Gương Thánh Nhân
Ngày 27/9 Thánh Vinh-sơn Phao-lô (1580?-1660)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Vinh-sơn Phao-lô (1580?-1660)
Thánh Vinh-sơn Phao-lô rất thích hợp là quan thầy cho mọi Kitô Hữu ngày nay, khi người đói ngày càng nhiều, và lối sống xa hoa của người giầu ngày càng đối chọi với tình trạng sa sút về thể chất và tâm linh của con cái Thiên Chúa.
Lược sử
Cha Vinh-sơn, người đề xướng việc bác ái hiện đại, là đấng sáng lập Dòng Lazaristes và Tu Hội Nữ Tử Bác Ái tại Pháp.
Là nông dân vùng Landes, Vinh-sơn Phao-lô vừa thông minh lại vừa có trực giác tốt. Sau khi học xong thần học ở Toulouse, Thầy Vinh-sơn được phong Linh Mục năm 1600. Vào năm 1612, người ta thấy cha ở trong triều của vua Henri IV. Sau đó là cha xứ Clichy, gần Paris, rồi tổng tuyên úy quân đội.
Nhưng vào năm 1617 mới xẩy ra điều mà sau này cha gọi là "cuộc trở lại" của mình. Là cha xứ Châtillon-sur-Chalaronne, nằm ở trung tâm vùng Dombes, cha khám phá ở giữa vùng đầm lầy này tình trạng nghèo đói và bệnh tật, một tình trạng khốn khổ khủng khiếp. Cha Vinh-sơn lập tức hiểu ra rằng sự cứu trợ khẩn cấp không thể giải quyết đến nơi đến chốn tình trạng khốn khổ ấy. Cha bàn bạc với các phụ nữ – là những người có óc thực tế – để thành lập "Hội Các Bà Bác Ái". Cha Vinh-sơn Phao-lô cũng quan tâm đến việc rao giảng Tin mừng cho các miền nông thôn: năm 1625 cha thành lập các Linh Mục truyền giáo mà sau này người ta gọi là Dòng Lazaristes vì các Linh Mục này sống ở Paris trong khu vực tu viện Thánh La-da-rô. Cha Vinh-sơn cũng phụ trách việc huấn luyện các Linh Mục là những người thường rất dốt nát vào thời bấy giờ.
Cha Vinh-sơn tuyển mộ các thiếu nữ nông thôn cho cuộc chiến ác liệt nhất chống lại tình trạng nghèo đói: đó là các "Nữ Tử Bác Ái", do Louise de Marillac hướng dẫn. Mọi người đều nhớ đến chiếc áo thô dày và cái nón trắng lớn hình cánh chim: các chị đi xe đạp hay xe hơi hai ngựa ( 2 cv: 2 mã lực ), đó chính là các nữ tử bác ái ! Vào thời ấy Nước Pháp rất cần đến các chị. Các chị làm cho các bệnh viện thành nơi dễ chịu hơn, vì khi ấy bệnh viện là nơi làm người ta phải sợ hãi vì bệnh nhận chen chúc sáu người trên một chiếc giường. Đường phố đầy dẫy các người ăn xin, Cha Vinh-sơn quyết định mở một nhà đón tiếp, rồi mở nhiều "nhà nhỏ" do các nữ tu quản lý. Mỗi năm có hàng ngàn trẻ em bị bỏ rơi ở Paris: Louise de Marillac thành lập một bệnh viện cho các trẻ mà người ta nhặt được này. Để cứu giúp vùng Lorraine bị chiến tranh tàn phá, cha Vinh-sơn tổ chức đoàn xe cứu trợ nhân đạo đầu tiên trong lịch sử.
Là một con người khiêm tốn nhưng nhiệt tâm và tháo vát, cha Vinh-sơn đã mặc cho Bác Ái một dung mạo hiện đại. Cha được phong thánh năm 1737 và là bổn mạng của công việc bác ái từ năm 1885.
Suy niệm 1: Sinh nhật Vinh-sơn Phao-lô
Là nông dân vùng Landes, Vinh-sơn Phao-lô vừa thông minh lại vừa có trực giác tốt.
Vào năm 1580, tại một nông trại ở Gascony, nước Pháp, một hạt mầm đức ái mang danh xưng Vinh Sơn đã được Thiên Chúa Tình Yêu gieo vào. Tiếng khóc chào đời của hài nhi Vinh Sơn, xét về mặt ngoại diện, chẳng mang một âm điệu nào khác với bao trẻ sơ sinh khác nhưng lại ẩn chứa một nội dung thật độc đáo: khóc thương cho tình trạng nghèo đói cả về mặt vật chất lẫn tinh thần và thiêng liêng của nhân loại mà chưa mấy ai thật sự quan tâm giải quyết bằng hành động cụ thể.
Tiếng khóc vang lên càng thảm thiết và đơn độc như cánh én lạc đàn giữa tiếng cười hồn nhiên của gia đình, của thân nhân, của láng giềng đang tề tựu mừng ngày sinh nhật lần thứ nhất của Vinh Sơn. Tất cả như muốn diễn đạt thực trạng thế giới lúc bấy giờ. Bao nhà "phú hộ" đang vô tâm yến tiệc linh đình trước sự thèm khát dầu chỉ là một mụn bánh từ bàn ăn rơi xuống của tầng lớp "Ladarô" nghèo đói để kéo dài cuộc sống. Bao "con cái Ítraen" đang khát khao có được một cuộc sống người cho ra người mà không được vì ách "Pharaon" quá tinh vi và kiên vững. Và không thiếu những con người đang tái hiện lại lối sống sa đọa và xa lìa Thiên Chúa của thời Noê, của thành Xơđôm và Gômôra, như thể Đấng Cứu Thế chưa đến trên trần gian.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết khóc vì người nghèo sắp phải chết đói, khóc vì bao trẻ đầu đường xó chợ không được ai giúp đỡ về mặt nhân bản, khóc vì bao kitô hữu đang làm tôi hai chủ...
Suy niệm 2: Cha xứ
Là cha xứ Châtillon-sur-Chalaronne, nằm ở trung tâm vùng Dombes.
Là Cha Xứ Châtillon-sur-Chalaronne vào năm 1617, Ngài nhận thấy người dân vùng đầm lầy Dombes thật cơ cực. Ngài mời gọi một số chị em cọng tác bằng những hành động cụ thể, như biến mình thành những chiếc khăn nhỏ lau khô nước mắt của bao người thiếu may mắn trong và ngoài vùng. Bệnh viện được xây dựng. Các trẻ bị bỏ rơi được tiếp nhận. Hơn 1200 nô lệ da đen được chuộc lại. Người ăn xin được tiếp cứu. Đặc biệt Ngài có sáng ý cho một đoàn xe cứu trợ nhân đạo đầu tiên đến Lorraine.
Người tốt đẻ ra việc tốt. Nhu cầu nảy sinh thêm nhu cầu. Vào năm 1625, Ngài quy tụ các nam nhân và gọi là Lazaristes. Các Linh Mục này khấn giữ 3 lời khuyên Phúc Âm: Vâng lời, Khó nghèo và Khiết tịnh cũng như đã tận tụy làm việc ở bất cứ môi trường nào được sai đến dù thành phố hay thôn quê. Ngài tổ chức những cuộc tỉnh tâm và mở khóa tu nghiệp cho các Linh Mục. Có thể nói Ngài đã góp công rất nhiều trong việc thành lập chủng viện và thổi một luồng sinh khí mới cho hàng giáo sĩ Pháp thời hậu chiến. Nền tu đức được phục hồi. Kiến thức được phong phú. Trình độ văn hóa được nâng cao.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các Cha Xứ có một trực giác thật tốt để có được những sáng kiến phục vụ hữu hiệu địa phương.
Suy niệm 3: Tuyển mộ
Cha Vinh-sơn tuyển mộ các thiếu nữ nông thôn cho cuộc chiến ác liệt nhất chống lại tình trạng nghèo đói: đó là các "Nữ Tử Bác Ái".
Trải qua năm tháng, cây Vinh Sơn đã đơm hoa kết trái. Từ một "hạt cải" tí xíu nay đã biến thành cây đại thụ cành là xum xuê làm nơi cho muôn người khôn trên khắp thế giới đến đậu, để cùng chiêm ngắm và học hỏi hạnh thánh Ngài mà Giáo Hội đã chính thức và công khai biểu dương vào năm 1737 cũng như được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII tôn vinh làm quan thầy của các tổ chức bác ái vào năm 1885.
Nhựa sống giúp cây Vinh Sơn sống mạnh và sống vững trải qua bao bảo tố cũng như nắng hạn, đó là linh đạo và tinh thần của Tu Hội mà Ngài để lại: "phục vụ người nghèo". Chúng ta không thể nào không sống nghèo, nghĩa là không thể nào không thể hiện cách tỏ tường sự khó nghèo vật chất trong cuộc sống của chính mình. Nói khác đi chúng ta phải là những người nghèo giữa những người nghèo như những người nghèo khác. Đã là nghèo thì dĩ nhiên là không phải giàu, nghĩa là không có gì dư thừa mà chỉ vừa đủ với mức tối thiểu của một người nghèo phải có theo mức sống của những người nghèo sống trong địa phương mình. Đàng khác phải nói thêm: Đã là nghèo thì không được giàu có, nhưng cũng không phải bần cùng túng thiếu dưới mức tối thiểu không xứng với nhân và tu phẩm để khỏi "bần cùng sinh đạo tặc".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng của cải vật chất như là phương tiện để đạt được mục đích phục vụ người nghèo.
Suy niệm 4: Bác Ái
Cha Vinh-sơn tuyển mộ các thiếu nữ nông thôn cho cuộc chiến ác liệt nhất chống lại tình trạng nghèo đói: đó là các "Nữ Tử Bác Ái".
Là thành viên của Đạo Bác Ái và đặc biệt nếu thuộc cộng đoàn sống theo tinh thần bác ái Vinh Sơn, mỗi người phải sống đoàn kết yêu thương nhau vì đó là sự sống còn của Tu Hội, là dấu chỉ của người môn đệ Chúa (Ga 13,35).
Phần mở đầu Bài nói chuyện ngày 26.4.1634 của T. Vinh Sơn và sau đó T. Louise de Marillac đã diễn đạt rõ hơn trong bút tích thiêng liêng của Ngài ở trang 823 : "Phải sống chung tốt đẹp trong sự đoàn kết chặt chẽ và tình thân ái, bằng cách yêu thương nhau, để noi theo sự kết hiệp và đời sống của Đức Giêsu, Chúa chúng ta". Cụ thể mức độ yêu thương nhau là yêu thương không mức độ. Phải yêu thương nhau không như yêu thương chính mình mà phải yêu thương nhau theo như mẫu gương Chúa yêu thương chúng ta.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống yêu thương đoàn kết hiệp nhất với nhau nên một.
Suy niệm 5: Khiêm tốn
Là một con người khiêm tốn nhưng nhiệt tâm và tháo vát, cha Vinh-sơn đã mặc cho Bác Ái một dung mạo hiện đại.
Là cộng đoàn bác ái nhằm "phục vụ người nghèo", chúng ta cần phải có tinh thần khiêm tốn. Nói cách khác, khi "phục vụ người nghèo", chúng ta phải phục vụ với tinh thần khiêm tốn của một "Tôi nam tớ nữ của người nghèo", nghĩa là phải theo mẫu gương khiêm tốn của Đức Kitô (Pl 2,6-8) và Mẹ Maria (Lc 1,38).
Sống khiêm tốn theo gương Đức Kitô và Mẹ Maria với tư cách một "Tôi nam tớ nữ", đó là trước hết phải nhận ra bản chất "Tôi Tớ người nghèo" của mình. Có nghĩa là dầu xuất thân từ dòng dõi quý tộc hay quyền thế, dầu lắm kiến thức sâu rộng với nhiều bằng cấp trong tay, nhưng tất cả đều trở thành thứ yếu trước ơn gọi căn bản đã được cân nhắc chọn lựa, đó là Tôi Tớ của người nghèo. Cha Mc Cullen đã từng nhắc nhở : "Chúng ta nói rất nhiều về việc phục vụ người nghèo. Chúng ta sẽ làm tốt nếu chúng ta nghĩ đến ơn gọi người tôi tớ nhiều hơn nữa. Một bên là phục vụ người nghèo và một điểm khác là tôi tớ người nghèo. Có một sự khác biệt lớn giữa công việc phục vụ và là tôi tớ" (Tiếng Vang Tu Hội, tr.12).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết cần khiêm tốn để thực hiện được tình hiệp nhất trong tính đa đạng (HP 3,14).
Suy niệm 6: Bổn mạng
Cha Vinh Sơn được phong thánh năm 1737 và là bổn mạng của công việc bác ái từ năm 1885.
Giáo Hội là của mọi con cái Thiên Chúa, dù giầu hay nghèo, nông dân hay trí thức, thượng lưu hay bình dân. Nhưng hiển nhiên điều Giáo Hội lưu tâm nhất là những người cần sự giúp đỡ -- đó là những người trở nên cô thế bởi bệnh tật, nghèo đói, ngu dốt và sự tàn ác. Thánh Vinh-sơn Phao-lô rất thích hợp là quan thầy cho mọi Kitô Hữu ngày nay, khi người đói ngày càng nhiều, và lối sống xa hoa của người giầu ngày càng đối chọi với tình trạng sa sút về thể chất và tâm linh của con cái Thiên Chúa.
"Hãy cố gắng vui lòng chấp nhận sống với những điều kiện khiến bạn bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí mình khỏi những điều làm bạn phiền hà, Thiên Chúa sẽ lo lắng mọi sự. Khi bạn vội vàng lựa chọn bạn sẽ làm buồn lòng Thiên Chúa, vì Người thấy bạn không tôn kính Người đầy đủ với sự tin tưởng thánh thiêng. Hãy tin tưởng vào Người, tôi nài xin bạn, và bạn sẽ được no đầy những gì mà tâm hồn bạn khao khát" (Thánh Vinh-sơn Phao-lô, Thư Từ).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cố gắng vui lòng chấp nhận sống với những điều kiện hiện tại và luôn tin tưởng vào Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 26/9 Thánh Cosmas và Thánh Damian (c. 303?)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Cosmas và Thánh Damian (c. 303?)
Truyền thuyết nói rằng hai vị là anh em sinh đôi ở Arabia, và là các y sĩ giỏi. Họ được sùng kính ở Ðông Phương với biệt hiệu "người không lấy tiền" vì họ không tính tiền khi chữa bệnh.
Lược sử
Người ta không biết gì nhiều về cuộc đời của hai vị này, ngoài việc họ tử đạo ở Syria trong thời bắt đạo của Diocletian. Việc sùng kính hai thánh nhân đã lan truyền mau chóng cả ở Đông Phương lẫn Tây Phương.
Truyền thuyết nói rằng hai vị là anh em sinh đôi ở Arabia, và là các y sĩ giỏi. Họ được sùng kính ở Đông Phương với biệt hiệu "người không lấy tiền" vì họ không tính tiền khi chữa bệnh. Không thể nào những người nổi tiếng như vậy mà không bị chú ý trong thời gian cấm đạo, do đó cả hai đã bị bắt và bị chém đầu.
Suy niệm 1: Tử đạo
Người ta không biết gì nhiều về cuộc đời của hai vị này, ngoài việc họ tử đạo ở Syria trong thời bắt đạo của Diocletian.
Trong buổi tiếp kiến chung các tín hữu hành hương sáng ngày 11/8/2010 tại Castel Gandolfo, Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đã giải thích về ý nghĩa việc tử đạo và mời gọi các tín hữu "vác thánh giá hằng ngày theo Chúa Kitô":
Tử đạo là gì? Tử đạo dựa trên điều gì? Câu trả lời thật đơn giản: Thưa dựa trên cái chết của Chúa Giêsu, trên hy tế tình thương tột độ của Ngài, để chúng ta được sống (Ga 10,10)... Từ đâu nảy sinh sức mạnh để chịu tử đạo? Thưa từ sự kết kiệp sâu xa và thân mật với Chúa Kitô, vị tử đạo và ơn gọi tử đạo không phải là kết quả của một cố gắng phàm nhân, nhưng là lời đáp trả sáng kiến và tiếng gọi của Thiên Chúa, đó là một hồng ân của Thánh Sủng, làm cho chúng ta có khả năng dâng hiến mạng sống mình vì yêu mến Chúa Kitô và Giáo Hội, và yêu mến thế giới... Điều quan trọng cần nhấn mạnh là ơn thánh của Chúa không hủy bỏ hoặc bóp nghẹt tự do của người đương đầu với tử đạo, trái lại càng làm cho tự do ấy được phong phú và thăng hoa: vị tử đạo là một người rất tự do, tự do đối với quyền lực, tự do đối với thế giới; một người tự do, dâng hiến mạng sống cho Thiên Chúa trong một cử chỉ duy nhất, và trong thái độ tin cậy mến tột cùng, vị tử đạo phó thác mình trong tay Đấng Tạo Hóa và Cứu Chuộc, hy sinh chính mạng sống mình để kết hiệp hoàn toàn với hy tế của Chúa Kitô trên Thánh Giá. Nói tòm một lời, tử đạo là một đại cử chỉ yêu thương đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Có lẽ chúng ta không được kêu gọi chết vì đạo, nhưng không ai trong chúng ta bị loại khỏi ơn gọi nên thánh, sống ở mức độ cao cuộc sống Kitô, và điều này có nghĩa là vác thánh giá mỗi ngày. Trong thời đại ngày nay, lòng ích kỷ và cá nhân chủ nghĩa dường như lướt thắng, tất cả chúng ta đều phải đảm nhận nghĩa vụ đầu tiên và cơ bản, đó là tăng trưởng mỗi ngày tong tình yêu sâu đậm hơn đối với Thiên Chúa và anh chị em để biến đổi cuộc sống chúng ta và qua đó biến đổi thế giới chúng ta đang sống.
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ lời chuyển cầu của các Vị tử đạo, xin hâm nóng tâm hồn chúng con để có thể yêu mến như Chúa đã yêu thương mỗi người chúng con.
Suy niệm 2: Sùng kính
Việc sùng kính hai thánh nhân đã lan truyền mau chóng cả ở Đông Phương lẫn Tây Phương.
Một nhà thờ được dựng gần nơi chôn cất các ngài đã được hoàng đế Justinian trùng tu lại. Ngay ở Constantinople, một đền thờ nổi tiếng được xây cất để vinh danh hai vị.
Họ được sùng kính ở Đông Phương với biệt hiệu "người không lấy tiền" vì họ không tính tiền khi chữa bệnh. Tên của hai ngài được ghi vào Lễ quy, có lẽ từ thế kỷ thứ sáu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiệp cùng Giáo Hội dâng lễ sốt sắng mừng kính hai ngài hôm nay và quyết tâm thực hành một số việc bác ái.
Suy niệm 3: Anh em sinh đôi
Truyền thuyết nói rằng hai vị là anh em sinh đôi ở Arabia, và là các y sĩ giỏi.
Một đặc điểm thường gặp thấy nơi các anh em hoặc chị em sinh đôi là sự giống nhau về nhiều phương diện, đặc biệt là khuôn mặt đến mức rất khó phân biệt, nhất là khi phụ huynh lại trang bị cho chúng một cách ăn mặc thật giống hệt nhau.
Ở đây hơn thế hai vị lại cùng có một cuộc sống đạo giống nhau: cùng làm nghề y sĩ và là những y sĩ giỏi. Các ngài lại đồng tình chữa bệnh miễn phí nghĩa là thống nhất với nhau là không lấy tiền, để rồi cuối cùng đã kết thúc cuộc đời bằng việc cùng chịu tử đạo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đã được giống nhau về ơn nghĩa tử của Chúa thì cũng biết giúp nhau trở nên giống Chúa (Gl 2,20).
Suy niệm 4: Y sĩ
Truyền thuyết nói rằng hai vị là anh em sinh đôi ở Arabia, và là các y sĩ giỏi.
Ngành nghề nào nói chung cũng đòi hỏi người hành nghề phải có trình độ cao, cách riêng ngành y khoa, vì có liên quan trực tiếp đến sinh mạng con người, do việc chẫn đoán sai để điều trị sai thì chẳng những không ngăn chận được căn bệnh mà còn có thể gây nên những hậu quả có nguy cơ tử vong do phản ứng thuốc.
Xét về điểm này, hai ngài được đánh giá là những y sĩ giỏi. Hơn thế hai ngài lại có y đức được biểu hiện bằng việc chữa bệnh miễn phí, nên đã được tôn vinh bằng biệt hiệu "người không lấy tiền" vì họ không tính tiền khi chữa bệnh, không như một ít bác sĩ hoặc lương y thời nay bị sa vào căn bệnh lợi nhuận với từ ngữ dân gian quen gọi là "nuôi bệnh" nghĩa là chủ ý kéo dài việc điều trị để lấy tiền bệnh nhân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị hành nghề y luôn chú tâm xây dựng y đức dầu không miễn phí.
Suy niệm 5: Người không lấy tiền
Họ được sùng kính ở Đông Phương với biệt hiệu "người không lấy tiền" vì họ không tính tiền khi chữa bệnh.
Tiền bạc là phương tiện giúp mua lấy thực phẫm để nuôi sống thân xác. Chính vì thế dầu thợ thì đáng được nuôi ăn (Mt 10,10), các tông đồ vẫn vất vả tự tay làm lụng (1Cr 4,12; 1Tx 4,11) để tránh không trở thành gánh nặng cho người khác (2Cr 11,9).
Nhưng hai thánh nhân lại chủ trương chữa bệnh miễn phí, có thể để xứng hợp với nghĩa đen theo danh ngôn của nghành nghề "lương y như từ mẫu". Đã là mẹ hiền thì chỉ biết trao ban chớ không bao giờ chờ mong đáp trả. Đã là mẹ hiền thì như nguồn suối nước chỉ biết chảy xuôi xuống chớ không bao giờ chảy ngược lên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quyết sống theo lời Chúa dạy: Đã được cho nhưng không thì cũng hãy biết trao ban nhưng không (Mt 10,8)
Suy niệm 6: Chữa bệnh
Họ được sùng kính ở Đông Phương với biệt hiệu "người không lấy tiền" vì họ không tính tiền khi chữa bệnh.
Đã là bệnh nhân thì phải gánh lấy khổ đau do căn bệnh tác hại trực tiếp đến thân xác. Do đó dầu tốn kém cũng phải đi chữa bệnh để được lành mạnh. Khi xuất hiện ở trần gian, Đức Giêsu cũng thấu hiểu để rồi dùng quyền năng chữa lành bệnh tật nhiều người hầu giảm bới nỗi khổ này của con người.
Thật thế, dường như từ lâu, chúng ta chỉ chú ý đến những phép lạ của Chúa Giêsu như để nói lên quyền năng Thiên Chúa của Người. Có điều chúng ta không để ý đến là sự khao khát của Chúa Giêsu muốn vơi bớt đau khổ của nhân loại. Sức mạnh "xuất ra từ Người" quả thật là dấu chứng tỏ Thiên Chúa đã đi vào lịch sử loài người để hoàn tất những điều Người đã hứa; nhưng tình yêu của Thiên Chúa cũng rõ rệt trong trái tim nhân loại khi Người lo lắng về sự đau khổ của người khác. Đó là sự nhắc nhở cho mọi Kitô Hữu chúng ta rằng sự cứu độ liên can đến toàn thể con người, là một tổng thể độc đáo giữa thể xác và tinh thần.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết tôn vinh Thiên Chúa trong thân xác chúng con khi mạnh khoẻ cũng như lúc yếu đau" (1 Cr 6,20).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 25/9 Thánh Elzear và Chân Phước Delphina (1286-1323) (1283-1358)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Elzear và Chân Phước Delphina (1286-1323) (1283-1358)
Ðây là cặp vợ chồng duy nhất của dòng Phanxicô được chính thức phong chân phước và phong thánh. Hai ông bà Elzear và Delphina gia nhập dòng Ba Phanxicô và tận hiến trong công việc bác ái cho người nghèo.
Lược sử
Đây là cặp vợ chồng duy nhất của dòng Phanxicô được chính thức phong chân phước và phong thánh.
Ông Elzear xuất thân từ một gia đình quý tộc ở phía nam nước Pháp. Sau khi lấy bà Delphina thì ông mới biết vợ mình thề giữ đồng trinh trọn đời; chính đêm tân hôn ông cũng đã thề như vậy.
Hai ông bà Elzear và Delphina gia nhập dòng Ba Phanxicô và tận hiến trong công việc bác ái cho người nghèo. Lòng đạo đức của họ đã ảnh hưởng tất cả mọi gia nhân trong nhà.
Hai ông bà Elzear và Delphina được mai táng ở Apt, nước Pháp. Ông được phong thánh năm 1369, và bà được phong chân phước năm 1694.
Suy niệm 1: Hôn nhân
Đây là cặp vợ chồng duy nhất của dòng Phanxicô được chính thức phong chân phước và phong thánh.
Dù hiếm muộn, hôn nhân của họ là một hy sinh cho người nghèo và người đau yếu ở chung quanh họ. Nhưng đây là một tình cảnh hiếm muộn tự nguyện, bởi vì sau khi lấy bà Delphina thì Elzear mới biết vợ mình thề giữ đồng trinh trọn đời; chính đêm tân hôn ông cũng đã thề như vậy.
Nhờ hiếm muộn tự nguyện nghĩa là không con cái, hai vợ chồng không còn bận tâm đến việc con cái, để rồi có thể đầu tư hết mọi thời giờ cũng như năng lực và thậm chí tiền của mà quan tâm hết mình đến người nghèo khổ bệnh tật gặp gỡ hằng ngày.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các đôi phối ngẫu hiếm muộn dầu không tự nguyện cũng biết đón nhận hoàn cảnh và chuyển hướng đến việc cùng phục vụ tha nhân.
Suy niệm 2: Dòng Phanxicô
Đây là cặp vợ chồng duy nhất của dòng Phanxicô được chính thức phong chân phước và phong thánh.
Thánh Phanxicô sinh năm 1182 tại Assisi. Vào năm 1207, ngài quyết định đi theo Chúa Kitô trần trụi chịu đóng đinh. Năm 1209, ngài khám phá ra Phúc Âm về sự nghèo khó. Thế rồi ngài đã soạn ra một bản luật đơn giản gọi là "Luật Phúc Âm", gồm những câu Phúc Âm nối lại với nhau, rồi cùng với 7 anh em đầu tiên, ngài đến Rôma yết kiến Đức Giáo Hoàng Innocentio III để xin phê chuẩn. Sau nhiều đắn đo, cuối cùng Đức Giáo Hoàng đã phê chuẩn bằng miệng bản "Luật Phúc Âm", và như thế là chấp nhận "Đặc Sủng sống nghèo" cho các anh em Phan sinh tiên khởi.
Hiện nay gia đình Phan sinh thế giới gồm có Dòng I, Dòng II Clara và Dòng III, cũng gọi là Dòng Phan sinh tại thế. Riêng Dòng I trên thế giới có 3 nhánh tự trị: Anh Em Hèn Mọn có khoảng 15.000 anh em, Anh Em Hèn Mọn Lúp Dài có khoảng 11.300 anh em và có ý định đến Việt Nam lập Dòng, Anh Em Hèn Mọn Viện Tu có khoảng 4.500 và tại Việt Nam hiện có 11 thầy khấn lần đầu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn theo gương các Phan sinh để sống tinh thần nghèo khó như PhúcÂm Chúa dạy.
Suy niệm 3: Đồng trinh
Sau khi lấy bà Delphina thì Elzear mới biết vợ mình thề giữ đồng trinh trọn đời; chính đêm tân hôn ông cũng đã thề như vậy.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bàn đến việc Đức Maria quyết tâm giữ mình trinh khiết. Các giáo phụ đã nhìn nhận Đức Maria như mẫu gương cho đời sống trinh khiết trong hội thánh. Đáp lại tiếng gọi mà Chúa Thánh Thần gợi lên trong con tim, nhiều tín hữu đã khấn giữ trinh khiết theo gương Đức Maria. Họ muốn dâng hiến trót cả cuộc đời để bày tỏ sự gắn bó với tình yêu Chúa, phục vụ tha nhân, tiên báo Nước Trời mai hậu.
Một sự lựa chọn như vậy không phải là từ khước các giá trị nhân bản, nhưng là chọn lựa những giá trị cao lớn hơn. Về điểm này, Đức Phaolô VI trong tông huấn Marialis Cultus đã nhấn mạnh rằng: Nếu ai nhìn tới chứng tá của Phúc Âm một cách khách quan, thì "sẽ nhận thấy rằng việc Đức Maria chọn lựa bậc trinh khiết... không phải là một hành vi khép kín đối với những giá trị của bậc sống hôn nhân, nhưng là một sự chọn lựa can đảm, nhằm tân hiến cuộc đời cho tình yêu của Chúa" (số 37).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết khám phá giá trị và tầm quan trọng của Đức trinh khiết để xây dựng nền văn minh tình thương.
Suy niệm 4: Bác ái
Hai ông bà Elzear và Delphina gia nhập dòng Ba Phanxicô và tận hiến trong công việc bác ái cho người nghèo.
Vào lúc đó ông Elzear, là Bá Tước của Ariano, và là cố vấn cho Công Tước Charles của Calabria ở phía nam nước Ý. Elzear cai quản lãnh thổ của mình trong vương quốc Naples và ở phía nam nước Pháp với sự công bằng. Hàng ngày, có đến mười hai người cùng ăn với họ. Có một bức tượng Thánh Elzear diễn tả ngài đang chữa người cùi.
Sau khi ông Elzear chết, bà Delphina tiếp tục công việc bác ái trong hơn 35 năm nữa. Đặc biệt bà có công trong việc nâng cao trình độ luân lý của triều đình vua Sicily.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống đức ái để thể hiện lòng mến yêu Chúa.
Suy niệm 5: Người nghèo
Hai ông bà Elzear và Delphina gia nhập dòng Ba Phanxicô và tận hiến trong công việc bác ái cho người nghèo.
Giống như Thánh Phanxicô, hai ông bà Elzear và Delphina nhận biết nguồn gốc của các tạo vật. Do đó, họ không nhẫn tâm thống trị bất cứ tạo vật nào nhưng dùng tạo vật như một phương tiện để cảm tạ Thiên Chúa, nhất là đối với người nghèo, một tạo vật luôn được Chúa quan tâm (Đnl 15,7.11).
Thánh Bonaventura viết: "Thánh Phanxicô tìm mọi cơ hội để yêu mến Thiên Chúa trong mọi sự. Ngài vui thích với mọi công trình của bàn tay Thiên Chúa, và từ cái nhìn hân hoan ở trần thế tâm trí ngài vươn cao đến nguồn ban sự sống và là cùng đích của mọi tạo vật. Trong bất cứ gì đẹp đẽ, ngài đều nhìn thấy Đấng Toàn Mỹ, và ngài đi theo Tình Yêu của ngài ở bất cứ đâu mà chân dung ấy được lưu vết nơi các tạo vật; qua tạo vật ngài làm thành một cái thang để có thể trèo lên cao và âu yếm Đấng là nguồn khao khát của mọi loài" (Legenda Major, IX, 1).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ nhìn người nghèo với cặp mắt dữ dằn và không cho gì (Đnl 15,9).
Suy niệm 6: Đạo đức
Lòng đạo đức của họ đã ảnh hưởng tất cả mọi gia nhân trong nhà.
Lòng đạo đức của hai vợ chồng Elzear và Delphina vẫn được thực hiện và đánh giá theo truyền thống tốt đẹp của hội thánh. Đó là hàng ngày họ đều tham dự Thánh Lễ, đi xưng tội hàng tuần và sẵn sàng tha thứ cho người khác, cũng như sống đức ái đối với tha nhân đau yếu nghèo khổ.
Điểm nổi bật đáng lưu ý, đó là lòng đạo đức của họ dầu không mang tính phô trương hoặc cưỡng ép của người làm chủ đối với gia nhân trong nhà, nhưng lại âm thầm gây được ảnh hưởng sâu đậm đối với người chung quanh, với hiệu quả thật diệu kỳ là lôi cuốn họ tự nguyện và thoải mái sống theo cách bền lâu, đúng như ngạn ngữ: lời nói bay đi, gương lành lôi kéo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín về giá trị của gương sáng hơn hẳn lời nói.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 24/9 Thánh Pacifico ở San Severino (1653 - 1721)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Pacifico ở San Severino (1653 - 1721)
Ðời sống của Thánh Pacifico đã thể hiện lời ngài rao giảng, và người nghe nhận ra sức mạnh trong lời của ngài.
Lược sử
Pacifico sinh trưởng trong một gia đình đặc biệt ở San Severino trong vùng Ancona thuộc miền trung nước Ý. Sau khi gia nhập dòng Tiểu Đệ, ngài được thụ phong linh mục. Ngài dạy triết học trong hai năm và sau đó bắt đầu sứ vụ rao giảng một cách thành công.
Pacifico là một người khổ hạnh. Ngài ăn chay trường, sống bằng bánh mì và nước hoặc xúp. "Áo nhặm" của ngài được làm bằng sắt. Sự khó nghèo và vâng phục là hai đức tính mà các anh em tu sĩ nhớ đến ngài nhiều nhất.
Vào năm 35 tuổi, Pacifico bị bệnh nặng khiến ngài bị điếc, bị mù và bị què. Ngài dâng sự đau khổ này để cầu nguyện cho người tội lỗi trở lại. Pacifico cũng là bề trên tu viện San Severino. Ngài được phong thánh năm 1839.
Suy niệm 1: Dòng Tiểu Đệ
Sau khi gia nhập dòng Tiểu Đệ, Pacifico được thụ phong linh mục.
Ngày 1/12/1916, đánh dấu cái chết cô đơn của vị tu sĩ Charles de Foucauld tại sa mạc Sahara, tưởng chừng mọi nỗ lực của một người đã muốn hiến dâng trọn đời mình cho Người Anh Chí Ái là Đức Giêsu và cho những người bị bỏ rơi nghèo hèn Touareg đã rơi vào quên lãng từ đây. Mãi đến năm 1933, cha René Voillaume mới bắt đầu sáng lập dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu, sống theo tinh thần của Charles de Foucauld. Từ đó dòng Tiểu Đệ đã có mặt trên khắp thế giới dưới hình thức những Nhà Huynh đệ và đã có mặt ở Việt Nam vào năm 1954. Dòng chính thức là dòng giáo hoàng từ năm 1968 sau khi Tòa Thánh đã phê chuẩn Hiến Chương.
Như Đức Giêsu ở Nadarét, anh Charles và các Tiểu Đệ được kêu gọi sống đời tận hiến trong đời sống bình thường cho Thiên Chúa và cho hết mọi người không phân biệt giai cấp, tôn giáo hay chủng tộc, nhưng với một thiện cảm đặc biệt với những ai bị bỏ rơi nhất trong xã hội. Anh em đến với họ không phải với mục đích giảng dạy nhưng để sống với họ, chia sẻ cuộc sống, thân phận với họ; giữa họ như một người anh em "dịu hiền" và không biên giới; kiếm kế sinh nhai hằng ngày bằng lao động; chia sẻ thân phận hẩm hiu như mọi người nghèo. Đời sống Tiểu Đệ phải là đời sống chiêm niệm, chiêm niệm giữa đời, gắn bó với Đức Giêsu, cầu nguyện trước Thánh thể hằng ngày.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết họa lại cuộc sống của Đức Giêsu ở Nadarét như linh đạo của dòng Tiểu Đệ.
Suy niệm 2: Rao giảng
Pacifico dạy triết học trong hai năm và sau đó bắt đầu sứ vụ rao giảng một cách thành công.
Thánh Pacifico sống sát với những lời của Thánh Phanxicô. Lời ngài rao giảng và cuộc sống có liên hệ với sự hy sinh hãm mình đền tội. Thánh Phanxicô khuyến khích các tu sĩ rao giảng Lời Chúa mà không phô trương ầm ĩ hoặc vì tư lợi. Và vì thế, lời của họ mới thực sự là lời của Chúa và hướng đến phúc lợi của người nghe. Đời sống của Thánh Pacifico đã thể hiện lời ngài rao giảng, và người nghe nhận ra sức mạnh trong lời của ngài.
"Ngoài ra, tôi khuyên bảo và nhắc nhở các tu sĩ rằng trong sự rao giảng, lời nói của họ phải được nghiên cứu và minh bạch. Họ phải nhắm đến ích lợi và sự thăng tiến tâm linh của người nghe, nói một cách ngắn gọn về tính tốt cũng như tính xấu, sự trừng phạt và sự vinh quang, vì chính Chúa chúng ta cũng nói ngắn gọn khi ở trần thế" (Thánh Phanxicô, Quy Luật 1223, Ch. 9).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khi rao giảng thì phải nhắm đến ích lợi và sự thăng tiến tâm linh của người nghe, chứ không phô trương ầm ĩ hoặc vì tư lợi.
Suy niệm 3: Khổ hạnh
Pacifico là một người khổ hạnh.
Ngài ăn chay trường, sống bằng bánh mì và nước hoặc xúp. "Áo nhặm" của ngài được làm bằng sắt.
Do ăn quả cấm, tội lỗi xuất hiện và một hệ lụy đi theo là vấn đề áo mặc che thân cũng xuất hiện (St 3,7), có nghĩa là thiện ý vẫn còn do sự hiện diện của hình ảnh Thiên Chúa khi con người được tạo dựng không bị lấy đi, nhưng khuynh hướng xấu đến từ tác động của ma quỷ trên ngũ quan của thân xác đã lên ngôi, đến mức điều tốt muốn làm thì không thực hiện mà điều xấu không muốn làm thì lại thực hành (Rm 7,19).
Chính vì thế để phục hồi sức mạnh của thiện ý và để chế ngự khuynh hướng xấu, người thành tâm thiện chí thường dùng đến một phương thế hữu hiệu là sống khổ hạnh đặc biệt trong lãnh vực ăn và mặc. Điều này cũng gặp thấy không chỉ ở người tín hữu công giáo mà ngay cả ở các tôn giáo khác.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống khổ hạnh vì tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn (Mt 26,41).
Suy niệm 4: Nhớ đến ngài
Sự khó nghèo và vâng phục là hai đức tính mà các anh em tu sĩ nhớ đến ngài nhiều nhất.
Tâm lý thường tình con người ai cũng mong được người nhớ đến đặc biệt sau khi tạm biệt nhau nhất là vĩnh biệt nhau bằng cái chết, vì thế vấn đề các kỷ vật được đặt ra. Chính Đức Giêsu trước khi ra đi chịu chết cũng lập nên bí tích Thánh Thể và mời gọi các tông đồ hãy làm để tưởng nhớ đến Ngài (Lc 22,19).
Riêng kỷ vật không phải vật chất mà tinh thần và thiêng liêng mà thánh Pacifico đã để lại cho các anh em tu sĩ và hậu thế là chính hai đức tính khó nghèo và vâng phục qua mẫu gương sống của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hằng chú tâm tích lũy cho mình không phải những kỷ vật vật chất sẽ phai tàn theo thời gian mà là những kỷ vật tinh thần tồn tại mãi qua thời gian là các gương sáng.
Suy niệm 5: Bệnh nặng
Vào năm 35 tuổi, Pacifico bị bệnh nặng.
Ngài bị bệnh nặng khiến ngài bị điếc, bị mù và bị què. Là một bệnh nhân, ngài thấu hiểu nỗi khổ của người bệnh, nên với ơn Chúa ban, ngài đã chữa lành nhiều bệnh nhân đến với ngài.
Về phần ngài, ngài đón nhận với cái nhìn lạc quan. Ngài điếc để không còn nghe được tiếng người đời nhưng có nhiều điều kiện để nghe rõ được tiếng Chúa hơn. Ngài mù nên không cần đến ánh sáng tự nhiên để cậy dựa vào ánh sáng thần linh soi lối dẫn đường ngài tiến lên đỉnh trọn lành nhiều hơn. Ngài què không thể dễ dàng di chuyển được để an tâm ngồi bên chân Chúa như một Maria xưa mà tâm tình với Chúa (Lc 10,39).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bệnh nhân luôn có được cái nhìn lạc quan để vui sống và sống dồi dào các ơn nghĩa Chúa.
Suy niệm 6: Người tội lỗi trở lại
Pacifico dâng sự đau khổ này để cầu nguyện cho người tội lỗi trở lại.
Một người đang lành mạnh và nhất là đang ở độ tuổi thanh xuân đầy sức sống, nay bị bệnh nặng khiến bị điếc, bị mù và bị què như ngài, thật không gì đau khổ bằng. Nhưng ngài đã biết đón nhận thánh giá này cách tích cực bằng cách dâng sự đau khổ này để cầu nguyện cho người tội lỗi trở lại.
Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu cũng phải chịu đau khổ vì bệnh hoạn trong suốt cuộc đời. Nhưng ngài cũng biết sống cách tích cực theo hướng cầu nguyện cho các linh hồn. Quả thật một tử tù cố chấp trước mọi lời khuyên bảo của cha tuyên úy, cuối cùng trước khi lên đoạn đầu đài đã sám hối và chết lành nhờ vào lời cầu nguyện đầy hy sinh của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cũng biết dâng mọi hy sinh và lời cầu cho người tội lỗi trở lại để tạo niềm vui lớn cho cả thiên đàng (Lc 15,7.10).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 23/9 Thánh Padre Piô (1887-1968)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Padre Piô (1887-1968)
"Cuộc đời Kitô Hữu không gì khác hơn là cuộc chiến đấu dai dẳng với chính mình; không có sự thăng hoa của linh hồn để đạt đến sự tuyệt hảo mỹ miều nếu không phải trả giá sự đau khổ" (Cha Piô).
Lược sử
Thánh Padre Piô tên thật là Francesco Forgione, thuộc một gia đình nông dân ở Pietrelcina, miền nam nước Ý. Đã hai lần, cha của Francesco phải xa nhà, đi làm việc ở Jamaica, Nữu Ước để nuôi gia đình.
Khi được 15 tuổi, Francesco gia nhập dòng Capuchin và lấy tên Piô. Ngài được thụ phong linh mục ngày 10 tháng 8 năm 1910 tại Benevento. Vì sức khỏe yếu kém, Cha Pio được ở lại trong nhà Dòng cho tới năm 1916. Tháng 9 cũng 1916, Cha được sai đến hoạt động tông đồ tại San Giovanni Rotondo và ở lại đây cho tới lúc qua đời, trong vòng 52 năm trời (1916-1968). Vào năm 1917, ngài được bài sai đến làm việc ở tu viện San Giovanni Rotondo, cách thành phố Bari 75 dặm.
Vào ngày 20-9-1918, trong lúc cầu nguyện cảm tạ sau Thánh Lễ, Cha Piô được nhìn thấy Chúa Giêsu. Khi thị kiến ấy chấm dứt, ngài được in các dấu thánh ở tay, chân và cạnh sườn.
Cha Piô nhìn thấy Chúa Giêsu trong tất cả sự bệnh hoạn và đau khổ.
Nhiều người tin rằng họ được chữa lành qua sự can thiệp của Cha Piô. Những ai được dự Thánh Lễ của ngài đều cảm thấy sốt sắng; còn những người tò mò thì rất xúc động. Như Thánh Phanxicô, đôi khi áo dòng của Cha Piô cũng bị người ta cắt xén để làm kỷ niệm.
Ngài từ trần ngày 23-9-1968, và được phong chân phước năm 1999. Theo tờ Il Messagero, lễ tôn phong hiển thánh cho cha Pio được cử hành vào ngày 22/9/2002 hoặc 23/09/2002.
Suy niệm 1: Linh mục
Padre Piô được thụ phong linh mục ngày 10 tháng 8 năm 1910 tại Benevento.
Luôn luôn được thiêu đốt bởi lửa yêu mến đối với Chúa, với tha nhân, Cha Pio sống đầy đủ ơn gọi Linh Mục, mỗi ngày mỗi trọn vẹn hơn, để góp phần vào công việc cứu chuộc con người. Ngài thi hành sứ mệnh cứu chuộc nhân loại bằng ba phương thế sau đây: qua việc linh hướng để giúp các linh hồn nên thánh - qua bí tích hòa giải để đưa các người tội lỗi về với Chúa - và qua việc cử hành thánh lễ, để sống kết hợp với Chúa Giêsu hy sinh trên thánh giá. Các tin hữu tham dự, cảm thấy thánh lễ là tột điểm và là sự hoàn hảo của con đường tu đức của Cha Piô. Thánh lễ nhiều lúc kéo dài từng hai, ba tiếng đồng hồ.
Ngoài những phép lạ mà Thiên Chúa đã thể hiện qua sự cầu bầu của Cha Piô ngay từ khi còn sống, cuộc đời ngài là một tấm gương cho mọi Kitô Hữu, nhất là cho linh mục thời nay. Cha Piô khuyên các linh mục: "Vì lòng thương xót mà Thiên Chúa đã đặt chúng ta trên đường Canvê để bước theo Thầy chí thánh. Chính vì lòng thương xót này mà chúng ta được sống giữa đám đông dân chúng. Đừng quên các linh hồn của họ, hãy gần với họ, đừng hoảng hốt khi nhìn thấy thập giá mà chúng ta phải vác, hay đoạn đường dài mà chúng ta phải đi, hay dốc độ của ngọn đồi. Hãy mạnh dạn lên vì biết rằng, sau khi lên đến Canvê sẽ có một con đường khác dẫn lên núi của Thiên Chúa đến Giêrusalem mới là Thiên Đàng, và con đường ấy thật dễ dàng!"
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các linh mục sống thánh để thánh hóa mọi người lương cũng như giáo.
Suy niệm 2: Sức khỏe
Vì sức khỏe yếu kém, Cha Piô được ở lại trong nhà Dòng cho tới năm 1916.
Từ nhỏ, sức khỏe của Cha Piô vốn yếu kém. Cũng chính vì lý do này mà sau khi được thụ phong linh mục, ngài được ở lại trong nhà Dòng. Và khi bị động viên trong Thế Chiến I, ngài cũng được ngài giải ngũ vì các bác sĩ thấy ngài bị ho lao. Nhất là về những năm sau cùng cuộc đời, sức khỏe bị suy giảm rất nhanh chóng. Sau nhiều đau khổ và hoạt động tông đồ, ngài qua đời ngày 23.09.1968, thọ 81 tuổi. Số người dự lễ an táng Cha Pio thật đông không thể tính được.
Là con người có sức khỏe yếu kém và bệnh tật, ngài rất đồng cảm với các bệnh nhân, vì thế theo sự đốc thúc của ngài, một bệnh viện xinh xắn được xây trên rặng Gargano gần đó. Ý tưởng xây cất bệnh viện được phát khởi vào năm 1940; một ủy ban gây quỹ được thành lập. Năm 1946, lễ vỡ đất được bắt đầu. Việc xây cất bệnh viện rất khó khăn về kỹ thuật vì khó kiếm được nước và phương tiện chuyên chở vật liệu xây cất. Sau cùng, "Nhà Chữa Trị Người Đau Khổ" được hình thành với 350 giường bệnh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống tình cảm thông và chia sẻ hoàn cảnh của mọi hạng người bằng các hành động cụ thể.
Suy niệm 3: Hoạt động tông đồ
Tháng 9 cũng 1916, Cha Piô được sai đến hoạt động tông đồ tại San Giovanni Rotondo.
Về phương diện xã hội, Cha Pio dấn thân rất nhiều để làm giảm bớt những đau khổ, những cảnh cùng cực của nhiều gia đình, cách riêng ngài quyết định thành lập "Nhà nâng đỡ sự đau khổ" (Casa del Sollievo della sofferenza), tức bệnh viện San Giovanni Rotondo hiện nay. Công việc xây cất bệnh viện nầy được hoàn thành và được khánh thành ngày 5.05.1956. Đây là một trong các bệnh viện lớn nhất và nổi tiếng nhất tại nước Ý, do Tòa Thánh quản trị. Về phương diện thiêng liêng, Cha Piô thành lập các nhóm cầu nguyện và được ngài gọi là "vườn gieo đức tin và tổ ấm tình yêu". Đức Phaolô VI gọi các nhóm cầu nguyện này là: Phong trào lớn lao của những người cầu nguyện. Hiện nay trên cả thế giới có tới gần 3 ngàn nhóm cầu nguyện liên lỉ như vậy.
Cha Piô đã lừng danh trên cả thế giới về sự thánh thiện ngay từ lúc còn sống: sự thánh thiện không phải là điều được phú bẩm có sẵn, nhưng được xây dựng do các nhân đức, tinh thần cầu nguyện, do hy sinh và việc hiến toàn thân cho Chúa, cho Giáo Hội, cho các linh hồn. Sau khi qua đời, sự thánh thiện và những phép lạ được nói đến mỗi ngày mỗi nhiều thêm mãi. Đây là dấu chỉ cho biết rằng Thiên Chúa muốn làm vinh danh Đầy Tớ trung thành của Ngài trên thế giới này. Trong buổi tiếp kiến dành cho các Bề Trên Dòng Cappucins năm 1971, ba năm sau khi cha Piô qua đời, Đức Phaolô VI (1963-1978) đã nói như sau: "Anh em hãy xem: Cha Piô lừng danh như thế nào? Biết bao người trên thế giới tụ họp chung quanh ngài? Mà tại sao vậy? Phải chăng ngài là một nhà triết học nổi tiếng? Phải chăng ngài là một người khôn ngoan? Phải chăng ngài có những phương tiện truyền thông hùng mạnh? Không. Hoàn toàn không phải vậy. Chỉ vì ngài dâng thánh lễ một cách khiêm tốn, sốt sắng, ngài giải tội từ sáng đến chiều, ngài là người được chọn để được in dấu thánh Chúa. Và không dễ nói lên điều này: Ngài là một người cầu nguyện và một người của đau khổ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hoạt động tông đồ với tinh thần hiến toàn thân cho Chúa, cho Giáo Hội, cho các linh hồn.
Suy niệm 4: Dấu thánh
Cha Piô được in các dấu thánh ở tay, chân và cạnh sườn.
Padre Piô hay người Việt chúng ta thường gọi là Cha Piô Năm Dấu - vì ngài được mang năm dấu thánh của Đức Kitô trong 50 năm - cũng như được nhiều ơn lạ lùng khác, như ơn tiên tri, ơn xuất hiện ở hai nơi cùng một lúc, và ngài có thể biết được quá khứ, của người đối diện. Cha Piô được mang năm dấu thánh của Đức Kitô là vì ngài khao khát muốn thông phần thống khổ với Đức Kitô để cứu chuộc nhân loại. Năm 1918, các tín hữu nhận thấy những vết thương của Cuộc Tử Nạn Chúa và những đặc sủng khác nơi Cha Piô. Và các vết thương chân tay, tự nhiên biến mất, không để lại một vết tích nào, ngay sau khi cha qua đời. Một hiện tượng lạ lùng và gây nhiều ngạc nhiên.
Vào ngày 20-9-1918, trong lúc cầu nguyện cảm tạ sau Thánh Lễ, Cha Piô được nhìn thấy Chúa Giêsu. Khi thị kiến ấy chấm dứt, ngài được in các dấu thánh ở tay, chân và cạnh sườn. Sau biến cố ấy, cuộc đời ngài phức tạp hơn. Các bác sĩ y khoa, các giới chức của Giáo Hội và những người tò mò đến xem Cha Piô. Trong năm 1924 và một lần nữa vào năm 1931, vấn đề dấu thánh được đặt ra; Cha Piô không được phép cử hành Thánh Lễ nơi công cộng hay được giải tội. Ngài không than trách về sự cấm cách này, mà sau đó đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, sau năm 1924 ngài không còn viết gì thêm nữa. Những tư liệu của ngài về sự thống khổ của Chúa Giêsu đều được viết trước năm 1924.
Sau khi được in dấu thánh, Cha Piô ít khi rời tu viện, nhưng biết bao người đã đến thăm ngài. Mỗi buổi sáng, sau Thánh Lễ 5 giờ đầy nghẹt người, ngài nghe xưng tội cho đến trưa. Ngài dùng thời gian nghỉ trưa để chúc lành cho người đau yếu và tất cả những ai đến gặp ngài. Sau đó ngài lại tiếp tục giải tội. Vào lúc ấy, việc giải tội của ngài thường kéo dài 10 tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy số chờ đợi. Nhiều người nói rằng Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ mà chưa bao giờ họ tiết lộ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết đón nhận các khổ đau trong đời như một thông phần với thống khổ của Chúa (1Pr 4,12-14).
Suy niệm 5: Đau khổ
Cha Piô nhìn thấy Chúa Giêsu trong tất cả sự bệnh hoạn và đau khổ.
Một trong những sự đau khổ của Cha Piô là vài lần những người thiếu đạo đức rêu rao những điều tiên tri mà họ gán cho là của ngài. Ngài không bao giờ nói tiên tri về các biến cố trên thế giới, và không bao giờ cho ý kiến về các vấn đề mà ngài cảm thấy thuộc về sự quyết định của các giới chức trong Giáo Hội. Ngài thường nói: "Ai bắt đầu yêu thương, phải chuẩn bị đau khổ." Và quả thật, trong 50 năm trường, Cha Piô đã phải đau khổ, không những về thề xác mà còn đau khổ về tinh thần, vì những nghi ngờ, dèm pha, chống đối của chính anh em linh mục. Nhưng ngài đã can đảm chịu đựng, vâng phục mọi mệnh lệnh của Tòa Thánh. Để có được sự khiêm tốn ấy, cũng như sức mạnh để chịu đựng đau khổ, nguồn ơn sủng duy nhất mà Cha Piô luôn luôn tìm đến, đó là bí tích Thánh Thể trong Thánh Lễ hàng ngày.
Hơn bất cứ ai khác, có lẽ người Hoa Kỳ ngày nay rất thích những cuốn sách chỉ dẫn, cũng những chương trình truyền thanh, các bài báo có tính cách chỉ bảo. Chúng ta say mê với tiến bộ kỹ thuật và không ngừng tìm kiếm các lối tắt để tiết kiệm thời giờ và sức lực. Nhưng như Thánh Phanxicô và Cha Piô biết rất rõ, không có con đường nào ngắn hơn khi sống theo Phúc Âm, không có cách nào tránh được những "giáo huấn khó khăn" của Chúa Giêsu (x. Ga 6,60). Rao giảng về Kitô Giáo mà không có sự hy sinh cá nhân, không có thập giá, thì cũng không khác gì người mãi võ sơn đông quảng cáo bán thuốc trị bá bệnh. Cha Piô coi sự đau khổ của ngài như đáp ứng với lời kêu gọi sống phúc âm. Ngài đã viết: "Cuộc đời Kitô Hữu không gì khác hơn là cuộc chiến đấu dai dẳng với chính mình; không có sự thăng hoa của linh hồn để đạt đến sự tuyệt hảo mỹ miều nếu không phải trả giá sự đau khổ".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhìn vào giá trị của sự đau khổ để kiên tâm vác thập giá theo Chúa.
Suy niệm 6: Lễ tôn phong
Ngài từ trần ngày 23-9-1968, và được phong chân phước năm 1999. Theo tờ Il Messagero, lễ tôn phong hiển thánh cho cha Pio được cử hành vào ngày 22/9/2002 hoặc 23/09/2002.
Ngày 29/09/1982, Tòa Thánh đã ban phép xúc tiến công việc làm án phong Thánh cho cha Piô. Trước hết, Tòa án Giáo Phận Manfredonia khởi sự công việc từ năm 1983, và hoàn tất năm 1990. Ngày 7/12/1990, tất cả các hồ sơ của Giáo Phận được chuyển về Bộ Phong Thánh ở Roma để cứu xét. Ngày 13/06/1997, Bộ Phong Thánh triệu tập phiên họp riêng các nhà thần học cố vấn của Bộ để tham khảo. Ngày 21/10 cũng năm 1997, Phiên họp thường lệ của các Hồng Y và Giám Mục được triệu tập để quyết định. Ngày 18/12 cũng 1997, với sự hiện diện của ĐTC, các Hồng Y và Giám Mục, và Bộ Phong Thánh, đã cho công bố Sắc Lệnh công nhận tính cách anh hùng các nhân đức của Cha Piô. Theo luật, để được tôn phong lên Bậc Chân Phước, cần có một phép lạ. Ban Cáo thỉnh của vụ làm án, đã trình lên Bộ Phong Thánh một sự kiện về việc được chữa lành lạ lùng do lời bầu cử của Đầy Tớ Chúa, Cha Piô. Ngày 21/12/1998, việc được khỏi bệnh cách lạ lùng này được công nhận như phép lạ. Và lễ nghi phong Chân Phước được ấn định vào ngày 2/05 năm 1999.
Một phép lạ do sự cầu bầu của cha Piô Năm Dấu Thánh đã được Tòa Thánh công nhận, và như thế con đường tôn phong hiển thánh cho cha Piô Năm Dấu Thánh được thông hoàn toàn. Tờ Il Messaggero tường trình rằng một ủy ban gồm 5 bác sĩ y khoa, được bộ Phong Thánh mời đã xác nhận không thể có giải thích tự nhiên nào cho sự lành bệnh bất ngờ và hoàn toàn của một bé trai người Ý 8 tuổi. Tháng 1 năm 2000, khi bé trai Matteo Pio Colella nhập bệnh viện do chính cha Piô thành lập, em được chẩn đoán chỉ chờ chết trong một thời gian rất ngắn. Đêm đó, gia đình em trải qua một đêm canh thức cầu nguyện sốt sắng tại căn phòng trong tu viện xưa của cha Piô, bé Matteo – lúc đó đã chìm vào hôn mê, tự nhiên khoẻ mạnh trở lại như không hề có chuyện gì xảy ra. Theo tờ Il Messagero, lễ tôn phong hiển thánh cho cha Pio sẽ được cử hành vào ngày 22/9/2002 hoặc 23/09/2002. Việc tổ chức tôn phong hiển thánh cho cha Piô phải được tính toán hết sức cẩn thận vì số người tham dự sẽ rất đông đảo. Nhiều người tiên đoán có thể lên tới hai triệu người khắp nơi đổ về tham dự.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khi tôn vinh thánh nhân thì cũng hãy học theo các nhân đức của ngài.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 22/9 Thánh Lorenzo Ruiz và Các Bạn (1600?-1637)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Lorenzo Ruiz và Các Bạn (1600?-1637)
Vị linh mục người Nhật và Lazaro vì khiếp sợ khi bị tra tấn bằng tăm tre đâm vào đầu ngón tay, nên đã chối đạo. Nhưng cả hai đã lấy lại cản đảm khi được các bạn khuyến khích.
Lược sử
Lorenzo sinh trưởng ở Manila và bố là người Trung Hoa, mẹ là người Phi Luật Tân, cả hai đều là Kitô Hữu. Bởi thế ngài biết tiếng Tầu và tiếng Tagalog từ bố mẹ, và ngài còn biết tiếng Tây Ban Nha từ các cha Đa Minh mà ngài thường giúp lễ và dọn lễ cho các cha. Ngài sống về nghề chuyên môn viết chữ đẹp (calligrapher), biên chép lại các tài liệu trong một dạng tự tuyệt vời. Ngài là hội viên trung kiên của Hội Ái Hữu Mai Khôi dưới sự bảo trợ của các cha Đa Minh. Ngài lập gia đình và được hai trai một gái.
Cuộc đời Lorenzo thay đổi bất ngờ khi ngài bị kết tội sát nhân. Chúng ta không được biết gì hơn ngoài lời kể của hai cha Đa Minh là "Lorenzo bị nhà cầm quyền lùng bắt vì tội giết người mà ngài có mặt tại hiện trường hoặc họ ghép tội cho ngài."
Vào lúc đó, ba linh mục Đa Minh, Antonio Gonzalez, Guillermo Courtet và Miguel de Aozaraza, chuẩn bị dong buồm sang Nhật mặc dù ở đó đang bắt đạo dữ dội. Cùng đi với họ có một linh mục Nhật Bản, Vicente Shiwozuka de la Cruz, và một giáo dân tên Lazaro, bị phong cùi. Lorenzo, đang lẩn tránh nhà cầm quyền nên muốn được nhập bọn, và mãi cho đến khi ra tới biển thì Lorenzo mới biết là họ sang Nhật.
Họ đổ bộ ở Okinawa. Lorenzo có thể tiếp tục đến Formosa, nhưng, ngài viết, "Tôi quyết định ở lại với các cha, vì nếu đến đó người Tây Ban Nha sẽ treo cổ tôi." Họ ở Nhật không được bao lâu thì bị lộ tẩy, bị bắt và bị giải đến Nagasaki. Đây là một nơi mà máu người Công Giáo đã chảy thành sông. Khoảng 50,000 người Công Giáo sống ở đây đã bị phân tán hay bị chết vì đạo.
Các linh mục thừa sai, cũng như Lazaro và Lorenzo bị tra tấn một cách dã man.
Vị bề trên của họ, Cha Antonio, đã chết trong cùng ngày. Vị linh mục người Nhật và Lazaro vì khiếp sợ khi bị tra tấn bằng tăm tre đâm vào đầu ngón tay, nên đã chối đạo. Nhưng cả hai đã lấy lại can đảm khi được các bạn khuyến khích.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh cho sáu vị này và 10 người khác, là những người Á Châu và Âu Châu, nam cũng như nữ, là những người đã loan truyền đức tin ở Phi Luật Tân, Formosa và Nhật. Thánh Lorenzo Ruiz là người Phi Luật Tân đầu tiên tử đạo.
Suy niệm 1: Giúp lễ và dọn lễ
Lorenzo thường giúp lễ và dọn lễ cho các cha.
Cuộc sống đạo của ngài đã khởi sự một cách nhiệm mầu qua việc gắn bó với Chúa và các linh mục trong việc giúp lễ và dọn lễ cho các cha. Sự gắn bó này lại được nuôi dưỡng và phát triển đúng hướng, khi ngài trở thành một hội viên trung kiên của Hội Ái Hữu Mai Khôi dưới sự bảo trợ của các cha Đa Minh.
Cuộc đời Lorenzo thay đổi bất ngờ khi ngài bị kết tội sát nhân. Vào lúc đó, ba linh mục Đa Minh, Antonio Gonzalez, Guillermo Courtet và Miguel de Aozaraza, chuẩn bị dong buồm sang Nhật mặc dù ở đó đang bắt đạo dữ dội. Lorenzo, đang lẩn tránh nhà cầm quyền nên muốn được nhập bọn, và mãi cho đến khi ra tới biển thì Lorenzo mới biết là họ sang Nhật. Họ đổ bộ ở Okinawa. Lorenzo có thể tiếp tục đến Formosa, nhưng, ngài viết, "Tôi quyết định ở lại với các cha, vì nếu đến đó người Tây Ban Nha sẽ treo cổ tôi." Họ ở Nhật không được bao lâu thì bị lộ tẩy, bị bắt và bị giải đến Nagasaki.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra bàn tay quan phòng diệu kỳ của Chúa để luôn an tâm sống theo đến cùng.
Suy niệm 2: Viết chữ đẹp
Lorenzo sống về nghề chuyên môn viết chữ đẹp (calligrapher).
Với nghề này, ngài biên chép lại các tài liệu trong một dạng tự tuyệt vời, mang lại nhiều hữu ích cho độc giả đương thời cũng như cho các thế hệ mai sau trong việc lưu trữ và truyền bá.
Nhất là bằng hành vi tử đạo, chẳng những ngài viết vào lịch sử Giáo Hội Phi một trang sử hào hùng bằng một gương sáng anh dũng, vì ngài là người Phi Luật Tân đầu tiên tử đạo, mà ngài còn được Giáo Hội Vinh Quang viết tên ngài trên thiên quốc.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cũng biết viết vào lịch sử đời chúng con những bút tích lành thánh gương mẫu.
Suy niệm 3: Hội viên trung kiên
Lorenzo là hội viên trung kiên của Hội Ái Hữu Mai Khôi.
Một nét đáng nêu bật ở ngài, đó chẳng phải ngài là một hội viên mà là một hội viên trung kiên qua việc chấp hành nghiêm túc linh đạo của Hội Ái Hữu Mai Khôi.
Đặc tính trung kiên này đã biểu lộ đậm nét trong khi ngài bị bắt bớ và bị tra tấn. Khi đến phiên Lorenzo bị tra tấn, ngài hỏi người thông dịch: "Tôi muốn biết nếu bỏ đạo, họ có cho tôi sống không?" Người thông dịch không hứa hẹn gì, và Lorenzo, trong những giờ sau đó đã cảm thấy đức tin mạnh mẽ hơn. Ngài trở nên dũng cảm, ngay cả gan dạ với các lý hình.
Quan án: "Nếu tao cho mày sống, mày có từ bỏ đức tin không?" Lorenzo: "Tôi không bao giờ làm điều đó, vì tôi là một Kitô Hữu, và tôi sẽ chết cho Thiên Chúa, và nếu tôi có cả ngàn mạng sống tôi cũng sẽ dâng lên cho Thiên Chúa. Bởi thế, ông muốn làm gì thì làm."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con rèn luyện đức trung kiên với Chúa từng giây phút để có thể mãi trung kiên với Chúa đến cuối đời.
Suy niệm 4: Kết tội sát nhân
Cuộc đời Lorenzo thay đổi bất ngờ khi ngài bị kết tội sát nhân.
Chúng ta không được biết gì hơn ngoài lời kể của hai cha Đa Minh là "Lorenzo bị nhà cầm quyền lùng bắt vì tội giết người mà ngài có mặt tại hiện trường hoặc họ ghép tội cho ngài".
Xưa kia người mù từ lúc bình sinh được sáng mắt đã nêu lên vấn nạn: một người tội lỗi và không đến từ trời thì làm sao làm được sự lạ này? (Ga 9,25.31-33). Nếu thế vấn đề cũng được nêu lên: một kẻ sát nhân làm sao có thể là một hội viên trung kiên và một thánh nhân tử đạo được.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tỉnh thức để không sa vào mưu chước tinh ranh của ma quỷ (Mt 26,41).
Suy niệm 5: Tra tấn
Các linh mục thừa sai, cũng như Lazaro và Lorenzo bị tra tấn một cách dã man.
Sau khi bị đổ nước vào cổ họng, họ được đặt nằm ngửa trên mặt đất. Một tấm ván dài được đặt trên bụng nạn nhân, và các tên lính đạp lên tấm ván để nước ứa ra từ miệng, mũi và tai nạn nhân.
Cả năm người bi giết chết bằng cách treo ngược đầu trong một cái hố. Chung quanh bụng của họ bị đeo bàn gông và đá được chất lên các bàn gông để gia tăng sức ép. Họ bị trói chặt để máu luân chuyển chậm hơn và như thế cái chết sẽ kéo dài hơn. Họ bị treo như thế trong ba ngày. Vào lúc đó, Lorenzo và Lazaro đã chết. Ba vị linh mục Đa Minh vẫn còn sống, nên bị chặt đầu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đủ ơn sức mạnh của Chúa để cam chịu mọi cực hình tinh thần lẫn thể xác vì Chúa.
Suy niệm 6: Chối đạo
Vị linh mục người Nhật và Lazaro vì khiếp sợ khi bị tra tấn bằng tăm tre đâm vào đầu ngón tay, nên đã chối đạo. Nhưng cả hai đã lấy lại cản đảm khi được các bạn khuyến khích.
Là những Kitô Hữu ngày nay, chúng ta tự hỏi không biết làm thế nào để đứng vững trong hoàn cảnh như các vị tử đạo phải đối diện? Chúng ta thông cảm với hai vị đã có lần từ chối đức tin.
Chúng ta hiểu giây phút thử thách hãi hùng của Lorenzo. Nhưng chúng ta cũng thấy sự can đảm-không thể giải thích bằng ngôn ngữ loài người-xuất phát từ kho tàng đức tin của họ. Sự tử đạo, giống như đời sống, là một phép lạ của ơn sủng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín chúng con không làm được gì tốt nếu không có ơn trợ giúp của Chúa (Ga 15,5).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 21/9 Thánh Mátthêu
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Mátthêu
Người Pharisiêu coi Mátthêu là hạng "tội lỗi." Ðức Kitô nói rằng việc yêu thương tha nhân thì quan trọng hơn.
Lược sử
Mátthêu là người Do Thái làm việc cho đạo quân xâm lăng La Mã, thu thuế của những người đồng hương Do Thái. Do đó sau này, những người thu thuế thường bị khinh miệt như người phản bội dân Do Thái. Người Pharisiêu coi họ là hạng "tội lỗi." Bởi thế, thật bàng hoàng khi Đức Kitô gọi một người như vậy để trở nên môn đệ của Người.
Mátthêu lại làm Đức Kitô thêm khó khăn khi tổ chức một bữa tiệc tiễn biệt tại nhà của ông. Phúc Âm kể cho chúng ta biết "nhiều người thu thuế" và "những người nổi tiếng tội lỗi" đã đến dự tiệc. Người Pharisiêu lại càng thêm khó chịu. Một người được cho là vị thầy vĩ đại lại có liên hệ gì với hạng người vô luân đó? Câu trả lời của Đức Kitô là, "Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu. Hãy tìm hiểu ý nghĩa của câu, 'Ta muốn lòng thương xót, chứ không phải của lễ.' Tôi không đến để kêu gọi người công chính, nhưng là người tội lỗi" (Mt. 9:12b-13). Trong Tân Ước không còn đoạn nào nói về Mátthêu.
Suy niệm 1: Thu thuế
Mátthêu là người Do Thái làm việc cho đạo quân xâm lăng La Mã, thu thuế của những người đồng hương Do Thái.
Mặc dù người La Mã có lẽ không cho phép moi tiền của người chịu thuế một cách quá đáng, nhưng điều họ quan tâm vẫn là hầu bao của mình nên họ thường làm ngơ về những hành động của "người thầu thuế". Do đó sau này, những người thu thuế thường bị khinh miệt như người phản bội dân Do Thái. Người Pharisiêu coi họ là hạng "tội lỗi."
Bị người Pharisiêu đánh giá là hạng "tội lỗi", nhưng thực chất thì sao? Dụ ngôn người Pharisiêu và người thu thuế cùng lên đền thờ cầu nguyện cho hay chính người thu thuế khi ra về thì lại là người công chính hơn (Lc 18,14). Và thử hỏi có người Pharisiêu nào sống được đức ái và đức công bình như một trưởng nhóm thu thuế là Dakêu không? (Lc 19,8).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng xét người nhưng hãy chú tâm xét mình để mỗi ngày một nên công chính hơn.
Suy niệm 2: Gọi
Thật bàng hoàng khi Đức Kitô gọi một người như vậy để trở nên môn đệ của Người.
Trong hoàn cảnh bất thường, Đức Kitô đã chọn một trong những người làm nền tảng cho Giáo Hội, mà qua công việc làm của ông, những người khác nghĩ rằng ông không đủ thánh thiện với chức vụ đó. Nhưng ông đã thành thật thú nhận mình là một người tội lỗi mà Đức Kitô đã đến để kêu mời. Ông đã thật tình nhận biết chân lý khi ông nhìn thấy Người. "Và ông đã đứng dậy đi theo Người" (Mt 9,9b).
Chúng ta mường tượng ra Thánh Mátthêu, sau biến cố kinh khủng bao quanh cái chết của Đức Kitô, cùng với các tông đồ đi đến nơi mà Đức Kitô Phục Sinh đã triệu tập họ. "Khi họ trông thấy Người, họ đã thờ lậy, nhưng vẫn hồ nghi. Và Đức Kitô đến gần và nói với họ [chúng ta nghĩ Đức Kitô sẽ nhìn đến từng người, và Mátthêu lắng nghe một cách phấn khởi như các tông đồ khác], 'Mọi quyền năng trên trời và dưới đất đã được ban cho Thầy. Bởi thế, hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần, hãy dạy bảo họ tuân giữ những gì mà Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy sẽ luôn ở với anh em, cho đến tận thế" (Mt. 28,17-20). Thánh Mátthêu không bao giờ quên được ngày ấy. Ngài đã loan truyền Tin Mừng trong suốt cuộc đời. Đức tin của chúng ta dựa vào chứng tá của ngài và các tông đồ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn ý thức về hồng ân ơn gọi của mình để sống thật xứng đáng.
Suy niệm 3: Bữa tiệc tiễn biệt
Mátthêu lại làm Đức Kitô thêm khó khăn khi tổ chức một bữa tiệc tiễn biệt tại nhà của ông.
Sao bữa tiệc tiễn biệt này lại gây thêm khó khăn cho Đức Kitô? Phúc Âm kể cho chúng ta biết "nhiều người thu thuế" và "những người nổi tiếng tội lỗi" đã đến dự tiệc. Người Pharisiêu lại càng thêm khó chịu. Một người được cho là vị thầy vĩ đại lại có liên hệ gì với hạng người vô luân đó?
Lập trường xa tránh người tội lỗi của nhóm Pharisiêu luôn dị ứng trước thái độ gần gũi và hòa đồng của Đức Kitô. Chính vì thế Ngài thường gặp khó khăn và thậm chí bị chống đối như một trường hợp đã xảy ra tại một bữa tiệc khác ở nhà ông Simôn (Lc 7,39).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra giá trị của lời cổ nhân: không vào hang cọp làm sao bắt được cọp con.
Suy niệm 4: Đau yếu
Người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu.
Với quyền năng có thể chữa lành được bệnh tật, thậm chí làm cho kẻ chết được sống lại, Đức Giêsu đã thu hút được quần chúng mỗi khi xuất hiện, kể cả những người ngoại giáo và ngoại quốc, không chỉ hạng lê dân mà còn những bậc có địa vị xã hội đạo đời (Mt 15,22;Mc 5,22;Lc 7,2).
Thậm chí họ còn cùng nhau theo đường bộ chạy đến trước đón Ngài (Mc 6,33), hoặc dùng thuyền vượt sang bờ bên kia để tìm kiếm Ngài (Ga 6,24). Họ tìm mọi cách để đến được với Ngài cho dầu phải leo lên mái nhà và dỡ ngói ra (Lc 5,19), hoặc nhờ các môn đệ kiếm tìm giúp (Mc 1,37).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hằng chạy tìm đến Chúa chữa lành bệnh tật linh hồn chúng con.
Suy niệm 5: Lòng thương xót
Ta muốn lòng thương xót, chứ không phải của lễ.
Đức Kitô không gạt vấn đề thờ phượng và nghi lễ sang một bên; Người chỉ nói rằng việc yêu thương tha nhân thì quan trọng hơn. Dụ ngôn người Samari tốt lành với hành vi cứu giúp tận tình một nạn nhân trên đường đã được Chúa đánh giá cao hơn hẳn lối sống của cả thầy tư tế lẫn thầy Lêvi (Lc 10,30-37).
Sự đánh giá này lại đã được Chúa cụ thể hóa bằng một lời khuyên dạy tích cực: "Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 5,23-24).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sắm sẵn nhiều lễ vật dâng Chúa là các hành vi thực thi lòng thương xót.
Suy niệm 6: Tội lỗi
Tôi không đến để kêu gọi người công chính, nhưng là người tội lỗi.
Sứ vụ của Đức Giêsu khi được sai đến thế gian không phải để đoán xét mà cứu vớt (Ga 3,17), vì Thiên Ý là không muốn cho bất cứ một ai phải hư mất (Mt 18,14).
Vì thế Ngài chú tâm đến người tội lỗi (Mt 18,11), đến mức sẵn sàng đánh một cú liều là để 99 con chiên ngoan hiền nơi đồng vắng mà chạy tìm cho bằng được con chiên lạc, và khi tìm được thì vui mừng vác trên vai trở về rồi mở tiệc khoản đãi mời bạn bè cùng chung vui (Lc 15,4-6).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng ỷ lại vào tình thương Chúa đối với tội nhân mà sa ngã phạm tội làm tổn thương Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 20/9 Thánh Anrê Kim Taegon, Phaolô Chong Hasang và Các Bạn
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Anrê Kim Taegon,
Phaolô Chong Hasang và Các Bạn
"Giáo Hội Ðại Hàn thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt." (ÐGH Gioan Phaolô II).
Lược sử
Anrê Kim Taegon là linh mục Đại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo. Khi trở về quê, ngài có nhiệm vụ thu xếp cho các vị thừa sai vào Đại Hàn qua ngã đường biển, nhằm tránh né sự kiểm soát biên phòng. Ngài bị bắt, bị tra tấn và sau cùng bị chặt đầu ở sông Han gần thủ đô Hán Thành.
Thánh Phaolô Chong Hasang là một chủng sinh, 45 tuổi.
Giáo Hội tại gia bắt đầu thành hình vào khoảng năm 1777.
Khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến Nam Hàn năm 1984 để phong thánh, ngoài Thánh Anrê và Phaolô, còn 98 người Đại Hàn và ba vị thừa sai người Pháp, tất cả đều tử đạo trong khoảng 1839 và 1867. Trong số đó có các giám mục và linh mục, nhưng hầu hết là giáo dân: 47 phụ nữ, 45 quý ông.
Trong những người tử đạo năm 1839 là Columba Kim, một phụ nữ 26 tuổi. Một em trai 13 tuổi, Phêrô Ryou, bị tra tấn dã man. Em bị xiết cổ cho đến chết. Protase Chong, một người quý tộc 41 tuổi, tuyên xưng đức tin và bị tra tấn cho đến chết.
Suy niệm 1: Linh mục Đại Hàn đầu tiên
Anrê Kim Taegon là linh mục Đại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo.
Cha của ngài, ông Ignatius Kim, là một tân tòng nhưng lại có một đức tin thật trổi vượt còn hơn cả những người tín hữu đạo gốc. Chẳng những ông đã dày công giáo dục đức tin cho quý tử ông để trở thành một linh mục, mà còn nêu gương tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925.
Sau khi được rửa tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1.300 dặm để gia nhập chủng viện ở Macao, Trung Hoa. Sáu năm sau, ngài xoay sở để trở về quê hương qua ngả Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và thụ phong linh mục.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng đánh giá thấp các người tân tòng, vì họ có thể trở thành những chứng nhân đức tin trổi vượt.
Suy niệm 2: Chủng sinh
Thánh Phaolô Chong Hasang là một chủng sinh, 45 tuổi.
Kitô Giáo được du nhập vào Đại Hàn khi Nhật xâm lăng quốc gia này vào năm 1592, lúc ấy có một số người Đại Hàn được rửa tội, có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Đại Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả thuế. Một trong những chuyến đi này, khoảng năm 1777, sách vở tài liệu Công Giáo của các cha dòng Tên ở Trung Hoa được lén lút đem về để dạy bảo người tín hữu Kitô Đại Hàn.
Đó là một lý do giúp hiểu được phần nào vì sao Phaolô Chong Hasang vẫn còn là một chủng sinh dầu đã được 45 tuổi. Tinh thần và nhiệt huyết tu trì sẵn có, nhưng đâu có linh mục đứng ra trực tiếp giúp đỡ, vì khoảng mười năm sau đó tức năm 1787, khi một linh mục Trung Hoa lén lút đến Đại Hàn, ngài thấy có đến 4.000 người Công Giáo mà chưa có ai được gặp một vị linh mục. Tài liệu học hỏi giáo lý đã hiếm hoi thì làm sao có chương trình huấn luyện một chủng sinh đủ trình độ để có thể thụ phong linh mục, mặc dù bảy năm sau tức năm 1794, số người Công Giáo ấy đã lên đến khoảng 10.000 người. Và sau cùng, mãi vào năm 1883 tự do tôn giáo được ban hành.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các chủng sinh tận dụng thời gian đang được tu luyện tự do hiện nay để chuẩn bị thật xứng đáng với thiên chức.
Suy niệm 3: Giáo Hội tại gia
Giáo Hội tại gia bắt đầu thành hình khoảng năm 1777.
Chúng ta bàng hoàng khi thấy sau khi được thành lập, Giáo Hội Đại Hàn hoàn toàn là một Giáo Hội của giáo dân khoảng hơn một chục năm. Làm thế nào mà giáo hội ấy sống còn khi không có bí tích Thánh Thể? Điều này cho thấy, không phải các bí tích không có giá trị, nhưng phải có một đức tin sống động trước khi thực sự được hưởng ơn ích của bí tích Thánh Thể. Bí tích là dấu chỉ của sự hoạt động và đáp ứng của Thiên Chúa đối với đức tin sẵn có. Bí tích làm gia tăng ơn sủng và đức tin, nhưng chỉ khi nào sẵn có một điều gì đó để được gia tăng.
"Giáo Hội Đại Hàn thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt. Do đó, chỉ trong vòng một thế kỷ, Giáo Hội đã kiêu hãnh với 10.000 vị tử đạo. Cái chết của các vị tử đạo này trở thành men cho Giáo Hội và đưa đến sự triển nở huy hoàng của Giáo Hội Đại Hàn ngày nay. Ngay cả bây giờ, tinh thần bất khuất ấy vẫn còn trợ giúp cho người tín hữu của Giáo Hội thầm lặng ở miền bắc bên kia vĩ tuyến" (ĐGH Gioan Phaolô II, bài giảng trong lễ phong thánh).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các giáo dân Việt Nam chúng con luôn vững mạnh trong đức tin để xứng với các vị tiền bối tử đạo.
Suy niệm 4: Phụ nữ
Trong số người tử đạo năm 1839 là Columba Kim, 1 phụ nữ 26 tuổi.
Ngài bị cầm tù, bị tra tấn bằng vật dụng bằng sắt nung nóng và than. Ngài và người em là Agnes bị lột quần áo và bị giam chung với những tù nhân hình sự, nhưng họ không bị làm nhục. Sau khi Columba phàn nàn về sự sỉ nhục này, từ đó về sau không một phụ nữ nào bị nhục nhã như vậy nữa. Hai người bị chém đầu.
Hình thức sỉ nhục các vị tử đạo bằng việc lột trần này cũng đã được áp dụng cho thánh nữ Perpetua trong cuộc bách đạo của Hoàng Đế Septimius Severus, cũng như cho Cha Nicôla và các bạn (gồm 11 linh mục dòng Phanxicô và 8 linh mục triều) còn được gọi là các "vị tử đạo ở Gorcum" vào ngày 9 tháng Bảy 1572. Các tù nhân trong thời Đức Quốc Xã trong đó có Cha Kolbe cũng bị nhốt trần truồng trong hầm tử thần ở trại tập trung Auschwitz, và ngài đã chết thay cho một bạn tù vượt ngục vào ngày 31 tháng Bảy 1941.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mọi người đừng sỉ nhục nhưng biết tôn trọng nhân phẩm của nhau.
Suy niệm 5: Em trai
Một em trai 13 tuổi, Phêrô Ryou.
Em bị tra tấn dã man đến độ em có thể lấy da thịt của mình mà ném vào quan tòa. Em bị xiết cổ cho đến chết.
Thời Macabê, một thiếu niên cũng anh dũng tử đạo sau khi ném vào nhà vua những lời đanh thép: "Các người còn chờ đợi gì nữa, tôi chẳng nghe theo lệnh vua đâu, nhưng tôi chỉ vâng theo lệnh của Lề Luật Thiên Chúa đã ban cho cha ông chúng tôi qua ông Môsê. Còn vua đã bày ra đủ thứ trò độc ác để hại người Híp-ri; vua sẽ chẳng thoát khỏi bàn tay Thiên Chúa. Chúng tôi phải khổ là vì tội chúng tôi. Nếu Đức Chúa hằng sống đã giáng cơn thịnh nộ xuống chúng tôi trong chốc lát, để sửa phạt và giáo huấn, thì Người lại cho các tôi tớ được hòa giải với Người. Còn vua, hỡi kẻ vô đạo và đê tiện nhất trong loài người, vua đừng có tự cao tự đại hão huyền, mà nuôi những hy vọng viễn vông, và đang tay hành hạ các tôi tớ Chúa Trời. Vì vua sẽ không thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa toàn năng, là Đấng thấu suốt mọi sự. Còn các anh của chúng tôi, sau khi đã chịu cực hình trong giây lát vì lòng trung thành với Giao Ước của Thiên Chúa thì giờ đây đang được hưởng sự sống đời đời. Còn vua, khi Thiên Chúa xét xử, vua sẽ phải chuốc lấy án phạt vì tội kiêu ngạo. Phần tôi, cũng như các anh tôi, tôi xin phó dâng xác hồn theo luật pháp của cha ông, và khẩn cầu Thiên Chúa sớm thương đến dân tộc chúng tôi. Tôi cũng xin Người cho vua khi gặp thử thách và tai hoạ, phải tuyên xưng rằng chỉ có Người là Thiên Chúa" (2Mc 7,30-37).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp giới trẻ can đảm sống đức tin hôm nay để trở thành những chứng nhân đức tin trong tương lai.
Suy niệm 6: Quý tộc
Protase Chong, một người quý tộc 41 tuổi.
Sau khi bị tra tấn, ông đã chối đạo và được thả tự do. Sau đó, ông trở lại, tuyên xưng đức tin và bị tra tấn cho đến chết.
Trong số các vị tử đạo của Giáo Hội Đại Hàn, chúng ta nhận thấy có sự góp mặt của đầy đủ mọi thành phần dân Chúa không phân biệt giới tính, tuổi tác cũng như địa vị xã hội, nhất là tình cảnh của mỗi người, trong đó cần lưu ý đến người quý tộc, vốn đã hãi sợ đến mức chối đạo, nhưng rồi cuối cùng cũng ăn năn hối cải và chết vì Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng vội vàng đoán xét hoặc kết án một ai trước khi và cả khi họ nhắm mắt lìa đời.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 19/9 Thánh Januarius (c. 305?)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Januarius (c. 305?)
Januarius là giám mục của Benevento, nước Ý, bị chặt đầu cùng với phó tế Festus; thầy đọc sách Desiderius; các phó tế Sosius và Proculus; và hai giáo dân, Eutyches và Acutius.
Lược sử
Ngài là giám mục và tử đạo, có khi còn được gọi là Gennaro, ngài nổi tiếng từ lâu vì máu của ngài hóa lỏng vào ngày lễ kính. Januarius là giám mục của Benevento, nước Ý, bị chặt đầu cùng với phó tế Festus; thầy đọc sách Desiderius; các phó tế Sosius và Proculus; và hai giáo dân, Eutyches và Acutius.
Tất cả đều bị bắt khi đến thăm Sossus, là phó tế và đang bị tù ở Pozzuoli. Sau khi bị bắt, họ bị quăng vào đấu trường để gấu xé xác nhưng chúng không làm hại các ngài, bởi đó họ bị chém đầu.
Không ai có thể giải thích được sự kiện máu thánh nhân hóa lỏng xảy ra hàng năm khi ngày lễ này được cử mừng qua bao thế kỷ, và đã có từ bốn trăm năm nay.
Suy niệm 1: Máu của ngài hóa lỏng
Januarius nổi tiếng từ lâu vì máu của ngài hóa lỏng vào ngày lễ kính.
"Một khối lượng mầu đen chiếm nửa bình thủy tinh nhỏ được đậy kín, và được cất giữ trong một hộp đựng ở vương cung thánh đường Naples là máu của Thánh Januarius, đã hóa lỏng 18 lần trong năm... Hiện tượng này đã có từ thế kỷ 14... Truyền thuyết nói rằng Eusebia, là người đã cất giữ máu thánh nhân sau khi ngài bị tử đạo... Khi máu hóa lỏng, người ta đưa hộp thánh tích tới gần bàn thờ, là nơi được tin rằng đang chôn cất đầu của thánh nhân. Trong khi tín hữu cầu nguyện, thường rất huyên náo, vị linh mục xoay chiếc hộp vài lần trước sự chứng kiến của giáo đoàn cho đến khi máu hóa lỏng...
Một vài cuộc thử nghiệm đã được thi hành, nhưng không thể giải thích hiện tượng này bằng luật tự nhiên. Tuy nhiên, cũng có những phép lạ tương tự với máu của các Thánh Gioan Tẩy Giả, Stephen, Pantaleon, Patricia, Nicholas Tolentino và Thánh Aloysius Gonzaga - hầu hết trong vùng lân cận của Naples" (Sách Bách Khoa Công Giáo)
Ngày 21/3/2015, máu thánh Januarius hóa lỏng khi ĐTC Phanxicô hôn kính.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cảm nghiệm được giá trị vô song của giòng máu rất châu báu Chúa đã đổ ra vì tội lỗi chúng con, để chúng con hằng siêng năng lãnh nhận và chừa bỏ tội lỗi.
Suy niệm 2: Chặt đầu
Januarius là giám mục của Benevento, nước Ý, bị chặt đầu.
Cùng bị chặt đầu với ngài, còn có phó tế Festus; thầy đọc sách Desiderius; các phó tế Sosius và Proculus; và hai giáo dân, Eutyches và Acutius.
Nhưng trước khi bị chặt đầu, tất cả các ngài đã bị quăng vào đấu trường để gấu xé xác nhưng chúng không làm hại các ngài, bởi đó họ bị chém đầu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có đủ ơn trợ giúp của Chúa để cam chịu mọi gian truân vì Chúa.
Suy niệm 3: Đọc sách
Januarius là giám mục của Benevento, nước Ý, bị chặt đầu cùng với phó tế Festus; thầy đọc sách Desiderius; các phó tế Sosius và Proculus; và hai giáo dân, Eutyches và Acutius.
Theo nghi thức trước khi có cuộc cải tổ của Phụng Vụ mới, Giáo Hội sắp xếp trong tiến trình tiến lên thiên chức linh mục, thì có bốn chức nhỏ được gọi là cắt tóc tức chức một để chính thức gia nhập vào hàng giáo sĩ, chức hai tức là đọc sách và dĩ nhiên là các bài sách thánh, chức ba là trừ quỷ và chức tư là giúp lễ.
Tiếp đến là các chức lớn: chức năm được gọi là phụ phó tế với quyết định tự nguyện sống độc thân trọn đời, chức sáu được gọi là phó tế với một số đặc quyền phụ giúp linh mục là công bố Tin Mừng, giảng lễ, trao Mình Thánh Chúa, cử hành bí tích Rửa Tội cũng như chứng hôn. Và cuối cùng là thánh chức linh mục.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dầu được lãnh nhận chức đọc sách hay không, đều tôn kính việc đọc Lời Chúa bằng việc dọn trước kỹ lưỡng cũng như tuyên đọc rõ ràng và khoan thai giúp thính giả lắng nghe cách sốt sắng.
Suy niệm 4: Thăm
Tất cả đều bị bắt khi đến thăm Sossus, là phó tế và đang bị tù ở Pozzuoli.
Lúc còn tại thế, Chúa Giêsu cũng rất coi trọng việc thăm viếng. Ngài đã từng đến nhà anh chị em Ladarô, Mácta và Maria (Lc 10,38), thậm chí nhà ông trưởng thu thuế Dakêu (Lc 19,6), đặc biệt nhà bà nhạc mẫu của Phêrô đang lâm bệnh (Mt 8,14).
Ngài cũng nêu bật việc thăm viếng tù nhân như một tiêu chuẩn để phán xét và thưởng phạt (Mt 25,39.44). Hiểu thế nên tất cả các ngài tiến hành cuộc thăm viếng phó tế Sossus đang bị cầm tù cho dầu phải bị bắt và sau đó chịu tử đạo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị chủ chăn đánh giá cao việc thăm viếng mục vụ trong chương trình sống của mình.
Suy niệm 5: Không làm hại
Sau khi bị bắt, họ bị quăng vào đấu trường để gấu xé xác nhưng chúng không làm hại các ngài, bởi đó họ bị chém đầu.
Thời vua Đarius, ngôn sứ Đanien cũng từng bị ném vào hang sư tử nhưng qua đêm vẫn được an bình không có một vết tích nào trên người, trong khi nhóm người kiện cáo Đanien cùng vợ con chưa rơi xuống đáy hang thì đã bị sư tử vồ lấy và xé xương hết thảy (Đn 6,15-24).
Trong cuộc bách đạo của Hoàng Đế Septimius Severus, cùng bị bắt với Perpetua là người nô lệ giúp việc đang mang thai tên Phelixita và người chồng của cô là Revocatus, cùng với ba người đàn ông Secundulus, Sarutus và Saturninus. Vào ngày hành quyết được làm mồi cho thú dữ, tù nhân nam được làm mồi cho beo và gấu, các tù nhân nữ được làm mồi cho con bò điên. Nhưng chúng cũng không làm hại các ngài. Cuối cùng Perpetua và Phelixita cùng các tù nhân nam bị xử tử bởi các đao phủ lấy giáo đâm vào cổ họng họ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn vững tin vào quyền năng Chúa vào giờ mà Chúa đã định liệu cho mỗi người.
Suy niệm 6: Giải thích
Không ai có thể giải thích được sự kiện máu thánh nhân hóa lỏng xảy ra hàng năm khi ngày lễ này được cử mừng qua bao thế kỷ, và đã có từ bốn trăm năm nay.
Học thuyết Công Giáo xác định rằng phép lạ có thể xảy ra và có thể được công nhận - thật không khó đối với những ai tin vào Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự khó khăn là khi chúng ta phải quyết định xem sự kiện ấy hoặc không thể giải thích theo nghĩa tự nhiên, hoặc không giải thích được.
Chúng ta phải cố gắng tránh sự nhẹ dạ, là dấu chỉ của sự bấp bênh. Trái lại, khi các khoa học gia thích nói về "tính xác suất" hơn là "luật" tự nhiên, thì cũng không có gì quá đáng khi nghĩ rằng Thiên Chúa rất "khoa học" để làm những điều kỳ diệu nhằm thức tỉnh chúng ta với những phép lạ hàng ngày qua chim muông, hoa cỏ hay mưa tuyết.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết vận dụng giá trị của khoa học để đào sâu đức tin chứ không nhằm đả phá.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 18/9 Thánh Giuse Cupertino (1603-1663)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giuse Cupertino (1603-1663)
Mặc dù việc học đối với ngài thật khó khăn, nhưng Giuse đã hiểu biết nhiều qua sự cầu nguyện. (Phim về cuộc đời thánh nhân: Vị thánh bất đắc dĩ)
Lược sử
Thánh Giuse là người nổi tiếng bay bổng khi cầu nguyện. Ngay từ lúc nhỏ, Giuse đã ưa thích cầu nguyện. Sau một thời gian sống với các tu sĩ dòng Capuchin, ngài gia nhập dòng Conventual (một nhánh của dòng Phanxicô). Sau một thời gian ngắn trông coi lừa cho nhà dòng, Giuse được đi học để làm linh mục. Mặc dù việc học đối với ngài thật khó khăn, nhưng Giuse đã hiểu biết nhiều qua sự cầu nguyện. Ngài được thụ phong linh mục năm 1628. Việc bay bổng khi cầu nguyện của Thánh Giuse đôi khi là thập giá cho ngài, vì nhiều người đến xem như đi xem xiệc.
Tuy được ơn sủng đặc biệt này nhưng ngài thật khiêm tốn, kiên nhẫn và vâng phục. Nhà dòng thuyên chuyển thánh nhân đến nhiều nơi vì ích lợi cho ngài cũng như cho toàn thể cộng đoàn. Thánh Giuse Cupertino được phong thánh năm 1767.
Suy niệm 1: Cầu nguyện
Thánh Giuse là người nổi tiếng bay bổng khi cầu nguyện. Ngay từ lúc nhỏ, Giuse đã ưa thích cầu nguyện. Việc bay bổng khi cầu nguyện của ngài đôi khi là thập giá cho ngài, vì nhiều người đến xem như đi xem xiệc. Chính vì thế nhà dòng đã thuyên chuyển thánh nhân đến nhiều nơi vì ích lợi cho ngài cũng như cho toàn thể cộng đoàn. Trong cuộc điều tra để lập hồ sơ phong thánh, người ta ghi nhận có đến 70 lần ngài bay bổng. Trong khi việc bay bổng là dấu hiệu bất thường của sự thánh thiện, Thánh Giuse cũng được người đời nhớ đến qua những dấu chỉ bình thường của ngài. Ngài cầu nguyện khi tâm hồn tăm tối, và ngài sống theo Tám Mối Phúc Thật. Ngài dùng "vật sở hữu độc đáo" là ý chí tự do của ngài để ca ngợi Thiên Chúa và phục vụ các tạo vật của Người.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vận dụng việc cầu nguyện để bay bổng không bằng thể xác mà bằng tâm trí khỏi những đam mê trần tục mà gắn bó với Chúa.
Suy niệm 2: Học
Giuse được đi học để làm linh mục. Sau khi gia nhập nhà dòng, ngài được bố trí cho công việc trông coi lừa, vốn không đòi hỏi nhiều về học lực. Nhưng để được làm linh mục, thì không thể không có học vấn cần thiết. Mặc dù việc học đối với ngài thật khó khăn, nhưng ngài phải chấp nhận, và may thay ngài đã hiểu biết nhiều qua sự cầu nguyện. Ngài được thụ phong linh mục năm 1628.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra giá trị của việc cầu nguyện trong vấn đề học hành, nhất là việc học biết Chúa.
Suy niệm 3: Khiêm tốn
Tuy được ơn sủng đặc biệt này nhưng ngài thật khiêm tốn, kiên nhẫn và vâng phục. Ơn sủng được bay bổng khi cầu nguyện được ngài đón nhận như một thập giá để giúp ngài càng sống khiêm tốn hơn với các thử thách nặng nề dến mức có nhiều khi ngài cảm thấy như bị Thiên Chúa bỏ quên. Một thử thách công khai đáng kể, đó là ngài bị báo cáo lên Tòa Thẩm Tra và bị điều tra, nhưng cơ quan này không kết tội ngài. Suốt cuộc đời, ngài ăn chay và đeo một giây xích sắt trong người để tự nhắc nhở mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con càng nhận được nhiều ơn càng sống khiêm tốn hơn để xứng với các hồng ân khác nữa.
Suy niệm 4: Kiên nhẫn
Tuy được ơn sủng đặc biệt này nhưng ngài thật khiêm tốn, kiên nhẫn và vâng phục. Dù chỉ trong một thời gian ngắn, nhưng ngài phải kiên nhẫn chờ đợi và dùng ý chí để vượt qua thử thách là trông coi lừa cho nhà dòng, một công việc xem ra thật hèn kém trong các việc hèn kém, hầu như không liên quan gì mấy đến thiên chức linh mục mà bao người mơ ước. Ý chí như vậy thật quan trọng như ngài ghi nhận: "Hiển nhiên điều mà Thiên Chúa mong muốn trên tất cả mọi sự là ý chí mà chúng ta được tự do lãnh nhận qua sự tạo dựng của Thiên Chúa, và chiếm hữu như của riêng mình.
Khi một người tự rèn luyện sống theo các nhân đức, và đạt được điều đó là nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, Đấng phát sinh mọi điều thiện hảo. Ý chí là điều mà con người có được như một vật sở hữu độc đáo" (trích từ bài đọc ngày lễ kính trong sách nhật tụng của dòng Phanxicô).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con rèn luyện ý chí thật kiên cường để vượt qua được mọi thử thách gặp phải.
Suy niệm 5: Vâng phục
Tuy được ơn sủng đặc biệt này nhưng ngài thật khiêm tốn, kiên nhẫn và vâng phục. Người đời thường mơ ước được an cư vì có an cư mới được lạc nghiệp. Tâm lý thường tình này cũng không miễn chuẩn cho người tu hành, nhất là với trường hợp của Giuse Cupertino, khi đi đến đâu cũng được người mộ mến tìm đến để chiêm ngưỡng giây phút cầu nguyện kết hợp với ơn sủng bay bổng của ngài.
Thế nhưng tinh thần vâng phục của ngài thật cao độ đến mức ngài luôn chiều ý bề trên để đón nhận mọi cuộc thuyên chuyển trong nhiều lần và nhiều nơi, không bao giờ chối từ hay phản kháng, một biểu hiện của đời sống thánh thiện của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con học biết vâng phục bề trên ngay cả những điều trái ý để dễ dàng nên thánh.
Suy niệm 6: Thuyên chuyển
Nhà dòng thuyên chuyển thánh nhân đến nhiều nơi vì ích lợi cho ngài cũng như cho toàn thể cộng đoàn. Một chủ đích của việc thuyên chuyển luôn nhằm tới là lợi ích cho đương sự được thuyên chuyển cũng như cho cộng đoàn.
Đương sự hãy nhận ra đây là dịp để thực thi đức vâng lời bề trên như lời thề hứa, cũng như sống được tinh thần dứt khoát chứ không dính bén, đúng như Chúa Giêsu đã tâm sự cùng các tông đồ: Thầy ra đi thì có lợi hơn cho anh em (Ga 16,7).
Về phía cộng đoàn cũng thế, hãy nhìn đến lợi ích của đương sự được thuyên chuyển để đừng níu kéo hay gây trở ngại như một Mađalêna muốn cầm chân Chúa ở lại (Ga 20,17).
Đồng thời cũng hãy nhận ra lợi ích cho chính cộng đoàn mình là dịp vâng lời bề trên, là dịp giải cứu cho một số người đang mặc cảm với đương sự, là dịp để canh tân theo đường hướng làm việc mới của vị sẽ đến thay thế.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các đấng bề trên khôn ngoan và sáng suốt trong các quyết định thuyên chuyển của mình.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 17/9 Thánh Robert Bellarmine (1542-1621
- Ngày 16/9 Thánh Cornelius (c. 253)
- Ngày 15/9 Đức Mẹ Sầu Bi
- Ngày 14/9 Sự Chiến Thắng của Thánh Giá
- Ngày 13/09 Thánh Gioan Kim Khẩu (347 – 407)
- Ngày 12/9 Thánh Pedro de Corpa và Các Bạn (k. 1597)
- Ngày 11/9 Thánh Cyprian (k. 258)
- Ngày 10/9 Thánh Tôma ở Villanova (1488-1555)
- Ngày 09/9 Thánh Phêrô Claver (1581-1654)
- Ngày 08/9 Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria