Gương Thánh Nhân
Ngày 09/3 Thánh Phanxica Romana Nữ tu (1384 - 1440)
- Viết bởi daminhvn.net
Thánh Phanxica Romana Nữ tu (1384 - 1440)
Phanxica thuộc vào một gia đình quí tộc ở Bussi de Leoni. Nhưng Ngài đã sinh ra và sống ở Roma. Từ lúc 6 tuổi Ngài đã thực hành sám hối, muốn vào tu lúc 11 tuổi. Cha Ngài thấy đây chỉ là tưởng tượng của con nít và năm sau đã gả Ngài cho lãnh Chúa trẻ trung Lorenzo di Ponziani. Người vợ trẻ sẽ dẫn đắt chồng mình theo đường trọn lành.
Phanxica một thiếu nữ tươi đẹp. Sống giữa xã hội hào nhoáng Ngài tỏ ra rất hòa nhã dịu dàng. Ngài giữ kín những khổ hạnh của mình. Có ai biết rằng: áo nhặm dưới y phục lộng lẫy của Ngài đã làm Ngài mang thương tích đâu. Ngài dậy sớm để giờ cầu nguyện khỏi bị ngăn trở, Varozza, người em dâu, cùng chia sẻ lý tưởng bác ái với Ngài. Hai người cùng hồi tâm trong một cái hang ở cuối vườn. Họ phục vụ các bệnh nhân tại nhà thương và giúp đỡ những người cùng khốn. Bà mẹ chồng nặng tinh thần thế tục thấy thế nên giận dữ.
Nhưng con bà, người chồng trẻ đã trả lời: - Sao lại trách họ vì những thói quen đạo đức ấy ? Vả lại thói quen ấy có ngăn trở gì tới việc bổn phận của họ đâu ?
Thực vậy, Phanxica luôn sẵn sàng bỏ mọi sự để các bổn phận của một quản gia khỏi bị suy suyển gì. Một mẫu chuyện cho thấy Thiên Chúa chúc lành cho Ngài như thế nào. Phanxica đang cầu nguyện. Người ta tới kêu. Ngài mau mắn bỏ sách đó và trở lại sau khi phục vụ xong. Lần thứ nhất, lần thứ hai... bốn lần liên tiếp như vậy, Ngài đều bình thản bỏ dở việc cầu nguyện. Lần thứ năm Ngài trở lại và thấy sách kinh có dòng chữ vàng. Người ta không hề giã từ Chúa khi phục vụ tha nhân và hiến mình phục vụ cũng là cầu nguyện.
Cha giải tội và nhà chép sử thánh Phanxica cho biết tình trạng được ơn thần bí của thánh nữ. Thiên thần của Ngài chiếu tỏa một ánh sáng để chỉ cho Ngài biết Thiên Chúa thỏa lòng đối với Ngài. Cũng thế, dù khi lỗi nhẹ, thiên thần liền đánh vào Ngài và thánh nữ tạ ơn Thiên Chúa đã giữ cho mình khỏi rơi vào mưu chước quỉ ma. Với thiên thần, Ngài nên mạnh mẽ. Một lần có sức mạnh quỉ ma đẩy Ngài xuống sông Tibre, thiên thần cứu Ngài lên bờ.
Sau khi mẹ chồng qua đời, người thiếu phụ nắm quyền quản trị nhà họ Ponziani. Ngài coi gia nhân như anh chị em được gọi để chia sẻ nước Thiên Chúa với Ngài, nếu họ ngã bệnh Ngài tận tâm săn sóc họ. Vào thời đói kém, khi đã cho hết những gì thuộc quyền mình, Ngài ăn xin để giúp đỡ người thiếu thốn, ngày kia, Ngài gọi Varozza lên kho lẫm thu lúa mì còn sót lại trong rơm. Lorenzo theo họ lên coi, đã thấy đống lúa vàng thay vì rơm rạ, một phép lạ xảy ra tương tự tại một thùng rượu không. Đầy thán phục, Lorenzo đã để cho người vợ thánh thiện được tự do xếp đặt cuộc sống mình. Thế là Phanxica bán mọi thứ sang trọng, và chỉ mặc y phục khiêm tốn, lại còn hãm mình nghiêm ngặt hơn.
Khi chiến đấu cho đức Thánh Cha Lorenzo bị trọng thương và được mang về nhà khi đang hấp hối. Thánh nữ đã thành công trong việc làm cho ông sống lại. Faluzzô, em Ngài, bị bắt tù, người ta cho Ngài biết phải nộp con trưởng Gioan tẩy giả của Ngài làm con tin, nếu không Paluzzô sẽ bị giết chết. Phanxica hoảng hốt đem con đi giấu. Nhưng Don Antoniô là cha giải tội chặn đường lại nói:- Con làm gì thế ? Hãy đưa đứa con cho người đòi nó.
Phanxica vâng lời để cứu em chồng, rồi vào nhà thờ quì khóc trước tượng Đức Trinh nữ. Còn đang cầu nguyện thì viên sĩ quan địch mang đứa bé trả lại, vì ngựa ông không chịu đi.
Tiếp đến là những biến cố thảm lhốc. Roma bị xâm chiếm và bị cướp phá. Lorenzzô phải trốn đi để lại trách nhiệm cho vợ mình, Phanxica ở lại, với hai con Evangêlista và Anê. Cơn dịch xẩy ra, Evangêlista ngã bệnh, lúc chết cậu nói với mẹ : - Mẹ đừng khóc, con sẽ được hạnh phúc vì này thiên thần đến tìm con.
Một đêm kia Ngài cầu nguyện và thấy người con hiện ra báo tin mình đang ở giữa các thiên thần và cho biết mình sẽ đến tìm đứa em gái, cho nó chia sẻ hạnh phúc. Một niềm vui siêu nhiên hòa lẫn với các đớn đau loài người. Ngài ngã bệnh và các thị kíến về hỏa ngục làm Ngài thêm khổ cực. An bình trở lại Roma. Lorenzô trở về chứng kiến những tang tóc và cướp phá. Phanxica đau đớn trong lòng, nhưng vẫn tìm lời trấn an đầy tha thứ. Ngài hòa giải thù địch với người chồng chỉ còn biết sống để chia sẻ bước tiến thiêng liêng của vợ mình.
Phanxica cũng lôi kéo các phụ nữ Rôma vào việc giúp đỡ cho những tình cảnh khốn khổ do chiến tranh để lại. Ngài tụ họp vào một nhà những bà cùng một lý tưởng bác ái và khổ hạnh. Đây là thời đầu của dòng những người tận hiến cho Đức Maria. Gọi như thế vì khi tự hiến họ dùng từ ngữ: "Con hiến mình" thay vì tuyên đọc lời khấn. Trong số những cuộc trở lại Phanxica tạo được, có cuộc trở lại của vợ của Gioan tẩy giả, con Ngài.
Sau bốn năm hoà hiệp, Phanxica mất chồng. Ngài tới quì trước cửa tu viện mình đã thiết lập. Đi chân không. đeo giây vào cổ, Ngài xin nhập dòng.
Gioan tẩy giả ngã bệnh, Phanxica bỏ dòng về thăm, Ngài đã bị lên cơn sốt và đã qua đời chính tại nhà mình. Các nữ tu vây quanh Ngài để nghe những lời khuyên cao cả: - Hãy trung tín đến chết, Satan sẽ tấn công các chị như đã tấn công tôi. Nhưng không thử thách nào quá độc dữ nếu các chị trung thành với Chúa Giêsu.
Nói lời cuối cùng xong, cửa trời mở ra, thiên thần của Ngài ra dấu kêu gọi Ngài theo. Thánh Phanxica được chọn làm thánh bảo trợ của các phụ nữ đã lập gia đình và trở nên góa bụa.
(daminhvn.net)
Ngày 08/3 Thánh Gioan của Thiên Chúa (1495-1550)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan của Thiên Chúa (1495-1550)
Lược sử
Từ lúc tám tuổi cho đến khi chết, Thánh Gioan thường hành động hấp tấp. Sự thử thách là làm sao để biết đó là sự thúc giục của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là những cám dỗ trần tục. Nhưng không giống như những người bốc đồng khác, một khi đã quyết định, dù hấp tấp đi nữa, thánh nhân trung thành với quyết định ấy dù có gian khổ cách mấy.
Khi lên tám tuổi, Gioan nghe một linh mục nói về cuộc phiêu lưu đi tìm thế giới mới. Đêm hôm ấy, Gioan bỏ nhà đi theo vị linh mục này và không bao giờ gặp mặt cha mẹ nữa. Cả hai đi ăn xin từ làng này sang làng khác cho đến khi Gioan ngã bệnh nặng. May mắn, nhờ một người tá điền trong vùng chăm sóc và nhận làm con nuôi nên Gioan mới sống sót. Anh làm nghề chăn cừu cho đến khi 27 tuổi thì gia nhập quân đội Tây Ban Nha trong cuộc chiến chống với nước Pháp. Khi là quân nhân, Gioan bê bối không thể tưởng, anh đánh bài, uống rượu và cùng với đồng đội phá làng phá xóm. Một ngày kia, khi đang cưỡi con ngựa ăn cắp được, anh bị ngã ngựa gần ranh giới với nước Pháp. Hoảng sợ vì thoát chết, anh nhìn lại cuộc đời và vội vàng thề sẽ thay đổi.
Khi trở về đơn vị, anh giữ lời hứa và đi xưng tội, thay đổi lối sống. Các bạn đồng đội không bận tâm với việc sám hối của anh, nhưng họ chán ghét anh vì anh luôn thúc giục họ từ bỏ các thú vui trụy lạc. Bởi đó họ tìm cách đánh lừa để anh rời bỏ nhiệm sở, vi phạm kỷ luật và bị đuổi ra khỏi quân đội sau khi bị đánh đập và lột hết của cải. Anh phải đi xin ăn trên đường trở về nhà cha nuôi, trở lại nghề chăn cừu.
Khi chăn cừu, Gioan có nhiều thời giờ để suy niệm về ơn gọi của mình. Vào lúc 38 tuổi Gioan quyết định sang Phi Châu để chuộc những Kitô Hữu bị bắt. Nhưng trong khi chờ đợi ở bến tầu Gibraltar, vì cảm thương một gia đình quý tộc bị sa cơ thất thế sau biến động chính trị và phải lưu đầy, Gioan quên đi ý định ban đầu và tình nguyện làm gia nhân cho họ. Khi đến đất lưu đầy, gia đình này bệnh hoạn đến độ không những Gioan phải săn sóc họ mà còn phải đi làm để kiếm tiền nuôi sống họ. Công việc xây cất các thành lũy thật vất vả, thật bất nhân mà các nhân công thường bị đánh đập và đối xử tàn tệ bởi những người tự xưng là Công Giáo. Cảnh tượng ấy đã làm lung lay đức tin của Gioan. Một linh mục khuyên Gioan đừng đổ tội cho Giáo Hội vì những hành động của giáo dân, và nên về lại Tây Ban Nha.
Ở Tây Ban Nha, ban ngày Gioan làm phu khuân vác bến tầu, ban đêm ngài đến nhà thờ để cầu nguyện và đọc sách thiêng liêng. Việc đọc sách đem lại cho ngài niềm vui đến độ ngài quyết định phải chia sẻ niềm vui ấy với người khác. Gioan bỏ nghề khuân vác và đi bán sách dạo, lang thang từ phố này sang phố khác để bán sách thiêng liêng và ảnh các thánh. Khi 41 tuổi, Gioan sang Granada mở một tiệm bán sách nhỏ.
Sau khi nghe giảng về sự ăn năn sám hối của vị giảng thuyết nổi tiếng thời bấy giờ là Chân Phước Gioan Avila, Gioan trở về nhà, xé tất cả các sách đời, phân phát tiền của và các sách đạo cho mọi người. Gioan lang thang với quần áo rách nát, than khóc về tội lỗi của mình như một người điên, và bị trẻ con cũng như mọi người chế nhạo.
Bạn bè đưa Gioan vào dưỡng trí viện để chữa trị, là nơi ngài bị trói và bị đánh đập. Cho đến khi Chân Phước Gioan Avila đến thăm và cho biết là sự sám hối của ngài đã đủ 40 ngày, như Đức Kitô xưa ăn chay trong sa mạc, thì Gioan trở lại bình thường và được đưa sang một khu vực khác, lành mạnh hơn. Ở đây, Gioan nhanh nhẹn giúp đỡ các bệnh nhân khác, và bệnh viện cũng không phiền hà khi có một người trợ tá làm việc không công. Cho đến khi ngài tuyên bố là sẽ mở một nhà thương khác thì họ cho ngài xuất viện.
Có thể Gioan tin rằng Thiên Chúa muốn ngài xây cất một bệnh viện cho người nghèo bị xã hội hắt hủi, nhưng ai nấy cũng đều cho đó là một người điên, vì làm sao có thể xây cất một bệnh viện với nguồn tài chánh duy nhất là việc bán củi. Ban đêm, ngài lấy những đồng tiền kiếm được mua thực phẩm và quần áo cho người nghèo sống dưới gầm cầu hoặc trong các căn nhà hoang phế. Bởi thế, bệnh viện đầu tiên của ngài là các đường phố ở Granada. Cho đến khi có một người hảo tâm cho Gioan thuê lại một căn nhà với giá rẻ, "bệnh viện" của ngài mới bắt đầu thành hình mà tất cả phương tiện cũng như sự tài trợ là nhờ đi xin. Với kinh nghiệm xin ăn sẵn có, ngài đi khắp đường phố, miệng rao lớn, "Hãy làm việc lành cho chính mình! Vì tình yêu Thiên Chúa, hỡi anh chị em, hãy làm việc lành!" Ban ngày, ngài cõng các bệnh nhân về nhà như khuân đá, khuân củi, để tắm rửa, lau chùi các vết thương và cho họ ăn mặc tử tế. Ban đêm thì ngài cầu nguyện.
Cho dẫu nhận mình là người đáng khinh, Gioan cảm nhận nhiều thị kiến. Một lần, Ngài đang rửa chân bị thương cho người ăn mày mà Ngài đã mang về nhà, Ngài kinh ngạc trông thấy người ấy biến dạng, nằm giữa hào quang hầu như tỏa ra bao phủ cả Gioan, đến nỗi nhiều khách trọ ngỡ rằng Gioan đang bị thiêu cháy. Một lần khác Gioan nghe thấy tiếng phán từ trời: “Gioan, tất cả những gì con làm cho người nghèo vì danh ta là con làm cho ta. Đó là những bàn tay ta đã nhận của bố thí của con, đó là thân xác ta mà con đã mặc áo, chân ta mà con đã rửa”.
Cùng với hai người bạn đồng hành Ngài đã lập Dòng Trợ Thế, nhưng lề luật qui củ được hình thành 6 năm sau khi Gioan qua đời. Đức Giáo Hoàng Piô V ban sắc lệnh chuẩn y vào năm 1571, tức 20 năm sau các thành viên của Dòng bắt đầu tuyên lời khấn. Gioan Thiên Chúa được phong thánh vào năm 1690. Đức Giáo Hoàng Leo XIII tôn Ngài là Thánh Bổn Mạng các bệnh viện và người ốm đau cùng với Thánh Camilluss đệ Lellis. Năm 1930, Đức Giáo Hoàng Piô XI phó thác tất cả y tá dưới sự che chở của Ngài.
Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa thường được gọi là Dòng Gioan Thiên Chúa. Dòng Gioan Thiên Chúa bắt đầu hình thành tại Bùi Chu vào năm 1952, sau đó được chuyển vào Nam vào năm 1954 và lập bệnh viện Thánh Tâm Hố Nai. Con số tu sĩ Việt Nam rất là khiêm nhượng, trụ sở của Dòng hiện nay đặt tại: 70/5, khu phố 9, xã Tân Biên, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Khi thánh nhân lâm bệnh nặng thì ngài nghe tin cơn lũ lụt đang trôi dạt những cây gỗ quý về gần thành phố. Không bỏ lỡ cơ hội, ra khỏi giường bệnh, ngài đi vớt gỗ trên dòng sông đang chảy xiết. Và khi một trong những bạn đồng hành của ngài bị rớt xuống sông, ngài đã không nghĩ đến bệnh tình cũng như sự an toàn cho chính mình mà đã nhảy theo cứu vớt. Ngài thất bại không cứu được người ấy, và chính ngài thì bị sưng phổi. Ngài từ trần ngày 8 tháng Ba, ngày sinh nhật thứ năm mươi lăm của ngài, chỉ vì sự yêu thương vội vàng mà đó là động lực của toàn thể cuộc đời ngài.
Thánh Gioan của Thiên Chúa được đặt làm quan thầy của người bán sách, thợ in, bệnh nhân, bệnh viện, y tá, lính cứu hỏa và được coi là người sáng lập tổ chức Sư Huynh Bệnh Viện.
Suy niệm 1: Hấp tấp
Từ lúc tám tuổi cho đến khi chết, Thánh Gioan thường hành động hấp tấp.
Cuộc sống của ngài đã bị chỉ trích bởi những người không thích hành động bác ái vội vàng hấp tấp. Có lần, khi gặp một gia đình đi xin ăn đang đói, ngài chạy vội vào một căn nhà gần đó, lấy cắp nồi cơm và đem cho họ. Lần khác, khi thấy các em bụi đời quần áo rách nát, ngài vào tiệm quần áo và mua quần áo mới cho chúng. Dĩ nhiên, là mua chịu!
Tuy nhiên sự vội vàng ấy đã giúp nhiều người sống sót trong một vụ hỏa hoạn ở nhà thương mà ngài đã liều mình xông vào lửa, bế các bệnh nhân ra ngoài. Vào lúc ấy, nhà cầm quyền quyết định dùng súng đại bác để phá hủy một phần nhà thương nhằm ngăn chặn ngọn lửa khỏi cháy lan sang thì ngài đã ngăn cản họ, và vội vàng leo lên mái nhà dùng chiếc búa rìu tách rời phần bị cháy. Ngài thành công, nhưng đồng thời cũng rơi theo mái nhà hực lửa đang sụp đổ. Trong khi mọi người hồi hộp cho số phận vị anh hùng cứu tinh thì lạ lùng thay, Gioan bước ra khỏi đám lửa một cách bình an vô sự.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn hấp tấp vội vàng trong các công việc phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.
Suy niệm 2: Phiêu lưu
Khi lên tám tuổi, Gioan nghe một linh mục nói về cuộc phiêu lưu đi tìm thế giới mới. Đêm hôm ấy, Gioan bỏ nhà đi theo vị linh mục này và không bao giờ gặp mặt cha mẹ nữa.
Xét về nặt đời, lịch sử thế giới luôn ghi công Christophe Colomb và Marco Polo như những vị anh hùng đã khai sáng những cuộc phiêu lưu đi tìm thế giới mới và đã gặt hái thành công.
Xét về mặt đạo, tổ phụ Ápraham cũng thực hiện một cuộc phiêu lưu vĩ đại khi rời thành Ua, vì ngài chẳng biết đi đến đâu mà chỉ biết đạt tới nơi Thiên Chúa sẽ chỉ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quyết tâm hoàn thành cuộc phiêu lưu đạt tới nước trời.
Suy niệm 3: Bê bối
Khi là quân nhân, Gioan bê bối không thể tưởng, anh đánh bài, uống rượu và cùng với đồng đội phá làng phá xóm. Một ngày kia, khi đang cưỡi con ngựa ăn cắp được, anh bị ngã ngựa gần ranh giới với nước Pháp. Hoảng sợ vì thoát chết, anh nhìn lại cuộc đời và vội vàng thề sẽ thay đổi.
Thánh Augúttinô trong quyển tự thuật cũng xác nhận đã có một cuộc sống thanh niên bê bối đến mức ngài tự nhận không có thứ tội nào trên thế gian này mà ngài không phạm qua. Thế nhưng ngài đã hồi tâm trở lại và trở thành một thánh nhân lừng danh.
Mọi thánh nhân đều là phàm nhân vì thế vẫn mang nhiều khuyết điểm để rồi có thể có một quá khứ tội lỗi thậm chí bê bối, nhưng tội nhân vẫn có thể trở thành thánh nhân trong tương lai. Do đó đừng bao giờ thất vọng nhưng luôn giúp đỡ tội nhân hoán cải.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn mang tâm tình của Chúa để gần gũi tội nhân và giúp họ trở về với Chúa.
Suy niệm 4: Ghét
Khi trở về đơn vị, Gioan giữ lời hứa và đi xưng tội, thay đổi lối sống. Các bạn đồng đội không bận tâm với việc sám hối của anh, nhưng họ chán ghét anh vì anh luôn thúc giục họ từ bỏ các thú vui trụy lạc.
Nguyên do chính khiến các vị nói Lời Thiên Chúa thường bị chán ghét, là vì phản ứng không thuận chiều của đám thính giả trước lời rao giảng. Gioan Tẩy Giả đã bị vua Hêrôđê ghét bỏ đến mức bỏ tù và sau đó chém đầu.
Đức Giêsu thì bị các người Pharisêu và các nhà thông luật ghét bỏ đến mức họ toa rập nhau lập mưu bày kế gài bẫy, thậm chí vu cáo, để rồi mượn tay chính quyền kết án tử hình thập giá.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thà bị người đời ghét bỏ nhưng được Chúa yêu thương, còn hơn là được người đời yêu thương mà bị Chúa ghét bỏ.
Suy niệm 5: Đức tin
Công việc xây cất các thành lũy thật vất vả, thật bất nhân mà các nhân công thường bị đánh đập và đối xử tàn tệ bởi những người tự xưng là Công Giáo. Cảnh tượng ấy đã làm lung lay đức tin của Gioan.
Vẫn biết con sâu làm rầu nồi canh. Người công giáo xấu cũng gây ảnh hưởng xấu đến đạo giáo. Biết thế nên mỗi kitô hữu luôn cố gắng sống thật tốt để làm rạng danh Giáo Hội.
Tuy nhiên cần phân định rõ sự khác biệt giữa đạo và người có đạo. Đạo luôn tốt nhưng người có đạo có thể tốt và cũng có thể không tốt. Vì thế có câu nói thường tình: Tin đạo chứ không tin người có đạo. Chớ vơ đũa cả nắm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn giữ mình đừng gây cớ vấp phạm cho người khác, ngay cả những việc được phép nhưng gây hiểu lầm cho tha nhân (Rm 14,20-21;1Cr 8,13).
Suy niệm 6: Bệnh viện
Có thể Gioan tin rằng Thiên Chúa muốn ngài xây cất một bệnh viện cho người nghèo bị xã hội hắt hủi, nhưng ai nấy cũng đều cho đó là một người điên, vì làm sao có thể xây cất một bệnh viện với nguồn tài chánh duy nhất là việc bán củi.
Kinh nghiệm những cư xử nghịch cảnh trong nhà thương điên, nên Ngài xin lập một bệnh viện, để chăm sóc những người ốm đau, cùng khổ chu đáo hơn. Gioan Thiên Chúa dịu dàng săn sóc, băng bó và tắm rửa những người bị thương tích.
Từ công việc từ thiện chưa từng ai làm, Ngài được công chúng để ý tới. Đức Giám Mục sở tại viếng thăm, tỏ lòng thán phục nên trao ban cho Ngài áo dòng và đặt cho Ngài tuớc hiệu là Gioan Thiên Chúa. Cả tỉnh đều cảm kích và muốn giúp đỡ Ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quan tâm đến các bệnh nhân không chỉ về thân xác mà cả về tinh thần nữa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 07/3 Thánh Perpetua và Thánh Felicity (c. 203)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Perpetua và Thánh Felicity (c. 203)
Lược sử
Perpetua, một thiếu nữ thuộc dòng quí tộc 22 tuổi, đã lập gia đình và có đứa con trai được vài tháng, cùng bị bắt với các tân tòng Phi Châu trong cuộc bách đạo của Hoàng Đế Septimius Severus, cấm những người theo đạo Kitô. Cùng bị bắt với Perpetua là người nô lệ giúp việc đang mang thai tên Phelixita và người chồng của cô là Revocatus, cùng với ba người đàn ông Secundulus, Sarutus và Saturninus. Sau khi bị bắt, họ bị giữ tại nhà riêng được canh gác cẩn thận, ngoại trừ Sarutus là thầy dạy giáo lý, tất cả đều là tân tòng và được rửa tội trong nhà tù. Gia đình và nhất là người cha không có đạo, lo lắng cho số phận của Perpetua và đứa con của cô nên tìm cách thuyết phục Perpetua bỏ đạo, nhưng Perpetua trả lời với gia đình: “Nhà tù đối với con là một dinh thự và con muốn ở đây hơn chỗ nào khác”. Tại đây Perpetua đã viết cuốn hồi ký kể lại những hoàn cảnh gian khổ, chịu đựng và cảm nhận nhiều thị kiến trước khi đợi ngày ra đấu trường. Tới ngày ra đấu trường, Perpetua bị lột trần và cải trang thành người đàn ông không khí giới để đấu với người Ai Cập đóng vai quĩ dữ. Tên quĩ dữ bị Perpetua đánh bại và lấy dây trói vào đầu.
Tới ngày sắp sửa bị hành quyết, Phelixita người giúp việc cùng bị bắt với Pepertua, sinh hạ một người con gái trong tù và các tù nhân vui mừng cầu nguyện tạ ơn những ngày cuối cùng còn gặp nhau. Vào ngày hành quyết được làm mồi cho thú dữ, họ rời nhà tù lên đấu trường và vui mừng nghĩ đến hành trình đang tiến về thiên quốc. Perpetua từ chối mặc bộ lễ Ceres và hát bài ca tạ ơn. Các con vật bỏ đói đã được chuẩn bị sẵn để giết các tù nhân. Đối với tù nhân nam được làm mồi cho beo và gấu, các tù nhân nữ được làm mồi cho con bò điên. Con bò điên hung hãn liên tiếp dùng sừng tung Perpetua và Phelixita lên, nhưng Perpetua cầm cự được và nâng Felicitas lên. Perpetua như trong trạng thái xuất thần không còn biết đến những gì đã xảy ra cho mình và thoát nạn bởi con bò điên.
Cuối cùng Perpetua và Phelixita cùng các tù nhân nam bị xử tử bởi các đao phủ lấy giáo đâm vào cổ họng. Tất cả đều ngã gục trước ngọn giáo đầu tiên, nhưng Perpetua vẫn còn sống sót, kêu la rên xiết nhưng vẫn đủ bình tĩnh để khiến tên đao phủ đâm ngọn giáo thứ hai, bản trình thuật kể lại “Thật là một phụ nữ can đảm, mà đối với người khác không dễ chấp nhận cái chết hung bạo trừ khi chính người ấy quyết tâm”.
Suy niệm 1: Bách đạo
Perpetua, một thiếu nữ thuộc dòng quí tộc 22 tuổi, đã lập gia đình và có đứa con trai được vài tháng, cùng bị bắt với các tân tòng Phi Châu trong cuộc bách đạo của Hoàng Đế Septimius Severus, cấm những người theo đạo Kitô.
Không chỉ những Kitô Hữu thời xa xưa mới bị bách hại vì đức tin. Hãy nhìn đến trường hợp của cô Anne Frank, một thiếu nữ Do Thái, đã cùng với gia đình trốn tránh và sau cùng phải chết trong trại tử thần của Hitler thời Thế Chiến II.
Cô Anne, cũng như Thánh Perpetua và Felicity, đã chịu thử thách và đau khổ, và sau cùng chịu chết vì tận hiến cho Thiên Chúa. Trong nhật ký, cô Anne viết, "Đối với những người trẻ như chúng tôi, đó là sự khó khăn gấp bội khi phải giữ vững vị thế và lập trường của mình trong quãng thời gian mà mọi lý tưởng đều rạn vỡ và tiêu tan, khi con người lộ ra bộ mặt xấu xa nhất, và không biết có nên tin vào chân lý, sự chính trực và Thiên Chúa hay không".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con kiên tâm chịu đựng mọi gian khổ vì Chúa, để được cùng hưởng vinh quang thiên đàng với Chúa.
Suy niệm 2: Gia đình
Gia đình và nhất là người cha không có đạo, lo lắng cho số phận của Perpetua và đứa con của cô nên tìm cách thuyết phục Perpetua bỏ đạo.
Gia đình là một hỗ trợ nhưng cũng có thể là một lối cản, nhất là khi những người chủ chốt trong gia đình như các bậc phụ huynh không đồng tình phụng sự Chúa, như Đức Giêsu đã từng tiên báo về sự đổ vỡ ngay trong phạm vi gia đình vì Chúa (Mt 10,21).
Với bố của Perpetua vốn không có đạo thì tìm cách thuyết phục Perpetua bỏ đạo. Ngược lại với người mẹ của bảy người con trai thời Macabê thì khác. Bà lại động viên các con cái mình chấp nhận chết để trung thành giữ luật Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin thương ban cho chúng con có được một bậc phụ huynh đạo đức thánh thiện.
Suy niệm 3: Nhà tù
Perpetua trả lời với gia đình: “Nhà tù đối với con là một dinh thự và con muốn ở đây hơn chỗ nào khác”.
Nhà tù giam cầm Perpetua đầy chật người đến nỗi họ ngộp thở vì nóng nực và không có một chút ánh sáng. Quân lính thì xô đẩy họ không một chút xót thương. Dầu vậy Perpetua lại có cái nhìn lạc quan đến mức thích ở dây hơn vì xem đó như một dinh thự.
Felicity cũng có cái nhìn đó khi điềm tĩnh trả lời: "Bây giờ tôi là người phải chịu đau khổ, nhưng trong đấu trường, một Đấng khác sẽ ở trong tôi, chịu đau khổ dùm tôi vì tôi đã chịu đau khổ vì Ngài".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống tâm tình được biểu lộ trong lời sau cùng Perpetua nói với em: "Hãy giữ vững đức tin và yêu thương tha nhân".
Suy niệm 4: Vui mừng
Vào ngày hành quyết được làm mồi cho thú dữ, bốn bổn đạo mới và giáo lý viên rời nhà tù bước vào đấu trường với niềm vui và sự bình thản khi nghĩ đến hành trình đang tiến về thiên quốc.
Đời người kitô hữu chỉ có một ước nguyện duy nhất là sau khi kết thúc đời tạm này thì được vào quê trời vĩnh cửu. Đó là lý do khiến các vị tử đạo mang tâm trạng vui mừng hân hoan khi đi vào nơi hành quyết.
Các tông đồ cũng đã có tâm tình hân hoan vui sướng khi chịu bách hại, vì lý do là được xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu (Cv 5,41), một đảm bảo cho hạnh phúc thiên đàng sau này.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn đặt niềm vui thiên quốc trên hết mọi niềm vui trần tục.
Suy niệm 5: Bộ lễ Ceres
Perpetua không mặc bộ lễ Ceres và hát bài tạ ơn.
Khi dân chúng đòi hỏi Perpetua và các bạn ngài phải mặc y phục dành cho việc thờ cúng tà thần tức là bộ lễ Ceres, Perpetua đã đối chất với các lý hình.
Ngài nói: "Chúng tôi tự ý chịu chết để được tự do thờ phượng Thiên Chúa của chúng tôi. Chúng tôi đã trao mạng sống cho các ông thì không có lý do gì chúng tôi phải thờ lạy thần thánh của các ông." Và các ngài đã được phép mặc quần áo của mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thà chết vẫn luôn giữ tâm hồn trinh trong được biểu hiện qua tấm áo trắng được mặc lúc lãnh nhận bí tích Rửa Tội.
Suy niệm 6: Quyết tâm
“Thật là một phụ nữ can đảm, mà đối với người khác không dễ chấp nhận cái chết hung bạo trừ khi chính người ấy quyết tâm”.
Nhờ ông Giơhôgiađa quyết tâm hành động mà hoàng thái tử Giôát được lên ngôi vua cách an toàn, chấm dứt thời cai trị đầy hà khắc của bà Athangiahu với cái chết của bà (2Sb 23,1-15).
Nhờ lòng trung thành của ông Si-môn và vinh quang mà ông quyết tâm thực hiện cho dân tộc, mà dân chúng đã tôn ông lên làm thủ lãnh và làm thượng tế của họ (1Mc 14,35).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn quyết tâm làm điều tốt và xa lánh việc xấu.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 06/3 Tôi tớ Thiên Chúa Sylvester ở Assisi
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Tôi tớ Chúa Sylvester ở Assisi (c.1240)
Lược sử
Sylvester là một trong 12 môn đệ đầu tiên của Thánh Phanxicô Assisi, và là tu sĩ đầu tiên của nhánh anh em hèn mọn.
Là con cháu của một dòng dõi quý tộc, có lần Sylvester bán gạch và đá cho Thánh Phanxicô để ngài xây dựng lại ngôi thánh đường. Và sau đó không lâu, khi Sylvester trông thấy Thánh Phanxicô và Bernard ở Quintavalle phân phát tài sản của Bernard cho người nghèo, Sylvester than phiền rằng ông không được trả xứng đáng với số gạch mà ông đã bán, và ông đòi hỏi xin thêm.
Mặc dù Thánh Phanxicô biết ơn và trao thêm cho Sylvester một số tiền, nhưng không bao lâu ông tràn ngập mặc cảm tội lỗi vì số tiền ấy. Ông bán hết tất cả tài sản, bắt đầu cuộc đời sám hối và đi theo Thánh Phanxicô. Sylvester trở nên một người thánh thiện và siêng năng cầu nguyện, và là một người được Thánh Phanxicô quý mến -- một bạn đồng hành, và là người mà có lần Thánh Phanxicô đã hỏi ý kiến. Chính Sylvester và Thánh Clara đã trả lời Thánh Phanxicô rằng ngài phải phục vụ Thiên Chúa bằng cách đi rao giảng hơn là tận hiến trong sự cầu nguyện.
Có lần trong thành phố kia là nơi cuộc nội chiến đang bùng nổ, Sylvester được Thánh Phanxicô ra lệnh đến xua đuổi ma quỷ. Ở cổng thành, Sylvester lớn tiếng kêu: "Nhân danh Thiên Chúa toàn năng và qua đức vâng lời tôi tớ Chúa là Phanxicô, tất cả ma quỷ phải ra khỏi đây." Ma quỷ đã ra khỏi thành và sự bình an trở lại với thành phố.
Sau cái chết của Thánh Phanxicô, Sylvester đã sống thêm 14 năm nữa và ngài được chôn cất gần thánh nhân trong Thánh Đường Thánh Phanxicô ở Assisi.
Suy niệm 1: Công bình
Sylvester than phiền rằng ông không được trả xứng đáng với số gạch mà ông đã bán, và ông đòi hỏi xin thêm.
Sự than phiền của Sylvester thật chính đáng xét về đức công bình. Nhưng đức công bình của thời Tân ước phải vượt xa đức công bình của thời Cựu ước với nét đặc trưng là đức ái hoàn hảo, như Đức Giêsu đã từng xác định (Mt 5,38-42). Điều này cũng có nghĩa đức công bình trong bác ái mời gọi không nghỉ đến lợi ích bản thân mà phải sống hết mình cho tha nhân, thậm chí thí mạng vì bạn hữu vì không có gì quý hơn (Ga 15,13).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không sống vì mình nhưng tất cả vì người như lời Chúa dạy.
Suy niệm 2: Biết ơn
Thánh Phanxicô biết ơn và trao thêm cho Sylvester một số tiền.
Xin ơn là điều thường gặp thấy trong xã hội loài người. Các bà hiếm muộn đạo đức như một mẫu thân của tiên tri Samuen cũng khóc lóc đêm ngày cầu xin cho có được một mụn con (1Sm 1,10-11).
Nhưng biết ơn thì thật họa hiếm. Tin Mừng cũng ghi lại sự kiện cả mười người phong cùi được Chúa chữa lành, nhưng chỉ có mỗi một người biết ơn để quay trở lại tạ ơn thôi (Lc 17,12-18).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ mang tiếng vô ơn bội nghĩa, nhất là đối với Chúa.
Suy niệm 3: Mặc cảm tội lỗi
Không bao lâu Sylvester tràn ngập mặc cảm tội lỗi vì số tiền ấy. Ông bán hết tất cả tài sản, bắt đầu cuộc đời sám hối và đi theo Thánh Phanxicô.
Một tâm hồn lương thiện thì luôn nhạy cảm với những gì không lành thánh. Mặc dầu xét về mặt công bình, Sylvester được quyền nhận lấy số tiền phải có cho xứng với số lượng đá và gạch đã bán. Nhưng ngài vẫn tràn ngập mặc cảm tội lỗi, vì thiếu tinh thần làm việc thiện qua việc đóng góp cho công việc xây dựng lại ngôi thánh đường.
Đối lại, một tâm hồn gian ác thì dù phạm tội tày trời cũng coi thường việc lương tâm cắn rứt. Một vua Saun bao lần cố tình giết Đavít bằng nhiều cách thức, và dầu thất bại vẫn đeo đuổi tìm giết cho bằng được.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con rèn luyện tâm hồn chúng con luôn lương thiện chớ đừng gian ác, để nhờ đó mà giữ được tâm hồn trong sạch.
Suy niệm 4: Sám hối
Sylvester bán hết tất cả tài sản, bắt đầu cuộc đời sám hối và đi theo Thánh Phanxicô.
Có lòng sám hối là tốt, nhưng tốt hơn nữa là phải thể hiện bằng hành động. Vì thế Sylvester đã bán hết tất cả tài sản vốn gây mặc cảm tội lỗi cho ngài và rồi đi theo Thánh Phanxicô.
Sau khi phạm tội chối Chúa, thánh Phêrô cũng tỏ lòng sám hối bằng việc khóc lóc thảm thiết, và dành cả quãng đời còn lại để phụng sự Chúa và Hội Thánh, đến chết nhằm bù đắp phần nào lỗi lầm đó.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thực tâm sám hối bằng việc chừa tội và mỗi ngày mỗi nên hoàn thiện hơn.
Suy niệm 5: Hỏi ý kiến
Sylvester trở nên một người thánh thiện và siêng năng cầu nguyện, và là một người được Thánh Phanxicô quý mến -- một bạn đồng hành, và là người mà có lần Thánh Phanxicô đã hỏi ý kiến.
Là bề trên, Thánh Phanxicô cũng khiêm tốn hỏi ý kiến Sylvester, và nhất là làm theo một cách nghiêm túc là phục vụ Thiên Chúa bằng cách đi rao giảng hơn là tận hiến trong sự cầu nguyện.
Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa toàn năng và toàn quyền, thế nhưng Người vẫn tôn trọng sự tự do của mỗi người, để rồi sai thiên sứ Gáprien đến hỏi ý kiến Đức Maria có đồng ý cọng tác vào chương trình cứu độ của Người không?
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết tôn trọng người khác bằng việc quan tâm đến ý kiến của tha nhân.
Suy niệm 6: Danh Thiên Chúa
Ở cổng thành, Sylvester lớn tiếng kêu: "Nhân danh Thiên Chúa toàn năng... tất cả ma quỷ phải ra khỏi đây." Ma quỷ đã ra khỏi thành và sự bình an trở lại với thành phố.
Cầu xin nhân danh Thiên Chúa thì có hiệu quả như vậy, nhưng con người lại chóng quên. Vì thế ngôn sứ Isaia đã nhắc nhở: “Trong xứ, ai cầu phúc cho mình sẽ nhân danh Thiên Chúa chân thật mà cầu phúc; trong xứ, ai thề sẽ nhân danh Thiên Chúa chân thật mà thề” (Is 65,16).
Và sau này chính Đức Giêsu cũng phiền trách: “Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 16,24).
* Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn theo gương Giáo Hội để cầu nguyện nhân danh Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 05/3 Thánh Gioan Giuse của Thánh Giá (1654-1734)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Giuse của Thánh Giá (1654-1734)
Lược sử
Sự khắc kỷ tự nó không phải là cùng đích nhưng chỉ là một trợ giúp để sống bác ái hơn -- như cuộc đời Thánh Gioan Giuse đã minh chứng.
Gioan Giuse sống rất khắc khổ ngay từ khi còn trẻ. Năm 16 tuổi, ngài gia nhập dòng Phanxicô ở Naples; ngài là người Ý đầu tiên theo phong trào cải cách của Thánh Phêrô Alcantara. Sự thánh thiện nổi tiếng của Gioan Giuse là động lực khiến cha bề trên giao cho ngài trách nhiệm thành lập một tu viện mới, ngay cả trước khi được thụ phong linh mục.
Với đức vâng lời, ngài chấp nhận mọi bổ nhiệm, từ giám đốc đệ tử, quản gia và, sau cùng là bề trên giám tỉnh. Những năm dài hãm mình phạt xác đã giúp ngài thi hành các nhiệm vụ trên với lòng bác ái cao cả. Khi là quản gia ngài không ngần ngại làm việc trong nhà bếp, hoặc gánh củi, gánh nước cho các tu sĩ. Khi thời gian làm giám tỉnh đã mãn, Cha Gioan Giuse tận tụy trong công việc giải tội và hãm mình phạt xác, là hai điều trái ngược với tinh thần ban đầu của Thời Khai Minh. Ngài cũng được ban cho nhiều ơn siêu nhiên, tỉ như ơn tiên tri và làm phép lạ. Ngài từ trần vào năm 80 tuổi ở tu viện Naples.
Cha Gioan Giuse được phong thánh năm 1839.
Suy niệm 1: Khắc kỷ
Sự khắc kỷ tự nó không phải là cùng đích nhưng chỉ là một trợ giúp để sống bác ái hơn.
Sự khắc kỷ phải đưa chúng ta đến đức ái -- chứ không phải sự cay đắng; nó phải giúp chúng ta nhận ra đâu là những ưu tiên trong cuộc sống, và giúp chúng ta sống yêu thương hơn.
Thánh Gioan Giuse là bằng chứng sống động của điều mà Chesterton nhận xét: "Để thời đại lôi cuốn thì quá dễ; sự khó khăn là giữ được lập trường của mình" (G.K. Chesterton, Orthodoxy, trang 101).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tích cực sống đức bác ái như một biểu hiện là con cái Chúa (Ga 13,35).
Suy niệm 2: Khắc khổ
Gioan Giuse sống khắc khổ ngay từ khi còn trẻ.
Phải sống khắc khổ do hoàn cảnh nghèo khó của gia đình mà không oán than cũng là tinh thần đáng khâm phục, nhưng chọn lối sống ấy với lòng tự nguyện và ngay khi còn trẻ thì không phải ai cũng sống được.
Nếu thế thì không có ngôn từ loài người nào có thể ngợi ca tinh thần của Đức Giêsu, khi Ngài vốn là Thiên Chúa vinh quang và giàu sang vô cùng, nay lại xuống thế và chọn lối sống nghèo đến mức sinh nơi hang bò lừa, sống không chỗ gối đầu và chết chôn nhờ vào mộ người khác.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con yêu mến đức khó nghèo để xứng phần phúc Chúa hứa (Mt 5,3).
Suy niệm 3: Thánh thiện
Sự thánh thiện nổi tiếng của Gioan Giuse là động lực khiến cha bề trên giao cho ngài trách nhiệm thành lập một tu viện mới, ngay cả trước khi được thụ phong linh mục.
Sự thánh thiện thì không tùy thuộc vào thứ bậc trong phẩm trật Hội Thánh. Dĩ nhiên có rất nhiều thánh linh mục, giám mục, hồng y cũng như giáo hoàng, nhưng vẫn không thiếu những giáo dân cũng như tu sĩ thánh thiện đã được phong thánh.
Chính yếu tố thánh thiện là yếu tố then chốt trong việc tuyển chọn người để được trao phó trách nhiệm, hơn là tài nặng và các yếu tố khác dầu cũng rất cần thiết, như một cha thánh Gioan Maria Vianê vốn không có học thức bằng những người khác.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn đặt yếu tố đức hơn tài trong việc tuyển chọn người làm việc, vì có tài mà thiếu đức thì chỉ gây thiệt hại nhiều hơn là lợi ích.
Suy niệm 4: Vâng lời
Với đức vâng lời, ngài chấp nhận mọi bổ nhiệm, từ giám đốc đệ tử, quản gia và, sau cùng là bề trên giám tỉnh.
Việc vâng lời trước mắt làm như hạ giá người vâng lời, nhưng thực chất lại nâng cao phẩm giá họ lên đến mức không thể ngờ trước được.
Nhờ tuyệt đối vâng lời, Đức Maria đã được Thiên Chúa khấng ban cho những đặc ân vô song mà không một người phàm nào có được từ trước và mãi mãi về sau.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín về lợi ích của việc vâng lời, để luôn thực hành trong đời.
Suy niệm 5: Khổ chế
Những năm dài hãm mình phạt xác đã giúp Thánh Gioan Giuse thi hành các nhiệm vụ với lòng bác ái cao cả. Khi là quản gia ngài không ngần ngại làm việc trong nhà bếp, hoặc gánh củi, gánh nước cho các tu sĩ. Sự hãm mình phạt xác của ngài đã giúp ngài trở nên một bề trên đầy khoan dung mà Thánh Phanxicô đã nhắm đến.
Khổ chế không hẳn nằm ở bình diện thể xác với các việc hảm mình phạt xác, bằng việc ăn uống kham khổ, mà nhất là ở mặt tinh thần, bằng việc chấp nhận những trách vụ khiêm hèn với những công việc thấp hèn, như làm bếp hoặc gánh củi, gánh nước.
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng có nhiều điều để dạy chúng ta về quan niệm, về thể diện, về cái "tôi" như là khổ chế tinh thần. Ngài chấp nhận làm việc vất vả trong phòng giặt quần áo cũng như phòng bệnh và phòng ăn của tu viện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đánh giá khổ chế tinh thần còn quan trọng hơn cả khổ chế phần xác nữa.
Suy niệm 6: Thời Khai Minh
Cha Gioan Giuse tận tụy trong công việc giải tội và hãm mình phạt xác, là hai điều trái ngược với tinh thần ban đầu của Thời Khai Minh.
Thời Khai Minh (Age of Enlightenment), là trào lưu tư tưởng trong thế kỷ 17 và 18, chủ trương dùng lý trí con người để chế ngự toàn thể văn hóa hay tư duy nhân loại.
Với chủ trương này, họ như bài trừ vai trò của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa. Quả là một sai lầm lớn lao, vì nếu không có bàn tay quan phòng và bảo trì của Thiên Chúa thì tất cả sẽ trở về cát bụi (Tv 104,27-29).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức về thân phận thụ tạo của mình, để luôn sống lệ thuộc vào Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 04/3 Thánh Casimir (1458-1483)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Casimir(1458-1483)
Lược sử
Casimir lớn lên trong một thế giới mà đó không phải là cuộc đời ngài mong muốn. Là hoàng tử Ba Lan, con trai thứ hai của Vua Casimir IV và Hoàng Hậu Elizabeth của Áo, cuộc đời ngài được đặt định để nối tiếp quyền bính của vua cha và gia tăng quyền thế của Ba Lan.
Ngay từ nhỏ, Casimir đã cảm thấy cuộc đời mình thuộc về một người nào đó, mà vị Vua ấy cao cả hơn cha ngài nhiều. Bất kể các áp lực, nhục nhã và bị tẩy chay, ngài vẫn giữ sự trung tín ấy trong suốt cuộc đời.
Ngay từ nhỏ Casimir đã dâng mình cho Chúa. Một trong những động lực tận hiến ấy là nhờ người giám hộ, John Dlugosz, mà sự thánh thiện của ông đã khuyến khích Casimir trên hành trình cuộc đời.
Thánh Casimir vô cùng quý mến Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa; đặc biệt là ngài yêu thích bài thánh ca Latinh về Đức Mẹ, "Omni die dic Mariae".
Chắc chắn cha ngài phải kinh ngạc về thái độ của con mình, nhưng có lẽ ông cũng nhìn thấy và thán phục sức khỏe của Casimir. Lầm tưởng về điều ấy nên ông đã sai Casimir dẫn một đạo quân sang xâm chiếm Hungary, theo như lời yêu cầu của một số nhà quý tộc ở đây. Mặc dù cảm thấy cuộc viễn chinh thật sai lầm, Casimir cũng đã vâng lời vua cha. Nhưng mỗi một bước tiến ngài linh cảm rằng đó là sự bất tuân Cha trên trời. Do đó khi binh lính bắt đầu bỏ trốn vì không được trả lương, ngài rất hân hoan nghe theo lời khuyên của các sĩ quan mà đưa quân trở về nhà. Khi được biết Đức Giáo Hoàng Sixtus IV chống đối cuộc xâm lăng ấy, Casimir biết rằng linh cảm của mình là đúng.
Tuy nhiên, vua cha quá tức giận vì hoạch định của ông bị thất bại, nên ông đã trục xuất Casimir, lúc ấy mới 15 tuổi, đến một lâu đài ở Dobzki, hy vọng rằng sự tù đầy sẽ thay đổi ý định của Casimir. Nhưng trong thời gian lưu đầy, ý định ban đầu của Casimir mà ngài tin là đúng lại càng gia tăng mạnh mẽ hơn, và ngài từ chối cộng tác trong mọi hoạch định của vua cha bất kể bất cứ áp lực nào. Ngài từ chối cả cuộc hôn nhân do cha ngài sắp đặt. Ngài chỉ cộng tác với chương trình của vị Vua đích thực qua sự cầu nguyện, học hỏi và giúp đỡ người bất hạnh.
Ngài từ trần vì bệnh phổi khi mới 23 tuổi trong thời gian đến thăm Lithuania, mà ngài cũng là Đại Công Tước của quốc gia này. Ngài được mai táng ở Vilna, Lithuania.
Ngài được đặt làm thánh quan thầy của Ba Lan và Lithuania.
Suy niệm 1: Trung tín
Ngay từ nhỏ, Casimir đã cảm thấy cuộc đời mình thuộc về một người nào đó, mà vị Vua ấy cao cả hơn cha ngài nhiều. Bất kể các áp lực, nhục nhã và bị tẩy chay, ngài vẫn giữ sự trung tín ấy trong suốt cuộc đời.
Lòng trung tín chỉ có giá khi được trải nghiệm qua bao thử thách, như vàng phải được thử qua lửa. Casimir biết rằng đời sống vương giả là một áp lực, sự sang trọng chung quanh ngài là những cám dỗ để phản bội sự trung tín đích thực.
Vì thế ngài mặc các quần áo bình dân nhất, khước từ ngay cả sự tiện nghi bình thường, ngài ngủ ít ngay trên sàn nhà và dành thời giờ ban đêm để cầu nguyện. Mặc dù ngài là hoàng tử, nhiều người chung quanh đã nhạo cười ngài về các điều ấy. Tuy nhiên, trước bất cứ áp lực nào, Casimir vẫn thản nhiên và thân thiện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con kiên trung vượt qua thử thách để tỏ lòng tín trung với Chúa.
Suy niệm 2: Tu trì
Ngay từ nhỏ Casimir đã dâng mình cho Chúa. Một trong những động lực tận hiến ấy là nhờ người giám hộ, John Dlugosz, mà sự thánh thiện của ông đã khuyến khích Casimir trên hành trình cuộc đời.
Nguyện ước dâng mình cho Chúa như một hạt giống được gieo vào mãnh đất tâm hồn Casimir, hằng ngày âm thầm tăng trưởng nhờ vào sự thánh thiện của người giám hộ, và cuối cùng đã trổ bông kết trái qua việc Casimir từ chối cuộc hôn nhân do cha ngài sắp đặt
Dầu không vào dòng, nhưng Casimir thể hiện tâm hồn tu trì qua việc ngài chỉ cộng tác với chương trình của vị Vua đích thực qua sự cầu nguyện, học hỏi và giúp đỡ người bất hạnh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức rằng một nhà tu hành mà không có tâm hồn tu trì thì cũng không bằng một người có tâm hồn tu trì dù không mặc chiếc áo dòng nào.
Suy niệm 3: Đức Maria
Thánh Casimir vô cùng quý mến Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa; đặc biệt là ngài yêu thích bài thánh ca Latinh về Đức Mẹ, "Omni die dic Mariae".
Một trong những tận hiến chính của Thánh Casimir là Mẹ Maria, được gói ghém trong bản thánh ca La Tinh “Omni die dic Mariae” (được tạm dịch là hằng ngày ca ngợi Mẹ Maria).
Bản thánh ca này cũng được gọi là “Bài thánh ca của Thánh Casimir”), đây không phải là bản thánh ca do chính Ngài sáng tác nhưng do Bernard tại Clunny vào thế kỷ thứ 12. Ngài yêu cầu khi chết được mang theo bản thánh ca này.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con học nơi Thánh Casimir lòng tôn sùng tận hiến nơi Mẹ Maria. Ngài không muốn chôn cất với ngài kho tàng vật chất vàng bạc châu báu, nhưng là Bài Thánh Ca tán dương Mẹ “Omni die dic Mariae” được đặt làm gối dưới đầu.
Suy niệm 4: Hòa bình
Phụ hoàng sai Casimir dẫn một đạo quân sang xâm chiếm Hungary, theo như lời yêu cầu của một số nhà quý tộc ở đây.
Thánh Casimir đã bất tuân Vua cha, khước từ tham gia cuộc chiến giữa Ba Lan và Hungary. Không một ai có thể ra lệnh hay khuyên bảo Ngài để dùng quân lực. Xây dựng hòa bình không chỉ dành cho người quyền cao chức trọng đứng ra ký một bản hiệp ước.
Xây dựng hòa bình là một tiến trình mà mỗi người có thể làm được. Mỗi lần lắng nghe nhận định của người khác, mỗi lần biết suy nghĩ trước khi nói, mỗi lần biết chọn để đừng lôi kéo vào cuộc tranh luận cho những xung đột. Xây dựng hòa bình khi biết xây dựng hơn là phá đổ, biết nhận xét ca ngợi hơn là phê bình chỉ trích, biết đặt niềm hy vọng hơn là tuyệt vọng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết xây dựng hòa bình đích thực để xứng là Con Chúa (Mt 5,9).
Suy niệm 5: Vâng lời
Mặc dù cảm thấy cuộc viễn chinh thật sai lầm, Casimir cũng đã vâng lời vua cha. Nhưng mỗi một bước tiến ngài linh cảm rằng đó là sự bất tuân Cha trên trời. Do đó khi binh lính bắt đầu bỏ trốn vì không được trả lương, ngài rất hân hoan nghe theo lời khuyên của các sĩ quan mà đưa quân trở về nhà.
Cấp độ vâng lời đã được các tông đồ nêu lên như một nguyên tắc bất hủ trước thượng hội đồng Dothái: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29).
Vậy nếu cách lệnh truyền không đúng Thiên Ý mà đi vào con đường tội lỗi thì không được làm theo. Chính Đức Giêsu đã tiên báo những cuộc tranh chấp ngay trong nội bộ gia đình vì danh Chúa (Mt 10,21-22).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cương quyết vâng theo lời Chúa hơn là người phàm.
Suy niệm 6: Lưu đày
Vua cha quá tức giận vì hoạch định của ông bị thất bại, nên ông đã trục xuất Casimir, lúc ấy mới 15 tuổi, đến một lâu đài ở Dobzki, hy vọng rằng sự tù đầy sẽ thay đổi ý định của Casimir.
Lưu đày là một hình phạt dưới con mắt của nhà cầm quyền, nhưng dưới con mắt đức tin thì chưa hẳn thế, vì Thiên Chúa có thể biến cái xấu thành điều tốt, như niềm xác tín của ông Giuse về việc bị anh em bán sang Aicập (St 45,4-8).
Cũng thế, trong thời gian lưu đầy, ý định ban đầu của Casimir mà ngài tin là đúng lại càng gia tăng mạnh mẽ hơn, và ngài từ chối cộng tác trong mọi hoạch định của vua cha bất kể bất cứ áp lực nào.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn đọc mọi biến cố với con mắt đức tin.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 03/3 Thánh Katharine Drexel (1858-1955)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Katharine Drexel (1858-1955)
Lược sử
Ngài sinh ở Philadelphia, Hoa Kỳ, năm 1858 và là cô con gái thứ hai của ông bà Drexel. Sau khi chào đời được hai năm thì người mẹ ruột từ trần. Hai năm sau, cha ngài tái hôn và họ có thêm một cô con gái nữa. Tất cả ba cô đều có một nền tảng giáo dục vững chắc và thường đi du lịch nhiều nơi. Khi Katharine hai mươi mốt tuổi, là con gái nhà giầu, ngài sẵn sàng có địa vị trong xã hội, nhưng khi chăm sóc người mẹ ghẻ trong ba năm bị bệnh ung thư, ngài thấy rằng mọi tài sản của dòng họ Drexel cũng không thể cứu được con người khỏi sự đau khổ và cái chết, từ đó cuộc đời ngài thay đổi đáng kể.
Vào năm 1885, ông Drexel từ trần để lại gia tài kếch sù cho ba cô con gái. Lúc bấy giờ, Katharine và hai chị em đều gia nhập tổ chức Tông Đồ Giáo Dân. Họ thường để ý đến hoàn cảnh khó khăn của người da đỏ, và thường bàng hoàng khi đọc những câu truyện về người da đỏ Mỹ Châu. Trong chuyến du lịch Âu Châu, ngài được gặp Đức Giáo Hoàng Lêô XIII và xin Đức Thánh Cha gửi thêm các nhà truyền giáo đến Wyoming để giúp đỡ bạn của ngài, là Đức Giám Mục James O'Connor. Đức giáo hoàng trả lời, "Tại sao chính con không trở nên nhà tryền giáo?" Câu trả lời ấy đã khích động ngài đến độ phải nằm bệnh trong vài ngày.
Về Hoa Kỳ, ngài đến thăm người da đỏ Dakota, gặp tù trưởng Red Cloud và bắt đầu giúp đỡ họ.
Việc lập gia đình đối với Katharine thì quá dễ dàng. Nhưng sau các cuộc thảo luận với Đức Giám Mục O'Connor, Katharine viết trong nhật ký năm 1889, "Ngày lễ Thánh Giuse năm ấy đã đem lại cho tôi một ơn sủng lớn lao để có thể hy sinh quãng đời còn lại cho người da đỏ và da mầu." Vào ngày 7 tháng Mười Một 1889, ngài mặc áo dòng và lấy tên Sơ Mary Katharine. Năm ấy, các nhật báo lớn ở Hoa Kỳ đều chạy hàng chữ ngay trang đầu, "Dám Bỏ 7 Triệu Đôla!"
Sau ba năm rưỡi huấn luyện, Katharine và mười ba nữ tu đầu tiên của ngài (Sisters of the Blessed Sacrament for Indians and Colored - Nữ Tu Thánh Thể cho Người Da Đỏ và Da Mầu) mở trường học ở Santa Fe. Tiếp đó các trường học nối đuôi nhau thành lập. Vào năm 1915, ngài thành lập Đại Học Xavier ở New Orleans, là đại học đầu tiên ở Hoa Kỳ dành cho người da đen.
Cho đến năm 1942, ngài đã thiết lập xong hệ thống trường Công Giáo cho người da đen trong 13 tiểu bang, cộng thêm 40 trung tâm truyền giáo và 23 trường làng. Những người kỳ thị chủng tộc đã quấy phá công việc của ngài, họ đốt cả một trường học của ngài ở Pennsylvania. Tổng cộng, ngài đã thành lập 50 trung tâm truyền giáo cho người da đỏ trong 16 tiểu bang.
Khi 77 tuổi, ngài bị kích xúc tim nhưng vẫn tiếp tục đến các trung tâm truyền giáo để hướng dẫn các sơ trong dòng. Vào năm 1941, ngài cử mừng lễ kim khánh thành lập dòng, và Đức Giáo Hoàng Piô XII đã đề cập đến thành quả của ngài như "một trang sử huy hoàng trong biên niên sử của Giáo Hội."
Trong những năm cuối đời, Mẹ Katharine Drexel bị liệt, ngài sống âm thầm cầu nguyện trong căn phòng nhỏ nhìn về phía cung thánh. Nhiều mẩu giấy ghi lại các lời cầu nguyện của ngài, cũng như những suy niệm và những nguyện vọng vô tận. Ngài từ trần khi 96 tuổi. Tổng cộng ngài đã dùng 12 triệu đô la tài sản của ngài cho công cuộc truyền giáo cho người da đỏ và da đen ở Hoa Kỳ.
Vào tháng Mười Một 1988, ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước. Và đầu tháng Mười năm 2000, ngài đã được phong thánh.
Suy niệm 1: Du lịch
Tất cả ba chị em Katherine đều có một nền tảng giáo dục vững chắc và thường đi du lịch nhiều nơi.
Một nếp sống trong thời đại văn minh hiện nay thường thấy, đó là việc đi du lịch. Thật ra vấn đề đi du lịch vốn đã có từ lâu lắm rồi, nên đã có câu: đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
Vốn hấp thụ được một nền tảng giáo dục đạo đức, trong một chuyến du lịch Âu Châu, Katherine không dừng lại ở việc thăm quan, mà còn quan tâm đến việc truyền giáo, nên đã sắp xếp để được gặp Đức Giáo Hoàng Lêô XIII và xin Đức Thánh Cha gửi thêm các nhà truyền giáo đến Wyoming.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các khách du lịch biết tận dụng thời gian này để trau dồi kiến thức và hành thiện tích đức.
Suy niệm 2: Trả lời
Trước lời xin gửi thêm các nhà truyền giáo của Katherine, Đức giáo hoàng trả lời, "Tại sao chính con không trở nên nhà tryền giáo?" Câu trả lời ấy đã khích động và thay đổi đời sống ngài.
Một câu trả lời có thể mở lối cho một hướng sống tốt, và ngược lại cũng có thể dẫn đến một kết cuộc khốc hại.
Câu trả lời của Đức Giêsu “Hãy đến mà xem” đã biến hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả trở thành tông đồ của Chúa (Ga 1,39). Còn câu trả lời của các thượng tế về giá ba mươi đồng bạc lại biến Giuđa Ítcariốt thành kẻ phản bội thầy mình (Mt 26,14-16).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cẩn thận mỗi khi trả lời để đem lại cái tốt chứ đừng mang họa cho người.
Suy niệm 3: Huấn luyện
Sau ba năm rưỡi huấn luyện, Katherine và mười ba nữ tu đầu tiên của ngài mở trường học ở Santa Fe.
Katherine và các đồng nghiệp đã chú tâm đến việc khai trí bằng việc mở trường học như là một chương trình huấn luyện lâu dài, vì ý thức rằng một sự khác biệt căn bản giữa người và vật chính là lý trí.
Thánh Gioan Bốtcô cũng nhận ra được tầm quan trọng của sự huấn luyện, cách riêng về nghề nghiệp và giá trị con người, cũng như sự tự trọng do bởi tài nghệ và khả năng làm việc, do đó ngài cũng huấn luyện các người trẻ trong các ngành nghề.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn coi trọng việc huấn luyện chính bản thân mình cũng như tha nhân.
Suy niệm 4: Thập giá
Những người kỳ thị chủng tộc đã quấy phá công việc của Katharine, họ đốt cả một trường học của ngài ở Pennsylvania.
Con đường phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân luôn ghi đậm thập giá dưới nhiều dạng thức, mà một trong đó chính là gặp sự chống đối cũng như sự quấy phá.
Để kiên tâm vững tiến, Mẹ Katherine Drexel đã cho một lời khuyên: "Sự kiên nhẫn và khiêm tốn chịu đựng thập giá - dù bất cứ thập giá nào - là công việc cao cả nhất mà chúng ta phải thi hành”.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con gia tăng lòng mến Chúa để luôn ôm ấp thập giá Chúa gởi đến.
Suy niệm 5: Cung thánh
Trong những năm cuối đời, Mẹ Katharine Drexel bị liệt, ngài sống âm thầm cầu nguyện trong căn phòng nhỏ nhìn về phía cung thánh.
Vì bị liệt, Mẹ Katharine Drexel không di chuyển một mình được, cũng có nghĩa là mẹ không đến nhà thờ thông thường được. Mẹ chọn giải pháp âm thầm cầu nguyện trong căn phòng nhỏ nhìn về phía cung thánh.
Mẹ hiểu rằng Đức Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể trong nhà tạm, trong cung thánh, trong nhà thờ. Ở trường hợp mẹ không thể đến được vì bị liệt, mẹ vẫn có thể gặp gỡ được Chúa bằng việc hướng lòng về Chúa với đôi mắt nhìn về phía cung thánh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên cần gặp gỡ Chúa hằng ngày bằng việc đến nhà thờ hoặc hướng lòng về Chúa trong cung thánh.
Suy niệm 6: Thánh thiện
Vào tháng Mười Một 1988, Katherine được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước. Và đầu tháng Mười năm 2000, ngài đã được phong thánh.
Các thánh luôn luôn có những lời khuyên giống nhau: Hãy cầu nguyện, sống khiêm tốn, chấp nhận thập giá, hãy yêu thương và tha thứ cho tha nhân.
Nhưng khi được nghe những lời ấy từ một người, có tất cả những giầu sang của trần thế, được báo chí phỏng vấn, được du lịch trên các toa xe lửa hạng sang, thì đó là một nhắc nhở mạnh mẽ cho chúng ta biết, sự thánh thiện có thể thực hiện được trong thế giới hôm nay cũng như ở Giêrusalem hoặc Rôma thuở xưa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tích cực nên thánh ngay trong môi trường và thời đại chúng con đang sống.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 02/3: Thánh Agnes ở Bohemia (1205-1282)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Agnes ở Bohemia (1205-1282)
Lược sử
Tuy Thánh Anê không có con nhưng ngài đã đem lại sức sống cho tất cả những ai biết đến ngài.
Anê là con của Nữ Hoàng Constance và Vua Ottokar I của Bôhêmia. Lúc lên ba, ngài được hứa gả cho Công Tước xứ Silesia, nhưng ba năm sau đó ông này từ trần. Khi Anê lớn lên, thánh nữ định tâm dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì.
Sau khi từ chối lời cầu hôn của Vua Henry VII của nước Đức và Henry III của nước Anh, Anê phải đương đầu với sự cầu hôn của Frederick II, là Thánh Đế Rôma (Holy Roman Emperor). Thánh nữ cầu khẩn đến Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX để xin giúp đỡ. Đức giáo hoàng đã nghe theo; một cách cao thượng Frederick trả lời rằng ông cũng không khó chịu khi Anê yêu quý Vua Thiên Đàng hơn ông.
Sau khi Anê xây một bệnh viện cho người nghèo và một nơi cư ngụ cho các tu sĩ, ngài cung cấp tài chánh để xây cất tu viện Clara Nghèo Hèn ở Prague. Năm 1236, cùng với bảy phụ nữ quý tộc khác, ngài đã gia nhập tu viện này. Thánh Clara đã gửi năm nữ tu từ San Damiano đến tiếp tay với họ, và đã viết cho Anê bốn lá thư khuyên bảo về ơn gọi mỹ miều của ngài và đặt ngài làm tu viện trưởng.
Sơ Anê ngày càng nổi tiếng về sự cầu nguyện, đức vâng lời và hãm mình phạt xác. Đức giáo hoàng làm áp lực để ngài nhận chức vụ tu viện trưởng; tuy nhiên, ngài thích được gọi là "sơ già" hơn là tu viện trưởng. Dù là tu viện trưởng, ngài cũng không quản ngại nấu nướng cho các nữ tu khác cũng như may vá quần áo cho người cùi. Các nữ tu trong dòng nhận thấy ngài rất tử tế nhưng rất nghiêm nhặt về đức khó nghèo; ngay cả người anh ruột của ngài muốn tặng cho nhà dòng ít của cải cũng bị ngài từ chối.
Sau khi ngài từ trần ngày 6 tháng Ba 1282, việc sùng kính ngài ngày càng lan rộng. Năm 1989, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài.
Suy niệm 1: Tu trì
Khi Anê lớn lên, thánh nữ định tâm dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì.
Đã dâng mình cho Chúa thì hãy sống lời khuyên bảo: "Đừng dính dáng với bất cứ ai cản đường bạn và tìm cách thay đổi lời thề mà bạn đã hứa với Đấng Tối Cao, cũng như tách bạn ra khỏi cuộc sống tuyệt hảo mà Thần Khí Thiên Chúa đã mời gọi bạn" (Trích trong Thư II Thánh Clara gửi cho Anê).
Chẳng những bất cứ ai mà bất cứ gì, cho dầu đó là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo... thậm chí sự chết hay sự sống, hoặc bất cứ sức mạnh nào, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác (Rm 8,35-39).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc tu trì sống niềm xác tín: Không ai và không gì có thể tách họ ra khỏi tình yêu của Đức Kitô và của Thiên Chúa.
Suy niệm 2: Cầu hôn
Sau khi từ chối lời cầu hôn của Vua Henry VII của nước Đức và Henry III của nước Anh, Anê phải đương đầu với sự cầu hôn của Frederick II, là Thánh Đế Rôma.
Dầu lời cầu hôn bị từ chối, nhưng một cách cao thượng, Frederick trả lời rằng ông cũng không khó chịu khi Anê yêu quý Vua Thiên Đàng hơn ông.
Ngược lại với trường hợp của thánh nữ Agatha, thì Quintian, một người có địa vị cao trong xã hội vốn say mê ngài lại ra lệnh bắt giữ ngài và đưa ra xét xử, rồi ra lệnh tra tấn ngài đến chết.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho thế giới này có được nhiều tâm hồn cao thượng.
Suy niệm 3: Bác ái
Sau khi Anê xây một bệnh viện cho người nghèo và một nơi cư ngụ cho các tu sĩ, ngài cung cấp tài chánh để xây cất tu viện Clara Nghèo Hèn ở Prague.
Thánh Anê đã sống 45 năm trong tu viện Clara Nghèo Hèn. Một cuộc sống như vậy đòi hỏi sự kiên nhẫn và bác ái lớn lao. Những cám dỗ về sự ích kỷ chắc chắn không tan biến khi thánh nữ bước chân vào tu viện.
Có lẽ chúng ta dễ nghĩ rằng các nữ tu dòng kín "sẵn có" sự thánh thiện. Nhưng con đường của họ cũng giống như của chúng ta: hàng ngày cố gắng thay đổi bản tính ích kỷ để đạt đến tiêu chuẩn độ lượng của Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quyết tâm tiêu trừ tính ích kỷ và xây đắp lòng bác ái vị tha.
Suy niệm 4: Bệnh viện
Sau khi Anê xây một bệnh viện cho người nghèo và một nơi cư ngụ cho các tu sĩ, ngài cung cấp tài chánh để xây cất tu viện Clara Nghèo Hèn ở Prague.
Bệnh viện có một tên gọi bình dân là nhà thương, vì đó là nơi cần phải có tình thương ngự trị và cũng là nơi tình thương được biểu hiện một cách đậm nét nhất trong việc chăm sóc và chữa trị cả tinh thần lẫn thể xác bệnh nhân.
Bác sĩ cũng như y tá điều trị cần phải có y đức, phải có con tim của người mẹ, như câu nói thường nghe: lương y như từ mẫu. Tiền bạc cần thiết để sống nhưng phải luôn đặt ở hàng thứ yếu, đặc biệt đối với người nghèo khó.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn bù đắp cho các tình nguyện viên đang phục vụ trong nghành y tế, không vì tiền bạc nhưng chỉ vì tình thương.
Suy niệm 5: Danh tiếng
Sơ Anê ngày càng nổi tiếng về sự cầu nguyện, đức vâng lời và hãm mình phạt xác. Đức giáo hoàng áp lực để ngài nhận chức vụ tu viện trưởng; tuy nhiên, ngài thích được gọi là "sơ già" hơn là tu viện trưởng.
Được nổi danh là điều quý, nhưng điều quý hơn khi được nổi danh là phải sống khiêm nhường. Đó mới là bậc chính nhân quân tử. Chính vì thế thánhAnê thích được gọi là "sơ già" hơn là tu viện trưởng.Thánh Gioan Tiền Hô được nổi tiếng đến mức ngay cả Đức Giêsu cũng tìm đến xin chịu phép rửa ở sông Giođan, nhưng ngài lại tự nhận không đáng xách dép cho Đức Giêsu (Mt 3,11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không sống vì tìm hư danh cho mình, nhưng luôn nỗ lực làm cho danh Chúa được cả sáng.
Suy niệm 6: Khó nghèo
Các nữ tu trong dòng nhận thấy ngài rất tử tế nhưng rất nghiêm nhặt về đức khó nghèo; ngay cả người anh ruột của ngài muốn tặng cho nhà dòng ít của cải cũng bị ngài từ chối.
Thánh nữ Anê đã sống được thế, nhờ ngài thấu hiểu bài học: Chúa khóc thương những người giàu có vì họ tìm an ủi (Lc 6,24) nhờ của cải dư dật; kẻ kiêu căng tìm quyền lực thế trần, còn người có tinh thần nghèo khó tìm kiếm Nước Trời (thánh Âutinh).
Ai phó thác vào sự quan phòng của Cha trẽn trời, thì được giải thoát khỏi những âu lo về ngày mai (Mt 6,25-34). Ai tín thác vào Chúa sẽ được hưởng hạnh phúc Chúa hứa ban cho người nghèo: Họ sẽ được thấy hạnh phúc (Mt 5,3;Lc 6,20).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nỗ lực làm việc để sống, nhưng đừng quên phải hằng tín thác vào tình thương quan phòng của Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 01/3 Thánh Ðavít (c. 589)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Ðavít (c. 589)
Lược sử
Đavít là thánh quan thầy của xứ Wales và có lẽ là vị thánh nổi tiếng nhất nước Anh. Nhưng không may, chúng ta không biết nhiều về ngài.
Được biết ngài là một linh mục, tham dự trong công cuộc truyền giáo và sáng lập nhiều đan viện, kể cả đan viện chính của ngài ở phía nam xứ Wales. Có nhiều truyền thuyết kể về ngài và các đan sĩ. Các ngài sống rất khắc khổ. Họ làm việc trong im lặng và cầy cấy bằng chân tay mà không dùng đến sức loài vật. Thực phẩm của các ngài chỉ giới hạn trong bánh mì, rau trái và nước lạnh.
Vào khoảng năm 550, thánh nhân tham dự một thượng hội đồng ở Brevi thuộc Cardiganshire. Sự đóng góp của ngài trong thượng hội đồng được coi là chủ yếu và các giáo sĩ đã chọn ngài làm giáo chủ của Giáo Hội Cambrian. Người ta nói ngài được tấn phong tổng giám mục bởi vị thượng phụ của Giêrusalem trong một chuyến hành hương Đất Thánh. Ngài cũng được cho là đã triệu tập một công đồng để chấm dứt vết tích của lạc giáo Pelagiô. Thánh Đavít từ trần ở tu viện của ngài ở Menevia khoảng 589. Việc sùng kính ngài được Đức Giáo Hoàng Callistus II chấp thuận vào năm 1120. Ngài được tôn kính là vị quan thầy của xứ Wales.
Thánh Đavít thường được vẽ đứng trên một gò đất với chim bồ câu ở trên vai. Truyền thuyết nói rằng có lần ngài đang rao giảng thì một con bồ câu đáp xuống đậu trên vai ngài, và mặt đất chỗ ngài đứng dâng lên cao để mọi người có thể nghe ngài giảng dạy. Trong thời kỳ tiền-Cải Cách, trên 50 nhà thờ ở South Wales được xây dựng để kính ngài.
Suy niệm 1: Khắc khổ
Các đan sĩ của ngài sống rất khắc khổ.
Lối sống khắc khổ được thể hiện trong việc sử dụng thực phẩm của các ngài, vốn chỉ giới hạn trong bánh mì, rau trái và nước lạnh.
Xưa kia thánh Gioan Tiền Hô cũng theo đuổi lối sống này bằng việc chỉ nuôi sống mình bằng môt loại thực phẩm là châu chấu và mật ong rừng (Mc 1,6).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vâng giữ luật ăn chay của Hội Thánh cách nghiêm túc.
Suy niệm 2: Im lặng
Các đan sĩ làm việc trong im lặng và cầy cấy bằng chân tay mà không dùng đến sức loài vật.
Bầu khi im lặng vốn dễ giúp con người cầu nguyện, do đó để gặp gỡ Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu thường chọn vào rừng vắng hoặc lên núi cao (Mt 14,23;Mc 6,46), và vào lúc sáng sớm tinh sương hoặc vào lúc chiều tối (Mc 1,35;Lc 6,12).
Chính vì thế các đan sĩ chủ trương dầu làm việc cũng vẫn im lặng để giữ tâm tình cầu nguyện. Có lẽ đó cũng là lý do vì sao Thánh Cả Giuse luôn giữ im lặng đến mức không để lại một lời nào trong suốt cả cuộc đời ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn làm nhiều hơn là nói, và thậm chí cũng chẳng cần phải nói gì mà chỉ làm thôi.
Suy niệm 3: Lao động
Các đan sĩ cầy cấy bằng chân tay mà không dùng đến sức loài vật.
Chính Thiên Chúa cũng nêu gương lao động bằng chân tay, khi dùng bùn đất nặn ra con người cũng như nặn lên mọi dã thú (St 2,7.19) và rút xương sườn Adong, lắp thịt vào để tạo nên người nữ (St 2,21-22).
Đức Giêsu cũng nhổ nước miếng xuống đất, dùng tay trộn thành bùn rồi xức vào mắt người mù để chữa lành bệnh nhân (Ga 9,6). Theo gương đó, các tông đồ cũng vất vả tự tay làm lụng (1Cr 4,12).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng coi thường việc lao động bằng tay chân.
Suy niệm 4: Lạc giáo Pelagiô
Thánh Đavít cũng được cho là đã triệu tập một công đồng để chấm dứt vết tích của lạc giáo Pelagiô.
Pelagiô là một tu sĩ thuộc thế kỷ thứ năm, chủ trương rằng tự do ý muốn của con người là yếu tố quyết định về sự trọn lành của mỗi một người, và ông cho rằng con người không cần ơn của Thiên Chúa để được cứu rỗi.
Chỉ một con sâu cũng làm rầu cả nồi canh. Chỉ một vết thương ung thư độc hại cũng có thể gây nên hậu quả chết người. Ý thức được như thế nên thánh Đavít triệu tập một công đồng để chấm dứt vết tích của lạc giáo Pelagiô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn kiên vững niềm tin để không rơi vào cạm bẫy của lạc giáo.
Suy niệm 5: Sùng kính
Việc sùng kính thánh Đavít được Đức Giáo Hoàng Callistus II chấp thuận vào năm 1120.
Việc sùng kính vốn là một tâm tình đạo đức, nếu mang tính cá nhân và không ảnh hưởng đến sinh hoạt chung của Giáo Hội thì không sao.
Nhưng để việc sùng kính có giá trị phổ quát và hợp pháp thì phải được thẩm quyền của Giáo Hội chấp thuận và chuẩn y.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tỏ lòng hiếu thảo đối với Giáo Hội, bằng việc hết mình vâng nghe Đấng Bản Quyền.
Suy niệm 6: Rao giảng
Thánh Đavít thường được vẽ đứng trên một gò đất với chim bồ câu ở trên vai.
Truyền thuyết nói rằng có lần ngài đang rao giảng thì một con bồ câu đáp xuống đậu trên vai ngài, và mặt đất chỗ ngài đứng dâng lên cao để mọi người có thể nghe ngài giảng dạy.
Việc rao giảng mang lại an bình nội tâm cho người thành tâm thiện chí, nên đáng được mọi người lắng nghe thực hành. Việc rao giảng như thế có tầm quan trọng vô cùng nên được Thiên Chúa tạo thêm điều kỳ diệu kèm theo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con say mê lắng nghe và luôn sống lời rao giảng.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 28/2 Thánh Grêgôriô II (c. 731)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Grêgôriô II (c. 731)
Lược sử
Sinh ở Rôma, ngay từ khi còn trẻ Grêgôriô đã dính dáng đến công việc của Giáo Hội. Chính Thánh Giáo Hoàng Sergius I là người nhận thấy những đức tính cao quý nơi người trẻ tuổi này và đã tấn phong Grêgôriô làm trợ phó tế. Ngài phục vụ liên tiếp dưới bốn triều đại giáo hoàng với chức vụ thủ quỹ, và sau đó là quản thủ thư viện. Ngài được giao cho các nhiệm vụ quan trọng và tháp tùng Đức Giáo Hoàng Constantine đến Constantinople để phản đối Hoàng Đế Justinian II về các nghị định chống lại tây phương của Công Đồng Trullan II (692). Sau khi Đức Constantine từ trần, Grêgôriô được chọn làm giáo hoàng và được tấn phong năm 715.
Đức Grêgôriô làm giáo hoàng trong 15 năm. Trong thời gian này, ngài tổ chức các thượng hội đồng để chấn chỉnh các nhũng lạm, ngăn chặn lạc giáo và cổ vũ tinh thần kỷ luật và luân lý. Ngài tái xây dựng một phần lớn các tường thành Rôma để bảo vệ thành phố này chống với các cuộc tấn công của quân Lombard. Ngài tái thiết nhiều nhà thờ, và đặc biệt rất quan tâm đến người đau yếu và người già. Đan viện thật lớn gần nhà thờ Thánh Phaolô đã được tái thiết, cũng như tu viện của Monte Cassino mà quân Lombard đã phá hủy cách đó 150 năm. Ngài tấn phong Thánh Boniface và Thánh Corbinian làm giám mục để đi truyền giáo cho các sắc dân ở Đức. Và cũng như Đức Giáo Hoàng Grêgôriô I, ngài biến dinh thự của gia đình ngài thành một đan viện.
Chính trong những cuộc thương thuyết với Hoàng Đế Lêô III mà người ta mới thấy sức mạnh tinh thần cũng như sự kiên nhẫn của Đức Grêgôriô. Hoàng Đế Lêô đòi phải tiêu hủy tất cả các ảnh tượng thánh, và trừng phạt những ai không tuân lệnh. Khi các giám mục không thuyết phục được hoàng đế về sự sai lầm của ông, họ thỉnh cầu đến giáo hoàng. Một đàng, Đức Grêgôriô cố gắng thay đổi ý nghĩ của hoàng đế. Đàng khác, ngài khuyên dân chúng trung thành với hoàng tử, luôn luôn khuyến khích các giám mục chống với tà thuyết.
Đức Grêgôriô II từ trần năm 731.
Suy niệm 1: Trẻ
Sinh ở Rôma, ngay từ khi còn trẻ Grêgôriô đã dính dáng đến công việc của Giáo Hội.
Dầu còn trẻ, nhưng Grêgôriô cũng được tín nhiệm phụ giúp liên tục bốn Đức Giáo Hoàng với các chức vụ trợ phó tế, thủ quỹ và quản thủ thư viện, để rồi sau đó được lên ngôi Giáo Hoàng.
Trẻ Đavít không được vua Saun đánh giá cao do tuổi tác (1Sm 17,33), nhưng khi lâm trận thì Đavít đã hạ gục và chặt được đầu của tướng quân Gôliát (1Sm 17,50-51) vốn gây kinh hoàng cho cả vua quân Ítraen (1Sm 17,11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng tự ti mặc cảm vì tuổi tác, nhưng hãy cậy dựa vào sức Chúa để hết mình phục vụ.
Suy niệm 2: Giáo hoàng
Sau khi Đức Constantine từ trần, Grêgôriô được chọn làm giáo hoàng và được tấn phong năm 715.
Đức Giáo Hoàng, vừa là Giám Mục Rôma vừa là vị kế nhiệm thánh Phêrô, là nguyên lý và nền tảng hữu hình, vĩnh cửu của sự hiệp nhất giữa các giám mục cũng như giữa các tín hữu.
Thật vậy, do nhiệm vụ là đại diện Chúa Kitô và mục tử của toàn thể Hội Thánh, Giám Mục Rôma có quyền bính trọn vẹn, tối cao, phổ quát trên Hội Thánh và bao giờ ngài cũng được tự do thi hành quyền ấy (Sách Giáo Lý số 882).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn vâng phục quyền bính của Đức Giáo Hoàng.
Suy niệm 3: Thời gian
Đức Grêgôriô làm giáo hoàng trong 15 năm.
Thời gian 15 năm của một đời người thì không dài lắm, nhưng để làm việc thì thật đáng kể.
Với Đức Grêgôriô, ngài tổ chức các thượng hội đồng để chấn chỉnh các nhũng lạm, ngăn chặn lạc giáo và cổ vũ tinh thần kỷ luật và luân lý.
Ngài tái xây dựng một phần lớn các tường thành Rôma để bảo vệ thành phố này. Ngài tái thiết nhiều nhà thờ, đan viện thật lớn gần nhà thờ Thánh Phaolô, cũng như tu viện của Monte Cassino.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức thời giờ còn quý hơn vàng bạc để đừng bao giờ phí phạm.
Suy niệm 4: Truyền giáo
Đức Grêgôriô tấn phong Thánh Boniface và Thánh Corbinian làm giám mục để đi truyền giáo cho các sắc dân ở Đức.
Bổn phận truyền giáo là căn tính của mọi kitô hữu. Nhưng sứ vụ đi truyền giáo đòi hỏi nhà truyền giáo chẳng những phải đạo đức thánh thiện mà còn phải có quyền bính nữa.
Chính vì lý do này mà Thánh Boniface và Thánh Corbinian được tấn phong làm giám mục. Cũng như xưa kia mặc dầu thánh Banaba và thánh Phaolô được Thánh Thần chọn gọi riêng, nhưng cũng phải được các tông đồ đặt tay tấn phong rồi tiễn đi (Cv 13,2-3).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tham gia vào công cuộc truyền giáo bằng đời sống thánh thiện.
Suy niệm 5: Kiên nhẫn
Chính trong những cuộc thương thuyết với Hoàng Đế Lêô III mà người ta mới thấy sức mạnh tinh thần cũng như sự kiên nhẫn của Đức Grêgôriô.
Bầu khí thương thuyết luôn mang tính căng thẳng vì đôi bên đều vừa muốn bảo vệ lợi ích phần mình vừa phải nhường nhịn đối phương. Yếu tố kiên nhẫn không thể thiếu trong các trường hợp này.
Nếu dục tốc bất đạt thì kiên nhẫn mới có cơ may thành công. Dầu đã ban lời hứa cứu độ ngay sau khi nguyên tổ phạm tội, nhưng Thiên Chúa phải kiên nhẫn đợi chờ cả hằng bao thế kỷ mới sai Đấng Cứu Thế đến trần gian (Dt 1,2;2Pr 3,9.15).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con gia tăng niềm tin để tạo được lòng kiên nhẫn (Gc 1,3).
Suy niệm 6: Thỉnh cầu
Khi các giám mục không thuyết phục được hoàng đế về sự sai lầm của ông, họ thỉnh cầu đến giáo hoàng.
Đã là xã hội thì dầu dân chủ và bình đẳng đến đâu cũng vẫn luôn tôn trọng tôn ti trật tự, vẫn luôn tồn tại thứ bậc đẳng cấp, vẫn phải có bề trên bề dưới cũng như người lớn kẻ nhỏ. Giáo Hội cũng có phẩm trật.
Vì thế khi không thuyết phục được hoàng đế về sự sai lầm của ông, các giám mục đã thỉnh cầu đến giáo hoàng vốn là bề trên của các ngài, với quyền tối thượng mà Đức Giêsu đã ban cho người kế vị Ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ làm gì vượt quá quyền hạn của mình.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 27/02 Thánh Gabrien của Ðức Mẹ Sầu Bi (c. 1862)
- Ngày 26/02: Thánh Apollonia (c. 249)
- Ngày 25-02: Chân Phước Sebastian ở Aparicio (1502 - 1600)
- Ngày 24 - 02 Chân Phước Luca Belludi (1200 - 1285)
- Ngày 23-02 Thánh Polycarpô
- Ngày 21-02 Thánh Phêrô Đamianô
- Ngày 20/2 Chân Phước Jacinta and Francisco Marto
- Ngày 20/2 Thánh Claude de la Combière (1641-1682)
- Ngày 19/2 Thánh Conrad ở Piacenza (1290-1350)
- Ngày 18/2 Thánh Simêon (c.107)