Gương Thánh Nhân
Ngày 21/11 Lễ Dâng Ðức Maria Vào Ðền Thánh
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lễ Dâng Ðức Maria Vào Ðền Thánh
Mặc dù ngày lễ không có căn bản lịch sử mà lại nó nói lên một chân lý về Ðức Maria: Ngay từ lúc đầu đời, ngài đã được dâng hiến cho Thiên Chúa.
Lược sử
Ngày lễ Đức Mẹ dâng mình được cử hành ở Giêrusalem từ thế kỷ thứ sáu, và một nhà thờ được xây cất ở đây để kính nhớ. Giáo Hội Đông Phương rất tha thiết với ngày lễ này, trong khi Giáo Hội Tây Phương chỉ mừng lễ này vào thế kỷ 11. Sau đó, có quãng thời gian không thấy ngày lễ này trong niên lịch phụng vụ, và mãi cho đến thế kỷ 16, lễ này mới được chính thức đưa vào lịch Giáo Hội.
Như sự sinh hạ của Đức Maria, chúng ta biết về việc dâng Đức Mẹ vào đền thờ cũng qua các văn bản được gọi là ngụy thư. Trong một văn bản không có giá trị lịch sử là Tin Mừng Tiên Khởi của Giacôbê cho chúng ta biết, khi Đức Maria lên ba tuổi, Thánh Anna và Thánh Gioankim đã lên Đền Thánh để dâng ngài cho Thiên Chúa. Điều này được thực hiện là vì một lời hứa với Thiên Chúa của Thánh Anna khi ngài còn hiếm muộn.
Mặc dù không có giá trị lịch sử, việc dâng Đức Maria vào đền thánh mang ý nghĩa thần học quan trọng. Ngày lễ này được coi như tiếp nối lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội và lễ sinh nhật của Đức Maria. Nó nói lên sự thánh thiện được trao ban cho Đức Maria từ lúc lọt lòng, qua thời thơ ấu cho đến khi trưởng thành.
Suy niệm 1: Nguồn gốc Ngày lễ
Ngày lễ Đức Mẹ dâng mình được cử hành ở Giêrusalem từ thế kỷ thứ sáu.
Nguồn gốc thánh lễ hôm nay là ngày thánh hiến một giáo đường tôn kính Đức Trinh Nữ Maria tại Giêrusalem. Thánh lễ này đã có từ thế kỷ thứ VI trong Giáo hội Đông Phương và được mừng kính như một lễ về Đức Mẹ. Việc Mẹ Thiên Chúa bước vào đền thờ, có nghĩa là việc ông Gioankim và bà Anna, cha mẹ của Đức Trinh Nữ đem và dâng Đức Maria cho Thiên Chúa trong Đền thờ. Truyền thuyết này dựa theo quyển ngụy thư "Phúc Âm thánh Giacôbê". Giáo Hội Rôma phủ nhận thánh lễ này lúc ban đầu, vì nội dung không đúng tập tục của Thánh Kinh, nhưng từ thế kỷ XIV lại đón nhận và phổ biến rộng rãi.
Đôi khi thật khó để người Tây Phương quý trọng ngày lễ này. Tuy nhiên, Giáo Hội Đông Phương thật dễ đón nhận ngày lễ này và có lúc còn bó buộc phải cử mừng. Mặc dù ngày lễ không có căn bản lịch sử, nó nói lên một chân lý về Đức Maria: Ngay từ lúc đầu đời, ngài đã được dâng hiến cho Thiên Chúa. Chính ngài trở nên một đền thờ cao trọng hơn bất cứ đền thờ nào khác do tay con người làm ra. Thiên Chúa đã đến ngự trong bản thân ngài qua một phương cách kỳ diệu, và thánh hóa ngài vì vai trò độc đáo của ngài trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Đồng thời, sự tráng lệ của Đức Maria lại ảnh hưởng đến con cái của ngài. Họ cũng là những đền thờ của Thiên Chúa và được thánh hóa để có thể vui hưởng và chia sẻ trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, nguyện xin Chúa nhận lời Đức Mẹ chuyển cầu và ban cho chúng con được dư đầy ơn phúc.
Suy niệm 2: Ngụy thư
Chúng ta biết về việc dâng Đức Mẹ vào đền thờ cũng qua các văn bản được gọi là ngụy thư.
Biến cố Trinh Nữ Maria dâng mình trong Đền thờ chỉ được dã sử theo Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê trình thuật tỉ mỉ: "Thánh Gioakim và Thánh Anna son sẻ. Khi một thiên thần hiện ra với Thánh Anna, bà hứa nếu sinh được một người con, bà sẽ dâng cho Chúa. Khi sinh ra Nhi Nữ Maria, bà Anna không cho sơ sinh Maria được tẩy uế theo luật. Ngày tháng qua, Nhi Nữ Maria lên hai tuổi, Thánh Gioakim nói với Thánh Anna: 'Chúng ta hãy đưa Con trẻ lên đền để thể hiện lời hứa của chúng ta, không thì Chúa sẽ giáng hoạ trên chúng ta, và của lễ chúng ta không được chấp nhận.' Thánh Anna trả lời: 'Chúng ta hãy đợi đến năm thứ ba, để Con trẻ không còn lưu luyến cha mẹ.' Thánh Gioakim nói: 'Được!' Và khi Nhi Nữ Maria lên ba tuổi, Thánh Gioakim nói: 'Chúng ta hãy gọi các thiếu nữ Do Thái trinh trong đến và cho mỗi cô một cây đèn thắp sáng để Con trẻ hướng về Đền thờ, không lưu luyến ngó lại.' Và tất cả lên đền. Thầy tư tế ôm hôn và chúc lành Nhi Nữ Maria và nói: 'Chúa đã ca ngợi danh Con giữa mọi thế hệ. Vì Con, Chúa sẽ tỏ lộ ơn Cứu độ cho con cái Israel cho đến ngày tận thế. Rồi thầy tư tế đặt Con trẻ lên cấp thứ ba của bàn thờ và Thiên Chúa đổ ơn xuống trên Con trẻ làm cho Con trẻ nhảy mừng. Toàn thể nhà Israel yêu mến Nhi Nữ Maria. Cha mẹ Nhi Nữ ngạc nhiên, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa toàn năng, vì Nhi Nữ không trở về với các ngài nữa. Nhi Nữ Maria ở trong Đền thờ được nuôi dưỡng như một chim bồ câu do tay một thiên thần'".
Nói về lễ Đức Mẹ dâng mình vào đền thánh, đức giáo hoàng Phaolô VI viết : "Những lễ dựa trên lời truyền khẩu, nhưng có giá trị gương mẫu cao và đươc Giáo hội Đông phương đặc biệt mừng kính từ xa xưa, đó là lễ Đức Maria dâng mình và đền thánh". Việc Đức Mẹ dâng mình và đền thánh dựa trên sự kiện này, là luật cũ đã nhận các trinh nữ tự hiến mình cho Thiên Chúa tại đền thành. Hơn nữa Đức Trinh nữ còn được đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội ngay từ buổi đầu thai. Sư trinh trong này có thể dẫn tới hiệu quả là trí khôn Đức Maria đã phát triển sớm hơn bình thường, vì không bị ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ. Bởi đó, người ta cho rằng, Mẹ đã dâng mình cho Chúa rất sớm, ngay khi trí khôn ngài có khả năng hiểu biết. Cuốn ngụy thư "Phúc âm về cuộc sinh hạ của Đức Maria" còn cho rằng ngài đã thực hiện cuộc dâng hiến này khi mới ba tuổi. Giottô trong một bức họa đã diễn tả Đức Maria trong những bước chân mạnh mẽ tiến vào đền thánh. Trong niềm tin này, người Hy lạp, Armênia và Latinh, đều mừng lễ Đức Mẹ dâng mình trong đền thánh vào ngày 21 tháng 11 hàng năm. Simon Métaphrate cho rằng lễ mừng đã được thiết lập vào năm 730 ở Constantinople. Năm 1143, hoàng đế Emmanuelđã xếp vào số các lễ được Giáo hội khắp nơi biết đến. Vị đại sứ của vua Chypre bên đức giáo hoàng Grêgoriô XI (ở Avignon) đã thuyết phục, để giáo triều với đức Sixtô IV chấp nhận lễ này từ năm 1372. Kể từ đó, ở nhiều vương quốc và nhiều nhà thờ đã mừng long trọng theo sách nguyện Rôma. Đức giáo hoàng Pio V bãi bỏ và được đức Sixtô V tái lập. Nhiều nhà dòng đã chọn lễ này làm ngày khấn dòng hay lặp lại lời khấn cho các tu sĩ. Cùng với Đức Maria, chúng ta cũng dâng mình cho Chúa một cách mau mắn và quảng đại.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cùng với Đức Maria, chúng con cũng dâng mình cho Chúa một cách mau mắn và quảng đại.
Suy niệm 3: Thánh kinh diễn tả
Mặc dù không có giá trị lịch sử, việc dâng Đức Maria vào đền thánh mang ý nghĩa thần học quan trọng.
Cựu ước. Ngôn sứ Giacaria tiên tri: "Hãy nhiệt liệt nhảy mừng, hỡi thiếu nữ Sion!" (9:9). "Hãy reo lên, hãy vui mừng, hỡi nữ tử Sion!" (2,14). Và Sôphônia tiên báo: "Hãy reo lên, thiếu nữ Sion!" (3,14). Theo một số nhà diễn giải Thánh Kinh, tư tưởng "vui mừng" trong những lời tiên tri trên đây trùng hợp với tư tưởng "vui lên" trong Thánh sử Luca 1,28: "Vào nơi Trinh Nữ Maria ở, thiên thần nói: "Vui lên! Hỡi Người đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Người". Do đó, thiếu nữ Sion là hình ảnh Trinh Nữ Maria. Công Đồng Vaticanô II cũng gọi Người là Thiếu Nữ Sion với những lời đẹp đẽ sau đây: "Người (Đức Maria) trổi vượt trên các người nghèo khó và khiêm nhượng của Chúa, là những người tin tưởng hy vọng và lãnh nhận ơn Cứu rỗi nơi Chúa... Sau thời gian lâu dài trông đợi lời hứa được thực hiện, thời gian đã nên trọn và nhiệm cuộc mới được thiết lập với Người, người Thiếu Nữ Sion cao sang..." (LG 55). Như vậy, Mẹ Maria bắt đầu tham dự vào nhiệm cuộc Cứu rỗi của Con Mẹ từ khi Mẹ dâng mình trọn vẹn cho Thiên Chúa trong Đền thờ rồi được chào mừng: "Vui lên! Hãy nhiệt liệt vui mừng!"
Tân ước. Trong Thánh sử Matthêu 12,46-49: "Chúa Giêsu đang nói với dân chúng... có kẻ thưa Ngài rằng: Mẹ Thầy và anh em Thầy đứng ngoài tìm cách nói với Thầỵ. Đáp lại, Ngài bảo: 'Ai là Mẹ Ta và ai là anh em Ta?' Và giơ tay chỉ các môn đệ, Ngài nói: 'Này là Mẹ Ta và anh em Ta'". Chúa có ý nói rằng ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải từ bỏ mối liên hệ gia đình để thuộc trọn về Thiên Chúa, nhất là từ khi còn nhỏ. Như vậy đối với Trinh Nữ Maria, lý tưởng thuộc trọn về Chúa là tuyệt đối và là thực tại sâu xa nhất của đời sống Người. Và Mẹ bắt đầu sống lý tưởng đó từ khi lên ba tuổi, khi Mẹ dâng mình cho Chúa trong Đền thờ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương Đức Maria dâng mình trọn vẹn cho Thiên Chúa.
Suy niệm 4: Thánh truyền lưu ngôn
Mặc dù không có giá trị lịch sử, việc dâng Đức Maria vào đền thánh mang ý nghĩa thần học quan trọng.
Theo luật Maisen và lời khấn hứa với Thiên Chúa, hai Thánh Gioakim và Anna đã dâng Ấu Nhi Maria cho Thiên Chúa. Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê cho biết Trinh Nữ Maria khi vừa lên 3 tuổi đã được cha mẹ dâng vào Đền thờ Giêrusalem. Tuy còn thơ bé nhưng đã đầy ơn Chúa, Nữ Nhi Maria sung sướng thoăn thoắt bước thang lên đền. Trong dịp đặc biệt này, Nữ Nhi Maria đã khấn cùng Chúa trọn đời sống đồng trinh, tự dâng mình toàn hiến phụng sự Chúa và hoan hỉ ở lại chung sống với các trinh nữ trong Đền thờ. Việc Đức Mẹ dâng mình vào Đền thờ Giêrusalem đã được Thánh Evodiô ghi chép. Thánh Evodiô là một trong bảy mươi hai môn đệ của Chúa Giêsu và là Giám mục thành Antiokia trước Thánh Inhaxiô. Theo truyền thống của Giáo hội, việc Đức Mẹ dâng mình vào Đền thờ là mẫu gương tận hiến phụng sự Chúa cho các linh hồn tận hiến như linh mục, tu sĩ nói riêng, và lứa tuổi thanh xuân nam nữ nói chung.
Theo Thánh Đamascenô, Nữ Nhi Maria lớn dần với đầy đủ mọi nhân đức, bỏ ngoài những tư tưởng phàm tục mà chỉ hưởng hương thơm Thiên đàng, và chân Người nghiêm chỉnh đi trong đường lối giới luật Chúa. Người sống rất gương mẫu về công, dung, ngôn, hạnh, biểu lộ một vẻ diễm lệ "mười phân vẹn mười." Với y phục nết na, dáng điệu đoan trang, tiếng nói dịu dàng, gương mặt tươi sáng luôn phản chiếu một tâm hồn trinh trong đầy đức, xứng đáng với chức phẩm Thiên Mẫu mai sau.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con làm mới lại mỗi ngày lời quyết tâm dâng mình cho Chúa khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội.
Suy niệm 5: Lịch sử Phụng Vụ
Mặc dù không có giá trị lịch sử, việc dâng Đức Maria vào đền thánh mang ý nghĩa thần học quan trọng.
Bên Đông phương, lễ Mẹ dâng mình đã có từ thế kỷ VII, và liên quan tới lễ cung hiến Đền Thờ mới của Đức Trinh Nữ Maria tại Giêrusalem. Đền thờ này được hoàng đế Giustianô (527-565) kiến thiết. Nhưng rồi thánh đường này bị quân Ba Tư tàn phá. Thánh Grêgôriô Nyssa, Thánh Grêgôriô Nazian, Thánh Epiphanô, Thánh Gioan Kim khẩu đã giảng thuyết về lễ Đức Mẹ dâng mình. Đến thế kỷ VIII Thánh Germanô, Thượng phụ Giáo chủ Constantinopoli kiến thiết một đền thờ khác cung hiến và dâng lễ Đức Mẹ dâng mình. Sang thế kỷ IX, Giáo chủ George Nicomedia (chết sau 880) soạn kinh lễ Đức Mẹ dâng mình. Đức Phaolô VI chứng nhận lễ Mẹ dâng mình phát xuất từ Đông phương. Ngài viết: "Còn có những lễ dựa theo truyền khẩu có giá trị tuyệt diệu và gương mẫu và tiếp tục truyền thống đáng kính có ngọn nguồn đặc biệt từ Đông phương, như lễ Rất Thánh Trinh Nữ Maria dâng mình ngày 21 tháng 11".
Bên Tây Phương, lễ Đức Mẹ dâng mình được mừng tại các đan viện miền Nam nước Ý từ thế kỷ IX và bên Anh từ thế kỷ XIV. Quãng năm 1371, Sứ thần Toà thánh tên là Philippê de Maizières tại đảo Cyprô nhận thấy lễ Đức Mẹ dâng mình được mừng trọng thể tại đây, ngài đã xin với Đức Grêgôriô XI ban phép mừng tại giáo triều Avignon (Pháp). Năm 1472 Đức Sixtô IV truyền dạy lễ này được mừng khắp Giáo hội vào ngày 21 tháng 11 hằng năm, nhưng Đức Thánh Piô V đã đình chỉ lại. Năm 1585 Đức Sixtô V đã tái lập lại lễ này.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn học lấy cái hay của người, như một biểu lộ đã dâng mình trọn vẹn cho Chúa không giữ lại cho mình chút gì.
Suy niệm 6: Ý nghĩa phụng vụ
Mặc dù không có giá trị lịch sử, việc dâng Đức Maria vào đền thánh mang ý nghĩa thần học quan trọng.
Đức Trinh Nữ Maria dâng mình trong Đền thờ để trọn đời hiến thân cho Thiên Chúa, và phục vụ công trình cứu chuộc loài người. Thiết lập Lễ Đức Mẹ dâng mình, Giáo hội cảm tạ Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria trong hàng con cái loài người. Chuẩn bị người lên chức phẩm cao sang làm Mẹ Chúa, và đồng công cộng tác trong công cuộc Cứu thế. Đồng thời, Giáo hội tôn vinh ngợi khen Đức Trinh Nữ đã sẵn lòng tuyệt đối tận hiến mình cho Thiên Chúa và Giáo hội cũng khuyến khích mọi người noi gương Mẹ dâng mình cho Chúa, để sống với Chúa và cho nhiệm cuộc cứu rỗi của Người.
Ngày nay có những dòng tu và từng đoàn người giáo dân nô nức hướng theo lý tưởng cao quí đó bằng việc tận hiến cho Đức Mẹ, để noi gương Mẹ toàn hiến cho Chúa Giêsu. Với những tâm hồn tận hiến như Mẹ Maria, Thiên Chúa được phụng thờ trong tinh thần và chân lý (x. Ga 4,23). Cũng như Mẹ Maria, họ áp dụng lời dân Do Thái hứa với ông Maisen: "Mọi điều Thiên Chúa phán, chúng tôi sẽ thi hành và nghe theo" (Xh 24,7). Họ cũng vâng nghe lời Mẹ dạy: "Các con hãy làm bất cứ điều gì Người bảo các con" (Ga 2,5) nghĩa là vâng giữ chẳng những các lời dạy, mà cả những lời khuyên của Phúc Âm. Lời Chúa khuyên dạy quan trọng nhất là: "Các con hãy nên thánh vì Ta là Thánh" (Lv 19,2). Lời này gồm hai ý nghĩa: Thiên Chúa thánh hiến các linh hồn tận hiến để họ chia sẻ sự thánh thiện của Người và ngoan ngoãn đáp lại việc ưu tuyển của Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đáp lại lời Thánh Anphong kêu gọi: "Chúng ta hãy mô phỏng Nữ Nhi chí thánh Maria. Mẹ đã mau mắn và tận hiến toàn thân cho Chúa. Hôm nay chúng ta cũng hãy mau mắn tận hiến toàn thân chúng ta cho Mẹ, và cầu xin Mẹ dâng chúng ta lên Thiên Chúa. Chúng ta đừng sợ Chúa sẽ xua đuổi chúng ta, một khi thấy chúng ta được hiến dâng lên qua tay Mẹ Maria là Đền Thờ của Chúa Thánh Linh, là nguồn hoan lạc của Chúa, và là Mẹ tuyệt vời của Ngôi Lời vĩnh cửu. Chúng ta hãy cậy trông rất nhiều nơi Nữ Vương cao cả và uy linh của chúng ta".
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 20/11 Thánh Bernward
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Bernward
Thánh Bernward sinh trong một gia đình thuộc sắc tộc Saxon, và được người chú là Ðức Giám Mục Volkmar của Utretch nuôi dưỡng khi ngài mồ côi cha mẹ từ nhỏ.
Ngài theo học trường địa phận ở Heidelburg và ở Mainz, là nơi ngài được thụ phong linh mục năm 987. Sau đó ngài làm tuyên uý cho hoàng tộc và là thầy giáo tư cho các con của hoàng đế Otto III.
Năm 993 ngài được chọn làm giám mục của Hildesheim, và đã xây dựng một tu viện và nhà thờ Thánh Micae ở đây. Ngài đặc biệt yêu chuộng kiến trúc, nghệ thuật và đã hoàn thành một vài tác phẩm đáng kể. Trong nhiều năm, ngài bất đồng ý kiến với Ðức Tổng Giám Mục Willigis của Mainz về các quyền giám mục đối với tu viện Gandersheim, nhưng sau đó Rôma đã tán thành ý kiến của ngài.
Trong những năm cuối đời, ngài là một tu sĩ dòng Biển Ðức và từ trần ngày 20 tháng 11. Ngài được phong thánh năm 1193.
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 19/11 Thánh Agnes ở Assisi (1197-1253)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Agnes ở Assisi (1197-1253)
"Người ta phải trải qua sự cô độc và thực sự sống ở đó để nhận được ơn sủng của Thiên Chúa." (Charles de Foucald)
Lược sử
Thánh Agnes là em ruột và là người đầu tiên theo Thánh Clara.
Agnes không thua gì người chị của mình trong việc cầu nguyện và hy sinh hãm mình trong thời gian ở San Damiano. Năm 1221, một nhóm nữ tu dòng Biển Đức ở Monticelli (gần Florence) xin được trở thành các nữ tu Clara Nghèo Hèn. Thánh Phanxicô gửi Agnes đến làm tu viện trưởng của tu viện này. Sau khi thiết lập các tu viện Clara Nghèo Hèn ở vùng bắc nước Ý, Agnes được gọi về San Damiano năm 1253, khi Clara sắp sửa từ trần.
Thánh Agnes được phong thánh năm 1753.
Suy niệm 1: Theo
Thánh Agnes là em ruột và là người đầu tiên theo Thánh Clara.
Sau khi Clara bỏ nhà đi tu thì hai tuần sau, Agnes cũng bỏ nhà đi theo chị mình. Gia đình các ngài tìm cách ép buộc đưa Agnes về. Họ cố lôi ngài ra khỏi tu viện, nhưng thật lạ lùng thân thể của ngài bỗng dưng nặng chĩu khiến vài người đàn ông cũng không thể nhấc nổi. Người chú của ngài là Monaldo định đánh ngài nhưng bỗng dưng ông bị tê liệt. Sau đó họ phải để cho các ngài yên. Theo khi sống và lúc chết cũng thế, thât vậy ba tháng sau khi Clara từ trần, Agnes cũng đi theo chị mình.
Trong Di chúc của thánh Clara, Bà nhận mình là cây nhỏ của thánh Phanxicô. Bà viết: "Vậy tôi là Clara, tôi tớ của Chúa Kitô và của các chị em nghèo khó thuộc đan viện San Đamianô, dù bất xứng và là cây bé nhỏ cha thánh vun trồng, tôi cùng chị em tôi nghĩ đến lời khấn rất cao trọng của chúng tôi..." (c. 37). Sau đó, Bà coi cả tập thể chị em là cây nhỏ của thánh Phanxicô, Bà viết: "Khi còn sống, ngài hằng quan tâm dùng lời nói và việc làm để vun trồng và khuyến khích chúng tôi là cây nhỏ của ngài" (c. 49).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con là những cây nhỏ ngoan hiền trong bàn tay của Chúa toàn năng.
Suy niệm 2: Cầu nguyện
Agnes không thua gì người chị của mình trong việc cầu nguyện và hy sinh hãm mình trong thời gian ở San Damiano.
Có lẽ ở đây, chúng ta nên lắng nghe nhiều hơn những lời Tác giả Xêlanô viết về đời sống cầu nguyện của thánh Clara và cũng là của người em Agnes: "Cũng như tuy còn sống trong xác thịt, Bà đã chết cho những đòi hỏi của xác thịt, cũng thế, Bà hoàn toàn xa lạ với thế gian, linh hồn thường xuyên chăm lo cầu nguyện lành thánh và dâng lời ca ngợi Thiên Chúa. Từ nay, cái nhìn cháy bỏng của khát vọng nội tâm đã đăm đăm hướng về Ánh sáng, và không bận tâm đến vùng thế sự thăng trầm, Bà mở rộng tối đa cánh đồng tinh thần ra đón lấy trận mưa ân sủng.
Biết bao sức mạnh và sự nâng đỡ Bà đã nhận được từ lò lửa cầu nguyện sốt sắng; biết bao ngọt ngào lòng nhân từ của Thiên Chúa Bà cảm nhận được; các bằng chứng đã kiểm nghiệm làm chứng như thế. Thật thế, ra khỏi giờ cầu nguyện, Bà trở lại trong niềm vui, mang theo từ ngọn lửa của bàn thờ Chúa những lời nói nồng nhiệt, có thể đốt cháy tâm hồn chị em. Quả thật, chị em kinh ngạc nhận thấy rằng từ gương mặt Bà tỏ rạng ra một sự dịu ngọt nào đó, và vẻ mặt Bà còn tươi sáng hơn mọi khi. Chắc chắn Chúa nhân hậu với kẻ khó nghèo (Tv 97,11), và sau khi đã tưới đẫm linh hồn Bà trong giờ cầu nguyện bằng ánh sáng thật của Người, Người còn tỏ bày điều này ra bên ngoài rõ ràng. Tuy đang sống giữa cảnh đời hay thay đổi nhưng thánh Clara đã vĩnh viễn kết hợp với Vị Hôn phu cao quí và cảm thấy thỏa thích với những điều siêu nhiên. Nhờ đức độ vững bền, thánh Clara đứng chắc chắn giữa lúc bánh xe thời gian luân chuyển. Và trong chiếc bình mong manh, thánh Clara đựng sẵn một kho tàng vinh hiển. Về phần xác, tuy Bà còn sống dưới thế, nhưng về phần hồn, Bà như đã sống trên trời" (Xêl 19-20).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng phương cách cầu nguyện để đón nhận những hồng ân của Chúa.
Suy niệm 3: Hy sinh hãm mình
Agnes không thua gì người chị của mình trong việc cầu nguyện và hy sinh hãm mình trong thời gian ở San Damiano.
Charles de Foucald, sáng lập tu hội Tiểu Đệ và Tiểu Muội của Chúa Giêsu, có viết: "Người ta phải trải qua sự cô độc và thực sự sống ở đó để nhận được ơn sủng của Thiên Chúa. Chính ở đó mà họ từ bỏ tất cả, gạt bỏ tất cả những gì không thuộc về Thiên Chúa, có như thế họ mới dọn được căn nhà linh hồn chỉ để một mình Chúa ngự. Khi làm như vậy, đừng sợ phản bội loài người. Ngược lại, đó là phương cách duy nhất mà bạn có thể phục vụ họ cách hữu hiệu" (Raphaen Brown, Franciscan Mystic, t. 126).
Trong cuốn Đời sống thánh Phanxicô quyển thứ nhất, Xêlanô ca tụng và liệt kê bảy nhân đức sáng chói của Cộng đoàn chị em: Sự hiệp nhất, đức khiêm hạ, đức khiết tịnh, đức nghèo khó, chay tịnh và thinh lặng, đức kiên nhẫn, cầu nguyện chiêm niệm. Về cầu nguyện, anh viết: "Các Bà xứng đáng lên tới đỉnh cao của chiêm ngưỡng. Trên tầm cao ấy, họ được dạy cho biết mọi điều phải làm, mọi điều phải tránh. Họ vui mừng biết đưa tâm trí vươn lên đến Thiên Chúa, kiên trì ngày đêm ca tụng và nguyện cầu" (Xêl 20).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hy sinh hãm mình để cứu rỗi bản thân và phục vụ hữu hiệu thế giới.
Suy niệm 4: Các nữ tu Clara Nghèo Hèn-đức khó nghèo
Một nhóm nữ tu dòng Biển Đức ở Monticelli (gần Florence) xin được trở thành các nữ tu Clara Nghèo Hèn.
Tác giả James of Vitry đã thấu hiểu được một đặc tính chuyên biệt của linh đạo Phanxicô rất nhậy cảm với Thánh Clare, đó là đức khó nghèo đến cùng tận được liên kết với lòng tin tưởng trọn vẹn vào Sự Quan Phòng Thần Linh. Vì thế, thánh nhân đã hết sức quyết tâm thực hiện cái được gọi là Privilegium Paupertatis (cf. FF, 3279), với phép của Đức Giáo Hoàng Gregory IX hay có lẽ ngay từ Đức Giáo Hoàng Innocent III.
Theo đó, Thánh Clare và chị em của mình ở đan viện San Damiano không thể sở hữu bất cứ sản vật thể chất nào. Điều ấy thực sự là một điều ngoại lệ đặc biệt đối với giáo luật hiện hành, và thẩm quyền giáo hội thời ấy đã ban phép, khi cảm nhận thấy được các hoa trái của sự thánh đức theo phúc âm nơi đường lối sống của Thánh Clare và chị em dòng của ngài. Điều này cũng cho thấy rằng trong các thế kỷ Thời Trung Cổ, vai trò của nữ giới không phải thuộc loại thứ yếu mà là những gì đáng kể. Về vấn đề này, đáng được nhắc lại rằng Thánh Clare là người nữ đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội đã viết một bản luật thành văn, được Giáo Hoàng phê chuẩn, nhờ đó đặc sủng của Thánh Phanxicô Assisi được bảo trì ở tất cả mọi cộng đồng nữ giới bấy giờ đang được thiết lập rất nhiều vào thời của thánh nhân và muốn theo gương Thánh Phanxicô và Clare (Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI. Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 15/9/2010)
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vượt thoát ra được sự ràng buộc của thế giới vật chất.
Suy niệm 5: Các nữ tu Clara Nghèo Hèn-tình trạng sống
Một nhóm nữ tu dòng Biển Đức ở Monticelli (gần Florence) xin được trở thành các nữ tu Clara Nghèo Hèn.
Chúng ta có được một văn kiện nguyên sơ cho biết về tình trạng những người nữ này đã sống trong những năm ấy khi bắt đầu có phong trào của Thánh Phanxicô. Nó là một bản tường trình đầy lời ca ngợi của một vị giám mục người Flemish là James of Vitry, nhân chuyến viếng thăm Ý, vị nói rằng mình đã gặp một số đông những con người nam nữ, thuộc tất cả mọi tầng lớp trong xã hội, thành phần "bỏ hết mọi sự vì Chúa Kitô, thoát ly thế gian này.
Họ được gọi là các Thày Dòng Hèn Mọn và Chị Dòng Hèn Mọn và được Đức Giáo Hoàng và các vị hồng y trọng vọng... Thành phần nữ giới... cùng nhau ở trong các nhà tế bần khác nhau không xa phố xá. Họ không nhận bất cứ một sự gì, nhưng sống nhờ những gì tay họ làm ra. Và họ cảm thấy đau khổ và hết sức khổ tâm bởi được các giáo sĩ và giáo dân tôn kính ngoài lòng mong muốn" (Letter of October 1216: FF, 2205.2007).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng tham lam đua đòi, nhưng luôn bằng lòng về tình trạng kinh tế hiện có của mình.
Suy niệm 6: Các nữ tu Clara Nghèo Hèn-gương mẫu
Một nhóm nữ tu dòng Biển Đức ở Monticelli (gần Florence) xin được trở thành các nữ tu Clara Nghèo Hèn.
Thiên Chúa chắc hẳn phải ưa thích cảnh trớ trêu, vì thế giới đầy dẫy những điều ngược đời. Vào năm 1212, ở Assisi chắc hẳn nhiều người nghĩ rằng Thánh Clara và Agnes đã uổng phí cuộc đời khi các ngài quay lưng lại thế gian. Trên thực tế, cuộc đời của các ngài thực sự đã đem lại sức sống dồi dào, và thế giới được phong phú hơn nhờ gương mẫu của các vị tu sĩ nghèo hèn ấy.
Đó chính là đường lối của các sự vật: Chính các thánh nhân làm cho thế giới nên tốt hơn, các vị biến đổi nó một cách lâu bền, hiến cho nó những sinh lực chỉ xuất phát từ tình yêu bởi Phúc Âm. Các vị thánh là thành phần đại ân nhân của nhân loại!
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết nỗ lực cải tạo thế giới nên tốt bằng đời sống lành thánh.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 18/11 Thánh Rose Philippine Duchesne (1769-1852)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Rose Philippine Duchesne (1769-1852)
Thập giá đích thực là thập giá mà chúng ta không tự chọn cho mình... Người có được Ðức Giêsu là có được tất cả" (Thánh Rose Philippine Duchesne).
Lược sử
Philippine hấp thụ năng khiếu chính trị từ người cha và nơi người mẹ ngài học được sự thương yêu người nghèo. Về tính tình, chính yếu ngài là một người cương quyết với ý chí bất khuất, mà sau này tính khí ấy đã giúp ngài trở nên thánh thiện.
Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ, tu viện phải đóng cửa. Khi tình thế lắng dịu, chính ngài thuê lại tu viện cũ, đã đổ nát vì chiến tranh, cốt để làm sống lại sinh hoạt nhà dòng. Nhưng mơ ước của ngài ngay từ khi còn nhỏ, lúc được nghe biết về công cuộc truyền giáo ở Louisiana, là sang Hoa Kỳ phục vụ người da đỏ. Ngài thực hiện tham vọng này khi 49 tuổi. Phải là một nữ anh thư như Mẹ Philippine Duchesne mới kinh qua được những hành trình khủng khiếp trong thời gian truyền giáo.
Sau cùng, vào lúc 71 tuổi, với sức khoẻ yếu kém và mệt mỏi, ngài đã hoàn thành ước mơ. Một xứ đạo được thành hình ở Sugar Creek, Kansas, giữa những người thổ dân Potawatomi. Mặc dù ngài không thể học được tiếng bản xứ, nhưng người thổ dân gọi ngài là "Bà Luôn Cầu Nguyện".
Ngài từ trần năm 1852 lúc 83 tuổi, và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh năm 1988.
Suy niệm 1: Tên
Philippine hấp thụ năng khiếu chính trị từ người cha và nơi người mẹ ngài học được sự thương yêu người nghèo.
Ngài chào đời ở Grenoble, nước Pháp, trong một gia đình giầu có, và được đặt tên là Duchesne. Nhưng khi ngài được lãnh nhận bí tích Rửa Tội tại nhà thờ Thánh Louis, thì ngài có thêm tên của hai vị thánh là Philippine (Philípphê) và Rose: Rose Philippine Duchesne, như một tiên báo cho tương lai truyền giáo của ngài sau này.
Thật thế, khi đến Samari khởi đầu công cuộc truyền giáo (Cv 8,5), thánh Philippine đã gặt hái được nhiều thành quả, ngay cả thầy phù thủy Simôn cũng tin theo (Cv 8,13). Nhất là ngài được thiên sứ của Chúa thúc giục chạy theo xe của viên thái giám Êthióp, để dẫn giải Kinh Thánh và làm phép rửa cho ông (Cv 8,26-38). Còn thánh Rose ở Lima là Vị thánh đầu tiên của Tân Thế Giới.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quan tâm đến tên thánh của mình bằng việc học theo các nhân đức của vị thánh bổn mạng.
Suy niệm 2: Thương yêu người nghèo
Philippine hấp thụ năng khiếu chính trị từ người cha và nơi người mẹ ngài học được sự thương yêu người nghèo.
Khi cuộc Cách mạng Pháp bùng nổ, tu viện bị đóng cửa, ngài bắt đầu trở về nhà và đi chăm sóc người nghèo và bệnh nhân, mở trường học cho các trẻ em đường phố và liều mình giúp đở các linh mục đang phải lẩn trốn.
Được nung nấu bởi đức ái trọn hảo, ngài cùng với 4 nữ tu quy tụ thành Dòng Thánh Tâm lên đường truyền giáo và đã thiết lập trường học miễn phí đầu tiên cho các thiếu nữ ở vùng tả ngạn sông Mississippi vào năm 1818. Sau mười năm, ngài xây dựng được 6 ngôi trường dành cho các thiếu nữ ở Missouri và Louisiana. Ngài yêu quý và hết mình phục vụ họ, nhưng tự thâm tâm ngài luôn ao ước được phục vụ cả người thổ dân da đỏ nữa. Mãi đến lúc được 71 tuổi, ước mơ ấy mới được hiện thực: Một xứ đạo được thành hình ở Sugar Creek, Kansas, giữa những người thổ dân Potawatomi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con bền chí sống đức ái, và Chúa sẽ giúp thực hiện ước mơ yêu thương.
Suy niệm 3: Ý chí bất khuất
Về tính tình, chính yếu ngài là một người cương quyết với ý chí bất khuất, mà sau này tính khí ấy đã giúp ngài trở nên thánh thiện.
Ngài có ý chí mạnh mẽ và cương trực. Ngài vào dòng lúc 19 tuổi mà không cho cha mẹ biết, và dù gia đình có chống đối, ngài vẫn cương quyết đi tu. Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ, tu viện phải đóng cửa, ngài không khuất phục thế sự mà sống tinh thần tu trì bằng việc thực hành đức ái và liều mình giúp đỡ các linh mục đang hoạt động âm thầm.
Khi tình hình lắng xuống với hiệp ước năm 1801, chính ngài thuê lại tu viện cũ, đã đổ nát vì chiến tranh, cốt để làm sống lại sinh hoạt nhà dòng. Nhưng bất thành. Chiến tranh đã tàn phá không chỉ vật chất mà còn ảnh hưởng đến đời sống tâm linh. Nhà dòng chỉ còn lại bốn nữ tu.
Sau đó vào năm 1804, ngài nghe nói đến một Tu Hội Thánh Tâm mới được thành lập, mà vị bề trên trẻ tuổi, Thánh Madeleine Sophie Barat, trở nên một người bạn trong suốt cuộc đời của sơ Philippine. Ngài cùng 4 chị em xin gia nhập và hiến tu viện cho Tu Hội này. Một thời gian ngắn sau đó, sơ Philippine làm bề trên nhà dòng và giáo tập.
Ơn Chúa đã trui rèn ý chí sắt đá và sự quyết tâm của Mẹ Duchesne để trở thành một người khiêm tốn và vị tha, không muốn sự an nhàn của một đấng bề trên. Tuy nhiên, người ta chỉ nên thánh bởi sự trau dồi theo thời gian. Truyện kể rằng trong một cuộc tranh luận với vị linh mục về sự thay đổi nơi cung thánh, ngài cứng đầu đến nỗi vị linh mục phải đe dọa lấy đi nhà tạm thì ngài mới thôi. Nhưng ngài đã kiên nhẫn chịu đựng sự chỉ trích của các nữ tu trẻ cho rằng ngài thiếu cấp tiến. Qua tất cả các biến cố trong quãng đời 31 năm ấy, ngài có được một tình yêu bất khuất và đã trung thành tuân giữ lời khấn của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu rằng người ta chỉ nên thánh bởi sự trau dồi theo thời gian.
Suy niệm 4: Truyền giáo
Rose nghe biết về công cuộc truyền giáo ở Louisiana.
Vì nghe nói việc truyền giáo ở Louisiana từ hồi nhỏ, ngài đi Mỹ và làm việc với dân Ấn Độ. Lúc 49 tuổi, ngài nghĩ đây là công việc của ngài.
Trong một bức thư viết cho Mẹ Barat, ngài tâm sự về một tiếng gọi thiêng liêng có được từ hồi còn nhỏ lúc viếng Thánh Thể dịp Thứ Năm Tuần Thánh: Con dành cả đêm mang Chúa Thánh Thể đi khắp mọi vùng của Tân Thế Giới... Con dâng hiến mọi hy sinh cho họ... Khi nghe tiếng bảo con: "Giờ Ta sai con đi", con vội đáp ngay: "Vâng con xin đi".
Tuy nhiên ngài phải chờ đợi cho đến năm 1818, ước mơ truyền giáo mới được hiện thực. Ngài được sai đi để đáp lại lời mời gọi của vị giám mục lãnh địa Louisiana về một nhu cầu rao giảng Tin Mừng cho giới trẻ Ấn Độ và Pháp thuộc giáo phận ngài.
Vào tháng 7 năm 1842, ngài phải trở về St. Charles, dầu thâm tâm vẫn còn nồng cháy đam mê truyền giáo: "Tôi vẫn cảm nhận được một niềm khao khát kiên vững chỉ cho sứ mệnh truyền giáo chứ không gì khác nữa, niềm khao khát mà tôi đã cảm nghiệm được thời gian còn ở Pháp khi lần đầu tiên tôi được yêu cầu đến Hoa Kỳ..."
"Chúng tôi chỉ làm được những điều rất nhỏ trong cánh đồng truyền giáo cho Đức Kitô, nhưng chúng tôi yêu quý điều ấy, vì biết rằng Thiên Chúa không đòi hỏi phải thành đạt những công trình lớn lao, nhưng Người muốn một con tim dâng hiến tất cả, không giữ lại chút gì cho mình... Thập giá đích thực là thập giá mà chúng ta không tự chọn cho mình... Người có được Đức Giêsu là có được tất cả" (Thánh Rose Philippine Duchesne).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn xác tín như thánh nhân: Người có được Đức Giêsu là có được tất cả.
Suy niệm 5: Hành trình gian khổ
Những hành trình khủng khiếp trong thời gian truyền giáo.
Cùng với bốn nữ tu, ngài lênh đênh trên biển 11 tuần lễ để đến New Orleans, và sau đó họ phải xuôi giòng Mississippi thêm bảy tuần lễ nữa để đến St. Louis. Đến nơi, ngài chỉ gặp toàn thất vọng. Đức giám mục địa phương không có chỗ cho các sơ tá túc để hoạt động cho người thổ dân Hoa Kỳ. Thay vào đó, đức cha lại sai các sơ đến một nơi mà ngài gọi là "làng hẻo lánh nhất Hoa Kỳ," đó là St. Charles, Missouri. Tuy nhiên, với bản tính dũng cảm sơ Philippine đã thiết lập trường học miễn phí đầu tiên cho các thiếu nữ ở vùng tả ngạn sông Mississippi. Nhưng đó là một sai lầm. Mặc dù các ngài làm việc quần quật như bất cứ người phụ nữ nào trong thời kỳ khẩn hoang phải rong ruổi trên các toa xe ngựa viễn tây, sự đói khát và lạnh giá đã đẩy các ngài ra khỏi vùng, lưu lạc đến Florissant, Missouri, là nơi ngài thiết lập trường Công Giáo Da Đỏ đầu tiên.
Louis E. Callan, người tìm hiểu về Mẹ Duchesne đã viết: "Trong thập niên đầu khi Mẹ Duchesne đến Hoa Kỳ, trên thực tế ngài đã phải chịu đựng mọi gian khổ của một người khẩn hoang, ngoại trừ sự đe dọa của người da đỏ -- không có chỗ ở, thiếu thốn thực phẩm, nước uống, dầu đốt, tiền bạc, thời tiết thay đổi thất thường, thiếu thốn mọi tiện nghi, và sự ngỗ nghịch của các trẻ em vì sống trong môi trường thô bạo và ít được giáo dục".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cảm nhận được hương vị ngọt ngào khi được cùng uống chén đắng với Chúa (Ed 3,3).
Suy niệm 6: Bà Luôn Cầu Nguyện
Người thổ dân gọi ngài là "Bà Luôn Cầu Nguyện".
Lúc 71 tuổi, sức khỏe ngài suy yếu nhưng tinh thần cầu nguyện của người tiên phong không hề giảm sút. Người ta gọi ngài bằng biệt danh "Bà luôn cầu nguyện". Khi người khác dạy học và học hỏi, thì ngài cầu nguyện. Người ta kể rằng các trẻ em da đỏ nghịch ngợm, lén ra đằng sau lưng ngài khi đang cầu nguyện để ném lên áo những mẩu giấy, và vài tiếng đồng hồ sau chúng trở lại, các mẩu giấy ấy vẫn còn dính trên áo.
Thật dễ hiểu, vì đời sống cầu nguyện của ngài đã được hấp thụ và dưỡng nuôi ngay từ thời được giáo dục tại tu viện Đức Bà Thăm Viếng và dẫn đến một đời sống chiêm niệm. Chính vì thế một trưởng nhóm truyền giáo Dòng Tên đã nài ép ngài: "Mẹ phải đến; dầu Mẹ không còn sức để có thể làm được gì nhiều, nhưng Mẹ bảo đảm được thành quả bằng lời cầu nguyện của Mẹ cho chúng tôi. Sự hiện diện của Mẹ sẽ lôi kéo nhiều hồng ân từ trời xuống cho công việc chúng tôi".
Sức khoẻ tinh thần của ngài thật dồi dào, nhưng sức khoẻ thể xác không thể nào chịu đựng được sự khắc nghiệt của chế độ sống ở bộ lạc thổ dân. Ngài qua đời ở St Charles, Missouri vào ngày 18 tháng 11 năm 1852 ở tuổi 83.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được hiệu lực của việc cầu nguyện cho thành quả của công việc.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 17/11 Thánh Elizabeth ở Hung Gia Lợi (1207-1231)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Elizabeth ở Hung Gia Lợi (1207-1231)
Tuy cuộc đời thật ngắn ngủi, nhưng lòng thương yêu của Thánh Elizabeth dành cho người nghèo và người đau khổ thật lớn lao đến nỗi ngài được Giáo Hội đặt làm quan thầy của các tổ chức bác ái Công Giáo và của Dòng Ba Phanxicô.
Lược sử
Tuy cuộc đời của Thánh Elizabeth thật ngắn ngủi, nhưng lòng thương yêu ngài dành cho người nghèo và người đau khổ thật lớn lao đến nỗi ngài được Giáo Hội đặt làm quan thầy của các tổ chức bác ái Công Giáo và của Dòng Ba Phanxicô. Là con gái của vua Hung Gia Lợi, thay vì chọn một đời sống xa hoa nhàn hạ, Thánh Elizabeth đã đi theo con đường khổ hạnh và hãm mình. Quyết định đó đã để lại trong tâm khảm của bao người dân Âu Châu niềm cảm mến sâu xa.
Khi lên 14 tuổi, ngài kết hôn với ông Louis ở Thuringia (một quận chúa của Đức), là người mà ngài rất yêu mến, và có được ba mặt con. Dưới sự linh hướng của các tu sĩ Phanxicô, ngài sống đời cầu nguyện, hy sinh và phục vụ người nghèo cũng như người đau yếu. Không những thế, ngài còn muốn trở nên một người nghèo thực sự qua cách ăn mặc thật đơn sơ. Mỗi ngày, ngài phân phát thực phẩm cho hàng trăm người nghèo trong vùng mà lúc nào cũng đầy nghẹt trước cửa nhà.
Sau sáu năm thành hôn, ngài thật đau khổ khi nghe tin chồng tử trận trong cuộc Thập Tự Chinh. Buồn hơn nữa, gia đình nhà chồng lại coi ngài là người hoang phí tiền bạc của hoàng gia nên đã đối xử với ngài thật thậm tệ, và sau cùng họ đã tống ngài ra khỏi hoàng cung. Nhưng sau cuộc thập tự chinh, những người thân thuộc bên chồng trở về đã phục hồi quyền lợi cho ngài, vì con trai của ngài là người thừa kế chính thức.
Vào năm 1229, ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô, và dùng quãng đời còn lại để chăm sóc người nghèo trong một bệnh viện mà ngài đã thiết lập để vinh danh Thánh Phanxicô. Sức khỏe của ngài ngày càng sa sút, và sau cùng ngài đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày sinh nhật thứ 24, năm 1231. Vì sự nổi tiếng về nhân đức của ngài nên chỉ bốn năm sau ngài đã được phong thánh.
Suy niệm 1: Bác ái
Tuy cuộc đời của Thánh Elizabeth thật ngắn ngủi, nhưng lòng thương yêu ngài dành cho người nghèo và người đau khổ thật lớn lao.
Cuộc sống hàng ngày của ngài diễn ra bình lặng gồm việc cầu nguyện, làm việc bác ái, cùng với các phụ nữ dệt len cho người nghèo. Rảo quanh các làng quê phân phát các đồ cứu trợ khi xảy ra các trận lũ lụt, dịch bệnh và hạn hán.
Sau sáu năm thành hôn, lúc này lịch sử châu Âu có nhiều biến động, chiến tranh Thập Tự chinh diễn ra, Louis phải ra trận vì danh dự. Lúc này ngài ở nhà dù nhớ thương chồng nhưng vẫn nhiệt thành nâng dỡ người nghèo những người do hoàn cảnh chiến tranh xô đẩy. Ngài tiếp tục phân phát lúa mì dự trữ, thậm chí còn bán cả nữ trang và đá quý để xây cất những nhà thương.
Góa bụa ở tuổi 20. Ở tuổi này, ngài đã từ bỏ tài sản giàu có của mình, đem chia và giúp đỡ cho những người nghèo khó, đầu tư xây dựng các nhà thương, trạm xá để giúp đỡ cho những người nghèo khổ, cơ cực không có tiền thuốc men.
Elizabeth siêng năng thực hành các công cuộc tình thương: những ai đến gõ của của ngài, ngài cho họ ăn uống, cho họ quần áo, trả nợ nần cho họ, chăm sóc bệnh nhân và chôn xác kẻ chết. Ra khỏi lâu đài của mình, ngài thường cùng với những người tỳ nữ đến các nhà của người nghèo, mang theo bánh, thịt, bột và các thức ăn khác. Ngài đính thân trao đồ ăn và cẩn thận coi sóc các thứ quần áo và chỗ trú ẩn cho người nghèo. Cử chỉ này đến tai chồng của ngài, vị chẳng những không tỏ ra bực tức khó chịu mà còn trả lời cho những người tố giác ngài rằng: 'Miễn là họ đừng có đến với lâu đài này là tôi vui rồi!' Xẩy ra trong bối cảnh này là một phép lạ bánh biến thành hoa hồng: Trong khi Elizabeth đang đi qua một con đường với vạt áo đằng trước đầy những bánh cho người nghèo, thì ngài gặp chồng mình, và người chồng hỏi ngài rằng ngài đang mang cái gì đó. Ngài đã mở vạt áo của mình ra thì thay vì bánh lại xuất hiện các bông hoa hồng rực rỡ. Biểu hiệu bác ái này thường được thấy ở các bức ảnh về Thánh Elizabeth.
Với những hành động cao cả đó, ngài đã trở thành một biểu tượng của tổ chức từ thiện Thiên Chúa giáo ở Đức và những nơi khác sau khi ngài qua đời ở tuổi 24.
"Trong thời đại ngày nay, chúng ta có trách nhiệm đặc biệt là trở nên người thân cận đối với mọi người, và tích cực giúp đỡ họ khi chúng ta gặp trên đường đời, dù đó là người già cả bị hắt hủi, người lao công ngoại quốc bị khinh miệt, người tị nạn, trẻ sơ sinh của một mối tình vụng trộm mà bất đắc dĩ em phải chịu đau khổ, hay một người đói ăn; những người ấy đã làm lương tâm chúng ta phải bối rối khi nhớ lời Đức Kitô: 'Khi anh em giúp đỡ một người bé mọn này là giúp đỡ chính Thầy' (Mt 15,40)" (Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, 27).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra Chúa hiện diện nơi tha nhân để dễ sống đức ái.
Suy niệm 2: Khổ hạnh
Thánh Elizabeth đã đi theo con đường khổ hạnh và hãm mình.
Elisabeth dù sinh ra trong một gia đình quyền quý sang trọng nhưng thay vì chọn một đời sống xa hoa nhàn hạ, Elizabeth lại tự nguyện đi theo con đường khổ hạnh và hãm mình (tự hành xác) điều đó đã khiến người dân châu Âu niềm cảm mến sâu xa và ngài được phong thánh bởi Giáo hoàng Grêgôriô IX vào năm 1235.
Khi lớn lên, Elisabeth có tình tình khác hẵn với các quý tộc và công chúa ở trong lâu đài, ngài không ăn mặc, trang điểm diêm dúa hoặc khoác lên mình những phục sức quý báu mà ăn mặc giản dị, hiền hậu, mặt khác luôn quan tâm đến những người hầu, kẻ hạ, những người nghèo... Điều này khiến Công chúa Sophia, mẹ của Louis tức là mẹ chồng của ngài hoàn toàn không hài lòng. Khi bà này dẫn Elisabeth với cô con gái mình tới nhà thờ, cả hai trang điểm như công chúa thì Elisabeth lại cởi vương miện bằng đá ra mà nói không muốn mang nó đến trước Thiên Chúa phải đội mão gai.
Vào năm 18 tuổi, sau cái chết của người cha, Ludwig bắt đầu cai trị lãnh thổ Thuringia. Thế nhưng Elizabeth đã trở thành đối tượng của những lời xì xèo phê bình chỉ trích, vì cách thức tác hành của ngài không tương xứng với đời sống trong triều đình. Cũng thế, cuộc cử hành hôn lễ của họ không phung phí và những tiêu xài cho bữa tiệc một phần được tặng cho người nghèo. Theo cảm quan sâu xa của mình, Elizabeth đã thấy được những trái ngược mâu thuẫn giữa đức tin được tuyên xưng và việc thực hành Kitô giáo. Ngài không thể chịu được những sự tổn thương ấy. Có lần, khi tiến vào nhà thờ vào dịp Lễ Mông Triệu, ngài đã bỏ vương miện của mình ra, đặt nó trước cây thập giá và lấy tay bịt mặt lại quỳ ở đó. Có một nữ tu trách ngài về cử chỉ này, ngài đã trả lời rằng: "Làm sao tôi là một tạo vật khốn nạn có thể đội một vương miện cao trọng trần thế khi tôi thấy Vua tôi là Chúa Giêsu Kitô đội triều thiên gai chứ?" Như ngài đã tác hành trước nhan Thiên Chúa thế nào thì ngài cũng tác hành với thành phần tôi tớ của mình như vậy. Trong số những 'lời nói' của bốn nữ tỳ, chúng ta thấy chứng từ này: 'Ngài sẽ không ăn lương thực nếu ngài trước hết không biết chắc rằng lương thực ấy xuất phát từ gia tài và các sản vật hợp pháp của chồng mình. Trong lúc ngài kiêng cử các thứ đồ buôn lậu, thì ngài lại quan tâm đến việc bồi thường cho những ai bị áp bức' (Nos. 25 and 37). Ngài nêu gương thực sự cho tất cả những ai có trách nhiệm: Việc thi hành quyền bính, ở mọi cấp độ, cần phải thi hành như phục dịch cho công lý và bác ái, liên lỉ theo đuổi công ích.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống hãm mình đặc biệt trong việc chi tiêu để có mà quảng đại giúp đỡ tha nhân.
Suy niệm 3: Kết hôn
Khi lên 14 tuổi, Elizabeth kết hôn với ông Louis ở Thuringia.
Elisabeth là Công chúa nước Hunggary con gái của Andrew II xứ Hungary và Gertrude xứ Merania, khi lên bốn tuổi cô được đưa đến lãnh địa của thế lực Thuringia ở miền trung nước Đức để trở thành một cô dâu tương lai qua đó củng cố liên minh chính trị giữa hai nhà.
Sau đó lúc cô lên 14 tuổi và hoàng tử Ludwig hay Louis lên 20 thì hai người kết hôn. Năm sau họ có con đầu lòng và 2 năm sau nữa sinh con thứ.
Thật vậy, thời thơ ấu hạnh phúc của ngài bị đứt đoạn một cách sống sượng, khi những tay hiệp sĩ từ Thuringia xa xôi đến đưa ngài tới những tổng hành dinh mới của ngài ở trung tâm Đức quốc. Thật vậy, theo tập tục thời bấy giờ, cha của ngài đã quyết định rằng Elizabeth phải làm công chúa của Thuringia. Vị lãnh chúa ở miền này là một trong những nhân vật giầu sang và thế lực nhất Âu Châu vào đầu thế kỷ 13, và lâu đài của ông ta là trung tâm của những gì là nguy nga tráng lệ và văn hóa. Tuy nhiên, ở đằng sau những mừng rỡ và vinh quang bề ngoài ấy là những tham vọng kín đáo của các hoàng gia phong kiến, thường chiến tranh với nhau và xung đột về quyền bính đế vương. Trong bối cảnh ấy, lãnh chúa Hermann tỏ ra hài lòng chấp nhận cuộc đính hôn giữa con trai của mình là Ludwig (Louis) và công Chúa Hung Gia Lợi ấy. Elizabeth đã rời quê hương của mình với đầy những của hồi môn và một đoàn tùy tùng đông đảo, bao gồm cả những người tớ gái riêng của ngài, trong đó có 2 người trung thành là bạn của ngài cho đến cùng. Họ là những người đã để lại cho chúng ta tín liệu quí báu về thời thơ ấu và cuộc đời của vị thánh này.
Sau cuộc hành trình dài, họ đã đến Eisenach, rồi tiếp tục lên pháo đài Wartburg, một lâu đài khổng lồ nhìn thấy khắp thành phố. Ở đó diễn ra cuộc đính hôn giữa Ludwig và Elizabeth. Trong những năm sau này, trong khi Ludwig học nghề làm hiệp sĩ thì Elizabeth và các người bạn đồng hành của ngài học tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Latinh, âm nhạc, văn chương và thêu thùa. Bất chấp sự kiện là cuộc đính hôn này xẩy ra vì lý do chính trị, một tình yêu thương chân thành đã nẩy nở giữa hai con người trẻ, được tác động bởi đức tin và ước muốn làm theo ý của Thiên Chúa.
Cuộc sống hôn nhân của ngài hết sức hạnh phúc: Elizabeth giúp cho chồng của mình gia tăng những phẩm tính nhân bản cho đến mức độ siêu nhiên, và phần mình, chàng đã bảo vệ vợ mình khi vợ tỏ lòng quảng đại đối với người nghèo cũng như khi vợ thực hành các việc đạo đức. Hơn thế nữa, khi ca ngợi đức tin cao cả của vợ mình liên quan tới việc nàng chăm sóc cho người nghèo, Ludwig đã nói với nàng rằng: 'Elizabeth yêu dấu, chính Chúa Kitô là Đấng em chùi rửa, cho ăn và chăm sóc cho đấy'. Một chứng từ rạng ngời cho thấy làm sao đức tin và đức ái của Thiên Chúa và tha nhân của mình lại củng cố cho mối hiệp nhất hôn nhân và thậm chí làm cho nó sâu đậm hơn (Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 22/10/2010).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các đôi phối ngẫu biết xây dựng một tình yêu thương chân thành, được tác động bởi đức tin và ước muốn làm theo Thiên Ý, để bảo vệ hạnh phúc lứa đôi.
Suy niệm 4: Linh hướng
Dưới sự linh hướng của các tu sĩ Phanxicô, Elizabeth sống đời cầu nguyện, hy sinh và phục vụ người nghèo cũng như người đau yếu.
Thánh Elizabeth còn là gương mẫu cho chúng ta về sự tuân phục vị linh hướng. Thăng tiến đời sống tâm linh là một tiến trình thật khó khăn. Chúng ta rất dễ tương nhượng nếu không có ai khích lệ hay chia sẻ những kinh nghiệm để giúp chúng ta tránh được các cạm bẫy.
Đôi vợ chồng trẻ này gặp được nguồn nâng đỡ thiêng liêng nơi những Người Anh Em Hèn Mọn. Trong số các thày dòng này, Elizabeth đã chọn Thày Rudiger làm vị linh hướng. Khi vị linh hướng này kể cho ngài nghe về trường hợp hoán cải của con người trẻ thương gia giầu sang Francis of Assisi, thì Elizabeth lại càng nhiêt thành hơn trên con đường sống đời Kitô hữu. Từ lúc ấy, ngài đã quyết định theo Chúa Kitô nghèo hèn và tử giá hơn nữa, Đấng hiện diện nơi người nghèo. Cũng thế, khi đứa con trai đầu lòng của ngài vào đời, sau đó thêm hai đứa nữa, vị thánh của chúng ta không bao giờ lơ là với các hoạt động bác ái của mình. Hơn nữa, ngài giúp cho các Thày Dòng Anh Em Hèn Mọn xây dựng một đan viện ở Halberstadt là nơi Người Anh Em Hèn Mọn Rudiger làm bề trên. Bởi thế việc hướng dẫn thiêng liêng cho Elizabeth được chuyển sang cho Người Anh Em Hèn Mọn Konrad of Marburg.
Chính vị linh hướng này đã đệ trình lên Đức Giáo Hoàng Gregorio IX biến cố sau đây: 'Vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1228, đặt bàn tay của mình trên bàn thờ ở nguyện đường của thành phố Eisenach, nơi ngài đã lãnh nhận các Người Anh Em Hèn Mọn, trước sự hiện diện của một số tu sĩ và thân quyến, Elizabeth đã từ bỏ ý riêng của mình cùng với tất cả mọi phù phiếm trần gian. Ngài muốn từ bỏ tất cả những gì mình có, nhưng con đã khuyên can ngài vì yêu thương thành phần nghèo khổ. Sau khi ngài xây một nhà thương được một ít lâu, ngài đã tiếp nhận thành phần bệnh tật và phục vụ những kẻ khốn cùng nhất và những kẻ bị bỏ rơi nhất tại chính bàn ăn của mình. Bị trách cứ về những điều ấy, Elizabeth đã trả lời rằng từ người nghèo mà ngài đã lãnh nhận được một ân huệ đặc biệt và được lòng khiêm nhượng" (Epistula magistri Conradi, 14-17). (Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 22/10/2010)..
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết tuân phục vị linh hướng để có thể dễ thăng tiến đời sống tâm linh.
Suy niệm 5: Đau khổ
Elizabeth thật đau khổ khi nghe tin chồng tử trận.
Một tai họa đã xảy ra khi chồng ngài là tham gia đoàn quân thánh giá và thiệt mạng vào năm 1227 khi ngài sinh người con thứ ba. Gia đình nhà chồng lúc này coi ngài là người hoang phí tiền bạc của hoàng gia nên đã đối xử tệ và thậm chí trục xuất ngài khỏi hoàng cung, sống một cuộc sống cơ cực và tạm bợ tại các tu viện, mặc dù cô không hề oán trách và coi đây như là sự thử thách.
Thật thế, một cơn thử thách dữ dội đã xẩy ra lúc ngài từ biệt chồng mình vào cuối tháng 6 năm 1227, khi Ludwig IV liên hiệp với cuộc thánh chiến của Hoàng Đế Frederich II, nhắc nhở vợ mình rằng đó là một truyền thống đối với Các quốc chủ ở Thuringia. Elizabeth trả lời rằng: 'Em không khuyên can anh. Em đã hiến toàn thân cho Chúa và giờ đây em cũng phải hiến anh cho Ngài nữa'. Tuy nhiên, bệnh sốt đã tàn sát quân đội và chính Ludwig đã ngã bệnh và chết ở Otranto trước khi lên tầu, vào Tháng 9 năm 1227, hưởng dương 27 tuổi. Nghe tin, Elizabeth đau buồn đến độ ẩn mình đi vào nơi thanh vắng, thế nhưng sau đó, được kiên cường nhờ nguyện cầu, và được an ủi khi nghĩ tới sẽ gặp lại chàng trên trời, ngài lại chú trọng tới các công việc của triều chính.
Tuy nhiên, một thử thách khác đang chờ đợi ngài, đó là người anh rể của ngài chiếm nắm quyền cai trị xứ Thuringia, tự tuyên bố rằng anh ta mới thực sự là thừa kế của Ludwig và tố cáo Elizabeth là một người đàn bà đạo đức không có khả năng quản trị. Người vợ góa trẻ tuổi cùng với 3 đứa con trai bị tống đuổi ra khỏi lâu đài Wartburg và bắt đầu tìm chỗ cư trú. Chỉ c òn có hai trong số những người tỳ nữ theo còn ở với ngài, hộ tống ngài và ký thác 3 đứa con trai của ngài cho việc chăm sóc của những người bạn của Ludwig. Hành trình qua các làng mạc, Elizabeth đã ra tay làm việc ở bất cứ chỗ nào nhận ngài làm việc: Ngài đã giúp đỡ thành phần bệnh nhân, đã quay tơ và may vá. Trong thời gian khổ nạn này, chịu đựng bằng đức tin cao cả, nhẫn nại và hiến mình cho Thiên Chúa, một số họ hàng, thành phần vẫn trung thành với ngài và coi chính quyền người anh rể của ngài đang trị vì là bất hợp pháp, đã phục hồi lại tên tuổi của ngài, vì con trai của ngài mới là người thừa kế chính thức. (Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 22/10/2010).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khi gặp thử thách, hãy biết theo gương thánh nhân để chịu đựng bằng đức tin cao cả, nhẫn nại và hiến mình cho Thiên Chúa.
Suy niệm 6: Bệnh viện
Elizabeth dùng quãng đời còn lại để chăm sóc người nghèo trong một bệnh viện mà ngài đã thiết lập.
Thánh Elizabeth hiểu rất rõ bài học của Đức Kitô khi Người rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly: người Kitô phải là người phục vụ những nhu cầu cần thiết của tha nhân, dù người phục vụ có địa vị cao trọng. Là một người trong hoàng tộc, Thánh Elizabeth đã có thể sai khiến người dân, nhưng ngài đã phục vụ họ với một tâm hồn thật đại lượng đến nỗi trong cuộc đời ngắn ngủi ấy ngài đã được sự quý mến của rất nhiều người.
Bởi thế, vào đầu năm 1228, đã có thể lãnh nhận một lợi tức thích đáng để rút lui vào lâu đài của gia đình ở Marburg cũng là nơi vị linh hướng của ngài là Konrad sống. Vào năm 1229, ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô, và dùng quãng đời còn lại để chăm sóc người nghèo trong một nhà thương mà ngài đã thiết lập để vinh danh Thánh Phanxicô.
Chúng ta có thể thấy nơi việc dứt khoát này một cảm nghiệm thần bí tương tự như cảm nghiệm của Thánh Phanxicô: Người Nghèo Thành Assisi này thật sự đã nói trong di chúc của mình rằng bằng việc phục vụ những người cuì hủi mà những gì trước kia cay đắng đã trở nên một thứ ngọt ngào của linh hồn và thân xác (Testamentum, 1-3). Elizabeth đã sống 3 năm cuối cùng của mình ở bệnh viện do ngài thành lập, phục vụ bệnh nhân, ở bên cạnh giường của người hấp hối. Ngài luôn cố gắng thi hành những việc hèn hạ nhất và những công việc ghê tởm nhất. Ngài đã trở thành những gì chúng ta có thể gọi là một người nữ sống đời tận hiến giữa thế gian (soror in saeculo) và đã thành lập một cộng đồng tu trì với những người bạn khác của ngài, mặc chiếc áo dòng mầu xám. Không phải là tình cờ mà ngài là quan thày của Dòng Ba Thánh Phanxicô và Hội Dòng Thánh Phanxicô Tại Thế.
Vào Tháng 11 năm 1231 ngài đã bị sốt nặng. Khi nghe tin ngài bị bệnh nhiều người đã đến gặp ngài. Khoảng 10 ngày sau, ngài yêu cầu đóng cửa lại để ngài được một mình với Chúa. Ngài từ từ thiếp đi trong Chúa vào đêm 17/11. Vì thể trang yếu đuối và phải lao động nhiều nên sức khỏe của ngài ngày càng sa sút, và sau cùng ngài chết vào ngày 19 tháng 10 năm 1231 lúc đó chỉ mới 24 tuổi.
Những chứng từ về thánh đức của ngài nhiều đến độ chỉ 4 năm sau Đức Giáo Hoàng Gregôriô IX đã tuyên bố ngài là một vị thánh, và cùng năm, một thánh đường tuyệt đẹp dựng lên tôn kính ngài ở Marburg được thánh hiến. Sác lệnh này này của Đức Giáo Hoàng vẫn được trưng bày trong bảo tàng Schatzkammer Deutschordenskirche ở Viên, Áo. Thi thể của ngài được đặt trong một quan tài bằng vàng rất lộng lẫy ở đền thờ và nó vẫn còn để được trưng bày cho công chúng thấy cho đến ngày hôm nay trong Giáo Hội Elisabeth (Marburg).
Nơi hình ảnh Thánh Elizabeth, chúng ta thấy đức tin và tình thân hữu với Chúa Kitô đã kiến tạo ra sao cái cảm quan về công lý, về sự bình đẳng của mọi người, về quyền lợi của những kẻ khác, và chúng kiến tạo ra sao tình yêu thương, đức bác ái. Và từ đức bác ái này mà niềm hy vọng đã phát sinh, niềm tin tưởng rằng chúng ta được Chúa Kitô yêu thương và tình yêu của Chúa Kitô đang chờ đợi chúng ta, nhờ đó làm cho chúng ta có thể bắt chước Chúa Kitô và thấy Chúa Kitô nơi kẻ khác. Thánh Elizabeth mời gọi chúng ta hãy tái nhận thức Chúa Kitô, hãy yêu mến Người, hãy tin tưởng và nhờ đó gặp được cống lý và tình yêu đích thực, cùng với niềm vui mà một ngày kia chúng ta sẽ được chìm đắm trong tình yêu thần linh, trong niềm vui của cõi vĩnh hằng với Thiên Chúa (Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 22/10/2010).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy tái nhận thức Chúa, hãy yêu mến và hãy tin tưởng vào Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 16/11 Thánh Magarita Scotia (1045 - 1093)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh MAGARITA SCOTIA (1045 - 1093)
Thánh Magarita sinh ra khoảng năm 1045. Cha Ngài là hoàng tử Edward người Anh, bị lưu đày và cưới một nữ công chúa người Đức, có lẽ là cháu của hoàng hậu vua thánh Stephanô nước Hungaria. Magarita lớn lên trong triều đình Hungari và đã gặp được sự công chính và thánh thiện để làm nên dấu thánh thiện của chính mình. Khoảng 12 tuổi trở lại nước Anh, thánh nữ sống trong triều đình của vua thánh Edward.
Trong cuộc chinh phục Norman năm 1066, Magarita cùng với mẹ và anh chị em Ngài bị lưu đày một lần nưã. Họ trốn sang Scotia, dầu lúc ấy đang có chiến tranh giữa hai nước, vua Scotia là Malcola Cannore cũng đã nhân ái tiếp nhận những kẻ lưu đày.
Malcolm Cannore mà tên gọi có nghĩa là "nhà cai trị vĩ đại" là một vị vua uy quyền có khả năng. Ông yêu Magarita, còn Magarita thì có ý định đi tu dòng. Nhưng ông đã khuyên Magarita lập gia đình với ông. Cuộc sống chung của họ được mô tả với vài chi tiết trong một tập hồi ký có lẽ do cha giải tội của Ngài là Turgot, sau là giám mục viết. Đây là một câu chuyện thích thú về sự gặp gỡ giữa một người đàn bà trẻ khôn ngoan và thánh thiện với người chồng hung hăng ít được giáo dục nhưng hứơng chiều về sự thánh thiện của vợ mình.
Cuộc hoà hợp nhân duyên này mang lại cho họ sáu người con trai và hai người con gái. Hoàng hậu chỉ chấp nhận cho những gương lành tới gần các tâm hồn trẻ thơ này và không một người xấu nào dám tới triều đình. Những hoàng tử công chúa này lớn lên và tham gia vào các công cuộc của người mẹ thánh thiện và của người cha đã trở thành vị vua gương mẫu.
Thánh Magarita dùng nhiều thì giờ và tiền của cho các công cuộc bác ái, chính Ngài hầu hạ người nghèo khó, già cả, côi cút và yếu đau. Ngài khám phá ra mọi hình thức khổ cực, giúp đỡ các gia đình phá sản phục hồi, chuộc lại các tù nhân, xây dựng nhà thương, nhà vãng lai cho du khách. Người lạ biết rằng: họ có thể luôn tìm được chỗ trú ngụ nơi Ngài khi ra khỏi nhà. Cả đoàn người bất hạnh vây quanh Ngài và đây mới là triều đình thật của Ngài. Khi trở về nhà, Ngài chỉ muốn ngồi vào bàn ăn sau khi đã hầu bàn cho 300 người nghèo ngồi đầy một phòng ăn lớn.
Scotia đã được cải hoá từ lâu, nhưng sự man rợ còn tồn tại ở đó trở thành mẹ của một vương quốc, thánh Magarita biến nó thành một gia đình rộng lớn và dẫn tới Thiên Chúa, Ngài trao cho những quan liêm chính tái lập trật tự, sai các nhà giảng thuyết đi loan báo Tin Mừng để Chúa Giêsu được yêu mến khắp nơi. Ngài giải quyết vấn đề Giáo hội ở Scotia thời Ngài gặp phải. Bị cắt đứt liên lạc do cuộc xâm lăng của người ngoại, Giáo hội Celt đã khác biệt nhiều điểm với Roma và chính thánh Magarita đã hoà giải những yếu tố tranh chấp và đưa Giáo hội Celt ở Scotia về qui phục. Ngài làm việc này mà vẫn tránh được sự phân ly đau đớn.
Cũng thế những cố gắng đưa văn hóa Âu Châu vào Scotia của Ngài rất thành công. Trong khi bên Anh, cuộc chinh phục Norman đã để lại một di sản cay đắng thì ở Scotia dưới ảnh hưởng của Magarita và các con của Ngài, việc lan tràn văn hóa Trung Cổ đã mang lại cho Scotia một thời đại hoàng kim kéo dài cả 2000 năm sau khi thánh nữ qua đời.
Thánh Magarita qua đời năm 1093 tại lâu đài Ediburgh như rất nhiều vị thánh, vào lúc mà mọi công trình xem ra tiêu tan hết. Vua nước Anh xâm chiếm một pháo đài. Malcoln và hai người con cả đi tái chiếm. Thánh nữ cảm thấy âu lo. Ngày kia Edgar con Ngài trở về, thánh nữ hiểu ngay thực tế khủng khiếp là vua và người con kia đã chết. Đau đớn, thánh nữ chỉ biết nói: - Lạy Chúa toàn năng, Chúa đã gửi cho con sự đau đớn lớn lao này để thanh tẩy tâm hồn con, con xin chúc tung Chúa .
Ngài không than trách, đức tin và lòng dũng cảm không rung chuyển, nhưng sáu tháng sau Ngài đã qua đời.
Ba người con của Ngài tiếp tục cai trị trên ngai vàng, công cuộc của người mẹ được tăng cường và đi tới hoàn thành. Thánh Magarita được phong thánh năm 1250.
(daminhvn.net)
Ngày 15/11 Thánh Albert Cả (1206-1280)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Albert Cả (1206-1280)
Khi phong thánh cho Thánh Albert, Giáo Hội đã coi sự quý trọng chân lý, bất cứ tìm thấy ở đâu, như đặc tính thánh thiện của ngài.
Lược sử
Thánh Albert Cả là linh mục Đa Minh người Đức có ảnh hưởng đến lập trường dứt khoát của Giáo Hội đối với triết lý của Aristotle được du nhập vào Âu Châu do sự phát triển của Hồi Giáo.
Các sinh viên triết biết đến ngài như vị thầy của Thánh Tôma Aquinas. Sự hiểu biết về triết Aristotle của Thánh Albert tạo môi trường thích hợp cho Thánh Tôma Aquinas phát triển quan niệm tổng hợp của ngài về văn hóa Hy Lạp và thần học Kitô Giáo. Nhưng Thánh Albert vẫn xứng đáng là một học giả am tường, trung thực và cần cù.
Ngài từ trần ở Cologne ngày 15-11-1280. Ngài được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh và được tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1931.
Suy niệm 1: Aristotle
Thánh Albert Cả là linh mục Đa Minh người Đức có ảnh hưởng đến lập trường dứt khoát của Giáo Hội đối với triết lý của Aristotle được du nhập vào Âu Châu do sự phát triển của Hồi Giáo.
Aristotle (384 – 322 TCN) là một nhà triết học và bác học thời Hy Lạp cổ đại, học trò của Platon và thày dạy của Alexandros Đại đế. Di bút của ông bao gồm nhiều lãnh vực như vật lý học, siêu hình học, thi văn, kịch nghệ, âm nhạc, luận lý học, tu từ học (rhetoric), ngôn ngữ học, chính trị học, đạo đức học, sinh học, và động vật học. Ông được xem là người đặt nền móng cho môn luận lý học. Ông cũng thiết lập một phương cách tiếp cận với triết học bắt đầu bằng quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy trừu tượng. Cùng với Platon và Socrates, Aristotle là một trong ba cột trụ của văn minh Hy Lạp cổ đại.
Các quan điểm của Aristotle:
* "Thầy đã quý, chân lý còn quý hơn"
* "Vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ, càng nặng rơi càng nhanh."
* "Tốc độ rơi của một vật phụ thuộc vào mật độ môi trường nơi vật rơi qua, mật độ môi trường càng nhỏ thì tốc độ rơi càng lớn."
"Nếu có lực tác dụng vào vật thì tốc độ chuyển động của vật sẽ tỉ lệ thuận với lực tác dụng."
* Aristotle còn cho rằng, chuyển động có thể là "có ý thức" hoặc "vô ý thức." Ông dùng thuật ngữ "nature will" (tạm dịch là "lẽ tự nhiên") để giải thích về nguyên nhân của sự chuyển động: "Mọi chuyển động có ý thức hay vô ý thức của sinh vật hoặc các vật thể đều tuân theo lẽ tự nhiên của chúng."
* Aristotle đồng ý với quan điểm của Empedode về 4 nguyên tố đất, lửa, khí, nước. Sau đó đề xuất thêm rằng các thiên thể chuyển động theo đường tròn, trong môi trường gọi là ête (ether).
Một số quan niệm của Aristotle sau này bị Galileo Galilei đánh đổ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con coi sự quý trọng chân lý.
Suy niệm 2: Thầy của Thánh Tôma Aquinas
Các sinh viên triết biết đến Albert Cả như vị thầy của Thánh Tôma Aquinas.
Thầy lo xa cho trò: Tại Paris, ngài gặp môn sinh vừa thông minh vừa thánh thiện: Tôma Aquinas. Ngài đề nghị với Bề trên cho Tôma học thi các bằng cấp cần thiết để chuẩn bị làm giáo sư. Tôma muốn có bằng cử nhân và tiến sĩ để làm giáo sư thực thụ ở đại học. Nhưng lúc bấy giờ kinh sĩ Guillaume de Saint Amour vốn không muốn các tu sĩ dạy ở đại học. Cuộc xung đột bùng nỗ lớn. các tu sĩ Đa Minh "nhảy vào vòng chiến" chống các giáo sư nào của chính phủ theo chủ trương bóp chẹt như thế.
Cuộc xung đột ác liệt đến nỗi có một sinh viên tử thương. Thánh Tôma viết cuốn "Contra impugnantes Dei cultum et Religionem" để đối đầu lại cuốn "De periclitaris novissimorum temporum" của Guillaume de Saint Amour. Khi Thánh Tôma "lâm chiến" như vậy thì Thánh Anbert Cả ráo riết bênh vực cho học trò của mình. Vả lại, nếu từ trước Thánh Anbert Cả không lo cho Thánh Tôma thi cử thì cuộc xung đột này, "con gà" của ngài chắc cũng yếu thế. Mới hay trên đời, một lão sư phong phú, đầu óc tiên kiến tiên liệu là một kho báu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống niềm tôn sư trọng đạo đặc biệt đối với các bậc thầy tinh thần.
Suy niệm 3: Thầy của Thánh Tôma Aquinas
Các sinh viên triết biết đến Albert Cả như vị thầy của Thánh Tôma Aquinas.
Thầy vun đắp cho trò: Sở dĩ Thánh Tôma có được bộ óc làm việc theo khoa học, khúc chiết lẫn tổng hợp, và sở dĩ ngài đỡ tốn công buổi đầu trong việc khảo bình triết học, thần học là nhờ sự chuẩn bị lâu năm của Thánh Albert Cả. Etienne Gilson trong cuốn "Triết học Trung Cỗ" đã được Larousse du XXè siècle trích dẫn tư tưởng sau đây: "Nếu không có công phu phong phú, kinh khủng của thầy ông, thì nhà tổ chức sáng suốt về những tư tưởng, tức Thánh Tôma phải tốn một phần lớn nỗ lực trên đường nghiên cứu."
Những bài mà Thánh Tôma chống Averroès phần lớn dựa trên những lập luận của Thánh Albert Cả. Đọc hai bộ Summa của Thánh Tôma, những đoạn ngài nối kết chân lý đức tin với các chân lý của triết Platon, Aristote, người ta cảm thấy ngay dấu vết công việc của tôn sư ngài là Thánh Albert Cả, nhưng công trình của trò thì hơn hẳn thầy. Hơn nữa, mặc dầu trong hai bộ Tổng Luận, Thánh Tôma vay mượn nhiều ở thuyết Aristote, song cái khuôn lý luận vẫn còn giữ truyền thống của các giáo phụ Hy Lạp. Vốn giáo phụ học này đã được truyền lại cho Thánh Tôma, không từ ai khác ngoài Thánh Albert Cả. Ta thấy với tư cách khảo bình, Thánh Tôma đã làm lại nhiều việc tôn sư đã làm, nhưng đại qui mô hơn nhờ rút được kinh nghiệm và dựa trên tài liệu của thầy mình. Chẳng hạn, Thánh Albert Cả đã từng khảo bình Aristote, các tác giả Ả-rập, Do Thái, thì Thánh Tôma cũng khảo bình lại nhưng về nhiều phương diện hơn, phương pháp tân kỳ hơn. Mà phương pháp nghiên cứu này, Thánh Tô-ma cũng kết tinh từ tinh thần khoa học của sư phụ ngài vốn là một nhà khoa học tên tuỗi thời bấy giờ. Ta đừng quên từ đầu thế kỷ XIII, Thánh Albert Cả cùng Roger Bacon đã đề cao các phương pháp quan sát, thực nghiệm và qui nạp rồi. Riêng trong lãnh vực giảng huấn thì rõ rệt là Thánh Tôma đã được thầy trui luyện từ cả chục năm trở lên. Hàng ngày ngài chiêm nghiệm lối giảng dạy rõ ràng, mạch lạc, dứt khoát của sư phụ. Về sau cộng thêm thiên tư cùng vốn học bao la nữa, Tôma trở thành một ngôi sao sư phạm là phải. Quả thực, chân sư đã dầy công đầu tư cho minh đệ vậy.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống sao để Trò là danh dự và nguồn an ủi tuổi già của thầy.
Suy niệm 4: Hiểu biết-chân lý
Sự hiểu biết về triết Aristotle của Thánh Albert tạo môi trường thích hợp cho Thánh Tôma Aquinas phát triển quan niệm tổng hợp của ngài về văn hóa Hy Lạp và thần học Kitô Giáo.
Kitô Hữu ngày nay phải đối diện với sự tràn ngập kiến thức trong mọi lãnh vực. Họ cần đọc báo chí Công Giáo ngày nay để biết được phản ứng của Giáo Hội trước những khám phá mới về khoa học xã hội, về lối sống người Kitô Hữu cũng như thần học Kitô Giáo. Khi phong thánh cho Thánh Albert, Giáo Hội đã coi sự quý trọng chân lý, bất cứ tìm thấy ở đâu, như đặc tính thánh thiện của ngài. Tính hiếu kỳ của thánh nhân đã khiến ngài đào xới trong kho tàng khôn ngoan của triết học mà Giáo Hội thời ấy đang sôi nổi với những khó khăn.
"Có những người muốn hiểu biết chỉ để hiểu biết; đó là sự tò mò đáng hổ thẹn. Có những người muốn hiểu biết để nhờ đó họ được nổi tiếng; đó cũng là sự phù hoa và nhục nhã. Những người khác lại muốn hiểu biết để kiếm tiền hay thăng quan tiến chức; đó cũng là điều mất thể diện. Nhưng cũng có những người muốn hiểu biết để họ có thể sinh lợi cho chính linh hồn họ và linh hồn người khác; đó là lòng bác ái. Trong những loại hiểu biết kể trên, chỉ có loại sau cùng là biết sử dụng kiến thức cách xứng hợp" (Thánh Bernard, Bài Giảng Về Diễm Ca)
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng kiến thức cách xứng hợp.
Suy niệm 5: Hiểu biết-bác ái
"Có những người muốn hiểu biết chỉ để hiểu biết; đó là sự tò mò đáng hổ thẹn. Có những người muốn hiểu biết để nhờ đó họ được nổi tiếng; đó cũng là sự phù hoa và nhục nhã. Những người khác lại muốn hiểu biết để kiếm tiền hay thăng quan tiến chức; đó cũng là điều mất thể diện.
Nhưng cũng có những người muốn hiểu biết để họ có thể sinh lợi cho chính linh hồn họ và linh hồn người khác; đó là lòng bác ái. Trong những loại hiểu biết kể trên, chỉ có loại sau cùng là biết sử dụng kiến thức cách xứng hợp" (Thánh Bernard, Bài Giảng Về Diễm Ca)
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dùng sự hiểu biết để sinh lợi cho chính linh hồn mình và linh hồn người khác.
Suy niệm 6: Học giả
Thánh Albert vẫn xứng đáng là một học giả am tường, trung thực và cần cù.
Ngài là con cả của một lãnh chúa quyền thế và giầu có ở Đức. Ngay từ nhỏ ngài đã nổi tiếng thông minh. Lớn lên, ngài vào trường đại học ở Padua, nước Ý, và chính ở đây ngài gia nhập dòng Đa Minh khiến gia đình thật khó chịu.
Sự lưu tâm vô bờ của ngài đến các lãnh vực khác nhau đã thúc giục ngài viết các tổng lược về: khoa học tự nhiên, hùng biện, toán học, thiên văn, luân lý, kinh tế, chính trị và siêu hình học. Công trình này phải mất 20 năm mới hoàn tất. Ngài nói, "Mục đích của chúng tôi là đưa ra tất cả những học thuật trước đây để Giáo Hội Tây Phương có thể lĩnh hội được."
Ngài đạt được mục đích ấy trong khi vừa giảng dạy tại Paris và Cologne, vừa làm bề trên dòng Đa Minh và ngay cả khi là giám mục của Regensburg.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng tài trí Chúa ban để phục vụ Chúa và Giáo Hội.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 14/11 Thánh Gertrude (1256? - 1302)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gertrude (1256? - 1302)
Ðời sống của Thánh Gertrude là một nhắc nhở cho chúng ta thấy tâm điểm của cuộc đời Kitô Hữu là cầu nguyện mang tính cá nhân.
Lược sử
Thánh Gertrude là một trong những vị thần bí nổi tiếng của thế kỷ 13. Cùng với Thánh Mechtild, thánh nữ tập luyện một đời sống tâm linh gọi là "hôn nhân huyền nhiệm", đó là ngài trở nên vị hôn thê của Đức Kitô. Đời sống của ngài kết hợp mật thiết với Đức Giêsu và Thánh Tâm, từ đó dẫn đến đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thánh Gertrude sinh ở Eisleben thuộc Saxony. Khi lên năm tuổi, ngài được giao cho các nữ tu Benedictine ở Rodalsdorf chăm sóc, sau này ngài trở thành một nữ tu, và vào năm 1251 ngài làm tu viện trưởng của chính tu viện ấy.
Thánh Gertrude rất thích học hỏi. Ngài giỏi tiếng Latinh và sáng tác thơ phú dựa vào Phụng Vụ Thánh. Ngài nổi tiếng là người sùng kính Nhân Tính Thiêng Liêng của Đức Giêsu trong sự Thống Khổ và trong bí tích Thánh Thể, và ngài cũng yêu mến Đức Trinh Nữ Maria một cách đặc biệt. Thánh nữ từ trần năm 1302.
Suy niệm 1: Vị thần bí
Thánh Gertrude là một trong những vị thần bí nổi tiếng của thế kỷ 13.
Cuộc đời của thánh nữ, dù không có những biến động sôi nổi hay những hành động đáng kinh ngạc, nhưng sinh hoạt tinh thần của ngài thật đáng khâm phục. Ngài sống cuộc đời bí nhiệm trong tu viện, cuộc đời ẩn giấu với Đức Kitô. Ngài say mê việc học và suy gẫm thánh kinh, các giáo phụ và các nhà thần học. Ngài kiềm chế tính hiếu động bằng việc hãm mình dữ dằn và sống trong sự kết hiệp liên lỉ với Chúa. Đáp lại việc hiến thân hoàn toàn ấy, ngài được nhiều ơn thần bí phi thường. Ngài được mạc khải nhiều lần trong khi hát kinh nhật tụng và viết lại những mạc khải này trong cuộc khảo luận.
Thánh nhân được ơn những dấu đinh vô hình và một vết thương trong lòng. Các sách của Ngài chỉ được phổ biến 200 năm sau, cho thấy đời sống nội tâm nồng nhiệt của Ngài, Ngài liên kết say mê với phụng vụ cố gắng đồng nhất đời mình với những mầu nhiệm mà chu kỳ phụng vụ nhắc lại. Ngài muốn chịu khổ vì phần rỗi anh em và tìm những lời nồng cháy để cải hóa các tội nhân và đổ ra nhiều nước mắt vì những đau khổ gây nên cho Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh nhân hằng sống trong sự kết hiệp liên lỉ với Chúa.
Suy niệm 2: Hôn nhân huyền nhiệm
Cùng với Thánh Mechtild, thánh nữ tập luyện một đời sống tâm linh gọi là "hôn nhân huyền nhiệm", đó là ngài trở nên vị hôn thê của Đức Kitô.
Là vị hôn thê của Đức Kitô, ngài làm một lời khấn vốn trở nên một danh ngôn: "Con khấn với Chúa giữ đức tuân phục vì tình yêu hiền phụ của Chúa đã lôi cuốn con, lòng nhân ái yêu thương và hiền dịu của Chúa đã thu hút con. Khi vâng giữ thánh ý Chúa, con tự ràng buộc mình con với Chúa vì việc gắn bó với Chúa thì đáng chuộng hơn hết mọi sự."
Trong 1 thị kiến, ngài được Chúa là Đấng Lang Quân mạc khải cho kinh này và hứa rằng mỗi lần Thánh Nhân cầu nguyện Kinh này với tình yêu và lòng trung thành, thì Chúa sẽ tha cho 1000 linh hồn ra khỏi Luyện ngục:
Lạy Cha hằng hữu, con xin dâng lên Cha Máu Châu Báu Cực Thánh của Con Cha là Chúa Giêsu Kitô, hiệp với các thánh lễ dâng trên toàn thế giới hôm nay để cầu cho tất cả những linh hồn trong Luyện ngục, cầu cho những người tội lỗi ở khắp mọi nơi, cho những người trong Giáo Hội toàn cầu, trong quê hương con và chính gia đình của con rất cần đến lòng thương xót của Chúa. Amen. Giêsu Maria Giuse con mến yêu! Xin thương xót các linh hồn nơi luyện ngục. Chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cùng với thánh nhân luôn nguyện kinh này mỗi ngày cách riêng trong tháng này để cầu cho các đẳng linh hồn.
Suy niệm 3: Thánh Tâm
Đời sống của Gertrude kết hợp mật thiết với Đức Giêsu và Thánh Tâm.
Cùng với thánh nữ Mechtilde, ngài là người đầu tiên tỏ bày lòng tôn sùng Trái Tim Chúa. Lúc đó Gertrude 35 tuổi. Sức khỏe Ngài không cho phép Ngài giữ những nhiệm vụ quan trọng nữa, ngài chỉ còn là phó ca trưởng. Nghi ngờ nhiều, ngài chỉ thấy sự thấp kém và hư không của mình mà chạy đến với ý kiến của thánh Mechtilde là ca trưởng.
Chúa đã tỏ cho thánh Mechtilde: "Cuộc đời của Gertrude là một thánh ca liên tục ca ngợi vinh quang Cha. Trên trần gian này, sau bí tích Thánh Thể, Cha chỉ cư ngụ cách đặc biệt trong lòng Gertrude."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy bày tỏ lòng tôn sùng Thánh Tâm bằng việc thiết tha viếng Thánh Thể.
Suy niệm 4: Cầu nguyện
Khi lên năm tuổi, Gertrude được giao cho các nữ tu Benedictine ở Rodalsdorf chăm sóc.
Ngài sinh ra vào ngày lễ Hiển linh năm 1256. Người ta không biết gì về cha mẹ Ngài, nhưng chắc hắn cha ngài đã có lòng đạo đức sâu xa và đã dâng con gái 5 tuổi của mình làm tu sĩ tu viện Helfia theo luật dòng thánh Benedictô. Chẳng may ngài lại trùng tên với vi tu viện trưởng. Ngài lớn lên xa mọi thú vui thế gian và sớm chứng kiến hoạt động trí thức lớn mạnh.
Nhưng nhất là bầu khí cầu nguyện của cộng đoàn tu viện dần dần đã lôi cuốn ngài vào lối sống thần bí. Đời sống của Thánh Gertrude là một nhắc nhở cho chúng ta thấy tâm điểm của cuộc đời Kitô Hữu là cầu nguyện: một cách riêng tư và trong phụng vụ, một cách bình thường hay huyền nhiệm, luôn luôn có tính cách cá nhân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thiết tha với việc cầu nguyện vốn là một phương thế tiến đức hữu hiệu.
Suy niệm 5: Thích học hỏi
Thánh Gertrude rất thích học hỏi. Ngài giỏi tiếng Latinh và sáng tác thơ phú dựa vào Phụng Vụ Thánh.
Trong bầu khí chiến tranh, nhà dòng trốn về Rossdorf, rồi vì thiếu nước lại trở về Helfta. Thánh Mechtilde chị của tu viện trưởng Gertrude đứng trường. Người nữ tu trẻ Gertrude say mê việc học đến mức quên bỏ đời sống cầu nguyện. Việc trau dồi văn chương nghệ thuật thu hút ngài đến nỗi ngài nói rằng vào thời đó "Ngài lo lắng cho tâm hồn chỉ bằng lo lắng cho đôi chân của mình thôi."
Vào lúc 25 tuổi, trong một thị kiến, Chúa Kitô đã trách móc ngài là đã bỏ Chúa mà lo học hành. Thế là đảo lộn tất cả: "Mọi bồng bột tuổi trẻ đối với con bắt đầu xem ra lạt lẽo vô vị. Lạy Chúa, Chúa là chân lý trong suốt hơn mọi ánh sáng, nhưng sâu thẳm hơn mọi bí mật. Chúa đã quyết phá tan những bóng đêm đậm đặc của con." Và thị kiến kết thúc bằng một cuộc trở lại. Ngài đã kể lại và nói: "Trong một niềm vui của tinh thần mới, tôi bắt đầu tiến tới."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng vì việc học ở đời mà xa rời việc sống với Chúa.
Suy niệm 6: Từ trần
Thánh nữ từ trần năm 1302.
Năm tháng cuối đời, thánh nữ nằm bệnh bất động với những đau đớn dữ dằn. Ngài không còn nói được nữa, nhưng vẫn giữ được sự bình thản. Ngài biết giờ vinh quang sắp tới. Ngày 17 tháng 10 năm 1031 hay là 1032 thánh nữ từ trần. Tương truyền rằng: lúc chết ngài thấy Chúa Giêsu và đức trinh nữ với đoàn người trên trời đến dẫn Ngài vào thiên đàng trong khi quỉ dữ khóc ròng.
Để kết thúc, nhà chép sử ghi lại mạc khải của một nữ tu thấy linh hồn thánh Gertrude bay thẳng như một cánh chim vào lòng Chúa Giêsu đang mở rộng đón tiếp Ngài vào tình yêu vô cùng của Ngài. Không được chính thức tôn phong làm thánh, nhưng lễ kính Ngài có trong lịch chung theo nghi thức Roma.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh nhân luôn sùng kính Chúa và cũng yêu mến Đức Trinh Nữ Maria một cách đặc biệt, để được hưởng phúc chết lành.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 13/11 Thánh Frances Xavier Cabrini (1850-1917)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Frances Xavier Cabrini (1850-1917)
Thánh Frances Xavier Cabrini là công dân Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh. Chính lòng tin tưởng mãnh liệt vào sự chăm sóc yêu thương của Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ sức mạnh để trở nên một phụ nữ dũng cảm làm việc cho Ðức Kitô.
Lược sử
Thánh Frances Xavier Cabrini là công dân Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh. Chính lòng tin tưởng mãnh liệt vào sự chăm sóc yêu thương của Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ sức mạnh để trở nên một phụ nữ dũng cảm làm việc cho Đức Kitô.
Thánh Frances sinh ở Lombardi, nước Ý vào năm 1850, trong một gia đình có đến 13 người con. Khi 18 tuổi, ngài ao ước trở thành một nữ tu nơi ngài theo học sư phạm, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên bị từ chối. Sau đó thánh nữ làm việc bác ái ở Cô Nhi Viện Đấng Quan Phòng ở Cadogne, nước Ý. Vào tháng Chín 1877, ngài tuyên khấn và mặc áo dòng.
Khi đức giám mục đóng cửa cô nhi viện vào năm 1880, ngài đặt sơ Frances làm tu viện trưởng tu hội Nữ Tu Thánh Tâm Truyền Giáo và bảy phụ nữ khác làm việc ở cô nhi viện cũng đã gia nhập tu hội này.
Ngay từ khi còn nhỏ, Thánh Frances đã có ý định đi truyền giáo ở Trung Quốc, nhưng theo sự khuyên bảo của Đức Giáo Hoàng Lêo XIII, cùng với sáu nữ tu khác, ngài đến thành phố Nữu Ước để phục vụ hàng ngàn người Ý di dân đang sinh sống ở đây.
Cho đến ngày ngài qua đời ở Chicago, tiểu bang Illinois ngày 22-12-1917, tu hội của ngài đã có mặt tại các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ và Nam Mỹ.
Suy niệm 1: Phong thánh
Thánh Frances Xavier Cabrini là công dân Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh.
Mẹ Cabrini đã qua đời trong bình an tại phòng riêng của Mẹ trong Nhà Thương Columbus, thành phố Chicago vào năm 1917. Lúc còn sống, Mẹ đã chối không nhận làm được một phép lạ nào; nhưng sau khi qua đời, Chúa đã ban nhiều ơn cho những người đang nhờ lời cầu bầu của vị tông đồ truyền giáo nhiệt thành này.
Trên 150.000 đơn thỉnh nguyện và chứng tích ơn lạ nhận được từ mọi lớp người trên khắp thế giới đã được đệ lên Ðức Thánh Cha. Mười một năm sau khi Mẹ qua đời, Ðức Thánh Cha Piô XI đã chỉ định một vị cáo thỉnh viên, và đã xin Ðức Hồng Y Mundelein, Tổng Giám Mục Chicago, mở cuộc điều tra phong thánh. Ðến năm 1938, Mẹ đã được phong chân phước, chỉ 21 năm sau khi Mẹ qua đời, đây là một kỷ lục trong thời đại mới. Vào năm 1946, ngài được Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên phong hiển thánh và đặt làm quan thầy của người di dân. Như thế Giáo hội đã tôn phong Mẹ lên bậc hiển thánh vào ngày 7 tháng 7 năm 1946.
Trong nghi lễ phong thánh cho Mẹ Cabrini ngày 7-7-1946, Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố: "Mặc dù hiến pháp của tu hội ngài rất đơn sơ, nhưng ngài được ban cho một tinh thần phi thường đến nỗi, một khi tin rằng đó là ý Chúa, ngài không để bất cứ điều gì cản trở việc thực hiện mà những công trình ấy vượt quá sức lực của một phụ nữ."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biến ước mơ nên thánh của chúng con thành hiện thực.
Suy niệm 2: Lòng tin tưởng
Chính lòng tin tưởng mãnh liệt vào sự chăm sóc yêu thương của Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ sức mạnh để trở nên một phụ nữ dũng cảm làm việc cho Đức Kitô.
Qua bao nhiêu công việc cũng như mọi thành quả trong việc truyền giáo, Mẹ Cabrini luôn giữ được một sự bình an tâm hồn. Mẹ không bao giờ quên rằng Mẹ đã được tạo dựng để phụng sự một mình Thiên Chúa và để làm theo Thánh Ý Người. Khẩu hiệu của Mẹ là "Trong NGƯỜI, tôi có thể làm được mọi sự". Trong một lần tĩnh tâm Mẹ đã viết những lờ sau đây bày tỏ tấm lòng hoàn toàn lệ thuộc vào Thánh Ý Chúa: " Lạy Chúa Giêsu, con thiết tha yêu mến Chúa...Xin ban cho con một trái tim to bằng cả vũ trụ... Xin dạy bảo con những gì Chúa muốn con làm, và xin thực hiện nơi con những gì Chúa muốn."
Do lời cầu nguyện của Mẹ, Chúa cũng ban thưởng nhiều ơn đặc biệt cho Mẹ. Truyện kể rằng có một sơ bị bệnh giãn tĩnh mạch. Bác sĩ khuyên sơ nên luôn đeo đôi bít tất dài. Một ngày nọ, sơ đã lấy được đôi bít tất của Mẹ Cabrini, sơ đeo vào và liền được lành bệnh. Ngày hôm sau, Mẹ Cabrini thật thắc mắc khi thấy sơ nọ bước đi một cách bình thường. Khi được hỏi, sơ đã thú thật là đã đeo đôi bít tất của Mẹ. Mẹ Cabrini liền nói với sơ, "Chắc chị không đơn sơ đến nỗi nghĩ rằng đôi bít tất của tôi đã chữa bệnh cho chị. Tôi vẫn thường đeo nó mà có được gì đâu. Ðức tin của chị đã chữa chị đấy. Ðừng nói cho ai biết nhé."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn vững tin vào sự chăm sóc yêu thương của Chúa để được hưởng nhờ các hồng ân Chúa ban.
Suy niệm 3: Ao ước
Cabrini ao ước trở thành một nữ tu nơi ngài theo học sư phạm, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên bị từ chối. Sau đó thánh nữ làm việc bác ái ở Cô Nhi Viện Đấng Quan Phòng ở Cadogne, nước Ý.
Ngài theo học nội trú tại trường của các sơ Dòng Thánh Tâm tại Arluno. Tại đây, Phanxica theo học ngành sư phạm. Sau khi ra trường, Phanxica dạy vài năm trong trường làng, và dùng những giờ còn lại chăm sóc các bệnh nhân nghèo. Phanxica tiếp tục mong muốn được theo đuổi ơn gọi tu trì, nhưng hai dòng đã chối không nhận vì sức khỏe của chị. Khi ngài được 24 tuổi, Ðức Cha và Cha xứ đã xin Chị đến giúp các trẻ nữ tại Nhà Chúa Quan Phòng ở Codogno. Nhưng tại đây, ngài đã bị một số phụ nữ đối xử cách tàn tệ. Dưới hoàn cảnh đau khổ đó, Chị đã cố gắng để luyện tập đức khiêm nhu và cố gắng tiến tới trên đường nhân đức.
Không hề nãn chí, ngài luôn tự động viên mình: Hãy từ bỏ những tham vọng bé nhỏ của bạn, hãy tiến lên và cứu lấy thế giới này. Ngài nuôi dưỡng ước mơ tu trì trong công tác làm việc bác ái. Trong 35 năm, Thánh Frances Xavier Cabrini đã thành lập 67 trung tâm để chăm sóc người nghèo, trẻ mồ côi, người ít học và bệnh nhân. Nhận thấy nhu cầu cần thiết của người di dân Ý trước viễn ảnh bị mất đức tin, ngài mở trường học và các lớp dạy giáo lý cho người lớn.
Lòng thương người và sự tận tụy của Mẹ Cabrini vẫn còn được nhận thấy qua hàng trăm ngàn nữ tu của ngài, họ chăm sóc bệnh nhân ở bệnh viện, viện dưỡng lão và các trung tâm quốc gia. Chúng ta than phiền về sự tốn kém y tế trong một xã hội giầu có, nhưng tin tức hàng ngày cho thấy hàng triệu người khác trên thế giới không có một chút gì được gọi là y tế, và họ đang mời gọi những người noi gương Mẹ Cabrini đến để phục vụ người dân trên đất nước của họ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết tự động viên mình tiến lên bằng các việc lương thiện, để chờ đợi ngày ước mơ được hiện thực.
Suy niệm 4: Tu hội Nữ Tu Thánh Tâm Truyền Giáo
Khi đức giám mục đóng cửa cô nhi viện vào năm 1880, ngài đặt sơ Frances làm tu viện trưởng tu hội Nữ Tu Thánh Tâm Truyền Giáo.
Khi lên 13 tuổi, em được nghe một vị truyền giáo nói về việc truyền giáo tại Trung Hoa. Từ ngày đó, ngài bắt đầu nuôi mộng ước một ngày nào đó cũng sẽ trở thành một nhà truyền giáo, bất chấp sự chế nhạo của các chị khi họ biết mộng ước này của em. Cũng từ ngày đó, môn địa lý trở thành môn học ngài ưa thích nhất.
Ngài đã ở lại Cô Nhi Viện Đấng Quan Phòng ở Cadogne sáu năm, cho đến ngày Ðức Cha giáo phận Lodi đóng cửa cơ sở này. Không lâu sau, trong khi tiếp Frances, Ðức Cha đã nói với Chị: "Con vẫn luôn mong muốn làm nhà truyền giáo. Cha không thấy có Dòng nữ nào lo việc đó. Sao con không thành lập một Dòng lo việc truyền giáo?"
Lời đề nghị của Ðức Cha cho một người âm thầm và một phụ nữ trẻ yếu đuối như Frances để thành lập một dòng tu, nhất là giữa thời kỳ có nhiều nhóm chống tôn giáo đang nổi lên phá phách các dòng tu, quả là một lời đề nghị điên cuồng. Nhưng sau một giây phút thinh lặng, và không một lời trình bày về sự khó khăn của công việc này, ngài đã thưa với Ðức Cha, "Con sẽ tìm nơi ở".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn xác tín vào chương trình quan phòng diệu kỳ của Chúa để an tâm bước theo.
Suy niệm 5: Dòng Truyền giáo tại nước Ý
Khi đức giám mục đóng cửa cô nhi viện vào năm 1880, ngài đặt sơ Frances làm tu viện trưởng tu hội Nữ Tu Thánh Tâm Truyền Giáo.
Những ngày đầu của Tu hội và các Nữ Tu Truyền Giáo Thánh Tâm thật là đơn sơ và nghèo nàn. Từ ngày lập Dòng, Mẹ Frances đã thêm tên Xaviê vào tên của mình, để tôn kính vị Thánh tông đồ miền Ấn Ðộ.
Tu viện đầu tiên của Mẹ Cabrini là một tu viện bỏ trống của dòng Phanxicô. Trong đêm đầu tiên tại căn nhà mới này, Mẹ và bảy nữ tu trẻ đầu tiên đã phải nguyện kinh trong đêm tối, vì chưa có đèn điện. Thay vì giường, họ nằm ngủ trên đống cỏ khô. Thánh lễ đầu tiên đã được cử hành vào ngày 14 tháng 11 năm 1880 trong một căn phòng tạm sửa làm nhà nguyện. Không lâu sau, nhiều thiếu nữ từ các vùng lân cận đã đến gia nhập dòng mới. Những lời chỉ bảo khôn ngoan hiền từ, thêm vào tình thương yêu của Mẹ dành cho các chị em, và lòng nhiệt thành của Mẹ đối với việc truyền giáo, đó là những yếu tố lôi kéo nhiều ơn gọi mới. Trong thời gian đầu, dù tài chính còn eo hẹp, nhưng nhờ Mẹ tin tưởng vào Chúa Quan Phòng, các sơ vẫn luôn có được lòng tin tưởng vô biên nơi Thiên Chúa. Vì quá nhiều ơn gọi, Mẹ đã phải mở thêm ba tu viện mới. Tại Milanô, các sơ đã mở một nhà để giúp đỡ các thiếu nữ theo học tại đại học.
Sau Milanô, Mẹ Cabrini muốn mở tu viện tại Rôma. Khi được biết ý định của Mẹ, một người bạn và cũng là cố vấn của Mẹ đã xin Mẹ hãy cân nhắc cho chín chắn, kẻo nên trò cười cho thiên hạ. "Mẹ có điên không? Xin Mẹ hãy để việc này cho các thánh làm!" Nhưng dù gặp nhiều chống đối và dù dòng mới không có tài chính để mở trụ sở tại Rôma, Mẹ Cabrini và một chị dòng đã đến Rôma xin được yết kiến Ðức Thánh Cha. Tại Rôma, Mẹ không được gặp Ðức Thánh Cha, nhưng được nói chuyện với vị đại diện của ngài, Ðức Hồng Y Parocchi. Sau khi được biết Mẹ Cabrini muốn mở một tu viện tại Rôma, Ðức Hồng Y muốn biết dòng của Mẹ có đủ điều kiện để mở nhà ở Rôma hay không. Khi ngài hỏi Mẹ có đủ tài chính, hoặc có người nào đứng ra bảo trợ cho Dòng hay không, Mẹ đã từ tốn thưa lại là không có. Ðức Hồng Y cảm thấy hơi khó xử, dù ngài nhìn thầy con mắt của Mẹ bày tỏ đầy lòng tin tưởng. Ngài đã đề nghị với Mẹ hãy trở về và vài năm sau hãy trở lại. Mẹ liền đến một nhà thờ gần đó và trong nguyện cầu bày tỏ tất cả tấm lòng của mình lên Chúa Giêsu. Mấy ngày sau, Mẹ được tiếp kiến Ðức Hồng Y một lần nữa. Ngài hỏi Mẹ có sẵn sàng vâng lời không. Mẹ mau mắn đáp lại: "Con luôn sẵn sàng". Ngài liền cười và nói: "Vậy thì không phải Mẹ sẽ mở một nhà, nhưng là hai nhà ở Rôma.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tin tưởng vào Chúa Quan Phòng.
Suy niệm 6: Dòng Truyền giáo tại nước Mỹ
Theo sự khuyên bảo của Đức Giáo Hoàng Lêo XIII, cùng với sáu nữ tu khác, Frances đến thành phố Nữu Ước để phục vụ hàng ngàn người Ý di dân đang sinh sống ở đây.
Ðến đầu năm 1889, Ðức Thánh Cha Lêô XIII gọi Mẹ đến. Ước mơ làm nhà truyền giáo đã đến lúc được thành tựu, nhưng không phải là sang miền viễn Ðông. Ðức Thánh Cha Lêô sai Mẹ sang Mỹ Châu để phục vụ những người dân Ý nghèo khổ tại Hoa Kỳ. Không một chút chần chờ, Mẹ Cabrini và sáu nữ tu khác liền lên đường và đến Nữu Ước vào tháng ba năm 1889. Mẹ và các sơ được hứa là sẽ có sẵn nhà ở. Trong đêm đầu tiên tại Mỹ, Mẹ và các sơ ở trong một căn nhà tạm trú tại phố Tàu. Dù rất mệt và vẫn còn bị ảnh hưởng của say sóng, các sơ phải ngồi dựa vào thành ghế để nghỉ, vì giường quá bẩn thỉu và đầy côn trùng.
Sau thánh lễ sáng hôm sau, các sơ đã vào chào Ðức Tổng Giám Mục. Ðức Cha đã xin lỗi Mẹ và các sơ vì chương trình mở một cô nhi viện cho các trẻ Ý đã thất bại, và Ngài đã viết thư báo cho các sơ hãy ở lại Ý, nhưng thư đó đến quá trễ. Ngài liền khuyên Mẹ và các sơ hãy trở về Ý. Nhưng Mẹ thưa với Ðức Cha: "Thưa Ðức Cha, con không thể làm như vậy. Chúng con được lệnh Tòa Thánh để đến đây, và vì thế, con phải ở lại."
Ba tháng sau, khi Mẹ trở lại Ý, Mẹ Cabrini đã mở được một cô nhi viện và một trường học. Cho đến lúc chết, Mẹ đã vượt trùng dương 25 lần, lập cơ sở trên tám thành phố tại Hoa Kỳ và cả ở Trung và Nam Mỹ. Trong mọi nơi Mẹ đến, nhiều trường học, cô nhi viện, nhà thương và các cơ sở từ thiện bác ái từ từ mọc lên. Nơi những người bệnh và người nghèo, Mẹ Cabrini nhìn thấy Chúa Kitô. Mẹ đã cố gắng hết sức để giúp đỡ họ trong tinh thần cũng như vật chất qua những công việc tình thương này. Mẹ đã nhập quốc tịch Mỹ tại Seattle vào năm 1909.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhìn thấy Chúa hiện diện nơi tha nhân, đặc biệt nơi những người cần được giúp đỡ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 12/11 Thánh Josaphat (1580?-1623)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Josaphat (1580?-1623)
Thánh Josaphat, vị giám mục theo lễ điển Ðông Phương, được coi là vị tử đạo cho sự hợp nhất giáo hội vì ngài cố gắng đưa Chính Thống Giáo về hợp nhất với Rôma.
Lược sử
Thánh Josaphat, vị giám mục theo lễ điển Đông Phương, được coi là vị tử đạo cho sự hợp nhất giáo hội vì ngài cố gắng đưa Chính Thống Giáo về hợp nhất với Rôma.
Giữa những xáo trộn ấy, Thánh Josaphat là một tiếng nói hòa bình.
Josaphat được thế chỗ Rutsky làm tu viện trưởng. Nhân cơ hội này, Josaphat thi hành kế hoạch cải tổ.
Khi là vị giám mục đầu tiên ở Vitebsk và sau đó ở Polotsk vào năm 1617, Đức Giám Mục Josaphat phải đối diện với nhiều khó khăn.
Vào tháng Mười 1623, Đức Giám Mục Josaphat quyết định trở về Vitebsk để đích thân lắng dịu vấn đề. Ngài biết rất nguy hiểm nhưng cho biết: "Nếu tôi xứng đáng được phúc tử đạo, thì tôi không sợ chết." Họ kéo lê ngài ra sông và quăng xuống đó cùng với xác con chó của ngài.
Vào năm 1867, Đức Giám Mục Josaphat là vị thánh đầu tiên của Giáo Hội Đông Phương được Rôma tuyên phong hiển thánh.
Suy niệm 1: Tử đạo
Thánh Josaphat, vị giám mục theo lễ điển Đông Phương, được coi là vị tử đạo cho sự hợp nhất giáo hội vì ngài cố gắng đưa Chính Thống Giáo về hợp nhất với Rôma.
Martyr danh từ gốc Hy Lạp có nghĩa là chứng nhân, người làm chứng. từ này được dùng để chỉ những người bị giết hại vì đức tin hay vì luân lý Kitô giáo. Trong tiếng Việt, thường dịch là "kẻ chết vì đạo, kẻ chết vì nghĩa, kẻ chịu đọa đày, liệt sĩ", hoặc "người chịu chết vì đạo, đấng tử vì đạo, đấng tử đạo..." trong nhà đạo thường dịch là "tử đạo", như các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Khi dịch như vậy về mặt ngôn ngữ thì có thể có vấn đề. Ví dụ: tử chiến (chiến đấu cho đến chết), tử hình (hình phạt chết), tử thi (thây người chết), tử thương (bị thương đến phải chết), tử tù (bị xử tội chết nhưng còn giam trong tù), tử trận (chết trên chiến trường). Vậy tử đạo có phải là đạo chết không? Các từ điển phần lớn chỉ có từ tử vì đạo, và không có từ tử đạo, ngoại trừ cuốn Việt Nam Tự Điển của Lê văn Đức. Chúng ta có thể tìm được một từ khác trong từ điển cho chữ martyr, đó là tuẫn đạo hay tuận đạo.
Tử có nhiều ý nghĩa trong tiếng Việt, nhưng liên quan đến martyr thì chỉ có nghĩa là "chết, không hoạt động". Tuẫn đọc là tuận nhưng quen đọc là tuẫn, có nghĩa là "liều chết vì một việc gì; chôn người sống theo người chết". Ví dụ: tuẫn danh (chết vì danh), tuẫn đạo (chết vì đạo), tuẫn lợi (chết vì tiền), tuẫn tiết (chết vì tiết nghĩa), tuẫn táng (chôn người sống theo người chết). Tóm lại tuẫn hay tuận có nghĩa là: đem người sống chôn theo người chết, theo, mưu cầu, xả thân mà làm, liều chết vì một việc gì,
Dịch chữ martyr là tuẫn đạo, nghĩa là chết vì đạo, vì "tuẫn" là "chết vì". Xem ra sát nghĩa, dễ hiểu. Còn dịch chữ martyr là tử vì đạo hay tử đạo, và hiểu là chết vì đạo. Xem ra có gút mắc, vì chữ "tử" có nghĩa là "chết", còn chữ "vì" thì do đâu mà ra? Thiết nghĩ các nhà chuyên môn về ngữ pháp Hán Việt có thể giải thích thấu đáo vấn đề này hơn nữa chăng? (Lm Stêphanô Huỳnh Trụ).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không quan tâm nhiều đến từ ngữ mà đến cuộc sống của một chứng nhân đức tin.
Suy niệm 2: Hợp nhất
Thánh Josaphat, vị giám mục theo lễ điển Đông Phương, được coi là vị tử đạo cho sự hợp nhất giáo hội vì ngài cố gắng đưa Chính Thống Giáo về hợp nhất với Rôma.
Mầm mống chia rẽ được bắt đầu vào thế kỷ thứ tư, khi Đế Quốc La Mã bị chia cắt làm hai phần Đông và Tây. Không một lý do nào có thê biện minh cho sự phân ly hiện nay trong Kitô Giáo, mà trong đó 64 phần trăm là Công Giáo Rôma, 13 phần trăm là các Giáo Hội Đông Phương (hầu hết là Chính Thống Giáo) và 23 phần trăm Tin Lành, trong khi 71 phần trăm dân số thế giới chưa được biết đến Đức Kitô thì họ phải là những người được mục kích sự hợp nhất Kitô Giáo và đức bác ái của những người mệnh danh là Kitô Hữu!
Bài học cổ nhân để lại trải qua bao kinh nghiệm vốn rất quen thuộc với mọi người: đoàn kết thì sống mà chia rẽ thì chết. Hơn thế Đức Giêsu còn nêu mạnh hơn một trường hợp: ngay cả nước ma quỷ với quyền phép và sức mạnh vô địch vẫn không thể tồn tại nếu chia rẽ nhau (Mt 12,26). Ngược lại có đoàn kết thì có sức sống mãnh liệt khiến ba cây chụm lại thành hòn núi cao, hoặc bền chặt vô cùng khiến không người con khoẻ mạnh nào có thể bẻ gãy được cả bó đũa gộp chung làm một, như câu chuyện kể về bài giáo huấn của một thân phụ sắp lìa đời đối với đàn con.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của tình đoàn kết hiệp nhất và tai hại của việc chia rẽ, để luôn sống kết đoàn với nhau.
Suy niệm 3: Hòa bình
Thánh Josaphat là một tiếng nói hòa bình.
Vào năm 1054, một sự chia cắt chính thức được gọi là đại ly giáo đã xảy ra giữa Giáo Hội Đông Phương ở Constantinople và Giáo Hội Tây Phương ở Rôma vì những bất đồng về thần học và đời sống độc thân của giáo sĩ. Cho đến năm thế kỷ sau, một giáo chủ Chính Thống Giáo ở Kiev và năm giám mục Chính Thống Giáo quyết định đưa hàng triệu người Chính Thống Giáo dưới quyền về hợp nhất với Rôma. Khi Thượng Hội Đồng ở Brest Litovsk khai mạc vào năm 1595 thì Thánh Josaphat Kunsevich lúc ấy chỉ là một cậu bé trai, nhưng đã được chứng kiến các kết quả tích cực cũng như tiêu cực của thượng hội đồng.
Hàng triệu Kitô Hữu đã không đồng ý với các giám mục về sự hiệp thông với Công Giáo, và cả đôi bên đều tìm cách giải quyết sự bất đồng, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng vũ lực. Do đó cả hai phía đều có nhiều người đã tử vì đạo. Giữa những xáo trộn ấy, Thánh Josaphat là một tiếng nói hòa bình. Thông thường, sự bạo động luôn luôn có hậu quả trái ngược. Vì hối hận và kinh hoàng về cuộc bạo động khiến họ mất đi một vị giám mục thánh thiện nên công chúng lại hướng về sự hợp nhất với Rôma. Và sau cùng, đức tổng giám mục mà phe ly khai dựng lên là Meletius Smotritsky cũng đã hòa giải với Rôma.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn cố gắng giải quyết mọi bất đồng bằng con đường hòa bình hơn là vũ lực.
Suy niệm 4: Cải tổ
Josaphat thi hành kế hoạch cải tổ.
Khi còn niên thiếu, nhờ sự khuyến khích của hai vị linh mục dòng Tên nên ngài đã gia nhập tu viện Holy Trinity ở Vilna năm 1604. Trong thời gian này, ngài quen thân với Joseph Benjamin Rutsky, là người trở lại Kitô Giáo sau một thời gian theo phái Calvin. Cả hai đều muốn sự hợp nhất trong giáo hội và cải tổ đời sống tu trì.
Sau đó, Josaphat được gửi đi trông coi một cơ sở ở Rôma, còn Rutsky được làm tu viện trưởng ở Vilna. Khi Rutsky được làm giáo chủ của Kiev, thì Josaphat lại được thế chỗ Rutsky làm tu viện trưởng. Nhân cơ hội này, Josaphat thi hành kế hoạch cải tổ, nhưng đường hướng cải tổ phản ảnh một đời sống nghiêm nhặt và khắc khổ của ngài, nên không mấy ai hưởng ứng. Ngay cả một tu hội còn dọa ném ngài xuống sông!
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị nhiệt thành cải tổ luôn biết chọn thời điểm và nhất là đi theo đúng đường hướng của Thiên Ý.
Suy niệm 5: Khó khăn
Đức Giám Mục Josaphat phải đối diện với nhiều khó khăn.
Có thể nói giáo hội lúc ấy thật thối nát, giáo sĩ tái hôn đến hai ba lần, và họ không lo lắng gì đến việc mục vụ hoặc đời sống gương mẫu. Trong vòng ba năm, Đức Giám Mục Josaphat phải chấn chỉnh lại giáo hội qua các thượng hội đồng, phân phát sách giáo lý khắp nơi, và áp đặt những quy luật cho hàng giáo sĩ. Nhưng đáng kể hơn cả là chính đời sống của ngài mà hầu như lúc nào cũng đi rao giảng, giáo dục đức tin, thăm viếng những kẻ đau ốm.
Bất kể công việc và tiếng tăm của Đức Giám Mục Josaphat, những người Chính Thống Giáo ly khai đã bầu một tổng giám mục của họ ngay ở cùng một thành phố. Thật đau lòng cho Đức Giám Mục Josaphat khi thấy những người ngài phục vụ bị phân ly trong những cuộc bạo loạn. Ngay cả giáo phận cũ của ngài ở Vitebsk cũng chống đối sự hợp nhất và chống chính ngài. Đau khổ hơn cả, là chính người Công Giáo mà ngài tìm cách hợp nhất cũng chống đối ngài, chỉ vì họ không thích lễ điển Byzantine mà ngài chủ trương thay vì lễ điển Rôma. Vì sợ hãi hoặc vì ngu dốt, vị chưởng ấn của Lithuania, tin lời đồn đãi rằng ngài xúi giục dân chúng nổi loạn, nên thay vì giúp đỡ thì lại lên án Đức Giám Mục Josaphat. Thực sự ngài chỉ dùng đến quyền lực khi các người ly khai chiếm nhà thờ Mogilev và ngài xin nhà cầm quyền giúp phục hồi lại quyền bính.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấu hiểu rằng đời người không thiếu những khó khăn, điều quan trọng là đón nhận và vượt qua.
Suy niệm 6: Đích thân
Đức Giám Mục Josaphat quyết định trở về Vitebsk để đích thân lắng dịu vấn đề. Ngài biết rất nguy hiểm nhưng cho biết: "Nếu tôi xứng đáng được phúc tử đạo, thì tôi không sợ chết."
Những người ly khai coi đây là cơ hội để trừ khử Josaphat và làm ngài mất uy tín nếu họ xúi giục được phe của ngài nổi loạn trước và coi đó là cái cớ để chống lại. Sự đe dọa tính mạng của ngài quá lộ liễu đến nỗi ngài phải lên tiếng: "Quý vị muốn giết tôi sao. Quý vị phục kích tôi trên đường phố, trên cầu cống, trong chợ búa, ở khắp mọi nơi. Chính tôi đây. Tôi đến với quý vị như một mục tử. Quý vị biết là tôi rất vui mừng để hy sinh cho quý vị. Tôi sẵn sàng chết cho sự hợp nhất của Giáo Hội dưới quyền Thánh Phêrô và các giáo hoàng kế vị."
Khi người ly khai thấy kế hoạch thất bại, họ lập mưu bằng cách đưa một linh mục tên Elias đến nơi tụ họp của phe đức giám mục để lên tiếng sỉ vả bất cứ ai đi ngang qua, nhất là vu khống Đức Giám Mục Josaphat và Giáo Hội Công Giáo, cốt để chọc tức. Biết được thâm ý của họ, Đức Giám Mục Josaphat giữ im lặng và cầu nguyện nguyên ngày. Qua ngày hôm sau, Elias lại đến nữa và các người phục dịch của đức giám mục đã bắt nhốt Elias trong một căn phòng khi ngài đi vắng. Trở về nhà, thấy vậy ngài đã mở cửa phòng cho Elias trốn đi. Nhưng đã quá trễ. Đám ly khai chỉ chờ có thế để báo động cả thành phố đến bao vây với gậy gộc trên tay.
Khi bước ra sau vườn, ngài thấy đám du côn đánh đập các người phục dịch và các linh mục khác, ngài lớn tiếng kêu: "Này các con, các con làm gì những người đó vậy? Nếu các con muốn chống đối cha, thì có cha đây, đừng đụng đến những người ấy!" Sau tiếng hô to: "Hãy giết tên theo giáo hoàng", bọn họ đánh đập Đức Giám Mục Josaphat với gậy gộc, sau đó họ dùng rìu và cuối cùng bắn vào đầu ngài. Thi thể đầy máu của ngài bị họ kéo lê ra sông và quăng xuống đó cùng với xác con chó của ngài.
Những anh hùng vô danh trong thảm kịch này là các người Do Thái ở Vitebsk. Họ đã liều mạng xông vào tòa giám mục để can gián và cứu những người trong tòa giám mục khỏi bị sát hại. Nhờ sự can đảm của họ, nhiều người đã được cứu sống. Cũng chính những người Do Thái này đã công khai lên án các tên sát nhân và thương tiếc Đức Giám Mục Josaphat, trong khi người Công Giáo ở thành phố lại trốn chui trốn nhủi vì sợ hãi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị chủ chăn theo gương Chúa đích thân và tiên phong lên đường đi vào cuộc tử nạn vì đàn chiên (Mc 10,32).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 11/11 Thánh Martin ở Tours (316?-397)
- Ngày 10/11 Thánh Lêo Cả (c. 461)
- Ngày 28/10 - THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUĐA, TÔNG ĐỒ
- Ngày 26-10 - Chân Phước Contardo Ferrini (1859-1902)
- Ngày 22/10 - Thánh Gioan Phaolô 2, giáo hoàng.
- Ngày 20/10 Chân Phước James ở Strepar (c. 1409?)
- Ngày 19/10 Các Thánh Tử Ðạo Bắc Mỹ Châu
- Ngày 10/10 Thánh Daniel và Các Bạn (c. 1227)
- Ngày 09/10 Các Thánh Denis, Rusticus và Eleutherius (c. 258?)
- Ngày 08/10 Thánh Gioan Leonardi (1541? - 1609)