Gương Thánh Nhân
Ngày 17/9 Thánh Robert Bellarmine (1542-1621
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Robert Bellarmine (1542-1621)
Ngài là linh mục dòng Tên đầu tiên làm giáo sư ở Louvain. Công trình nổi tiếng nhất của ngài là bộ sách Tranh Luận về Những Mâu Thuẫn trong đức tin Kitô Giáo.
Lược sử
Khi Robert Bellarmine thụ phong linh mục năm 1570, vấn đề học hỏi lịch sử Giáo Hội và các Giáo Phụ bị lãng quên một cách đáng buồn.
Ngay từ thời thanh niên ở Tuscany, ngài đã có triển vọng là một học giả nổi tiếng, vì ngài dành nhiều thời giờ nghiên cứu về những đề tài nói trên, cũng như Kinh Thánh, để hệ thống hóa học thuyết Công Giáo nhằm đương đầu với các cuộc tấn công của Tin Lành. Công trình nổi tiếng nhất của ngài là bộ sách Tranh Luận về Những Mâu Thuẫn trong đức tin Kitô Giáo. Đặc biệt nhất là các đoạn nói về thế quyền của đức giáo hoàng và vai trò của giáo dân. Trong khi sống ở Vatican, Bellarmine không thua gì các nhà tu khổ hạnh.
Một trong những công việc của ngài là trở nên thần học gia của Đức Giáo Hoàng Clement VIII, và chuẩn bị hai bộ giáo lý có ảnh hưởng rất lớn trong Giáo Hội. Sự khó khăn sau cùng lớn nhất trong đời Bellarmine là năm 1616 khi ngài phải khiển trách người bạn của ngài là Galileo, người mà ngài rất khâm phục. Bellarmine từ trần ngày 17-9-1621. Tiến trình phong thánh cho ngài được bắt đầu năm 1627 nhưng bị đình hoãn cho đến năm 1930 vì lý do chính trị, phát xuất từ các văn bản của ngài.
Vào năm 1931, Đức Giáo Hoàng Piô XI tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Suy niệm 1: Học giả
Ngay từ thời thanh niên ở Tuscany, Bellarmine đã có triển vọng là một học giả nổi tiếng. Nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, triết gia hay các nhà thông thái khác có ảnh hưởng đáng kể trong thế giới ý tưởng thì thường được gọi chung là học giả. Ngài cũng được như thế, vì ngài dành nhiều thời giờ nghiên cứu về những đề tài nói trên, cũng như Kinh Thánh, để hệ thống hóa học thuyết Công Giáo nhằm đương đầu với các cuộc tấn công của Tin Lành.
Ngài là linh mục dòng Tên đầu tiên làm giáo sư ở Louvain. Công trình nổi tiếng nhất của ngài là bộ sách Tranh Luận về Những Mâu Thuẫn trong đức tin Kitô Giáo. Đặc biệt nhất là hai bộ giáo lý có ảnh hưởng rất lớn trong Giáo Hội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn đào sâu Kinh Thánh để sống và để bảo vệ Giáo Hội.
Suy niệm 2: Học thuyết Công Giáo
Bellarmine hệ thống hóa học thuyết Công Giáo. Sự canh tân Giáo Hội mà Công Đồng Vatican II theo đuổi thì thật khó cho nhiều người Công Giáo. Trong sự thay đổi, nhiều người cảm thấy thiếu sót một hướng dẫn vững chắc từ giới có thẩm quyền. Họ mong muốn có những lý luận chính truyền vững như bàn thạch, và một mệnh lệnh cứng cỏi có xác định thẩm quyền hẳn hoi.
Trong văn kiện Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Công Đồng Vatican II đảm bảo chúng ta rằng, "Có nhiều thực thể không thay đổi và có nền tảng thực sự từ Đức Kitô, Đấng hôm qua cũng như hôm nay, và mãi mãi." Thánh Robert Bellarmine đã hy sinh cuộc đời để nghiên cứu Kinh Thánh và học thuyết Công Giáo. Các văn bản của ngài giúp chúng ta hiểu rằng, không chỉ có nội dung đức tin là quan trọng, mà còn chính con người sống động của Đức Giêsu Kitô--như được biểu lộ qua sự sống, sự chết và sự sống lại của Người--đó là nguồn gốc của ơn cứu độ.
Nguồn gốc thực sự của đức tin không chỉ là mớ lý thuyết nhưng đúng hơn là con người của Đức Kitô hiện đang sống động trong Giáo Hội ngày nay. Khi từ giã các tông đồ, Chúa Giêsu đảm bảo với họ về sự hiện diện sống động của Người: "Khi Thần Khí của chân lý đến, Ngài sẽ dẫn dắt anh em đến chân lý toàn vẹn" (x. Gioan 16,30).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con lưu ý đến việc sống đức tin, vì đức tin không việc làm là đức tin chết (Gc 2,17.16).
Suy niệm 3: Thế quyền
Các đoạn nói về thế quyền của đức giáo hoàng và vai trò của giáo dân. Ngài chọc tức cả nước Anh và nước Pháp khi chủ trương rằng thần quyền của các vua chúa không thể tồn tại. Ngài khai thác học thuyết về thẩm quyền gián tiếp của đức giáo hoàng trong các giao tế nhân sự; mặc dù ngài bảo vệ đức giáo hoàng chống với triết gia Barclay, ngài cũng bị Đức Giáo Hoàng Sixtus V tức giận. "Chia sẻ mối quan tâm với tất cả giáo hội, các giám mục hành xử quyền bính của mình, mà họ đã lãnh nhận qua lễ tấn phong, trong sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng Tối Cao và dưới quyền của người. Tất cả kết hợp thành một tập thể hay thân thể để giảng dạy về Giáo Hội hoàn vũ của Thiên Chúa và để điều hành giáo hội như các mục tử" (Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của Các Giám Mục, 3).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà cầm quyền dân sự biết tôn trọng chứ không xen vào nội bộ của Giáo Hội.
Suy niệm 4: Khổ hạnh
Bellarmine không thua gì các nhà tu khổ hạnh. Ngài giới hạn các chi tiêu cá nhân tới mức tối đa chỉ còn những gì thật cần thiết, ngài ăn các thực phẩm dành cho người nghèo. Được biết là ngài đã chuộc một người lính bị sa thải khỏi quân đội, và dùng các màn cửa trong dinh cơ của ngài để may quần áo cho người nghèo, vì theo ngài nói, "Các vách tường không thể bị cảm lạnh được."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khi được may mắn dư giả thì cũng biết giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu (2Cr 8,14).
Suy niệm 5: Thần học gia
Một trong những công việc của ngài là trở nên thần học gia của Đức Giáo Hoàng Clement VIII. Ngài đã chuẩn bị hai bộ giáo lý có ảnh hưởng rất lớn trong Giáo Hội. Cũng nhờ vậy ngài được Đức Giáo Hoàng Clement VIII tấn phong hồng y là vì "ngài chưa được những gì xứng với tài học." Vào năm 1931, Đức Giáo Hoàng Piô XI tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Lỗi lạc về mặt giáo lý, nhưng chưa hẳn là tài ba về các lãnh vực khác như khoa học... Chính vì thế ngài đã vấp phải một sai lầm trong vụ Galileo. Theo các chỉ thị của Tòa Án Dị Giáo Rô Ma , ngài ra lệnh cho ông "không tin hay bảo vệ" ý tưởng rằng Trái Đất di chuyển và Mặt Trời đứng yên ở trung tâm. Đây là một thí dụ điển hình cho thấy các thánh vẫn có thể sai lầm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn nhận ra sự hiểu biết hạn hẹp của mình trong nhiều lãnh vực.
Suy niệm 6: Vụ Galileo
Bellarmine phải khiển trách người bạn của ngài là Galileo, người mà ngài rất khâm phục. Bellarmine đại diện cho Tòa Thánh chuyển trao văn thư cảnh cáo, mà trong đó quyết định rằng lý thuyết về thái dương hệ của Galileo thì trái với Kinh Thánh. Sự khiển trách chung quy là một lời cảnh cáo đừng đề cao các lý thuyết chưa được hoàn toàn chứng minh -- khác với giả thuyết.
Quan điểm địa tâm đã là thống trị từ thời Aristote, và sự tranh cãi nảy sinh sau khi Galileo trình bày thuyết nhật tâm như một minh chứng khiến Giáo Hội Công Giáo Rô Ma cấm tuyên truyền nó như một sự thực đã được chứng minh, vì nó chưa được chứng minh theo kinh nghiệm ở thời điểm ấy và trái ngược với ý nghĩa của Kinh Thánh. Galieo cuối cùng buộc phải từ bỏ thuyết nhật tâm của mình và sống những ngày cuối đời trong cảnh bị quản thúc tại gia theo lệnh của Tòa Án Dị Giáo Rô Ma.
Vào ngày 31/11/1992, Đức Gioan Phaolô II thể hiện sự hối tiếc về cách phán xét vụ Galileo. Tháng 3/2008, Vatican hoàn thành việc phục hồi cho Galieo bằng cách dựng một bức tượng ông bên trong những bức tường thành Vatican. Tháng 12 cùng năm, Đức Bênêđitô XVI đã ca ngợi những đóng góp của ông cho thiên văn học.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết khiêm tốn và anh dũng nhận lấy sai trái để phục hồi danh dự cho người.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 16/9 Thánh Cornelius (c. 253)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Cornelius (c. 253)
Những người như Thánh Cornelius và Thánh Cyprian là công cụ của Thiên Chúa để giúp Giáo Hội tìm ra con đường khôn ngoan giữa hai thái cực của sự nghiêm khắc và sự lỏng lẻo.
Lược sử
Sau khi Thánh Fabian tử vì đạo thì Giáo Hội thời bấy giờ không có giáo hoàng trong vòng 14 tháng, vì sự bách hại quá mãnh liệt. Trong thời gian ấy, Giáo Hội được điều hành bởi một tập thể linh mục. Cyprian, một người bạn của Cornelius, viết lại rằng Cornelius được chọn làm giáo hoàng.
Trong thời gian hai năm Thánh Cornelius làm giáo hoàng, vấn đề lớn nhất thời bấy giờ có liên quan đến Bí Tích Hòa Giải và nhất là vấn đề tái gia nhập Giáo Hội của các Kitô Hữu đã chối đạo trong thời kỳ bị bách hại. Cả hai thái cực đều bị lên án. Tuy nhiên, ở Rôma, Đức Cornelius lại gặp một quan điểm đối nghịch khác.
Sau cuộc bầu giáo hoàng, một linh mục tên Novatian (một trong những người điều hành Giáo Hội) tự mình tấn phong làm Giám Mục Rôma - giáo hoàng đối lập thứ hai. Thánh Cornelius từ trần vì hậu quả của sự lưu đầy ở phần đất bây giờ là Civita Vecchia.
Suy niệm 1: Không có giáo hoàng
Sau khi Thánh Fabian tử vì đạo thì Giáo Hội thời bấy giờ không có giáo hoàng trong vòng 14 tháng, vì sự bách hại quá mãnh liệt. Với ý đồ đánh chủ chăn thì đoàn chiên sẽ tan tác (Mt 26,31), người cầm đầu cuộc bách hại dã giết Đức Fabian khiến Giáo Hội trồng ngôi giáo hoàng suốt 14 tháng.
Nhưng Giáo Hội vẫn trường tồn như lời Chúa khẳng định (Mt 16,18) nhờ vào ơn Chúa cũng như tập thể các linh mục. Thật thế, trong thời gian ấy, Giáo Hội được điều hành bởi một tập thể linh mục. Một tài liệu từ thời Đức Cornelius cho thấy sự phát triển của Giáo Hội Rôma trong giữa thế kỷ thứ ba mà lúc ấy gồm 46 linh mục, bảy phó tế, bảy trợ phó tế. Số Kitô Hữu được ước lượng khoảng 50.000 người.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn vững tin vào sự trường tồn của Giáo Hội Chúa.
Suy niệm 2: Chọn
Cornelius được chọn làm giáo hoàng. Ngài được chọn "bởi quyết định của Thiên Chúa và của Đức Kitô, bởi sự chứng thực của hầu hết mọi giáo sĩ, bởi lá phiếu của người dân, với sự đồng ý của các linh mục lớn tuổi và những người thiện chí".
Sự lựa chọn này được đánh giá là hợp pháp với các yếu tố nêu trên, nên ngài là vị giáo hoàng chính thức và hợp pháp, không như trường hợp của linh mục Novatian tự mình tấn phong làm Giám Mục Rôma để trở thành vị giáo hoàng đối lập đầu tiên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn canh phòng như lời tiên báo của Chúa là sẽ có Kitô giả và ngôn sứ giả xuất hiện (Mt 24,24).
Suy niệm 3: Thái cực
Cả hai thái cực đều bị lên án. Đức Cyprian, giám mục của Phi Châu, yêu cầu đức giáo hoàng xác định lập trường mà Đức Cyprian chủ trương, đó là người bội giáo chỉ có thể hòa giải bởi quyết định của vị giám mục (trái với thông lệ thật dễ dãi của Novatus). Thật đúng để nói rằng trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều giáo thuyết lầm lạc được đưa ra vào một thời điểm nào đó. Thế kỷ thứ ba đối diện với một vấn đề mà ít khi chúng ta để ý đến -- một khi đã phạm tội trọng thì phải sám hối trước khi giao hòa với Giáo Hội.
Những người như Thánh Cornelius và Thánh Cyprian là công cụ của Thiên Chúa để giúp Giáo Hội tìm ra con đường khôn ngoan giữa hai thái cực của sự nghiêm khắc và sự lỏng lẻo. Họ là những phần tử của một Giáo Hội truyền thống đầy sinh động, nhằm đảm bảo tính cách liên tục của những gì đã được Đức Kitô khởi sự, và lượng giá những cảm nghiệm mới qua sự khôn ngoan và kinh nghiệm của những người đi trước.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn trung thành với giáo huấn của Chúa trong mọi vấn đề.
Suy niệm 4: Lạc thuyết Novatian
Sau cuộc bầu giáo hoàng, một linh mục tên Novatian (một trong những người điều hành Giáo Hội) tự mình tấn phong làm Giám Mục Rôma -- giáo hoàng đối lập đầu tiên. Novatian chủ trương rằng, không những người bội giáo, mà ngay cả những người phạm tội sát nhân, tội ngoại tình, tội gian dâm hay người tái hôn thì Giáo Hội cũng không có quyền tha tội!
Đức Cornelius được sự hỗ trợ của hầu hết mọi người trong Giáo Hội (nhất là Đức GM Cyprian ở Phi Châu) để lên án chủ thuyết của Novatian, dù rằng giáo phái này kéo dài trong vài thế kỷ. Vào năm 251, Đức Cornelius triệu tập thượng hội đồng ở Rôma và ra lệnh những người "sa ngã" được hòa giải với Giáo Hội qua "bí tích hòa giải" thông thường.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quyết tâm thà làm một giáo dân hợp pháp còn hơn làm một vị lãnh đạo bất hợp pháp.
Suy niệm 5: Giáo hoàng đối lập thứ hai
Sau cuộc bầu giáo hoàng, một linh mục tên Novatian (một trong những người điều hành Giáo Hội) tự mình tấn phong làm Giám Mục Rôma - giáo hoàng đối lập thứ hai.
Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, đã từng có một số người tự nhận hay hành xử quyền Giáo Hoàng một cách không hợp pháp. Người Công Giáo gọi họ giáo hoàng giả (hay ngụy giáo hoàng hoặc giáo hoàng đối lập). Tờ Annuario Pontificio của Tòa Thánh ghi lại có 37 giáo hoàng giả. Giáo Hoàng giả đầu tiên là linh mục Hippolitô, ngài quá nhiệt thành với Phụng Vụ. Khi đó Phụng Vụ đều đọc các bài sách thánh trong ngôn ngữ Hy Lạp, nên giáo dân Rô Ma không hiểu gì mấy. Đức Callistô muốn dân chúng hiểu Phụng Vụ, nên ủng hộ việc đọc bằng tiếng Latinh ít là cho dân Rô Ma. Hippolitô phản đối việc đó và tách khỏi Giáo Hội khoảng năm 223.
Năm 235, cả Giáo Hoàng thật (thánh Pontianô) và giả cùng bị vua Rô Ma bắt lưu đày ở Sardina và đã làm hòa, cùng chịu tử đạo và làm thánh. Trong số các vị còn lại, rải rác từ thế kỷ III cho đến đầu thế kỷ XV, có vị rút lui trong một ngày, có vị một tháng, có vị lâu dài. Đa số vì hiểu lầm, nhưng ảnh hưởng chính trị và hoàn cảnh của thời xưa (đế quốc và phong kiến) cũng đóng một vai trò quan trọng. (LM Đào quang Chính OP)
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín lập trường của thánh Cyprian: "Chỉ có một Thiên Chúa và một Đức Kitô và một ngôi tòa giám mục, được xây dựng đầu tiên trên Thánh Phêrô bởi quyền năng Thiên Chúa. Do đó, không thể nào đặt ra một bàn thờ khác hay một tư tế khác. Bất cứ gì người ta thiết lập ra trong khi tức giận hay hấp tấp, bất chấp quy luật của Thiên Chúa, chỉ là một quy tắc giả mạo, trần tục và phạm thượng" (Thánh Cyprian, Sự Hiệp Nhất của Giáo Hội Công Giáo).
Suy niệm 6: Lưu đầy
Thánh Cornelius từ trần vì hậu quả của sự lưu đầy ở phần đất bây giờ là Civita Vecchia. Để miêu tả cảnh khổ đau này, sách Isaia Đệ Nhị chương 40-55 dùng kiểu nói diễn tả nỗi khổ nhục thê thảm của kiếp sống lưu đày: Đưa lưng cho người ta đánh đòn, ám chỉ hình phạt dành cho người ngu dại bị coi như đồng hạng với thú vật; giơ má cho người ta giật râu, ám chỉ đến danh dự và lột mất phẩm giá của một con người; chường mặt cho người ta phỉ nhổ, ám chỉ mọi hành động xúc phạm và khinh rẻ phẩm giá của một người cũng như sự sống của một người.
Tất cả cảnh sống trên đây diễn tả cảnh sống nhục nhã, bị khinh miệt và khổ đau dân Do Thái và những người bị lưu đày, đặc biệt các chức sắc của Giáo Hội phải chịu trong cảnh lưu đày.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhìn vào Chúa là Người Tôi Tớ Khổ Đau tuyệt vời để thấy được ý nghĩa và giá trị cứu độ của khổ đau.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 15/9 Đức Mẹ Sầu Bi
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Đức Mẹ Sầu Bi
Thánh Ambrôsiô coi Ðức Maria như một hình ảnh sầu muộn nhưng đầy uy quyền ở chân thánh giá.
Trong một thời kỳ có đến hai ngày lễ để tôn kính sự Sầu Bi của Ðức Mẹ: một ngày lễ xuất phát từ thế kỷ thứ 15, ngày lễ kia từ thế kỷ thứ 17. Trong một thời gian cả hai ngày lễ đều được Giáo Hội hoàn vũ cử hành: một lễ vào ngày thứ Sáu trước Chúa Nhật Lễ Lá, một lễ trong tháng Chín.
Những dữ kiện chính yếu trong phúc âm đề cập đến sự sầu muộn của Ðức Mẹ là trong các đoạn của Thánh Luca 2:35 và Gioan 19:26-27. Ðoạn phúc âm theo Thánh Luca, là lời tiên đoán của cụ Simeon về một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Ðức Maria; đoạn của Thánh Gioan nói về lời trăn trối của Ðức Kitô với Ðức Maria và người môn đệ yêu dấu.
Nhiều học giả thời Giáo Hội tiên khởi giải thích lưỡi gươm như sự sầu muộn của Ðức Maria, nhất là khi nhìn Ðức Giêsu chết trên thập giá. Do đó, hai đoạn này có liên hệ với nhau, như điều tiên đoán đã được thể hiện.
Ðặc biệt Thánh Ambrôsiô coi Ðức Maria như một hình ảnh sầu muộn nhưng đầy uy quyền ở chân thánh giá. Ðức Maria đứng đó một cách không sợ hãi, trong khi những người khác lẩn trốn. Ðức Maria nhìn đến các thương tích của Con mình với lòng thương cảm, nhưng qua đó ngài nhìn thấy sự cứu chuộc nhân loại. Khi Ðức Giêsu bị treo trên thập giá, Ðức Maria không sợ bị chung số phận nhưng sẵn sàng nộp mình cho kẻ bách hại.
Lời Bàn
Tường thuật của Thánh Gioan về cái chết của Ðức Giêsu có nhiều ý nghĩa biểu tượng. Khi Ðức Giêsu trao người môn đệ thân yêu cho Ðức Maria, chúng ta được mời gọi kính trọng vai trò Ðức Maria trong Giáo Hội: Ngài tượng trưng cho Giáo Hội; người môn đệ đại diện cho mọi tín hữu. Khi Ðức Maria làm mẹ Ðức Giêsu, ngài là mẹ của tất cả những ai theo Ðức Kitô. Hơn thế nữa, khi Ðức Giêsu chết, Thần Khí của Người thoát ra. Ðức Maria và Thần Khí ấy cộng tác với nhau để sinh ra con cái mới của Thiên Chúa - rất giống như sự tường thuật của Thánh Luca về việc thụ thai Ðức Giêsu. Kitô hữu có thể tin tưởng rằng họ sẽ tiếp tục cảm nghiệm được sự hiện diện yêu thương của Ðức Maria và Thần Khí Ðức Giêsu trong cuộc đời mình và qua lịch sử.
Lời Trích
"Dù dưới chân thập giá ngài vẫn giữ địa vị của mình, đứng ở đó như một người mẹ thê lương chan hòa nước mắt, để được gần Ðức Giêsu cho đến hơi thở cuối cùng. Qua tấm lòng của người mẹ, sự đau buồn của Ðức Giêsu như được chia sẻ, cũng như mọi thống khổ cay đắng Người phải gánh chịu. Giờ đây, lưỡi gươm đã thâu qua" (Stabat Mater).
Suy niệm Lễ Đức Mẹ Sầu Bi
(Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)
Ngày 14/9 Sự Chiến Thắng của Thánh Giá
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3,14-15) Suy tôn thánh giá là suy tôn Đấng chấp nhận chịu chết trên thập giá để cứu độ chúng ta. Bạn có sẵn sàng vác thập giá của mình để đi theo làm môn đệ Ngài không?
Lược sử
Lược sử Vào đầu thế kỷ thứ tư, Thánh Helena, mẹ của Hoàng Đế La Mã Constantine, đến Giêrusalem để tìm kiếm các nơi linh thiêng mà Đức Kitô đã từng đặt chân đến. Thánh nữ san bằng Đền Aphrodite (thần Hy Lạp) mà truyền thuyết cho rằng được xây trên phần mộ của Đấng Cứu Thế, và sau đó Constantine đã xây Đền Mộ Thánh lên trên. Trong cuộc đào xới, các công nhân tìm thấy ba thập giá. Truyền thuyết nói rằng một thập giá được coi là của Đức Giêsu khi thập giá ấy chữa lành một phụ nữ đang hấp hối khi thập giá chạm vào bà. Ngay sau đó, thập giá ấy trở nên mục tiêu cho sự sùng kính.
Cho đến ngày nay, các Giáo Hội Đông Phương, Công Giáo cũng như Chính Thống Giáo đều cử hành ngày Tôn Kính Thánh Giá vào tháng Chín để kỷ niệm ngày cung hiến Đền Mộ Thánh. Ngày lễ này được du nhập vào niên lịch Tây Phương trong thế kỷ thứ bảy.
Suy niệm 1: Thánh Helena
Thánh Helena, mẹ của Hoàng Đế La Mã Constantine, đến Giêrusalem để tìm kiếm các nơi linh thiêng mà Đức Kitô đã từng đặt chân đến. Ngài là vợ của hoàng đế Constantius và là mẹ của hoàng đế Constantine I. Ngài trở thành một kitô hữu khi tuổi đã lớn. Đức tin và lòng sùng đạo của ngài đã ảnh hưởng rất nhiều đến Constantine, con trai của ngài và là vị hoàng đế đầu tiên chịu phép rửa tội. Ngài đã không ngần ngại dùng tiền bạc của mình để lo nhiều việc từ thiện và xây dựng các ngôi thánh đường. Khi hoàng đế có ý định xây một thánh đường trên đỉnh núi Canvê, ngài dù đã ở tuổi 80, nhưng ngài vẫn quyết lên Giêrusalem với hy vọng tìm lại cây thánh giá thật của Chúa Giêsu.
Sau nhiều năm làm việc, ba cây thập tự đã được tìm thấy trên núi Canvê cùng với các mũi đinh và tấm bản gắn trên thập giá. Ngài cho xây một thánh đường ngay trên đỉnh núi Canvê và cho đặt thánh tích quý báu là Cây Thánh Giá của Chúa Giêsu trong cung thánh. Ngài còn cho xây một thánh đường khác trên núi Olive. Ngài trở lại La mã và chết vào năm 330.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết đặt thánh giá Chúa trong cung thánh tâm hồn chúng con.
Suy niệm 2: Đền Aphrodite
Thánh nữ san bằng Đền Aphrodite (thần Hy Lạp). Trong thần thoại Hy Lạp, nữ thần Aphrodite là thần của tình yêu, sắc đẹp và sự sinh nở và cũng là thần hộ mệnh của thủy thủ. Tương đương của thần này trong thần thoại La Mã là Venus. Theo sử thi Iliad của Homer, thì Aphrodite là con gái của Zeus và Dione. Trước tiên nàng đến đảo Kythira, nhưng khi thấy rằng đó chỉ là một đảo nhỏ nên nàng đến Peloponnese, và cuối cùng ở lại Paphos, nơi này sẽ là nơi thờ phụng chính của nàng và các nơi khác bằng các đền.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết anh dũng đập phá các đền thờ các thần tượng ma quỷ trong tâm hồn chúng con, để chỉ thờ phượng duy chỉ một mình Chúa thôi.
Suy niệm 3: Truyền thuyết
Truyền thuyết nói rằng một thập giá được coi là của Đức Giêsu khi thập giá ấy chữa lành một phụ nữ đang hấp hối khi thập giá chạm vào bà. Truyền thuyết là tên gọi dùng để chỉ môt nhóm những sáng tác dân gian mà đặc điểm chung của chúng thể hiện các yếu tố kỳ diệu, huyền tưởng, nhưng lại được cảm nhận là xác thực, diễn ra ở ranh giới thời gian lịch sử và thời gian thần thoại, hoặc diễn ra ở thời gian lịch sử.
Các quốc gia trên thế giới nói chung đều có nhiều truyền thuyết của riêng mình. Dầu chúng không có căn bản lịch sử và khoa học, nhưng cũng rất đáng trân trọng, vì vẫn hàm chứa một giá trị cao quý nào đó.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con kiên tâm vác lấy cây thánh giá thật rất thật là các thử thách gặp phải hằng ngày.
Suy niệm 4: Sùng kính
Ngay sau đó, thập giá ấy trở nên mục tiêu cho sự sùng kính. Vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh ở Giêrusalem, theo lời một nhân chứng, thập giá được lấy ra khỏi hộp đựng bằng bạc, và được đặt trên bàn cùng với tấm bảng nhỏ có ghi hàng chữ mà Philatô đã ra lệnh treo trên đầu Đức Giêsu. Sau đó "từng người một đến kính viếng; tất cả đều cúi đầu; trước hết họ dùng trán sau đó dùng mắt để chạm đến thập giá và tấm bảng; và sau khi hôn kính thập giá họ mới lui bước."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quý trọng và sốt sắng tham dự nghi thức hôn chân vào mỗi thứ Sáu Tuần Thánh.
Suy niệm 5: Tôn Kính Thánh Giá
Cho đến ngày nay, các Giáo Hội Đông Phương, Công Giáo cũng như Chính Thống Giáo đều cử hành ngày Tôn Kính Thánh Giá vào tháng Chín để kỷ niệm ngày cung hiến Đền Mộ Thánh. Ngày nay thập giá là biểu tượng chung cho đức tin Kitô Hữu. Biết bao thế hệ các nghệ nhân đã biến thập giá thành một sản phẩm nghệ thuật để rước hoặc mang trên người như đồ trang sức. Đối với con mắt của các Kitô Hữu tiên khởi, thập giá không đẹp đẽ gì. Nó được dựng bên ngoài các cổng thành, trên đó có treo xác chết như đe dọa bất cứ ai không tuân lệnh nhà cầm quyền La Mã -- kể cả các lạc giáo không chịu thờ cúng các tà thần của người La Mã.
Mặc dù các tín hữu đề cập đến thập giá như một khí cụ trong sự cứu chuộc, ít khi thập giá xuất hiện trong nghệ thuật Kitô Giáo cho đến sau khi Constantine ban bố sắc lệnh khoan dung. "Thập giá Đức Kitô thật tráng lệ là dường nào! Nó đem lại sự sống chứ không phải cái chết; sự sáng chứ không phải tối tăm; thiên đàng chứ không phải sự mất mát. Đó là mảnh gỗ mà trên đó Chúa Giêsu, như một chiến sĩ cao cả, bị thương tích nơi chân tay và cạnh sườn, nhưng nhờ đó đã chữa lành các thương tích của chúng ta. Cây trái cấm đã tiêu hủy chúng ta, bây giờ một cây khác đem lại sự sống cho chúng ta" (Theodore Studios)
* Lạy Chúa Giêsu, vì dấu thánh giá, xin chữa chúng con cho khỏi mọi sự dữ.
Suy niệm 6: Ngày lễ
Ngày lễ này được du nhập vào niên lịch Tây Phương trong thế kỷ thứ bảy. Theo chứng cứ từ xưa, lễ này ghi nhớ ngày tìm được Thánh Giá Chúa Giêsu đã chịu tử nạn. Ngày lễ này sau đó lan rộng trong Giáo Hội Tây Phương sau khi Hoàng Đế Heraclius khôi phục được thập giá này khỏi tay người Ba Tư mà họ đã chiếm đoạt vào năm 614, trước đó 15 năm, và không bao lâu đã được mừng kính trong toàn thể Giáo Hội.
Theo một truyện kể, vị hoàng đế mặc hoàng bào lộng lẫy, uy nghi trang trọng, định tự mình vác thập giá ấy vào Giêrusalem, nhưng không thể nào tiến bước được. Giám mục Giêrusalem lúc ấy là Zecariah đã giải thích rằng: để vác được thánh giá, nhà vua phải noi gương khó nghèo của Chúa Giêsu, Đấng không dính bén của cải giàu sang trần thế. Hoàng đế Heraclius lập tức cởi bỏ hoàng bào và mặc y phục đơn sơ của một người nghèo hèn đi chân đất. Khi ấy, vua đã vác được thánh giá lên đỉnh đồi Canvê.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mỗi khi làm dấu thánh giá thì nhắc nhở mình hãy sống khó ngheo theo gương Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 13/09 Thánh Gioan Kim Khẩu (347 – 407)
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
THÁNH GIOAN KIM KHẨU – GIÁM MỤC, TIẾN SĨ HỘI THÁNH. (347 – 407)
Thánh Gioan Kim Khẩu sinh tại Antiôchia nước Syria, năm 347, cha Ngài là một sĩ quan quân đội, đã qua đời ít lâu sau khi Ngài sinh ra. Mẹ Ngài goá bụa vào tuổi đôi mươi đã từ khước tái hôn để dành trọn tình mẫu tử vào việc giáo dục con cái. Vì vậy thánh nhân liên tiếp được hướng dẫn sống đời cầu nguyện thinh lặng. Gioan còn được mẹ ký thác cho Libaniô, nhà hùng biện thời đó, dạy cho thuật ăn nói. Thánh nhân nhanh chóng bắt kịp rồi qua mặt thầy về khoa này. Một ngày kia, khi đọc bài tập của Gioan, Libanio đã phải thốt lên : – "Phúc cho những hoàng đế nào được tán tụng như vậy".
Hai mươi tuổi, Gioan đã biện hộ trứơc tòa án với một tài năng đặc biệt khiến nhiều người thán phục. Gioan một thời gian đã để mình bị lôi cuốn theo nhiệt tình của dân chúng. Nhưng rồi Ngài đã sớm nhận ra mối nguy của danh vọng và dứt khoát giã từ pháp đình để tự hiến cho Thiên Chúa. Sau khi học thánh kinh, Ngài theo thánh Meletô (+381). Giám mục Antiochia, là đấng đã dạy dỗ, rửa tội và phong cho Ngài tác vụ đọc sách.
Năm 374, thánh Gioan ẩn mình trong miền núi Syria, thụ giáo với tư sĩ thánh thiện trong 4 năm. Sau đó Ngài ẩn mình trong một hang đá hai năm để cầu nguyện và học hỏi Kinh thánh. Ngã bệnh vì cuộc sống quá khắc khổ, Ngài trở lại Antiochia và được thánh Melatiô phong chức phó tế năm 318. Năm 386, Ngài thụ phong linh mục và bắt đầu giảng dạy, một phận vụ lúc ấy chỉ do các giám mục phụ trách. Suốt 38 năm, tài lợi khẩu của Ngài thật đăc biệt có sức lôi cuốn cả dân thành Antiochia.
Ngày 26 tháng 2 năm 398, thánh Gioan được tấn phong giám mục thành Constantinople. Ngài mau mắn sửa đổi lại tòa giám mục. Bán của cải, Ngài phân phát cho người nghèo khó và xây dựng một nhà thương, Ngài lo lắng nhổ tận gốc rễ những lạm dụng trong giáo đoàn. Với tất cả sự hùng biện, Ngài công kích những vô kỷ luật xa hoa, ngay tại triều đình. Bà vận động chống lại thánh nhân.
Ngài nói : – "Hãy nói với Hoàng Hậu rằng: Gioan Kim Khẩu chỉ sợ có một điều, không phải lưu đày tù tội, cũng không phải nghèo túng và phải chết đi nữa, mà chỉ sợ phạm tội thôi".
Và Ngài đã bị lưu đày nơi Cucuusus ở Armenia. Đức giám mục tại đó tiếp đón Ngài nồng hậu. Đức giáo hoàng Innocentê I, gởi đặc sứ tới Constantinople triệu tập một công đồng để dàn xếp nội vụ. Nhưng các thành viên bị tống giam và thánh Gioan Kim Khẩu còn bị lưu đầy đi xa hơn nữa. Lúc ấy Ngài đã già nua. Cuối cùng Ngài bị bất tỉnh và được đưa vào nguyện đường thánh Basiliô gần miền Cappadocia. Nơi đây sau khi chịu các phép bí tích cuối cùng,
Ngài qua đời ngày 14 tháng 9 năm 407. Năm 438 xác thánh nhân được long trọng rước về Constantinople. Vị tân hoàng đế và em gái ông đã hối hận vì tội lỗi của cha mẹ họ.
Kim Khẩu có nghĩa là miệng vàng. Tài lợi khẩu và việc rao giảng đã khiến cho thánh nhân xứng đáng mang danh hiệu này. Tên Ngài cũng dính liền với phụng vụ thánh Gioan Kim Khẩu, thịnh hành ở Đông phương.
Tuy nhiên thánh nhân nổi tiếng vì chính con người của Ngài hơn là tài giảng thuyết. Ngài là một khuôn mặt có ảnh hưởng lớn lao và sống động thời đó. Qua các bài giảng của Ngài, chúng ta thấy phản ảnh một con người nhẫn nại và đầy sức sống. Qua các tác phẩm và nhất là qua các thư từ của Ngài, ngày nay chúng ta có được cảm giác sống động thế nào là một con người đầy nhân bản.
(daminhvn.net)
Ngày 12/9 Thánh Pedro de Corpa và Các Bạn (k. 1597)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Pedro de Corpa và Các Bạn (k. 1597)
Năm vị tu sĩ này bị tử đạo ở Georgia vì họ chống đối chế độ đa thê trong hôn nhân Kitô Giáo.
Lược sử
Năm vị tu sĩ này bị tử đạo ở Georgia vì họ chống đối chế độ đa thê trong hôn nhân Kitô Giáo.Vào năm 1565 Tây Ban Nha thiết lập một vị trí phòng thủ và khu quân sự ở St. Augustine, Florida.
Cha Pedro de Corpa từ Tây Ban Nha đến Florida năm 1587 và trong cùng năm đó ngài đi truyền giáo cho người Guale ở Georgia. Cha Pedro làm việc ở Tolomato (gần Darien hiện nay) là nơi ngài giúp nhiều người Guale trở lại đạo và giúp vị tù trưởng điều hành ngôi làng Kitô Giáo này.
Juanillo, con trai vị tù trưởng, sa vào đường đa thê và được khuyên nên từ bỏ. Hắn từ chối và công khai khước từ cũng như bị tước quyền kế vị cha mình. Juanillo bỏ đi, nhưng thực ra là để tìm cách trả thù các tu sĩ. Vài ngày sau đó họ giết Cha Pedro vào ngày 13-9-1597.
Cha Blas de Rodriguez từ Tây Ban Nha đến Florida năm 1580. Ngài là bề trên của năm vị tử đạo. Juanillo và đồng bọn đã giết Cha Blas vào ngày 16-9 tại làng Tupiqui (gần Eulonia bây giờ).
Cha Miguel de Anon đến Georgia năm 1595; Thầy Antonio de Badajoz cũng đến đây năm 1587. Họ cùng làm việc ở bán đảo St. Catherine khi Juanillo và đồng bọn đã giết các ngài vào ngày 17-9.
Cha Francisco de Berascola đến Geogia từ 1595 và thành lập "Misión Santo Domingo de Asao" trên đảo St. Simon. Ngài bị Juanillo giết vào ngày 18-9. Vào năm 1605 công cuộc truyền giáo cho người Guale được tái lập. Họ lại tiếp tục phát triển cho đến khi thực dân Anh đến và tiêu diệt họ vào năm 1702.
Suy niệm 1: Hôn nhân Kitô Giáo
Năm vị tu sĩ này bị tử đạo ở Georgia vì họ chống đối chế độ đa thê trong hôn nhân Kitô Giáo.
Một đặc tính cơ bản của hôn nhân Kitô Giáo là đôi phối ngẫu nam nữ phải chung thủy với nhau một vợ một chồng đến suốt đời, chỉ khi nào một trong hai người chết thì người còn sống mới có quyền được tái giá nếu muốn, tuy nhiên không thiếu trường hợp người còn sống vẫn chấp nhận ở góa đến mãn đời và thường là giới nữ.
Điều gì sẽ xảy ra nếu Cha Pedro de Corpa và các linh mục không dạy giáo huấn một vợ một chồng trong hôn nhân Kitô Giáo? Họ sẽ phản bội chính Phúc Âm mà vì đó họ đến rao giảng. Theo Chúa Giêsu luôn luôn dẫn đến những lựa chọn khó khăn mà cuối cùng là thập giá.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc vợ chồng luôn sống thủy chung ngay cả trong phạm vi tư tưởng.
Suy niệm 2: Đa thê
Juanillo, con trai vị tù trưởng, sa vào đường đa thê. Thật ra chế độ đa thê và ly dị đã có từ xưa trong xã hội, nhưng nó được đặt lại cho dân Chúa từ thời ông Maisen. Chính ông đã cho phép hợp thức hóa, quy định luật và làm thành thủ tục (Đnl 24,1).
Luật này vẫn tồn tại cho tới thời Chúa Giêsu. Luật tuy đã có đấy, nhưng người biệt phái muốn Chúa Giêsu phải xác định rõ ràng xem người đàn ông có được phép rẫy vợ không, có ý gài bẫy Chúa, để Ngài phải trả lời, và trả lời thế nào cũng gặp nguy hiểm. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời có hay không mà chỉ dùng Kinh Thánh để nhắc nhở cho người ta phải trở về nguồn gốc ý định đầu tiên của Thiên Chúa khi dựng nên loài người: "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Mt 19,6).
Ngày nay Giáo Hội vẫn trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu, và luôn khẳng định đặc tính "vĩnh viễn" của hôn nhân Công Giáo. Không ai có quyền hủy bỏ giao ước hôn nhân hợp pháp, vì đây là luật của Chúa. Luật bất ly dị xem ra là một luật khắt khe và khó khả thi, nhưng với ơn Chúa trợ giúp, chúng ta có thể thực hiện được, và nhờ đó Giáo Hội cũng như xã hội càng thêm vững chắc, gia đình dễ tìm được hạnh phúc (Lm Giuse Đinh Lập Liễm).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc hôn nhân không chỉ sống cho mình mà còn cho con cái và mọi người.
Suy niệm 3: Trả thù
Juanillo bỏ đi, nhưng thực ra là để tìm cách trả thù các tu sĩ. Vào thời Cựu Ước, việc trả thù chẳng những được xem như là một sự kiện bình thường mà còn hiểu như một hành vi công bình và hợp pháp chiếu theo luật "Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân" (Đnl 19,21), vì chính Thiên Chúa cho phép trả thù (St 4,15;Tl 11,36). Do đó chính Môsê cũng hô hào dân chúng ra trận tiến đánh Mađian để trả thù (Ds 31,3), cũng như Samsôn kêu xin cùng Chúa cho hồi phục sức mạnh để trả thù quân Philitinh (Tl 16,28).
Tuy nhiên việc trả thù chỉ được phép dành cho đối phương không cùng chủng tộc, còn ngược lại thì phải yêu thương nhau (Lv 19,18). Đường hướng này đã được Đức Giêsu ở thời Tân Ước mở rộng và giải thích cách chí lý: Vì toàn thể nhân loại đều có cùng một Cha chung trên trời (Mt 6,9;23,9), nghĩa là tất cả đều là anh chị em với nhau, nên chỉ phải yêu thương nhau chứ không được trả thù (Mt 5,43-48).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống đức ái trọn hảo đúng như lời Chúa chỉ dạy.
Suy niệm 4: Bề trên
Cha Blas de Rodriguez từ Tây Ban Nha đến Florida năm 1580. Ngài là bề trên của năm vị tử đạo. Ngài là bề trên tức là người lớn hơn cả nên phải là người phục vụ anh em (Mt 23,11), như một người chủ phục vụ cho đầy tớ (Lc 12,37), chứ không phải chỉ ra lệnh theo ý đồ thâm độc của mình (2Sm 11,15) hoặc theo lợi ích của mình (1V 21,15).
Chính Đức Giêsu đã nêu gương phục vụ khi tuyên bố: Con Người đến không để được phục vụ mà phục vụ đến mức hiến mạng (Mt 20,28), và khẳng định: Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ (Lc 22,27), cũng như thực hiện trong hành động cụ thể qua việc rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,13-14).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị bề trên sống được đặc điểm của mình là phục vụ như gương Chúa để lại.
Suy niệm 5: Cùng làm việc
Họ cùng làm việc ở bán đảo St. Catherine. Thật là một tấm gương sáng chói, vì cùng làm việc chung với nhau không phải là một việc dễ dàng thực hiện do nhiều yếu tố khác biệt nhau, chẳng hạn tính khí, sở thích, ý kiến, trình độ hiểu biết, óc sáng tạo, cách xử sự, đặc biệt trong một môi trường xa lạ.
Vào thời thánh Phaolô, giáo đoàn Côrintô cũng đã gặp phải khó khăn này đến mức gần như chia rẽ nhau thành phe phái, hoặc theo Phaolô hoặc theo Apôlô (1Cr 3,4). Hoặc ngay từ thời Chúa Giêsu, dầu chưa đến mức chia rẽ nhau nhưng các tông đồ cũng đã từng tức giận hai anh em con bà Dêbêđê khi xin được ngồi vào chỗ danh dự trong nước Chúa (Mt 20,24), để rồi sau đó tranh cãi nhau xem ai là người lớn (Mc 9,34).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn nhận ra vị trí của mình như một chi thể bổ túc cho sức sống cộng đoàn (Ep 4,16).
Suy niệm 6: Giết
Cha Francisco de Berascola... bị Juanillo giết vào ngày 18-9. Vào năm 1612 quan toàn quyền của St. Helen (gồm Florida và Cuba) phúc trình về vua Tây Ban Nha: "Mặc dù người thổ dân không giết các linh mục vì đức tin, chắc chắn họ bị tử đạo vì luật của Thiên Chúa mà tôn giáo dạy họ.
Đây chính là lý do mà người thổ dân từ bỏ đạo cũ và vẫn còn tuyên xưng... Người ta được biết ở phần đất này, kể từ sau cái chết của những người thánh thiện, dân này (thổ dân Guale) dễ bảo và hiền hòa hơn."
Cái chết của các chứng nhân đức tin quả mang đầy ý nghĩa và có giá trị. Sứ mạng truyền giáo của các ngài đã hoàn thành không chỉ bằng lời mà nhất là còn bằng cái chết như một minh chứng cho những lời các ngài rao giảng. Và mặc dầu người dân ở vùng đất này chưa đón nhận đức tin tất cả, vì các tập tục có liên quan đến hôn nhân như chế độ đa thê không phù hợp với giáo lý công giáo, nhưng tính khí hung bạo đến mức trả thù một cách hiếu sát đã được cải hóa bằng thái độ sống dễ bảo và hiền hòa của Tin Mừng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chấp nhận làm thân phận hạt lúa phải mục nát để trổ sinh được hoa trái tốt lành (Ga 12,24).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 11/9 Thánh Cyprian (k. 258)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Cyprian (k. 258)
Ðức Cyprian là một tổng hợp của sự nhân từ và can đảm, của hăng hái và điềm tĩnh. Ngài vui vẻ nhưng nghiêm nghị nên dân chúng không biết là nên quý mến hay tôn trọng ngài hơn.
Lược sử
Thánh Cyprian góp phần quan trọng trong sự phát triển tư duy và tập tục Kitô Giáo trong thế kỷ thứ ba, nhất là ở bắc Phi Châu.
Là một người được giáo dục rất kỹ lưỡng và có tài hùng biện, ngài trở lại Kitô Giáo khi đã trưởng thành. Trong vòng hai năm ngài được thụ phong linh mục và được chọn làm Giám Mục Carthage (gần Tunis bây giờ), trái với ý của ngài.
Chính sự kiện tái nhập đạo (sau khi từ chối đức tin) đã khuấy động nhiều tranh luận trong thế kỷ thứ ba, và đã giúp Giáo Hội hiểu biết hơn về Bí Tích Hòa Giải.
Đức Cyprian là một tổng hợp của sự nhân từ và can đảm, của hăng hái và điềm tĩnh. Ngài vui vẻ nhưng nghiêm nghị nên dân chúng không biết là nên quý mến hay tôn trọng ngài hơn. Ngài nóng nẩy trong cuộc tranh luận về bí tích rửa tội.
Suy niệm 1: Hùng biện
Cyprian là một người được giáo dục rất kỹ lưỡng và có tài hùng biện.
Thuật hùng biện là nghệ thuật diễn thuyết trước công chúng sao cho trôi chảy, sinh động, trang nhã và đầy sức thuyết phục, thể hiện sức mạnh biểu cảm được bộc lộ qua vẻ đẹp của ngôn ngữ, nhờ đó mà thu hút và thuyết phục người nghe.
Theo Oliver Goldsmith, thuật hùng biện chân chính không có nghĩa là trình bày những điều vĩ đại theo phong cách hoành tráng, nhưng là nói về chúng cách đơn giản và dễ hiểu, nói cách chính xác, không hề có phong cách hoành tráng, bởi vì sự hoành tráng ẩn giấu ngay trong chính sự việc cần trình bày, và nếu không được như thế thì chỉ còn là những lời huyênh hoang, sáo rỗng mà không có tác dụng gì cả.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm nắm vững đề tài với bố cục chặt chẽ và mạch lạc để giúp thính giả dễ hiểu và dễ tiếp thu.
Suy niệm 2: Trở lại
Cyprian trở lại Kitô Giáo khi đã trưởng thành.
Sự trở lại của ngài đã làm mọi người kinh ngạc. Không phải vì ngài trở lại ở lứa tuổi trưởng thành mà vì ngài trở lại khi đã trưởng thành trong đức tin, được thể hiện qua việc ngài phân phát tài sản cho người nghèo, và trước khi chịu Rửa Tội ngài đã thề giữ đức khiết tịnh.
Chính với niềm tin này, ngài cả dám than phiền rằng sự ổn định mà Giáo Hội đang được hưởng đã làm suy nhược tinh thần của nhiều Kitô Hữu, và đã mở cửa cho những người trở lại đạo mà không thực sự có đức tin. Bằng chứng là khi cuộc bắt đạo dưới thời hoàng đế Decian bắt đầu, nhiều Kitô Hữu đã bỏ Giáo Hội cách dễ dàng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức về tầm quan trọng của phẩm chất hơn là số lượng người trở lại.
Suy niệm 3: Tranh luận
Chính sự kiện tái nhập đạo (sau khi từ chối đức tin) đã khuấy động nhiều tranh luận trong thế kỷ thứ ba về bí tích Hòa Giải và Rửa Tội.
Novatus, một linh mục từng chống đối việc tuyển chọn Cyprian làm giám mục, đã tự tấn phong y làm giám mục khi Cyprian vắng mặt và tiếp nhận tất cả những người bội giáo mà không bắt đền tội theo giáo luật. Hiển nhiên Novatus bị lên án. Cyprian có lập trường trung dung, ngài chủ trương rằng những người đã thực sự thờ tà thần thì chỉ được rước Mình Thánh khi sắp chết, trong khi những ai chỉ mua giấy xác nhận rằng họ đã thờ tà thần thì có thể được tiếp nhận lại sau một thời gian đền tội. Tuy nhiên lập trường này đã được nới lỏng trong thời kỳ bắt đạo sau này.
Là bạn thân của Đức Giáo Hoàng Cornelius, Đức Cyprian chống đối vị giáo hoàng kế tiếp là Stephen. Đức Cyprian và các giám mục Phi Châu khác không công nhận giá trị của bí tích Rửa Tội do những người lạc giáo và ly giáo cử hành. Đây không phải là quan điểm chung của Giáo Hội, nhưng Đức Cyprian không nao núng ngay cả khi Đức Giáo Hoàng Stephen dọa tuyệt thông.
Những tương tranh về bí tích Rửa Tội và Hòa Giải trong thế kỷ thứ ba cho chúng ta thấy Giáo Hội tiên khởi không có những giải pháp có sẵn xuất phát từ Chúa Thánh Thần. Các vị lãnh đạo và giáo dân thời ấy đã phải đau khổ tiến dần qua các giai đoạn phán đoán tốt nhất mà họ có thể thi hành, để theo sát lời giảng dạy của Đức Kitô mà không bị thiên lệch bên này hay bên kia.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần cho chúng con để chúng con luôn theo sát lời giảng dạy của Chúa.
Suy niệm 4: Nhân từ
Đức Cyprian là một tổng hợp của sự nhân từ và can đảm, của hăng hái và điềm tĩnh.
Khi thành phố Carthage bị bệnh dịch, Đức Cyprian sống đức nhân từ bằng việc khuyến khích người Kitô giúp đỡ mọi người khác, kể cả những kẻ thù nghịch và bắt đạo.
Ngài mời gọi mọi người sống tinh thần hòa bình và yêu thương: "Bạn không thể coi Thiên Chúa như người Cha của bạn nếu bạn không coi Giáo Hội như người mẹ của bạn. Thiên Chúa là một và Đức Kitô là một, và Giáo Hội của Người là một; chỉ có một đức tin, và mọi người gắn bó với nhau là một qua sự hài hòa trong một thân thể được kết hợp chắc chắn. Nếu chúng ta là người thừa kế của Đức Kitô, hãy kết hợp trong sự bình an của Đức Kitô; nếu chúng ta là con cái Thiên Chúa, hãy trở nên người yêu chuộng hòa bình" (Thánh Cyprian, Sự Hợp Nhất của Giáo Hội Công Giáo).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thực thi đức nhân từ đến mức yêu thương cả kẻ thù như Chúa dạy và nêu gương (Mt 5,44;Lc 23,34).
Suy niệm 5: Can đảm
Đức Cyprian là một tổng hợp của sự nhân từ và can đảm, của hăng hái và điềm tĩnh.
Với giáo quyền, ngài cũng can đảm không nao núng khi không công công nhận giá trị của bí tích Rửa Tội do những người lạc giáo và ly giáo cử hành, dầu ngay cả khi Đức Giáo Hoàng Stephen dọa tuyệt thông.
Về mặt chính quyền, ngài bị lưu đầy bởi lệnh của hoàng đế và sau đó được gọi về để xét xử. Nhưng ngài can đảm từ chối không chịu rời thành phố, nhất quyết để người dân chứng kiến việc tử đạo của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đủ dũng lực để bảo vệ chân lý đến cùng.
Suy niệm 6: Nóng nẩy
Cyprian nóng nẩy trong cuộc tranh luận về bí tích rửa tội.
Nhưng ngài đã suy nghĩ lại, vì đó chính là lúc ngài viết luận thuyết về sự kiên nhẫn. Thánh Augustine nhận xét rằng Đức Cyprian đã đền tội nóng nẩy của ngài bằng sự tử đạo.
Đức Giêsu vốn hiền lành (Mt 11,29), nhưng có lần Ngài cũng nổi nóng khi thấy người ta xúc phạm đến nơi cầu nguyện (Ga 2,16), do lòng nhiệt thành đối với nơi thờ phượng (Ga 2,17).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết kềm chế tính nóng nẩy vì chúng con chưa đủ mức thánh thiện.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 10/9 Thánh Tôma ở Villanova (1488-1555)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Tôma ở Villanova (1488-1555)
Ngay khi còn sống Thánh Tôma Villanova đã được gọi là "người bố thí" và "cha của người nghèo."
Lược sử
Thánh Tôma sinh ở Castile Tây Ban Nha, và tên Villanova là thành phố nơi ngài lớn lên. Ngài được giáo dục rất chu đáo ở Đại Học Alcala, ngài hay đãng trí và kém trí nhớ. Ngài được hoàng đế đề nghị làm tổng giám mục ở Granada, nhưng ngài từ chối. Và khi tòa giám mục trống ngôi thì ngài lại bị áp lực phải chấp nhận. Mỗi sáng có đến vài trăm người nghèo đến nhà ngài để được ăn uống và được cho tiền. Người ta chỉ trích là ngài bị lợi dụng. Ngài nhận nuôi các trẻ mồ côi và ngài thưởng tiền cho những ai đem các trẻ về cho ngài. Ngài thường bị chỉ trích là không khắt khe và không mau chóng trừng phạt những kẻ có tội. Thánh Lễ được cử hành và sau khi Truyền Phép, ngài thở hơi cuối cùng với những lời: "Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Chúa."Ngay khi còn sống Thánh Tôma Villanova đã được gọi là "người bố thí" và "cha của người nghèo." Ngài được phong thánh năm 1658.
Suy niệm 1: Đãng trí
Tôma hay đãng trí và kém trí nhớ.
Con người vốn bất toàn, vì thế bên cạnh những ưu điểm trổi vượt, ngài cũng không tránh khỏi một số nhược điểm. Thật thế, là môt sinh viên của Đại Học Alcala, ngài đã trở nên một giáo sư triết của đại học này. Sau khi gia nhập dòng Augustine ở Salamanca, ngài được thụ phong linh mục và tiếp tục dạy học. Ngài còn làm tu viện trưởng và bề trên tỉnh dòng cũng như được hoàng đế đề nghị làm tổng giám mục ở Granada.
Thế nhưng ngài lại mắc phải khuyết điểm là hay đãng trí và kém trí nhớ. Điều này mời gọi chúng ta đừng bao giờ quá tự phụ về các ưu điểm của mình mà khinh thường người khác, và cũng đừng quá khắt khe với các lỗi lầm của tha nhân. Họ kém điểm này nhưng biết đâu lại trổi vượt chúng ta về nhiều mặt khác. Ngay cả một nhà toán học Archimedes cũng mắc phải nhược điểm đãng trí như chuyện kể: một hôm đang tắm thì phát hiện lực đẩy của nước, ông mừng quá quên cả mặc quần áo vừa chạy vừa la lên Eureka nghĩa là tôi đã tìm ra.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn nhận ra khuyết điểm của mình để biết cảm thông với nhược điểm của người.
Suy niệm 2: Chỉ trích
Người ta chỉ trích là Tôma bị lợi dụng.
Khi bị như thế, ngài trả lời: "Nếu có những người không chịu làm việc thì đó là phần của chính phủ và cảnh sát phải đối phó. Nhiệm vụ của tôi là giúp đỡ và an ủi những người đến với tôi". Ngài cũng thường bị chỉ trích là không khắt khe và không mau chóng trừng phạt những kẻ có tội, ngài nói: "Hãy để họ (người chỉ trích) tìm hiểu xem Thánh Augustine và Thánh Gioan Kim Khẩu có rút phép thông công hay ra vạ tuyệt thông để ngăn chặn những người say sưa và phạm thượng, là những người mà các ngài đang săn sóc không".
Đức Giêsu cũng thường bị người Do Thái chỉ trích là tay ăn nhậu và bạn bè với quân thu thuế (Mt 11,19), khi Ngài phản đối lối sống xa cách người tội lỗi của nhóm đầu mục (Lc 19,7), để rồi dễ dàng gần gũi (Lc 7,39) và tha thứ chứ không kết án (Ga 8,11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sẵn sàng bị chỉ trích vì Chúa và vì các linh hồn hơn là thuộc về thế gian để được yêu thích (Ga 15,19).
Suy niệm 3: Mồ côi
Tôma nhận nuôi các trẻ mồ côi.
Và hơn thế ngài còn thưởng tiền cho những ai đem các trẻ về cho ngài. Ngài làm thế vì không muốn đi vào đường lối phường gian ác (Gb 24,9), nhưng muốn sống theo gương Chúa vốn luôn phù trì kẻ mồ côi (Tv 10,14) cũng như luôn quan tâm đến nhu cầu của chúng (Hc 35,14).
Đồng thời Chúa cũng hằng ngỏ lời mời gọi (Tv 82,3), truyền không được xâm phạm quyền lợi của chúng (Cn 23,10), không được ngược đãi chúng (Gr 22,3), nhưng hãy đối xử với chúng như một người cha (Hc 4,10), hãy bênh đỡ quyền lợi của chúng (Tv 82,3).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quan tâm giúp đỡ trẻ mồ côi, biết đâu khi lớn lên nó sẽ trở thành hữu dụng cho dân nước như một hoàng hậu Étte xưa (Et 2,7;8,3-8).
Suy niệm 4: Kẻ có tội
Tôma thường bị chỉ trích là không khắt khe và không mau chóng trừng phạt những kẻ có tội.
Theo gương Đức Giêsu, vốn đến không phải để cứu người công chính mà những kẻ tội lỗi (Mt 9,13), đến mức sẵn sàng thí mạng để chiên được sống dồi dào (Ga 10,10.15) với cái chết trên thập giá (Dt 12,2).
Ngài cũng phân biệt rất rõ sự khác biệt giữa tội lỗi và tội nhân. Với tội lỗi thì ngài khắt khe và diệt trừ, nhưng với tội nhân thì không. Hay nói cách khác ngài tẩy sạch tội lỗi bằng việc giúp tội nhân trở thành người trong sạch. Đúng như Đức Giêsu xưa, Ngài không đồng tình ném đá giết chết người phụ nữ ngoại tình như cách làm của đám người Do Thái, mà Ngài giúp chị ta trở thành thánh nhân nghĩa là tội ngoại tình đã bị tiêu hủy nơi chị.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết ghét tội, nhưng yêu thương giúp đỡ người có tội chừa bỏ tội lỗi.
Suy niệm 5: Người bố thí
Thánh Tôma Villanova đã được gọi là "người bố thí" và "cha của người nghèo".
Ngài được gọi như thế vì số tiền ngài được hưởng để sắm sửa cho tòa giám mục thì ngài đã tặng cho một bệnh viện. Ngài giải thích "Khi dùng tiền cho người nghèo ở bệnh viện thì đó là việc phục vụ Chúa tốt đẹp hơn. Một tu sĩ khó nghèo như tôi thì muốn bàn ghế để làm gì?"
Ngài không chỉ bố thí về mặt tiền của mà còn cả về mặt tinh thần, khi ngài làm tu viện trưởng và bề trên tỉnh dòng, thì ngài là người đầu tiên gửi các cha Augustine đến Tân Thế Giới để loan báo Tin Mừng cho dân chúng vùng này lúc bấy giờ đang đói khát lời Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có tấm lòng quảng đại bố thí để thấy được phương cách bố thí, nếu không vật chất thì tinh thần.
Suy niệm 6: Cha của người nghèo
Thánh Tôma Villanova đã được gọi là "người bố thí" và "cha của người nghèo".
Là "cha của người nghèo", bản thân ngài sống hết sức nghèo. Ngài vẫn mặc các bộ quần áo từ khi còn là đệ tử sinh, mà chính tay ngài khâu vá lại. Các giáo sĩ và người trong dòng xấu hổ vì ngài, nhưng họ không thể thuyết phục ngài thay đổi.
Mỗi sáng có đến vài trăm người nghèo đến nhà ngài để được ăn uống và được cho tiền. Ngài khuyến khích những người giầu có hãy bắt chước ngài để trở nên giầu lòng thương xót và bác ái hơn là giầu của cải trần gian. Khi ngài sắp chết, ngài ra lệnh lấy tất cả tiền của ngài có mà phân phát cho người nghèo. Các vật dụng của ngài thì được tặng cho văn phòng hiệu trưởng trường cũ của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chạy tìm mối phúc cho người nghèo khó (Mt 5,3).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 09/9 Thánh Phêrô Claver (1581-1654)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Phêrô Claver (1581-1654)
Cha Phêrô Claver (thánh quan thầy công việc truyền giáo cho người nô lệ da đen) tự nhận mình là "người nô lệ muôn đời của người da đen."
Lược sử
Là người gốc Tây Ban Nha, Phêrô Claver -- một người trẻ thuộc dòng Tên -- đã từ bỏ quê nhà vĩnh viễn vào năm 1610 để trở nên nhà truyền giáo ở Tân Thế Giới. Ngài đi thuyền đến Cartagena (bây giờ thuộc Colombia), là một hải cảng sầm uất ở bờ biển Caribbean. Ngài thụ phong linh mục ở đây vào năm 1615.
Vào lúc đó, việc buôn bán nô lệ đã được thịnh hành ở Mỹ Châu khoảng 100 năm, và Cartagena là trung tâm. Hàng năm, có đến mười ngàn người nô lệ từ Tây Phi Châu đổ về hải cảng này sau khi vượt biển Atlantic trong những điều kiện tệ hại và bất nhân đến nỗi có đến một phần ba đã chết trong cuộc hành trình. Mặc dù việc buôn bán nô lệ bị Đức Giáo Hoàng Phaolô III lên án và sau này Đức Piô IX gọi là "hành động vô cùng ghê tởm", nhưng nó vẫn phát đạt.
Cha Alfonso de Sandoval, là một linh mục dòng Tên đã hy sinh cuộc đời để phục vụ người nô lệ ở đây trước khi Cha Phêrô Claver đến để tiếp tục công việc của ngài, và cha tự nhận mình là "người nô lệ muôn đời của người da đen."
Sứ vụ tông đồ của ngài không chỉ hạn hẹp trong việc săn sóc người nô lệ, ngài trở nên một người có uy quyền về luân lý, quả thật, ngài là tông đồ của Cartagena. Ngài rao giảng trong trung tâm thành phố, truyền giáo cho các thủy thủ và thương gia, và nếu có thể, ngài cố tránh né lòng quý mến của các nông gia và chủ nhân mà chỉ muốn sống trong các khu dành riêng cho người nô lệ.
Sau bốn năm bị bệnh khiến thánh nhân ngừng hoạt động và hầu như bị lãng quên, ngài chết ngày 8-9-1654. Ông tòa của thành phố, trước đây rất khó chịu vì sự quan tâm của ngài đối với người da đen thấp hèn, đã ra lệnh chôn cất ngài với công quỹ và với nghi thức long trọng.
Ngài được phong thánh năm 1888, và Ðức Giáo Hoàng Leo XIII tuyên xưng ngài là quan thầy công việc truyền giáo cho người nô lệ da đen ở khắp nơi trên thế giới.
Suy niệm 1: Từ bỏ quê nhà
Claver đã từ bỏ quê nhà vĩnh viễn vào năm 1610 để trở nên nhà truyền giáo ở Tân Thế Giới.
Quyền năng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã thể hiện trong hành động đáng khâm phục của Cha Phêrô Claver. Quyết định từ bỏ quê nhà không bao giờ trở lại cho thấy một ý chí phi thường thật khó cho người thời nay tưởng tượng nổi. Quyết tâm phục vụ những người bị bạc đãi, thấp hèn nhất trong xã hội là một hành động cực kỳ anh hùng của Thánh Phêrô Claver.
Khi so sánh cuộc đời chúng ta với cuộc đời của một người như vậy, chúng ta mới thấy sự ích kỷ và sự hẹp hòi của chúng ta trước những nhu cầu của người khác, và chúng ta cần mở lòng ra cho sự tác động của quyền năng vô cùng của Thần Khí Đức Giêsu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết hy sinh đời này để được hạnh phúc đời sau.
Suy niệm 2: Nhà truyền giáo
Claver đã từ bỏ quê nhà vĩnh viễn vào năm 1610 để trở nên nhà truyền giáo ở Tân Thế Giới.
Thánh Phêrô Claver hiểu rằng việc phục vụ cụ thể như phân phát thuốc men, thực phẩm cho anh chị em da đen thì cũng hữu hiệu để loan truyền lời Chúa như rao giảng bằng lời nói. Như Thánh Phêrô Claver thường nói: "Chúng ta phải nói với họ bằng đôi tay trước khi nói với họ bằng miệng lưỡi của chúng ta."
Chính vì thế ngay sau khi thuyền chở người nô lệ cập bến, Cha Phêrô Claver đi xuống khoang thuyền hôi hám để giúp đỡ những người đau yếu và những hành khách khốn cùng. Sau khi người nô lệ bị lùa ra khỏi tầu và bị xích với nhau như đàn vật trong một khu đất có hàng rào để người ta chọn lựa, Cha Claver lại lẩn quẩn trong bọn họ để cung cấp thuốc men, thực phẩm, rượu, chanh và thuốc lá. Với sự giúp đỡ của thông dịch viên, ngài nói về giáo lý căn bản và đảm bảo các anh chị em của ngài về nhân phẩm và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Trong 40 năm phục vụ, Cha Claver đã giảng dạy và rửa tội cho khoảng 300.000 người nô lệ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của việc rao truyền lời Chúa bằng việc làm hơn bằng lời nói.
Suy niệm 3: Buôn bán nô lệ
Việc buôn bán nô lệ đã được thịnh hành ở Mỹ Châu.
Buôn bán nô lệ là màn khởi xướng của người Bồ Đào Nha. Khi đó người Châu Âu dựng rất nhiều trang trại và các mỏ vàng ở Châu Mỹ để khai thác tài nguyên nơi đây. Các chủ trang trại và chủ mỏ cần rất nhiều lao công. Họ nghĩ đến người da đen Châu Phi. Năm 1502, đợt nô lệ da đen đầu tiên đến đảo Xan-tô, Đô-mi-gô (thuộc Hai-ti) và bị ném về các trang trại. Từ đó việc buôn bán nô lệ ngày càng mở rộng.
Thuyền buôn đến Châu Mỹ, bọn người nô lệ được rao bán cho các chủ trang trại, chủ mỏ, sau đó chất đầy hàng hóa do nô lệ làm ra chuyển về Châu Âu. Thời bấy giờ, người ta gọi thuyền buôn chất hàng hóa rẻ mạt sản xuất ở Châu Âu chở sang Châu Phi là "xuất chuyển", đem nô lệ mua được ở Châu Phi sang Châu Mỹ là "trung chuyển", đem sản vật do nô lệ mang về Châu Âu là "quy chuyển".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mọi người biết thương nhau, đừng xem nhau như đồ vật để buôn bán.
Suy niệm 4: Nô lệ muôn đời
Cha Alfonso de Sandoval tự nhận mình là "người nô lệ muôn đời của người da đen."
Để cứu người, Đức Giêsu đã nhập thể làm người. Ngài cũng chịu ma quỷ cám dỗ để nêu gương lướt thắng. Ngài cũng đến nhà trưởng thu thế Giakêu và đồng bàn cùng ăn uống với các tội nhân để cứu vớt họ. Ngài cũng sẵn lòng chịu chết với các người trộm cướp để cứu linh hồn người bên hữu.
Theo gương đó, cha Alfonso de Sandoval cũng tự nhận mình là "người nô lệ muôn đời của người da đen", bằng kiếp sống làm nô lệ như họ để phục vụ người nô lệ ở đây.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tránh thái độ sống quan liêu xa cách tha nhân, ngược lại biết hòa đồng và gần gũi để dễ giúp họ nên tốt.
Suy niệm 5: Luân lý
Claver trở nên một người có uy quyền về luân lý.
Theo thần học kitô giáo, đặc tính luân lý các hành động của con người cốt yếu ở tại sự liên kết giữa Con Người với Thiên Ý. Hành động của con người được coi là tốt theo luân lý nếu hợp với Thiên Ý, ngược lại bị coi là xấu theo luân lý nếu không hợp với Thiên Ý.
Thiên Ý thể hiện qua: tiếng nói trong nội tâm con người, trong thiên nhiên, trong Kinh Thánh Mặc Khải tức Giao ước và Luật Lệ. Con người đáp lại tiếng nói của Thiên Chúa trong lương tâm mình, trong việc chấp nhận các trật tự thế giới hữu hình này, cũng như qua việc tuân giữ Giao Ước, Luật Lệ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống theo Thiên Ý để trở thành người tốt.
Suy niệm 6: Chôn cất
Ông tòa của thành phố đã ra lệnh chôn cất ngài.
Mặc dầu trước đây ông rất khó chịu vì sự quan tâm của Claver đối với người da đen thấp hèn, nhưng với cuộc đời đầy hy sinh và lừng danh của ngài như một tông đồ của Cartagena, ông đã tổ chức việc chôn cất ngài với công quỹ và với nghi thức long trọng.
Xét về tôn giáo, ngài được phong thánh năm 1888, và Đức Giáo Hoàng Leo XIII tuyên xưng ngài là quan thầy công việc truyền giáo cho người nô lệ da đen ở khắp nơi trên thế giới.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống sao để có được một cái chết giá trị.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 08/9 Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria
- Viết bởi Các Thánh
Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria
Giáo Hội không mừng ngày sinh của các thánh. Ngày sinh của con cái Adam là một ngày u buồn tràn đầy nước mắt, và cái di sản thảm khốc của tội lỗi mà chúng ta mang theo khi vào đời. Nhưng trong lịch sử phụng vụ công giáo, chúng ta thấy có ba lễ mừng sinh nhật: của chính đức Giêsu, của Trinh Nữ Maria và của thánh Gioan Tẩy giả. Đối với thánh Gioan Tẩy giả, vì được thánh hoá ngay từ khi còn trong lòng mẹ, việc chào đời của Ngài là một biến cố vui mừng đặc biệt. Riêng với Đức Trinh nữ Maria, những lễ kính Ngài là "Những lễ kính nhớ biến cố sinh ơn cứu rỗi, trong đó Giêsu và Mẹ Maria đi liền với nhau, như lễ sinh nhật Đức Maria, ngày mà hy vọng và vầng cứu rỗi ló dạng trên trần gian" (Marialis cultus. 7): bởi vậy, ngày lễ sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria, Giáo hội hân hoan ca tụng.
- "Lạy Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, việc Mẹ sinh ra loan báo niềm vui cho cả thế gian. Vì từ lòng mẹ phát sinh mặt trời công chính là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Đấng xóa bỏ án phạt mà ban chúc lành, tiêu diệt sự chết và ban sự sống đời đời cho chúng con" (ad Bened, ad laudes)
Niềm vui mừng trong ngày sinh của Đức Trinh Nữ Maria phát xuất từ niềm mong đợi lâu đời của nhân loại tội lỗi. Chính Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại chúng ta niềm hy vọng này khi Chúa phán với con rắn cám dỗ:
- "Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng dõi ngươi và giòng giống nó. Giòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân" (St 3,15).
Lời hứa ấy còn được lập lại nhiều lần để nuôi dưỡng niềm tin của dân Chúa. Chẳng hạn Isaia báo trước hình ảnh Đấng sẽ sinh ra Đấng cứu thế:
- "Này cô nương sẽ thụ thai và sinh con và bà sẽ gọi tên là Emmanuel" (Is 7,14).
Đấng cưú thế sẽ được sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh (x. Lc 1,270. Như vậy Thiên Chúa đã dự liệu cho con Ngài. Một người mẹ đặc biệt. Maria còn được giữ cho khỏi vương nhiễm tội nguyên ngay từ buổi hình thai, để xứng đáng tước vị Mẹ Thiên Chúa. Theo truyền sử, cha mẹ Ngài là ông Gioanchim và nà Anna, những người đạo đức thuộc dòng dõi vương giả David, và tư tế Aaron, nhưng lại son sẻ. Dầu sao đi nữa, chính Maria có một nét đẹp lạ lùng của ơn thánh. Giáo hội ca tụng Mẹ:
- Ôi Maria ! Mẹ đẹp tuyệt vời. Hơn hết mọi người.
Ngày Đức Trinh nữ Maria chào đời, mọi người thán phục. Hơn nữa biến cố này còn là khởi đầu cho ngày cứu rỗi, vì Ngài như "sao mai" dẫn lối loài người, như "rạng đông" báo hiệu mặt trời. Vì vậy ngay từ thế kỷ VI, cả Giáo hội Đông phương cũng như Tây Phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Mẹ. Đến thế kỷ X lễ mừng được phổ biến phắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ. Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức hồng Y họp mật nghị để bầu giáo hoàng. Các Ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật, để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức giáo hoàng Célestinô V đắc cử cai quản có 18 ngày nên chưa thực hiện được lời hứa. Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này.
Sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria loan báo niềm vui cho toàn thế giới, chúng ta cùng chiêm ngắm và tha thiết nguyện cầu cho được niềm vui thiêng liêng từ biến cố này.
* Quyết tâm
Mừng ngày sinh nhật Đức Mẹ, tôi quyết học hỏi và bắt chước các nhân đức của Mẹ, để cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu rỗi đồng bào đồng loại.
* Lời nguyện
Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giêsu Con Một Chúa. Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc. Và cho chúng con hưởng bình an. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
- Ngày 07/9 Chân Phước Frederick Ozanam (1813 -1853)
- Ngày 06/9 Chân Phước Claudio Granzotto (1900-1947)
- Ngày 05/9 Tôi Tớ Thiên Chúa Anacleto Gonzales (1890-1927)
- Ngày 04/9 Thánh Rosa ở Viterbo (1233-1251)
- Ngày 03/9 Thánh Grêgôriô Cả (540?--604)
- Ngày 02/9 Chân Phước John Francis Burté và các Bạn (k. 1792; d.1794)
- Ngày 01/9 Thánh Beatrice Silva (1424-1491)
- Ngày 31/8 Tôi Tớ Thiên Chúa Cha Martin Valencia (1470 - 1534)
- Ngày 30/8 Tôi Tớ Thiên Chúa Mẹ Marianne Molokai (1838-1918)
- Ngày 29/8 Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Chém Ðầu