị kiến của Thánh Bridget, thay vì cô lập ngài khỏi các sinh hoạt của thế gian, đã đưa ngài can dự vào nhiều vấn đề đương thời, dù đó là chính sách của hoàng gia hay của giáo triều Avignon.
Ngài không thấy sự mâu thuẫn giữa các cảm nghiệm thần bí và các sinh hoạt trần tục, và cuộc đời ngài chứng minh rằng sự thánh thiện có thể thực hiện được giữa nơi chính trường.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu được rằng sinh sống ở bất cứ môi trường nào cũng có thể nên thánh miễn là nỗ lực sống thánh.
Suy niệm 2: Thánh giá
Thánh Bridget đã được thị kiến Đức Kitô trên thánh giá.
Vì sao các thị kiến của ngài luôn tập trung vào hình ảnh Đức Kitô trên thánh giá? Lý do Thánh Bridget là một người trong hoàng gia Thụy Điển, được thừa hưởng sự đạo đức của cha mẹ, ngay từ nhỏ ngài đã yêu quý sự Thống Khổ của Đức Kitô.
Các thị kiến ấy làm nền tảng cho đời sống thánh nữ. Cái chết của Đức Kitô trên thập giá nêu cao mẫu gương bác ái, khi Người hiến mạng để cứu sống muôn người và tha thứ cho những kẻ hành hình Người. Do đó Thánh Bridget luôn luôn chú trọng đến đức ái đối với tha nhân hơn là trông đợi các ơn huệ thiêng liêng mang tính vị kỷ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tập sống vị tha hơn là vị kỷ, ít ra mỗi lần làm dấu thánh giá như một lần nhắc nhở về mẫu gương Chúa.
Suy niệm 3: Đức ái
Thánh Bridget luôn luôn chú trọng đến đức ái hơn là trông đợi các ơn huệ thiêng liêng.
Ngài sống đức ái ngay từ lúc còn nhỏ, đặc biệt khi mới 14 tuổi ngài đã vâng lời thân phụ để bước vào đời sống hôn nhân. Là hoàng hậu, cách riêng sau khi nhà vua từ trần, ngài sống khổ hạnh để nêu gương cho các đan sĩ nam nữ, cũng như có điều kiện giúp đỡ cho đan viện.
Vì đức ái, ngài bị số nợ chồng chất, vì thế trong dịp đi hành hương Rôma, nhưng những năm ở đây thật không sung sướng chút nào, vì bị chủ nợ săn đuổi và bị chống đối bởi sự thối nát trong Giáo Hội thời bấy giờ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng phải nợ nần ai hết, ngoại trừ món nợ bác ái (Rm 13,8).
Suy niệm 4: Kết hôn
Khi mười bốn tuổi, vâng lời cha, Thánh Bridget kết hôn với vua Thụy Điển là Magnus II.
Với giới phụ nữ, được kết hôn với một tấm chồng là hoàng đế, hẳn là một mơ ước không tưởng, nhưng với ngài thì không phải thế, vì ngài chấp nhận cuộc hôn nhân này chỉ vì vâng lời phụ thân. Có thể ngài sợ cuộc sống xa hoa trong hoàng triều tác hại xấu đến lòng tôn sùng sự Thống Khổ của Đức Kitô mà ngay từ nhỏ ngài đã yêu quý.
Nhưng trong thời gian hôn nhân, ngài vui lòng ôm ấp thánh giá Chúa bằng cố gắng tối đa ảnh hưởng tốt đến vua Magnus. Dù chưa hoàn toàn thay đổi, nhà vua cũng đã ban cho ngài đất đai và cơ sở để thiết lập một đan viện cho nam giới và nữ giới. Tổ chức này sau đó phát triển thành một tu hội, được gọi là Tu Hội Thánh Bridget (hiện nay vẫn còn).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thật lòng yêu mến sự Thống Khổ của Chúa thì ở đâu và lúc nào cũng sống được tâm tình ấy.
Suy niệm 5: Khổ hạnh
Sau khi nhà vua từ trần, Thánh Bridget sống một cuộc đời rất khổ hạnh.
Thật ra phải nói chính xác hơn, sau khi nhà vua mất, ngài có thể thoải mái sống đời khổ hạnh hơn, vì ngài đã từng sống ngay khi nhà vua đang còn sống. Một đàng đó là chí hướng nhằm thể hiện lòng ngài yêu mến sự Thống Khổ của Đức Kitô ngay từ nhỏ.
Đàng khác ngài thấy giá trị của việc khổ hạnh như một hổ trợ tất yếu cho mọi lời nguyện xin mà ngài đang hướng về việc canh tân dời sống của nhà vua. Dầu chưa hoàn toàn tốt hóa vị hoàng đế chồng mình, nhưng ngài cũng thấy tín hiệu khả quan, khi nhà vua đã đồng tình ban cho ngài đất đai và cơ sở để thiết lập một đan viện cho nam giới và nữ giới.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết cầu nguyện cùng với việc thực hành sự khổ chế theo hoàn cảnh và điều kiện của mình.
Suy niệm 6: Hành hương
Vào Năm Thánh 1350, Thánh Bridget bất chấp bệnh dịch đang lan tràn khắp Âu Châu, ngài thực hiện cuộc hành hương đến Rôma.
Năm Thánh là một dịp Giáo Hội thường ban nhiều đặc ân thiêng liêng cho những người tham dự. Vì thế với tấm lòng đạo đức, ngài đã quyết định đi hành hương để lãnh nhận, bất chấp bệnh dịch đang lan tràn khắp Âu Châu, nghĩa là ngài có thể bị lây nhiễm khi đến đó.
Vào cuối đời, ngài cũng muốn thực hiện chuyến hành hương sau cùng đến Đất Thánh để sống lại hình ảnh của Đức Kitô chịu Thống Khổ, nhưng không thực hiện được, vì đắm tầu và cái chết của người con trai. Dầu vậy ngài lại hoàn tất cuộc hành hương đến Trời Mời và Đất Mới.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dầu không có điều kiện thực hiện được những cuộc hành hương ở nhiều địa điểm trên trần thế, thì ít là phải hoàn thành chuyến hành hương về Nước Trời.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 22/7 Thánh Maria Mađalêna
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Maria Mađalêna
Maria Mađalêna là một trong những người đứng dưới chân thập giá Ðức Giêsu với Ðức Mẹ, và là một trong các nhân chứng "chính thức" đã được chọn để chứng kiến sự Phục Sinh.
Lược sử
Trong Phúc Âm, ngoại trừ mẹ Đức Giêsu, ít phụ nữ được vinh dự bằng Maria Mađalêna. Tuy nhiên, ngài rất thích hợp là quan thầy của những người bị phỉ báng.
Hầu hết các học giả ngày nay đều cho rằng sự lẫn lộn ấy không có căn bản Phúc Âm.
Maria Mađalêna là một trong những người "đã giúp đỡ các ngài (Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai) bằng các phương tiện của họ." Maria Mađalêna là một trong những người đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu với Đức Mẹ. Và, trong các nhân chứng "chính thức" đã được chọn để chứng kiến sự Phục Sinh, thì ngài là một trong những người được ưu tiên đó.
Suy niệm 1: Vinh dự
Trong Phúc Âm, ngoại trừ mẹ Đức Giêsu, ít phụ nữ được vinh dự bằng Maria Mađalêna.
Một vinh dự trổi vượt mà ngài được tận hưởng, đó là trong số những người theo Chúa, ngay cả Đức Maria và các tông đồ, ngài là người đầu tiên được diện kiến Đức Kitô Phục Sinh dịp ra viếng mồ Chúa, để rồi được nhận lãnh sứ mạng loan báo tin mừng này cho những người khác (Ga 20,15-18).
Ngài thật xứng hưởng được vinh dự này, vì ngài đã sống trọn vẹn lòng sám hối tội lỗi đến mức không bao giờ tái phạm và dùng cả quảng đời còn lại để bù đắp bằng việc hết mình theo Chúa. Ngài giúp đỡ Chúa trên bước đường truyền giáo theo điều kiện của mình (Mt 27,55-56), ngài đứng dưới chân thập giá cùng với Mẹ Chúa (Ga 19,25), ngài mua dầu thơm xức xác Chúa (Mc 16,1) và nhất là đóng vai làm sứ giả loan báo tin mừng Đức Kitô Phục Sinh (Mt 28,7;Ga 20,2).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhận ra niềm vinh dự cao cả mà chúng con cũng hằng nhận được là được làm con Chúa dầu thật bất xứng, để hết mình chừa bỏ tội lỗi và sống hết mình cho Chúa.
Suy niệm 2: Phỉ báng
Mađalêna rất thích hợp là quan thầy của những người bị phỉ báng.
Vì sao thế? Vì trong Giáo Hội, luôn luôn người ta cho rằng ngài là người phụ nữ tội lỗi đã lấy nước mắt rửa chân Đức Giêsu trong Phúc Âm theo Thánh Luca 7,36-50 và được Người chữa khỏi "bảy quỷ" (Lc 8,2).
Có lẽ Thánh Maria Mađalêna từng mỉm cười khi bị "nhận diện sai lầm" trong 20 thế kỷ. Tuy nhiên, chắc chắn rằng ngài không cho đó là điều khác biệt. Tất cả chúng ta đều là kẻ có tội, đều cần đến ơn cứu chuộc của Thiên Chúa, dù tội lỗi chúng ta có kinh khiếp hay không. Quan trọng hơn nữa, cùng với thánh nữ, tất cả chúng ta là các nhân chứng "bán chính thức" của sự Phục Sinh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mang tâm tình của người trộm bên hữu Chúa mỗi khi bị phỉ báng dầu bị hiểu lầm: Thật là đích đáng xứng với bao tội đã và sẽ phạm (Lc 23,41).
Suy niệm 3: Lẫn lộn
Hầu hết các học giả ngày nay đều cho rằng sự lẫn lộn ấy không có căn bản Phúc Âm.
Maria Mađalêna, chính là "Maria Mácđala", người được Đức Kitô chữa khỏi "bảy quỷ" (Luca 8,2) -- đó là một biểu thị về sự quỷ ám nặng nề hoặc, có thể, bị bệnh nặng.
Cha W.J. Harrington, dòng Đa Minh, trong cuốn New Catholic Commentary (Chú Giải Mới của Công Giáo), ngài viết "bảy quỷ" "không có nghĩa là Maria sống một cuộc đời đồi bại -- đó là một kết luận do bởi nhầm lẫn Maria với người phụ nữ vô danh trong Phúc Âm theo Thánh Luca 7,36. Cha Edward Mally, dòng Tên, trong cuốn Jerome Biblical Commentary (Chú Giải Phúc Âm Thánh Giêrôm), cha đồng ý rằng Maria Mađalêna "không phải là người tội lỗi như được viết trong Luca 7,37, dù rằng sau này Tây Phương có truyền thống gán ghép điều ấy cho ngài".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn nhận ra sự nhầm lẫn thậm chí sai lầm, điều quan trọng là thấy được sự bất toàn của thân phận làm người để rồi khắc phục, sửa sai và tiến lên.
Suy niệm 4: Giúp đỡ
Maria Mađalêna là một trong những người "đã giúp đỡ các ngài (Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai) bằng các phương tiện của họ".
Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa Ngôi Hai tràn đầy mọi sự, thế nhưng khi xuống trần mang thân phận làm người thì Ngài chấp nhận số phận vô sản tuyệt đối, dến mức bằng lòng hạ sinh trong một máng cỏ (Lc 2,7), sống lang thang không nhà không có nơi tựa đầu (Mt 8,20), chết với chỉ một mảnh vải che thân và được chôn nhờ vào ngôi mộ của một người hảo tâm (Mt 27,60).
Đức Giêsu vốn giàu sang nhưng tự ý trở nên vô sản (2Cr 8,9) để tạo điều kiện cho người người có cơ hội giúp đỡ Người bằng các phương tiện và điều kiện của họ. Thú vật bò lừa trú trong hang có thể hà hơi sưởi ấm Người cũng như cho Người mượn máng ăn làm nơi sinh hạ. Một trẻ bé có thể đóng góp 5 chiếc bánh và 2 con cá để giúp Người làm phép lạ nuôi sống đoàn dân đông đảo (Ga 6,9). Gia đình 3 chị em Mácta nghèo của nhưng giàu lòng ở Bêtania cũng làm nơi Chúa dừng chân nghỉ ngơi (Lc 10,38).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con rộng lòng để giúp người cũng như tạo điều kiện cho người giúp mình.
Suy niệm 5: Đứng
Maria Mađalêna là một trong những người đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu với Đức Mẹ.
Kể từ ngày ngài được Đức Giêsu cứu sống cả phần xác lẫn phần hồn (Ga 8,11), ngài đã canh tân đời sống và khéo léo đi theo giúp đỡ Chúa. Đến giây phút cuối đời của Chúa trên thập giá, ngài cũng hiện diện bất chấp mọi hiễm nguy do tội đồng lõa, vốn làm các tông đồ hãi sợ bỏ trốn (Mt 26,56) cho đến lúc này vẫn không có mặt đầy đủ.
Phải nói thêm rằng không kể những phụ nữ đứng từ xa mà nhìn (Mc 15,40), ngài là người duy nhất trong số những người hiện diện ngay dưới chân thập giá mà không có liên quan gia tộc huyết thống với Đức Giêsu (Ga 19,25): Đức Maria là thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát là dì vì là chị của mẹ, còn Gioan là anh em họ của Chúa. Nhưng ngài mang một huyết thống thiêng liêng khi theo Chúa, sống Thiên Ý (Mt 12,48-49) và nghe cũng như thực hành lời Chúa (Lc 8,21).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống xứng với ân huệ được làm con cái Chúa (Rm 8,16;9,26;Gl 3,26).
Suy niệm 6: Nhân chứng
Trong các nhân chứng "chính thức" đã được chọn để chứng kiến sự Phục Sinh, thì ngài là một trong những người được ưu tiên đó.
Với một quá khứ lầm lỗi đến mức người Do thái đã dành cho ngài một bản án là ném đá chết dựa theo luật Môsê, thế nhưng tình thương cứu độ của Chúa thật độc đáo. Người không xử trí theo cách thông thường của xã hội loài người là giết chết hoặc loại bỏ, mà tha thứ, vực dậy và tin dùng, như ngài đối xử với một Phêrô chối Chúa hoặc một Phaolô bắt đạo Chúa.
Ngài thật xứng đáng được chọn làm chứng nhân. Vì dầu quá khứ tội lỗi, nhưng ngài đã bù đắp bằng một hiện tại đạo đức hết mình canh tân, và nhất là một tương lai lành thánh luôn giúp Chúa và mạnh dạn hầu kề thập giá Chúa cũng như sống đời chứng nhân đến chết.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín rằng là tội nhân trong quá khứ nhưng ai cũng có thể là thánh nhân trong tương lai.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 21/7 Thánh Lawrence ở Brindisi (1559-1619)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Lawrence ở Brindisi (1559-1619)
Thánh Lawrence ở Brindisi là một con người tổng hợp của sự lỗi lạc, lòng thương người và khả năng điều hành.
Lược sử
Thoạt nhìn qua tiểu sử, có lẽ đặc tính nổi bật của Thánh Lawrence ở Brindisi là ngài biết nhiều thứ tiếng.
Ngài sinh ngày 22 tháng Bảy 1559, và từ trần đúng 60 năm sau cũng vào ngày sinh nhật năm 1619. Tên thật của ngài là Julius Caesare, sau khi cha mẹ mất sớm, ngài được người chú nuôi nấng và cho theo học trường Thánh Máccô ở Venice.Khi mới 16 tuổi, ngài gia nhập dòng Phanxicô Capuchin ở Venice và lấy tên là Lawrence. Ngài học triết thần, Kinh Thánh, và các ngôn ngữ ở Đại Học Padua và được thụ phong linh mục năm 23 tuổi.
Ngài rất nhạy cảm trước nhu cầu của người khác. Ngài là một con người tổng hợp của sự lỗi lạc, có lòng thương người và khả năng điều hành.
Vào năm 1956, Dòng Capuchin hoàn tất việc biên soạn 15 tuyển tập của ngài. Trong các tuyển tập ấy, mười một tập là các bài giảng, mỗi bài giảng được ngài dựa trên một câu Kinh Thánh để dẫn giải.Ngài được phong thánh năm 1881 và được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1959.
Suy niệm 1: Biết nhiều thứ tiếng
Lawrence biết nhiều thứ tiếng.
Ngoài kiến thức của tiếng mẹ đẻ là tiếng Ý, ngài còn có thể đọc và viết thông thạo tiếng Latinh, Do Thái, Hy Lạp, Đức, Bohemia, Tây Ban Nha và tiếng Pháp.
Với khả năng ngôn ngữ trổi vượt, ngài có thể nghiên cứu Phúc Âm bằng tiếng nguyên thủy. Theo lời yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII, ngài dành nhiều thời giờ để rao giảng cho người Do Thái ở Ý. Ngài thông thạo tiếng Hebrew đến nỗi các giáo sĩ Do Thái tin rằng ngài là người Do Thái trở lại Kitô Giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng khả năng ngôn ngữ để phục vụ Chúa và tha nhân.
Suy niệm 2:. Sinh nhật
Lawrence sinh ngày 22 tháng Bảy 1559, và từ trần đúng 60 năm sau cũng vào ngày sinh nhật năm 1619.
Thật hiếm khi gặp trường hợp một người có ngày sinh và ngày tử trùng hợp nhau như ngài. Và nhất là số tuổi sinh sống ở đời thật tròn trịa, đúng 60 năm cuộc đời.
Sự tròn trịa này cũng hé mở cho thấy cuộc sống ngài thật trọn hảo về mọi mặt, nhất là về mặt phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Chính vì thế ngày mừng kỷ niệm lần thứ 60 ngài góp mặt trên đời cũng chính là dịp mừng ngày sinh nhật trên trời của ngài qua cái chết.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chào đời thế nào không quan trọng, mà chủ yếu là phải làm sao vào được trời cao với Chúa.
Suy niệm 3: Học
Lawrence học triết thần, Kinh Thánh, và các ngôn ngữ ở Đại Học Padua và được thụ phong linh mục năm 23 tuổi.
Dầu có khả năng ngôn ngữ trổi vượt, ngài cũng phải đi theo con đường tự nhiên là phải học. Trừ diện thần đồng, ai cũng học mới biết, và dĩ nhiên nhờ có năng khiếu nên việc tiếp thu dễ hơn và nhanh hơn người khác. Đồng thời văn ôn và võ luyện, nên cần phải trau dồi luôn mãi, nhất là lãnh vực ngôn ngữ, bằng không mớ kiến thức ấy khó tiến mà dễ lùi theo năm tháng.
Đặc biệt chỉ tiêu ngài theo đuổi và nhắm tới là tiến chức linh mục, nên ngoài việc tu luyện, ngài cũng phải theo học các môn học mang tính chuyên biệt là triết thần và Kinh Thánh, chứ không chỉ các ngôn ngữ. Nhưng nhờ biết nhiều thứ tiếng, ngài có thể nghiên cứu thêm ở các tài liệu không có ở tiếng mẹ đẻ để đào sâu và phát triển kiến thức của mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quý trọng lời khuyên dạy của cổ nhân: Cần cù bù thông minh.
Suy niệm 4: Nhạy cảm
Lawrence rất nhạy cảm trước nhu cầu của người khác.
Đặc điểm của Thánh Lawrence là tận tụy với Kinh Thánh và nhạy cảm trước nhu cầu của người khác, đó là một lối sống hấp dẫn đối với Kitô Hữu của thế kỷ 20. Thánh Lawrence đã quân bình đời sống qua việc hòa hợp giữa tinh thần kỷ luật và biết để ý đến nhu cầu của những người mà ngài được mời gọi để phục vụ.
Đó là một đặc tính không ngờ nơi một học giả tài giỏi như vậy. Nhưng chính vì thế mà sau khi từ chối việc tái bổ nhiệm chức vụ bề trên vào năm 1605, ngài được đức giáo hoàng chọn làm sứ thần và sứ giả hòa bình cho một vài tranh chấp giữa các hoàng gia. Vào năm 1616, ngài giã từ mọi sinh hoạt trần tục để về sống trong tu viện ở Caserta. Nhưng sau đó, thể theo lời yêu cầu của các nhà cầm quyền ở Naples, ngài đã đến Tây Ban Nha để can thiệp với Vua Philip.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng chỉ nghĩ đến nhu cầu của mình mà còn phải biết nhạy cảm trước nhu cầu của người khác.
Suy niệm 5: Tổng hợp
Ngài là một con người tổng hợp của sự lỗi lạc, có lòng thương người và khả năng điều hành.
Nhờ ưu điểm này, sau một loạt "thăng quan tiến chức", ngài được bầu làm bề trên tỉnh dòng Capuchin ở Tuscany khi mới 31 tuổi. Rồi ngài được các tu sĩ Capuchin chọn làm bề trên toàn Dòng vào năm 1602. Với chức vụ này, ngài góp phần lớn trong việc phát triển Dòng về phương diện địa lý, đặc biệt về giáo huấn như một tư tưởng nổi bật sau đây về sự Nhập Thể:
"Thiên Chúa là tình yêu, và mọi hoạt động của Người xuất phát từ tình yêu. Một khi Người muốn thể hiện sự tốt lành ấy bằng cách chia sẻ tình yêu của Người ra cho bên ngoài, thì sự Nhập Thể là một thể hiện vượt bực về sự tốt lành và tình yêu và vinh quang của Thiên Chúa. Như thế, Đức Kitô đã được tiền định trước tất cả mọi tạo vật và cho chính Người. Vì Người mà muôn vật được tạo thành, và đối với Người mà muôn vật phải quy phục, và Thiên Chúa yêu quý mọi tạo vật trong Đức Kitô và vì Đức Kitô. Đức Kitô là trưởng tử của mọi tạo vật, và toàn thể nhân loại cũng như thế giới vật chất tìm thấy nền tảng và ý nghĩa của nó trong Đức Kitô. Hơn thế nữa, điều này cũng sẽ xảy ra nếu ngay cả Adong không phạm tội".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tìm được sự lỗi lạc về lòng thương người theo mẫu gương của Thiên Chúa Nhập Thể.
Suy niệm 6: Tuyển tập
Dòng Capuchin hoàn tất việc biên soạn 15 tuyển tập của ngài.
Trong các tuyển tập ấy, mười một tập là các bài giảng, mỗi bài giảng được ngài dựa trên một câu Kinh Thánh để dẫn giải. Với khả năng thông thạo các ngoại ngữ, đặc biệt tiếng Latinh, Do Thái, Hy Lạp, dồng thời với chức vụ linh mục, ngài có điều kiện thuận lợi để tiếp xúc với Kinh Thánh nguyên bản hầu nắm bắt chính xác ý nghĩa từng từ từng câu.
Từ đó ngài chọn định hướng cho các bài giảng là chỉ dựa trên một câu Kinh Thánh để dẫn giải. Viêc làm này giúp thính giả vừa đào sâu được vấn đề, vừa dễ tiếp thu nội dung chứ không bị lạc hướng do quá nhiều tư tưởng xen lẫn vào dù chỉ trong một khoảng thời gian không quá dài. Nhất là việc làm này cũng giúp chính ngài cũng như mọi người thấy được tính cách phong phú vô cùng của kho tàng Lời Chúa đến mức khai thác mãi mãi vẫn không bao giờ hết.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con học tập cách khai thác Lời Chúa của thánh nhân để luôn gặp thấy sự mới mẻ đầy cuốn hút của Kinh Thánh.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 20/7 Thánh Kunigunde (1224-1292)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Kunigunde (1224-1292)
Hoàng Hậu Kunigunde cùng chồng thề giữ mình đồng trinh. Lúc còn làm hoàng hậu, Kunigunde chăm sóc các cô em và dành nhiều thời giờ để đi thăm bệnh nhân. Sau khi nhà vua qua đời, hoàng hậu sống cuộc đời đơn sơ của một nữ tu dòng Thánh Clara.
Lược sử
Khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về quê hương Ba Lan vào tháng Sáu năm 1999, ngài đã thể hiện giấc mơ phong thánh cho Kunigunde, một công chúa người Ba Lan.
Kunigunde, hay còn gọi là Kinga, sinh trong thế kỷ 13 ở Hung Gia Lợi và thuộc về một hoàng tộc không những nổi tiếng về thế lực chính trị mà còn có nhiều phụ nữ thánh thiện.
Khi mới 15 tuổi, Kunigunde đã hứa hôn với một thanh niên mà sau này là Vua Boleslaus của Ba Lan. Khi kết hôn, trước mặt vị giám mục, cả hai đều thề giữ mình đồng trinh và họ đã trung thành với lời thề ấy trong 40 năm hôn nhân.
Trong thời gian đó, Hoàng Hậu Kunigunde chăm sóc các cô em.
Khi Vua Boleslaus từ trần năm 1279, dân chúng thúc giục Hoàng Hậu Kunigunde lên nắm quyền cai trị, nhưng ngài ao ước tận hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa. Ngài từ trần ngày 24 tháng Bảy 1292 khi 58 tuổi. Nhiều phép lạ đã xảy ra tại ngôi mộ của ngài.Vào năm 1715, Đức Giáo Hoàng Clêmentê XI đặt ngài làm quan thầy đặc biệt của người Ba Lan và người Lithuania.
Suy niệm 1: Quê hương
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về quê hương Ba Lan.
Vẫn biết ai ai cũng mong muốn được sống tại quê nhà, như lời cổ nhân: Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn. Nhưng ngày nay trên thế giới không thiếu những người sống xa quê hương vì nhiều lý do khác nhau. Riêng ngài thì vì lý do chức vụ lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo vốn đặt trung tâm tại Rôma nước Ý, nên ngài phải rời xứ sở để về sống tại đó.
Với tâm trạng xa quê hương, ngài cũng rất đồng cảm với số đông người đang sống trong cảnh ngộ vì lý do di dân. Vì thế trong dịp kỷ niệm 100 năm Thánh Nữ Maria Gôretti qua đời, Ngài phát biểu: Trong những ngày mới đây, Qui ước Quốc tế về sự Bảo vệ những Quyền của tất cả mọi người di dân lao động và Gia đình họ, được Liên Hiệp Quốc chấp thuận năm 1990, đã có hiệu lực. Khí cụ luật pháp này là điềm báo một bước tiến quan trọng, bởi vì nó xem người di dân như là một con người kết hợp với gia đình mình. Đang khi tôi rất hài lòng bày tỏ đối với thành quả pháp lý này, tôi hy vọng rằng các quốc gia sẽ có lòng gắn bó sâu rộng hơn, sẽ tăng cường tính hiệu nghiệm của nó, ngõ hầu với sự chấp nhận những điều khoản tương tự và sự hợp tác kiên trì quốc tế, hiện tượng di dân phức tạp có thể phát triển trong luật pháp và sự tôn trọng những con người và những gia đình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đang sống tại thế nhưng luôn tìm hướng về quê hương đích thực trên trời.
Suy niệm 2: Giấc mơ
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thể hiện giấc mơ phong thánh cho Kunigunde, một công chúa người Ba Lan.
Đời người không thiếu những giấc mơ và những lần mơ, đặc biệt khi xa xứ mà nay có cơ hội trở về quê hương dấu yêu. Nếu đã có dịp đó, thử nhớ lại xem chúng ta đã có những giấc mơ gì? Hoặc có cơ may sắp đến, thử nghĩ xem ta sẽ mơ ước những gì? Riêng ngài là người thánh thiện và là "tôi tớ của các tôi tớ", nên ngài chỉ nghĩ đến tha nhân và đến việc phong thánh.
Một người đồng hương Ba Lan được ngài nghĩ đến việc phong thánh, đó là công chúa và cũng là hoàng hậu Kunigunde. Vì sao thế? Vì tiến trình phong thánh cho Thánh Nữ đã bị đình trệ trong nhiều năm vì điều kiện chính trị. Cùng cử mừng biến cố quan trọng này với đức giáo hoàng là nửa triệu người dân Ba Lan trong một cánh đồng ở ngoại ô thành phố Stary Sacz.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống vị tha bằng cách nghĩ tốt và nói tốt cho người.
Suy niệm 3: Nổi tiếng
Kunigunde thuộc về một hoàng tộc nổi tiếng.
Sự nổi tiếng của hoàng tộc này không những về thế lực chính trị mà còn có nhiều phụ nữ thánh thiện. Những người dì của Kunigunde gồm Thánh Elizabeth ở Hung Gia Lợi, Thánh Hedwig và Chân Phước Agnes ở Prague; cũng được kể trong vòng bà con là Thánh Margaret dòng Đa Minh và Chân Phước Yolande.
Chính bản thân ngài cũng đóng góp vào sự nổi tiếng này, khi ngài cũng là thánh nhân bằng một cuộc sống thánh thiện, được biểu hiện đậm nét trong tinh thần tận hiến cho Chúa. Bước vào đời sống hôn nhân, ngài cũng được sự đồng tình của chồng để cùng thề giữ mình đồng trinh và họ đã trung thành với lời thề ấy trong 40 năm hôn nhân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nỗ lực làm vinh danh Chúa và không làm gì để đánh mất thanh danh của Giáo Hội.
Suy niệm 4:. Kết hôn
Khi kết hôn, trước mặt vị giám mục, cả hai đều thề giữ mình đồng trinh.
Hứa hôn là một thủ tục pháp lý dẫn đến hôn nhân, thế nhưng trong thực tế vẫn xảy ra trường hợp không đi đến cùng đích. Riêng Kunigunde thì không như thế, chắc hẳn không phải vì chàng thanh niên làm chồng ngài sau này là Vua Boleslaus của Ba Lan, nghĩa là ngài sẽ được làm hoàng hậu, nhưng tất cả chỉ vì ngài vốn thánh thiện đạo đức.
Sự thánh thiện của ngài được thấy rõ qua việc ngài có chí nguyện tận hiến cho Chúa. Trong đời sống hôn nhân, ngài vẫn giữ mình đồng trinh cùng với chồng. Khi làm hoàng hậu, ngài cũng chỉ chuyên lo phúc lợi cho dân qua các việc làm bác ái. Và nhất là khi Vua Boleslaus từ trần năm 1279, dân chúng thúc giục ngài lên nắm quyền cai trị, nhưng ngài từ chối và chọn sống đời nữ tu trong tu viện chính ngài thiết lập.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con các bậc hôn nhân không chủ yếu giữ đức đồng trinh nhưng phải giữ đức khiết tịnh, nhờ cuộc sống thánh thiện.
Suy niệm 5: Hoàng Hậu
Hoàng Hậu Kunigunde chăm sóc các cô em.
Với tư cách là Đệ Nhất Phu Nhân của Ba Lan nhưng là vị Hoàng Hậu thánh thiện, ngài lo lắng đến phúc lợi của người dân và các nhu cầu đặc biệt của họ.
Một cách cụ thể, ngài chăm sóc các cô em và dành nhiều thời giờ để đi thăm bệnh nhân. Ngài cho xây nhiều nhà thờ và bệnh viện cũng như chuộc người Công Giáo khỏi tay người Thổ Nhĩ Kỳ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà cầm quyền sử dụng chức vụ của mình để nhắm đến lợi ích của người dân hơn là của chính gia đình mình.
Suy niệm 6: Tận hiến
Kunigunde ao ước tận hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa.
Tâm tình muốn tận hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa của ngài không biết phát sinh từ lúc nào, nhưng đã được bày tỏ rõ ràng trong dịp kết hôn. Với sự đồng thuận của chồng, trước mặt vị giám mục, cả hai đều thề giữ mình đồng trinh và họ đã trung thành với lời thề ấy trong 40 năm hôn nhân.
Do đó, sau khi chồng mất, ngài rời ngai vị, và trong 13 năm, ngài sống cuộc đời đơn sơ của một nữ tu dòng Thánh Clara Nghèo Hèn, sống trong tu viện mà chính tay ngài đã thiết lập ở Stary Sacz. Sau đó, ngài được chọn làm bề trên, và đã cai quản dòng với sự khôn ngoan và bác ái.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống suốt đời lời thề thuộc về Chúa và từ bỏ ma quỷ trong dịp được Rửa Tội.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 19/7 Tôi Tớ Thiên Chúa Phanxicô Garcés và Các Bạn (k. 1781)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Tôi Tớ Thiên Chúa Phanxicô Garcés và Các Bạn (k. 1781)
Cha Garcés được người thổ dân rất quý mến. Một cuộc nổi dậy của người Yumas chống với binh lính Tây Ban Nha đã khiến các tu sĩ Juan Diaz và Matias Moreno từ trần ở Trung Tâm San Pedro y San Pablo, các cha Phanxicô Garcés và Juan Barreneche bị giết ở Trung Tâm La Purísima Concepcion.
Lược sử
Vì sự can thiệp của nhà cầm quyền trong các sứ vụ truyền giáo và vấn đề chiếm đất ở Tân Thế Giới đã khiến thổ dân da đỏ nổi dậy và Giáo Hội đã mất đi các nhà truyền giáo hăng say. Là người cùng thời với Chân Phước Junipero Serra và trong thời gian cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ, Phanxicô Garcés sinh ở Tây Ban Nha năm 1738, và ngài gia nhập Dòng Phanxicô ở đây.
Ở Arizona, Cha Phanxicô làm việc cho các thổ dân da đỏ người Papago, Yuma, Pima và Apache. Công cuộc truyền giáo đã đưa ngài vượt qua rặng Grand Canyon và đến tiểu bang California.
Ngài bị giết ở Trung Tâm La Purísima Concepcion.
Suy niệm 1: Can thiệp
Vì sự can thiệp của nhà cầm quyền trong các sứ vụ truyền giáo và vấn đề chiếm đất ở Tân Thế Giới đã khiến thổ dân da đỏ nổi dậy và Giáo Hội đã mất đi các nhà truyền giáo hăng say.
Thiên Chúa vốn trọn lành (Mt 5,48;19,17) nên sự can thiệp của Người luôn mang lại điều tốt cho người. Thánh Rita xin gia nhập Dòng Augustine ở Cascia, nhưng bị từ chối vì không còn là trinh nữ. Với sự kiên trì và lòng tin mạnh mẽ, Thiên Chúa đã can thiệp để ngài được nhập dòng. Người ta kể rằng, một đêm kia Thiên Chúa đã đưa ngài vào trong khuôn viên của tu viện dù đã kín cổng cao tường. Thấy vậy, các nữ tu tin rằng ý Chúa muốn ngài được chấp nhận vào dòng.
Thánh Zita luôn lưu tâm đến những người nghèo và bơ vơ. Lòng thương người ấy không phù hợp với hoàn cảnh của một đầy tớ cũng như khiến gia chủ phải khó chịu. Và Thiên Chúa đã can thiệp. Thật vậy, một ngày kia, Zita đã phân phát cả một kho chứa đậu cho những người trong phố khi nạn đói hoành hành. Khả nghi, gia chủ xuống xem xét và lạ lùng thay họ thấy kho vẫn đầy những hạt đậu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống thánh và làm việc tốt để xứng hưởng sự can thiệp của Thiên Chúa.
Suy niệm 2:. Nhà cầm quyền
Vì sự can thiệp của nhà cầm quyền trong các sứ vụ truyền giáo và vấn đề chiếm đất ở Tân Thế Giới đã khiến thổ dân da đỏ nổi dậy và Giáo Hội đã mất đi các nhà truyền giáo hăng say.
Các nhà cầm quyền nói chung dầu luôn theo đuổi chỉ tiêu ích quốc lợi dân, nhưng cũng phải nói thêm là tìm phát triển bản thân và gia đình. Như thế khía cạnh vị tha luôn bị hạn chế. Chính vì thế hiện tượng tiêu cực luôn xảy ra.
Thật vậy vì sự can thiệp của nhà cầm quyền ở Tân Thế Giới đã khiến thổ dân da đỏ nổi dậy và Giáo Hội đã mất đi các nhà truyền giáo hăng say: vào năm 1767, các cha dòng Tên đã bị trục xuất, và vào khoảng năm 1781, một cuộc nổi dậy khác của người Yumas chống với binh lính Tây Ban Nha đã khiến các tu sĩ Juan Diaz và Matias Moreno từ trần ở Trung Tâm San Pedro y San Pablo. Các cha Phanxicô Garcés và Juan Barreneche bị giết ở Trung Tâm La Purísima Concepcion.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà cầm quyền biết sử dụng quyền được ban từ trên cao (Ga 19,11) theo ý Đấng đã ban cho.
Suy niệm 3: Truyền giáo
Vì sự can thiệp của nhà cầm quyền trong các sứ vụ truyền giáo và vấn đề chiếm đất ở Tân Thế Giới đã khiến thổ dân da đỏ nổi dậy và Giáo Hội đã mất đi các nhà truyền giáo hăng say.
Để an toàn đến được các vùng đất xa lạ, các nhà truyền giáo trong bước khởi đầu đều phải bó buộc cậy nhờ vào các phương tiện vận chuyển cũng như sự che chở của giới cầm quyền nơi đi cũng như nơi đến. Nhưng sự quan hệ này luôn phải cẩn trọng, vì nó cũng là một trở ngại và là mối đe dọa cho sứ mạng do sự hiểu lầm từ cả hai phía.
Thật thế, để bảo vệ các thổ dân tân tòng, các nhà truyền giáo Tây Ban Nha đã khôn ngoan dự định xây cất các trung tâm truyền giáo cách biệt với nơi trú đóng của binh lính và thực dân Tây Ban Nha. Nhưng các ngài không thể thực hiện được, vì quan chỉ huy ở Mễ Tây Cơ quyết định rằng hai trung tâm truyền giáo dọc theo sông Colorado, là Trung Tâm San Pedro y San Pablo và Trung Tâm La Purísima Concepcion, phải là nơi chung đụng giữa binh lính và thổ dân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà truyền giáo luôn nhận định rõ khía cạnh chính trị là lợi ích tối ưu các nhà cầm quyền hằng nhằm tới để thật thận trọng khi phải quan hệ.
Suy niệm 4:. Chiếm đất
Vì sự can thiệp của nhà cầm quyền trong các sứ vụ truyền giáo và vấn đề chiếm đất ở Tân Thế Giới đã khiến thổ dân da đỏ nổi dậy và Giáo Hội đã mất đi các nhà truyền giáo hăng say.
Việc các nhà cầm quyền vào thời điểm đó muốn mở rộng lãnh thổ và gây ảnh hưởng lớn đến các vùng đất khác bằng việc chiếm đất đai ngoài phạm vi biên giới được xem là đường lối bình thường, thậm chí cả khi dùng đến bạo lực và chiến tranh. Việc phê phán và đánh giá, xin nhường quyền cho lịch sử.
Nhưng điều đáng tiếc phải nêu lên là có nơi và có lúc, họ đã lạm dụng vấn đề tôn giáo như trường hợp các nhà cầm quyền đã can thiệp trong các sứ vụ truyền giáo và vấn đề chiếm đất ở Tân Thế Giới, khiến gây nên thiệt hại lớn cho Giáo Hội trong nhiều thập kỷ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhớ kỹ một điều để luôn tránh trong mọi trường hợp là đã lạm dụng thì không tốt.
Suy niệm 5: Nổi dậy
Vì sự can thiệp của nhà cầm quyền trong các sứ vụ truyền giáo và vấn đề chiếm đất ở Tân Thế Giới đã khiến thổ dân da đỏ nổi dậy và Giáo Hội đã mất đi các nhà truyền giáo hăng say.
Lý do nổi dậy của người thổ dân da đỏ thật quá rõ, đó là vì sự hiện diện không phải của các vị truyền giáo người ngoại quốc mà của số người binh lính mang tính thực dân. Họ đến vừa dùng bạo lực chiếm đất vừa dùng quyền cai trị chứ không phải phục vụ và giúp đỡ người địa phương.
Ngược lại các vị truyền giáo như một Cha Garcés thì được người thổ dân rất quý mến, và thường được họ chào là "Vạn Tuế Đức Giêsu", vì ngài đến để phục vụ và bảo vệ họ. Hoặc Thánh Turibius là vị thánh đầu tiên nổi tiếng ở Tân Thế Giới, vì ngài đã lăn xã và hòa mình phục vụ người thổ dân thuộc địa Peru. Ngài học tiếng địa phương, giúp thiết lập các trường học, nhà thờ, và mở cửa chủng viện đầu tiên trong Tân Thế Giới.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đến với thế giới người ngoại giáo thì chủ yếu không chiếm đất mà chiếm lòng, bằng con đường phục vụ chứ không đòi được phục vụ.
Suy niệm 6: Làm việc
Ở Arizona, Cha Phanxicô làm việc cho các thổ dân da đỏ người Papago, Yuma, Pima và Apache.
Sở dĩ ngài đến làm việc tại đây là vì vâng lời bề trên. Thật vậy, sau khi thụ phong linh mục năm 1763, ngài được sai đến Mễ Tây Cơ. Năm năm sau ngài được bổ nhiệm về San Xavier del Bac gần Tucson, Hoa Kỳ, là một trong các trung tâm truyền giáo do các cha dòng Tên đã thành lập trước đây trong tiểu bang Arizona và New Mexico.
Cách thức làm việc của ngài đã được Cha Palou, người cùng thời với Cha Garcés, viết lại rằng: Cha Garcés được người thổ dân rất quý mến, và ngài sống với họ trong một thời gian lâu mà không bị nguy hại gì. Họ thường đem thực phẩm cho ngài và mỗi khi gặp ngài, họ thường chào "Vạn Tuế Đức Giêsu", là câu tung hô mà ngài đã dạy cho họ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết cách làm việc thế nào để được người quý mến và nhất là được Chúa yêu thương.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 18/7 Chân Phước Angeline ở Marsciano (1374-1435)
Chân Phước Angeline ở Marsciano (1374-1435)
Chân Phước Angeline ở Marsciano tận tụy trong việc chăm sóc người đau yếu, người nghèo, người goá phụ và trẻ mồ côi.
Lược sử
Chân Phước Angeline là người sáng lập cộng đoàn nữ tu Phanxicô đầu tiên, nếu không kể dòng Thánh Clara Khó Nghèo.
Angeline là con của Công Tước xứ Marsciano. Khi 12 tuổi, ngài đã mồ côi mẹ. Ba năm sau, người thiếu nữ này thề giữ mình đồng trinh trọn đời. Tuy nhiên, cùng năm ấy, ngài vâng lời cha mà kết hôn với Công Tước xứ Civitella. Chồng ngài đồng ý tôn trọng lời thề của ngài.
Khi ông chồng từ trần vào hai năm sau, Angeline gia nhập dòng Phanxicô Thế Tục. Khi cộng đoàn của Angeline thu hút nhiều phụ nữ trẻ tuổi khác, thì một số người đã lên án ngài về tội phá hoại ơn gọi gia đình. Angeline từ trần ngày 14 tháng Bảy 1435 và được phong chân phước năm 1825.
Suy niệm 1: Sáng lập
Chân Phước Angeline là người sáng lập cộng đoàn nữ tu Phanxicô đầu tiên, nếu không kể dòng Thánh Clara Khó Nghèo.
Dầu có chí nguyện sống đời độc thân để giữ đức đồng trinh đến trọn đời, nhưng ngài phải vâng lời cha mẹ để lập gia đình với Công Tước xứ Civitella. Thế rồi với cơ hội chồng mất, ngài tiếp tục theo đuổi chí hướng độc thân trước đây bằng việc gia nhập dòng Phanxicô Thế Tục.
Cùng với một số đồng bạn, ngài đã đến Foligno, là nơi cộng đoàn Dòng Ba của ngài được đức giáo hoàng chấp thuận vào năm 1397. Sự chuẩn y pháp lý này đã xem ngài là người sáng lập cộng đoàn nữ tu Phanxicô đầu tiên. Sau đó không lâu, ngài đã thành lập thêm 15 cộng đoàn tương tự cho các phụ nữ ở các thành phố trong nước Ý.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con bền bĩ duy trì các chí nguyện tốt lành, với xác tín sau thời gian cản trở có thể tiếp tục được thực hiện.
Suy niệm 2: Khó Nghèo
Chân Phước Angeline là người sáng lập cộng đoàn nữ tu Phanxicô đầu tiên, nếu không kể dòng Thánh Clara Khó Nghèo.
Dòng Thánh Clara Khó Nghèo ñược thành lập vào thế kỷ XIII. Các nữ tu trong dòng tận tụy trong việc cầu nguyện, chăm sóc bệnh nhân và thi hành việc bác ái cho người nghèo và người bị ruồng bỏ. Họ sống theo một quy luật khắc khổ hơn bất cứ nữ tu hội nào khác trong thời ấy, và tuyệt đối khó nghèo, cả về phương diện cá nhân cũng như cộng đoàn.
Còn cộng đoàn Dòng Ba của Chân Phước Angeline cũng cùng một linh đạo khó nghèo như Thánh Phanxicô Assisi và Thánh nữ Clara, nhưng có sau vì được đức giáo hoàng chấp thuận vào năm 1397. Các phụ nữ thiện nguyện này cũng sống khó nghèo và tận tụy trong việc chăm sóc người đau yếu, người nghèo, người góa phụ và trẻ mồ côi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nghiền ngẫm và sống câu nói của thánh nữ Clara: "Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo hay không?"
Suy niệm 3: Đồng trinh
Angeline thề giữ mình đồng trinh trọn đời.
Dịp kết thúc việc cử hành 100 năm Thánh nữ Maria Goretti qua đời, Đức Gioan Phaolô II đã phát biểu: Sự thanh sạch trong lòng, như mọi nhân Đức, đòi hỏi tập luyện hằng ngày ý muốn và kỷ luật kiên trì nội tâm. Hơn bao giờ hết nó đòi hỏi sự siêng năng chạy tới Chúa trong kinh nguyện. Nhiều bận rộn và tốc độ gia tăng của cuộc sống đôi khi gây khó khăn đến việc nuôi dưỡng chiều kích thiêng liêng quan trọng này.
Chí nguyện lành thánh này của Angeline gặp một trở ngại lớn khi phải vâng lời cha mẹ đi vào đời sống gia đình. Nhưng ngài đã vượt qua nhờ siêng năng chạy tới Chúa trong kinh nguyện, để rồi chồng ngài đồng ý tôn trọng lời thề của ngài. Và khi chồng mất, ngài lại có điều kiện dễ dàng hơn để sống lời thề ấy khi gia nhập vào dòng Phanxicô Thế Tục, và nhất là khi sáng lập cộng đoàn nữ tu Phanxicô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cũng như những người trưởng thành và giới trẻ biết khám phá giá trị và tầm quan trọng của Đức trinh khiết để xây dựng nền văn minh tình thương.
Suy niệm 4: Vâng lời
Angeline vâng lời cha mà kết hôn với Công Tước xứ Civitella.
Ngài đã phải trải qua một cuộc chiến nội tâm gay cấn. Một đàng ngài đã thề giữ mình đồng trinh trọn đời khi bước vào tuổi 15 sau khi mồ côi mẹ. Dầu đây chỉ là một lời thề tự nguyện không mang tính pháp lý, nhưng cũng rất chính đáng và tốt lành.
Đàng khác đòi buộc của thân phụ ngài cũng thật chính đáng, vì đó là trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái khi đến tuổi thành hôn và không sống trong bậc tu trì. Cuối cùng ngài đã chọn vâng theo ý cha như một cách báo hiếu, vì lời thề không hợp pháp thì có thể tự tháo gỡ được. Tinh thần vâng lời này đã được Chúa phúc đáp, bằng việc cho ngài gặp một người chồng đồng ý tôn trọng lời thề của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của việc vâng lời những gì hợp pháp trong các điều trái ý riêng mình.
Suy niệm 5: Kết hôn
Angeline vâng lời cha mà kết hôn với Công Tước xứ Civitella.
Các linh mục và tu sĩ nam nữ không thể là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, nếu họ coi thường ơn gọi gia đình. Chân Phước Angeline tôn trọng hôn nhân, nhưng cảm thấy được mời gọi theo một đường lối khác để sống Phúc Âm. Sự lựa chọn của ngài là hy sinh đời sống trong một phương cách độc đáo.
Thật nhiệm mầu thay! Khi Angeline chấp nhận đánh mất chính mình, để rồi bằng lòng không có gì cả ở đời này ngay cả quyền quyết định về chí nguyện tốt lành của mình, thì ngài lại được Chúa và có Chúa, nghĩa là được và có tất cả, vì Chúa vốn là tất cả ở đời này và đời sau. Thật thế Chúa cho chồng ngài đồng tình để ngài giữ lời thề đồng trinh và sau hai năm chồng lại chết để từ đó ngài an tâm sống trọn vẹn lời thề ấy.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dầu đang sống trong ơn gọi độc thân hay gia đình đều phải luôn nỗ lực được Chúa và có Chúa.
Suy niệm 6: Lên án
Một số người đã lên án Angeline về tội phá hoại ơn gọi gia đình.
Đời sống thánh thiện và công tác phục vụ người nghèo của cộng đoàn đã phát sinh hiệu quả là thu hút nhiều phụ nữ trẻ tuổi khác không lập gia đình mà đến xin gia nhập vào cộng đoàn tu trì này càng ngày càng đông đảo, đến mức ngài đã thành lập thêm 15 cộng đoàn tương tự cho các phụ nữ ở các thành phố trong nước Ý. Do đó có số người đã lên tiếng cáo buộc ngài về tội phá hoại ơn gọi gia đình.
Truyền thuyết kể rằng: khi phải trình diện vua xứ Naples để trả lời về sự cáo buộc ấy, ngài lấy chiếc áo khoác đang mặc mà bọc lấy mớ than cháy nóng. Khi ngài tuyên bố là mình vô tội và để chứng minh điều ấy, ngài mở áo khoác ra cho thấy mớ than nóng bỏng kia không gây thiệt hại gì cho ngài, và nhà vua đã bỏ qua vụ kiện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con an tâm sống hết mình cho Chúa vì Chúa luôn can thiệp đúng lúc.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 17/7 Thánh Phanxicô Sôlanô (1549-1610)
- Ngày 16/7 Ðức Bà Núi Camêlô
- Ngày 15/7 Thánh Bonaventura
- Ngày 14/7 Thánh Camillô Lellis, Linh mục
- Ngày 13/7 Thánh Henry II (972-1024)
- Ngày 12/7 Thánh Gioan Gualbert (993-1073)
- Ngày 11/7 Thánh Bênêđích (Biển Ðức) (480?-543)
- Ngày 10/7 Thánh Vêrônica Giuliani (1660-1727)
- Ngày 09/7 Thánh Nicôla Pieck và Các Bạn (c. 1572)
- Ngày 08/7 Chân Phước Gregory Grassi và Các Bạn (k. 1900)