Dân Chúa Âu Châu

BY: HOÀNG THẠCH

Sài Gòn xưa vốn được ca tụng là một Hòn ngọc Viễn Đông, sau đó, kể từ năm 1956, thành phố này trở thành Thủ đô miền Nam và ông Ngô Đình Diệm là Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa. Sài Gòn có nhiều di tích lịch sử văn hóa, nhưng trong bài này chúng tôi chỉ giới thiệu một trong các công trình kiến trúc tân tạo nổi tiếng nhất là Dinh Độc Lập, nơi cư ngụ và làm việc của Tổng thống.
Nói tới Dinh Độc Lập, người ta cũng không thể không nói tới tác giả của công trình kiến trúc tuyệt đẹp và sự phối hợp giữa hai nền kiến trúc Đông-Tây của kiến trúc sư (KTS) Ngô Viết Thụ.


1- Tiểu sử Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (1926-2000)

 

Ông Ngô Viết Thụ sinh ngày 17 tháng 9 năm 1926 tại tại làng Lang Xá, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông lập gia đình với bà Võ Thị Cơ từ năm 1948, trong khi theo học dự bị kiến trúc tại trường cao đẳng kiến trúc tại Đà Lạt. Trong giai đoạn 1950-1955, ông là sinh viên ngành kiến trúc tại trường Mỹ thuật quốc gia Paris. Năm 1955, ông nhận giải nhất giải thưởng Roma về kiến trúc, thường được gọi là Khôi nguyên La mã, và tốt nghiệp kiến trúc sư D.P.L.G. Vào đầu năm 1960, ngành qui hoạch trên toàn thế giới vẫn còn đang ở giai đoạn đầu phát triển, và tại VN lúc đó chỉ có ba người có cả hai văn bằng kiến trúc sư và văn bằng phát triển quốc gia tại nước ngoài là: KTS Huỳnh Kim Mãng (giáo sư trường cao đẳng kiến trúc Sài Gòn), KTS Lê Văn Lắm (giám đốc tổng nha kiến thiết đô thị) và KTS Ngô Viết Thụ.
Trong thời gian 1955-1958, ông lưu trú tại Biệt thự Medicis của Viện Hàn Lâm Pháp tại Roma để nghiên cứu về quy hoạch và kiến trúc. Từ năm 1960, KTS Ngô Viết Thụ về VN làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông đã tổ chức triển lãm các dự án nghiên cứu của ông ở châu Âu tại Tòa Đô Chính Sài Gòn. Chính quyền Ngô Đình Diệm rất quan tâm đến dự án nối kết Sài Gòn với Chợ Lớn của ông bằng một khu trung tâm hành chính mới. Rất tiếc là vì lý do thời cuộc, dự án này không thực hiện được.

 

Năm 1962, ông là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F.A.I.A) cùng với một số kiến trúc sư danh tiếng cùng thời của các quốc gia khác như: J.H. Van den Broek, Arne Jakobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams, Herman Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H, Jerzy Hryniewiecki và John B. Parkin…
Ông đã thiết kế nhiều công trình xây dựng giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Nổi bật nhất là Đại Chủng Viện Đà Lạt (tức Giáo Hoàng Học Viện Pio X (1957), Dinh Độc Lập (1961-1966), Viện Đại học Huế (1961-1963), Viện Nguyên Tử Đà Lạt (1962-1965), Làng Đại Học Thủ Đức (1962), chợ Đà Lạt (1962) Khách sạn Hương Giang 1 tại Huế (1962), Nhà Thờ Phủ Cam (1963), Trụ sở Việt Nam Hàng Không (1972), Trường Đại học Nông nghiệp Thủ Đức (1975), Bệnh Viện Sông Bé (1985), Khách sạn Century Huế (1990)…
Ngoài ra, ông còn chứng tỏ khả năng của mình trong lãnh vực hội họa với bức tranh Thần Tốc và bộ tranh Sơn Hà Cẩm Tú, gồm 7 bức, mỗi bức dài 2m, rộng 1m. Ông cũng có tài chơi các loại nhạc cụ như: đàn Tranh, đàn Kìm và Sáo. Ông để lại hàng trăm bài thơ và bài viết.
Sau 30.4.1975, ông bị bắt đi học tập cải tạo một năm. Ông chết tại Sài Gòn năm 2000.


2-Tiểu sử Đinh Độc Lập

 

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Năm 1867, Pháp chiếm xong 6 tỉnh Nam kỳ (Biên Hoà, Gia định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Năm 1868, chính quyền Pháp bắt đầu cho thiết kế và xây dựng tại trung tâm thành phố Sài Gòn một Dinh thự làm Dinh Thống đốc và đặt tên là Dinh Norodom. Viên đá đầu tiên được đặt khởi công cho công trình xây dựng dinh vào ngày 23.2.1868 do Đô đốc De La Grandière chủ tọa với sự tham dự của nhiều quan chức Pháp - Việt và hoàn tất vào năm 1871. Từ 1871 đến 1887, Dinh còn có tên gọi là Dinh Toàn Quyền hay Dinh Thống Soái. Từ 1887-1945 nhiều đời toàn quyền Pháp đã sử dụng Dinh này làm nơi ở và làm việc trong suốt thời kỳ xâm lược Đông Dương. Theo sách của Jules Boissère thì công trình xây dựng và trang trí mất đến 21 năm. Đến năm 1889 Dinh mới được khánh thành. Chi phí xây dựng lên đến 4 triệu Frans vàng. Vào những năm đó Dinh Norodom được xem là một Dinh thự to nhất và đẹp nhất Á Đông, với kiến trúc theo lối cổ điển Tây phương, pha chấm vài đường nét lãng mạn của thế kỷ 18-19.
Ngày 9.3.1945, Phát xít Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương, Dinh Norodom là nơi làm việc của Toàn quyền Nhật ở Việt Nam. Từ tháng 9.1945 Nhật thất bại và đầu hàng vô điều kiện trong Thế chiến II, Pháp trở lại chiếm miền Nam, Dinh Norodom trở về chủ cũ. Dinh Norrodom) được xây dựng theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư người Pháp Hermite. (Dinh Norodom)

 

Ngày 07.5.1954, Pháp thất bại nặng nề trong chiến dịch Điện Biên Phủ, phải ký hiệp định Gienève và rút khỏi Việt Nam. Việt Nam bị chia cắt thành 2 miền, miền Bắc tự tuyên bố theo chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, chịu ảnh hưởng và sự chi phối của cộng sản quốc tế, còn miền Nam theo chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đồng minh với các quốc gia trong thế giới tự do.

 

Hiệp định Genève được ký kết ngày 20.7.1954, Pháp rút khỏi Việt Nam. Ngày 07.9.1954 Dinh Norodom được bàn giao giữa đại diện chính phủ Pháp, đại tướng Paul Ely, với đại diện cầm quyền Sài gòn là thủ tướng Ngô Đình Diệm, sau đó thủ tướng Diệm quyết định đổi thành Dinh Độc Lập.
Ngày 27.2.1962, hai viên phi công quân đội Sài Gòn, thuộc phe đảo chính, là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc lái 2 máy bay AD-6 ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của Dinh. Do không thể khôi phục lại, TT. Ngô Đình Diệm đã cho san bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, người Việt Nam đầu tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã.

 

Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 01.7.1962. Trong thời gian xây dựng, gia đình TT. Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia Long. Công trình đang xây dựng dở dang thì TT. Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính giết chết ngày 2.11.1963.
Ngày khánh thành Dinh là ngày 31.10.1966. Người chủ tọa buổi lễ là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo quốc gia. TT. Ngô Đình Diệm là người khởi xướng xây dựng Dinh Độc Lập nhưng ông không được sống ở đây ngày nào. Người sống ở Dinh Độc Lập lâu nhất lại là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, từ tháng 10.1967 đến 21.4.1975.

 

10 giờ 45 ngày 30.4.1975 xe tăng mang số hiệu 843 của VC đã húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập, tiếp đó xe tăng mang số hiệu 390 đã húc tung cổng chính tiến thẳng vào Dinh. 11 giờ 30 cùng ngày, trung úy quân Bùi Quang Thận, đại đội trưởng chỉ huy xe 843 đã hạ lá cờ VNCH trên nóc Dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam lên. Cũng chính vào giờ phút này, tổng thống cuối cùng của VNCH là Dương Văn Minh cùng toàn bộ Nội các của chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

 

Năm 1976 Dinh Độc Lập được nhà cầm quyền CSVN công nhận là "Di tích lịch sử văn hóa" do Quyết định số 77A/VHQĐ ngày 25.6.1976. Sau hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc, Dinh Độc Lập bị đổi tên là hội trường Thống Nhất hay Dinh Thống Nhất. Cơ quan hiện nay đang quản lý di tích lịch sử văn hoá Dinh Độc Lập thuộc Cục Hành chính Quản trị II  - Văn phòng Chính Phủ.


3-Cấu Trúc Dinh Độc Lập

 

Dinh có 04 khu nhà:

 

-Khu nhà chính hình chữ T diện tích mặt bằng là 4.500m2, cao 26m, nằm ở vị trí trung tâm của khu đất. Đây từng là nơi ở và làm việc Tổng thống chế độ Sài Gòn. Khu này có 03 tầng lầu, 2 gác lửng, 1 sân thượng, 1 tầng nền và 1 tầng hầm. Tổng diện tích sử dụng là 20.000m2 chia làm 95 phòng. Mỗi phòng có 1 chức năng riêng, kiến trúc và các trang trí phù hợp với mục đích sử dụng của mỗi phòng. Sau 1975, khu nhà chính này tiếp tục được sử dụng một số phòng, còn lại để phục vụ du khách tham quan.

 

-Khu nhà 2 tầng diện tích 8mx20m phía đường Nguyễn Du trước 1975 là trụ sở làm việc của đảng Dân Chủ. Sau năm 1975 đến nay là nơi làm việc của Ban giám đốc Hội trường Thống Nhất.

 

-Khu 04 nhà 2 tầng phía góc đường Nguyễn Du - Huyền Trân Công Chúa trước 1975 là khu nhà ở của tiểu đoàn bảo vệ Dinh Độc Lập. Sau 1975 là nơi ở của đại đội 1 trung đoàn cảnh vệ 180. Hiện nay nơi đây là khu nhà khách của văn phòng Chính phủ.

 

-Khu nhà trệt phía góc đường Huyền Trân Công Chúa - Nguyễn Thị Minh Khai, trước 1975 là khu sinh hoạt của đội cận vệ phi hành đoàn lái máy bay cho TT. Nguyễn Văn Thiệu, của bộ phận chăm sóc sân vườn. Hiện là khu nhà nghỉ trưa và bếp ăn tập thể của cán bộ công nhân viên hội trường Thống Nhất.
Ngoài các khu nhà trên, ở góc trái Dinh phía đường Nguyễn Thị Minh Khai còn có một nhà bát giác đường kính 4m, xây trên một gò đất cao, chung quanh không xây tường, mái ngói cong cổ kính làm nơi hóng mát, thư giãn. Xen giữa 04 khu nhà trên là những bãi cỏ xanh, vườn cây cổ thụ, những chậu cây kiểng quí và 04 sân tenis phía sau.
Tổng số các phòng trong toàn Dinh là 95, không kể các khu vực hành lang, khách sảnh và vệ sinh. Các phòng lớn liên quan tới ngoại giao trong nước và nước ngoài đặt ở tầng trệt, lầu 1 và 2.

 

Toàn thể bình diện của Dinh làm thành hình chữ CÁT, có nghĩa là tốt lành, may mắn. Tâm của Dinh là vị trí phòng Trình quốc thư. Lầu thượng là Tứ phương vô sự nên lầu có hình chữ KHẨU để đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU có cột cờ chính giữa sổ dọc tạo thành hình chữ TRUNG như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, bao lơn danh dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM. Theo quan niệm "dân chủ hữu tam: viết nhân, viết minh, viết võ", ý mong muốn một đất nước hưng thịnh thì phải có những con người hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba nét gạch ngang này được nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ VƯƠNG. Trên có kỳ đài làm thành nét chấm tạo thành hình chữ CHỦ, tượng trưng cho chủ quyền đất nước. Mặt trước của dinh thự toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu 3 kết hợp với mái hiên lối vào chính cùng 2 cột bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ HƯNG, ý cầu chúc cho nước nhà được hưng thịnh mãi.

 

Về tiền diện của dinh (gồm mái hiên bao lơn, bao lơn danh dự và mái hiên lối vào chính) hợp lại thành chữ Tam lấy từ câu: "dân chủ hữu tam: viết nhơn, viết minh, viết võ". Chữ Tam được nối bằng một nét cổ giữa hợp với nét chấm của kỳ đài phía trên làm thành chữ Chủ, ý muốn nói tòa nhà tượng trưng cho chủ quyền quốc gia. Ngoài ra thượng đình nơi Tứ phương - vô sự lâu, hình chữ Khẩu và cột cờ làm nét sổ dọc để tạo thành chữ Trung. Phía dưới toàn bộ bao lơn với những hàng cột kép, hợp với mái hiên lớn lối vào và hai cột bọc gỗ dưới mái hiên để tạo thành chữ Hưng, ý cầu chúc cho nước nhà hưng thịnh lên mãi. Đi vào bên trong dinh tất cả các đường nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ thẳng, các hành lang, các đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu "Chính đại quanh minh" làm gốc.

 

Vẻ đẹp kiến trúc của Dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa đá mang hình dáng những đốt trúc thanh tao bao xung quanh lầu 2. Rèm hoa đá được biến cách từ bức cửa bàn khoa của các cung điện cố đô Huế không chỉ làm tăng vẻ đẹp của Dinh mà còn có tác dụng lấy ánh sáng mặt trời.
Đi vào bên trong Dinh, tất cả các đuờng nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ thẳng, các hành lang, đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu "chính đại quang minh" làm gốc. Các phòng làm việc và tiếp khách được trang trí lộng lẫy bằng các bức tranh biểu tượng cho nghệ thuật mang mầu sắc vừa Phong kiến vừa Tôn giáo. Ghế ngồi của Tổng thống đặt trên một đế cao khiến người ta liên tưởng đến Ngai Vua đặt trên sập rồng. Có những bức tranh do chính KTS tự vẽ cho phù hợp với lối kiến trúc độc đáo của ông.
Một trong các công trình đặc biệt phải kể tới kỹ thuật sử dụng ánh sáng mặt trời vào các phòng bằng các tấm trang trí (claustras) bằng bê-tông đặt đứng cạnh nhau ở mặt tiền, hình chữ V, được sắp đặt thế nào để khi tia nắng chiếu vào tấm này thì ánh sáng hắt qua tấm bên cạnh rồi phản chiếu vào hành lang, nên không bị chói mắt. Có chỗ ánh sáng được lọt vào như những vệt sáng thưa, vạch thành đường sáng trên nền nhà lát đá hoa tạo nên cảnh sắc kỳ diệu.

 

Sân trước của Dinh là một thảm cỏ hình oval có đường kính 102m. Màu xanh rì của thảm cỏ tạo ra một cảm giác êm dịu, sảng khoái cho khách ngay khi bước qua cổng.
Chạy dài theo suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt. Trong hồ thả hoa sen và hoa súng gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các ngôi đình, ngôi chùa cổ kính của Việt Nam.
Dinh có diện tích 120.000m2 (300m x 400m), được giới hạn bởi 4 trục đường chính: Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Công Lý cũ) ở phía Đông Bắc (mặt chính của Dinh); Huyền Trân Công Chúa ở phía Tây Nam (mặt sau của Dinh); Nguyễn Thị Minh Khai (Hồng Thập Tự cũ) ở phía Tây Bắc (phía bên trái Dinh); Nguyễn Du ở phía Đông Nam (phía bên phải Dinh).

 

Năm 1982, Hội Kiến trúc Liên-sô được KTS Ngô Viết Thụ mời sang quan sát đã ca ngời công trình tuyệt mỹ Dinh Độc Lập, một kiến trúc phối hợp nghệ thuật Đông-Tây toàn hảo, một biểu tưởng của ngành kiến chúc dân tộc Việt Nam. Ba tấm hiên bằng bê-tông cốt thép ở mặt chính Dinh được coi là biểu tượng đạo lý của TT. Ngô Đình Diệm với ba gạch ngang của Quốc kỳ hình quẻ Ly.    

 

Tòa nhà được khởi công xây dựng ngày 1.7.1962 và được khánh thành ngày 3.10.1966. Theo đồ án, tòa nhà có diện tích xây dựng 45.000 m2 (rộng 21 gian 85m, sâu 19 gian 80m). Diện tích mặt sàn sử dụng khoảng 20.000m2, gồm ba tầng chính, hai gác lửng, một sân thượng (có sân bay trực thăng) và một tầng nền. Tổng số các phòng trong toàn dinh là 95 phòng, không kể các khu vực vệ sinh, hành lang và khách sảnh. Các phòng lớn bố trí cho các công việc đối nội, đối ngoại nằm ở các tầng trệt và lầu 1, lầu 2. Trang trí trong dinh có nhiều bức họa của những danh họa có tiếng đương thời. Bức "Giang sơn cẩm tú" của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, bức "Khuê văn các", "Vua

 

Trần Nhân Tông" của họa sĩ Thái Văn Ngôn.

 

Đặc biệt ở phòng trình quốc thư có bức "Bình Ngô đại cáo" (của Nguyễn Trãi viết trong thời giúp Lê Lợi chống giặc Minh), một bức tranh sơn mài lớn gồm 40 bức tranh sơn mài nhỏ ghép lại, tả cảnh sinh hoạt của nhân dân Việt Nam dưới thời Lê của họa sĩ Nguyễn Văn Minh. Ngoài ra còn bức tranh "Giang Sơn Cẩm Tú" của KTS Ngô Viết Thụ; bức "Khuê Văn Các" (Vua Trần Nhân Tông) của họa sĩ Thái Văn Ngôn.
KTS. Ngô Viết Thụ cho biết: phí tổn xây dựng Dinh Độc Lập tốn khoảng 150.000 lượng vàng và mỗi quân nhân, nhân viên chính quyền thời ấy phải đóng góp mỗi người một ngày lương. Một vài số liệu về vật liệu đã sử dụng: bê-tông cốt sắt độ 12.000m3, gỗ quí 200m3, kính làm các cửa 2.000m2, đá rửa và đá mài 20.000m2...

Tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa VI, ngày 25.6.1976 dinh Độc Lập đã được đổi tên thành Hội trường Thống Nhất và được đặc cách xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa theo quyết định số 77A - VHQĐ ngày 25.6.1976.    n
-------
Tài liệu tham khảo:

-Tài liệu của Dinh Độc Lập
-http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_Vi%E1%BA%BFt_Th%E1%BB%A5
-http://www.simonhoadalat.com/DIAPHAN/Ditich/piox.html
-http://vi.wikipedia.org/wiki/Dinh_Th%E1%BB%91ng_Nh%E1%BA%A5t
 (Giáo Hoàng học viện - Đại Chủng Viện Đà Lạt (1957