Dân Chúa Âu Châu

PhanxicoHaTrongMauThánh Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu, Thầy Giảng (1790-1839)

- Lễ ngày 19 tháng 12

Thánh Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu sinh năm 1790 tại làng Kẻ Riền thuộc tỉnh Thái Bình. Ngày từ nhỏ, cha mẹ cho đi tu và được học hành trở thành Thầy Giảng rồi được Đức Giám mục cho bài sai đi giúp xứ Kẻ Mốt.Thầy là người hiền lành, nhân đức, làm việc rất tận tụy, hay săn sóc và gúp đỡ nhiều người, nhờ vậy mà mọi người đều mến thương Thầy. Khi nghe tin cha Phêrô Tự bị bắt, lúc ấy thầy Phanxicô Xavier Mậu đang ở Họ Nội thuộc xứ Kẻ Mốt, Thầy vội vã chạy tới lẩn vào đám dông quần chúng để theo dõi tình hình ra sao. Lúc ấy quan quân đã bắt được cha Phêrô Tự và thầy Đa Minh Bùi văn Úy đưa về Lương Tài. 

Bà Tuân là người giáo dân rất tốt lành thấy tình thế nguy ngập như vậy thì lo sợ cho số phận tương lai của thầy Hà Trọng Mậu. Bà cấp tốc liên hệ với một gia đình rất thân quen tại làng Nhất Trai để gửi gắm Thầy, vì bà nghĩ rằng gia đình này là lương dân nên quan quân không tới khám xét. Thầy Mậu ưng thuận nên Bà gửi Thầy Mậu trú ẩn tại nhà này. 

Nhưng ở đời luôn có những chuyện không ngờ đưa tới. Gia đình này mặc dầu là bạn rất thân với bà Tuân nhưng vì ham hố số tiền thưởng của vua quan hứa nên đã âm thầm đi tố cáo với quan Bố Chánh để lãnh nhận tiền thưởng. Quan cho lính tới vây kín làng Nhất Trai và bắt được thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu tại gia đình lương dân này.

Thầy Hà Trọng Mậu bị bắt trói và giải về dinh quan Lương Tài. Tới nơi thì thầy Mậu đã thấy cha Phêrô Tự và thầy Đa Minh Úy bị trói ở đó. Quan Bố Chánh hỏi thầy Mậu:

- Mày có phải là một trong những tên theo giúp cụ Tự không?

Thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu khẳng khái và hãnh diện trả lời:

- Phải, tôi là Thầy Giảng là người giúp việc thâm tín của Cha Phêrô Tự.

Cha Phêrô Tự ra hiệu nhắc Thầy đừng khai rõ như vậy để hy vọng Thầy có thể được tha chăng. Nhưng Thầy Mậu nói nhỏ với Cha: “Xin Cha thương nhận con là môn sinh của Cha, để con cũng được phúc tử đạo với Cha”.

Lúc ấy quan truyền lệnh đưa cây Thập Tự bắt Thầy phải bước lên thì được tha. Nhưng thầy Phanxicô Xavier Mậu nhìn thẳng vào mặt quan Bố Chánh và nói:

- Thiên Chúa tôi thờ là Chúa trời đất muôn vật, mọi người phải tôn kính Ngài, mà quan lớn bảo tôi phải bước lên Ngài sao? Làm sao tôi dám giơ chân bước lên mặt Ngài?

Quan quát lớn:

- Thằng này dốt nát lại cố chấp. Mày dám dậy tao hả?

Nói xong, quan Bố Chánh truyền lệnh đánh 60 roi, đau dớn quá. Thầy ngất đi, đôi lính phải khiêng tống giam vào ngục.

Lần khác, quan lại gọi Thầy Mậu ra hầu toà. Quan cũng cho lệnh điệu cả cha Phêrô Tự ra để đối chứng với thầy Mậu. Cha Tự không muốn cho thầy Mậu phải chết, nên có ý không muốn nhận thầy Mậu là người giúp mình. Vì thế, khi nghe thầy Mậu xác nhận mình là người giúp cha Tự, thì Cha quay mặt đi nơi khác có ý phủ nhận. Thầy Mậu biết ý cha không muốn mình phải chết nên chạy lại ôm lấy chân qùi trước mắt cha Tự và xin:

- Lạy Cha, xin thương mà nhận lấy con để con cũng được chết với Cha, làm chứng đạo thánh Chúa.

Cha Phêrô Tự thấy sự can đảm là long tin sắt đá của Thầy như thế thì xác nhận Thầy là một trong những người cộng tác đắc lực của Cha. Thấy Cha Phêrô Tự xác nhận và sự kiên trì vững chắc của thầy Hà Trọng Mậu như thế thì quan cho tống giam cả hai cha con trở về ngục, bắt nhịn đói nhịnh khát nhiều ngày. Tại nhà tù, thầy Mậu còn phải chịu rất nhiều khốn khổ, bi hành hạ, xiềng xích, đeo gông nặng nề. Thầy còn bị lôi ra toà nhiều lần để tra khảo về các đấng khác hiện đang bị giam tại đó. 

Cùng bị giam với Thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu, còn có nhiều bạn khác nữa. Các Thầy luôn khiyến khích nhau giữ vững đức tin, làm chứng cho đạo thánh Chúa tới hơi thở cuối cùng. Các Thầy cũng thường đọc kinh chung và cầu nguyện với nhau sáng tối. Mỗi khi bị gọi ra toà và bị tra kháo, đánh đập rất tàn nhẫn, đau đớn thì các Thầy lại nâng đỡ nhau bằng cách, lau lọt và băng bó những vết thương cho nhau.

Khi quan cho thi hành bản án xử trảm cha Phêrô Tự và thầyGiuse Cảnh rồi, thì thầy Úy, ba giáo dân là Vinh, Đệ và Mới tôn thầy Hà Trọng Mậu lên làm anh trưởng để hướng dẫn và giúp đỡ mọi người cầu nguyện, kiên trì giữ vững Đức Tin, trở thành nhân chứng của Chúa. Thầy luôn nhắc nhủ anh em hãy sống huynh đệ, an ủi giúp đỡ lẫn nhau. Thầy Mậu luôn thay thế các anh em viết thư liên lạc ra ngoài và thay thế anh em trả lời những câu hỏi về đạo của các quan. 

Nhiều khi vì vậy mà Thầy bị đòn tra tấn nặng nề hơn những người khác. Đắc biệt thầy còn khuyến khích anh em tích cực làm việc tông đồ, dạy giáo lý cho nhiều người cùng bị giam trong tù. Riêng phần thầy Hà Trọng Mậu, theo chứng từ của cha Huấn, căn cứ vào những lá thư Thầy đã viết và gửi được ra ngoài, thì Thầy đã dạy giáo lý và rửa tội được 44 tù nhân. Trong số những người này, có một anh rất thông minh và giỏi chữ nghĩa tên là Hùng, mới học đạo được một tháng thì đến ngày bị xử tử hình. Khi quan truyền đem đi xử, anh đã xin phép đi gặp Thầy Mậu để xin thầy Rửa Tội. Thầy Hà Trọng Mậu đã Rửa Tội cho anh. Anh rất vui mừng vì được biết đạo thánh Chúa và được Rửa Tội. Anh hỏi thầy Mậu:

- Bây giờ con phải làm gì nữa không?

Thầy Mậu trả lời:

- Bây giờ anh cứ ăn năn tội. Xin Chúa cho anh được về Thiên Đàng với Chúa.

Anh binh tĩnh, vui vẻ và vâng lời Thầy, đi theo đoàn quân lý hình tới nơi chịu xử án, không hề lộ vẻ sợ hãi. Những ngày tiếp theo, thầy Hà Trọng Mậu còn bị gọi ra toà nhiều lần. Có lần gọi ra toà, quan thấy Thầy Mậu còn trẻ, dáng người thông minh, tuấn tú. Các quan nghĩ anh này dễ thương như vậy mà giết đi thì thật đáng tiếc, nên quan hỏi:

- Mày có hình dáng đẹp trai, hãy còn trẻ tuổi. Mày có muốn làm quan thì chúng tao bầu cử, tâu vua giúp mày, hoặc muốn trở về quê tiếp tục nghề làm thuốc thì chúng tao sẽ xếp liệu cho, với điều kiện là mày phải bước qua tượng ảnh này.

Thầy Mậu bình tĩnh trả lời:

- Bẩm các quan lớn, tôi không dám bước lên mặt Chúa tôi.

Bọn lính canh gác đứng chung quanh cũng xúi:

- Anh cứ bước qua đi rồi các quan sẽ trọng thưởng. không sao đâu. Có nhiều người đã bước qua rồi, có việc gì đâu?Thầy quay lại nhìn bọn lính và nói:

- Thiên Chúa là Đấng đáng kính mến, hết lòng hết sức. dù phải chết thì tôi cũng không thể bước qua.

Bọn lính cười mỉa mai Thầy, tỏ vẻ thương tiếc Thầy.

Nghe thầy đối đáp, các quan lại nổi giận, cho Thầy bị mê hoặc nên không còn cách nào khuyên du được. Các quan giận dữ truyền lệnh tống giam vào ngục. Trở về ngục, thầy Phanxicô Mậu lại cùng với bốn anh em kia tiếp tục giảng dạy giáo lý cho các tù nhân ngoại giáo. 

Ban đêm Thầy tổ chức đọc kinh chung cho các tù nhân ngoại giáo đọc theo. Nhờ sự sôt sắng và lòng can đảm của Thầy mà nhiều tù nhân ngoại giáo đã tin theo đạo. Thầy Mậu tuy phải đòn và tra tấn nhiều lần nhưng Thầy rất vui. Thầy lấy làm sung sướng được chịu khổ vì Chúa và làm nhân chứng cho Chúa. Trong một lá thư Thầy viết cho cha Huấn, Thầy kể rằng: “những người được rửa tội trong ngục lên tới 14 người rồi! Sáu người đã thuộc các kinh đọc hằng ngày còn 8 người kia thì thuộc ít. 

Nhưng vẫn vui vẻ học đạo. Ngày 13 tháng Giêng năm 1839 vua truyền xử tử mấy tên tù, trong số đó có 3 người con đã Rửa Tội trước và 2 người nữa con mới Rửa Tội trước khi phải ra pháp trường. Khi bị đem đi xử những ngườI náy cứ đọc kinh to tiếng và phó linh hồn cho Chúa Giêsu”. Đọc lá thư Thầy viết, cha Huấn vô cùng xúc động và nói rằng người chiến sĩ Đức Tin của Chúa Kitô thực làm việc không biết mệt, mặc dầu biết mình sắp phải án tử hình vì không chịu bỏ đạo.

Sau một thời gian ngắn, các quan lại cho gọi thầy Mậu và các bạn ra hầu toà để thẩm xét một lần nữa. Lần này quan cho đặt một tượng Chúa vác Thánh Giá, một tượng Chúa bị đóng đanh, hai mẫu ảnh Đức Mẹ, và một Thánh Giá không có tượng Chúa. Quan gọi thầy Mậu và các bạn tới trước mặt rồi khuyên nhủ:

- Ta biết tụi bay bị giam trong tù lâu ngày khốn khổ trăm bề, bây giờ nếu chúng bay vui lòng bước thì Ta sẽ cho về ngay.

Thầy Mậu trả lời thay cho các anh em:

- Bẩm quan lớn! Chúng tôi thờ kính một Thiên Chúa là Đấng tạo dựng trời đất và muôn vật. Không bao giờ chúng tôi dám làm sự vô phép bước lên Chúa chúng tôi. Quan lớn truyền chém đầu chúng tôi thì chém, hay làm khổ đủ mọi cách rồi giết chúng tôi thì giết. Chúng tôi xin vui lòng chấp nhận hết. 

Trước thái độ cứng rắn và những lời mạnh bạo dứt khoát như thế, các quan đều lắc đầu. Các quan biết dù có làm cách nào nữa thì cũng không thể thuyết phục được những người này. Dù có muốn tha thì cũng không còn cách nào để có thể tha được nữa. Sau cùng các quan lại cho giam tất cả những người này vào ngục, chờ đợi những chiến sĩ anh hùng ngày suy nghĩ lại để được sống. 

Trở về nhà tù, thầy Mậu và các bạn lại gia tăng việc ăn chay cầu nguyện, xin Chúa ban thêm sức mạnh và ý chí can đảm để thắng vượt được mọi thử thách và đau khổ vì những cuộc tra tấn tàn bạo sắp tới. Trong thư thầy gửi cho cha Huấn, thầy viết: “Con và bốn anh em ăn chay, kiêng thịt như lề luật dạy là trong một tuần lễ thì giữ chay các ngày thứ, Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy. Nhưng đôi khi không giữ được thì cũng xin Cha tha cho chúng con. Chúng con xin khấn theo luật Dòng Ba Đa Minh, xin Cha thương nhận chúng con.

Ngày 24 tháng 11 năm 1839 thầy Mậu và bốn anh em bị điệu ra toà một lần nữa, lần các quan lại đặt dưới đất hai tượng Chúa, hai Thánh Giá, hai ảnh Đức Mẹ rồI truyền lệnh cho các Thầy phải bước lên. Thầy Mậu viết thư thuật lại chuyện này cho cha Huấn như sau: “ Quan gọi chúng con tới trước mặt để tra hỏi: khi đến nơi, chúng con thấy ở dưới đất có ảnh tượng như vậy. 

Chúng con liền qùi xuốn mà thờ lậy các ảnh tượng ấy. Bây giờ quan truyền lính bắt con đem ra ngoài, rồi quan bắt anh Mới, anh Vinh, anh Úy, anh Đệ vào. Các anh ấy cũng qùi gối thờ lạy các tượng ảnh va đọc kinh Sáng Danh. Khi các anh ấy đọc gần xong kinh Sáng Danh thì quan truyền đưa con vào. Con lại thờ lây và đọc kinh Sáng Danh. Dọc chưa hết kinh thì quan lại truyền kéo con đi, nhưng con cứ ngồi lì đọc hết kinh. Thấy như vậy, quan tỏ vẻ bực tức bảo chúng con rằng:

- Chiếu chỉ vua truyền xử giảo chúng bay. Nhưng nếu chúng bay bước lên các đồ thờ này thò Ta sẽ tha cho chúng bay.Lúc bấy giờ ơn Chúa soi sáng cho chúng con nên chúng con thẳng thắn thưa lại rằng:

- Bẩm lạy quan lón! Chúng tôi thờ lạy một Thiên Chúa là Cha trên trời, là Chúa trên hết các Chúa, là Chúa rất tôn rất sáng, không có sự gì vinh hiển sánh cùng Thiên Chúa được. Chúng tôi thà chết, chẳng thà làm điều gì vô phép xúc phạm đến Chúa tôi. 

Nghe con nói như thế thì quan giận dữ nói lại rằng:

- Những người này không biết chúng ăn uống thứ gì mà ngu dại như thế này? Chúng nó không thương cha mẹ vợ con mình và ngay cả sự sống của chúng nó!

Tới đây, quan lớn làm án xin vua xử chúng con cho xong, để khỏi phải phiền hà mang lụy vì chúng con nữa”.Đến ngày 17 tháng 12 năm 1839, có chiếu chỉ của vua Minh Mạng truyền xuống xử giảo Thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu và bốn bạn của Thầy. Mặc dầu đã có án lệnh xử nhưng quan vẫn mến tiếc Thầy Mậu vì thấy Thầy thông minh, lý sự lại đẹp trai nên lại muốn cứu Thầy khỏi chết. Quan cho gọi riêng thầy Mậu và khuyên.

- Bây giờ Ta không bất nhà người phải bước lên ảnh tượng này nữa. Nhà cần nhà người bước di chung quanh cũng được, Ta sẽ tha cho về.

Thầy Hà Trọng Mậu vẫn trung thành với Chúa, nhất định không đi chung quanh tượng để chứng tỏ từ bỏ Chúa.Sáng sớm ngày 19 tháng 12 năm 1839, quan quân điệu thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu và bốn người bạn nhân chứng của Đức Tin là thầy Đa Minh Bùi Văn Úy, anh Augustinô Nguyễn Văn Mới, anh Tôma Nguyễn Văn Đệ, anh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh tiến ra pháp trường. Thầy Mậu và các bạn anh dũng bước đi theo đoàn quân lý hình một cách hân hoan, quay lại chào biệt mọi người như hiên ngang bước về miến Đất Hứa. 

Các Đấng được vui mừng đi tớI nơi xử gọi là Cổ Mễ, ngoại thành. Từng vị một bị trói chân vào cột và trói chéo hai tay ra sau lưng. Giây thừng tròng sẵn vào cổ. Mọi sự sdẵn sàng, khi chiếng trống vang lên, theo lệnh khi quan ra hiệu thì lý hình mỗI đầu giây thừng xiết thật căng, chờ tớI khi tất cả đều tắt thở, máu ứa ra đàng mũi và miệng. Sau đó lý hình lấy lửa đốt đầu ngón chân cái để xác nhận tử tội đã chết. 

Giáo dân họ Đồng Tiến đã chờ chực đêm ngày để xin xác của thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu về an táng ở họ của mình. Sau ba năm, các Đấng bề trên và giáo dân xứ Kẻ Riền xin cải táng rước về đặt tại nhà thờ giáo xứ Kẻ Riền. Khi mở quan tài ra thì thấy xác Thầy vẫn còn nguyên vẹn, và xông lên mùi hương thơm ngào ngạt.

Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã suy tôn thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu lên bậc Chân Phước ngày 27 tháng 5 năm 1900. Và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Thầy lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988.

 

Nguồn: Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam