Gương Thánh Nhân
Ngày 28/8 Thánh AUGUSTINÔ (354 – 430)
- Viết bởi HẠNH CÁC THÁNH
Thánh AUGUSTINÔ
Giám mục Tiến Sĩ Hội Thánh (354 – 430)
Thánh Augustinô sinh ngày 13 tháng 11 năm 354 tại Thagaste miền Numidia nay là Souk-Akras nước Algeria. Ông Patricô, cha ngài là một tiểu nông và là nghị viên thành phố. Ong là lương dân và chỉ theo đạo vào lúc cuối đời. Mẹ Ngài là thánh Monica đã nhờ kinh nguyện, lòng nhẫn nại và tình yêu không biết mệt mỏi đã cải hoá con. Theo thói quen thời đó, Augustinô thuộc vào số những ứng viên lãnh phép rửa tội, nhưng lại trì hoãn để tránh nguy cơ phạm tội, Ngài chỉ được thánh Ambrosiô rửa tội cho sau khi trở lại vào tuổi 32.
Augustinô đã theo học những lớp về văn chương tại Thagaste và Madaura, cuối cùng Ngài theo học khoa tu từ tại Carthage. Đời sống luân lý của Ngài vào thời kỳ này không đến nỗi tồi tệ mà có lẽ khá hơn nhiều những thanh niên cùng thời và chúng ta không nên gắt gao kết án lối cư xử của Ngài theo sát chữ viết trong cuốn "tự thuật", chắc chắn Ngài có một tình nhân và trung tín với nàng cho tới năm 385. Ngài đã có với nàng một người con tên là Adcodatus cũng vào thời này Ngài trở thành người theo phái Manichêô.
Năm 383, Augustinô đến Roma dạy tu từ và năm 384 có được một địa sở tại Milan. Lúc này Ngài đã thấu suốt được thuyết Manichêô và rơi vào tình trạng nghi nan bất định. Tại Milan Ngài có dịp tiếp xúc với vị giám mục thời danh của giáo phận nầy là thánh Ambrosiô. Các bài giảng của thánh nhân cho Ngài thấy lần đầu tiên rằng Ngài có thể tin vào Thánh Kinh như sự giải thích của Giáo hội mà không phải hy sinh sự hiểu biết của mình. Ngài còn đọc sách của những nhà tân học phái Platôn như Plotinê và Per phyry, Những sách đã chữa cho Ngài khỏi thuyết duy vật của Manichêô và đưa Ngài vào triết học linh thiêng hơn, phù hợp với mạc khải Kitô giáo.
Augustinô đã xác tín về sự chân thật của Kitô giáo vẫn chưa đi đến bước quyết định, cho tới tháng 9 năm 386 khi Ngài trải qua một kinh nghiệm bất ngờ nhưng được chuẩn bị từ trước. Ngài đã trình bày kinh nghiệm ấy trong cuốn VIII bộ "tự thuật". Đây là cuộc trở lại Kitô giáo lẫn cuộc sống khổ hạnh đã theo đuổi bậc trọn lành. Bỏ nghề, Ngài lui về Cassiciacum, gần Milan, cùng thánh nữ Monica mẹ Ngài và Adeodatus con Ngài, với một số bạn bè. Tại đây, Ngài bắt đầu viết và xuất bản một số tác phẩm và trau dồi về triết học, những tác phẩm đầu tiên của Ngài.
Ngài được thánh Ambrosiô rửa tội vào lễ phục sinh năm 387 rồi cùng mẹ và các bạn trở về Phi Châu. Thánh nữ Monica qua đời trên đường về tại Ostia. Tại Phi Châu theo lời khuyên của Đức Cha Valêriô địa phận Kippô, Ngài xin làm linh mục và được thụ phong năm 391. Năm 395, Ngài được tấn phong làm giám mục phụ tá và chẳng bao lâu sau lên kế vị đức cha Valêriô làm giám mục Hippô. 35 năm còn lại, Ngài bận rộn với công việc mệt nhọc của một giám mục địa phận, đồng thời vẫn dành giờ để trước tác. Ngoài tác phẩm được biết nhiều là bộ "tự thuật" còn nhiều tác phẩm thần học của Ngài (gồm 96 cuốn không kể các bài giảng và thư tín) đã mang lại sức sống mãnh liệt cho Giáo hội thời đó lẫn ngày nay.
Thánh Augustinô sống đời tu viện với hàng giáo sĩ và làm mọi sự để khích lệ việc canh tân các cộng đoàn tu sĩ. Hai bài giảng về đời sống khổ hạnh trong cộng đoàn và một bức thư dài về các nguyên tắc mà Ngài viết cho các cộng đoàn nữ tu do Ngài thành lập và em Ngài là bề trên tiên khởi, làm thành "luật thánh Augustinô".
Thánh Possidiô bạn Ngài đã viết một bản tường thuật rất hay về đời giám mục của thánh Augustinô. Bản tường thuật này cho thấy Ngài là một người rất nhân bản, dễ thương và giàu lòng bác ái, tận tụy phục vụ cộng đoàn, thích sống nghèo khó nhưng lại hiếu khách. Chỉ có một điều Ngài không thể tha thứ được là gương mù tại bàn ăn. Ngài luôn dấn thân vào việc bệnh vực Giáo hội chống lại các người theo lạc giáo như những người theo phái Manichêô, Phômatô, Pêlagiô. Cuộc tranh luận với Pêlagiô đã để lại những bút tích của thánh Augustinô về ơn thánh. Với ảnh hưởng lớn lao trong Giáo hội sau này. Dầu nhiệt tâm chống lại lạc thuyết, thánh Augustinô vẫn luôn lịch sự và thân ái khi đối thoại với các người theo lạc giáo.
Thánh Augustinô đã sống để chứng kiến cuộc xâm lược man rợ của người Vandal vào Phi Châu bắt đầu từ năm429. Ngày 28 tháng 8 năm 430 Ngài từ trần, hưởng thọ 76 tuổi, Ngài không để lại chúc thư vì không có tài sản gì. Nhưng kể từ khi qua đời tới nay, di sản tư tưởng của Ngài được ghi nhận là phong phú nhất sau thánh Phaolô.
(daminhvn.net)
Ngày 27/8 Thánh Monica (322?-387)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Monica (322?-387)
Thánh Monica là gương mẫu của sự kiên nhẫn. Những năm trường cầu nguyện, cộng với đức tính kiên cường và kỷ luật, sau cùng đã đưa đến sự trở lại của người chồng nóng nẩy, người mẹ chồng ưa gắt gỏng và người con thông minh nhưng bướng bỉnh, là Augustine.
Lược sử
Hoàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào.
Mặc dù ngài là một Kitô Hữu, cha mẹ ngài đã gả cho một người ngoại giáo, ông Patricius, là người sống trong cùng tỉnh Tagaste ở Bắc Phi Châu. Patricius là người tốt nhưng ông vô cùng nóng nẩy và phóng túng. Ngoài ra Thánh Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng hay gắt gỏng. Ông Patricius thường rầy la vợ vì bà hay thương người. Nhưng sự cầu nguyện và gương mẫu đời sống của Thánh Monica sau cùng đã chinh phục được người chồng cũng như mẹ chồng, ngài đã đưa họ trở về với đức tin Kitô Giáo. Ông Patricius chết năm 371, sau khi rửa tội được một năm để lại người vợ goá và ba con nhỏ.
Người con cả, Augustine Hippo, nổi tiếng nhất (sau này là thánh). Vào lúc cha chết, Augustine mới 17 tuổi và là sinh viên trường hùng biện ở Carthage. Thánh Monica thật đau buồn khi thấy con mình đi theo tà thuyết Manikê và sống cuộc đời phóng đãng. Có những lúc Thánh Monica không cho con được ăn ngủ ở trong nhà. Và rồi một đêm kia, ngài đươc thị kiến và được đảm bảo là Augustine sẽ trở về với đức tin. Từ đó trở đi ngài sống gần với con hơn để ăn chay và cầu nguyện cho con. Quả vậy, ngài ở gần đến nỗi Augustine cũng phải bực mình.
Ngài tiếp tục cầu nguyện cho Augustine trong những năm anh theo học với đức giám mục. Vào Phục Sinh năm 387, Đức Ambrôsiô rửa tội cho Augustine và một vài người bạn của anh. Không lâu sau đó, cả nhóm đi Phi Châu. Lúc ấy, Thánh Monica biết cuộc đời ngài sắp chấm dứt, ngài nói với Augustine, "Con ơi, không có gì trên trần gian này làm mẹ vui lòng cả. Mẹ không biết có gì còn phải thi hành và tại sao mẹ lại ở đây, vì mọi hy vọng của mẹ ở trần gian này đều đã được hoàn tất." Sau đó không lâu ngài bị bệnh và chịu đau đớn trong chín ngày trước khi từ trần.
Tất cả những gì chúng ta biết về Thánh Monica là trong tác phẩm Tự Thú của Thánh Augustine.
Suy niệm 1 Vợ
Hoàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào.
Năm 22 tuổi, ngài vâng lời cha mẹ kết hôn với Patricius, một người ngoại đạo dòng dõi quý phái, nhưng tính tình ngang tàng độc ác. Tuổi chàng gấp đôi nàng! Với tính hiền lành và kiên nhẫn, ngài đã biến cuộc đời hôn nhân "khập khễnh" thành êm đềm. Ít năm sau, người ta hỏi nàng là có cách nào có thể "sống chung hòa bình" với một người chồng cộc cằn như thế? Nửa đùa nửa thật, ngài trả lời: Tất cả bí quyết là hãy coi sự ràng buộc hôn nhân như một thân phận nô lệ, và khi ông chủ nổi nóng thì đừng có cãi lại!
Thật sự ngài không bao giờ cãi lý với chồng, nhưng luôn vâng lời cách dễ thương. Hai mươi năm cầu nguyện, nhịn nhục và làm gương sáng cho chồng, nay đã đơm hoa kết trái. Patricius khuất phục ơn Chúa, xin học đạo và lãnh nhận Thánh tẩy. Sau khi xây lại cuộc đời, Patricius sống bình an với Chúa để rồi một năm sau đó ông chết lành thánh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các hiền mẫu sống thánh để thánh hóa chồng mình (1Cr 7,14;1Pr 3,1-6).
Suy niệm 2 Nàng dâu
Hoàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào.
Ngài phải chịu đựng bà mẹ chồng hay gắt gỏng, nhưng sự cầu nguyện và gương mẫu đời sống của ngài sau cùng đã chinh phục được bà trở về với đức tin Kitô Giáo. Tính gắt gỏng thường được biểu hiện qua thái độ của một người lớn la rầy quở trách đối với việc làm vốn không vừa ý mình của người nhỏ, cho dầu mang tính vô lý thậm chí mâu thuẫn, khiến người làm chẳng biết xử trí thế nào cho phải, như câu chuyện kể về chị Têrêxa Hài Đồng Giêsu: với bổn phận giúp một chị già đến nhà nguyện, chị Têrêxa bước trước chừng nửa bàn chân để dễ dìu đi, thế là bị chị ta quở: Không biết tôi già yếu hay sao mà đi trước lôi tôi như thế? Rút kinh nghiệm, Têrêxa đổi thế, đi chậm hơn cũng chừng nửa bàn chân, nhưng rồi cũng bị rầy: Chị dìu tôi hay tôi dìu chị mà lại đi sau như muốn xô đẩy tôi đi cho nhanh.
Người có tính gắt gỏng thì trời nắng lên cũng không hài lòng, vì đâu nghĩ tới nhu cầu của bao người đang cần nắng to để phơi cá, phơi lúa, phơi dưa. Đến lúc trời mưa xuống không ra ngoài được thì cũng than phiền, vì đâu nghĩ tới nhu cầu của bao cánh đồng nứt nẻ do khô hạn đang cần nước. Thế rồi giận cá chém thớt, người nhỏ vẫn là người chịu đòn trước nỗi bức xúc của người lớn. Đó cũng là thái độ của nhóm người cay ghét Đức Giêsu mà chẳng làm được gì nên trút cơn giận xuống đầu cô gái xức dầu thơm cho Chúa (Mc 14,3-9).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống nhịn nhục chịu đựng tính gắt gỏng của người theo hướng: một nhịn bằng chín lành để cầu cho họ.
Suy niệm 3 Mẹ
Hoàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào.
Khi 29 tuổi, Augustine quyết định đi Rôma để dạy về hùng biện. Một tối kia, Augustine nói với mẹ là anh ra bến tầu để từ giã bạn bè. Nhưng, anh lại lên tầu đi Rôma. Thánh Monica thật đau lòng khi biết mình bị lừa, nhưng ngài nhất định đi theo. Vừa đến Rôma thì ngài lại biết là Augustine đã đi Milan. Mặc dù việc di chuyển khó khăn, ngài vẫn nhất định bám sát.
Ở đây, Augustine bị ảnh hưởng bởi một giám mục, Đức Ambrôsiô, là vị linh hướng sau này của Thánh Monica. Augustine chấp nhận mọi lời khuyên của đức giám mục và tập được đức khiêm tốn đến độ ngài có thể từ bỏ được nhiều tật xấu. Thánh Monica trở thành người lãnh đạo của nhóm phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi ở Tagaste. Ngài tiếp tục cầu nguyện cho Augustine trong những năm anh theo học với đức giám mục. Vào Phục Sinh năm 387, Đức Ambrôsiô rửa tội cho Augustine.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cùng với Thánh Augustine dâng lên lời cầu bày tỏ lòng tri ân mẫu thân mình: Lạy Chúa, sở dĩ con được làm Con Chúa, là vì Ngài đã ban cho con một người mẹ như thế đó (Tự Thuật).
Suy niệm 4 Tà thuyết Manikê
Monica thật đau buồn khi thấy con mình đi theo tà thuyết Manikê.
Lạc giáo theo phái Manikê lầm l5c tuyên xưng hai vị thần: một Chúa thiện và một chúa ác. Họ quả quyết việc tạo dựng vạn vật hữu hình không do Cha trên trời (Chúa thiện) mà do ma quỷ Satan, do thần ác. Họ chối bỏ Đức Kitô nhập thể trong lòng Mẹ Maria, và nói: Ngài không có thân xác như mọi người khác; rằng Ngài không chết trên Thánh Giá, không phục sinh từ cõi chết; rằng Ngài không lên trời với xác phàm vì tất cả đều chỉ là hình bóng.
Cũng thế họ nói có hai giáo hội: một tốt là nhóm họ mà họ tự nhận là của Chúa Kitô; giáo hội kia xấu là giáo hội Rôma, mà họ gọi là bà mẹ thông dâm, Babylon, con điếm vĩ đại, đền thờ ma quỷ, hội đồng của Satan. Họ thay phép rửa bằng nước bằng phép rửa thiêng liêng gọi là Consolamentum, của Thánh Thần! Và dĩ nhiên tà thuyết này bị Đức Giáo Hoàng Lêô I (cũng gọi là Lêô Cả) kết án tại Công Đồng Calcedonia (451).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn kiên vững niềm tin để không sống lầm lạc trong các tà thuyết.
Suy niệm 5 Thị kiến
Một đêm kia, Monica đươc thị kiến và được đảm bảo là Augustine sẽ trở về với đức tin.
Trong nỗi buồn đau về người con dấu yêu là Augustine với đời sống sa đọa luân lý đến mức có con ngoại hôn, cả sa đọa về đạo lý khi đi theo tà thuyết Manikê, Monica khóc lóc cầu xin đêm ngày.
Thế rồi trong một thị kiến, ngài được một thiên thần đến an ủi và trấn an bằng việc cho biết trong tương lai người con dấu yêu của bà là Augustine sẽ trở về với đức tin, nhờ việc bà ăn chay cầu nguyện liên lĩ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của việc ăn chay như một chắp cánh ước mơ cho lời cầu được thực hiện.
Suy niệm 6 Ăn chay và cầu nguyện
Monica sống gần với con hơn để ăn chay và cầu nguyện cho con.
Trong xã hội ngày nay, mọi thứ đều sẵn sàng, từ mì ăn liền, cà phê uống liền, đến việc tiêu xài liền (instant-credit) khiến chúng ta không còn kiên nhẫn. Tương tự như thế, chúng ta cũng muốn lời cầu xin của chúng ta được đáp trả ngay lập tức. Thánh Monica là gương mẫu của sự kiên nhẫn. Những năm trường cầu nguyện, cộng với đức tính kiên cường và kỷ luật, sau cùng đã đưa đến sự trở lại của người chồng nóng nẩy, người mẹ chồng ưa gắt gỏng và người con thông minh nhưng bướng bỉnh, là Augustine.
Khi Thánh Monica từ Bắc Phi Châu sang Milan, ngài nghĩ ra những thói quen đạo đức mới cho ngài và cho những người thời ấy, tỉ như ăn chay ngày thứ Bảy, là điều không phổ thông ở Milan. Ngài hỏi Thánh Ambrôsiô là nên giữ những thói quen nào. Câu trả lời nổi tiếng của Thánh Ambrôsiô là: "Khi cha ở đây, cha không giữ chay ngày thứ Bảy, nhưng khi ở Rôma thì cha sẽ giữ chay; hãy làm theo những phong tục và huấn thị của Giáo Hội như đã được ban bố đặc biệt cho địa phương mà con đang sống".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết hỗ trợ cho việc ăn chay cầu nguyện bằng một đức kiên nhẫn vượt thời gian như thánh Monica.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 26/8 Thánh Giuse Calasan (1556 -1648)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giuse Calasan (1556 -1648)
Cha Giuse Calasan lập dòng Calasan vì lưu tâm đến nhu cầu giáo dục của trẻ em nghèo. Dù bị nghi ngờ và giáng chức, ngài vẫn bảo vệ những người ngược đãi ngài, và bình tĩnh nói: ""Thiên Chúa ban và Thiên Chúa lấy đi; chúc tụng danh Chúa!" (Job 1:21b).
Lược sử
Từ Aragon, là nơi ngài sinh trưởng năm 1556, đến Rôma, là nơi ngài chết lúc 92 tuổi, vận mệnh có lúc mỉm cười cũng có lúc chau mày với thành quả của Giuse Calasan (cũng thường được gọi là Giuse Calasanctius).
Là một linh mục tốt nghiệp đại học về giáo luật và thần học, với sự khôn ngoan và kinh nghiệm quản trị đáng kính nể, nhưng ngài không màng đến sự nghiệp ấy mà chỉ lưu tâm đến nhu cầu giáo dục của trẻ em nghèo. Nhiều người thiện chí khác tiếp tay với công việc, và năm 1621 cộng đoàn này được công nhận là một tu hội (Tu Sĩ Dòng Calasan). Không lâu sau đó, cha Giuse được bổ nhiệm làm giám đốc cho đến mãn đời. Những thành kiến pha lẫn với tham vọng chính trị và thủ đoạn đã đem lại nhiều xáo trộn cho tu hội. Sau nhiều lần điều tra của ủy ban giáo hoàng, cha Giuse bị giáng chức; và khi sự tranh chấp trong tu hội vẫn còn tiếp tục, tu hội đã bị cấm hoạt động. Chỉ sau khi cha Giuse chết họ mới được phục hồi tình trạng của một tu hội.
Suy niệm 1 Vận mệnh
Vận mệnh có lúc mỉm cười cũng có lúc chau mày với thành quả của Giuse Calasan.
Vận mệnh là gì? Vận mệnh phải chăng là một yếu tố vô hình, một khái niệm siêu nhiên mà chúng ta không thể nắm bắt, không thể nhìn thấy và càng không thể can thiệp thay đổi nó?
Thực chất Vận mệnh không có gì khác hơn là kết quả của những nỗ lực quá khứ của chúng ta. Các thành quả được quyết định bởi những cố gắng của chúng ta. Cho nên, nỗ lực chính là yếu tố quyết định Vận mệnh. Học thuyết nhân gian cho rằng con người hoàn toàn có thể hiểu, làm chủ, thậm chí cải tạo Vận mệnh của bản thân mình, như câu nói: Đức thắng Mệnh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thay vì chạy tìm bói toán thì hãy nỗ lực sống thánh để đọc được Thiên Ý đối với tình cảnh của mình.
Suy niệm 2 Giáo dục
Calasan không màng đến sự nghiệp ấy mà chỉ lưu tâm đến nhu cầu giáo dục của trẻ em nghèo.
Giáo dục là nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện khả năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hoàn thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối tượng. (Từ Điển Giáo Dục Học, NXB, Từ Điển Bách khoa,2001).
Khi định nghĩa về Giáo dục, tự điển Larousse cho thấy, đó là hoạt động đào tạo, huấn luyện về tri thức, song song với việc thực hành đạo đức (Larousse, 1992, tr. 352). Với Calasan, đối tượng ở đây là các trẻ em nghèo; và mục tiêu là giúp chúng thành nhân và thánh nhân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà giáo dục đặc biệt quan tâm đến mục tiêu cao cả này chứ không nhằm lợi nhuận.
Suy niệm 3 Trường
Calasan không màng đến sự nghiệp ấy mà chỉ lưu tâm đến nhu cầu giáo dục của trẻ em nghèo.
Vì không tìm được tổ chức nào có thể đảm trách công việc tông đồ này ở Rôma, chính ngài và một vài người bạn đã mở trường để dạy học cho các em nghèo.
Kết quả thật không ngờ và nhu cầu ngày càng gia tăng nên cần có một trường sở rộng lớn hơn. Sau đó không lâu, Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII đã giúp đỡ nhà trường, và sự giúp đỡ này được kéo dài cho đến thời Đức Giáo Hoàng Phaolô V. Nhiều trường sở mới được mở thêm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các việc tông đồ luôn có được sự hỗ trợ của Đấng Bản Quyền cũng như sự hợp tác của nhiều thỉnh nguyện viên.
Suy niệm 4 Tu hội
Cộng đoàn này được công nhận là một tu hội (Tu Sĩ Dòng Calasan).
Không lâu sau đó, cha Giuse được bổ nhiệm làm giám đốc cho đến mãn đời. Những thành kiến pha lẫn với tham vọng chính trị và thủ đoạn đã đem lại nhiều xáo trộn cho tu hội. Một số người không thích giáo dục người nghèo, vì họ cho rằng sự giáo dục chỉ làm người nghèo thêm bất mãn vì thân phận thấp hèn của họ trong xã hội! Nhiều người khác căm phẫn khi thấy một số tu sĩ Calasan được gửi đi thụ giáo Galileo (một người bạn của cha Giuse), bởi thế các tu sĩ đã chia rẽ thành những nhóm kình chống nhau.
Sau nhiều lần điều tra của ủy ban giáo hoàng, cha Giuse bị giáng chức; và khi sự tranh chấp trong tu hội vẫn còn tiếp tục, tu hội đã bị cấm hoạt động. Chỉ sau khi cha Giuse chết họ mới được phục hồi tình trạng của một tu hội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín về một công việc nếu là của Chúa thì luôn được trường tồn.
Suy niệm 5 Thành kiến
Những thành kiến pha lẫn với tham vọng chính trị và thủ đoạn đã đem lại nhiều xáo trộn cho tu hội.
Không ai biết rõ nhu cầu công việc mà cha Giuse đang làm hơn là chính ngài; không ai biết rõ tính cách vô căn cứ của những lời cáo buộc hơn là chính ngài. Tuy nhiên, nếu ngài muốn hoạt động trong lòng Giáo Hội, ngài biết phải tùng phục đấng có thẩm quyền, và ngài phải chấp nhận sự thất bại nếu không thể thuyết phục được các điều tra viên.
Trong khi thành kiến, mưu đồ và sự ngu dốt của nhiều người thường che khuất sự thật trong một thời gian dài, cha Giuse tin rằng, dù dưới những áp lực, tổ chức của ngài sẽ được công nhận và được phép hoạt động. Với sự tin tưởng này ngài đã kiên nhẫn và sẵn sàng tha thứ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tránh đừng bao giờ có thành kiến với ai hoặc với công việc gì, vì đã là thành kiến thì chỉ gây thiệt hại.
Suy niệm 6 Giáng chức
Cha Giuse bị giáng chức.
Ngay cả trong thời gian bị giáng chức, cha Giuse vẫn bảo vệ những người ngược đãi ngài khỏi bị nguy hiểm vì những người ủng hộ nóng tính của ngài.
Và khi tu hội bị cấm hoạt động, ngài coi như trường hợp của ông Job, là người mà ngài thường tự so sánh: "Thiên Chúa ban và Thiên Chúa lấy đi; chúc tụng danh Chúa!" (Jb 1,21b).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống được tinh thần dĩ đức báo oán đến mức yêu thương và làm ơn cho kẻ làm khốn mình (Mt 5,44).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 25/8 Thánh Louis của Pháp (1226-1270)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Louis của Pháp (1226-1270)
Thánh Louis nhìn đến bổn phận làm vua dưới con mắt đức tin. Sau những xáo trộn của hai triều đại trước, ngài đã đem lại hoà bình và công bằng trong nước. Ngài tôn trọng bất cứ ai mà ngài gặp, nhất là những "người bé mọn của Thiên Chúa."
Lược sử
Khi đăng quang làm vua nước Pháp, Louis thề hứa sẽ sống như một người được Thiên Chúa xức dầu, đối xử với người dân như một hiền phụ và là tướng công của Vua Hòa Bình. Dĩ nhiên, các vua khác cũng phải thi hành như vậy. Nhưng Thánh Louis khác biệt ở chỗ ngài thực sự nhìn đến bổn phận làm vua dưới con mắt đức tin. Sau những xáo trộn của hai triều đại trước, ngài đã đem lại hoà bình và công bằng trong nước.
Ngài được tôn vương lúc 12 tuổi, khi cha ngài từ trần. Mẹ ngài cầm quyền trong thời gian khi ngài còn nhỏ. Đến lúc 19 tuổi, ngài kết hôn với Marguerite ở Provence. Đó là một hôn nhân hạnh phúc, bất kể tính tình kiêu căng và náo động của bà hoàng hậu. Họ có đến 10 người con.
Khi 30 tuổi, vua Louis "vác thập giá" cho đoàn thập tự chinh. Chính vua Louis đã từ trần ở đất ngoại quốc khi 44 tuổi. Ngài được phong thánh vào 27 năm sau.
Suy niệm 1 Xức dầu phong vương
Louis thề hứa sẽ sống như một người được Thiên Chúa xức dầu.
Thể theo nguyện vọng của dân muốn có một vị vua cai trị (1Sm 10,19), Thiên Chúa đã sai tiên tri Sanuen đến tìm gặp Saun và lấy dầu xức trên đầu Saun để tấn phong Saun làm vua (1Sm 10,1.24). Và tiếp đó vì Saun sống không vâng lời Chúa nên bị Chúa truất phế (1Sm 16,1) và Đavít được tuyển chọn và cũng được xức dầu tấn phong vương (1Sm 16,13).
Dầu Louis không có nghi thức này nhưng vẫn có tâm nguyện sống như một người được Thiên Chúa xức dầu, nghĩa là hết mình vâng theo lời Chúa và đối xử với người dân như một hiền phụ với hy vọng cũng sẽ được đối xử tương tự bởi Vua các vua, là Người mà ngài đã dâng hiến cuộc đời, gia đình và quê hương.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chu toàn chức vụ làm vương đế qua việc được xức dầu trong bí tích Rửa Tội, bằng việc cai trị khuynh hướng xấu nơi bản thân chúng con.
Suy niệm 2 Hiền phụ
Vua Louis đối xử với người dân như một hiền phụ.
Là một hiền phụ, ngài là người tận tụy cho dân chúng, ngài thành lập các bệnh viện, thăm viếng người đau yếu, và cũng giống như quan thầy của ngài là Thánh Phanxicô, ngài chăm sóc ngay cả những người bị bệnh cùi.
Điều đặc biệt nhất là ngài tôn trọng bất cứ ai mà ngài gặp, nhất là những "người bé mọn của Thiên Chúa." Để chăm sóc dân chúng, ngài xây dựng nhà thờ, thư viện, nhà thương và cô nhi viện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị lãnh đạo luôn sống tinh thần hiền phụ nhằm dùng quyền để phục vụ chứ không để được phục vụ (Mt 20,28).
Suy niệm 3 Hòa bình
Vua Louis đã đem lại hòa bình và công bằng trong nước.
Ngài luôn tâm niệm ngài là tướng công của Vua Hòa Bình, vốn không không sử dụng gươm giáo cũng không cần huy động quân binh để chiến đấu dầu là để tự vệ (Mt 26,52-53).
Với ý thức ấy và bởi sự thánh thiện và cá tính của ngài, vua Louis đã đoàn kết nước Pháp thời bấy giờ, với đủ loại người -- tướng công, dân thành thị, nông dân, linh mục và các hiệp sĩ. Trong nhiều năm, quốc gia này sống trong an bình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà cầm quyền luôn biết dùng đường lối an hòa để xây dựng hòa bình cho muôn dân nước.
Suy niệm 4 Công bằng
Vua Louis đã đem lại hòa bình và công bằng trong nước.
Ngài thực sự nhìn đến bổn phận làm vua dưới con mắt đức tin. Ngài không đành bẻ gãy cây lau bị giập, cũng chẳng nỡ tắt đi tim đèn leo lét, cho đến khi đưa công lý đến toàn thắng (Mt 12,20). Ngài luôn luôn tôn trọng quyền bính của đức giáo hoàng, nhưng ngài bảo vệ quyền lợi của hoàng gia chống với các giáo hoàng và từ chối không công nhận bản án của Đức Innôxentê IV chống với hoàng đế Frederick II. Ngài cũng đối xử với các hoàng tử một cách thành thật và công bằng.
Ngài là người có ý chí mạnh mẽ và kiên quyết. Lời của ngài thực sự đáng tin, và sự can trường của ngài thật đáng kể. Mọi người thán phục ngài với tư cách của một thập tự quân, nhưng có lẽ công trạng lớn lao hơn của ngài là những lưu tâm về sự công bằng trong nền hành chính. Ngài đặt ra các quy tắc cho các viên chức chính quyền, mà sau đó trở thành những chuỗi luật cải tổ. Ngài thay thế hình thức xét xử đầy bạo lực bằng việc điều tra các nhân chứng, và nhờ ngài thúc giục, việc ghi chép lại các chi tiết trong tòa được bắt đầu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà cầm quyền luôn tôn trọng và phục vụ công lý chứ đừng nhu nhược như một quan Philatô.
Suy niệm 5 Hôn nhân
Đó là một hôn nhân hạnh phúc.
Có thể nói hôn nhân và gia đình là một trong những thể chế cổ xưa nhất của loài người. Hôn nhân đã được Kinh Thánh đề cập đến ngay từ những trang đầu (St 1,27-28;2,18-25) và rồi hình ảnh hôn nhân lại được Kinh Thánh nhắc đến nơi những trang cuối cùng (Kh 21,2.9.17). Điều đó cho thấy hôn nhân không phải chỉ là một định chế thuần túy của con người, mà trước hết còn nằm trong chương trình của Thiên Chúa, khi Người dựng nên con người có nam có nữ, và mời gọi họ "Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống trị nó" (St 1,26).
Vua Louis đi vào đời sống hôn nhân và cuộc hôn nhân này được đánh giá là hạnh phúc, bất kể tính tình kiêu căng và náo động của bà hoàng hậu. Nhờ đâu thế? Chắc hẳn nhờ ngài đã biết sử dụng phương thuốc trị liệu hữu hiệu là tình yêu, vốn giúp nhìn thấy trái ấu cũng tròn, hơn thế yêu cả những khuyết điểm và bất toàn nơi nửa kia của mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các đôi hôn nhân luôn biết yêu thương như Chúa yêu thương chúng con cả ưu lẫn khuyết, để ngày càng trở nên giống hình ảnh Chúa là Tình Yêu (1Ga 4, 8.16).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 24/8 Thánh Batôlômêô
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Batôlômêô
Một số học giả cho rằng ngài là Natanien, người Cana xứ Galilê được Philípphê mời đến gặp Ðức Giêsu. Sổ Tử Ðạo Rôma viết rằng Thánh Batôlômêô đã rao giảng ở Ấn và Armenia, là nơi ngài bị lột da và bị chém đầu bởi vua Astyages.
Lược sử
Trong Tân Ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả cho rằng ngài là Natanien, người Cana xứ Galilê được Philípphê mời đến gặp Đức Giêsu. Và Đức Giêsu đã khen ông: "Đây đích thực là người Israel. Lòng dạ ngay thẳng" (Ga 1,47b).
Khi Natanien hỏi Đức Giêsu làm sao Ngài biết ông, Đức Giêsu trả lời "Tôi thấy anh ở dưới cây vả" (Ga 1,48b). Điều tiết lộ kinh ngạc này đã khiến Natanien phải kêu lên, "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa; chính Thầy là Vua Israel" (Ga 1,49b). Nhưng Đức Giêsu đã phản ứng lại, "Có phải anh tin vì tôi nói với anh là tôi thấy anh dưới cây vả? Anh sẽ được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa!" (Ga 1,50).
Quả thật Natanien đã được nhìn thấy những điều trọng đại. Ngài là một trong những người được Đức Giêsu hiện ra trên bờ biển Tiberia sau khi Phục Sinh (x. Ga 21,1-14).
Sổ Tử Đạo Rôma viết rằng Thánh Batôlômêô đã rao giảng ở Ấn và Armenia, là nơi ngài bị lột da và bị chém đầu bởi vua Astyages.
Suy niệm 1 Natanien
Một số học giả cho rằng Thánh Batôlômêô là Natanien.
Batôlômêô hay Natanien? Một lần nữa chúng ta phải đương đầu với sự kiện là hầu như chúng ta không biết gì về các tông đồ. Tuy vô danh nhưng các vị vẫn là nền tảng, là 12 cột trụ của Israel mới mà 12 chi tộc ấy đã tràn lan trên khắp mặt đất. Cá tính của các ngài chỉ là thứ yếu (nhưng không vì thế mà bị coi thường) so với nhiệm vụ trao truyền lại những gì các ngài được cảm nhận đầu tiên, được lên tiếng nhân danh Đức Giêsu, được đưa Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể vào ngôn ngữ loài người để khai sáng thế gian.
Sự thánh thiện của các ngài không phải là thái độ trầm ngâm về thân phận trước mặt Thiên Chúa. Đó là một ơn sủng mà họ phải chia sẻ với tha nhân. Được gọi là Tin Mừng vì tất cả chúng ta được mời gọi trở nên thánh thiện khi là phần tử của Đức Kitô, qua ơn sủng từ bi của Thiên Chúa. Sự thật thì loài người hoàn toàn vô dụng trừ phi được Thiên Chúa lưu tâm. Do đó, vì được trở nên thánh thiện bởi chính sự thánh thiện của Thiên Chúa, nhân loại trở thành tạo vật quý báu nhất của Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đùng bao giờ bị chi phối bởi những điều thứ yếu, để đánh mất điểm nội dung quan trọng.
Suy niệm 2 Khen
Đức Giêsu đã khen Batôlômêô: "Đây đích thực là người Israel. Lòng dạ ngay thẳng"
Trong cuộc sống xã hội, thông thường người nhỏ khen người lớn. Như có lần Đức Giêsu cũng mở lời ngợi khen Chúa Cha đã mạc khải cho kẻ bé mọn (Mt 11,25), hoặc Đức Maria cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa vì bao ơn huệ ngài nhận được (Lc 1,46). Cũng thế muôn vàn thiên thần hợp với sứ thần hát lời ca khen Thiên Chúa về việc hạ sinh của Ngôi Hai (Lc 2,13). Khi chứng kiến sự lạ người mù được sáng mắt, toàn dân đều phấn khởi dâng lời chúc khen Thiên Chúa (Lc 18,43).
Thật hiếm trường hợp người lớn lại mở lời khen người nhỏ. Đức Giêsu đã nêu gương bài học này khi khen Batôlômêô vì có lòng dạ ngay thẳng, khen bà góa nghèo khi dâng cúng đền thờ (Mc 12,43), khen Phêrô nhận được ơn mặc khải để có câu trả lời đúng (Mt 16,17). Ngài cũng mượn dụ ngôn để cho ông chủ khen người quản lý bất lương (Lc 16,8). Vì khen chính là điều Thiên Chúa muốn, nên ngoài việc Người cho miệng trẻ thơ con trẻ cất tiếng ngợi khen Người (Mt 21,16), mà Người cũng từng khen Đức Giêsu ít là hai lần ở sông Giođan và núi Tabo (Mt 3,17;12,18).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con học biết bài học đắc nhân tâm này để luôn khen thưởng hơn là chê trách la rầy.
Suy niệm 3 Ngay thẳng
Đức Giêsu đã khen Batôlômêô: "Đây đích thực là người Israel. Lòng dạ ngay thẳng"
Sống trong một thế giới được mệnh danh là thế gian chứ không phải là thế ngay, một người có được lòng dạ ngay thẳng và sống ngay thẳng như một Batôlômêô thật là anh hùng, vì thế ngài thật xứng để được Chúa mở lời khen ngợi.
Dầu vẫn biết người gian dối không ngay thẳng có nguy cơ đánh mất đức tin (1Tm 1,19), để rồi làm con cái của ma quỷ (Cv 13,10), không được dự phần ân sủng (Cv 8,21), nhưng thật khó sống. Vì thế thánh Phaolô tha thiết mời gọi mọi người phải cố đạt được (1Tm 1,5), và thánh Phêrô cũng khuyên dạy như thế (1Pr 3,16).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống thật để xứng là con cái của Chúa vốn là Đấng Chân Thật tuyệt đối (Ga 14,6), và nhờ thế có thể biến đổi thế gian thành thế ngay.
Suy niệm 4 Lớn lao
Anh sẽ được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa!
Quả thật Natanien đã được nhìn thấy những điều trọng đại. Ngài là một trong những người được Đức Giêsu hiện ra trên bờ biển Tiberia sau khi Phục Sinh (x. Gioan 21,1-14). Lúc ấy các ngài chài lưới cả đêm mà không được gì cả. Vào buổi sáng, họ thấy có người đứng trên bờ dù rằng không ai biết đó là Đức Giêsu. Ngài bảo họ tiếp tục thả lưới, và họ bắt được nhiều cá đến nỗi không thể kéo lưới lên nổi. Sau đó Gioan nói với Phêrô: "Chính Thầy đó"
Khi họ dong thuyền vào bờ, họ thấy có đám lửa, với một ít cá đang nướng và một ít bánh. Đức Giêsu bảo họ đem cho mấy con cá tươi, và mời họ đến dùng bữa. Thánh Gioan kể rằng mặc dù họ biết đó là Đức Giêsu, nhưng không một tông đồ nào dám hỏi ngài là ai. Thánh Gioan cho biết, đó là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các tông đồ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để có thể đón nhận một sự kiện cao cả là sự hiện đích thực của Mình Máu Chúa trong hình bánh rượu sau nghi thức Truyền Phép của chủ tế.
Suy niệm 5 Phục Sinh
Đức Giêsu hiện ra trên bờ biển Tiberia sau khi Phục Sinh.
Từ lúc Giáo Hội Sơ Khai, thánh Phaolô đã xác quyết về giá trị của ý nghĩa biến cố Phục Sinh (1Cr 15,14). Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu là sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử và thần học kitô giáo. Đây là chứng cứ khẳng định quyền bính của Chúa Giêsu trên sự sống và sự chết, do đó Ngài có quyền ban cho mọi người sự sống vĩnh cửu.
Chẳng những Ngài làm cho kẻ chết sống lại như với trường hợp con gái ông Giairô (Lc 8,56), con trai bà góa Naim đang lúc được khiêng đi chôn (Lc 7,15) hoặc một thi hài đã chôn nặng mùi là Ladarô (Ga 11,44), mà chính Ngài còn tự mình từ cõi chết sống lại (Cl 1,18). Ngài lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa và sẽ trở lại để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Thiên Sai, cũng như về sự sống lại của kẻ chết, sự phán xét sau cùng, và sự thiết lập Vương quốc Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vững tin vào sự Phục Sinh của Chúa như là nền tảng của đời sống đạo.
Suy niệm 6 Chém đầu
Batôlômêô bị lột da và bị chém đầu bởi vua Astyages.
"Cũng như chính Đức Kitô, các tông đồ không ngừng làm chứng cho chân lý của Thiên Chúa. Họ chứng tỏ sự can đảm khác thường khi 'mạnh dạn nói lời của Thiên Chúa' (Cv 4,31) trước dân chúng và nhà cầm quyền.
Với đức tin mạnh mẽ, các ngài xác tín rằng chính phúc âm là sức mạnh của Thiên Chúa để cứu chuộc những người có lòng tin... Các ngài đã noi gương hiền lành và khiêm nhường của Đức Kitô" (Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo, 11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm nối gót các tông đồ đến mức anh dũng chịu chết để minh chứng niềm tin vào Sự Phục Sinh.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 23/8 Thánh Rôsa ở Lima (1586-1617)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Rôsa ở Lima (1586-1617)
Thánh Rôsa lập một căn phòng ngay trong nhà để chăm sóc các trẻ em bụi đời, người già yếu và bệnh tật. Ðây là khởi đầu của dịch vụ xã hội ở Peru.
Lược sử
Vị thánh đầu tiên của Tân Thế Giới này có cùng một đặc tính như tất cả các thánh khác -- đó là bị đau khổ vì sự chống đối -- và một đặc tính khác được khâm phục hơn là nên bắt chước -- đó là sự hãm mình đền tội cách quá đáng.
Thánh nữ sinh trong một gia đình Tây Ban Nha ở Lima, Peru, vào lúc Nam Mỹ đang trong thế kỷ truyền giáo đầu tiên. Khi cha mẹ ngài rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chánh, ban ngày Thánh Rôsa phải làm việc nơi đồng áng và ban đêm phải khâu vá để giúp đỡ gia đình.
Mười năm dài tranh đấu với gia đình được khởi đầu khi cha mẹ ép buộc ngài phải kết hôn. Cha mẹ ngài không cho đi tu, và vì vâng lời ngài tiếp tục đời sống cô độc và ăn chay hãm mình ngay tại nhà như một thành viên của Dòng Ba Đaminh.
Vì lòng ước ao muốn được trở nên giống như Đức Kitô nên hầu hết khi ở nhà, ngài sống trong cô độc. Trong những năm cuối đời, Thánh Rôsa lập một căn phòng ngay trong nhà để chăm sóc các trẻ em bụi đời, người già yếu và bệnh tật. Đây là khởi đầu của dịch vụ xã hội ở Peru. Mặc dù có cuộc sống và sinh hoạt tách biệt, ngài cũng bị đưa ra trước Tòa Thẩm Tra, nhưng các người thẩm vấn không tìm thấy lý do gì khác hơn là ngài bị ảnh hưởng bởi ơn sủng.
Điều chúng ta lầm tưởng rằng đó chỉ là một cuộc sống lập dị thì thực sự đã được biến đổi tự bên trong. Nếu chúng ta nhớ đến cách ăn năn đền tội bất thường của ngài thì chúng ta cũng phải nhớ một điều vĩ đại của Thánh Rôsa: tình yêu Thiên Chúa của ngài quá nồng nhiệt đến nỗi ngài sẵn sàng chịu đựng sự nhạo cười của người đời, chịu cám dỗ mãnh liệt và chịu đau bệnh lâu dài.
Khi ngài từ trần năm 31 tuổi, cả thành phố đã tham dự tang lễ của ngài và các chức sắc trong xã hội đã thay phiên nhau khiêng quan tài của ngài.
Suy niệm 1 Chống đối
Đó là bị đau khổ vì sự chống đối.
Sư chống đối khởi sự từ gia đình, khi vì ước muốn tu trì, ngài bị cha mẹ chống đối suốt mười năm vì muốn ngài phải lập gia đình. Đồng thời ngài cũng phải chịu đựng sự nhạo cười của người đời với cách hãm mình đền tội được xem là lập dị, chịu cám dỗ mãnh liệt và chịu đau bệnh lâu dài. Mặc dù có cuộc sống và sinh hoạt tách biệt, ngài cũng bị đưa ra trước Tòa Thẩm Tra, nhưng các người thẩm vấn không tìm thấy lý do gì khác hơn là ngài bị ảnh hưởng bởi ơn sủng. Điều chúng ta lầm tưởng rằng đó chỉ là một cuộc sống lập dị thì thực sự đã được biến đổi tự bên trong.
Dường như ngài muốn noi gương Thánh Catarina ở Siena, bất kể những chống đối và nhạo cười của cha mẹ, bạn hữu. Vì lòng yêu mến Thiên Chúa mà các thánh có những hành động kỳ dị đối với chúng ta, và quả thật đôi khi thiếu khôn ngoan, nhưng đó chỉ để nói lên sự tin tưởng của các ngài là bất cứ điều gì làm nguy hại đến sự tương giao với Thiên Chúa đều bị tiêu trừ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu đời người kitô hữu là cuộc đời luôn bị chống đối, bằng không như thế thì không còn là kitô hữu đích thực nữa, vì trò thì không thể hơn thầy được (Mt 10,24).
Suy niệm 2 Hãm mình đền tội
Đó là sự hãm mình đền tội cách quá đáng.
Vì sắc đẹp của ngài được nhiều người ngưỡng mộ nên Thánh Rôsa đã dùng hạt tiêu chà sát lên mặt để tạo thành các vết sưng xấu xí. Sau này, ngài còn đội một vòng bạc dầy cộm trên đầu, bên trong nhét đinh giống như mão gai.
Thật dễ để cho rằng sự ăn năn đền tội quá đáng của các thánh là hình thức bề ngoài của một vài nền văn hóa hay tính khí nào đó. Nhưng hình ảnh một phụ nữ đội mão gai rất có thể đã khích động lương tâm của chúng ta. Chúng ta đang vui hưởng một đời sống đầy đủ tiện nghi nhất trong lịch sử loài người. Chúng ta ăn uống thừa thãi, sử dụng biết bao đồ vật và chất chứa trong tai mắt chúng ta đủ mọi thứ âm thanh và hình ảnh. Giới thương mại vội vã chế tạo các vật dụng không cần thiết để chúng ta tiêu xài. Dường như khi chúng ta ngày càng nô lệ cho các phương tiện vật chất thì lúc ấy sự "tự do" trở nên vấn đề lớn lao. Chúng ta có sẵn sàng rèn luyện tâm linh trong một môi trường như thế hay không?
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết hãm mình đền tội để rèn luyện tâm linh chúng con.
Suy niệm 3 Truyền giáo-tiếp xúc cá nhân
Nam Mỹ đang trong thế kỷ truyền giáo đầu tiên.
Theo các tài liệu của Giáo Hội thì tiếp xúc cá nhân là một trong những đường lối Truyền Giáo đơn sơ và dễ thực hiện nhất... Đại Hội Thế Giới á Châu lần thứ nhất được tổ chức tại Chiang Mai (Thái Lan) cũng làm cho cách truyền giáo bằng tiếp xúc cá nhân này trở thành quan trọng. Trong sứ điệp này có đoạn: "Chúa Giêsu được mệnh danh là một người kể chuyện. Là một Sư Phụ, một vị Thầy, Ngài thích nhất là sử dụng phương pháp kể dụ ngôn để giải thích những Mầu Nhiệm sâu kín của Nước Trời".
Chúa Giêsu và các Tông Đồ cũng để lại các mẫu gương dùng cách tiếp xúc cá nhân để rao giảng Tin Mừng: Chúa Giêsu gặp gỡ ông Nicôđêmô (Ga 3,1-26), người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp (Ga 4,1-26). Thánh Phêrô tiếp xúc với ông Cornêliô và gia đình (Cv 10,1-48)...
Tiếp xúc cá nhân, tuy rằng là đường lối truyền giáo đơn giản và dễ thực hiện nhất, nhưng cũng đòi hỏi một vài điều kiện tối thiểu: một tấm lòng chân tình, một thái độ thân thiện cởi mở, một ngôn ngữ thích hợp, một đức tin sống động (Giêrônimô Nguyễn văn Nội).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết vận dụng các cơ hội tiếp xúc cá nhân hằng ngày với mọi hạng người để thực thi sứ vụ truyền giáo.
Suy niệm 4 Truyền giáo-Lòng đạo đức bình dân
Nam Mỹ đang trong thế kỷ truyền giáo đầu tiên.
Trong đời sống người Công Giáo, có hai hình thái cũng là hai lãnh vực biểu lộ lòng tin và phụng thờ Thiên Chúa, trong cử hành Phụng Vụ chính thức của Giáo Hội và trong thực hành đạo đức bình dân, vốn cũng là một đường lối khác của cuộc loan báo Tin Mừng.
Giáo Huấn của Đức Thánh Cha Phaolô VI ghi nhận: Nếu được hướng dẫn cách đúng đắn, nhất là bằng sư phạm về Truyền Giáo, lòng đạo đức bình dân sẽ có nhiều giá trị. Nó diễn tả sự khao khát Thiên Chúa mà chỉ những người đơn sơ và nghèo khó mới có thể biết đến. Nó làm cho người ta có khả năng sống quảng đại và hy sinh đến độ hy sinh anh dũng khi liên quan đến những việc biểu lộ niềm tin. Nó bao hàm một ý thức sắc bén về những thuộc tính của Thiên Chúa như tình phụ tử, sự quan phòng, sự hiện diện yêu thương và liên lĩ. Nó làm phát sinh những thái độ nội tâm ở mức độ cao không tìm thấy ở bất cứ đâu: sự kiên nhẫn, cảm thức về thập giá trong cuộc sống thường ngày, sự siêu thoát, thái độ rộng mở với tha nhân, lòng mộ đạo. Vì những khía cạnh trên, chúng tôi sẵn lòng gọi là "lòng đạo đức bình dân", nghĩa là tôn giáo của người dân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của lòng đạo đức bình dân để vận dụng cho công cuộc truyền giáo.
Suy niệm 5 Ơn sủng
Rôsa Lima bị ảnh hưởng bởi ơn sủng.
Theo linh mục Anrê Đỗ Xuân Quế, ơn sủng là ơn Thiên Chúa ban nhưng không cho con người để nó đáp lại tiếng gọi trở nên con cái Thiên Chúa (Rm 8,14-17) nên những kẻ được thông phần bản tính của Người (2Pr 1,3-4) và được sống cuộc đời vĩnh cửu (Ga 17,3). Ơn sủng là một cách thế tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Ơn sủng đưa con người vào vòng thân tình với Ba Ngôi. Nhờ bí tích Thánh tẩy, kitô hữu được thông phần ơn sủng của Đức Kitô. Là nghĩa tử, từ nay, họ được gọi Thiên Chúa là Cha (Rm 8,15), được kết hợp với Người Con duy nhất và nhận được sự sống của Chúa Thánh Thần.
Trong cuốn Nhật Ký của một cha sở miền quê, nhà văn công giáo Georges Bernanos, người Pháp, đã đặt lên miệng cha sở trong lúc hấp hối câu: "Tất cả là Ơn sủng" để kết thúc cuốn truyện. Ơn sủng ở nơi một con người ốm yếu, ít tài năng,sống mờ nhạt giữa các anh em đồng liêu. Đương sự cảm nghiệm được điều đó và chân thành nói lên cho mọi người biết. Một nhà văn công giáo khác, người Anh: Graham Green, trong cuốn Quyền Lực và Vinh Quang cũng cho thấy sức mạnh của Ơn sủng ngay trong tội lỗi và sự đổ vỡ. Cả hai cuốn sách đều cho thấy sực cần thiết và sức mạnh của Ơn sủng trong đời sống mỗi người.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng đánh giá tha nhân theo cách nhìn bên ngoài, nhưng bằng cái nhìn nội tâm để thấy được Ơn sủng của Thiên Chúa nơi mò mà luôn có lòng tôn trọng và kính yêu.
Suy niệm 6 Tang lễ
Cả thành phố đã tham dự tang lễ của Rôsa Lima.
Tang lễ này quả là một bằng chứng hùng hồn cho lời Đức Giêsu đã quả quyết với Phêrô với vấn nạn: Chúng con đã bỏ mọi sư mà theo Thầy chúng con sẽ nhận được được gì? Sẽ nhận được gấp trăm ở đời này và đời sau (Mc 10,28-30).
Khi còn sống, Rose Lima đã hết mình theo Chúa nên với cái chết chẳng những ngài được hưởng vinh phúc thánh nhân trên quê trời, mà ngay tại đời này ngài còn được cả dân thành thay vì nhạo cười thì nay tham dự tang lễ, thậm chí các chức sắc trong xã hội thay vì đưa ngài ra tòa xét xử thì nay đã thay phiên nhau khiêng quan tài của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống chết vì Chúa với ý hướng không chờ phần thưởng khi sống mà chủ yếu là chờ đến khi chết.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 22/8 Lễ kính Ðức Maria Nữ Vương
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lễ kính Đức Maria Nữ Vương
Ðức Maria Nữ Vương
Ðức Maria xứng với danh hiệu này vì ngài là Mẹ Thiên Chúa, vì ngài cộng tác chặt chẽ trong công trình cứu chuộc của Ðức Giêsu như một Evà Mới, (x. Pio XII)
Lược sử
Vào năm 1954, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ này. Nhưng tư cách nữ vương của Đức Maria có nguồn gốc trong Phúc Âm. Cũng như trong tất cả mầu nhiệm cuộc đời của Đức Maria, ngài rất gần gũi với Đức Giêsu, do đó ngài được chia sẻ vương quyền của Đức Giêsu. Chúng ta cũng có thể nhớ lại rằng, trong Cựu Ước, người mẹ của vua rất có thế lực trong triều đình.
Vào thế kỷ thứ tư, Thánh Ephrem gọi Đức Maria là Hoàng Hậu.
Ngày lễ này rất thích hợp để theo sau lễ Đức Mẹ Thăng Thiên, và bây giờ được cử mừng vào ngày thứ tám sau ngày lễ nói trên. Trong thông điệp Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Piô XII nói rằng Đức Maria xứng với danh hiệu này vì ngài là Mẹ Thiên Chúa, vì ngài cộng tác chặt chẽ trong công trình cứu chuộc của Đức Giêsu như một Evà Mới, vì sự tuyệt hảo trổi vượt của ngài và vì sự can thiệp quyền thế của Đức Maria.
Suy niệm 1 Phúc Âm
Tư cách nữ vương của Đức Maria có nguồn gốc trong Phúc Âm.
Vào lúc Truyền Tin, sứ thần Gabrien thông báo rằng Con của Đức Maria sẽ nối ngôi Đavít và cai trị đến muôn đời. Trong cuộc Thăm Viếng, bà Êlizabét gọi Đức Maria là "mẹ của Chúa tôi."
Như Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi tín hữu Rôma 8,28-30, tự thuở đời đời Thiên Chúa đã tiền định cho con người được chia sẻ hình ảnh của Con Thiên Chúa. Hơn thế nữa, Đức Maria được tiền định làm mẹ của Đức Giêsu. Như Đức Giêsu là vua của muôn tạo vật, thì Đức Maria là hoàng hậu, nhờ vào Đức Giêsu. Tất cả mọi xưng tụng tư cách nữ vương này đều xuất phát từ ý định đời đời của Thiên Chúa. Như Đức Giêsu hành sử vương quyền của Người trên mặt đất bằng cách phục vụ Chúa Cha và loài người, thì Đức Maria cũng hành sử tư cách nữ vương của ngài. Như Đức Giêsu vinh hiển vẫn ở với chúng ta như một vị vua cho đến tận thế (Mt 28,20), thì Đức Maria cũng vậy, ngài là người đã được đưa lên trời và được ban thưởng triều thiên hoàng hậu của thiên đàng và trần thế.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khi tôn vinh Mẹ là Nữ Vương trời đất thì cũng tôn vinh Mẹ là Nữ Vương làm chủ tâm hồn con.
Suy niệm 2 Gần gũi
Đức Maria rất gần gũi với Đức Giêsu.
Xét về mặt thể lý, Mẹ gần gũi đến mức làm một với Đức Giêsu, khi Mẹ cưu mang trong dạ 9 tháng 10 ngày. Sau khi hạ sinh Đức Giêsu, Mẹ cũng còn gần gũi trong bổn phận chăm sóc, cho bú mớm, cho ăn và cận kề mãi đến ngày Đức Giêsu lên 30 tuổi và ra đi rao giảng. Mẹ cũng gần gũi trên đường thập giá và đứng kề bên lúc Đức Giêsu tắt hơi và được chôn cất.
Xét về mặt tinh thần, xa mặt nhưng không cách lòng, Mẹ vẫn luôn dõi theo hành trình thi hành sứ vụ của Đức Giêsu, với những lo lắng, vui mừng khi hay tin nhiều người chạy tìm theo Chúa, xẻ chia tủi nhục khi bị nhóm đầu mục chống đối. Chính vì luôn gần gũi như thế nên mới hay tin Chúa về làng mà chạy đến viếng thăm. Và nhất là Mẹ cũng gần gũi đến mức làm một với Đức Giêsu trong sứ mạng đồng công cứu chuộc.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống sát cánh Mẹ và Chúa bằng tâm tình hiến dâng để sau này được hạnh ngộ trên thiên đàng.
Suy niệm 3 Vương quyền
Đức Maria được chia sẻ vương quyền của Đức Giêsu.
Theo nghĩa riêng biệt và chính thức, thì vua là một vị, nhờ vào việc thừa tự ngôi báu cha để lại, chứ không do dân chúng bầu lên, có bổn phận tối cao để quản trị một xã hội, với mục đích là làm cho cộng đồng được hưởng những ích lợi tự nhiên và trần thế.
Khi một phụ nữ thừa hành quyền tối cao đó như là gia tài của vua cha để lại thì phụ nữ đó quả thực là nữ vương theo nghĩa chính thức. Theo nghĩa rộng hơn thì người mẹ hoặc bà vợ của vua thường được gọi là nữ vương, và quả đúng như vậy, vì hai người này mật kết với vua, tuy họ không có trách nhiệm về việc quản trị quốc gia.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn đồng thanh tôn vinh Đức Maria, Mẹ Chúa là Nữ Vương , vì Mẹ là mẹ của Thiên Chúa vốn là Vua của cả trời đất.
Suy niệm 4 Thế kỷ
Vào thế kỷ thứ tư, Thánh Ephrem gọi Đức Maria là Hoàng Hậu
Và sau đó các Giáo Phụ cũng như các Tiến Sĩ Hội Thánh tiếp tục dùng danh xưng này. Các thánh thi từ thế kỷ 11 cho đến 13 đề cập đến Đức Maria như một hoàng hậu: "Kính mừng Hoàng Hậu Thánh Thiện," "Kính mừng Hoàng Hậu Thiên Đàng."
Tràng hạt dòng Đaminh và dòng Phanxicô cũng như biết bao lời cầu khẩn Đức Maria trong kinh nguyện đều mừng kính tư cách nữ vương của ngài. Đặc biệt trong Kinh Cầu Đức Bà, Giáo Hội cũng dành nhiều câu kinh để tôn vinh tư cách nữ vương của Mẹ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ tôn vinh tư cách nữ vương của Mẹ trên môi miệng mà trong lòng và trong cuộc sống.
Suy niệm 5 Thông điệp
Trong thông điệp Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Piô XII nói rằng Đức Maria xứng với danh hiệu này
Từ thời các tông đồ, đặc biệt thánh Phaolô, ngài đã viết nhiều thư để liên lạc với các giáo đoàn ở xa. Sau khi các tông đồ qua đời, các giám mục thường liên lạc với nhau qua thư từ, và thỉnh thoảng gởi cho các tín hữu để thúc đẩy tính thống nhất trong việc giữ kỷ luật và sống đức tin, đặc biệt về giáo lý và áp dụng lịch phụng vụ. Vì giám mục ở Rôma được xem là người kế vị thánh Phêrô, viết thư cho các giám mục trên toàn thế giới.
Việc luân chuyển các văn thư của Giáo Hoàng giữa các giám mục bị ngưng trệ ở Thời Trung Cổ, lúc mà quyền lực của các giám mục bắt đầu tuột dốc. Thời kỳ này Tòa Thánh bắt đầu viết văn thư cho một vị giám mục lúc tòa giám mục địa phương có công việc, và mỗi giám mục địa phận có trách nhiệm viết một thư trình báo cho Tòa Thánh. Đến thời Đức Giáo Hoàng Biển đức XIV (1740-1758), nhờ sự hổ trợ của việc in ấn báo chí đang phổ biến, ngài đã làm sống lại truyền thống cổ xưa của Giáo Hoàng là viết một bức thư chung cho toàn giám mục trên thế giới. Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI (1831-1846) gọi những thư viết loại này là Thông Điệp. Sau Công Đồng Vatican I (1870), nhiều văn thư của Giáo Hoàng được làm rõ và được xem là Thông Điệp.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dày công nghiên cứu và học hỏi các chỉ dẫn trong các Thông Điệp để cập nhật hóa hướng đi.
Suy niệm 6 Mẹ Thiên Chúa
Trong thông điệp Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Piô XII nói rằng Đức Maria xứng với danh hiệu này vì ngài là Mẹ Thiên Chúa.
"Tất cả mọi Kitô Hữu hãy tha thiết khẩn nguyện Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ loài người. Hãy nài xin ngài là đấng là trợ giúp Giáo Hội sơ khai bằng lời khẩn nguyện, và được tôn vinh trên trời trên tất cả thần thánh, để ngài có thể cầu bầu cùng Con ngài trong sự hiệp thông với toàn thể các thánh.
Cầu mong sao ngài vẫn tiếp tục công việc ấy cho mọi dân tộc của gia đình nhân loại, dù họ được vinh dự mang danh Kitô Hữu hay chưa biết đến Đấng Cứu Thế, đều được hân hoan cùng nhau quy tụ trong an bình và hòa thuận hợp thành một Dân Chúa, vì vinh hiển của Ba Ngôi Cực Thánh và Không Phân Chia" (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, 69).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tha thiết khẩn nguyện Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ loài người, vì mẹ là Nữ Vương trời đất.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 21/8 Thánh Giáo Hoàng Piô X (1835-1914)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giáo Hoàng Piô X (1835-1914)
"Một người của Thiên Chúa biết sự bất hạnh của thế giới và sự khó khăn của đời sống, và với sự cao quý của tâm hồn, ngài muốn an ủi tất cả mọi người."
Lược sử
Thánh Giáo Hoàng Piô X có lẽ được nhiều người Công Giáo nhớ đến qua việc ngài khuyến khích chúng ta thường xuyên lãnh nhận bí tích Thánh Thể, nhất là trẻ em.
Tên thật của ngài là Joseph Sarto và là người con thứ trong 10 người con của một gia đình người Ý nghèo nàn. Ngài lên ngôi giáo hoàng khi 68 tuổi, lấy tên là Piô X, và là một trong những giáo hoàng vĩ đại của thế kỷ 20.
Vì rất lưu tâm đến chính trị, ngài khuyến khích người Công Giáo Ý tham dự vào sinh hoạt chính trị nhiều hơn. Tuy ngài không ban bố các thông điệp xã hội nổi tiếng như vị tiền nhiệm, Đức Piô X đã lên án việc đối xử tệ hại các thổ dân trong những đồn điền ở Peru.
Vào ngày kỷ niệm ngài lên ngôi giáo hoàng năm thứ 11 thì Âu Châu rơi vào cuộc Thế Chiến I. Đức Piô đã thấy trước điều đó, và viễn ảnh ấy đã giết ngài chết.
Suy niệm 1 Bí tích Thánh Thể
Thánh Giáo Hoàng Piô X khuyến khích chúng ta thường xuyên lãnh nhận bí tích Thánh Thể, nhất là trẻ em.
Bí tích Thánh Thể là bí tích Chúa Giêsu ban Mình và Máu Ngài cho chúng ta, để chúng ta cũng hiến mình chúng ta cho Ngài trong tình yêu và kết hợp với Ngài khi rước lễ.
Mỗi lần rước lễ, chúng ta được kết hợp với Chúa Giêsu chặt chẽ hơn, làm cho chúng ta trở nên phần tử sống động của Thân Mình Ngài, đổi mới ơn thánh chúng ta đã nhận được trong bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, và làm cho chúng ta mạnh sức để chiến đấu chống lại tội lỗi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn dọn mình xứng đáng để đón rước Thánh Thể mỗi khi đi tham dự thánh lễ.
Suy niệm 2 Nghèo nàn
Thánh Giáo Hoàng Piô X là người con thứ trong 10 người con của một gia đình người Ý nghèo nàn.
Luôn luôn nhớ đến gốc gác khiêm tốn của mình, ngài tuyên bố: "Tôi sinh ra nghèo nàn, tôi sống nghèo nàn và tôi sẽ chết nghèo nàn." Ngài cảm thấy khó chịu vì hình thức bề ngoài ở giáo triều, có lần ngài ngấn lệ nói với một bạn thân: "Hãy coi phẩm phục mà người ta khoác cho tôi đây." Với một người bạn khác, ngài nói: "Đó là sự đền tội khi buộc phải chấp nhận các nghi thức này. Họ dẫn tôi đi với binh lính bao quanh như Đức Giêsu khi bị bắt trong vườn Giệtsimani".
Quá khứ khiêm tốn của Đức Piô X không phải là một cản trợ cho sự tương giao với Thiên Chúa và với người dân mà ngài thực sự quý mến. Ngài có được sức mạnh, sự nhân từ và nhiệt tình đối với dân chúng do bởi nguồn gốc của mọi ơn sủng, đó là Thần Khí Đức Giêsu. Trái lại, chúng ta thường cảm thấy khó chịu vì quá khứ của chúng ta. Sự tủi hổ khiến chúng ta xa rời những người hơn mình. Ngược lại, nếu ở địa vị cao sang, chúng ta thường khinh miệt những người mộc mạc. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng: "mọi sự phải quy phục Đức Kitô" nhất là các người bị tổn thương của Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng mặc cảm về tình trạng nghèo nàn về vật chất của mình, nhưng hãy lo sợ về cái nghèo tinh thần và đạo đức của mình.
Suy niệm 3 Giáo hoàng
Đức Piô X là một trong những giáo hoàng vĩ đại của thế kỷ 20.
Giáo Hoàng là vị Giám Mục của Giáo Phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của các tín hữu Công Giáo, tức là chủ chăn tối cao của Giáo Hội Công Giáo Rôma, tổ chức đã tồn tại hơn 2000 năm qua, và là định chế lâu đời nhất trên thế giới vẫn hoạt động và ảnh hưởng cho đến ngày nay. Giáo Hoàng cũng là người đứng đầu quốc gia Vatican, vương quốc nhỏ nhất thế giới được bao bọc bởi thành phố Rôma.
Theo Giáo Luật Giáo Hội Rôma, với tư cách là nguyên thủ quốc gia, Giáo Hoàng cũng là người có quyền lập pháp, tư pháp và hành pháp trọn vẹn trên quốc gia Vatican. Giáo Hoàng cũng là thủ lãnh các Giám Mục trên toàn thế giới. Giáo Hoàng hiện nay là Đức Bêêđitô XVI, người được bầu trong Mật Nghị Hồng Y vào tháng 4 năm 2005.
* Lạy Chúa Giêsu, xin gìn giữ và bảo vệ Đức Giáo Hoàng để ngài vững tay lèo lái con thuyền Giáo Hội.
Suy niệm 4 Chính trị
Đức Piô X rất lưu tâm đến chính trị.
Vì rất lưu tâm đến chính trị, ngài khuyến khích người Công Giáo Ý tham dự vào sinh hoạt chính trị nhiều hơn. Một trong những hành động đầu tiên khi lên giáo hoàng là ngài chấm dứt sự can thiệp của các nhà cầm quyền vào việc bầu cử giáo hoàng -- là một thói quen đe dọa sự tự do của cơ mật viện khi chọn tân giáo hoàng.
Vào năm 1905, khi Pháp bất đồng với Tòa Thánh và đe dọa sẽ tịch thu tài sản của Giáo Hội nếu không cho phép chính quyền xen vào các vấn đề nội bộ của Giáo Hội, Đức Piô X đã can đảm từ chối thỉnh cầu này.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết rõ phân rõ giới hạn như Chúa dạy: Cái gì của Xêda và cái gì của Thiên Chúa (Mt 22,21).
Suy niệm 5 Thông điệp
Tuy không ban bố các thông điệp xã hội nổi tiếng như vị tiền nhiệm, Đức Piô X đã lên án việc đối xử tệ hại các thổ dân trong các đồn điền.
Ngài cũng sai một ủy ban cứu trợ đến Messina sau trận động đất và xây dựng nơi tạm cư cho các người tị nạn mà chính ngài chịu sự tốn phí.
Các Giáo Hoàng phát biểu hoặc đưa ra các tài liệu từng loại để nhận biết với từng mức độ thẩm quyền có ảnh hưởng chung đến Giáo Hội. Thông Điệp là một trong các loại văn kiện với nội dung thường là để cổ võ, khuyến khích đời sống đức tin, luân lý dựa trên những biến đổi xã hội, thế giới.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà hoạt động xã hội luôn theo sát đường hướng của Giáo Hội qua các thông điệp xã hội.
Suy niệm 6 Chết
Viễn ảnh ấy đã giết ngài chết.
Âu Châu rơi vào cuộc Thế Chiến I. Đức Piô đã thấy trước điều đó, và viễn ảnh ấy đã giết ngài chết. "Đây là sự đau khổ sau cùng mà Chúa gửi đến cho tôi. Tôi sẽ sung sướng hy sinh tính mạng để gìn giữ con cái đáng thương của tôi khỏi tai họa khủng khiếp này". Ngài từ trần sau khi cuộc chiến bắt đầu được vài tuần lễ.
Để diễn tả Đức Piô X, một sử gia viết rằng ngài là "một người của Thiên Chúa biết sự bất hạnh của thế giới và sự khó khăn của đời sống, và với sự cao quý của tâm hồn, ngài muốn an ủi tất cả mọi người".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dám chết vì sứ mạng của mình.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 20/8 Thánh Bernard ở Clairvaux (1091-1153)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Bernard ở Clairvaux (1091-1153)
Ðặc điểm cuộc đời ngài là sự sùng kính Ðức Maria. Các bài giảng và văn bản của ngài về Ðức Maria vẫn còn được coi là tiêu chuẩn của Thánh Mẫu học ngày nay.
Lược sử
Nhân vật của thế kỷ! Phụ nữ của thế kỷ! Chúng ta nghe những câu xưng tụng này quá nhiều đến độ ngày nay câu ấy không còn nhiều ý nghĩa. Nhưng "người của thế kỷ 12" thì chắc chắn phải là Thánh Bernard ở Clairvaux.
Vị cố vấn cho các giáo hoàng, tuyên uý đạo quân Thập Tự Chinh (lần II), người bảo vệ đức tin, người hàn gắn sự li giáo, người canh tân đời sống đan viện, học giả Kinh Thánh, thần học gia và hùng biện gia: bất cứ danh hiệu nào kể trên đều làm nổi nang một người bình thường. Tuy nhiên, Thánh Bernard có tất cả những danh hiệu ấy - nhưng ngài vẫn mong muốn trở về đời sống âm thầm của đan viện.
Vào năm 1111, khi 20 tuổi, Bernard từ giã quê nhà ở Burgundy, nước Pháp, để gia nhập cộng đồng đan sĩ ở Citeaux (Xitô). Bernard làm đan viện trưởng. Ngài có tài phân xử và cố vấn.
Trong cuộc Thập Tự Chinh II, Tòa Thánh thuyết phục được Thánh Bernard nhận làm tuyên úy cho cuộc viễn chinh này. Thánh Bernard cảm thấy phần nào có trách nhiệm trong sự suy sụp của thập tự chinh. Gánh nặng ấy có thể đã dẫn đến cái chết của ngài vào ngày 20 tháng Tám 1153.
Suy niệm 1 "Người của thế kỷ 12"
"Người của thế kỷ 12" thì chắc chắn phải là Thánh Bernard ở Clairvaux.
Ngài thật xứng được danh hiệu ấy với các trách vụ ngài đảm nhận: Vị cố vấn cho các giáo hoàng, tuyên úy đạo quân Thập Tự Chinh (lần II), người bảo vệ đức tin, người hàn gắn sự li giáo, người canh tân đời sống đan viện, học giả Kinh Thánh, thần học gia và hùng biện gia: bất cứ danh hiệu nào kể trên đều làm nổi nang một người bình thường.
Thánh Isidore được gọi là "Sư Phụ của Thời Trung Cổ" vì cuốn bách khoa ngài viết, "Etymology" (Từ Nguyên Học) đã được dùng như sách giáo khoa trong chín thế kỷ. Ngài còn viết các sách về văn phạm, thiên văn, địa lý, sử ký, và tiểu sử cũng như thần học, kể cả một cuốn tự điển, một bộ bách khoa, một cuốn sử người Gô-tích và một cuốn sử thế giới bắt đầu từ khi Thiên Chúa tạo thành trời đất! Ngài hoàn thành bộ phụng tự Mozarabic mà ngày nay vẫn còn được sử dụng ở Toledo, Tây Ban Nha.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho Giáo Hội luôn có được những thánh nhân lỗi lạc để làm sáng danh Chúa và làm cho Nước Chúa sớm trị đến.
Suy niệm 2 Nổi nang
Danh hiệu nào kể trên đều làm nổi nang một người bình thường.
Đâu là chìa khóa giúp Bernard được nổi nang? Đó chính là lòng sùng kính Đức Maria. Cuộc đời Thánh Bernard trong Giáo Hội thì tốt đẹp hơn chúng ta tưởng. Các nỗ lực của ngài tạo nên nhiều kết quả sâu rộng. Nhưng ngài biết, các kết quả ấy chỉ sinh nhiều ích lợi qua các giờ cầu nguyện và chiêm niệm để đem đến cho ngài sức mạnh và đường hướng khôn ngoan. Đặc điểm cuộc đời ngài là sự sùng kính Đức Maria. Các bài giảng và văn bản của ngài về Đức Maria vẫn còn được coi là tiêu chuẩn của Thánh Mẫu học ngày nay.
Ngài tạm sự: "Khi hiểm nguy, khi do dự, khi khó khăn, hãy nghĩ đến Đức Maria, hãy kêu cầu Đức Maria. Đừng để danh ngài tắt ở trên môi bạn, đừng bị đau khổ vì danh ngài không còn trong tâm hồn bạn. Có như thế, bạn mới chắc chắn được sự trợ giúp của lời ngài cầu bầu, đừng sao nhãng theo bước chân ngài. Với sự dẫn dắt của ngài, bạn sẽ không bao giơ lạc lối; khi cầu khẩn ngài, bạn sẽ không bao giờ nhát đảm; một khi có ngài trong tâm trí, bạn sẽ không bị lừa dối; khi được ngài nắm tay, bạn sẽ không thể vấp ngã; với sự phù trì của ngài, bạn không còn gì để sợ hãi; nếu theo ngài, bạn sẽ không mệt mỏi; nếu được ngài ưu đãi, bạn sẽ đạt được mục đích".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con gia tăng lòng sùng kính Đức Maria, không để được nổi danh nhưng để đảm bảo được phần rỗi linh hồn.
Suy niệm 3 Đan viện trưởng
Bernard làm đan viện trưởng.
Thoạt đầu năm người anh em, hai người chú của ngài và khoảng 30 người bạn theo ngài vào đan viện. Trong vòng bốn năm, một cộng đoàn đang tàn lụi đã phục hồi sinh lực đủ để khai sinh một đan viện mới trong thung lũng Wormwoods gần đó, với Bernard làm đan viện trưởng.
Nhiệt huyết của người thanh niên trẻ tuổi này là một đòi hỏi thật khắt khe, nhưng đối với chính ngài hơn là với người khác. Một cơn bệnh nặng đã khiến ngài kiên nhẫn hơn và thông cảm hơn. Không bao lâu, thung lũng này được gọi là Clairvaux, thung lũng ánh sáng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bề trên thật khắt khe với chính mình, nhưng với người thì kiên nhẫn và thông cảm hơn.
Suy niêm 5: Thập Tự Chinh
Trong cuộc Thập Tự Chinh II, Tòa Thánh thuyết phục được Thánh Bernard nhận làm tuyên úy cho cuộc viễn chinh này.
Tài hùng biện của ngài đã giúp thành lập một đạo quân hùng mạnh và dường như đảm bảo cho sự chiến thắng. Tuy nhiên, tiêu chuẩn của các nhà lãnh đạo quân sự thì không giống như chủ trương của Thánh Bernard, và cuộc thập tự chinh đã kết thúc như một thảm họa về luân lý và quân sự.
Thập Tự Chinh là một loạt các chiến tranh tôn giáo, được kêu gọi bởi Giáo Hoàng và tiến hành bởi các vị vua và quý tộc là những người tình nguyện cầm lấy cây thập giá với mục tiêu chính là phục hồi sự kiểm soát của kitô giáo với vùng Đất Thánh. Các cuộc Thập Tự Chinh cũng được chiến đấu chủ yếu giữa người Công Giáo La Mã chống lại người Hồi Giáo và các kitô hữu theo Chính Thống Giáo Đông Phương trong Byzantium, với các chiến dịch nhỏ hơn tiến hành chống lại người ngoại giáo... Thập Tự Chinh được thề và được cấp một ơn toàn xá bởi Đức Giáo Hoàng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dùng Thánh Giá để chống lại địch thù ma quỷ.
Suy niêm 6: Tuyên úy
Trong cuộc Thập Tự Chinh II, Tòa Thánh thuyết phục được Thánh Bernard nhận làm tuyên úy cho cuộc viễn chinh này.
Tuyên úy có chức vụ săn sóc mục vụ trên bình diện thiêng liêng. Thiêng liêng được coi trọng cùng với các chiều kích nhân đạo, tri thức hoặc chuyên nghiệp. Các nhu cầu thiêng liêng và tôn giáo phải được phục vụ thỏa đáng giống như bất cứ người con nào của Thiên Chúa.
Vào khoảng giữa thế kỷ 17, linh mục Vinh Sơn được cử đi làm tuyên úy cho các tù khổ sai bị trói vào những cột chèo lớn trên các thuyển buồm của đế quốc Pháp. Hiện nay một số linh mục Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam hải ngoại đang làm tuyên úy cho các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam, cho trại tù và phục vụ các thanh niên không gia đình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị tuyên úy cũng biết vận dụng các cuộc gặp gỡ cá nhân để hổ trợ tâm lý nữa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 19/8 Thánh Gioan Eudes (1601-1680)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Eudes (1601-1680)
Thánh thiện là mở lòng cho tình yêu của Thiên Chúa. Nó được tỏ lộ dưới nhiều phương cách, nhưng tất cả đều có một đặc tính chung: lưu tâm đến nhu cầu của người khác.
Lược sử
Thánh Gioan Eudes sinh ở Normandy, nước Pháp năm 1601. Ngài là con trai trưởng của một gia đình sống về nghề nông. Ngay khi còn nhỏ, ngài đã noi gương Chúa Giêsu trong cách đối xử với gia đình, bạn hữu và láng giềng.
Cha mẹ của Gioan muốn ngài kết hôn lập gia đình. Nhưng Gioan từ tốn và cương quyết thuyết phục cha mẹ rằng ngài có ơn gọi đi tu. Ngài gia nhập cộng đoàn Oratory và học làm linh mục. Sau khi là linh mục, một trận dịch hạch lớn càn quét Normandy khiến nhiều người chết và đau khổ. Cha Gioan tình nguyện giúp đỡ người đau yếu, chăm sóc thể xác cũng như linh hồn của họ. Sau này, ngài trở thành nhà thuyết giảng nổi tiếng trong các giáo xứ. Cha Gioan cũng góp phần quan trọng trong việc thành lập các dòng tu.
Cha Gioan Eudes rất yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu và Thánh Tâm Đức Maria. Ngài viết sách về sự sùng kính này. Trong một cuộc giảng phòng ngoài trời lạnh, Cha Gioan bị lâm bệnh nặng mà không bao giờ bình phục. Ngài từ trần năm 1680. Đến năm 1908, ngài được Thánh Giáo Hoàng Piô X phong chân phước, và đến năm 1925, ngài được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh.
Suy niệm 1 Noi gương Chúa Giêsu
Ngay khi còn nhỏ, Gioan Eudes đã noi gương Chúa Giêsu trong cách đối xử với gia đình, bạn hữu và láng giềng.
Chuyện kể: Khi lên chín, Gioan bị một đứa hàng xóm tát vào mặt. Thật tức giận, cậu định trả đũa, nhưng Gioan nhớ lời Chúa trong Phúc Âm: "hãy đưa má bên kia," và cậu đã làm như vậy.
Lớn lên, ngài cũng tiếp tục hướng sống ấy để trở nên giống Chúa Giêsu hơn. Ngài chọn lối sống độc thân với ơn gọi tu trì, ngài giúp đỡ người đau yếu, chăm sóc thể xác cũng như linh hồn của họ, ngài đi rao giảng cũng như thành lập các Dòng Tu và Tu Hội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết dùng đời mình để họa lại phần nào nếp sống của Chúa.
Suy niệm 2 Ơn gọi
Gioan Eudes thuyết phục cha mẹ rằng ngài có ơn gọi đi tu.
Ơn gọi là một tiếng gọi yêu thương của Chúa cho con người từ muôn thuở. Tiếng gọi của Người dành cho tôi đã phát xuất từ chính Người, vang vọng vào không gian, vào vũ trụ vô hình bằng những làn sóng mắt thường không trông thấy, và Người mong một ngày nào đó tôi nghe được tiếng gọi đó (LM JBM Phương Anh).
Một cách đơn giản, ơn gọi là một tiếng gọi để tôi hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Kitô, với ý thức rằng không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Người. Ơn gọi là một lời mời gọi để sống trong tình yêu với Thiên Chúa và để minh chứng tình yêu đó (Mẹ Têrêxa Calcutta).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con lắng nghe và đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Suy niệm 4 Nổi tiếng
Gioan Eudes trở thành nhà thuyết giảng nổi tiếng trong các giáo xứ.
Thật vậy, suốt cuộc đời, tổng cộng ngài đã thực hiện 110 cuộc giảng phòng, để rồi trong một cuộc giảng phòng ngoài trời lạnh, ngài bị lâm bệnh nặng mà không bao giờ bình phục.
Ngài cũng nổi tiếng nhờ góp phần quan trọng trong việc thành lập các dòng tu: các nữ tu của Đức Bà Bác Ái và nữ tu Chúa Chiên Lành. Cha Gioan cũng thành lập Tu Hội của Đức Giêsu và Đức Maria dành cho nam giới. Tu hội này chuyên huấn luyện các linh mục tương lai cho giáo xứ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nỗ lực tìm vinh danh Chúa cho dầu có phải bị lâm bệnh mà chết.
Suy niệm 5 Dòng tu
Cha Gioan góp phần quan trọng trong việc thành lập các dòng tu.
Dòng tu là một tổ chức trong đời sống của Giáo Hội Công Giáo, được thành lập do những người tự nguyện sống chung với nhau trong một cộng đoàn gọi là Tu Viện hay Đan Viện nếu là Dòng tu có gốc ẩn tu, để giúp nhau và cùng giúp nhau phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
Theo hướng nhìn thần học, sự xuất hiện một Dòng tu thường bắt đầu từ một "Hứng Khởi Nền Tảng" của Vị sáng lập, trong từng hoàn cảnh lịch sử, để chọn lựa một tính chất hoặc phần vụ riêng biệt cho tập thể của mình, nhưng luôn mưu ích cho Giáo Hội (PC 2b). Nên tuy cũng là hiến dâng cuộc đời cho Thiên Chúa và tha nhân, nhưng lại được thể hiện bằng muôn ngàn cách thế hiện diện, mong họa lại một đôi nét riêng biệt trong toàn bộ cuộc đời của Đức Giêsu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp muôn vàn đóa hao của các Dòng tu mỗi ngày mỗi tô điểm vườn hoa rực sắc cuộc đời Chúa.
Suy niệm 6 Thánh Tâm
Cha Gioan Eudes rất yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu và Thánh Tâm Đức Maria.
Nói đến trái tim, nhất là Thánh Tâm Chúa Giêsu và Thánh Tâm Đức Maria, là nói đến tình yêu với mức đỉnh tuyệt hảo là hiến mạng vì người. Thật hiếm thấy sự tích ghi lại một nam nhân dám chết vì tha nhân. Điều này càng làm nổi bật trường hợp của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Ngài đã hiến mạng vì đàn chiên bằng cái chết trên thập giá.
Giống như Con mình, Thánh Tâm Đức Maria cũng hiến mạng vì nhân loại, dầu không phải bằng cái chết của thân xác nhưng bằng tâm hồn. Trái tim Mẹ đã hoàn toàn tan vỡ khi chấp nhận để Con mình xa nhà mà ra đi rao giảng. Tâm hồn Mẹ đã chết lặng khi dõi theo bước đường thập giá của Con và sẵn sàng hiến tế Người Con Một dấu yêu cho muôn người trên bàn thờ Can Vê.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cũng biết thể hiện tình yêu cao độ bằng việc hiến mình cho Chúa và Mẹ cũng như cho tha nhân.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 18/08 Thánh Jane Frances Chantal, Nữ tu (1562-1641)
- Ngày 17/8 Chân Phước Joan Delanoue (1666-1736)
- Ngày 16/8 Thánh Stêphanô ở Hung Gia Lợi (975-1038)
- Ngày 15/8 Lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
- Ngày 14/8 Thánh Maximilian Mary Kolbe (1894-1941)
- Ngày 13/8 Thánh Pontian và Thánh Hippolytus (k. 235)
- Ngày 11/8 Thánh Clara (1194-1253)
- Ngày 10/8 Thánh Lôrensô (thế kỷ thứ ba)
- Ngày 09/8 Thánh Edith Stein (1891-1942)
- Ngày 08/8 Thánh Ða Minh (1170-1221)