*Theo cuốn “danh nhân đất Kinh Bắc”, Nguyễn Nghiêu Tư còn có tên gọi khác là Nguyễn Văn Trư và tên gọi dân gian là Trạng “Lợn”. Ông có hiệu là Tùng Khê người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc. Tương truyền lúc nhỏ theo cha làm nghề thịt lợn, lại đẻ vào tháng 10 (tháng Hợi) nên đặt tên là Nguyễn Văn Trư và thường gọi là cậu Lợn (chữ Hán “trư” nghĩa là lợn). Từ nhỏ, Nguyễn Nghiêu Tư đã nổi tiếng là người ham học, hiểu sâu. Thời đó, ở cạnh làng ông là làng Yên Đinh đất học, một hôm có cụ đồ sang chơi và ra cho trạng vế đối, mang đề tài lợn:’Lợn cấn ăn cám tốn’. Nghĩa là lợn có chửa ăn hết nhiều cám nhưng Cấn và Tốn là hai quẻ trong bát quái. Trạng đối ngay:’Chó khôn chớ cắn càn’.
Câu đối xấc xược làm cụ đồ cay đắng, song vế đối chỉnh quá, chó khôn đừng cắn bậy, mà Khôn và Càn cũng là hai quẻ trong bát quái. Cụ đồ khuyên bố mẹ Trư cho Trư đi học. Chính cụ đồ bị ông đối xược ấy đã nhận dạy ông năm mới 8 tuổi, ông học rất giỏi, nghe một biết mười, lễ phép, chuyên cần. Khi ở nhà, lúc nào ông cũng chăm lo đèn sách, khi ra ao rửa bèo, ra vườn hái rau, tay vẫn cầm cái que nhọn vạch xuống đất hoặc viết vào lá chuối, lá khoai những chữ khó nhớ. Đến khi “biết chữ”, thầy đồ gửi ông ra học cụ Vũ Mộng Nguyên, người xã Đông Sơn, huyện Tiên Du, đỗ Thái học sinh và không làm quan nhà Hồ mà về dạy học. Ông là học trò tiêu biểu nhất của cụ Vũ Mộng Nguyên, đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1448) niên hiệu Thái Hòa năm thứ 6 đời vua Lê Nhân Tông. Ông được nhà vua đổi tên là Nguyễn Nghiêu Tư.
Năm 1459, Lê Nghi Dân giết vua tiếm vị, sai ông đi sứ cầu phong. Khi sang, Minh hạch rằng: Sao lại dám giết em mà tranh ngôi vua? Nghiêu Tư trả lời: Đường Thái Tông giết cả anh là Kiên Thành, em là Nguyên Cát là việc cũ của thiên triều, thì việc nước tôi ngày nay có gì là lạ? Thấy sứ thần Đại Việt trả lời rất đúng lý, vua nhà Minh đành nhận phong vương. Khi đoàn sứ thần ta tới ải Nam Quan, viên coi cửa ải nhà Minh ỷ thế nước lớn, ngạo mạn treo lên cửa quan một chữ thập lớn bằng gỗ mà không mở cửa đón tiếp. Trạng nói: Ý các người muốn coi người Minh là “tung hoành vũ trụ”. Đã vậy thì Đại Việt ta đây “bao quát càn khôn”, sai người bện một cái vòng tròn lớn bằng lụa tết mắc lên đầu chữ thập, cả chữ thập lọt trong vòng tròn ấy.
Viên quan coi ải khiếp phục, mở cửa nghênh tiếp sứ giả. Vào đến Yên Kinh, Trạng vào yết kiến vua Minh. Nhà vua muốn thử tài sứ giả, ngầm sai trong hoàng cung quán lịch sự, đề hai chữ Kính Thiên treo ở giữa, bày đôi sập thất bảo rất cao, xung quanh đặt nghi vệ sang trọng như chỗ giường ngủ của thiên tử, để xem Trạng có dám ngồi đó không. Khi sắp yến tiệc, họ đưa Trạng và phó sứ dạo thăm cung điện rồi mới đưa đến đấy. Trạng bèn bảo phó sứ cùng ngồi lên sập thất bảo. Thấy vậy, quan nhà Minh ra hoạch: Cớ sao sứ thần lại ngược ngạo, vô lễ đến như vậy? Không trông lên trên kia xem, chỗ này là chỗ gì? Trạng bình thản trả lời:
- Dám thưa, ngài lấy cớ gì cho sứ thần tôi là ngạo? Biển đề hai chữ Kính Thiên, chiết tự ra là kính nhị nhân (chữ thiên là trời, tách ra là hai chữ nhị nhân là hai người) thực hẳn là ý bản quốc muốn đem cái ngôi này mà hậu đãi sứ thần xa lạ. Ngài dạy thế chúng tôi quyết không chịu. Vả nghe cổ nhân có nói: Đãi người phương xa cốt lấy bụng thực. Tôi nghe Thánh triều lấy thành tín đãi người ngoại quốc. Thế mà sứ giả nước xa tới lại đem cái bụng trí thuật làm oai. Tôi sợ người ta nghe tiếng dẫu có lòng thực hướng mộ cũng sinh nghi mà không lại nữa.
Viên quan nhà Minh thấy Trạng nói chẻ hoe như đã rõ gan ruột từ trước, nên vội vàng:
- Xin quý ngài xá lỗi. Nghĩ là buổi ban đầu,thử xem ngài có phải là bậc tài giỏi không thôi. Nhưng quý ngài quả là bậc thông minh, đã giỏi mà biết trước được như thế còn hề chi?
*Đầu năm Kỷ Hợi đọc chuyện trên, ta thấy nước Việt Nam xưa thật lắm nhân tài.
Không chỉ những người học cao hiểu rộng, thi đỗ Trạng Nguyên vinh qui về làng, rồi làm quan lớn. Trong các Trạng văn có nhiều người nổi tiếng như Trạng Trình Nguyễn bỉnh Kiêm hay Trạng Quỳnh… Nhưng cũng có nhiều người đủ mọi giai tầng xã hội, không phân biệt tuổi tác, ít học nhưng nổi bật về bất cứ phương diện nào đều được trọng dụng như Trạng Võ Mạc đăng Dung với cây đại đao, đánh nam dẹp bắc sáng lập nhà Mạc. Trạng Ăn Lê như Hổ, ăn khỏe như hổ, sức mạnh vô địch làm đến chức thượng thư. Trạng Thần Đồng Nguyễn Hiền mới 12 tuổi, xuất khẩu thành thơ…Và trong số đó phải kể đến Trạng Lợn, học không nhiều nhưng thông minh, có tài đối đáp, nên được cử đi xứ khiến vua quan Tàu phải nể phục phong là Trạng Nguyên lưỡng quốc.
Thế mà nhiều người lại khinh chê những ai tuổi Hợi và bị gán ghép những tính xấu của Lợn nào là :
Ngu như lợn, bẩn như heo, tham ăn và lười biếng chỉ nằm ì một chỗ chưa đến giờ ăn đã réo gọi inh ỏi.
Nhưng trái lại theo tử vi tướng số thì người tuổi Hợi lại an nhàn, sung túc, hiền lành, tuy chậm chạp nhưng an phận dù về hạng chót trong cuộc thi marathon của 12 con giáp do Ngọc Hoàng tổ chức.
Và cũng vì những ưu điểm được con người cho sống gần gũi trong số Lục súc gia gồm : trâu, ngựa, chó, dê, gà và lợn.
Lợn còn gọi là heo, hợi, trư, thỉ, ủn. Hàng ngàn năm trước Công nguyên là heo rừng rất hung dữ, được người thuần hóa thành gia súc. Heo thường có 2 màu đen trắng, đôi khi điểm đốm vàng, nâu. Lông heo cứng làm bàn chải, da làm bóng bầu dục. Heo có giống chỉ nặng từ 10 đến 15 kg như heo mọi VN. Có giống 3 hay 400 kg như heo Mỹ Duroc, Yorkshire, Wattle…Kỹ nghệ nuôi heo tại Mỹ rất qui mô với hàng trăm ngàn trại chăn nuôi khắp các tiểu bang, cung cấp thịt trong nước và xuất khẩu heo sống hay thịt sang nhiều nước. Nên ‘đỉnh cao trí tuệ’ sợ mất thời cơ cho Công ty Kỹ nghệ Gia súc VN tháng 9/16 vội vàng nhập hơn 100 giống heo Mỹ, vì thấy heo VN quá nhỏ, như giống heo Ba Xuyên nặng nhất chỉ trên dưới 100kg thôi. Ngày nay nghề chăn nuôi heo đang phát triển và tiến bộ hơn trước kia khi các cán ngố mới chiếm được Miền Nam đã ‘tranh thủ’ nuôi heo trên cả các tầng trên chung cư và dội nước dơ bẩn ào ào xuống các căn nhà tầng dưới ! ( Viết đến đây, tôi mỉm cười nhớ đến trong chiến cuộc VN tôi thường sống gần quân đội Đồng Minh, có
một lần tôi thấy những chàng lính Mũ Nồi Xanh Hoa Kỳ cười vang lùa con heo Yorkshire kềnh càng như bê con lên trực thăng đưa đến tiền đồn Biên phòng trao tặng gia đình Biệt Kích Thượng để gây giống )
Thịt heo là thực phẩm khoái khẩu của nhiều nước và được biến chế làm xúc xích, dăm bông, lạp xưởng…
Riêng VN nghệ thuật ẩm thực cao hơn biến thành những món ăn đặc sắc như :
-Thịt ba chỉ xiên nướng- Thịt tai heo ướp ngũ vị hương- Thịt chiên dòn sốt dừa- Sườn nướng kiểu BBQ-
Thịt nấu chua ngọt. Cách pha chế các món này, chắc các bà nội trợ có chồng là những tay sành nhậu phải rành hơn- Đây là những món ngon làm tại nhà, còn đi nhà hàng tại VN ngày nay thì không bảo đảm, vì có thể là heo dịch bệnh đã bị chôn xuống hôi thối lại được đào lên, ngâm hóa chất, bôi màu, tẩm ngũ vị hương, trông hấp dẫn nhưng ăn vào rất nguy hại sức khỏe. Nói đến tuyệt kỹ pha chế các món ăn độc hại chết người thì không nước nào qua mặt được Trung Cộng. Vì thế, nước này có một món thịt độc đáo mang tên ‘Heo Avatar’ chiếu sáng màu xanh da trời như những nhân vật trong phim giả tưởng nổi tiếng
Avatar vài năm mới đây. Tin mới nhất đầu năm 2019, dịch bệnh sốt heo châu phi đã bung phát tại 24 tỉnh Trung cộng và còn tiếp tục lan qua các tỉnh khác. Những ngày gần Tết Kỷ Hợi hàng hóa Tàu cộng tràn ngập sang Việt Nam, nhất là thực phẩm chắc chắn trong đó có heo dịch bệnh được biến chế thành khô heo, thịt heo đóng hộp, xúc xích… nên bà con trong nước hay từ nước ngoài về vui Xuân phải đặc biệt lưu tâm.
Truyện về heo rất phong phú trong văn chương kim cổ Đông Tây :
-Trư Bất Giới trong Tây Du Ký xuất thân là nguyên soái trên thiên đình, vì mê sắc đẹp Hằng Nga làm vẩn đục Thiên đình, bị Thiên Hoàng đầy xuống trần mang hình nửa người nửa lợn, nhưng có phép thần thông biến hóa, phò sư phụ Đường Tăng đi thỉnh kinh bên Tây Trúc.
-Trong Hy lạp cổ đại, heo là vật được nữ thần Demeter yêu chuộng và thiên sử thi Odyssey mô tả đoàn thủy thủ bị nữ thần Cirle biến thành heo.
-Cũng trong thần thọai Hy Lạp, kể truyện anh hùng vô địch Hercules theo lệnh vua đi bắt con heo rừng có sức mạnh kinh hồn hổ báo đều né sợ. Anh chàng Hercules đã lập mưu bắt được quái thú hoàn thành sứ mệnh được trao phó.
-Chắc ít người biết đến tên viết tắt của Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ US là Uncle Sam (Chú Sam), người đã tiếp tế nhiều thùng thịt heo cho Quân đoàn Mỹ.
-Trong truyện ‘Trại Súc Vật- Animal Farm’ của nhà văn Anh George Orwell heo trở thành thủ lãnh, tác giả ám chỉ trong một xã hội đầy thú tình, kẻ ngu đần và bẩn thỉu nhất lại tiếm quyền để lãnh đạo.
-Truyện cổ tích nổi tiếng Anderson, có truyện ‘Con lợn ống’ dạy đời là kẻ giàu sang thường tự phụ.
- Wang Yunmei với tác phẩm ‘Pigs on the Loose : Chinese Tour Groups’ (Lũ lợn xổng chuồng: Bọn du khách Tàu), dơ bẩn, ồn ào, bỉ ổi, đi đến quốc gia nào, nhất là tại Thái Lan,Việt Nam và mới đây tại các nước như Đức, Nhật, Pháp…tại các nhà hàng, tiệm ăn cũng viết cảnh báo bằng tiếng Trung Hoa như một cách chê bai khinh bỉ bị. Thật mỉa mai cay đắng nhưng chí lý !
-Nhà tranh đấu Lưu hiểu Ba, giải Nobel Hòa bình 2010, trong tác phẩm ‘Triết lý con heo’, ông lên án giới trí thức Trung cộng bán linh hồn cho quỉ dữ, tự nguyện đi vào chuồng heo để được vỗ béo yên thân, trốn tránh trách nhiệm bênh vực người bị đàn áp.
-Việt Nam có truyện rất lý thú Lục Súc tranh công phản ảnh sự tranh chấp công trạng của 6 quan đứng đầu Lục bộ, trong đó quan Heo đã kể công trạng mình :
-Kìa những việc hôn nhân giá thú,
Không heo ra tính đặng được chi ?
Việc hòa giải heo đầu công trạng,
Trông mặt heo nguôi dạ oán thù.
-Cụ Nguyễn Khuyến vói lời thơ chân tình dân giả hỏi thăm bạn sau cơn lụt lội :
Ai lên nhắ hỏi bác châu Cầu,
Lụt lội năm nay bác ở đâu ?
Mấy ổ lợn con rày lớn bé,
Vài gian nếp cái ngập nông sâu ?
-Đặc biệt câu truyện ngụ ngôn dạy đời về ‘Ba chú heo con’ rời mẹ ra ở riêng :
Chú đầu làm nhà bằng rơm, bị con sói dữ đến phá và ăn thịt.
Chú thứ hai dựng nhà băng gỗ, cũng bị sói đến phá ăn thịt.
Chú thứ ba rút kinh nghiệm khôn hơn xây nhà gạch chắc chắn, nhưng sói ta vẫn không tha đến phá phách không làm gì được, liền chui ống khói đột nhập vào nhà. Nhưng sói ta bị mắc bẫy rơi vào chảo nước sôi mà chú heo ba đã đặt sẵn và bị ăn thịt. ( Thật là ‘quả báo nhãn tiền’, có thể làm bài học cho bọn tà quyền CSVN đã dùng nhiều âm mưu thâm độc hại người và các phe đối lập, rồi trước sau sẽ phải lãnh hậu quả thảm khốc.)
Heo còn xuất hiện trong tín ngưỡng và phong tục :
-Hy lạp thời thượng cổ, heo được tôn là nữ thần cai quản mùa màng.
-Heo là biểu tượng Nữ thần Diana quyền năng thời cổ La-Mã.
-Thần Visnu trong Ấn Độ giáo dạy heo hành hiệp cứu độ chúng sinh.
-Trong Kinh Thánh có 2 truyện liên quan đến heo : Truyện người con út bắt cha chia gia tài, rồi trảy đi phương xa ăn chơi phung phá hết tiền bạc phải đi chăn heo, đói khát thèm cả đồ ăn của heo, hối hận quay về và được cha tha thứ đón mừng- Và truyện Chúa chữa người bị quỉ ám, cho bày quỉ nhập vào đàn heo lao xuống biển.
-Đạo Hin-đu Ấn Độ, Do Thái giáo và trong kinh Co-ran Hồi Giáo đều cấm ăn thịt heo.
-Heo đất bỏ giành tiền tượng trưng tài chính lúc nào cũng có.
-Đội thể thao Đại học Arkansas lấy biểu tượng may mắn là Lợn Lòi (Sus scrofa)
-Đội bóng thiếu niên Thái Lan có biệt hiệu Lợn Rừng, bị nước dâng mắc kẹt trong hang Tham Luang làm xôn xao dư luận, đã được giải cứu sau 18 ngày nhờ sự giúp đỡ tận tình của nhiều nước.
-Tiểu quốc Belize nằm ở Bắc Trung Mỹ, dân số chưa được nửa triệu đã lấy biểu tượng là Lợn Vòi Baird, một loại lợn đặc biệt chỉ có ở Trung Mỹ.
-Nước Vanuatu gồm trên dưới 80 đảo nhỏ, nằm phía tây nam Thái Bình Dương. Người Việt xưa kia gọi là Tân Đảo, khi thực dân Pháp mộ phu Đông Dương (trong số đó có nhiều người Việt) đưa qua canh tác đồn điền. Người dân bản xứ rất tôn kính heo Kapia không có lông cho là rất linh thiêng, nên chiếc nanh heo nổi bật trên quốc kỳ và quốc huy.
Tại nước Cờ Hoa, mỗi tiểu bang đều có lá cờ biểu tượng riêng. Bang Cali đông dân nhất nên cũng nhiều chuyện lạ nhất, nên nhiều người nhìn vào lá cờ Cali có hình chú gấu, họ lại nói là giống chị heo hơn. Thiết tưởng muốn rõ trắng đen ta nên hỏi cao kiến của các cụ ông cụ bà Dân chủ trong lưỡng viện là tốt nhất.
-Người Miên tại VN đeo nanh được các pháp sư yểm bùa để hộ mênh- Tôi chợt nhớ đến anh hạ sĩ người Miên cùng đơn vị trước kia, luôn mang chiếc nanh heo như bùa hộ mệnh, vì thế mỗi khi chạm địch anh thường ôm khẩu trung liên xông lên phía trước ria xối xả về phía Cộng quân. Sau mỗi chuyến hành quân về hậu cứ dưỡng sức, chúng tôi thường ngồi vòng quanh bình ‘nước mắt quê hương’ với vài con khô mực. Kể cho nhau những chuyện vui buồn đời lính và mong ước đất nước sớm thanh bình về sống yên vui cùng gia đình. Anh hạ sĩ luôn khoe chiếc nanh heo đã được pháp sư yểm bùa đạn không thể bắn trúng. Nhưng buồn thay, một thời gian sau khi đổi qua đơn vị khác, tôi được tin anh đã gục ngã khi ước vọng chưa thành-
Trong nước ngày nay, các đại gia và bọn tư bản đỏ học làm sang, sưu tầm nanh heo vòng cong như ngà voi để hộ mệnh vì tin sẽ gặp nhiều điều may mắn.
-Tranh Đông Hồ vẽ lợn mẹ với bày con diễn tả cảnh sung mãn, thường được treo trong dịp Tết mong cuộc sống quanh năm được sung túc.
-Nhưng tục lệ không thể thiếu trong hôn lễ VN, khi các anh chàng nhà trai trịnh trọng khiêng mân bọc vải đỏ trên có con heo quay vàng bóng thật hấp dẫn tiến vào nhà gái.
-Có lẽ vì tục lệ này mà nảy sinh câu chuyện tình mộc mạc chân quê của đôi trai gái nơi hương đồng cỏ nội qua câu chuyện ‘giả vờ quên áo’ như sau :
-Hôm qua tát nước bên đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen,
Em được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà,
Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu,
Áo anh sứt chỉ đã lâu.
Mai mượn cô ấy vào khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công,
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho,
Giúp em một thúng xôi vò,
Một con lợn béo, một bầu rượu tăm,
Giúp em đôi chiếu em nằm,
Đôi chăn em đắp, đôi vòng em đeo,
Giúp em quan tám tiền treo,
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Và cũng từ đó nhạc sĩ Hoàng thi Thơ đã ngẫu hứng sáng tác bản nhạc ‘Đám cưới trên đồng quê’ với lời thơ ý nhạc thật là vui nhộn :
Chà ! Nhà ai có ông rể quí,
Chà ! Nhà ai có cô dâu hiền,
Ồ ! Ngộ thay có con lợn quay…
-Còn đây là sự khác biệt về ngôn ngữ giữa 2 niền Bắc Nam mà Trần việt Hải đã so sánh dỉ dỏm như sau :
Heo sinh ở Miền Bắc còn lợn sinh tại Miền Nam- Heo ăn bắp lợn thì ăn ngô- Da heo không làm bánh ở Miền Bắc, nhưng da lợn Miền Nam lại làm bánh được ( bánh da lợn).
-Chúng ta đã từng nghe nói đến 1 sự kiện đặc biệt mang tên ‘Vinh con Heo’ tại Cuba. Ngày 17/4/1961, người dân Cuba sống lưu vong tại Hoa Kỳ đã được CIA huấn luyện và hỗ trợ đổ bộ lên Bay of Pigs (Vịnh Con Heo) để lật đổ tà quyền độc tài Fildel Castro nhưng không thành công.
-Những ngày trước Tết Quí Hợi năm nay, nhiều nước Á châu cho in tiền lì xì có hình con heo.
Tại đất Kỳ Hoa cũng phát hành tiền lì xì 2 đô chung niềm vui tuổi Xuân với chị Hợi.
Heo sống gần gũi với dân quê VN và đóng góp phần thu nhập trong cuộc sống nên xuất hiện đa dạng qua tục ngữ ca dao :
-Đầu gà má lợn – Nói toặc móng heo-Treo đầu heo, bán thịt chó.
- Thao láo như mắt lợn luộc- Lấc cấc như quạ vào chuồng lợn.
-Mua heo chọn nái, mua gái chọn dòng- ----Chăn lợn ba năm, không bằng chăn tằm một lứa.
-Mèo ăn thịt mỡ ồn ào, cọp tha con lợn thì nào thấy ai !
-Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo cỗ lòng mới ngon.
-Con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi.
-Tai heo riềng, thính, tỏi mè; các nguyên liệu chính mới nghe đã thèm.
- Nuôi heo thì phải vớt bèo. Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng.
-Chăn nuôi vừa khéo vừa khôn, quanh năm gà lợn xuất chuồng quanh năm.
-Người ta thách lợn thách gà, nhà em thách cưới một nhà khoai lang.
-Cưới em anh nghĩ cũng lo, con lợn chẳng có con bò thì không.
-Còn duyên anh cưới ba heo, hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi.
-Một vợ nằm giường lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ ra chuồng heo mà nằm.
-Ba bà đi bán lợn con, lon ton chạy về. Ba bà đi bán lợn xề, chạy về lon ton.
-Dịch heo nối tiếp dịch gà, bao giờ dịch Đảng cho bà con vui.
-Xuân này khác hẳn những xuân qua,
Tà quyền sốt vó khắp nước nhà,
Chó đi chị lợn tà tà đến,
Cơ đồ Việt cộng sắp ra ma ! (Ca dao ‘thời đồ đểu’ học đòi hồ tặc chúc Tết nhân dân miền Bắc năm xưa)
-Còn đây là câu đối người dân tặng ‘Đỗ Mười thời đại đồ đểu’ :
Hoạn lợn vào ‘hoạn lộ’ làm khổ lương dân,
Đỗ Mười quá ‘đỗ đạt’ bán đứng giống nòi.
……………………………
Xin trưng dẫn vài nhân vật tuổi hợi nổi tiếng lãnh đạo đất nước :
-Thomas Jefferson : sinh năm Quí Hợi 1743, Tổng thống thứ 3 Hoa Kỳ, đa tài, có sức lôi cuốn.
-Andrew Johnson : sinh năm Đinh Hợi 1767, Tổng thống thư 7 Hoa Kỳ, kiên trì và có đầu óc sáng tạo.
-Ronald Reagan : sinh năm Tân Hợi 1911, Tổng thống thứ 40 Hoa Kỳ, nhiều tuổi nhất và đa tài, cương trực, có công làm sụp đổ chế độ Cộng Sản cùng với Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II.
-Simon Perez : sinh năm Quí Hợi 1923, Tổng thống và 2 nhiệm kỳ Thủ tướng Israel, nhận giải Nobel Hòa bình 1994, một chính trị gia xuất sắc.
-Lý Quang Diệu : sinh năm Quí Hợi 1923, Thủ tướng Singapore, cha đẻ đất nước, người có công xây dựng từ 1 thành phố trở thành trung tâm kinh tế giàu có nhất Châu Á.
Nói đến heo, ta không thể quên những Năm Hợi nổi bật trong lịch sử Việt Nam :
-Năm Kỷ Hợi 39 : Hai vị Nữ Anh Hùng Dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị, mở đầu kỷ nguyên nổi dậy chống giặc ngoại xâm. Hai Bà xưng vương, đóng đô tại Mê Linh, được toàn dân hưởng ứng, phá tan đạo quân nhà Đông Hán do mãnh tướng Mã Viện cầm đầu, chiếm lại 65 thành trì do địch chiếm giữ.
-Năm Quí Hợi 543 : Lý Bôn còn gọi là Lý Bí, khởi nghĩa đánh tan quân xâm lược Tầu, lên ngôi là Lý Nam Đế, xưng quốc hiệu Vạn Xuân.
-Năm Kỷ Hợi 939 : Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng khai sáng nhà Ngô tức Tiền Ngô Vương.
-Năm Tân Hợi 951 : Đinh bộ Lĩnh dẹp yên 12 xứ quân, thống nhất sơn hà, lên ngôi tự Đinh Tiên Hoàng, lập đô tại Hoa Lư.
-Năm Ất Hợi 1275 : Vua Thánh Tông phá tan quân Nguyên Mông lần thứ hai.
-Năm Đinh Hợi 1287 : Chiến thắng oanh liệt của Hưng Đạo Vương phá tan quân Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng.
-Năm Tân hợi 1311 : Vua Trần Anh Tông thân chinh cùng 2 tướng là Trần Quốc Chân và Trần Khánh Dư
dẹp yên quân Chiêm Thành.
-Năm Đinh Hợi 1419 : Các sĩ phu Lam sơn khởi nghĩa do Bình Định Vương Lê Lợi lãnh đạo đánh đuổi quân Minh, giành độc lập cho Đại Việt mở đầu nhà Hậu lê.
-Năm Đinh Hợi 1911 : Ngày 5/6/1911 Nguyễn tất Thành tức Hồ chí Minh, lên làm bồi tàu Latouche Treville, rời bến Nhà Rồng qua Pháp, mở đầu hành động bán nước cho Nga Tàu, bôi nhọ trang sử VN.
Để kết thúc chuyện lan man về Heo năm Kỷ Hợi xin mượn những câu
nói nổi tiếng về heo sau đây :
-“ Bởi thằng dân ngu quá lợn,
Cho nên quân nó dễ làm quan.”
( Tản Đà Nguyễn khắc Hiếu )
-“ Chính trị cũng như lòng heo, phải có mùi phân, nhưng đừng nhiều quá !”
( Edounard Herriot )
-“ Con chó ngước lên nhìn chúng ta, con mèo nhìn xuống chúng ta, còn con lợn coi chúng ta là ngang hàng.”
( Thủ tướng Anh Winston Churchill )
-“ Mỹ không thể làm ống heo phát tiền cho cả thế giới.”
( TT Donald Trump phát biểu trong Hội Nghị Thượng Đỉnh G7 năm 2018. )
Hình ảnh con chó được nhắc tới hay xuất hiện nhiều lần trong các câu chuyện hay biến cố của Kinh Thánh.
Cựu Ước:
Sách Sáng Thế, tổ phụ Giacóp gọi 12 con lại và chúc lành cho từng đứa, ông dùng hình ảnh và các biểu tượng để nói lên cá tính cũng như ân lộc cho từng đứa. Riêng đứa út là Bengiamin, ông dùng hình ảnh "chó sói" tinh khôn và được cưng phụng no nê ăn sáng ăn tối như câu 27 sánh ví “Bengiamin là chó sói hay cắn xé, buổi sáng nó ăn mồi, buổi chiều nó chia phần cướp được" (St 49).
Sách Xuất Hành kể lại cảnh con trai đầu lòng của dân, ngay cả súc vật của đất nước Ai Cập đều bị Giavê phạt chết, thế mà dân Do Thái thì lại được Chúa Thiên Binh gìn giữ an bình, không bị quấy rầy như câu 6 nói: “Còn nơi mọi con cái Ítraen, sẽ không có một con chó nào sủa, dù sủa người hay sủa thú vật; như thế, các ngươi sẽ biết rằng Đức Chúa phân biệt Ítraen với Ai Cập” (Xh 11).
Giavê Thiên Chúa răn dạy cách thế gìn giữ và dâng lễ bằng những của đầu mùa thu hoạch, và cao cả thay đứa con đầu lòng, phải gìn giữ đừng ăn những thứ làm cho nó bị ô uế: “Các ngươi sẽ là những người được thánh hiến cho Ta: thịt con vật bị thú dữ xé ngoài đồng, các ngươi đừng ăn, nhưng phải ném cho chó” (Xh 22, 28-30).
Sách Thủ Lãnh: Giavê Thiên Chúa chỉ dẫn cho Ghêđêôn tuyển chọn những người xứng đáng được phục vụ trong quân đội tinh nhuệ của Chúa Giavê như trong câu 5 nói: “Vậy ông Ghêđêôn đem đám dân ấy đến gần nước, và Đức Chúa phán với ông Ghêđêôn: ‘Tất cả những ai thè lưỡi tớp nước như chó, ngươi hãy để riêng ra, tất cả những ai quỳ xuống mà uống cũng vậy’." (Tl 7). Lại chuyện ông Samson tinh khôn đi bắt ba trăm con chó sói, cột ngược đuôi con này với đuôi con kia và buộc một chiếc đuốc giữa hai đuôi rồi thả chạy vào doanh trại của địch quân gây đám cháy lớn và hàng ngũ địch quân bị rối loạn! (Tl 15, 4)
Sách Samuen quyển thứ nhất: “Tên Philitinh nói với Đavít: "Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao? " Và tên Philitinh lấy tên các thần của mình mà nguyền rủa Đavít” (1Sm 17, 43).
Sách Samuen quyển thứ hai diễn tả cảnh ông Ápne giận lắm vì những lời vua Ítbôsét đã sánh ví ông là ‘đầu chó’ là lời chửi bới khinh bỉ như sau: "Tôi là đầu chó của Giuđa sao? Hôm nay tôi lấy tình nghĩa mà đối xử với nhà của vua Saun, cha ngài, với anh em của người và với các bạn của người; tôi đã không để ngài rơi vào tay Đavít. Thế mà hôm nay ngài lại bắt lỗi tôi về chuyện một người đàn bà!” (2Sm 3, 8).
Và (2Sm 9, 8) nói lên lòng nhân nghĩa của thánh vương Đavít, dù bề tôi bất xứng chẳng khác nào một con chó trong nhà như câu 8 diển tả lời của Xiba, một nô bộc đã cúi lạy trước thánh vương Đavít và nói: "Tôi tớ ngài là gì, mà ngài quay về phía một con chó chết như cháu?"
Sách Tôbia 6, 1: Chàng thanh niên ra đi, thiên sứ cùng đi với cậu, con chó cũng ra đi với cậu và cùng đi với hai người. Vậy là cả hai cùng đi, và đêm thứ nhất, họ qua đêm bên bờ sông Tíchra. Trong chương 6 đến chương 11 của sách Tôbia, con chó đã cùng đi với Thiên Sứ Gabrien và Tôbia tới nhà Xara, một cô gái khôn ngoan, cam đảm và rất đẹp, con của ông Raquyên.
Tân Ước
Còn trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh con chó để sánh ví dân riêng của Chúa với người dân ngoại hay con cái Thiên Chúa với con cái thế gian như trong Phúc Âm theo Thánh Mátthêu Chúa nói chớ phí phạm của thánh như sau: "Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em” (7, 6). Thái độ của Chúa Giêsu với người đàn bà Canaan, khi bà kêu cầu Chúa chữa lành đứa con gái của bà đang bị quỷ ám... Chúa đã thử thách đức tin của bà khi bảo: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con" (Mt 15, 21-28). Nhưng bà ấy rất khiêm tốn thưa lại: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống".
Phúc âm theo Thánh Máccô diễn tả lòng tin của người phụ nữ Phênikia trong câu 27, Chúa nói với một người đàn bà năn nỉ Chúa làm phép lạ như sau: "Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con." (Mc 7, 27). Bà ấy đã không nản chí cũng không nổi nóng, nhưng khiêm hạ đáp: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con." (Mc 7, 28). Thái độ tín thác của bà đã được Chúa ân thưởng thể hiện phép lạ cho con bà được chữa lành!
Phúc Âm theo Thánh Luca diển tả cảnh người phú hộ ăn sang mặc đẹp mà không chạnh lòng thương đến người ăn xin túng nghèo Ladarô đang thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no mà không được... Ladarô chỉ được mấy con chó đến liếm ghẻ chốc cho mà thôi. Sau khi cả hai cùng chết và hoàn cảnh được thay đổi ngược hoàn toàn: Ladarô thì hạnh phúc trong lòng tổ phụ Abraham còn người phú hộ thì quằn quại khổ đau, than trách kêu cứu trong đáy sâu địa ngục! (Lc 16, 21).
2. Bài học từ con chó
Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam, có một câu rất chí lý: "Làm người thì khó, làm chó thì dễ”, nhưng có phải vậy hay không, bởi chó cũng có nhiều nỗi khổ của nó, nếu may mắn được sinh ra làm chó Âu-Mỹ, ăn sung ngủ sướng. Trái lại bất hạnh đầu thai vào cõi Phi Luật Tân, Triều Tiên, Trung Hoa, Việt Nam, thì sớm muộn cũng vào miệng người.
Thật bất công khi người cứ hay đem chó ra làm đối tượng để đào xới những kẻ phản phúc lọc lừa, vì xưa nay trên cõi đời này, cho dù con chó có bị ruồng bỏ hay thuộc loại chó đói, chó ngu… thì thủy chung chó chẳng bao giờ phản chủ như con người. Chỉ vì mang thân phận thấp hèn, nên chó gánh chịu nhiều bất công, chẳng những trong kho tàng văn chương chữ nghĩa, mà cả đời sống "lên voi xuống chó" bên cạnh con người hằng ngày.
Tuy nhiên, chó cũng có những đặc tính tốt.
Chó là thú vật quen thuộc của mọi gia đình và có nhiều lợi ích cho con người. Chó cũng có những đóng góp tích cực cho con người mà ai cũng biết như giữ nhà, săn bắt mồi, tìm người, truy lùng thuốc phiện, ma túy… Và những đặc tính tốt như trung thành, hiểu ý chủ, vâng lời, biết sợ chủ, biết mừng chủ… Con chó chưa một lần nào trách móc chủ một điều gì dù cho có nhiều lần chủ xử tệ với nó, bỏ mặc nó. Chủ đi đâu về là nó vui vẻ đến gần tỏ lộ niềm vui, nếu chủ vui mà vuốt ve nó thì nó đáp ứng, nếu chủ buồn bực điều gì mà đẩy nó ra, thì nó nằm im không quấy rầy. Nó là một gương xóa mình, tha thứ, đón nhận và yên ủi.
Con chó trung thành. Trong các loài vật, có lẽ không có loài nào gắn bó với con người hơn con chó.Chó trung thành với chủ, gần như tuyệt đối.Chó tôn thờ chủ, yêu chủ bằng một tình cảm trong sáng, vô tư không bao giờ có tính hai mặt.Chó biết vui cùng chủ và cũng biết buồn cùng chủ.Bất luận vào những hoàn cảnh nào, khi bị chủ mắng, thậm chí bị đánh đòn nó chỉ đau khổ cúp đuôi chui vào một xó, nhưng rồi chỉ ít phút sau nó lại ngoe nguẩy đuôi để đón chủ về. Chủ giàu hay nghèo, sướng hay khổ, vui hay buồn, thất bại hay thành công, chó vẫn luôn khắng khít bên chủ. Thế mới có câu “khuyển mã chi tình” và câu “con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo”". Còn con người, người có luôn trung tín hay người chỉ phù thịnh chứ mấy ai phù suy? Khi chủ được tiền, mọi người ai cũng đòi khao; khi chủ mất tiền, chẳng thấy ai sẻ chia giúp đỡ. Khi chủ thành công, làm ăn phát đạt, bạn bè kéo đến chúc mừng, ăn uống đông vui; khi chủ thất bại, mất mát thì chẳng thấy ma nào bén mảng tới cả, chỉ có mình chó vẫn luôn bên chủ.
Con chó thẳng thắn. Người nhà về, chó vui mừng ra đón, vẫy đuôi quấn quýt. Kẻ lạ đến, chó hướng mắt cảnh giác, lao ra gầm gừ, sủa vang. Yêu nói là yêu. Ghét bảo là ghét. Còn người, người có thẳng thắn với nhau? Có dám công khai bày tỏ chính kiến của mình? Cái ma mãnh của con người là trước mặt nói một đằng, sau lưng lại nói một nẻo; trước mặt thì giả vờ ca ngợi, sau lưng lại chê bai thậm tệ. Sao người không thẳng thắn, cởi mở tấm lòng với nhau để cuộc đời thêm tốt, thêm đẹp mà lại cứ phải đi nói xấu nhau với người thứ ba và lấy làm hả lòng hả dạ về điều ấy?
Trong buổi tiếp kiến ngày thứ tư 27.8.2017, Đức Giáo Tông Phanxicô đã dành thì giờ để nói về sự cần thiết của “hiệp nhất” trong Giáo Hội và trong các cộng đoàn Kitô hữu, với lời kêu gọi mạnh mẽ hãy tránh “những chia rẽ”, vốn được nuôi dưỡng bằng “chuyện ngồi lê đôi mách, đố kỵ, và ghen tương”. Ngài nói: “Có lần, ở Giáo Phận cũ của tôi, tôi nghe được một nhận xét tích cực đáng chú ý, nói về một bà lớn tuổi, đã dành cả đời làm việc cho Giáo Xứ. Một vài người biết rõ bà đã nói về bà: “Bà này không bao giờ nói xấu ai, không bao giờ ngồi lê đôi mách, bà luôn mỉm cười”. Một người như thế có thể được phong thánh ngay ngài mai, đó là một việc tốt, một gương tốt” (phanxico.vn).
Chó phải sủa. Các Giáo Phụ thường dùng chỉ các bậc cha mẹ hay bề trên không biết răn đe hay nhắc nhủ cho bề dưới của mình bằng câu ngạn ngữ vắn gọn: “Khốn cho những con chó không biết sủa!” Nhiệm vụ canh giữ của chó là sủa mỗi khi có người lạ hay vật cấm mà chó được huấn luyện để truy lùng phát hiện, mà không sủa lên thì làm sao chủ nhân của nó biết được? Chó không sủa thì chẳng còn là chó nữa! Tiếng sủa của chó luôn gây những phản ứng khác nhau: nó làm kẻ trộm tức tối vì việc gian manh của hắn bị bại lộ; nó có thể làm hàng xóm bực mình vì mất giấc ngủ ngon; nhưng chắc chắn nó làm người nhà vui mừng vì chó đã giúp họ tỉnh thức nhận ra được cái ác đang rình rập và ra sức loại trừ nó.
"Chó sủa vang, xua đuổi phường gian ác.
Chủ thức dậy, thắp sáng cả đêm đen…"
Năm Đinh Dậu sắp qua, năm Mậu Tuất sắp đến. Thời gian là quà tặng Chúa ban nên mỗi người luôn trân trọng thời gian và cuộc sống của mình. Thời gian là một món quà vô giá, cuộc sống là một ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta. Quý trọng từng giây từng phút thời gian. Tương lai chưa tới và quá khứ đã qua, điều chúng ta có chỉ là giây phút hiện tại. Trân trọng thời gian chính là trân trọng giây phút hiện tại. Năm mới, chúng ta xin ơn sống tín trung trong từng giây phút hiện tại như lời Thánh Phaolô khuyên nhủ chí lý chí tình: "Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thúc nào thì hãy lánh cho xa. Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác của anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta quang lâm!" (1Tx 5, 20-23).
3. Con chó trong đời thường
Tôi có dịp đến Tokyo, người ta kể cho nghe chuyện chú chó Hachiko biểu tượng về lòng trung thành của đất nước Nhật Bản. Tôi đã tìm đến tượng đài của Hachiko và chụp bức ảnh này…
Hachiko là giống chó Akita (ngày nay đây là giống chó được coi như "quốc khuyển" của Nhật), có bộ lông màu vàng nâu và sinh năm 1923 ở một nông trại gần thành phố Odate, tỉnh Akita. Nó được giáo sư Hidesaburo Ueno nhận nuôi và mang tới sống tại ngôi nhà gần ga Shibuya. Giáo sư là một người chủ tốt, nên được chú chó quý mến.
Người ta thường thấy hai "thầy trò" đi cùng nhau đến nhà ga vào mỗi sáng, sau đó giáo sư lên tàu đi làm, còn Hachiko lặng lẽ tìm một chỗ trước quảng trường của nhà ga và nằm đợi cho đến khi ông chủ đi làm về, thường là vào chiều muộn. Mọi việc cứ diễn ra đều đặn như thế cho đến một ngày của tháng 5 năm 1925, giáo sư Ueno lên tàu điện ngầm đi làm và mãi mãi không trở về nữa. Ông bị nhồi máu cơ tim. Hachiko không biết điều này nên vẫn cứ đợi chủ ở nhà ga ngày này qua ngày khác và không ngừng ngóng trông một hình bóng thân quen bước xuống từ các chuyến tàu. Cuộc chờ đợi đó kéo dài 9 năm, 9 tháng 15 ngày.
Câu chuyện về chú chó đợi chủ ở nhà ga nhanh chóng thu hút sự quan tâm của dư luận. Hàng ngày, mọi người đến đây, đưa đồ ăn cho chú chó cũng như thể hiện sự quan tâm, cảm động và ngưỡng mộ với loài Akita tinh khôn. (Ảnh chụp bức tượng bằng đồng hình chú chó Hachiko được đặt ngay bên ngoài một trong năm lối ra của nhà ga Shibuya, Tokyo).
Hachiko chết vào ngày 8.3.1935. Một năm trước ngày chết, người dân đã tạc một bức tượng hình chú chó và đặt tại ga Shibuya. Hachiko rất vinh dự vì có mặt trong buổi khánh thành bức tượng của chính mình. Tuy vậy trong thế chiến thứ hai, bức tượng bị gỡ bỏ để nấu chảy lấy nguyên liệu làm đạn dược. Vào năm 1948, bức tượng được làm lại.
Ngày nay, mỗi năm vào ngày 8 tháng 4, người dân lại tổ chức một buổi lễ long trọng tại nhà ga Shibuya để vinh danh sự tận tâm của Hachiko. Chuyện của Hachikio sau đó trở thành huyền thoại và nó được coi như một biểu tượng quốc gia về lòng trung thành, điều mà người dân Nhật Bản tôn sùng cũng như luôn cố gắng đạt được. Tại nhà trường, giáo viên và phụ huynh cũng thường xuyên kể về lòng trung thành của Hachiko, để con em mình có thể noi theo.
Ngoài bức tượng đá ở nhà ga, bức tượng Hachiko còn được xây dựng ở quê nhà của nó, bên cạnh nhà ga Odate và tại bảo tàng chó Akita. Trường đại học Tokyo cũng tạc một bức tượng Hachiko đang chơi đùa với giáo sư Ueno. Xác Hachiko được nhồi bông và bảo quản tại Bảo tàng Quốc gia về Thiên nhiên và Khoa Học Nhật Bản thuộc quận Ueno, Tokyo. Câu chuyện về Hachiko được Hollywood dựng thành bộ phim, "Hachi: A Dog’s Tale" (theo Amusing).
Trong thực tế cuộc sống bên Việt Nam mình, chúng ta cũng nghe biết rất nhiều trường hợp con chó đã buồn cho tới chết sau khi mất chủ. Nhiều con chó bị bắt trộm hay bị bán đi nơi xa, nhưng rồi nó lại trổ chuồng tìm về với chủ cũ. Có câu chuyện người chủ muốn giết con chó để ăn thịt, bèn bắt chó bỏ vào bao bố, rồi đem con vật đi nhận nước, chẳng may gặp phải dòng sông sâu và nước xoáy nên anh ta suýt chết đuối. Con chó vùng vẫy thoát ra được, nó liền lội đến cắn cổ áo người chủ lôi vào bờ cứu thoát anh ta. Con chó biết chủ của nó, bênh vực chủ khi cần. Dù chủ chỉ là người hành khất hay người tàn tật, chó vẫn trung thành và ngoan ngoãn.
Bên cạnh các phần mộ cổ của người Ai Cập, người ta thường dựng hai tượng con chó, tiêu biểu cho đầy tớ trung thành và biết ơn, ngày đêm canh giữ phần mộ. Vì thế có câu tục ngữ “Nuôi một con chó trung thành quý hơn sinh một bầy con bất hiếu”.
(trích từ "Chiếc Áo Dài Việt Nam và Đạo Làm Người") Mỗi dân tộc trên thế giới đều có một loại y phục cá biệt, khi nhìn cách phục sức của họ, chúng ta nhận biết họ thuộc quốc gia nào. Người Nhật Bản có chiếc áo Kimono, người Trung Hoa đời Măn Thanh có chiếc áo Thượng Hải mà quí bà quí cô thường gọi là áo "xường xám", người Đại Hàn, người Phi, người Thái v.v. Người Việt Nam, chúng ta hănh diện về chiếc áo dài, được trang trọng nâng lên ngôi vị quốc phục, cũng có người gọi một cách hoa mỹ hơn: "chiếc áo dài quê hương".
Kẻ viết bài nầy cố gắng góp nhặt răi rác một số ít các tài liệu về chiếc áo dài được ghi chép rất vắn tắt trong các sách sử. Ngoài ra, cũng cọ̀n có một ít tài liệu tìm thấy trên sách báo cũ, nhưng không ghi rỡ xuất xứ. Tài liệu ghi trong sách cũ tuy vắn tắt, nhưng đáng tin cậy.
Dân tộc Việt Nam có một chiều dài lịch sử trên bốn ngàn năm theo như sử sách đă ghi, trong đó có một ngàn năm bị Bắc thuộc, tám mươi hai năm bị Pháp đô hộ, tiếp theo là cuộc nội chiến tương tàn! Một dân tộc mà bị dân tộc khác đô hộ trên ngàn năm quả là quá lâu. Bao nhiêu tài sản của quốc gia, sử sách quí giá, tài liệu về lịch sử v.v... đă cướp đi hoặc tiêu hủy hết. Mục đích của kẻ thống tri. là triệt tiêu nền văn hóa của ta để đồng hóa. Mặc dầu bị ngoại xâm, chiến tranh tàn phá liên miên, nhưng dân tộc ta luôn có sự đề kháng tinh vi để trường tồn. Sử gia Đào Duy Anh chép: "Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Điên dạy cho dân quận Cửu chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách chép đó thì ta có thể đoán rằng trước hồi Bắc thuộc dân ta gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung quốc mới mặc áo gài về tay phải." (Việt nam Văn Hóa Sử, Đào Duy Anh, trang 172). Mặc dầu cuộc sống chung đụng và bắt chước theo người ngoại quốc, nhưng tổ tiên ta vẫn khôn khéo duy trì nét đặc thù của nền văn hóa, không đánh mất bản sắc dân tộc.
Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao, vì thiếu tài liệu kiểm chứng. Mới đây, nhân đọc cuốn kể chuyện "Chín Chúa Mười Ba Vua Triều Nguyễn" của ông Tôn Thất Bính, (Nhà Xuất Bản Đà Nẵng, 1997) có bài "Những Trang Đầu của Lịch Sử Áo Dài" tác giả chép như sau:
"Chiếc áo dài tha thướt xinh đẹp hiện nay phải qua một quá trình phát triển. Nó được hình thành từ đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Nguyên chúa Nguyễn Phúc Khoát nghe người Nghệ an truyền câu sấm: "Bát đại thời hoàn trung nguyên" (tám đời trở về trung nguyên), thấy từ Đoan Quốc Công đến nay vừa đúng tám đời bèn xưng hiệu lấy thể chế áo mũ trong Tam tài đồ hội làm kiểu... lại hạ lệnh cho trai gái hai xứ đổi dùng áo quần Bắc quốc để tỏ sự biến đổi, khiến phụ nữ bận áo ngắn hẹp tay như áo đàn ông thời Bắc quốc không có thế.
Thế là do tinh thần độc lập, muốn dân chúng trong địa phận mình cai trị mang y phục riêng để phân biệt với miền Bắc, Nguyễn Phúc Khoát hiểu dụ:
"Y phục bản quốc vốn có chế độ, địa phương này từ trước cũng chỉ tuân theo quốc tục, nay kính vâng thượng đức, dẹp yên cỡi biên, trong ngoài như nhau, chính trị và phong tục cũng nên thống nhất. Nếu cọ̀n có người mặc quần áo kiểu người khách (Trung quốc, TTB chú) thì nên đổi theo thể chế của nước nhà. Đổi may y phục thì theo tục nước mà thông dụng vải, lụa, duy có quan chức thì mới cho dùng xen the, là, trừu, đoạn, còn gấm vóc và các thứ hoa rồng phượng nhất thiết không được quen thói cũ dùng càn. Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được. Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh chàm hoặc vải đen, hay vải trắng tùy nghi. Còn các bức viền cổ và kết lót th́ì đều theo như điều hiểu dụ năm trước mà chế dùng." Như vậy từ thế kỷ XVIII, chiếc áo dài đă được ra đời, dù ban đầu còn thô sơ, nhưng kín đáo. Nó là sản phẩm mang màu sắc dung hạp Bắc Nam. Cũng ở thời Nguyễn Phúc Khoát, phụ nữ đă biết trang điểm, thêu thùa hoa lá quanh cổ áo để tăng vẻ đẹp, hàng vải khá tốt và tinh xảo. Các loại áo đoạn hoa bát ty, sa, lương, địa, the là hàng hoa được mặc vào ngày thường, áo vải, áo mộc bị chê là vải xấu.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát đă viết những trang lịch sử đầu cho chiếc áo dài vậy." (Theo Lê Qúi Đôn Phủ biên tạp lục, trong cuốn "Kể chuyện Chín Chúa Mười Ba Vua Triều Nguyễn, của Tôn Thất B́inh, trang 29.)
Chúa Nguyễn Phúc Khoát hùng cứ ở xứ Đàng Trong, sau khi chiếm trọn nước Chiêm thành, mở mang bờ cõi về phương Nam, theo Lê Quý Đôn, đă có được thời kỳ thịnh vượng bình yên. Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu là Vũ Vương, có triều nghi xây hai điện Kim Hoa, Quang Hoa, có các nhà Tụ Lạc, Chính Quang, Trung Hoà, Di Nhiên, đài Sướng Xuân, các Dao Tŕì, các TriềuĐương, các Quan Thiên, đ́ình Thụy Vân, hiên Đồng Lạc, an Nội Viên, đình Giáng Hương, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Vơ v.v., có cơ chế chính trị, hành chánh, xă hội có kỷ cương, nhưng chưa có quốc hiệu. Tuy nhiên, người ngoại quốc tới lui buôn bán tại cửa Hội an thường gọi là "Quảng Nam quốc". Để chứng tỏ tinh thần độc lập, Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đă chú trọng đến vấn đề cải cách xă hội, phong tục mà điều quan trọng là sự cải cách về y phục.
Nếu căn cứ theo tài liệu kể trên thì́ chiếc áo dài Việt nam đă ra đời vào thế kỷ XVIII, trong thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1739 1765) (?).
Từ đó đến nay chắc chắn chiếc áo dài Việt Nam cũng đă thay hình đổi dạng để thích nghi với trào lưu tiến hóa và sự trường tồn của dân tộc. Sách Đại Nam thực lục tiền biên cũng có chép: "Vào khoảng năm 1744 chúa Võ Vương ở phương Nam bắt dân gian cải cách y phục". Có lẽ vào thời xa xưa đàn bà Việt Nam mặc áo thắt vạt và mặc váy. Ta đọc đoạn sử sau đây: "Đến đời Minh Mệnh có lệnh cho đàn bà đường ngoài phải mặc quần, nhưng chỉ những người giàu sang ở thành thị tuân theo,chứ ở nhà quê thì đến nay đàn bà cũng vẫn mặc váy." (Việt Nam Văn Hóa Sử, Đào Duy Anh, trang 173).
Mặc dầu bị ngoại xâm và bị đô hộ lâu dài, nhưng tổ tiên ta vẫn khôn khéo duy trì một xă hội có kỷ cương, tôn ti trật tự. Cứ nhìn vào trang phục và màu sắc để phân biệt giai tầng trong xă hội. Sách Vũ Trung Tùy Bút chép: "Đời xưa học trò và người thường, khi có việc công thì mặc áo xanh lam (thanh cát), lúc thường thì mặc áo màu thâm (chuy y), người làm lụng thì mặc áo mùi sừng (qú sắc). Từ đời Lê về sau thì sắc trắng ít dùng. Cứ trạng thái y phục gần nhất của người nưóc ta thì các quan hay mặc áo xanh lam, học trò cùng những chức viên, tổng lư và hạ lại thường dùng mùi sừng và mùi đen, người nhà quê và người làm lụng thì thường dùng mùi nâu. Người giàu sang thì mặc the lụa gấm vóc, còn người nghèo hèn thì chỉ dùng vải to ... vua quan thì có phẩm phục, quân lính thì có nhung phu.c, thường dân thì có lễ phục".
Trong Việt Nam Sử Lược của học giả Trần Trọng Kim viết: "Vua Lê Lợi, ngày ấy dấy quân khởi nghĩa chống giặc Tàu ở đất Lam sơn. Ngài dùng chiếc áo vải màu lam là màu áo biểu tượng để kháng giặc". Vì thế vua Lê Lợi được mệnh danh là "Anh hùng áo vải Lam Sơn".
Qua các đoạn sử vừa trích dẫn ở trên, ta thấy y phục là một biểu tượng của quốc gia dân tộc. Trải qua bao biến thiên của đất nước, chiếc áo dài cũng đă được cải tiến. Vào khoảng thập niên 1930, nhóm văn sĩ trong Tự Lực Văn Đoàn đă chủ xướng cuộc cải cách văn hóa, tư tưởng mới cho thế hệ trẻ. Trong nhóm này có hai họa sĩ du học từ Pháp về, đó là các ông Nguyễn Cát Tường và Lê Phổ, dùng hai tờ báo Ngày Nay và Phong Hóa làm phương tiện truyền bá của nhóm. Hai họa sĩ đă vẽ và chỉnh trang kiểu áo dài phụ nữ gọi là áo "Le Mur Cát Tường" cổ cao, không có eo. Ông Nguyễn Cát Tường viết trong tờ Phong Hóa, có đoạn: "Muốn biết nước nào có tiến bộ, có kỷ thuật hay không? Cứ xem y phục người nước của họ, ta cũng đủ hiểu." (Phong Hóa số 86, tháng 2 1934).
Một nhân vật nữ khác không thể không nhắc đến, đó là bà Trịnh Thục Oanh, một hiệu trưởng của trường nữ Trung học Hà Nội, đă làm thêm một cuộc cải cách táo bạo hơn, bà nhấn eo chiếc áo, ôm sát theo đường nét mỹ miều duyên dáng của phái nữ.
Đến ngày nay, chiếc áo dài của quí bà quí cô là một tác phẩm mỹ thuật tuyệt vời. Nó đă trở thành một thứ y phục độc đáo của phụ nữ Việt nam. Tại cuộc hội chợ quốc tế Osaka, năm 1970 tại Nhật bản, chiếc áo dài phụ nữ Việt Nam đă lên ngôi và đem lại vinh dự cho phái đoàn VNCH. Khách quốc tế trầm trộ thán phục trước các vạt áo lă lơi như cánh bướm trước gió. Khách bình phẩm:
- Hơi mỏng!
- Nhưng rất kín đáo, đủ sức che mắt thánh!
Một nhiếp ảnh gia quốc tế của Việt nam cũng đă hănh diện về hấp lực của chiếc áo dài tại hội chợ, nên có nhận xét:
-Nó có sức chở gió đi theo.
Những lời nhận xét trên không có gì quá đáng. Chiếc áo dài Việt nam chỉ thích hợp cho thân hình kiều diễm, ẻo lả, mảnh mai của phụ nữ Việt nam. Nó vừa kín đáo, vừa e ấp, vừa khêu gợi. Nó khai thác được đường nét tuyệt mỹ của thân thể. Thi sĩ Xuân Diệu thú nhận:
Chiếc áo dài hiển nhiên là một loại "quốc phục". Khách khứa đến thăm, chủ nhà trịnh trọng bận chiếc áo dài như là một chiếc áo lễ để tiếp khách. Tại học đường nó là chiếc áo học trò ngây thơ, tung tăng như cánh bướm, gói trọn mộng đẹp của tương lai. Một chiếc khăn vành có tác dụng như một "vương miện", thêm vào chiếc áo choàng bên ngoài sẽ trở thành bộ y phục "hoàng hậu" cho cô dâu khi bước lên xe hoa. Trong buổi dạ tiệc, chiếc áo dài Việt nam cũng sẽ lộng lẫy, độc đáo, không thua bất kỳ bộ trang phục của các quốc gia nào khác trên thế giới.
Tại miền quê Quảng Nam, những người buôn thúng bán bưng, mặc dầu nghèo khổ, cũng luôn luôn bận chiếc áo dài khi ra chợ. Nếu áo rách, sờn vai thì chắp vào chỗ rách một phần vải mới, gọi là áo "vá quàng". Dầu là áo rách, áo vá quàng, vẫn tăng giá trị:
Đố ai kiếm được cái vảy con cá trê vàng, Cái gan con tép bạc, mấy ngàn tôi cũng mua. Chẳng thương cái cổ em có hột xoàn, Thương em mặc chiếc áo vá quàng năm thân. Áo may cái thuở anh mới thương nàng, Đến nay áo rách lại vá quàng thay tay. (Ca dao)
Chiếc áo dài, một đề tài phong phú để dành cho các thi sĩ dệt thơ. Trong bài "Áo Trắng" Huy Cận viết:
Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong, Hôm xưa em đến, mắt như lòng, Nở bừng ánh sáng, em đi đến, Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng ...... Nắng thơ dệt sáng trên tà áo, Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài.
...
Dịu dàng áo trắng trong như suối, Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay.
(Huy Cận)
Thi sĩ Đông Hồ cũng đă tình nguyện bán thơ mình để "Mua Áo" cho cô gái xuân, lời thơ nhẹ nhàng phơi phới yêu đương, có chiều lă lơi mà trong sạch, nũng nịu đến dễ thương:
Chiếc áo năm xưa đă cũ rồi, Em đâu còn áo mặc đi chơi. Bán thơ nhân dịp anh ra chợ. Đành gởi anh mua chiếc áo thôi.
Hàng bông mai biếc màu em thích, Màu với hàng, em đă dặn rồi. Còn thước tấc, quên! Em chưa bảo: Kích tùng bao rộng, vạt bao dài?
Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ! Thước tấc anh còn lựa hỏi ai. Rộng hẹp, tay anh bồng ẳm đó, Ngắn dài, người mới tựa bên vai! (Đông Hồ, "Cô Gái Xuân")
Thi sĩ Phan Long cũng trải hồn mình qua bài cảm tác "Chiếc Áo Dài Tà Áo quê Hương" sau đây:
Em yêu mến chiếc áo dài, Thướt tha duyên dáng đẹp hoài thời gian. Ngày xuân nắng trải tơ vàng, Khoe tà áo mới ngập tràn tuổi thơ. Lớn theo lứa tuổi học trò Tình che vạt trước gió lùa vạt sau. Những ngày đẹp măi bên nhau, Vạt vui in dấu vạt sầu còn vương. Đẹp sao tà áo quê hương, Áo dài màu trắng nhớ thương năm nào. (Phan Long)
Cái tài tình của chiếc áo dài Việt Nam qua cách cấu trúc chẳng những là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, nhưng bên trong còn ẩn tàng ý nghĩa dạy dỗ về đạo làm người. Dân tộc Việt nam phải phấn đấu không ngừng chống nạn ngoại xâm để trường tồn, và bảo vệ những giá trị truyền thống về văn hóa, kỷ cương gia đình Dầu muốn hay không thì dân tộc ta, cũng như các dân tộc Á châu khác đă chịu ảnh hương sâu đậm của Tam Giáo và học thuyết Khổng Mạnh. Gia đình, xă hội được xây dựng trên nền tảng tam cương, ngũ thường. Tổ tiên ta răn dạy con cháu thật chặt chẻ về đạo làm người, chẳng những trên sách vở, mà còn phải luôn luôn mang nó theo trên người. Phải chăng đây là sự dạy dỗ sâu sắc, khéo léo của tiền nhân? Nếu qủa đúng như vậy thì chiếc áo dài Việt Nam là cái gia phả vô cùng quí giá ẩn tàng sự dạy dỗ con cháu về đạo làm người. Ta phải hănh diện, nâng niu, bảo vệ, xem như một di sản văn hóa do tổ tiên truyền dạy. Ta thử xem cách cấu trúc của chiếc áo dài xưa:
Phía trước có hai tà (hay hai vạt), phía sau hai tà, tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu (cha mẹ chồng, cha mẹ vợ).
Một vạt cụt, hay vạt chéo phía trước có tác dụng như một cái yếm che ngực, nằm phía bên trong hai vạt lớn, tượng trưng cho cha mẹ ôm ấp đứa con vào lòng.
Năm hột nút nằm cân xứng trên năm vị trí cố định, giữ cho chiếc áo được ngay thẳng, kín đáo, tượng trưng cho năm đạo làm người: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.
Trong chiếc áo tứ thân, người ta thường buộc hai vạt trước lại với nhau để giữ cho chiếc áo cân đối, tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng âu yếm, quấn quít bên nhau.
(trích từ "Chiếc Áo Dài Việt Nam và Đạo Làm Người")
Ai đã từng dắt xe đạp chở nàng áo thướt tha ở cổng trường Gia Long, ai đã từng theo trêu ghẹo các nữ sinh áo trắng trường Trưng Vương, ai đã mê mẫn đuổi theo vạt áo để đề thơ hẳn không quên những tà áo sinh viên mượt mà, tung bay trong gió thu. Từ những tà áo thật giản đơn đến những tà áo lộng lẫy từ những tà áo tô điễm cho các dịp lễ hội, đám cưới, đám tang, đến những tà áo thơ ngây dưới sân trường, tất cả đều có thể được mô tả bằng một danh từ chung: ÁO DÀI.
Cho đến nay, chưa ai rõ nguồn gốc đích thực của chiếc áo dài, chỉ biết rằng thủy tổ của nó, vốn làm bằng da thú và lông chim, xuất hiện trước thời Hai Bà Trưng (năm 38 42 trước Tây lịch) qua các hình khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lũ (5000 năm trước Tây Lịch). Theo truyền thuyết, Hai Bà Trưng đã mặc áo dài hai tà giáp vàng, che lọng vàng, trang sức thật lộng lẫy khi cưỡi voi xông trận đánh đuổi quân nhà Hán. Cũng tương truyền, do tôn kính Hai Bà, phụ nữ Việt Nam tránh mặc áo hai tà mà may thay bằng áo tứ thân với bốn thân áo tượng trưng cho bốn bậc sinh thành (của hai vợ chồng). Vả lại, khi đó kỹ thuật còn thô sơ, vải được dệt thành từng mảnh khổ nhỏ nên phải ghép bốn mảnh lại mới may đủ một áo, gọi quen là áo tứ thân. Áo gồm hai mảnh đằng sau chắp lại giữa sống lưng (gọi là sống áo), mép của hai mảnh được nối vào nhau và dấu vào phía trong. hai mảnh trước được thắt lên và để thòng xuống thành hai tà áo ở giữa, nên không phải cài khuy (cúc, nút) khi mặc. Bình thường, gấu áo được vén lên, chỉ khi có đại tang (tang chồng hay cha mẹ) mới thả xuống và mép vải để lộ ra ngoài thay vì dấu vào trong. Đấy là hình ảnh chiếc áo dài tứ thân mộc mạc, khiêm tốn.
Sau khi xua quân đánh đuổi quân Hai Bà, tướng Mã Viện áp đặt một chế độ cai trị hà khắc nhằm đồng hóa nền văn hóa Việt. Hơn 1000 năm dưới sự đô hộ của Trung Hoa, chiếc áo dài, áo tứ thân cũng nỗi trôi theo mệnh nước nhưng không bao giờ bị xóa bỏ. Áo tứ thân vẫn còn tồn tại ở một số địa phương, nhất là miệt quê, cho đến ngày hôm nay.
Vào thời vua Gia Long (1802 1819), chiếc áo dài tứ thân được biến cải thành áo ngũ thân, rất phổ thông trong giới quyền quý và dân thành thị. Áo ngũ thân cũng dược may như áo tứ thân, nhưng vạt áo bên phải phía trước chỉ được may bằng một thân vải, còn vạt áo bên trái được may bằng hai thân vải như vạt áo đằng sau. Ngoài ra, áo năm thân có khuy áo như đàn ông, lúc mặc có thể cài khuy như áo dài ngày nay hoặc thắt vạt như áo tứ thân. Về ý nghĩa, bốn thân áo chính tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và thân thứ năm (vạt con) tượng trưng cho người mặc áo; năm chiếc khuy tượng trưng cho đạo làm người theo Khổng Giáo: Nhân (lòng thương người, nhân từ), Lễ (biết trên, dưới), Nghĩa (nghĩa khí), Trí (sự sáng suốt, trí tuệ), Tín (uy tín). Rõ ràng, chiếc áo dài ngũ thân diễn đạt nhân sinh quan của Việt Nam nhưng không khỏi sự ảnh hưởng của Trung Hoa qua nhiều năm đô hộ.
Khi triều đình Huế ký hòa ước Patenôtre nhượng quyền cai trị nước vào tay Pháp năm 1884, văn hóa Tây Phương bắt đầu du nhập vào Việt Nam, đi đôi với việc dạy chữ Quốc Ngữ thay chữ Nho. Cuộc sống bỗng biến đổi theo đà đua đòi của văn hóa Tây Phương, nhất là ở những đô thị lớn.
Sau khi chính phủ Pháp mở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội, một lô cải cách cho chiếc áo dài truyền thống đã được một số người có tâm huyết với chiếc áo dài đưa ra. Các màu nâu, đen thường được thay bằng bằng các sắc màu tươi sáng hơn, gây sôi nổi trong dư luận quần chúng thời ấy. Năm 1934, họa sĩ Nguyễn Cát Tường đã khích động phong trào cải cách: "...Các nhà đạo đức thường nói: Quần áo chỉ là những vật dụng để che thân thể ta khỏi bị gió mưa, nắng lạnh, ta chẳng nên để ý đến cái đẹp, cái sang của nó làm gì...Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân, song nó có thể là tấm gương phản chiếu ra ngoài cái trình độ trí thức của một nước. Muốn biết nước nào có tiến bộ, có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của người nước họ, ta cũng đủ hiểu...."
Trong thập niên 1930, Cát Tường đưa ra thị trường kiểu áo dài mới Le mur. Kiểu Le mur được vẽ theo kiểu áo đầm Tây Phương với nối vai và tay phồng, cổ lá xen, cài khuy trên vai, mặc với quần trắng, đeo bóp, che dù, v.v... Sau đó, họa sĩ Lê Phổ cải tiến áo Le mur và mẫu áo dài này được hoan nghênh trong Hội chợ Nữ Công Đà Nẵng. Đây là một kết hợp giữa áo Le mur và áo tứ thân, rất gần gũi với chiếc áo dài tân thời ngày nay: nối vai và tay không phồng lên, cổ kín, cài nút bên phải, thân ôm sát người, hai tà áo mềm mại bay lượn. Áo dài Lê Phổ được may bằng vải màu mặc với quần trắng, tóc búi lỏng hay vấn trần hoặc vấn khăn nhung. trong suốt gấn 30 năm sau đó chiếc áo dài Việt Nam không thay đổi bao nhiêu, ngoại trừ cổ áo, gấu áo, và eo áo: cổ áo thì lúc cao, lúc thấp, lúc rộng, lúc hẹp; gấu áo thì lúc vén cao, lúc hạ thấp; eo áo thí lúc nhỏ lúc to. Những thay đổi này đi đôi với những thay đổi nho nhỏ cũa chiếc quần phụ nữ: chân què qua đáy giữa, lưng quần thắt giải rút rồi tới giây thung, gài nút, và sau cùng là dùng phẹc mo tuya (fermeture), ống quần thì lúc rộng lúc hẹp theo thị hiếu thẩm mỹ của từng giai đoạn một.
Mãi đến đầu thập niên 1960, nhà may Dung Đakao ở Sài Gòn đưa ra một kiểu áo dài mới: áo dài tay raglan mặc với quần xéo. Vì tay áo và thân áo được nối xéo góc khoảng 45 độ, kiểu áo dài raglan này tránh được những đường nhăn hai bên nách và vai (so với kiểu áo Lê Phổ). Chiếc quần xéo may bằng vải mềm, được xếp xéo góc khi cắt, có hông ôm sát người và hai ống lòa xòa dài qua mắt cá chân giúp cho nữ giới có những bước đi tha thước qua đôi guốc ẩn hiện dưới hai ống quần.
Sau áo dài raglan là áo dài mini raglan, vốn là áo raglan may với tà áo cao gọn ghẽ. kiểu mini raglan này được các nữ sinh Sài Gòn ưa chuộng mãi cho đến cuối tháng Tư 1975.
Cảm thấy muốn tiến xa hơn, một số nhà may tại Sài Gòn đã tung ra thị trường kiểu áo dài ba tà gốm một vạt sau và hai vạt trước. Cổ áo cao, có khuy cài từ cổ xuống eo. Áo ba tà được mặc với quần ống voi, thứ quần dài có ống rộng thùng thình. Kiểu áo này không ưa chuộng cho lắm vì không thích hợp với bản chất ôn nhu cũa nữ giới Việt Nam.
Ngày nay, khi tị nạn đến xứ người, các nhà vẽ kiểu thời trang lại "thêm bớt" cho chiếc áo dài. Trong đó, có kiểu áo dài "ngắn" với hai tà áo ngắn lên quá đầu gối, áo hở cổ, áo một tay, v.v... Nhưng có lẽ khó có kiểu nào sánh được những chiếc áo mini raglan trắng nõn mà các chàng ngơ ngẫn đứng chờ trước cổng trường Gia Long, Trưng Vương ngày nào.
Tà áo dài Việt Nam
Cũng không ngạc nhiên khi một người Việt Nam trả lời rằng tà Áo Dài là một trong những hình tượng tiêu biểu ở đất nước này. Thật khó mà dịch từ "Áo Dài" sang bất cứ ngôn ngữ nào vì không ở đâu có một tà áo Dài như ở Việt Nam.
Áo Dài, trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam, Ôm sát cơ thể, có cổ cao và dài khoảng ngang gối. Nó được xẻ ra ở hông. áo Dài vừa quyến rữ lại vừa gợi cảm, vừa kín đáo nhưng vẫn biểu lộ đường nét của một người thiếu nữ.
Nhìn lại chiều dài lịch sử đất nước, tà áo Dài là một sáng tạo nghệ thuật mới. Nó thay thế trang phục cổ truyền mà mầu sắc và kiểu dáng phải tuân theo những đòi hỏi lễ nghi và những tầng lớp xã hội. Mầu vàng chỉ dành cho những ông vua và họ được mặc áo lông bào. Mầu trắng là mầu tang còn mầu xanh dành cho các vị quan trong những dịp trang trọng. Trước nữa, đầu thế kỷ 18, phụ nữ Việt Nam mặc váy dài. Vào năm 1744, viên quan Vũ Vương cai trị phía Bắc miền Trung VN của triều Nguyễn yêu cầu thay đổi trang phục VN trên cơ sở kiểu cáo Trung Hoa. Bộ quần áo có nút thay thế cho váy và áo xẻ ngực thắt dây. Vua Minh Mạng, vị vua thứ hai của triều Nguyễn ban hành sắc lệnh cấm phụ nữ mặc váy.
áo Dài được phát hiện từ thời Pháp thuộc khi một phụ nữ Việt Nam tên Tường thay đổi chiếc áo tứ thân (áo dài có bốn mảnh) thành chiếc áo hai tà đầu tiên. Người Pháp gọi chiếc áo dài đó là Le Mur có nghĩa là "the wall" trong Anh ngữ.
Từ đó, chiếc áo Dài đã được thau đổi khá sâu sắc. Hai kiểu áo Dài được ưu chuộng là kiểu cổ tròn, tay raglan (tay liền) và kiểu tay puff (tay phồng). Ngoài ra tà áo được nối liền với phần thân qua những đường chỉ nối quanh cổ áo. Ngoài hai kiểu áo nêu trên, nhiều kiểu áo kiểu áo khác như kiểu cổ thuyền, cổ vuông, cổ chữ V, Uthích hợp với những người tương đối đầy đặn, kiểu vai phồng cho những thiếu nữ mảnh mai. Chất liệu mới cho áo Dài được kết hợp từ những tấm vải mẫu, thường được trang trí bằng những đường nét thủ công hoặc thêu thùa.
Tà áo Dài không thể gia công hoặc bán hàng loạt như những loại quần áo may sẵn khác. Mỗi mảnh được tạo ra là một công trình nghệ thuật của người thợ thủ công. Những thợ may áo Dài thường phải từ chối đơn đặt hàng trước dịp năm mới. Đôi khi người ta nhận làm chỉ 24 giờ với giá gấp đôi.
Bà James Sterson, một sứ giả Mỹ đã nói rằng: Không một đất nước nào có một trang phục dân tộc vừa đẹp, truyền thống mà lại có chiều sâu văn hóa như tà áo Dài VN.
Ngày nay, áo Dài xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Những phụ nữ Việt Kiều biểu lộ tình cảm với quê hương qua chiếc áo dài. Nhiều du khách nước ngoài đã có những ấn tượng rất tốt về tà áo Dài VN. Họ cảm thấy được tiếp rất nồng hậu khi những tà áo Dài bay bay trước gió ở phi trường. Thật tiếc cho những ai đến VN mà không mang về một chiếc áo Dài làm kỷ niệm và để khoe với những ai chưa từng đến VN.
Tà áo dài xứng đáng với mệnh danh "Nét duyên dáng Việt Nam".
Tìm hiểu cội nguồn Áo Dài Việt Nam
“Có tìm hiểu dĩ vãng của chính mình thì mới quý nó được, và có quý trọng dĩ vãng thì mới tìm được hướng đi cho tương lai”. Ðó là lời của cố học giả Nguyễn Hiến Lê mà người viết bài này muốn gửi đến các bạn trẻ và nhưng ai quan tâm đến việc bảo vệ kho tàng văn hóa dân tộc. Khi tìm đọc Văn học sử Việt Nam, chiếc áo dài quả đã ghi lại rất nhiều nét đan thanh không những qua ca dao tục ngữ mà còn qua điêu khắc, hội họa, kịch nghệ, văn chương và âm nhạc. Ngược dòng thời gian tìm về nguồn cội, chiếc áo dài Việt Nam đầu tiên với hai tà áo thướt tha bay lượn đã được tiền nhân ghi khắc trên cổ vật, như trống đồng Ngọc Lũ, Hòa Bình, Hoàng Hạ... từ trên ba ngàn năm trước. Áo dài Việt Nam quả đã có một quá trình đi sát với lịch sử dân tộc để lắm phen khóc cười theo mệnh nước nổi trôi. Trải qua cả mười thế kỷ bị Trung Hoa đô hộ một Trung Hoa vĩ đại về mọi phương diện rồi ngót một thế kỷ dưới ách thống trị của Pháp quốc gia đứng hàng đầu về thời trang quốc tế tà áo dài Việt Nam vẫn uyển chuyển tung bay, biểu dương tinh thần bất khuất, đặc tính thích nghi với hoàn cảnh, và khiếu thẩm mỹ của người Việt. Dưới thời kỳ bị Trung Hoa đô hộ, dân ta đã bao phen bị người Tàu ra lệnh đồng hóa: Ðàn ông phải dóc tóc bím đuôi sam, đàn bà phải cắt tóc ngắn và mặc quần thay vì mặc váy, mọi người đều phải để răng trắng không được nhuộm... Nhưng những cổ vật tiền nhân để lại cho thấy người Việt xưa vẫn búi tóc, vẫn mặc áo dài và váy. Chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân với váy xắn quai cồng để tiện việc gồng gánh, nhưng vẫn không làm giảm nét đẹp của người nữ.
Vẻ yêu kiều, nét duyên dáng, nết đoan trang của phụ nữ thời áo tứ thân được mô tả rõ rệt qua bài ca dao Mười Thương:
Một thương tóc bỏ đuôi gà Hai thương ăn nói mặn mà có duyên Ba thương má lúm đồng tiền Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua Năm thương cổ yếm đeo bùa Sáu thương nón thương quai tua dịu dàng Bẩy thương nết ở đoan trang Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh Chín thương cô ở một mình Mười thương con mắt hữu tình với ai?
Ngoài đồng ruộng hay trong những buổi chợ, chiếc áo tứ thân có mầu nâu non, nâu già hoặc đen, mặc với váy vải thô nhuộm bùn, nhưng trong những dịp hội hè đình đám cưới hỏi, áo được may bằng hàng the, nhiễu, thao, lụa, khoác bên ngoài chiếc yếm đỏ thắm hay hồng đào và phủ lên chiếc váy lĩnh hoa chanh hoặc váy sồi có thắt lưng mầu lá mạ hay mầu cánh chả bay lượn trong gió. Các bà các cô vấn tóc trong khăn nhung hoặc vấn trần có một lọn để đuôi gà làm duyên, đội nón thương quai thao, lưng đeo bộ xà tích bằng bạc, tay đeo vòng hay xuyến, cổ đeo chuỗi hạt vàng, chân mang giày dừa, dép cong.
Bộ áo tứ thân đứng vững trên đất nước Việt Nam cả mấy ngàn năm trong khi bộ xiêm y lượt thượt của người nữ Trung Hoa chỉ còn xuất hiện trong cung điện hoặc trong những nhà quyền quý. Ðến thế kỷ thứ ba sau Tây lịch thì đàn bà Trung Hoa bỏ váy để mặc quần, khi chiếc quần xuất hiện dưới thời Gaulois bên Pháp truyền sang Cổ Ba Tư rồi vào đất Tàu. Phụ nữ Trung Hoa lại tiến xa hơn dưới thời vua Võ Vương nhà Thanh năm 1774, mặc kiểu áo xường xám không có... quần! Trong thời gian đó, truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam cho đến thế kỷ mười bảy như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: ”... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay đã có tục cũ...” Tuy nhiên, thời trang Việt Nam cũng thay đổi theo thời gian. Phụ nữ tỉnh thành chế biến kiểu áo ngũ thân từ áo tứ thân để có dáng dấp trang trọng hơn.
Áo ngũ thân cũng cắt may giống như áo tứ thân nhưng vạt trước là một vạt lớn như vạt sau, còn vạt nửa trước bên phải của áo tứ thân nay trở thành vạt con. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho đạo làm người theo quan niệm Nho giáo: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Áo ngũ thân không những tôn vinh giá trị cao quý của người nữ trong gia đình cũng như xã hội, mà còn gói ghém nhân sinh quan của dân tộc: Con người nhờ cha sinh mẹ dưỡng, khi thành thân có cha mẹ người bạn đời cùng che chở bao bọc là tứ thân phụ mẫu, luôn tôn trọng đạo làm người và giữ lòng nhân ái, ăn ở có nhân nghĩa trên kính dưới nhường, biết nơi trọng chỗ khinh, biết suy luận tính toán và giữ vững niềm tin nơi người.
Áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là Quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Thời đó, các bà các cô giới thượng lưu hoặc nhà giàu, có những cách phô trương áo quần như mặc áo mớ ba mớ bảy tức là nhiều lớp áo mặc chồng lên nhau, nhất là về mùa Ðông. Mùa hè, họ mặc áo the mỏng phủ ngoài áo dài trắng bên trong. Các kiểu trang sức thì đeo chuỗi hạt trai, hạt ngọc, hạt cườm, hoa tai, vòng, xuyến, nhẫn... Tóc vẫn còn để dài. Khi trẻ thì xõa rồi cặp rồi búi sau gáy hoặc vấn khăn nhung, trời lạnh thì trùm khăn nhung khăn nỉ. Từ đôi guốc gỗ thô sơ, các bà các cô có những đôi hài nhung thêu cườm hoặc chỉ ngũ sắc, hoặc những đôi dép da bóng. Tuy nhiên, quá trình chiếc áo dài chưa chịu ngưng ở kiểu áo ngũ thân. Nhật nhật tân, hựu nhật tân, nhất là trang phục. Sau Ðông phương, áo dài Việt Nam một lần nữa chịu ảnh hưởng Tây phương, bởi thời trang cũng đi liền với lịch sử. Nhưng cũng một lần nữa, tinh thần bất khuất của dân tộc Việt lại được biểu lộ qua chiếc áo dài.
Áo Lemur ra đời vào năm 1930 lúc nhóm Tự Lực Văn Ðoàn cổ xúy cải cách xã hội, và được cổ động mạnh mẽ trên báo Phong Hóa, gây chấn động tại các đô thị, nhất là tại Hà Nội, nơi từng được mệnh danh là đất ngàn năm văn vật. Áo Lemur cắt may hoàn toàn theo lối Tây phương nối vai ráp tay phồng, cổ bồng, cổ lá sen, cổ nhún tai bèo hoặc táo bạo hơn được khoét rộng để hở cổ. Vạt áo không nối sống nữa vì hàng vải mới sản xuất hoặc nhập cảng từ Pháp có khổ rộng hơn hàng nội hóa thời đó, nhưng vẫn giữ nguyên hai tà dài với gấu áo viền tròn nên tà áo không được mềm mại, được các cô tân thời dùng khăn ”san” bằng ”voan” mỏng quấn lơi quanh cổ để níu kéo nét dịu dàng yểu điệu. Áo mặc với quần dài trắng, chân mang giày cao gót, vai đeo bóp đầm, che dù tránh nắng. Phụ nữ thời đại cải cách này không nhuộm răng đen nữa mà để trắng, tóc vấn trần hoặc búi lỏng, rẽ ngôi lệch. Tại Sài Gòn vào năm 1934, trong truyện dài bằng thơ Lời Tâm Sự của Thuần Phong đăng trên tạp chí Cùng Bạn, cũng có một bài thơ giễu nhẹ các cô tân thời:
Một yêu mặt trắng má tròn Hai yêu môi mọng thoa son điểm hồng Ba yêu mắt sáng mày cong Bốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa Năm yêu mảnh áo ngắn tà Sáu yêu quần trắng là đà gót sen Bảy yêu vóc liễu dịu mềm Tám yêu giọng nói vừa hiền vừa vui Chín yêu học thức hơn người Mười yêu, yêu cả đức tài hình dong!
Những hình ảnh lố lăng quá trớn của một số phụ nữ chạy đua theo thời trang và kiểu áo Lemur mới mẻ đã được Vũ Trọng Phụng mô tả tỉ mỉ trong tác phẩm trào lộng thời đại Số Ðỏ. Một số các bà thủ cựu đã không ngần ngại tẩy chay kiểu áo quá tân thời này, thậm chí có bà đã xé toang vạt áo Lemur khi gặp một cô ăn mặc táo bạo trên đường phố Hà Nội. Bốn năm sau khi áo Lemur xuất hiện và chết yểu, vào năm 1934, họa sĩ Lê Phổ đã cải tiến Lemur, loại bỏ những đường nét Tây phương táo bạo để dung hòa với kiểu áo ngũ thân cũ, không nối vai nối tay, không tay phồng cổ hở mà vẫn cổ kín vạt dài không viền tròn nhưng ôm sát thân người để hai tà áo mềm mại tự do bay lượn.
Chiếc áo dài canh tân này được hoan nghênh nhiệt liệt trong Hội Chợ Nữ Công Ðà Nẵng năm 1934 với gian hàng phụ nữ có các bà các cô đứng bán mứt bánh và đồ thêu đan, đoan trang hiền thục dịu dàng với áo mầu quần trắng tóc búi lỏng hoặc vấn trần hay vấn khăn nhung. Tới đây, chiếc áo dài dung hòa được mới với cũ để tôn vinh những nét đẹp của người nữ và tìm được nhân dáng chính xác, để đứng vững từ đó cho đến bây giờ.
Suốt cả ba thập niên sau đó, chiếc áo dài không có nhiều thay đổi lớn ngoại trừ cổ áo khi cao lúc thấp, khi vuông lúc tròn, khi kín lúc hở; chiều dài cũng lên xuống khi mini lúc maxi; gấu áo cũng khi lớn lúc nhỏ; vòng eo có khi rộng lúc thắt chặt. Chiếc quần cũng thay đổi từ kiểu cẳng què qua đáy giữa, lưng từ to bản luồn giải rút đổi sang lưng nhỏ luồn dây thun rồi đổi gài nút, và sau cùng là khóa kéo kiểu Tây phương; trong khi ống quần cũng theo thời khi chân voi lúc ống túm. Cho đến cuối thập niên 50, áo dài Việt Nam theo dòng lịch sử thay đổi từ chế độ Quân chủ sang chế độ Cộng Hòa với một nhân vật nữ: Bà Ngô Ðình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân, phu nhân bào đệ cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Ngày 6 tháng 12 năm 1958, trong dịp khai mạc Triển Lãm Nữ Công tại Cô Nhi Viện Nữ Vương Hòa Bình ở Sài Gòn, bà Nhu xuất hiện với kiểu áo dài không cổ tay ngắn mang bao tay trắng, tóc bới cao. Một số các bà các cô trong Hội Phụ Nữ Liên Ðới vội vàng may mặc theo kiểu mới hở cổ: Cổ thuyền, cổ vuông, cổ tròn, cổ trái tim... Nhưng bà Nhu lộng quyền thao túng nền Ðệ Nhất Cộng Hòa và gây bất mãn khắp nơi. Nhiều vụ xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu đã xẩy ra để bầy tỏ chống đối. Chiếc áo dài cũng tham gia cuộc chống đối nhưng thầm lặng hơn, với kiểu áo dài cổ cao tận cằm đối lập kiểu áo không cổ. Sau đó, áo không cổ của bà Nhu cũng theo bà qua Tây nấp trong bóng tối mà mai một. Ðầu thập niên 60, nhà may Dung Dakao ở Sài Gòn tung một kiểu mới: Áo dài tay Raglan mặc với quần xéo ống rộng. Kiểu áo cập nhật này giúp xóa bớt những đường nhăn hai bên nách và vai vì được ráp tay xéo vai, nên thân hình người nữ được ôm gọn trong hàng lụa một cách đầy thẩm mỹ. Thuở đó, giới nữ sinh thích mặc ngắn gọn nên có kiểu mini raglan tay ngắn vạt nhỏ và tà áo chỉ dài tới gối, trong khi các bà thích kiểu maxi raglan tha thướt nhu mì hơn. Chiếc quần xéo may bằng hàng mềm xếp xéo góc khi cắt, ôm sát hông nhưng hai ống lòa xòa mà mỗi bước đi thấp thoáng thấy mũi giầy ẩn hiện dưới sóng lụa. Nhiều người còn cầu kỳ hơn, may quần xéo bằng hàng mỏng hai lớp trông thật yểu điệu. Sau đó, một vài nhà may ở Sài Gòn tung kiểu áo ba tà gồm thân sau nguyên một vạt nhưng thân trước chia làm hai như kiểu áo tứ thân xưa, gài nút từ cổ xuống ngực rồi tới bụng thì để thả mặc với quần tây kiểu chân voi để cập nhật với thời trang Âu Mỹ đang có kiểu quần ”bell bottom”. Cuối thập niên 60, nhiều bà đưa ra một ”mốt” hay hay là mặc nguyên một bộ áo dài và quần mầu phấn tiên, may bằng tơ lụa nội hóa trông rất dịu dàng khả ái. Một số ca sĩ lên sân khấu lại mặc nguyên bộ mầu sắc đỏ chói hay xanh ngắt viền kim tuyến sặc sỡ.
Từ kiểu Raglan có nhiều kiểu biến chế lạ mắt: Thân áo may bằng hàng dày, nhưng phía ngực và tay ráp bằng hàng ren hoặc hàng mỏng; hoặc thân áo khác mầu với hai tay, có khi là hai mầu tương phản như đen trắng, hoặc đậm nhạt, và có khi may bằng hàng rất mỏng nên phải dùng hai hoặc ba lớp, ý hẳn nhắc nhở đến ngày xưa các cụ mặc áo mớ ba mớ bảy để phô trương sự giàu có của mình. Nữ sinh Việt Nam trước 75 đến trường đều thường là ”áo trắng học trò”, nhưng thứ hai chào cờ phải mặc đồng phục: Áo trắng nữ sinh Ðồng Khánh Huế, áo lam Hà Nội, áo xanh da trời Trưng Vương, áo hồng Gia Long... những mầu áo thơ mộng đã một thời lên hương qua thơ nhạc. Một điều ghi nhận là sau khi không còn thể chế quân chủ, kể từ thời Ðệ nhất Cộng hòa (tháng 7 1954), hầu hết các cô dâu đều mặc quốc phục áo dài có khoác ngoài một áo thụng rộng may theo kiểu áo mệnh phụ hoặc áo hoàng hậu, và đội khăn vành xanh hoặc vàng. Ý hẳn đó là ngày nàng trở thành một bậc mệnh phụ và bước lên ngôi hoàng hậu trong cuộc đời của chàng vậy. Từ cuối thập niên 60, nhà may Thanh Khánh ở Dakao đưa ra những mẫu hàng thêu hoa lá cành để may áo dài, và tiệm Saigon Souvenirs khu Thương xá Tax Sài Gòn đưa ra những mẫu hàng vừa vẽ vừa thêu trên lụa rất quý phái lịch sự. Ba nhà may nổi tiếng tại Sài Gòn trước 75 là nhà may Thanh Khánh nay mở tại Paris, Pháp nhà may Dung Dakao và nhà may Thiết Lập Pasteur nay mở tại đường Brookhurst, Garden Grove, California, Hoa Kỳ.
Như trên đã nói, chiếc áo dài Việt Nam có số phận gắn liền với lịch sử dân tộc. Khi Cộng sản xâm chiếm miền Nam vào cuối tháng Tư, 1975, chiếc áo dài cũng theo những bước chân di tản lưu vong ra ngoại quốc, trong khi chính sách đàn áp và nền kinh tế kiệt quệ trong nước đã đẩy lui chiếc áo dài vào bóng tối hoặc chôn kín trong đáy tủ và chỉ được đưa ra ánh sáng trong dịp cưới hỏi lễ lạc. Trên bước đường lưu vong, bất cứ ở Mỹ, Phi, Âu, hay Á, chiếc áo dài được nâng niu bảo trọng hơn bao giờ. Ở đâu có người Việt tỵ nạn là ở đó có áo dài, áo lụa, áo nhung, áo tơ, áo gấm, áo vải, áo thêu, áo vẽ... kể cá áo gấm lam, áo thụng khăn đóng của quý vị tu mi nam tử. Phẩm chất, mầu sắc cũng như những hình tượng trên áo được hòa hợp với trình độ thẩm mỹ khá cao. Trong số những nhà sáng chế kiểu áo, phải kể đến Thành Lễ Hoàng Ðình Tuyên ở Paris với những kiểu hoàn toàn mới lạ và táo bạo như áo dài hở ngực hở cổ, áo dài không có tay hoặc chỉ có một tay kiểu... độc thủ nữ hiệp, áo dài cũn cỡn ngắn trên đầu gối kiểu... lính thú đời xưa, áo dài năm lớp hàng mầu v.v... Ðặc biệt các kiểu áo dài mới của Thành Lễ đều mặc với quần cùng màu hoặc màu tương phản để tạo sự bắt mắt. Rất may, đa số các kiểu mới này đều còn giữ nguyên hai tà áo bất khuất bay lượn, nét đặc biệt của áo dài Việt Nam.
Hiện nay phong trào áo vẽ và nhuộm mầu đang lấn át những mẫu áo thêu loan phượng giao long, cúc trúc lan mai và cảnh trí thời xưa, đồng thời với sự tái xuất kiểu áo Lemur tay phồng nối vai. Nhiều họa sĩ nổi danh tung ra vô số mẫu vẽ trên lụa: Thành Lễ Hoàng Ðình Tuyên, Thúy Uyển, Nhung ở Paris, Tiểu Linh, Frederic Thọ ở Cali, Anh Ðào, Kim Liệu ở Virginia... Người viết bài này vì yêu áo dài Việt Nam nên cũng mượn mầu sắc ghi lại những hình ảnh quê hương qua hoa lá cành mây nước trăng sao trên lụa, để mong phổ biến những vẻ đẹp của quê hương thể hiện qua tà áo, đóng góp phần nào vào việc gìn vàng giữ ngọc. Những chiếc áo dài Việt Nam dù với mầu sắc đậm chói hay dịu mát, may bằng hàng vải thô sơ hay tơ gấm lụa là, vạt áo có ngắn cũn hay dài thượt, thân áo có nhỏ hẹp hay rộng rãi, cổ áo có kín cổng cao tường hay hở hang lộ liễu... vẫn là một kết hợp của chân thiện mỹ. Áo dài Việt Nam không những nói lên nhân sinh quan Việt Nam mà còn gói trọn tinh thần Việt Nam: Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng chỉ tiếp nhận tinh hoa mà gạn lọc cặn bã, tô bồi thêm nét đẹp mà vẫn giữ cá tính độc lập. Áo dài Việt Nam là niềm kiêu hãnh của người Việt Nam. Chính vì vậy mà người Việt vẫn yêu quý tà áo Việt, nhất là thế hệ trẻ lưu vong trong sứ mạng gìn vàng giữ ngọc./.
Khu Phong Nha-Kẻ Bàng nằm trong vùng sinh thái Bắc Trường Sơn thuộc địa phận các huyện Bố Trạch; Minh Hoá; Quảng Ninh; cách thành phố Đồng Hới 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội 500 km về phía nam. Được đánh giá là một trong 238 sinh thái quan trọng trên toàn cầu, với các dãy núi đá vôi phát triển hầu nhu liên tục và thành phần tương đối đồng nhất, được đánh giá là vùng Karst rộng nhất với diện tích trên 200.000 ha, là một mẫu điển hình của quá trình địa chất về thể loại Karst và hình thành hang động đang diễn biến toàn cầu không chỉ ở lĩnh vực đa dạng sinh học mà còn là một khu vực thắng cảnh hang động bậc nhất thế giới.
Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng có tổng diện tích 343.638,04 ha. Trong đó: Vùng lõi của VQG PNKB có diện tích 125.729,6 ha, bao gồm phân khu bảo vệ nghiêm ngặt 64.894 ha; phân khu phục hồi sinh thái 17.449 ha; phân khu hành chính dịch vụ 3.411 ha; khu vực mở rộng 31.070 ha (gồm các xã Thượng Hóa và Hóa Sơn huyện Minh Hóa); đất rừng đặc dụng 8.364.5 ha; đất chưa có rừng 173,6 ha; đất khác 367,5 ha. Vùng đệm 217.908,44 ha bao gồm 13 xã giáp ranh thuộc 3 huyện Bố Trạch, Minh Hóa, Quảng Ninh.
Khu Phong Nha-Kẻ Bàng có một quần thể hơn 300 hang động lớn nhỏ phong phú, kỳ vỹ được mệnh danh là “ Vương quốc hang động”, nơi tiềm ẩn nhiều điều kỳ lạ hấp dẫn, là thiên đường cho các nhà khoa học hang động, các nhà thám hiểm và du lịch. Cho đến nay, hơn 170 hang động với tổng chiều dài hàng trăm Km đã được Đoàn khảo sát Hoàng gia Anh phối hợp với Khoa Địa lý Đại học Quốc gia Hà Nội khảo sát có hệ thống, kỹ lưỡng và được đánh giá là một trong những kỳ quan đẹp nhất với các đặc trưng: có sông ngầm đẹp nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, các bãi cát, bãi đá ngầm đẹp nhất, có hồ nước ngầm đẹp nhất, có hang khô rộng và đẹp nhất, có hệ thống thạch nhũ kỳ ảo và tráng lệ nhất, là hang nước dài nhất. Trong các hang động thì Phong Nha thật sự nổi bật bởi chiều dài khảo sát gần 8 km, chủ yếu với sông ngầm, hang Vòm dài trên 15km, hang thiên đường dài 31,4 km được xếp vào danh sách hang động có sông ngầm dài nhất thế giới. Đặc biệt là hang Sơn Đoòng được đánh giá là một trong những hang động đẹp và lớn nhất thế giới.
Cùng với hệ thống hang động kỳ diệu, sông Troóc, sông Chày, sông Son trong khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng với dòng nước trong xanh chảy giữa vùng núi đá có rừng tạo nên cảnh đẹp thơ mộng như bức tranh thuỷ mặc quyến rũ du khách.
Rừng nguyên sinh Phong Nha-Kẻ Bàng có hàng chục đỉnh núi cao trên 1.000 m, hiểm trở chưa từng có vết chân người, là các điểm hấp dẫn thể thao leo núi và thám hiểm. Điển hình là các đỉnh Co Rilata cao 1.128 m, Co Preu cao 1.213 m. Xen kẻ giữa các đỉnh núi trên 1.000 m là những thung lũng và các đỉnh cao từ 800 m đến 1.000 m, thích hợp cho du lịch sinh thái và leo núi nhu Phu Sinh 965 m, Ma Ma 835 m. Đặc biệt, đỉnh Mã Tác cao 721 m có thung lũng với mặt bằng rộng 70 ha.
Trong Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng còn tồn tại một khu rừng nhiệt đới nguyên sinh ít bị tác động với độ che phủ trên 96,2% và có tính đa dạng sinh học cao. Tại vùng này theo số liệu điều tra, bước đầu có nhiều loại thực vật đặc hữu của rừng núi đá vôi như Chò đãi, Chò nước, Trầm hương, Nghiến, Sắng, Ba kích và Sao… Thực vật bậc cao có mạch gồm 1.762 họ, 511 chi, 876 loài. Trong đó có 38 loài được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam và 25 loài được ghi vào Sách Đỏ của IUCN ( Hiệp hội bảo tồn Thiên nhiên Thế giới) và 13 loài đặc hữu ở Việt Nam. Gần đây các nhà khoa học phát hiện thêm nhiều loài thực vật quý hiếm có nguy cơ tiệt chủng cao ngoài tự nhiên như Bách xanh đá, Lan hài đốm, Lan hài xanh, lan hài soắn và nhiều thực vật quý hiếm khác cũng được ghi nhận. Ngoài tài nguyên thực vật đa dạng, đối với động vật đã xác đinh được 140 loài thú lớn, có 35 loài được mô tả trong Sách Đỏ Việt Nam và 19 loài được liệt kê trong Sách Đỏ của IUCN; 356 loài chim, có 15 loài được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam, 19 loài liệt kê trong Sách Đỏ của IUCN; 99 loài bò sát và lưỡng cư, trong đó 4 loài bò sát mới được phát hiện như Thằn lằn tai, Tắc kè Phong Nha, Rắn lục Trường Sơn, Rắn mai gầm thành, có 18 loài được liệt kê trong Sách Đỏ Việt Nam và 6 loài được đư trong Sách Đỏ của IUCN; 259 loài bướm; 162 loài cá, trong đó có 4 loài đặc hữu đối với Quảng Bình; 47 loài ếch nhái. Đặc biệt rừng trên núi đá vôi là nơi phân bố nhiều loài Linh trưởng nhất Việt Nam, gồm 10 loài được ghi nhận, chiếm khoảng 50% tổng số loài thuộc bộ Linh trưởng ở Việt Nam, 7 loài thuộc bộ Linh trưởng được liệt kê vào Sách Đỏ Việt Nam. So với các khu bảo tồn và vườn quốc gia khác ở Việt Nam thì độ phong phú của các loài động vật ở Phong Nha-Kẻ Bàng còn khá cao. Các loài quý hiếm, đặc biệt Linh trưởng có số lượng cao nhất nước.
Ngoài sinh cảnh thảm thực vật và động vật hoang dã, Khu Phong Nha-Kẻ Bàng còn là nơi đã từng tồn tại và đang hiện diện cả một hệ di tích lịch sử văn hoá có giá trị cho nhiều thời đại như các di tích khảo cổ học thời tiền sử, văn hoá Chămpa và Việt cổ, di tích căn cứ kháng chiến chống Pháp của vua Hàm Nghi cuối thế kỷ XIX tại núi Ma Rai và những địa danh nổi tiếng trên đường mòn Hồ Chí Minh như bến phà Xuân Sơn, bến phà Nguyễn Văn Trỗi, đường 20 quyết thắng đã đi vào huyền thoại gắn liền với những chiến công hiển hách và sự hi sinh cao cả của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh giành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Thêm nữa, trong khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng sinh sống chủ yếu là người Chứt, một số ít người Việt và Bru-Vân Kiều. Dân tộc Chứt ở Quảng Bình bao gồm các tộc người: Sách, Mày, Rục, Arem, Mã Liềng, có khoảng 3.500 người phân bố chủ yếu ở các huyện Tuyên Hoá, Minh Hoá và một số ít người ở Bố Trạch. Trong khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng, người Chứt có mặt ở hai huyện Minh Hoá và Bố Trạch gồm hầu hết các tộc người, trừ Mã Liềng, với khoảng 2.450 người. Người Chứt (được gọi là Chứt Poong) và ngôn ngữ của họ với đoán định được tách ra từ tiếng Việt-Mường đầu tiên vào khoảng thế kỷ V-VI. Danh xưng “Chứt” có nghĩa là “Rèm Đá”, “Núi Đá”. Người Chứt ở Phong Nha-Kẻ Bàng dù là dân cư nông nghiệp, nhưng trước đây họ chủ yếu săn bắt, hái lượm, sống trong tình trạng hết sức lạc hậu, hoang dã. Đại bộ phận các tộc người Chứt sống du canh, du cư trong rừng núi, trong các hang động rèm đá… Hiện nay đời sống tinh thần và vật chất của người Chứt đang từng bước được cải thiện. Người Chứt văn hoá vật thể và phi vật thể của họ là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học và đồng thời là địa chỉ hấp dẫn của loại hình du lịch văn hoá dân tộc ít người ở vùng Phong Nha-Kẻ Bàng.
Trong những năm qua, Khu du lịch Phong Nha-Kẻ Bàng đã trở thành địa chỉ yêu thích của du khách. Số lượng khách du lịch đến tham quan Phong Nha ngày càng đông, nhất là từ khi Vườn quôc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là Di Sản Thiên Nhiên Thế Giới. Cùng với Thánh Địa Mỹ Sơn, Phố cổ Hội An, Cố đô Huế, Di Sản Thiên Nhiên Thế Giới Phong Nha-Kẻ Bàng, tuyến du lịch độc đáo “ Con đường Di sản Miền Trung” hình thành và lan rộng, tạo nên sức hấp dẫn đối với khách du lịch.
Hiện nay Chính phủ Việt Nam đang lập hồ sơ khoa học Di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng đẻ đệ trình UNESCO xem xét và tiếp tục công nhận Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới lần thứ hai về tiêu chí đa dạng sinh học.
Vịnh Hạ Long nằm ở Đông Bắc Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 165km, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh. Đây là vùng biển đảo được xác định trong tọa độ từ 106°56’ đến 107°37’ kinh độ Đông và 20°43’ đến 21°09’ vĩ độ Bắc với diện tích 1.553 km² gồm 1969 hòn đảo, trong đó 90% là đảo đá vôi. Phía Bắc và Tây Bắc Vịnh Hạ Long kéo dài từ thị xã Quảng Yên, qua thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả, đến hết phần biển đảo huyện Vân Đồn; phía Đông Nam và phía Nam giáp bờ Tây Vịnh Bắc Bộ, phía Tây Nam giáp đảo Cát Bà (Hải Phòng). Vịnh Hạ Long bao gồm cả vịnh Bái Tử Long. Vịnh Bái Tử Long có giá trị tương đồng với khu Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long về cảnh quan, địa chất, địa mạo, đa dạng sinh học và văn hóa lịch sử.
Nguồn gốc tên gọi
Tên Hạ Long nghĩa là “Rồng xuống”. Tên này chưa thấy được ghi chép trong các thư tịch cổ của nước ta từ trước thế kỷ XIX. Khi nói đến khu vực Vịnh Hạ Long ngày nay, sử sách xưa thường chép chung là biển Giao Châu, Lục Châu, Lục Thủy, Vân Đồn, Hải Đông, An Bang... mãi đến cuối thế kỷ XIX, tên Vịnh Hạ Long mới thấy xuất hiện trên bản đồ hàng hải Vịnh Bắc Bộ của Pháp.
Tên Hạ Long bắt nguồn từ đâu và có từ bao giờ? Trong dân gian từ bao đời nay vẫn lưu truyền câu chuyện huyền thoại gắn liền với sự ra đời tên gọi của Vịnh Hạ Long. Truyện kể rằng:
“Ngày xưa, khi người Việt mới lập nước, trong một lần nước Việt bị giặc ngoại xâm, trời sai rồng mẹ mang theo một đàn rồng con xuống giúp người Việt đánh giặc. Khi thuyền giặc từ biển cả ào ạt tấn công vào bờ thì đàn rồng cũng hạ giới. Đàn rồng lập tức phun ra vô số châu ngọc, những châu ngọc ấy thoắt biến thành muôn vàn đảo đá sừng sững, liên kết lại như bức tường thành vững chãi, bất ngờ chặn bước tiến quân giặc. Thuyền giặc đang lao nhanh bị chặn lại đột ngột đâm vào các đảo đá, đâm vào nhau vỡ tan tành.
Sau khi giặc tan, rồng mẹ và rồng con không trở về trời, mà ở lại hạ giới - nơi vừa diễn ra trận chiến đấu. Chỗ rồng mẹ xuống là Hạ Long, nơi rồng con xuống là Bái Tử Long. Đuôi của đàn rồng quẫy lên trắng xóa là Long Vĩ ( tức bán đảo Trà Cổ ngày nay)”.
Câu chuyện dân gian gắn liền với quan niệm về nguồn gốc của dân tộc Việt là “Con Rồng, cháu Tiên”. Rồng, Tiên chính là sức mạnh truyền thống của dân tộc đã được biểu tượng hoá và có lẽ người đặt cho vùng biển đảo cái tên thơ mộng ấy không ai khác ngoài dân gian nơi đây. Ngày nay, nhiều đảo núi trong Vịnh Hạ Long vẫn mang tên Rồng như: Đầu Rồng, Mắt Rồng, Hòn Rồng, Cái Rồng, ngoài xa có đảo Long Châu, đảo Bạch Long Vĩ.
Khí hậu hải văn
Vịnh Hạ Long có khí hậu cơ bản là nhiệt đới, nóng ẩm, chia làm 2 mùa chính và 2 mùa chuyển tiếp: Mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Mùa hè từ tháng 5 đến tháng 9. Hai mùa chuyển tiếp: Mùa xuân vào tháng 4 và mùa thu vào tháng 10 có khí hậu mát mẻ ôn hoà. Mùa hè có nhiệt độ trung bình 26°C - 27°C. Mùa đông có nhiệt độ trung bình 15°C - 20°C. Nhiệt độ trung bình năm 18°C - 19°C.
Vịnh Hạ Long có lượng mưa trung bình năm từ 2.000mm - 2.200mm. Độ mặn của nước biển chia làm 2 mùa tương ứng: Mùa mưa đạt 21‰ - 22‰, mùa khô đạt 32‰ - 33‰. Địa hình đáy Vịnh tương đối bằng phẳng, với độ sâu trung bình 5 - 10m, một số luồng lạch có độ sâu từ 15 - 29m, như: Vùng trũng Cửa Lục sâu 20m, lạch Thẻ Vàng sâu 22 - 27m, các lạch khác có độ sâu trung bình 9 - 10m. Do có một hệ thống đảo phía ngoài che chắn nên sóng ở Vịnh Hạ Long tương đối nhỏ, ở đây có chế độ nhật triều thuần nhất với độ lớn từ 3,5m - 4m, triều thấp vào các tháng 3, 4, 8 và 9, triều cao vào các tháng 1, 6, 7 và 12.
Vịnh Hạ Long là một tác phẩm điêu khắc hùng vĩ và độc đáo của thiên nhiên với hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ nhô lên từ mặt nước trong xanh. Các đảo đá Vịnh Hạ Long không phải đơn điệu, buồn tẻ mà là một thế giới sống động: Đảo giống như đôi gà hướng mỏ vào nhau (hòn Gà Chọi), đảo giống chú đại bàng đậu trên mỏm đá rình mồi (hòn Đại Bàng) hay ông già đang ngồi trầm ngâm câu cá (hòn Lã Vọng)... Cảnh đẹp Vịnh Hạ Long luôn thay đổi theo góc nhìn, thời gian và tâm trạng của người ngoạn cảnh. Cảnh đẹp Vịnh Hạ Long không chỉ thể hiện ở dáng núi, sắc nước mây trời, mà ẩn giấu trong lòng các đảo đá còn là hệ thống hang động vô cùng phong phú, mỗi hang động có một vẻ đẹp khác nhau tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn lạ lùng. Động Thiên Cung chau chuốt, lộng lẫy như được chạm khắc từ pha lê; hang Đầu Gỗ được mệnh danh là “động các kỳ quan” với kiến trúc khỏe khoắn và hoành tráng; hang Sửng Sốt như mở ra một thế giới cổ tích, thần thoại. Từ xưa, vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long đã là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho thơ, ca, nhạc, họa. Thế kỷ XV, đại thi hào Nguyễn Trãi trên đường tới Vân Đồn, khi qua Vịnh Hạ Long đã viết:
“Đường đến Vân Đồn lắm núi sao
Kỳ quan đất dựng giữa trời cao”
(Trích bài “Vân Đồn ”, Đào Duy Anh dịch) .
Vua Lê Thánh Tông, cảm tác trước cảnh đẹp của biển trời, mài đá đề thờ dưới chân núi Truền Đăng, có câu thơ viết rằng:
Là khu vực có môi trường cảnh quan đặc sắc, hệ thống hang động phong phú, bãi biển đẹp, còn lưu giữ nhiều giá trị văn hoá truyền thống, các di tích lịch sử, đền, chùa, miếu... do vậy,Vịnh Hạ Long có lợi thế để phát triển nhiều dịch vụ du lịch như: du thuyền ngắm cảnh, thăm hang động, tắm biển, chèo kayak, nghỉ dưỡng, nghỉ đêm, lặn biển, leo núi, tham gia các lễ hội truyền thống, học tập, nghiên cứu...
Nằm ở phía Tây Nam khu di sản thế giới Vịnh Hạ Long cách bến tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 11km. Với diện tích 8.7 ha, đảo có cấu tạo địa chất đặc biệt với hai phần ba bao phủ bởi đất feralit và đất phong hóa đỏ vụi. Đảo có 2 bãi tắm đẹp và điểm ngắm cảnh bao quát khu di sản thế giới ở phía Đông Nam và Tây Bắc. Trước kia người dân địa phương tìm thấy rừng trên đảo mọc rất nhiều cây Sim - một loài cây bụi có quả màu tím, vì vậy đảo được gọi tên là Soi Sim. Với hệ sinh thái phong phú và ở vị trí trung tâm khu vực di sản, hiện nay, đảo Soi Sim là địa điểm hấp dẫn thu hút du khách đến tham quan thắng cảnh, tắm biển, du lịch sinh thái trên Vịnh Hạ Long. Trong tương lai đảo Soi Sim sẽ được phát triển thành một trong những trung tâm du lịch sinh thái với hệ thống các nhà nghỉ nhỏ bằng gỗ, vườn bảo tồn động thực vật, hệ thống lầu ngắm cảnh, nghỉ dưỡng hấp dẫn trong khu vực trung tâm di sản.
Cách thị xã Cẩm Phả 26km về phía Đông Nam. Đảo có bãi cát tự nhiên dài tới hàng km.... Vào thế kỷ XII, đảo là trung tâm thương mại quốc tế sầm uất và quan trọng nhất của Việt Nam. Trên đảo hiện còn rất nhiều di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc giá trị như: Đình, miếu, chùa, nghè, bến cảng cổ...
Cách thị xã Cẩm Phả 26km về phía Đông Nam. Đảo có bãi cát tự nhiên dài tới hàng km.... Vào thế kỷ XII, đảo là trung tâm thương mại quốc tế sầm uất và quan trọng nhất của Việt Nam. Trên đảo hiện còn rất nhiều di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc giá trị như: Đình, miếu, chùa, nghè, bến cảng cổ...
Đặc biệt, nơi đây có hội làng Quan Lạn diễn ra từ ngày 10 – 20/6 âm lịch hàng năm với trò đua thuyền hấp dẫn và sinh động.
Giao thông cảng biển
Là một vùng biển kín, ít sóng, an toàn cho việc neo đậu tàu thuyền; hệ thống luồng lạch tự nhiên dày đặc và cửa sông ít bị bồi lắng, tạo điều kiện thuận lợi cho phép xây dựng hệ thống giao thông cảng biển lớn mạnh nối liền tuyến vận tải thủy trong nước và thế giới. Đây là một trong những thế mạnh không chỉ trong phát triển kinh tế mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giao lưu văn hoá, thông thương với nước ngoài.
Giá trị địa chất
Khu vực Vịnh Hạ Long có chiều sâu lịch sử địa chất đến 3 tỷ năm và có những dẫn liệu rõ ràng ít nhất gần 500 triệu năm qua, với những hoàn cảnh cổ địa lý khác nhau. Vào kỷ Ordovic-Silur (485 - 419 triệu năm trước) khu vực Hạ Long đã từng là biển sâu, vào các kỷ Carbon-Permi (359 - 252 triệu năm trước) vịnh Hạ Long là biển nông, biển ven bờ vào cuối Paleogen – đầu Neogen (khoảng 26 - 20 triệu năm trước) và một số lần biển lấn trong kỷ Đệ tứ (khoảng 2,6 triệu năm trước đến nay). Lịch sử địa chất khu vực Vịnh Hạ Long cũng đã trải qua ba lần tạo sơn quan trọng. Lần đầu tạo sơn (Caledoni) vào cuối kỷ Silua (hơn 400 triệu năm trước), khu vực Vịnh Hạ Long là một vùng núi, chịu quá trình xâm thực bóc mòn mạnh mẽ trong điều kiện khô nóng; pha chuyển động tạo sơn lần thứ hai có tên là Indosini xảy ra vào cuối kỷ Trias (khoảng 200 triệu năm trước), đã tác động sâu sắc đến khu vực Vịnh Hạ Long, khu vực này tiếp tục duy trì chế độ lục địa. Lần tạo sơn thứ ba (Anpi) tạo nên sự phân dị giữa các dãy núi - địa lũy và các bồn trũng - địa hào làm tiền đề cho biển hiện đại lấn vào tạo nên Vịnh Hạ Long. Khu vực Vịnh Hạ Long có hai thời kỳ cổ địa lý rất đặc biệt. Kỷ Carbon (359 - 299 triệu năm trước) là thời gian nóng ẩm của trái đất phát triển môi trường đầm lầy thực vật thuận lợi hình thành các bể than đá khổng lồ ở Châu Âu thì ở Vịnh Hạ Long lại là chế độ biển nông - điều kiện khí hậu khô nóng để hình thành nên tầng đá vôi dày trên 1.200m là một điều kỳ diệu, hiếm thấy trong tự nhiên. Trái lại, vào kỷ Trias (252 - 201 triệu năm trước), khi trái đất nói chung, Châu Âu nói riêng có khí hậu khô nóng thì khu vực Vịnh Hạ Long lại là những đầm lầy ẩm ướt với những cánh rừng Tuế, Dương xỉ khổng lồ tích tụ nhiều thế hệ, bị chôn vùi tạo nên vùng than nổi tiếng.
Giá trị địa chất khu vực: Vịnh Hạ Long và vùng ven bờ bao gồm nhiều hệ tầng trầm tích lục nguyên và cacbonat có tuổi từ nguyên đại Cổ sinh đến Tân sinh. Đó là những trang sử đá ghi lại những biến cố vĩ đại của các quá trình địa chất khu vực xảy ra đã hàng trăm triệu năm. Nhiều hệ tầng trầm tích chứa đựng các vết tích cổ sinh vật dưới các dạng hoá thạch khác nhau, trong đó có những loài đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Đây là kho báu tìm hiểu về quá trình phát triển và tiến hoá của sự sống trên trái đất.
Giá trị địa chất Đệ tứ: Các hệ tầng trầm tích Đệ tứ, các bề mặt thềm biển nâng cao, các bề mặt đồng bằng phân bậc, các hệ thống thung lũng sông cổ được bảo tồn dưới dạng các luồng lạch kế thừa dưới đáy Vịnh. Hệ thống hang động và trầm tích hang động, các ngấn biển cổ dưới dạng các hàm ếch và các hệ hầu hà cổ bám trên vách đá là những tài liệu sống động về các sự kiện địa chất Đệ tứ. Đặc biệt, với thế Holocen (khoảng 11,7 nghìn năm trước), góp phần làm sáng tỏ quá trình dao động mực nước biển khu vực gắn liền với sự phát triển của các nền văn hoá khảo cổ khu vực như: Soi Nhụ, Cái Bèo, Hạ Long.
Dưới góc độ giá trị địa chất biển ven bờ, Hạ Long được ghi nhận như là một bồn tích tụ hiện đại, một vịnh biển được tạo nên không phải từ những mũi nhỏ của lục địa, mà nhờ sự tồn tại của hệ thống đảo chắn phía ngoài. Vịnh Hạ Long có hoàn lưu nước khá mạnh, chủ yếu do dòng triều và nằm ở vùng nhật triều đều có biên độ lớn điển hình của thế giới. Tại đây, quá trình bờ ăn mòn hoá học đá cacbonat rất phát triển trong môi trường nước biển kiềm tạo nên các ngấn hàm ếch sâu rộng làm tăng thêm dáng vẻ kỳ diệu cho các đảo đá vôi.
Đánh bắt nuôi trồng hải sản
Với điều kiện thuận lợi về địa hình, khí hậu, thuỷ văn, Vịnh Hạ Long có nguồn lợi hải sản rất phong phú. Đây là nơi quần tụ, sinh sống và phát triển của nhiều loại hải sản có giá trị cao như: Cá Song, cá Thu, cá Nhụ, Mực, Tôm, Cua, Bào ngư, Hải sâm ...
Nghề đánh bắt hải sản đã được ngư dân ở đây sử dụng làm phương thức sinh sống từ bao đời nay. Cùng với điều kiện lý tưởng nguồn nước giàu chất dinh dưỡng, biển lặng sóng, những bãi triều rộng đã tạo thuận lợi cho việc phát triển một nghề mới là nuôi trồng thuỷ hải sản trên Vịnh, đặc biệt là những loài vừa có giá trị kinh tế cao vừa có khả năng làm sạch môi trường như: Tu hài, Ngọc trai, Vẹm xanh, Sò, Ngán…
Công nhận lần thứ nhất
Năm 1987, Chính phủ Việt Nam chính thức phê chuẩn, tham gia Công ước quốc tế về bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, mở đầu việc hoà nhập vào các hoạt động quốc tế về việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản của Việt Nam. Năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) cho phép Ủy ban Quốc giaUNESCO của Việt Nam và Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du Lịch) phối hợp với một số địa phương xúc tiến lập hồ sơ khoa học giới thiệu 5 Di sản văn hoá và thiên nhiên trong đó có Vịnh Hạ Long trình UNESCO xem xét, công nhận vào danh mục Di sản thế giới. Tháng 10-1993, hồ sơ về Vịnh Hạ Long cơ bản được hoàn thành và trình Uỷ ban Di sản thế giới. Ngay sau khi nhận được hồ sơ, Uỷ ban Di sản thế giới đã cử các chuyên gia của tổ chức ICOM (Hiệp hội Bảo tàng thế giới) và Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) đến Hạ Long để thẩm định tính xác thực và những giá trị của di sản.
Trong quá trình thẩm định của các chuyên gia quốc tế về Di sản (từ tháng 2 đến tháng 10-1994), hồ sơ Vịnh Hạ Long tiếp tục được hoàn tất để làm rõ hơn về ranh giới, tổ chức quản lý, bảo vệ di sản. Ngày 17-12-1994 tại kỳ họp thứ 18 tại thành phố Phu kẹt (Thái Lan), Uỷ ban Di sản thế giới đã chính thức công nhận Vịnh Hạ Long vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới với giá trị ngoại hạng về mặt thẩm mỹ theo tiêu chuẩn thứ 3 (tức tiêu chuẩn iii ) của Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới với số phiếu biểu quyết 100% .
Công nhận lần thứ hai
Theo nhận định của ông Hans Friederich - tiến sĩ địa chất học, Trưởng Văn phòng đại diện của tổ chức IUCN tại Hà Nội - giá trị địa chất của Hạ Long là hết sức đặc biệt và hiếm có trên thế giới, nó hoàn toàn đủ điều kiện để công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới. Theo đề nghị của Ban Quản lý Vịnh Hạ Long và IUCN, tháng 9 năm 1998, giáo sư, tiến sỹ Tony Whalham, chuyên gia địa chất của trường Đại học Trent Nottingham (Hoàng gia Anh) - đã tiến hành nghiên cứu địa chất vùng đá vôi Karst Vịnh Hạ Long
Sau báo cáo của Giáo sư, Tiến sĩ Tony Walham về giá trị địa chất Vịnh Hạ Long, Trung tâm Di sản Thế giới tại Paris đã gửi thư tới UBND tỉnh Quảng Ninh, Uỷ ban Quốc gia UNESCOViệt Nam và Ban Quản lý Vịnh Hạ Long yêu cầu xúc tiến việc chuẩn bị hồ sơ trình UNESCO công nhận giá trị ngoại hạng mang tính toàn cầu về địa chất vùng Karst Vịnh Hạ Long. Tháng 7 năm 1999, hồ sơ đệ trình Uỷ ban Di sản Thế giới công nhận Vịnh Hạ Long lần thứ hai về giá trị địa chất đã được hoàn tất. Tháng 12-1999, Uỷ ban Di sản Thế giới đã chính thức xác nhận vấn đề này và đưa việc thẩm định hồ sơ và công nhận giá trị địa chất Vịnh Hạ Long vào năm 2000. Tháng 3-2000, giáo sư Elery Hamilton Smith, một chuyên gia nổi tiếng của Australia, thành viên của tổ chức IUCN được cử tới Hạ Long để thẩm định tính xác thực của hồ sơ, giá trị địa chất cũng như đánh giá về thực trạng quản lý và đưa ra một số khuyến nghị. Sau báo cáo của giáo sư Elery Hamilton Smith, tháng 7 năm 2000, kỳ họp giữa năm của văn phòng Trung tâm Di sản thế giới tại Paris đã chính thức đề nghị Uỷ ban Di sản Thế giới công nhận Vịnh Hạ Long là Di sản thiên nhiên thế giới bởi những giá trị ngoại hạng về mặt khoa học địa chất theo tiêu chuẩn (i) của Công ước về bảo vệ di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới. Ngày 29-11-2000, tại kỳ họp toàn thể lần thứ 24 tại thành phố Cairns, Bang Qeensland, Australia, Uỷ ban di sản Thế giới đã công nhận Vịnh Hạ Long là di sản Thiên nhiên thế giới lần thứ 2 về giá trị địa chất địa mạo với số phiếu tuyệt đối.
Quan họ Bắc Ninh là những làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ, tập trung chủ yếu ở vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang). Đây là môn nghệ thuật được hợp thành bởi nhiều yếu tố như âm nhạc, lời ca, phục trang, lễ hội … với một lối hát giao duyên dân dã, thể hiện mối quan hệ gắn bó tình nghĩa giữa những "liền anh", "liền chị" hát quan họ và là nét văn hóa tiêu biểu của người dân vùng Kinh Bắc.
Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam và được lưu truyền từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu. Muốn hát quan họ phải có "bọn": "bọn nam" hoặc "bọn nữ". Vì vậy trong một làng quan họ thường có nhiều "bọn nam" và "bọn nữ". Mỗi "bọn" thường có 4, 5, 6 người và được đặt tên theo thứ tự: chị Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu hoặc anh Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu. Nếu số người đông tới 7, 8 người thì đặt tên là chị Ba, chị Tư (bé) hoặc anh Ba, anh Tư (bé)… mà không đặt chị Bảy, Tám hay anh Bảy, Tám. Trong các sinh hoạt quan họ, các thành viên của "bọn" quan họ không gọi nhau bằng tên thật mà gọi theo tên đặt trong "bọn".
Hát quan họ là hình thức hát đối đáp giữa "bọn nam" và "bọn nữ". Một "bọn nữ" của làng này hát với một "bọn nam" của làng kia với một bài hát cùng giai điệu, khác về ca từ và đối giọng. "Bọn hát" phân công người hát dẫn, người hát luồn nhưng giọng của hai người hát cặp với nhau phải tương hợp thành một giọng để tạo ra một âm thanh thống nhất. Dân ca quan họ có 213 giọng khác nhau, với hơn 400 bài ca. Lời một bài ca có hai phần: lời chính và lời phụ. Lời chính là thể thơ và ca dao của Việt Nam, phần lớn là thể lục bát, lục bát biến thể, bốn từ hoặc bốn từ hỗn hợp với từ ngữ giàu tính ẩn dụ, trong sáng, mẫu mực. Đây là phần cốt lõi, phản ánh nội dung của bài ca là thể hiện tình yêu lứa đôi. Lời phụ gồm tất cả những tiếng nằm ngoài lời ca chính, là tiếng đệm, tiếng đưa hơi như i hi,ư hư, a ha v.v…
Quan họ Bắc Ninh tồn tại trong một môi trường văn hóa với những tập quán xã hội riêng. Đầu tiên là tập quán "kết chạ" giữa các làng quan họ. Từ tục "kết chạ", trong các "bọn" quan họ xuất hiện một tập quán xã hội đặc biệt là tục kết bạn quan họ. Mỗi "bọn" quan họ của một làng đều kết bạn với một "bọn" quan họ ở làng khác theo nguyên tắc quan họ nam kết bạn với quan họ nữ và ngược lại. Với các làng đã "kết chạ", trai gái trong các "bọn" quan họ đã kết bạn không được cưới nhau.
ĐỊA CHỈ THƯỞNG THỨC QUAN HỌ
Hội Lim
" Quai thao nâng dải lụa đào Trầu têm cánh phượng em vào hội Lim" Cách Hà Nội 25km về phía Bắc, hội Lim được mở vào dịp đầu xuân - 13 tháng Giêng Âm lịch hàng năm. Trung tâm diễn ra Lễ hội là khu di tích núi Lim thuộc xã Lũng Giang thị Trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, đây là Lễ hội truyền thống đặc sắc và riêng có của quê hương Kinh Bắc ngàn năm văn hiến.
Hội Lim theo lời các cụ cao niên trong làng thì cách đây 300 năm trước đã bắt đầu diễn ra, ban đầu đó là hình thức kết hợp giữa hội chạ của 6 xã thuộc Tổng Nội Duệ (Nội Duệ, Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, Xuân Ổ và giáo phường Tiên Du) và hội chùa Hồng Ân (chùa Lim) vào ngày rằm tháng Tám.
Hơn 40 năm sau, vào cuối thế kỷ VXIII, Nguyễn Đình Diễn người làng Đình Cả (Nội Duệ) làm Trấn thủ Thanh Hoá, tước hiệu Hiếu Trung Hầu có công đối với quê hương như cung cấp ruộng và cung tiến tiền để sửa chữa đình, chùa, mở mang tập tục và chuyển hội Đình hàng Tổng vào ngày rằm tháng Tám sang ngày rằm tháng Giêng. Kế đó là Bà Mụ Ả, người tu hành và trụ trì tại chùa Hồng Ân (lúc đó chỉ là một Am nhỏ), Bà đã bỏ tiền mua nửa quả núi Hồng Ân dành cho việc xây dựng chùa và vườn chùa và cũng đặt ruộng, đặt tiền cho 6 xã làm hương hoả cho chùa, Bà yêu cầu hàng Tổng cứ 3 năm cho mở hội chùa, hội chạ một lần vào 13 tháng Giêng.
Ngoài 80 tuổi, Bà Mụ Ả lên giàn tự thiêu về nơi cực lạc, từ đó dân ở sáu xã giữ lệ hương khói thờ bà Mụ Ả, tướng quân Phạm Bân, Hiếu Trung Hầu. Hàng năm vào ngày 13 tháng Giêng dân làng tổ chức Lễ hội tưởng nhớ những người đã có công với cộng đồng dân cư nơi đây.
Cũng như các lễ hội khác, Hội Lim gồm hai phần : Lễ và Hội. Mở đầu là tục rước Chạ vào ngày 13 tháng Giêng Âm lịch, đây là một đám rước quy mô của sáu làng thuộc Tổng Nội Duệ hợp lại từ các ngả về đình, chùa trên núi Lim. Đám rước được nghi thức hoá, tạo nên vẻ hùng tráng, rực rỡ muôn mầu, đứng xa hàng trăm mét ta đã nghe thấy "trống rong cờ mở" nét mặt rạng rỡ của người người về xem hội. Cả đám rước ánh lên rực rỡ của cờ hoa, của trang phục, các lộng, kiệu sơn son thiếp vàng .v.v. tất cả hợp lại tạo một quang cảnh trọn vẹn về con người, thẩm mỹ, đạo đức, thể hiện việc ứng xử chu đáo với những người có công với cộng đồng dân cư. Sau phần rước, tế Chạ trang nghiêm tôn kính, phần hội diễn ra sôi động muôn mầu với âm vang của tiếng nhạc, tiếng trống, tiếng hát, những trò chơi, nghệ thuật dân gian…
Đến với Hội Lim du khách được chứng kiến và có thể trực tiếp tham gia các trò chơi dân gian phong phú, hấp dẫn như thi chọi gà, đấu vật, dệt vải, đu tiên, đấu cờ người…
Du khách đến với Hội Lim xem cờ cũng là dịp thưởng thức trí tuệ của người Kinh Bắc và nét đẹp duyên dáng của các thiếu nữ Kinh Bắc khi được chọn đóng quân cờ (32 thanh nữ đẹp nhất làng).
"Quân cờ là lượt thanh tân Bao ngày tập luyện ra quân hội này"
Chia tay với những ván cờ hấp dẫn, du khách đến với cuộc thi dệt vải, dệt lụa của các làng trong vùng với khung cửi truyền thống, du khách sẽ bị lôi cuốn bởi sự khéo léo mềm mại của các thanh nữ khi đưa thoi, tư thế ngồi dệt đẹp nhất và đặc biệt vừa dệt vừa hát dân ca Quan họ. Sở dĩ có thi dệt vải trong hội Lim bởi vùng Nội Duệ cầu Lim chính là vùng có truyền thống dệt vải lâu đời và hàng năm thi dệt vải trong ngày hội đã trở thành truyền thống.
Đến với hội Lim, náo nức nhất, hẫp dẫn nhất không thể không nhắc tới sinh hoạt Quan họ trong ngày hội. Quan họ được xem là dân ca đặc sắc nhất không chỉ riêng vùng Quan họ mà phạm vi đã lan toả rộng khắp trong và ngoài nước. Quan họ không chỉ nổi tiếng về lời ca trữ tình nồng nàn, tình yêu lứa đôi, tình yêu cuộc sống của hơn 200 làn điệu khác nhau mà còn đọng lại ở quý khách đó là cách thể hiện, cách chơi thanh lịch, ấm áp tình người Quan họ.
Trang phục quan họ
Từ lâu đời, cư dân vùng Quan họ sớm tạo được cho mình một mức sống kinh tế tương đối dễ chịu, cho nên đã đi ca hát Quan họ thì dù đời riêng có giàu nghèo khác nhau, các bọn Quan họ thường đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau để sao cho trang phục khi đi ca hát, nam nữ đều cố gắng giữ cho được sự trang trọng, lịch sự theo nề nếp và truyền thống chung.
+ Trang phục nam Quan họ : Nam mặc áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu gối. Thường mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài. Chất liệu để may áo cánh và áo dài bên trong thường là các loại vải màu trắng như diềm bâu, vải cát bá, vải phin, vải trúc bâu. Ở những vùng nuôi tằm, kéo tơ, các áo trong bằng sồi hoặc lụa...Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen, chất liệu là lương, the, đôi khi có một vài người khá giả hơn thì áo ngoài may bằng đoạn mầu đen, cũng có người áo dài phủ ngoài may 2 lần: một lần ngoài bằng lương hoặc the, đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non, màu vàng chanh...gọi là áo kép. Quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què, dài tới mắt cá chân. Chất liệu may quần cũng bằng diềm bâu, phin, trúc bâu. Cũng có khi bằng lụa truội, màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Chân đi dép đen theo kiểu dép Gia định. Nhiều người đi guốc. Vào đầu giữa thế kỷ XX, người ta cũng đi giầy vải, giầy da, kiểu du nhập từ nước ngoài vào. Ðầu đội khăn bằng nhiễu hoặc khăn xếp được làm bán sẵn ở các cửa hàng. Hồi đầu thế kỷ XX, đàn ông còn nhiều người búi tó thì khăn nhiễu hoặc khăn xếp đều có mảng nhiễu hoặc vải mỏng che búi tó. Sau này, đàn ông cắt tóc, rẽ đường ngôi, thường dùng các loại khăn xếp bán sẵn ở cửa hàng. Ðể tránh nắng mưa, các nam Quan họ thường dùng nón chóp lá thường hoặc nón chóp dứa, có quai lụa màu mỡ gà. Cũng có khi dùng ô màu đen. Mỗi người thường có một khăn tay bằng lụa hoặc bằng các loại vải trắng, rộng, dài hơn khăn mu-xoa, gấp nếp, gài gọn trong vành khăn, thắt lưng hoặc trong túi trong.
+ Trang phục của nữ Quan họ : Người ta thường nói Quan họ nữ mặc áo mớ ba mớ bẩy có nghĩa là Quan họ có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau (mớ ba) hoặc bẩy áo dài lồng vào nhau (mớ bẩy). Nhưng trong thực tế, các Quan họ nữ thường mặc mớ ba (ba áo dài lồng vào nhau). Kiểu áo dài nữ cũng là kiểu năm thân, có cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước, xưa con gái thường mặc trong hội hè, cưới xin.. mà ngày nay có thể thấy các cô gái (nhân vật) trong nghệ thuật thường mặc. Chất liệu để may áo đẹp nhất xưa là the, lụa. Áo ngoài thường mang màu nền nã: màu nâu già, nâu non, màu đen, màu cánh dán...áo dài trong thường nhuộm màu khác nhau: màu cánh sen, màu hoa hiên, màu thiên thanh, màu hồ thuỷ, màu vàng chanh, màu vàng cốm, v.v....aó cánh mặc trong có thể thay bằng vải phin trắng, lụa mỡ gà...Yếm có thể may bằng vải màu, đẹp nhất là lụa truội nhuộm các màu hoa đào, cánh sen, màu mận chín đỏ thắm, cũng có thể chỉ để yếm màu trắng. Cổ yếm của Quan họ nữ ở tuổi trung niên thường may yếm cổ xẻ, các cô gái trẻ thích mặc yếm cổ viền và nhuộm màu, có giải yếm to buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước cùng với bao và thắt lưng. Bao của các cô gái Quan họ xưa thường bằng sồi se (dệt bằng thứ tơ đã se sợi), màu đen, có tua bện ở hai đầu bao, khổ rộng, có thể đựng túi tiền mỏng ở trong bao rồi thắt gọn ngang eo, luồn qua lưng áo dài, bó chặt lấy ba thân áo trước, thắt múi to để che phía trước bụng. Thắt lưng là loại bao nhỏ bằng chừng 1/3 bao, dùng để thắt chặt cạp váy vào eo, thường là lụa nhuộm các màu tươi sáng như: màu hoa lựu, màu hoa đào, màu hoa hiên tươi, màu hồ thuỷ...Thắt lưng cũng buộc múi ra phía trước để cùng với múi bao, múi giải yếm tạo nên những múi hoa màu sắc phía trước người con gái. Thắt bao và buộc múi các bao cũng là một nghệ thuật làm đỏm (làm đẹp) của các cô gái Quan họ, góp phần tạo nên vẻ đẹp của những cô gái thắt đáy lưng ong của một thời. Váy của Quan họ là váy sồi, váy lụa, đôi khi có người mặc váy kép: váy trong bằng lụa, vải màu, váy ngoài bằng the, lụa. Váy màu đen. Người biết mặc váy khéo là không để váy hớt trước, không để váy quây tròn lấy người như mặc quầy mà phải thu xếp sao cho phía trước rủ hình lưỡi chai xuống gần tới mu bàn chân, phía sau hơi hớt lên chớm tầm đôi con khoai phía gót chân. Dép của Quan họ nữ là dép cong, làm bằng da trâu thuộc theo phương pháp thủ công; có một vòng tròn bằng da trên mặt dép để xỏ ngón chân thứ hai (bên cạnh ngón chân cái) khiến khi đi lại, không rơi được dép. Mũi dép uốn cong và người thợ làm dép phải biết nện, thuộc cho mũi dép cứng, như một lá chắn nhỏ, che dấu đầu các ngón chân.
Người Quan họ đội khăn đen bằng vải láng hoặc the thâm. Muốn đội khăn, trước tiên phải biết quấn tóc trong một khăn vấn tóc, xong, vòng khăn vấn tròn lại và đặt tròn trên đầu, hơi xệ và hình bầu dục về phía gáy, ghim lại. Ðặt khăn vuông đã gấp chéo thành hình tam giác lên vòng khăn tóc đã vấn, bẻ hình mỏ quạ chính giữa đường rẽ ngôi của tóc, bắt hai góc khăn về 2 phía tai, rồi thắt múi lại đằng sau gáy. Sau khi đội khăn xong, khuôn mặt người con gái trắng hồng sẽ nổi lên giữa màu đen của khuôn khăn mỏ quạ và hai mớ tóc mai đôi bên bờ má, tạo nên hình búp sen hồng. Ðể mỏ quạ cụp xuống thấp quá trước trán sẽ làm khuôn mặt tối tăm đần độn...Cho nên, đội khăn là một ttrong những nghệ thuật làm đẹp rất quan trọng của cô gái Quan họ và phụ nữ Việt Nam một thời. Nón ba tầm là nón chũng của phụ nữ Việt một thời nhưng lại gắn liền và được làm đẹp, làm duyên hơn lên khi gắn bó với cô gái Quan họ. Nón làm bằng lá cọ có độ tuổi vừa phải. Lá cọ già màu vàng sẫm để làm chóp lá già, nón của mọi người, cả đàn ông, đàn bà dùng che mưa nắng khi lao động. Lá chọn để làm nón ba tầm đẹp nhất là khi khô kiệt không màu vàng sẫm, cũng không màu vàng trắng (như nón bài thơ xứ Huế) mà mang một màu vàng sáng, hơi đanh mặt, khiến khi kết thành nón, hình tròn và các đường nét của lá kết nón toả ra từ tâm điểm của hình tròn kia chạy đến bờ nón như sự toả sáng, làm người ta liên tưởng đến mặt trời và sự toả sáng như một số khách nước ngoài đã liên tưởng về "những cô gái xứ mặt trời, mang vành nón mặt trời", hát những bài ca mặt trời... Mặt phía trong của nón, càng về sau này người ta càng hay trang trí hình hoa, hình bướm, hình chim loan, chim phượng mỏ cắp phong thư...bằng giấy trang kim màu vàng hoặc bạc. Quai nón được se bện bằng tơ tằm, cũng có khi bằng tơ dứa màu vàng, trắng; đôi đầu quai, mỗi bên có 2 hoặc 3 thao tua được kết, bện một cách nghệ thuật. Vì vậy quai nón ba tầm còn được gọi là quai thao. Gắn liền với trang phục ngày hội, các cô gái Quan họ xưa cũng yêu đồ trang sức khuyên bạc, khuyên vàng, hoa vàng đeo tai; nhẫn bạc, nhân vàng đeo ngón tay; dây xà tích có ống vôi hình quả đào bằng bạc và túi dựng trầu (giầu) bằng lụa đeo ở thắt lưng; khăn tay lụa gài ở vành bao v.v...
Toàn bộ trang phục đã kể trên là sự ghi nhận được ở đầu thế kỷ XX. Trang phục Quan họ không phải chỉ riêng cho người Quan họ mà là trang phục của nam nữ người Việt một thời trong hội hè đình đám, ngày vui. Nhưng người Quan họ may mặc trau chuốt hơn, đồng đều hơn, lại gắn liền với nhiều người đẹp, nhiều cử chỉ đẹp, ngôn ngữ đẹp, ca hát hay...nên người Quan họ cùng những trang phục cứ trội lên như một vẻ đẹp đặc trưng, đạt chuẩn mực cao của một vùng văn hiến. Cũng như mọi hiện tượng văn hoá, trang phục của người cũng luôn luôn biến chuyển theo một quá trình đào thải và sáng tạo mới cùng với sự phát triển của kinh tế, văn hoá, xã hội... Về kiểu dáng, đường nét của trang phục Quan họ nam cũng như Quan họ nữ
Ðoàn dân ca Quan họ, xuất phát từ một quá trình có nghiên cứu học hỏi nên những trang phục đó giữ được gần như nguyên vẹn kiểu dáng, đường nét xưa. Nhưng do yêu cầu phải ca hát trên sân khấu, chịu sự chi phối của mĩ thuật sân khấu, sự chi phối của yêu cầu thẩm mĩ ngày càng cao đối với sân khấu, đồng thời chất liệu để may ngày cũng có nhiều mặt hàng tốt, đẹp... nên, trang phục Quan họ của Ðoàn DCQH có thay đổi rõ ở một số mặt: Về màu sắc, có biến đổi rất nhiều, tạo nên sự rực rỡ, tươi sáng; trang phục có tính sân khấu khá rõ. Về chất liệu, hầu hết là những mặt hàng sang trọng, đắt tiền; xưa, thời Quan họ truyền thống, chưa thể có.
Cách mặc trang phục, và hoá trang thể hiện rõ những yêu cầu mới của trang phục, hoá trang cho những người biểu diễn sân khấu mang tính chuyên nghiệp. Tuy có những biến đổi trên, nhưng do nhận thức được những nét tinh hoa của vẻ đẹp trang phục Quan họ cổ truyền, nên nhiều diễn viên Ðoàn DCQH vẫn giữ được, giới thiệu được vẻ đẹp độc đáo của trang phục Quan họ, hoà hợp vẻ đẹp này với phong cách và âm thanh ca hát Quan họ...tạo nên những biểu tượng về sự tài hoa, thanh lịch, nền nã, duyên dáng của người Quan họ xưa trên sân khấu Quan họ đương đại.
Vị trí và phạm vi địa lí của di sản văn hóa quan họ Bắc Ninh
Đến đầu thế kỉ XX, Dân ca quan họ Bắc Ninh được thực hành ở 49 làng mà cộng đồng xác định là làng quan họ cổ, 44 làng hiện nay thuộc tỉnh Bắc Ninh: Bái Uyên, Duệ Đông, Hạ Giang, Hoài Thị, Hoài trung,Lũng Giang, Lũng Sơn, Ngang Nội, Vân Khám (huyện Tiên Du); Tam Sơn, Tiêu (huyện Từ Sơn); Đông Mai, Đông Yên (huyện Yên Phong); Bồ Sơn, Châm Khê, Cổ Mễ, Dương Ô, Đẩu Hàn, Điều Thôn, Đông Xá, Đỗ Xá, Hòa Đình, Hữu Chấp, Khà Lễ, Khúc Toại, Ném Đoài, Ném Sơn, Ném Tiền, Niềm Xá, Phúc Sơn, Thanh Sơn, Thị Chung, Thị Cầu, Thọ Ninh, Thượng Đồng, Trà Xuyên, Vệ An,Viêm Xá, Xuân Ái, Xuân Đồng, Xuân Ô, Xuân Viên, Y Na, Yên Mẫn (thành phố Bắc Ninh). Có 05 làng thuộc tỉnh Bắc Giang: Giá Sơn, Hữu Nghi, Nội Ninh, Mai Vũ, Sen Hồ (huyện Việt Yên). Ngoài ra ở 13 làng: Đình Cả. Đông Long, Khả Lý Thượng, Núi Hiếu, Mật Ninh, Quang Biểu, Tam Tầng, Thần Chúc, Tiên Lát Hạ, Tiên Lát Thượng, Thổ Hà, Trung Đồng, Vân Cốc (huyện Việt Yên) của tỉnh Bắc Giang, Dân ca quan họ Bắc Ninh cũng được thực hành. Đây là những làng nằm trong vùng lan tỏa của di sản này.
Bảo tồn phát triển quan họ
Từ năm 1954, chính quyền địa phương rất quan tâm đến bảo tồn và phát huy giá trị của di sản quan họ. Năm 1962, tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức Hội nghị Quan họ lần 1/1962. Từ năm 1963 đến 1966, tỉnh Hà Bắc (gồm hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang), đã tổ chức 06 hội thảo về quan họ. Năm 1969, Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh được thành lập để bảo tồn, phát triển và trình diễn dân ca quan họ. Tỉnh Hà Bắc thành lập trung tâm văn hóa quan họ để sưu tầm nghiên cứu nhằm bảo vệ quan họ. Tỉnh Bắc Ninh trong quyết định số 1357/QĐ-CT ngày 19-11-2003 đã quy hoạch khu đồi Lim (huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) thành khu trung tâm lễ hội dân gian, để trình diễn quan họ. Năm 2004, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh thực hiện dự án bảo tồn làng quan họ Viêm Xá. Hằng năm, hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang tổ chức hội thi hát đối đáp quan họ vào mùa xuân để phát hiện những giọng ca mới.
Quan họ được UNESCO công nhận là di sản nhân loại
Vào lúc 19.55 (giờ Việt Nam, tức 16.55 giờ Abu Dhabi), Quan họ đã được Ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể long trọng công bố là Di sản phi vật thể đại diện của Nhân loại.
TS Lê Thị Minh Lý – Cục phó Cục di sản văn hóa, TS Nguyễn Chí Bền – Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật, ông Phạm Sanh Châu – Tổng thư ký Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam “dồn dập” thông báo “tin nóng” từ Abu Dhabi, thủ đô của Tiểu vương quốc A rập thống nhất, nơi đang diễn ra kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28/9 – 2/10/2009).
Sài Gòn, thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, cái tên thân thương đã in sâu vào tâm trí của người dân miền Nam suốt bao năm qua. Nhưng khi hỏi Sài Gòn có từ thời điểm nào thì người ta khó mà tìm được câu trả lời chính xác. Tên gọi Sài Gòn có thể do tiếng địa phương, có thể do phiên âm tiếng ngoại quốc; nên rất khó xác định một tên gọi khi nó không phải là tiếng của bản xứ. Năm 2006 và 2007, chúng tôi đã viết về một số di tích lịch sử văn hóa miền Bắc và miền Trung; năm nay đến Sài Gòn và miền Nam. Trước khi đi sâu vào vấn đề văn hóa của miền Nam, trong bài mở đầu nói về các di tích lịch sử văn hóa miền Nam, chúng tôi mời quí độc giả cùng tìm hiểu xem tên gọi Sài Gòn có từ bao giờ
I-LỊCH SỬ TÊN GỌI SÀI GÒN
Khi nói tới tên gọi Sài Gòn, chúng ta cũng gặp khó khăn vì không có tài liệu, văn bản hành chính chứng minh rõ ràng. Có nhiều tác giả đã viết về tên gọi Sài Gòn. Trong bài này, chúng tôi xin trích dẫn một vài đoạn bài viết của Gs Nguyễn Ngọc Huy với các giả thuyết sau đây: 1. Huỳnh Tịnh Của trong tác phẩm "Đại Nam Quốc Âm Tự Vị" giải thích: Sài có nghĩa là củi thổi, Gòn: tên loại cây có bông trắng và nhẹ xốp người miền Nam dùng làm gối và nệm nằm. Về địa danh thì Sài Gòn là tên riêng của vùng Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé. Như vậy, Sài Gòn chỉ vùng Chợ Lớn ngày nay, còn Sài Gòn bây giờ lại thuộc Bến Nghé. Theo hai người Anh là Crawfurd và Finlayson đã đến vùng này năm 1922 thuật lại thì Sàigòn và Bến Nghé (mà các tác giả trên đây viết là Bingeh hay Pingeh) là hai thành phố khác nhau và cách xa nhau độ 1 hay 2 dặm. Bến Nghé là nơi đồn binh và đặt cơ quan chánh phủ, còn Sàigòn là trung tâm thương mãi và là nơi cư ngụ của người Tầu (theo tập san của Hội Cổ Học Ấn Hoa, năm 1942, tập số 2 - Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises). Khi người Pháp chiếm ba tỉnh phía đông Nam Kỳ năm 1861, họ dùng tên Sài Gòn để chỉ đất Bến Nghé cũ và dùng nơi này làm trung tâm hành chánh. Đối với người Tây thì Sài Gòn dễ phát âm hơn Bến Nghé. Khi người Pháp cai trị và gọi tên Sài Gòn thay cho Bến Nghé thì dân miền Nam bắt buộc phải theo và gọi Chợ Lớn thay cho địa danh Sài Gòn trước đây. 1. Trương Vĩnh Ký dựa vào bộ Gia Định Thông Chí của ông Trịnh Hoài Đức, tập Souvenirs historiques, lại kể lại rằng người Khmer xưa có trồng cây gòn chung quanh đồn Cây Mai và chính ông còn thấy vài gốc cổ thụ này tại vùng vào năm 1885. 1.3 Lê Văn Phát cho rằng trước đây, vùng Sàigòn Chợ Lớn hãy còn bị rừng bao phủ và tên Sàigòn có lẽ phát xuất từ tên Khmer Prei Kor tức là Rừng Gòn (Forêt des Kapokiers). Prei Kor là tên mà người Khmer dùng để gọi một địa phương mà trọng tâm là Chùa Cây Mai ở Phú Lâm ngày nay. Mặt khác, ông Lê Văn Phát cũng cho biết rằng người Lào (mà ngôn ngữ gần như ngôn ngữ Thái) đã gọi vùng này là Cai Ngon, mà Cai Ngon theo tiếng Thái cũng có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn (Brousse des kapokiers). 1. Vương Hồng Sến trong bộ Sàigòn Năm Xưa cho biết rằng theo tiếng Khmer thì Kor có nghĩa là gòn mà cũng có thể có nghĩa là con bò, và Prei Kor có thể là Rừng Bò chứ chưa ắt hẳn là Rừng Gòn. Mặt khác, các nhà học giả Pháp nghiên cứu về nước Cam-Bu-Chia đã tìm được trong bộ sử chép tay của nước ấy một dữ kiện quan trọng về vùng này. Theo bộ sử ấy, năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đã đến Cam-Bu-Chia xin vua cho đặt một số sở thuế ở vùng Prei Nokor và Kas Krobey. Vua Cam-Bu-Chia lúc ấy có một hoàng hậu là con gái chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Bởi đó, ông đã chấp nhận lời yêu cầu của chúa Nguyễn. Theo ông Etienne Aymonier thì Nokor là xức, quốc gia và Prei Nokor là rừng của vua (forf royale). Nhưng linh mục Tandart lại bảo rằng tiếng Nokor do tiếng nam phạn Nagaram mà ra, và có nghĩa là thành phố của rừng hay thành phố ở giữa rừng (ville de la forêt). Bởi vậy theo ông, Prei Nokor có nghĩa là thành phố. Nhà học giả Pháp Louis Malleret khi nêu ra tài liệu về Prei Nokor đã dựa vào ý nghĩa của tiếng Khmer này theo linh mục Tandart để bác bỏ thuyết của các học giả Việt Nam trước đó cho rằng Sàigòn có nghĩa là Củi Gòn. Ông đã theo ý kiến của một người Pháp khác là Maurice Verdeille theo đó tiếng Sàigòn có lẽ phát xuất từ tiếng Tây ngòn có nghĩa là cống phẩm của phía tây (tribut de l’ouest). Tiến Hán Việt có nghĩa là cống phẩm của phía tây nếu đọc theo VN là Tây Cống và Tây Ngòn hẳn là Tây Cống, nhưng phát âm theo giọng Trung Hoa. Sở dĩ ông Malleret theo thuyết này là vì ông đã dựa vào một dữ kiện lịch sử do ông Trịnh Hoài Đức chép lại, là khi Cam Bu Chia bị phân ra cho hai vua thì cả hai vua nầy đều nạp cống phẩm cho chúa Nguyễn ở Prei Nokor, vốn là thủ đô của vua thứ nhì từ năm 1674 (trong khi vua thứ nhứt đóng đô ở Oudong ở phía bắc Nam Vang). Ông Vương Hồng Sến, nhắc lại trong quyển Sàigòn Năm Xưa rằng người Hoa Kiều đã tập trung vào vùng Chợ Lớn ngày nay để mua bán năm 1778 sau khi Cù Lao Phố (gần tỉnh lị Biên Hòa ngày nay) là nơi được thành lập để mua bán từ cuối thế kỷ thứ 17 đã bị Tây Sơn phá tan khi họ kéo vào đánh Miền Nam. Sau khi thành phố này đã vững, người Hoa Kiều đã đáp thêm bờ kinh Chợ Lớn, cẩn đá cho cao ráo kiên cố. Và có lẽ để ghi công việc này, họ đặt tên chỗ mới này là Đề Ngạn, tức là bờ sông cao dốc trên có đe ngăn nước. Đề Ngạn là tiếng Hán Việt, chớ người Trung Hoa phát âm theo giọng Quảng Đông thì nói thành Tài Ngon hay Thầy Ngồnn. Ông Vương Hồng Sến cho rằng tiếng Sàigòn chính do Thầy Ngồnn mà ra. Về đất Bến Nghé thì người Trung Hoa gọi là Xi Cong. Ông Vương Hồng Sến cho rằng đó là họ đọc trại lại tiếng Sàigòn của ta và khi viết ra Hán văn thì họ dùng hai chữ mà ta đọc là Tây Cống.
II-CÁCH ĐẶT ĐỊA DANH CỦ NGƯỜI XƯA
Chúng ta có thể nhận thấy rằng trong việc đặt địa danh này, ông bà chúng ta đã theo một số nguyên tắc:
1-Các cụ có thể phiên âm một địa danh Khmer đã có và bỏ dấu cho thành tiếng Việt Nam. Thí dụ như Psar Deck tiếng Khmer là Chợ Sắt đã được các cụ gọi lại là Sa Đéc, hay Me So tiếng Khmer là Người Đàn Bà Đẹp hay nàng Tiên được các cụ gọi là Mỹ Tho. Trong một bài kỷ niệm ngày 30 tháng tư, đang trong tờ Việt Báo, ông Phạm Nam Sách khi nói về tỉnh Ba Xuyên đã nhắc đến một địa danh mà ông nói là Bảy Sào, Bải Sào, Bảy Sau hay Bải Sau chi đó. Thật sự đó là Bải Xào, một tiếng phát xuất từ tiếng Khmer Bai Xao có nghĩa là Cơm Sống. Địa danh này sở dĩ có là vì trong trận đánh nhau với người Việt Nam, người Khmer đã thua chạy về đến đó và ngừng lại nấu cơm ăn, nhưng cơm chưa kịp chín thì quân Việt Nam lại kéo đến và người Khmer phải bỏ chạy. Để đánh dấu việc này, họ gọi đất đó là Cơm Sống, tiếng Khmer là Bai Xao và các cụ ta bỏ dấu thêm thành Bải Xào.
2-Các cụ có thể dịch nghĩa một địa danh Khmer đã có. Thí dụ như tên Bến Nghé phát xuất từ tiếng Khmer Kompong Krabei có nghĩa là Vũng Trâu. Theo sử Khmer mà ông Malleret viện dẫn thì ngoài Prei Nokor, vua Cam-Bu-Chia còn cho chúa Nguyễn đặt sở thuế ở Kas Krobey. Chữ Krobey rất gần Krabei, và có thể Kas Krobey với Kompong Krobei cũng là một và có nghĩa là Vũng Trâu, Bến Trâu gì đó.
3-Nhưng tên theo hai loại trên đây là do người Việt Nam bình dân đặt ra khi mới đến một địa phương, về sau, khi đã có nhiều người Việt Nam ở và triều đình Việt Nam đặt ra các đơn vị hành chánh, thì triều đình lại dùng tiếng Hán Việt như Trấn Biên, Phiên Trấn, Phước Long, Phước Tuy v.v... Mặt khác, khi viết sử hay viết sách địa lý mà gặp một tên nôm do người bình dân đã đặt, các cụ đã dịch phăng nó ra tiếng Hán Việt chớ ít khi chịu chép tên nôm. Như Ba Giỗng, các cụ dịch là Tam Phụ và Bến Nghé, các cụ dịch lại là Ngưu Chử khi chép vào sách chớ không chịu viết tên nôm là Ba Giồng, Bến Nghé. Nếu lấy các qui tắc đặt địa danh của các cụ ngày xưa làm tiêu chuẩn để suy luận thì ta thấy ngay các thuyết trên đây về nguồn gốc và ý nghĩa của Sàigòn không ổn.
3-Nếu các cụ ta ngày xưa muốn dịch tiếng Khmer Prei Kor ra tiếng Việt thì các cụ đã dùng tên Củi Gòn, Cây Gòn hay Rừng Gòn để đặt cho địa phương này, chớ không ghép một tiếng Hán Việt là Sài với một tiếng nôm là Gòn để thành Sàigòn, cũng như khi dịch Kompong Krabei ra tiếng Việt, các cụ đã gọi là Bến Nghé chớ không nói Tân Nghé, Chử Nghế hay Ngạn Nghé (Tân, Chử và Ngạn là những tiếng Hán Việt có nghĩa là cái cồn nhỏ, bến sông, bờ sông). Nếu bảo rằng gòn là một loại cây không có tên Hán Việt và các cụ đã dùng tên ấy như tiếng Hán Việt thì các cụ đã theo văn phạm Hán Việt mà gọi Củi Gòn là Gòn Sài chớ không thể gọi là Sài Gòn.
4-Chữ Sài là tiếng Hán Việt có nghĩa là Củi, nhưng cũng chữ ấy mà dùng làm chữ nôm thì lại đọc là Thầy. Vậy, nếu đọc theo tiếng nôm hoàn toàn hai chữ mà ông bà chúng ta dùng để chỉ tên đất ta đang nghiên cứu thì ta có Thầy Gòn. Tên này rất gần với Tây Ngòn hay Thầy Ngồnn là những tiếng Hán Việt Tây Công hay Đề Ngạn đọc theo giọng Trung Hoa. Nhưng các cụ ngày xưa rất sính dùng tiếng Hán Việt. Đến như tiếng nôm hoàn toàn là Ba Giồng, Bến Nghé mà các cụ còn nhứt định phải dịch ra là Tam Phụ, Ngưu Chử khi viết vào sách vở thì không lý do gì các cụ lại không dùng các tiếng Hán Việt đã sẵn có là Tây Cống hay Đề Ngạn, mà lại dùng tiếng Thầy Gòn là tiếng phiên âm theo giọng của người Trung Hoa. Xét về mặt nguyên tắc đăït địa danh của ông bà chúng ta ngày xưa, thì vấn đề này có thể kể là tạm giải quyết. Nhưng nghi vấn còn lại là tại sao lại có tiếng Lào hay tiếng Thái lọt vào đây? Hiện nay, không có nhiều tài liệu lịch sử giúp chúng ta có một sự hiểu biết rộng rãi và chánh xác về thời kỳ người Việt Nam mới vào ở đất Nam Kỳ. Chúng ta chỉ có thể dựa vào một số dữ kiện sau đây để suy luận:
1-Vào đầu thế kỷ 17, nước Cam Bu Chia đã bị người Xiêm (Thái Lan hiện nay) uy hiếp nặng nề, và chính vì muốn dựa vào người Việt Nam để chống lại Xiêm mà vua Chey Chetta II đã đi cưới công chúa Ngọc Vạn (là con gái chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên) về làm hoàng hậu năm 1620, rồi đến năm 1623 lại để cho chúa Nguyễn đạt những cơ sở thâu thuế ở vùng Sàigòn, Chợ Lớn ngày nay.
2-Vùng Chợ Lớn chỉ trở thành một vùng thương mãi thịnh vượng từ năm 1788 với khối người Hoa Kiều tụ tập về đó sau khi Cù Lao Phố bị Tây Sơn phá hủy. Vậy, lúc chúa Nguyễn mới đặt cơ sở thuế hơn 150 năm về trước vùng này chưa có mua bán gì nhiều.
3-Người Việt Nam chỉ vào ở Nam Kỳ nhiều từ khi có lực lượng của ông Trần Thượng Xuyên đóng thường trực để bảo vệ cho họ từ năm 1680. Vậy, lúc chúa Nguyễn đặt sở thuế ở vùng Chợ Lớn ngày nay, hơn 50 năm trước đó, chưa có đông người Việt Nam và chưa có sản xuất nhiều lúa gạo để bán.
4-Như thế, cơ sở thuế của chúa Nguyễn chắc chỉ đánh vào một vài sự buôn bán nhỏ, không quan trọng lắm, và do đó mà vua Cam Bu Chia đã dễ dàng cho chúa Nguyễn thâu lấy nguồn lợi này. Nếu có sự mua bán quan trọng và quyền lợi thuế vụ lớn thì vua Cam Bu Chia lúc đó vốn còn hoàn toàn độc lập với chúa Nguyễn, chắc không phải chấp nhận dễ dàng lời yêu cầu của chúa Nguyễn. Vậy, sự mua bán đó dựa vào món hàng gì? Có thể một trong những món hàng được buôn bán thời đó là gòn, vì vùng này có nhiều cây gòn, có lẽ không nhiều đến thành rừng, nhưng cũng đạt mức quan trọng để có thể gọi là rừng chổi được. Người Xiêm có thể đã đến đó mua gòn đem về nước dồn gối, dồn nệm. Một ít thương gia Xiêm có thể đã có mặt ở vùng này trước khi chúa Nguyễn đặt sở thuế tại đó, và vì thấy vùng này có nhiều cây gòn, họ gọi nó là Cai Ngon tức là Rừng Chổi Cây Gòn, rồi các viên chức Việt Nam liên lạc với họ để đánh thuế lúc mới đến đã theo họ mà gọi đất này là Sàigòn, thay vì phiên âm hay dịch nghĩa tên Khmer của địa phương này.
5-Về cái tên Khmer này, các học giả đã không đồng ý kiến với Prei Kor, người thì nói là Prei Nokor. Ông Malleret đã dựa vào sử Khmer mà bảo đó là Prei Nokor và theo linh mục Tandart để dịch Prie Nokor là thành phố của rừng. a)-Nếu Prei Kor có nghĩa là Rừøng Gòn hay Rừng Bò thì văn phạm Khmer cũng như văn phạm Việt Nam đăït tiếng rừng lên trên, tiếng phụ nghĩa cho rừng ở dưới. Như vậy Prei Nokor dịch ra là rừng của vua như Aymonier thì vẫn hợp với văn phạm đó, còn dịch ra như linh mục Tandart là thành phố giữa rừng thì lại đi ngược với văn phạm đó rồi. Hiểu theo văn phạm như nói trên đây thì Prei Nokor là rừng của thành phố mới phải, nhưng tên Rừng của Thành Phố thì cố nhiên là không có ý nghĩa gì. b)-Mặt khác, nếu Prei Nokor là thành phố giữa rừng hay rừng của vua thì nó chỉ có thể có từ năm 1674 là năm mà vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia cho chúa Nguyễn đến đặt sở thuế tại đó thì đất này hãy còn là một thị xã nhỏ, không có vua ở nên không thể mang tên Prei Nokor là thành giữa rừng hay rừng của vua được. Do các nghi vấn trên đây, chúng ta thấy rằng thuyết của ông Malleret không vững. Và chúng ta có thể đưa ra giả thuyết khác: địa điểm mà vua Cam-Bu-Chia cho chúa Nguyễn đặt sở thuế vẫn tên là Prei Kor, vì nơi đó có nhiều gòn và là nơi mua bán gòn. Nhưng sau đó, khi vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia đến đóng đô tại đó, nó có tên mới là Prei Nokor (hiểu theo nghĩa là rừng của vua hay thành phố giữa rừng đều được cả).
Các sử gia Cam-Bu-Chia sau này chép lại việc cho chúa Nguyễn đến địa phương này đặt sở thuế đã chép lại tên Prei Nokor mà họ được biết nhiều hơn mà bỏ tên Prei Kor đi. Với giả thuyết này thì ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn có thể giải quyết được: đó là một tên phiên âm từ tiếng Xiêm Cai Ngon có nghĩa là Rừng Chổi Cây Gòn, và phù hợp vớ tên Khmer nguyên thủy Prei Kor cũng có ý nghĩa tương tự. Vì không biết ngôn ngữ và văn phạm Khmer và Thái (Xiêm) nên chúng tôi không thể đi sâu vào vấn đề này và chỉ xin nêu ra những nhận xét trên đây. Chúng tôi mong ước rằng có vị nào thông thạo tiếng Khmer hay tiếng Thái lưu tâm đến vấn đề này để làm sáng thêm ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn yêu dấu của chúng ta.
Hồ Hoàn Kiếm ( còn gọi là hồ Gươm) là một hồ nước ngọt nằm giữa Thủ đô Hà Nội. Hồ Hoàn Kiếm có diện tích khoảng 12ha, chiều dài Nam-Bắc là 700m, chiều rộng Đông-Tây là 200m. Bao quanh hồ là các phố Lê Thái Tổ ở phía tây, phố Đinh Tiên Hoàng phía đông, phố Hàng Khay phía nam.
Tên hồ cũng được đặt cho một tên mộtquận của Hà Nội: quận Hoàn Kiếm.
- Lịch sử
Cách đây khoảng 6 thế kỷ, hồ Gươm gồm hai phần chạy dài từ phố Hàng Đào, qua phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt tới phố Hàng Chuối, thông với sông Hồng. Nước hồ quanh năm xanh biếc nên hồ Gươm cũng được gọi là hồ Lục Thuỷ. Tương truyền vào thế kỷ XV, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng: Khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ về đóng đô ở Thăng Long. Trong một lần nhà vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thủy, bỗng một cụ rùa lớn xuất hiện. Lê Thái Tổ giơ gươm ra thì gươm bay về phía cụ rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ, và từ đó hồ Lục Thủy có tên gọi mới là hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) hay hồ Gươm.
Trên hồ có hai hòn đảo: đảo Ngọc và đảo Rùa. Cuối thế kỷ XVI, chúa Trịnh dựng phủ Chúa ở phường Báo Thiên (nay là Nhà Thờ Lớn) và ở chỗ phố Thợ Nhuộm gần hồ nên đặt tên cho hai phần hồ là Hữu Vọng và Tả Vọng.
Năm 1865, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu đã đứng ra sửa sang lại đền Ngọc Sơn trên đảo Ngọc. Trên gò Ngọc Bội, ông cho xây một ngọn tháp hình bút. Đó là tháp Bút ngày nay và bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc.
- Quang cảnh Hồ Hoàn Kiếm
Hồ Hoàn Kiếm là một thắng cảnh của Hà Nội. Quanh hồ trồng nhiều loại hoa và cây cảnh. Giữa hồ có tháp Rùa, trên hồ có đền Ngọc Sơn. Xung quanh hồ còn có những di tích lịch sử khác như tượng vua Lê Thái Tổ, cầu Thê Húc, tháp Bút, đền Bà Kiệu...
+ Tháp Bút (hay là bút tháp) nằm ở cạnh hồ, đối với đài nghiên nằm ở bờ hồ. Mỗi ngày, bóng của Tháp bút ngả xuống chấm mực trong đài nghiên, tạo thành một biểu tượng rất đẹp cho học vấn: "Tháp Bút - đài nghiên - đề thơ lên trời xanh".
+ Rùa: Ngày trước rùa sống trong lòng Hồ Gươm, rất hiếm khi nổi lên mặt nước. Năm 1968, người ta bắt được một cụ rùa nặng tới 230kg, dài 2,1m, ngang 1,2m, có độ tuổi từ 400-500 năm (tương ứng với thời gian Lê Thái tổ trả gươm).
Đền Ngọc Sơn
- Lịch sử
Đền được xây dựng từ thế kỷ XIX. Lúc đầu được gọi là chùa Ngọc Sơn, sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn vì trong đền chỉ thờ thần Văn Xương là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Đức Đại vương Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc có công lãnh đạo quân dân đánh thắng quân Nguyên thế kỷ XIII.
Khởi nguyên, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên ngôi đền đã có tại đây là Ngọc Tượng; đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống quân Nguyên-Mông.
Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (năm 1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thụy Khánh và đắp quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Độc Tôn ( Ngọc Bội cũ). Cuối đời nhà Lê, cung Thụy Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ.
- Kiến trúc
Trên núi Ngọc Bội (núi Độc Tôn) cũ, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội.
Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: "Nhất đài Phương Đình bút". Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý ghi tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành.
Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía Bắc thờ Đức Đại vương Trần Hưng Đạo và thờ Đức Văn Xương Đế quân. Tượng đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1 m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Tượng Đức Văn Xương đứng, tay cầm bút. Phía Nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng). Đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có 8 cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ.
Các nhân vật được thờ trong đền, ngoài Trần Hưng Đạo, Văn Xương Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân Trường, còn thờ Đức Phật Adiđà. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt. Cầu Thê Húc
Tên cầu Thê Húc nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới nước nhô lên. Cầu được danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây dựng vào năm 1865. Tên của cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm".
- Kết cấu
Cầu Thê Húc được làm bằng gỗ rất thô sơ và sơn màu đỏ. Tương truyền cuối thế kỷ 19 cầu bị gãy, người ta xây lại cầu mới có chân làm bằng xi măng cốt thép, sàn và lan can làm bằng gỗ. Cầu có thiết kế cong cong và uốn như hình con tôm.
Tháp Rùa
- Lịch sử
Tháp xây trên đảo Rùa từ thời vua Lê Thánh Tông đã dựng Điếu Đài ở đó để nhà vua ra câu cá. Sang thời Lê Trung Hưng (khoảng thế kỷ XVII-thế kỷ XVIII) thì chúa Trịnh Giang cho xây Tả vọng dinh trên đảo rùa là nơi vui chơi hóng mát, sau bị phá hỏng khi Lê Chiêu Thống lên nắm quyền.
Tháp Rùa được xây theo hình vuông có 3 tầng, tầng dưới xây rộng hơn, rồi thu nhỏ dần lên tầng trên, các mặt phía đông và tây có 3 cửa cuốn. Phía nam và bắc có 2 cửa cuốn nhọn ở đầu. Đỉnh 2 tầng có lan can chạy xung quanh. Bốn đầu đao đắp uốn cong dần lên vào giữa đỉnh, trên đỉnh có hình ngôi sao 5 cánh./.
Trên núi Nhỏ ở thành phố biển Vũng Tàu, tượng Chúa Giêsu được thi công thế nào? Phải chăng đó là tượng Chúa Kitô cao nhất thế giới như nhiều sách báo đã khẳng định? Thêm thông tin đáng chú ý: người tạc tượng này cũng chính là điêu khắc gia sáng tạo tượng Mẹ La Vang.
Ghé chơi Vũng Tàu, ngoài việc tắm biển, du khách còn tham quan nhiều danh lam thắng cảnh, trong đó có tượng Chúa Giêsu trên núi Nhỏ, nơi được Bộ Văn Hoá - Thông Tin ban hành văn bản số 57VH/QĐ ngày 18-1-1993 công nhận di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia.
Tượng Chúa Giêsu hay thánh Gioóc?
Một số người thắc mắc vậy. Cũng hợp lẽ, bởi thời thuộc Pháp, Vũng Tàu từng mang tên Cap Saint Jacques, nghĩa là mũi đất mang tên thánh Jacques. Theo nghĩa hẹp, đó là mũi Thuỳ Vân, còn gọi mũi Nghinh Phong, tên khác là mũi Ô Quắn. Chính trên mũi đất ấy, giáo xứ Vũng Tàu khởi công xây tượng vào năm 1973, năm sau thì chuyển lên núi Nhỏ phía đối diện. Núi Nhỏ, tên khác là núi Tao Phùng, cao 136m tính từ chân núi, cao 176m tính từ mặt nước biển.
Lại thêm, một bản đồ do Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xuất bản năm 1998 đã ghi chú địa điểm này bằng mấy từ: tượng thánh Gioóc. Thánh Gioóc, phiên âm từ George tức Jacques.
Kỳ thực, trên núi Nhỏ là tượng Chúa Giêsu Kitô / Giêsu Cơ Đốc. Tiếng Pháp: Jésus Christ. Tiếng Anh: Jesus Christ. Tiếng Na Uy: Jesus Kristus. Tiếng Ba Lan: Jezus Chrystus. Tiếng La Tinh: Iesus Christus. Tiếng Esperanto: Jesuo Kristo. Tiếng Nga: Иисус Христос. Tiếng Ukraina: Ісус Христос. Tiếng Mông Cổ: Есүс Христ. Tiếng Hoa: 耶穌基督 - Bính âm phát Yesujidu, âm Hán Việt phát Gia Tô Cơ Đốc. Kitô nghĩa là người được xức dầu dịp thụ phong vương, nhằm chỉ đấng lãnh đạo. Giêsu là tên riêng của vị sáng lập Kitô giáo.
Do đó, các bản đồ thành phố Vũng Tàu được ấn hành sau này tìm cách ghi nhận chính xác, chẳng hạn bản đồ do Nhà xuất bản Trẻ thực hiện năm 2001 in tượng Chúa Giêsu, bản đồ do Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thực hiện năm 2006 in tượng Chúa Kitô, bản đồ do NXB Giao Thông Vận Tải thực hiện năm 2009 in tượng Chúa Giêsu.
Quá trình dựng tượng
Năm 1973, giáo xứ Vũng Tàu tiến hành tạo lập tượng đài Chúa Giêsu Kitô nơi mũi Nghinh Phong. Dự định toàn tượng đài cao 15m, gồm tượng cao 10m và bệ cao 5m. Ngày 17-1-1973, thị trưởng Vũng Tàu là đại tá Vũ Huy Tạo ra lệnh ngưng xây dựng, vì Phật giáo cho rằng địa điểm đó đã được chính quyền đồng ý dựng tượng Phật. Nhằm giữ hoà khí, đại diện của hai tôn giáo đã họp bàn với sự chủ trì của chính quyền, dẫn đến bản thoả hiệp được ba bên ký kết ngày 16-2-1974. Theo thoả hiệp, Phật giáo toàn quyền sử dụng mũi Nghinh Phong, còn Công giáo thì xây dựng các công trình trên núi Nhỏ với diện tích 10 mẫu.
Ngày 18-3-1974, chính quyền địa phương cấp văn thư số 140/VT/HC/LA cho phép xây dựng tượng đài Chúa Giêsu trên núi Nhỏ. Tại địa điểm mới này, tượng đài cần quy mô khác: to lớn hơn, vững chắc hơn. Phaolô Nguyễn Minh Tri - linh mục quản xứ Vũng Tàu - và ông bà Lê Quang Tuyến cùng nhiều người hảo tâm hào hứng nhập cuộc. Hoạ sĩ kiêm điêu khắc gia Văn Nhân vui mừng thiết kế tượng. Kỹ sư Nguyễn Quảng Đức tính toán loạt thông số cần thiết liên quan bê tông cốt thép.
Dự trù móng sâu 6m. Đào xuống 3m thì vấp cả mảng xi măng cứng ngắt. Tiếng vọng sau mỗi nhát xà beng giúp mọi người phán đoán rằng dưới lớp bê tông kia có khoảng trống. Chọc thủng một lỗ to, rồi dùng cái thúng buộc dây đưa một người xuống thăm dò. Lạ lùng thay! Lòng núi là hệ thống công sự do Pháp xây dựng kiên cố từ cuối thế kỷ XIX, gồm 7 căn hầm, mỗi hầm dài 7m và rộng 4m.
Thảo nào đỉnh núi Nhỏ có 2 khẩu thần công bắn đạn cỡ 240mm. Phía nam núi Nhỏ hướng ra biển còn 2 cụm pháo đài nữa. Một cụm với 5 khẩu thần công bắn đạn cỡ 300mm. Một cụm với 3 khẩu thần công bắn đạn cỡ 140mm. Cả 3 cụm pháo đài kết hợp hệ thống công sự tạo nên phòng tuyến đặc sắc nhằm kiểm soát tàu thuyền ra vào cửa biển Vũng Tàu - Sài Gòn.
Vậy thì móng tượng đài phải sâu hơn dự kiến ban đầu. Rồi xây bệ. Kế tiếp là phần việc chủ yếu: lắp giàn giáo để đổ bê tông pho tượng tại chỗ. 50 thợ có năng lực miệt mài lao động ngày đêm ở công trường. Ngoại trừ xi măng trắng và kim loại, toàn bộ vật liệu đều mang nguồn gốc Việt Nam: cát và sỏi Đồng Nai, cẩm thạch Đà Nẵng, v.v.
Hào quang quanh đầu tượng Chúa còn là thiết bị vật lý quan trọng: phần đầu tiên của thu lôi nhằm chống sét. Tà áo tượng có trổ 3 ô cửa sổ tô điểm bằng hoa văn chữ thọ, giúp lòng tượng được chiếu sáng tự nhiên và thoáng khí. Trong lòng tượng, cầu thang xoắn ốc gồm 133 bậc giúp du khách leo lên cao. Từ đôi vai tượng Chúa Giêsu Kitô, du khách phóng tầm mắt quan sát toàn cảnh Vũng Tàu: núi Lớn, bãi Dâu, bãi Trước, bãi Dứa, bãi Sau, bãi Chí Linh, bãi Thuỷ Tiên, bàu Sen, bàu Trũng, và muôn nhà cửa, phố xá. Cũng từ điểm cao đó, ai nấy thảy đều thích thú khi ngắm nhìn một phần biển Đông mênh mông cuộn sóng.
Tiếp tục thi công
Tháng 4-1975, tượng Chúa Giêsu Kitô vừa được đúc xong thì đất nước thống nhất. Vì nhiều lý do, mọi công việc trên núi Nhỏ phải tạm ngừng.
Đô thị Vũng Tàu lần lượt trực thuộc nhiều đơn vị hành chính khác nhau: tỉnh Đồng Nai, rồi đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, rồi tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tượng Chúa Kitô trên núi Nhỏ gặp những mối nguy hại đáng báo động: dây đồng thu lôi bị mất cắp, đá dưới chân núi bị khai thác bừa bãi. Sau bao lần gửi đơn xin tái thiết tượng Chúa Giêsu trên núi Nhỏ, Phêrô Trần Văn Huyên - linh mục quản xứ Vũng Tàu từ tháng 5-1975 đến nay - cùng các tu sĩ và giáo dân vô cùng phấn khởi khi nhận công văn số 233/QĐ-UB do Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là ông Nguyễn Văn Hàng ký ngày 28-1-1992: "Cho phép linh mục Trần Văn Huyên, chính xứ Vũng Tàu, được sửa chữa, tu bổ lại tượng Chúa trên núi Nhỏ".
Từ ngày 4-11-1992, núi Nhỏ lại rộn ràng dựng xây. Điêu khắc gia Văn Nhân định cư tại Hoa Kỳ trở về quê nhà nhằm chỉ đạo các học trò hoàn tất tác phẩm nghệ thuật mang ý nghĩa tâm linh mà bản thân ông quá ưng ý. 4 mặt bệ tượng được trang trí bởi 4 bức phù điêu, trong đó 2 bức đã hoàn tất trước ngày 30-4-1975, Văn Nhân tiếp tục làm thêm 2 bức nữa. 4 bức phù điêu đó diễn tả cảnh 3 vị đạo sĩ phương Đông đến bái lạy Chúa hài đồng giáng sinh, cảnh bữa tiệc chia tay giữa Chúa Giêsu với 12 tông đồ trước ngày chịu nạn, cảnh Chúa đứng trước toà án Philatô, cảnh Chúa trao chìa khoá cho thánh Phêrô / Pietro / Peter / Pierre.
Trước tượng đài Chúa Kitô một quãng, đặt pho tượng Đức Mẹ Maria ôm xác Chúa, thường được gọi tượng Pietà - phỏng theo tác phẩm điêu khắc rất nổi tiếng của Michelangelo (1575 - 1564). Lữ quán Nghinh Phong được mua lại và chỉnh sửa thành nơi để du khách dừng chân nghỉ ngơi, mua hàng lưu niệm do các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt phụ trách. Những viên đá chẻ thành khối hình hộp chữ nhật được lắp đặt xấp xỉ 300 bậc cấp từ đường Hạ Long lên tượng Chúa Giêsu Kitô. Ven theo chuỗi bậc đá là hai hàng cây bày sắc toả hương: sứ / đại, phượng, anh đào, bồ đề, v.v.
Ngày 1-12-1994, tượng đài Chúa Giêsu Kitô trên đỉnh núi Nhỏ được khánh thành trọng thể. Từ ấy, đây trở thành chốn cầu nguyện của Kitô hữu, và là điểm tham quan mới ở Vũng Tàu thu hút đông đảo du khách gần xa.
Cao nhất thế giới chăng?
Trong tài liệu Trên đỉnh Tao Phùng do giáo xứ Vũng Tàu ấn hành cuối năm 1994, Vũ Sinh Hiên viết: "Đất và đá của quê hương đã được dùng để tạo thành hình tượng Đức Giêsu - Vua cao 32m, với hai cánh tay dang dài 18m40, được coi là tượng đài Đức Giêsu lớn nhất thế giới. Tượng đài Chúa Giêsu ở Rio de Janeiro bên Brésil cao 26m và hai tay dang rộng 16m".
Tài liệu giảng dạy lịch sử địa phương tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (dùng trong các trường phổ thông) do Nguyễn Thị Chim Lang, Bùi Thanh Hoá, Đinh Văn Hạnh hợp soạn, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xuất bản năm 2005, có đoạn: "Sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan thiên nhiên và nghệ thuật cổ điển tôn giáo với bản sắc văn hoá dân tộc đã tạo cho tượng Chúa Kitô núi Nhỏ Vũng Tàu thực sự là một tác phẩm nghệ thuật tầm cỡ khu vực. Giới kiến trúc trong nước cho rằng đây là bức tượng Chúa Kitô cao nhất thế giới, hơn cả bức tượng Chúa Kitô ở Rio de Janeiro (Brazin) vốn do hai Giáo hội của hai quốc gia Brazin và Argentina hợp tác xây dựng (cao 26m, sải tay dài 10m), trên một ngọn núi có cảnh quan tựa núi Nhỏ Vũng Tàu".
Cũng ghi nhận về tượng Chúa Kitô ở núi Nhỏ tại Vũng Tàu với sự so sánh tượng Chúa Kitô ở Rio de Janeiro giống hệt tài liệu vừa dẫn là sách Bà Rịa - Vũng Tàu con số và sự kiện do Phạm Diêm, Đinh Văn Hạnh, Hồ Song Quỳnh, Huỳnh Tới hợp soạn, Thư viện tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xuất bản năm 2007.
Đọc 3 thư tịch ấy, tôi ngờ ngợ, bèn tra cứu các trang web new7wonders.com, wikipedia.org, odia.terra.com.br, corcovado.com.br thì được biết: tại thành phố Rio de Janeiro của đất nước Brazil, trên núi Corcovado cao 710m, tượng Chúa Kitô - người chuộc lỗi / Cristo Redentor / Christ Rédempteur / Christ Redeemer được Heitor da Silva Costa thiết kế, Carlos Oswald và Paul Landowski thi công từ năm 1926, tới năm 1931 khánh thành đúng dịp kỷ niệm 100 năm Brazil độc lập. Thứ bảy 7-7-2007, tổ chức New Open World Corporation (NOWC) công bố danh sách 7 kỳ quan thế giới mới, trong đó có tượng Chúa Kitô ở Rio de Janeiro: riêng pho tượng cao 30m; hai cánh tay dang dài 23m; bệ tượng cao 8m; toàn bộ cả tượng lẫn bệ cao 38m.
Trên núi Nhỏ tại Vũng Tàu, tượng Chúa Kitô cao chính xác bao nhiêu? Tôi bèn cậy nhờ linh mục Phêrô Trần Văn Huyên giúp. Mới đây, nhóm thợ xây dựng đã đo đạc được thông số khả tín: riêng pho tượng cao 25m; bệ tượng cao 7m; toàn bộ cả tượng lẫn bệ cao 32m.
Vậy so với tượng Chúa Giêsu Kitô ở Rio de Janeiro, tượng Chúa Giêsu Kitô ở Vũng Tàu thấp thua. Tuy nhiên, tượng Chúa Giêsu Kitô ở Rio de Janeiro đặc ruột, thì tượng Chúa Giêsu Kitô ở Vũng Tàu lại rỗng ruột với sức chứa vài trăm người.
Cũng cần thêm rằng từ tháng 11-2010, tượng Chúa Giêsu Kitô cao nhất thế giới thuộc về pho tượng được dựng tại trị trấn Swiebodzin ở miền tây Ba Lan: riêng pho tượng cao 33m, tính từ bệ đến vương miện thì cao 51m.
Dự phóng tương lai
Điêu khắc gia Văn Nhân, tác giả pho tượng Chúa Kitô trên núi Nhỏ ở Vũng Tàu cũng chính là người đã sáng tạo pho tượng Mẹ La Vang được Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam chọn đặt tại linh đài Mẹ La Vang nơi Trung tâm Thánh Mẫu toàn quốc ở xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị vào năm 1998. Mẫu tượng ấy thể hiện phong thái Việt Nam, được nhân bản rất nhiều để dựng trong bao giáo đường quốc nội lẫn hải ngoại. Hình chụp tượng Mẹ La Vang lại được phổ biến rộng rãi thông qua nhiều phương tiện truyền thông.
Tượng Chúa Kitô do Văn Nhân tạc bấy lâu nay được các quày lưu niệm trên núi Nhỏ bày phiên bản bằng nhựa, kích cỡ to nhỏ khác nhau với biểu giá: 4.000đ, 5.000đ, 7.000đ, 11.000đ và 47.000đ.
Trên núi Nhỏ, hiện mặt hàng giải khát bày bán chỉ có nước khoáng và nước tinh khiết. Thiển nghĩ ban quản lý nên kinh doanh thêm cà phê, nước ngọt, cùng một số thức ăn nhẹ; đồng thời nên phát hành một số ấn phẩm liên quan, ví dụ lịch và bưu ảnh, bưu thiếp.
Tương lai, khu vực tượng Chúa Giêsu Kitô ở Vũng Tàu sẽ có thêm những hạng mục gì mới? Linh mục Phêrô Trần Văn Huyên cho biết:
- Còn lắm công việc cần thực hiện. Phải tích cực trồng thêm nhiều cây xanh, nhiều hoa trên núi Nhỏ. Ven đường lên núi, sẽ đặt thêm loạt tượng be bé và phù điêu, sẽ làm thêm các liếp nhà để khách tạm nghỉ chân mà ngồi ngắm cảnh. Giữa đường, mong được dựng ngôi nhà nguyện khang trang. Có ý kiến đề nghị rằng đôi khẩu thần công hai bên tượng Chúa cần lợp mái bảo quản, từ trên cao nhìn xuống thì thấy hai mái che như hai đoá bông hồng xinh xắn. Đặc biệt, sẽ bàn bạc kỹ lưỡng với các cơ quan hữu trách để nếu khả thi thì trổ lối giúp du khách xuống thăm căn hầm là phần độc đáo của di tích lịch sử - văn hoá nơi đây đã được xếp hạng.
- Hiện nay, du khách muốn vào lòng tượng phải tuân thủ quy định: buổi sáng từ 7 giờ rưỡi đến 11 giờ rưỡi, buổi chiều từ 13 giờ rưỡi đến 17 giờ. Du khách bây giờ cũng chưa được lên núi ban đêm. Sau này, khung thời gian ấy ắt thay đổi?
- Trước mắt, Hội đồng giáo xứ Vũng Tàu dự tính phương án mở cửa suốt ngày để quý khách có thể vào lòng tượng buổi trưa. Về lâu về dài, sẽ lắp đặt hệ thống chiếu sáng thoả đáng, rồi đề nghị chính quyền cho phép mọi người thoải mái lên núi ban đêm. Hy vọng mọi sự được tiến triển nhanh chóng, thuận lợi.
Đã đăng: Thế Giới Mới 780 (21-4-2008) & 781(28-4-2008) Kiến Thức Ngày Nay 754 (20-7-2011)
LTS:Tháng 9 vừa qua, tại Huế, người cháu ruột gọi Bà Hoàng Thị Kim Cúc bằng Cô là Hoàng Thị Quỳnh Hoa đã xuất bản và giới thiệu cuốn “LÁ TRÚC CHE NGANG - CHUYỆN TÌNH CỦA CÔ TÔI”. Cuốn sách đã trưng dẫn ra nhiều tư liệu trung thực về sự thật chuyện tình giữa Hàn Mặc tử và Hoàng Thị Kim Cúc mà lâu nay trên văn đàn có nhiều thêu dệt khác nhau.
Trước đây, Tạp chí Sông Hương đã công bố bài viết “Sự thật mối tình Kim Cúc - Hàn Mạc Tử” của tác giả Nguyễn Đình Niên trên Số Đặc Biệt Sông Hương tháng 12/2012, với nhiều tư liệu xác tín “Mối tình Kim Cúc - Hàn Mạc Tử không hẳn là mối tình đầu, như thi sĩ Quách Tấn đã bảo, cũng không hẳn là mối tình có kết thúc - Đó không phải là mối tình bị tan rã do bởi hoàn cảnh gia đình nên “hôn ước bất thành” hay bởi sự ngộ nhận giữa đôi người trong cuộc. Thi sĩ có ước hẹn gì cùng giai nhân đâu… Đó không phải là một mối tình câm, mà chính là mối duyên nở dần ra trong im lặng…”. Để bạn đọc hiểu rõ hơn về sự thật của mối tình nổi tiếng này, được sự cho phép của tác giả Hoàng Thị Quỳnh Hoa, SH xin giới thiệu Phần I của cuốn sách nói trên.
HOÀNG THỊ QUỲNH HOA
Vài nét về cô tôi
Tôi giống Cô ở cái mặt vuông chữ điền, khuôn mặt được thi vị hóa trong một bài thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử. Em gái tôi, Hỷ Nguyên, thì giống Cô ở cái mũi cao và thẳng như đầm, còn em Hoàng Thị Bích Tâm thì có mái tóc quăn và dáng người thấp nhỏ như Cô. Bích Tâm, tên chơi là Nghệ mà nhiều người quen thân Cô vẫn gọi, là cô em con chú tôi mà cũng là con nuôi của Cô. Vâng, Cô tôi là Hoàng Thị Kim Cúc, nguyên giáo sư Nữ Công Gia Chánh trường Nữ Trung Học Đồng Khánh, Huế và sau này là “Chị Cả” của tất cả các anh chị em gia đình Phật tử từ ba miền đất nước. Nhưng nếu Cô không nhận được bài thơ Ở Đây Thôn Vỹ Giạ thi sĩ Hàn Mạc Tử gởi tặng năm 1939 thì chắc chắn, ngoài anh chị em Gia Đình Phật Tử và nữ sinh Đồng Khánh, chẳng ai biết đến Cô. Nay thì tên cô đã đi vào văn học Việt Nam vì tên Cô gắn liền với tên tuổi Hàn Mạc Tử.
Những huyền thoại
Tiếc thay, những người viết về Hàn Mạc Tử và mối tình đầu của nhà thơ, từ xưa đến bây giờ, dường như không ai biết rõ mối giao tình giữa thi sĩ và “nàng thơ” thứ nhất của ông, nên những bài viết của họ có tính cách tiểu thuyết hơn là truyện ký. Những người xem như bạn thân của thi sĩ như nhà cầm bút Trần Thanh Mại(1), và nhiều người khác.
Lời mời ra chơi thôn Vỹ
Bài thơ Ở đây thôn Vỹ Giạ Hàn Mạc Tử chép gởi tặng Cô năm 1939 - về sau được xếp vào tập thơ Đau Thương - có lẽ là bài được nói đến nhiều nhất trong mấy trăm bài thơ của thi sĩ. Năm 1939 là năm bệnh của ông phát nặng, thơ của ông sáng, hiền lành, lời lẽ rất nhẹ nhàng, bóng bẩy, chứ không buồn thảm, u uất…”(2). Vỹ Dạ là địa danh của thôn Vỹ, Hàn Mạc Tử viết Vỹ Giạ, sau này được viết lại là Vỹ Dạ Câu mở đầu của bài thơ, “Sao anh không về chơi thôn Vỹ? nghe như một câu hỏi bình thường đã làm nhiều nhà bình văn, bình thơ cho rằng đó là lời Cô mời thi sĩ ra thăm thôn Vỹ. Quách Tấn, trong thư gởi Cô (23/3/1971), đã dùng câu thứ nhất của bài thơ như đầu đề bài thơ. Ông viết, “Xin chị cho biết thêm chi tiết này: Cô gái Vỹ Dạ trong bài ‘Sao anh không về chơi thôn Vỹ’ có phải là chị chăng? Và có phải do chị gởi tặng Tử một phiến ảnh chụp bên khóm trúc với lời mời về thăm thôn Vỹ chăng?” Và mặc dầu Cô đã trả lời: “Thưa ông, bức ảnh đó chỉ là bức ảnh phong cảnh, chụp cảnh hoàng hôn mua ở phố. Trong ảnh không có cô gái nào khác ngoài cô chèo đò. Cô gái mà ông hỏi đó là do sức tưởng tượng của thi nhân…”. Cuối thư, Cô lập lại: “Ngoài trừ bức ảnh phong cảnh đó và bài thơ Ở đây thôn Vỹ Dạ thì Tử và tôi không có thư từ gì cho nhau nữa cả.” (15/4/1971). Như vậy là từ năm 1971, Quách Tấn đã biết sự thật mà 17 năm sau, trong cuốn hồi ký, ông vẫn viết “Khi Tử đau nằm ở Quy Nhơn, Hoàng Cúc có gởi vào tặng Tử một phiến ảnh ‘cô gái Huế’ với lời mời ‘ra chơi Vỹ Dạ’. Tạ lòng tri kỷ, Tử gởi tặng lại một bài thơ nhan đề là Đây thôn Vỹ Dạ ”(3). “Sao anh không về chơi thôn Vỹ” là câu thứ nhất của bài thơ thi sĩ cảm hứng viết ra, không dính dáng gì đến Cô cả.
Chế Lan Viên cũng cho rằng “Sao anh không về chơi thôn Vỹ” là đầu đề của bài thơ khi ông viết bài báo cho tờ Sông Hương (số 15, ngày 25/5/1987) nói rằng bài thơ với đầu đề ấy nằm trong tập Nắng Xuân. Cô biên thư cho Chế Lan Viên (10/9/87) đính chính vụ này. Cô viết: “Tiện đây cũng xin thưa Anh rõ là bài thơ ‘Sao anh không về chơi Thôn Vỹ’ nhan đề của nó là Ở đây thôn Vỹ Dạ và bài ấy không có mặt trong tập Nắng Xuân…”. Nhiều người khác thì chỉ nói ngắn gọn “bài thơ thôn Vỹ” là ai cũng biết đó là bài thơ Ở đây Thôn Vỹ Giạ của Hàn Mạc Tử làm tặng Cô.
Bức ảnh mặc áo lụa trắng đứng sau khóm trúc
Cả Quách Tấn lẫn Nguyễn Bá Tín đều cho rằng Cô gởi tặng Hàn phiến ảnh của mình, mặc áo trắng đứng sau khóm trúc ở sau vườn nhà nơi thôn Vỹ. Vì vậy, thi sĩ đã có câu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” và “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Tôi không hiểu tại sao hai ông này viết như vậy? Hay họ đã quên chi tiết này chăng vì khi cuốn hồi ký của Quách Tấn do Quê Mẹ xuất bản năm 1988 thì cũng đã mười bảy năm qua từ khi Quách Tấn đọc thư của Cô đề ngày 15 tháng 4 năm 1971. Cô viết rõ bức ảnh Cô gởi cho Hàn không phải là ảnh Cô mà là “một bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái carte postale [Cô ghi carte visite nhưng carte visite thì nhỏ quá, chắc cô ghi nhầm]. Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống mặt nước, với lời thăm hỏi sức khỏe Tử viết sau tấm ảnh mà không ký tên, rồi gởi nhờ Ngâm trao lại.”
Trong cuốn hồi ký Hàn Mạc Tử, anh tôi của Nguyễn Bá Tín xuất bản năm 1991, hai năm sau khi Cô qua đời, ông khẳng định: “Cho tới khi anh đau nặng rồi 1939, chị Cúc còn cho anh một phiến ảnh cỡ 6 x 9: chị Cúc mặc áo dài lụa trắng như những cô gái Huế thời bấy giờ đứng trong vòm cây xanh mát, Anh làm ngay bài Đây thôn Vỹ Dạ (tr. 66-67)”. Trong cuốn Hàn Mạc Tử trong riêng tư, ông Tín vẫn quả quyết rằng bức ảnh Cô gởi cho Hàn năm 1939 là ảnh Cô. Ông viết: “Chính bức ảnh 6/9 này đã giúp Hàn sáng tác bài thơ tuyệt vời Đây thôn Vỹ Dạ. Hình bóng chị Cúc xuất hiện trong phiến ảnh nhỏ này đã làm sống lại mối tình đầu, thương nhớ lại trở về…” (tr 118). Ở trang 123, ông Tín lại nhấn mạnh: “Cuối năm 1939, nhận được bức ảnh chị, anh càng thương nhớ chị. Trong bài thơ Đừng cho lòng bay xa, anh ước ao gặp được hồn phách chị trong vùng trời xa lạ thần tiên như cõi Niết Bàn anh đã trông thấy những lúc du hành xuất thần.” Nếu Cô được đọc những dòng này chắc Cô sẽ sửng sốt, không hiểu tại sao “cậu Tín” lại bóp méo sự thật như vậy! Thư Cô viết cho “Cậu mợ Tín” ngày 16/10/1987 mà Võ Đình Cường đã trích nguyên văn nhiều đoạn rất dài nói rõ đầu đuôi câu chuyện rằng Cô chẳng hay biết gì về mối tình si của Hàn Mạc Tử cho đến mấy năm sau, khi đọc được mấy dòng tâm sự của Hàn viết cho bạn. Cô viết: “Vào đầu năm 1936, sau khi ông trợ Cát là cậu tôi, ghé nhà chơi, lúc ra về bỏ quên bức thư của Tử gởi cho cậu mà nội dung chỉ nói về chuyện tâm tình của Tử. Tử có tới gặp tôi hai lần. Lần đầu chỉ nói bâng quơ vài câu rồi chào về. Lần thứ hai, Tử mạnh dạn trong d áng điệu rụt rè, lắp bắp mấy lời tỏ tình, rồi đưa tặng tôi tập thơ Bâng Khuâng với mảnh giấy nhỏ có mấy hàng chữ. Tôi bàng hoàng rồi cũng rụt rè từ chối, không nhận sách, không nhận thơ…
… Gần cuối năm 1936, khi Tử về dự Hội chợ Huế, mang theo một xấp tập Gái Quê vừa in xong, có gặp tôi cùng đi với anh em trong hội chợ. Tử đưa tặng anh em tôi mỗi người một tập, có đề chữ tặng, không tặng tôi mà chỉ yên lặng nhìn! Mấy hôm sau, Ngâm cho biết Tử có về nhà tôi ở Vỹ Dạ mà lại đứng ngoài ngõ nhìn vô. Rồi từ ngày đó chúng tôi không gặp nhau lại, không thư từ thăm viếng, hứa hẹn, mỗi người mỗi ngả…”. Mấy năm qua, khi Hàn Mạc Tử bệnh nặng, và theo lời Hoàng Tùng Ngâm đề nghị, Cô gởi mấy lời thăm hỏi sức khỏe sau một tấm ảnh phong cảnh Huế, không phải bức ảnh Cô mặc áo lụa trắng đứng sau khóm trúc!(4)
Không xứng mặt đông sàng
Câu chuyện “không xứng mặt đông sàng” là do Quách Tấn dàn dựng. Bài của ông đăng trong báo Văn số 73, trang 93 ra ngày 7/1/67 nói về thân thế thi sĩ Hàn Mạc Tử, Quách Tấn đưa ra câu chuyện ông nội tôi không chấp nhận Tử vì chê thi sĩ không xứng mặt đông sàng. Bài này viết từ năm 1967 nhưng Cô không biết cho đến khi giáo sư Nguyễn Đình Niên đem báo Văn từ Nha Trang về Huế năm 1971 và đưa cho Cô xem. Lúc đầu Cô muốn giữ im lặng cho qua nhưng khi đoàn Dạ Lý Hương đưa lên sân khấu câu chuyện Hàn Mạc Tử, diễn đoạn Tử nhờ người đến cầu hôn, bị ông bà thân nhà gái từ chối, hắt hủi vì lẽ Tử không xứng mặt đông sàng, mà diễn viên trong vai ông nội và bà nội tôi thì đanh đá chua ngoa lắm. Cô không xem nhưng nghe những người xem rồi nói lại làm Cô xốn xang lắm. Cô liền viết thư cho Quách Tấn (15/1/1971) phiền trách ông đã viết nhiều điều quá sai sự thật. Trong bức thư thứ hai gởi Quách Tấn (15/3/1971), Cô viết: “Thầy tôi đổi vào Quy Nhơn tháng 2, 1932, làm việc ở sở Địa Chánh, đến tháng 8/1936 thì về hưu. Như vậy HMT không phải là tùy thuộc Thầy tôi. Vì theo ông cho biết thì Tử làm ở sở Đạc Điền. Hai sở này không liên hệ gì nhau cả. Suốt thời gian ở Quy Nhơn, Thầy tôi không hề gặp, hoặc biết mặt hay nghe tên tuổi Tử… thì làm gì có chuyện Thầy tôi nói Tử không xứng mặt đông sàng!”
Bức thư trả lời của Quách Tấn (23/3/1971) hứa sẽ sửa lại những điểm sai. Ông viết: “Nhận được thư và tài liệu chị gởi cho, tôi rất mừng. Xin cảm ơn chị và sẽ theo tài liệu này sửa lại đoạn văn kia.” Vậy là từ năm 1971 Quách Tấn hứa sẽ sửa lại những điều ông viết sai mà, 17 năm sau, trong cuốn hồi ký Đôi nét về Hàn Mạc Tử, ông vẫn viết: “Tử muốn đưa tình yêu vụng lén đến cuộc hôn nhân. Nhưng hôn sự bất thành! Bất thành không phải vì Tử gặp cảnh rủi ro của chàng Kim Trọng. Bất thành vì vấp phải trường hợp của Tản Đà khi nhờ người dạm hỏi Đỗ thị. Nghĩa là thân sinh của Hoàng Cúc - lúc bấy giờ làm tham tá sở Đạc Điền mà Tử là tùy thuộc - chê Tử không xứng mặt đông sàng.”(5)
Trong cuốn Hàn Mạc Tử trong riêng tư, Nguyễn Bá Tín cũng có nhắc lại huyền thoại này. Ông viết: “Trong một dịp về Huế ghé thăm chị Cúc nhắc lại những câu chuyện ông Tấn viết về chị trong đôi nét về Hàn Mạc Tử, chị nói: Ông Tấn kể chuyện anh Trí đi Sài Gòn lập chí để xem người ta còn khinh anh nữa không. Người ta đây ông Tấn ám chỉ tôi. Vì tôi đã chê anh Trí không xứng môn đăng hộ đối.
Chị Cúc nói: Giữa anh Trí và tôi chưa hề có lời trao đổi chê khen, dù là gián tiếp, chưa hề có thái độ thân sơ, khinh trọng. Vậy ông Tấn dựa vào đâu mà xét đoán tôi quá tầm thường như vậy. Dòng họ tôi sống theo Nho phong Phật giáo có bao giờ mặc áo khỏi đầu. Anh Trí cũng biết vậy. Anh Trí viết trong bài Ở đây thôn Vỹ Dạ cũng đã thông cảm ý đó Gió theo lối gió mây đường Mây.
Chị Cúc cũng thổ lộ:Nếu nói về chuyện môn đăng thì thật là quá khinh bạc đối với gia đình Hàn Mạc Tử. “Ông cụ tôi, chị nói (cụ Hoàng Phùng, thân sinh chị), đã từng là bạn đồng liêu với cụ Tham (cha tôi) khi hai người còn làm việc tại Tòa sứ Hội An năm 1901. Tôi đọc gia phả cụ tôi có ghi năm đó bàn giao công việc đối với cụ Tham Nguyễn Văn Toản khi cụ chuyển ngành qua Thương Chánh. Nói như ông Tấn thì thật sai lầm làm cho tôi hổ thẹn.”
Thật đúng như nhà văn Phật tử Võ Đình Cường phàn nàn, “Những người có liên hệ mật thiết với Hàn Mạc Tử mà chị [Cúc] đã cho biết sự thật, và yêu cầu họ đính chính, thì họ đã không làm, hay làm ngược lại, gây thêm hỏa mù trong một khung cảnh đã có nhiều ‘sương khói’ làm ‘mờ nhân ảnh’.” Võ Đình Cường phiền trách Quách Tấn và Nguyễn Bá Tín cố ý viết sai sự thật để câu chuyện thêm ly kỳ(6).
Những ngày yêu thương cuồng nhiệt
Bài Ba mối tình của HMT do Kiêm Đạt viết trong tờ Phụ Nữ Diễn Đàn ở Nam California (1985) làm Cô rất buồn bực. Bài viết rất lộn xộn, thứ tự ngày tháng sai lạc, tình tiết sự việc sai lạc. Thông tin về cả “ba người tình” đều không đúng. Ngay cả mấy vần thơ của Hàn Mạc Tử mà ông trích dẫn cũng có nhiều chỗ sai! Ông còn cho rằng bài thơ Thôn Vỹ là Hàn ghi lại “một mối tình tinh khiết tuyệt trần” với Thương Thương vì theo ông thì nhà Thương Thương ở Vỹ Dạ! Về phần Cô thì Kiêm Đạt rêu rao rằng Hoàng Thị Kim Cúc đã có “những ngày yêu thương vô cùng cuồng nhiệt” với thi sĩ. Kiêm Đạt kết luận như vậy vì ông cho rằng những vần thơ sau đây là do Cô làm và gởi cho thi sĩ trong những ngày yêu đương ấy và đã được đăng trong tờ báo Sông Hương:
Người đã cho ta kỷ niệm đầu Và nghìn cay đắng, gởi về sau, Không gian mờ mịt, thời gian tím Ai biết chăng ai, nỗi thảm sầu. Những bức thư tình đượm nét hương Của tình đẹp đó, đến muôn phương Tan rồi, những bước không hò hẹn Đã bước cùng nhau một nẻo đường.
Cô bực bội buồn phiền, đã thảo một bức thư gởi ông Tổng Biên tập Tạp chí Sông Hương, nhưng sau đó Cô đổi ý, chỉ nhờ một bằng hữu của Cô có bút danh là Thế Hữu viết cho Kiêm Đạt và tờ Phụ Nữ Diễn Đàn (tháng 12, 1985) nói rõ rằng tám câu thơ trên là của một thi sĩ vô danh đã bắt chước và nhại theo thơ Huy Cận. Thế Hữu viết, “…Sự thật thì 8 câu thơ trên là mấy câu của một thi sĩ vô danh nào đó đã bắt chước tập thơ Huy Cận (bắt chước và nhại theo Huy Cận, tác giả tập ‘Lửa Thiêng’) thế thôi. Ông Kiêm Đạt không nhớ 2 câu thơ cuối của bài thơ ông trích ở trên là 2 câu thơ nằm trong tập Lửa Thiêng, in lần đầu năm 1940 hay sao?”
Tôi sẽ cho in toàn bài của Kiêm Đạt vào phần phụ lục để sau này không còn ai theo tài liệu của ông khi viết về mối tình của Cô như một tác giả, theo như tôi được biết, hiện đang sống ở nước ngoài, lấy bút hiệu là Vương Tiểu Muội trong bài Hương Nồng Trong Áo Em. Vương Tiểu Muội là cựu nữ sinh Đồng Khánh. Cô không ngờ cô giáo dạy nữ công gia chánh của mình thời trung học là nhân vật trong “cuộc tình thiên thu của nhà thơ Hàn Mạc Tử”, cho nên cô “ngẩn ngơ” khi đọc bài Ba Mối Tình của Kiêm Đạt. Cô cảm thấy hứng thú bèn viết nên bài Hương Nồng Trong Áo Em “để tưởng nhớ cô giáo C.” có suy nghĩ rằng: “…người đàn bà đơn sơ, thầm lặng, đôn hậu ấy đã suốt đời cưu mang trong tấm hình hài thon nhỏ của mình mối tình cao như núi, rộng như trùng khơi, bao la như không gian, thăm thẳm như thời gian.” Rồi cô trích bốn câu thơ đầu trong bài viết của Kiêm Đạt:
Người đã cho ta kỷ niệm đầu Và nghìn cay đắng, gởi về sau, Không gian mờ mịt thời gian tím Ai biết chăng ai, nỗi thảm sầu
và đề dưới là của H. T. Kim Cúc. Tôi được đọc bài này trong tập hồ sơ của Cô và thấy cuối trang đề TSH 99. Có lẽ là tờ Tiếng Sông Hương trang 99. Bài này dài 3 trang, từ 99 đến 101.
Năm 1985, ông xã tôi từ tiểu bang California đem về Maryland tờ Phụ Nữ Diễn Đàn có bài của Kiêm Đạt. Ba tôi gởi bài báo về Huế. Sau đó Cô gởi cho tôi bút tích của Hàn Mạc Tử [bản copy] gồm bài thơ Ở Đây Thôn Vỹ Giạ cùng mấy dòng cảm ơn, thăm hỏi mà các sách báo đã đăng đầy đủ. Cô nhắn tôi viết cho tờ báo trên, nói lên những chỗ sai lầm. Cô viết lý do Cô gởi tài liệu cho tôi là “để em biết sự thật và tùy em muốn viết bài đính chính thì tùy tiện còn O không muốn hệ lụy đến chuyện thế gian nữa.” Cô gởi cho tôi bài tự truyện nhan đề Thi sĩ Hàn Mạc Tử với người gái quê “gọi là kỷ niệm cái ngày thi sĩ qua đời”. Câu chuyện được phóng tác theo những lời tâm tình của thi sĩ gởi cho một người bạn...
Hồi ấy tôi cũng bận rộn và nhát gan nữa nên cứ lần khân, vẫn hy vọng một ngày nào đó có dịp về thăm lại thôn Vỹ và nghe Cô tâm sự. Thời gian lớn lên bên Cô, chúng tôi cũng hay hỏi Cô có “cảm” thi sĩ Hàn Mạc Tử không thì Cô chỉ tủm tỉm cười mà không nói năng chi. Chúng tôi trêu, “Chắc o cũng có thích hí?” thì Cô cũng chỉ cười mỉm rồi bỏ đi.
Năm 2000, khi tôi về Huế, em Hoàng Phước Thiện, thủ tự từ đường ở Vỹ Dạ, cho tôi mấy cuốn sách khảo cứu về Hàn Mạc Tử do các tác giả tặng gia đình. Tôi đem sách về nhà đọc, lòng dặn lòng một ngày nào đó sẽ ngồi xuống và viết về những điểm mà tôi nhận thấy những nhà cầm bút đã không phản ảnh đúng câu chuyện Cô tôi kể. Không hiểu sao tôi vẫn cứ hẹn rày hẹn mai cho đến năm 2009, bỗng dưng tôi quyết định xuống nhà ở Vỹ Dạ và yêu cầu em Thiện mang hết tư liệu của Cô cho tôi xem.
Những bức thư để lại
Thật bất ngờ khi thấy những bức thư Cô viết cho nhiều người: Quách Tấn, Võ Long Tê, Chế Lan Viên, Nguyễn Bá Tín, Tuấn Khanh - con gái của bà Như Lễ [chị của HMT] - và cả thư gởi cho ba tôi nữa, tôi thấy có ghi hai chữ “để lại”. Thì ra Cô đã viết hai bản, một gửi đi và một bản lưu. Tôi không hiểu lý do tại sao Cô thấy cần phải lưu lại một bản? Cô biết sau này sẽ có người cố tình không nói đúng những lời Cô tâm sự về mối tình đầu của thi sĩ? Cô biết có ngày những bức thư ấy sẽ nói lên những sự thật mà Cô không thể nói được? Không ai biết Cô đã có suy nghĩ gì khi làm quyết định lưu lại mấy tờ thư kia! Một bất ngờ nữa và thật cảm động khi tôi được đọc những bức thư chú tôi [Hoàng Tế Ngộ] viết cho Cô, thư của cô Ngọc Anh là em gái Cô, thư chú Ngâm [Hoàng Tùng Ngâm, em thúc bá] viết vào những năm Hàn Mạc Tử mới qua đời. Tôi thấy ngậm ngùi thương Cô vô hạn. Tôi có cảm tưởng như Cô đang thì thầm, trò chuyện, phân bua với tôi!
Giáo sư Nguyễn Đình Niên & Giáo sư Võ Long Tê
Hè năm ấy tôi đem về Mỹ tất cả những tư liệu về Cô và Hàn và những trang ghi chép những phần không thể copy được, nhưng rồi cũng trân trọng cất kỹ! Năm 2010 tôi lại có dịp về thăm Huế và tìm gặp giáo sư Nguyễn Đình Niên, người đầu tiên được Cô kể lể câu chuyện “Hàn Mạc Tử + Kim Cúc” năm 1971 để ông hoàn thành luận án cao học của ông về Hàn Mạc Tử. Khi nghe tôi nói ngày trước Cô muốn tôi viết về thời gian Hàn Mạc Tử tìm cách quen biết Cô, anh Niên thúc giục tôi nên viết, bởi vì theo anh Niên thì khoảng ba năm trước khi Cô từ trần, Cô muốn anh Niên viết lại chuyện “Hàn Mạc Tử + Kim Cúc” do tài liệu Cô cung cấp nhưng anh đã không làm được. Anh Niên ân hận tâm sự: “Thời điểm đó tôi còn đi dạy, và quá bận vì tôi đang dịch bộ kinh Lăng Già từ chữ Hán ra chữ Việt, nên tôi thưa với Cô là ‘hãy thong thả’, lý do chính là vì tôi nghĩ Cô còn thọ rất nhiều năm nữa. Sau đó, thì ông Tê nhờ người em ruột của vợ ông (Trần Xuân Lộc), đi với tôi xuống nhà Cô, năn nỉ mượn tài liệu. [Vợ ông Tê là học trò cũ của Cô, bà Trần Thị Như Quỳnh]. Tôi nghĩ tôi đã không viết được, thì nên để ông Tê viết, nên tôi đã hết sức nói vô cho ông Tê để Cô cung cấp tài liệu cho ông Tê.”
Chắc Cô thấy cũng đã đến lúc cần phổ biến sự thật, vì đã 15 năm sau khi trao đổi thư từ với Cô, Quách Tấn vẫn không đính chính những điểm sai lầm trong bài viết của ông, nên năm 1986, Cô bằng lòng đưa những tư liệu về Hàn Mạc Tử cho ông Tê. Anh Niên rất buồn là cho đến ngày Cô mất, cuốn sách của ông Tê vẫn chưa ra đời, mặc dù trong thơ gởi anh Niên đề ngày 17, tháng 3, năm 1988, ông Tê tuyên bố: “Sách tôi đang viết đang ngon trớn, trong năm nay sẽ trao cho cô Kim Cúc và anh xem trước.” Trong bức thư tâm sự với ba tôi (11/5/1988), Cô cũng có nhắc đến cuốn sách ông Tê viết sắp xong và hy vọng sẽ biếu ba tôi một cuốn. Tài liệu ông Tê mượn với lời hứa danh dự sẽ hoàn trả, nhưng cho đến nay chúng tôi không biết giáo sư Võ Long Tê đang ở phương trời nào. Trước ngày Cô lâm nạn, Cô có thư cho tôi nhờ hỏi xem ông Tê định cư ở đâu để đòi tài liệu lại cho Cô, những tài liệu Cô đưa cho ông từ năm 1986 mà Cô rất trân quý. Cô nói với tôi Cô không có gì quý báu để lại cho em Bích Tâm làm của hồi môn, chỉ có những tài liệu về thi sĩ Hàn Mạc Tử chú Ngâm trao cho Cô sau khi thi sĩ qua đời là quý giá.
Tài liệu gởi cho Võ Long Tê
Cô ghi tài liệu gởi lần đầu gồm:
- Tập Nắng Xuân. - Thủ bút bài “Ở Đây Thôn Vỹ Giạ”. - Giấy về lễ chu niên của thi sĩ HMT của nhà văn Trần Thanh Mại. - Cái carte [visite] của HMT. - Bài báo kỷ niệm lễ đại tường của HMT. - Bài tùy bút nói về HMT với người gái quê. - Bức ảnh 6/9 [khi cô 19 tuổi lúc HMT gặp cô. Ông Tê muốn cho ảnh này vào sách]. - Tờ giải thích mấy điểm Võ Long Tê hỏi.
Mấy lần sau, Cô gởi thêm:
- Những bài thơ Đường của Hàn Mạc Tử chép do Hoàng Tùng Ngâm đem về, Cô ghi từ bài 1 đến bài 34. - Bức thư Hàn Mạc Tử viết cho người cậu bà con [ông Trợ Cát] năm 1932. - Bức thư Hoàng Tùng Ngâm viết báo tin Hàn Mạc Tử từ trần. - Mấy bài thơ Cô làm hồi xưa, năm 1930, 31 xướng họa chơi với các em Cô. Ông Tê muốn xem những bài ấy để tìm hiểu tâm trạng của cô hồi còn nhỏ, lời ông Tê. - Cái ảnh của Hoàng Tùng Ngâm gởi tặng. - 4 mảnh thư của H. T. Ngâm gởi cô có liên quan đến HMT. - 18 bài thơ của HMT lúc mới làm xong “Ngâm đem về cho coi, tôi chép lại để anh thấy nét chữ của tôi hồi đó. Cũng có thể trong mấy bài thơ trên sau này có bị sửa đổi nhiều chữ như trong tuyển tập HMT của Chế Lan Viên.” - Hai bài của Hoàng Vân Nghi (em Hoàng Tùng Ngâm). - Bài của Kiêm Đạt do ông anh ở Mỹ gởi về. - Và “mới đây anh Niên đã gởi tất cả các bản chính vào anh chị luôn, tôi không giữ lại bài nào.” (thơ gởi cho Võ Long Tê ngày 10 tháng 9 1987).
Sau khi gởi hết tài liệu đi rồi, Cô thấy hụt hẫng thế nào ấy nên đã than thở với ông Tê (thư đề ngày 10/9/87), “thật tình tôi cũng không hiểu vì sao từ bao nhiêu năm nay vẫn tâm nguyện giữ kỹ mối tình thầm lặng của nhà thơ, nhất là không muốn phô trương trên mặt báo. Vì lẽ đó, tôi đã cương quyết không trả lời với bất cứ ai đến hỏi trong thời gian qua, thế mà không hiểu vì sao nay lại có thể trao tất cả nỗi niềm riêng tư của mình cho anh Niên và anh chị, tự nhiên cảm thấy mình bị chịu thiệt mất rồi.” Đọc mấy dòng này, tôi thấy bùi ngùi thương Cô xót xa. Không hiểu vì sao giáo sư Võ Long Tê không hề liên lạc với Cô nữa sau khi nhận đủ những tư liệu cần thiết cho công việc biên khảo của ông. Bức thư ông viết cho Cô đề ngày 30 tháng Sáu, 1988 cám ơn đã nhận đủ tất cả tài liệu là lần cuối cùng ông liên lạc với Cô. Gia đình họ Hoàng chúng tôi tha thiết yêu cầu gia đình giáo sư Võ Long Tê hoàn trả tất cả những gì giáo sư mượn của Cô ngày trước để Cô được mỉm cười an vui ở một cảnh giới nào đó.
Tư liệu được phổ biến
Tôi có thể đoán được lý do tại sao bỗng dưng Cô lại chịu buông bỏ lời nguyền xưa, ân cần trao hết tài liệu cho nhà khảo cứu Võ Long Tê năm 1986, 1987, và 1988. Lý do ấy được Cô trình bày trong bức thư gởi cho ba tôi: “Em nghĩ các tư liệu đó là của văn học nước nhà, không phải của riêng em, với lại gặp dịp có người đứng đắn, giỏi, ông [VLT] viết rồi dịch qua tiếng Pháp, nên em cho ông mượn các tư liệu em có, để ông dựa theo đó mà viết cho chính xác, cũng là một cách gián tiếp cải chính những sai lầm mà lâu nay nhiều người đã viết”.
Đối với bài viết của Kiêm Đạt, Cô bực tức hơn cả lúc đọc tập Văn có bài của Quách Tấn nói về thân thế thi sĩ Hàn Mạc Tử có nhiều đoạn quá sai sự thật, nhất là khi đoàn cải lương dựng màn hát dựa theo những dữ kiện sai lạc ấy, cho nên khi ông Nguyễn Đình Niên - giáo sư dạy văn ở Trường Đồng Khánh - xin Cô tài liệu để viết luận án cao học về Hàn Mạc Tử thì Cô bằng lòng ngay, vì Cô sợ ông Niên sẽ dùng tài liệu sai lạc của Quách Tấn (thư cô viết cho QT ngày 15/1/1971). Cô còn hỏi Quách Tấn nếu cần tài liệu để viết lại bài khác cho đúng sự thật hơn thì Cô sẽ sẵn sàng. Cô viết: “Lâu nay nhiều người muốn gặp tôi hỏi về HMT, song tôi đều từ chối, vì nghĩ rằng đó là một câu chuyện riêng tư, không muốn ai biết, nhưng nay mọi người đều biết, và biết sai, sẽ không lợi cho lịch sử sau này và cũng không hay cho thân thế thi sĩ, nên buộc lòng tôi phải lên tiếng.”
Trong thư gởi Tuấn Khanh (1/10/87), học trò cũ của Cô và cháu gọi HMT bằng cậu, Cô viết, “…cô đã trả lời những câu thầy Niên hỏi. Thầy hỏi rất dè dặt và viết cũng rất kín đáo. Thầy Niên là người đầu tiên mà cô tiếp xúc để nói về H.M.T sau bao nhiêu năm âm thầm giữ kín. Năm kia thầy Niên này nỉ cô có tài liệu gì gởi cho thầy Võ Long Tê [thầy cũ của giáo sư Niên], thầy Tê đang viết về HMT. Thầy Tê là người đứng đắn, học rộng biết nhiều. Nghĩ vì ngày nay nhiều người biết câu chuyện tình của cậu [HMT] mà biết sai lạc, nên cô mới đưa tài liệu cho thầy Tê, để sau này họ khỏi phỏng đoán này nọ, rồi xuyên tạc mãi đi xa sự thật.”
Cô càng thấy cần thiết phải đính chính sau khi thấy Chế Lan Viên viết nhiều chi tiết sai lạc về Cô trong bài “Ông Nghị Gật“ đăng ở tờ Sông Hương số 15, ngày 25 tháng 5 năm 1987. Lúc đầu Cô cũng định lặng lẽ cho qua nhưng khi thấy Chế Lan Viên viết rằng bài thơ Ở đây thôn Vỹ Giạ được đăng trong tập Nắng Xuân thì Cô tự tay viết cho Chế Lan Viên (10/9/1987) phiền trách ông đã không tìm cách kiểm chứng dữ kiện trước khi cho đăng báo. Tập Nắng Xuân do Hàn Mạc Tử tự xuất bản năm 1937; bài thơ Thôn Vỹ được làm năm 1939 không thể có mặt trong tập Nắng Xuân được. Cô bực mình vì Chế Lan Viên đã dành lấy tập Nắng Xuân - bản Hàn Mạc Tử tặng Cô - trên tay Vân Khanh, cháu của Hàn Mạc Tử, rồi đưa bài Ông Nghị Gật từ tập Nắng Xuân đăng trong tờ báo Sông Hương với những lời bàn của ông về Cô làm Cô phiền lòng lắm.
Theo thư gởi cho ba tôi ngày 11/5/1988, thì Cô muốn chờ sách của ông Tê in xong sẽ gởi “tặng anh để anh ngạc nhiên, bất ngờ thì hay, song nay nghĩ lại, em cần để anh và chị em biết trước, mặc dù biết đại khái, để khi có sách xem biết thêm chi tiết thì càng hay, chứ nay không nói trước với anh chị em trong nhà thì em sai quá…”. Đúng ba tháng sau, ngày 11/8/1988, Cô bị tai nạn giao thông rồi hôn mê luôn. Có thể vì linh cảm được điều này chăng nên Cô thấy cần kể lể với ông anh rồi còn căn dặn: “Anh xem xong đưa mấy cháu xem cho vui. Nếu có thể được, anh đánh máy cho em vài bản về đoạn em kể câu chuyện tình của HMT em gởi cho mấy chị em ở đây coi... Khá Anh [Hoàng Tế Ngộ], Khá Em [Hoàng Hoan Nghinh]), hay Em Nhỏ [Hoàng Thị Ngọc Anh] thì có biết chuyện, song cũng biết lờ mờ, vì em cũng không nói chi hết, mấy em ở trong nhà cũng chỉ biết qua sách báo... Trong gia đình, anh là người đầu tiên mà em kể câu chuyện tâm tình của em. Với người ngoài thì em có nói với ông đang viết về HMT [Võ Long Tê] có liên quan đến em mà thôi.”
Nhân vật Hoàng Tùng Ngâm
Tôi đọc đi đọc lại những bức thư người thân của Cô gởi sau ngày Hàn Mạc Tử qua đời mà ngậm ngùi thương cảm. Tôi nghĩ là tôi có thể hiểu được tâm tình của Cô, hiểu được tại sao Cô vẫn một mực kêu “oan” là mình không hề đáp lại mối tình si của thi sĩ, cho nên Quách Tấn đành phải kết luận mối tình đầu của thi sĩ là mối tình đơn phương. Thưa, cô tôi là một người có một “tâm hồn ủy mỵ” - lời Cô nói về mình trong bài Một năm qua (xem phần III) - là một con người ướt át, đa sầu đa cảm. Tôi còn nhớ sau 1954, khi nghe hát bài ‘Hướng về Hà Nội’, mặc dầu chưa hề biết Hà thành, Cô xúc động lặng lẽ rơi nước mắt. Không lẽ nào Cô không có chút động lòng khi nhà thơ trẻ đón đường e thẹn làm quen. Hàn Mạc Tử đón đường hai lần, và hai lần Cô hấp tấp bỏ đi không dám đứng lại chuyện trò, mặc dầu chàng trai trẻ kia đâu phải là người xa lạ. Cô đã biết thi sĩ qua người em thúc bá Hoàng Tùng Ngâm. Chú Ngâm là người bạn thơ rất thân với Hàn Mạc Tử. Chú cũng làm việc ở Quy Nhơn và ở cùng nhà với ông nội tôi nhưng chú cho làm một túp ‘lều tranh’ riêng của chú sát vách nhà lớn ở trên đường Khải Định, cách nhà Hàn Mạc Tử mấy căn thì phải. Chú muốn ở riêng biệt như vậy để bạn bè chú được tự do lui tới mà Hàn Mạc Tử là vị khách thường xuyên của cái lều tranh đó. Thi sĩ có làm tám câu thơ vịnh ‘Lều tranh ông Hoàng’ - là ông Hoàng Tùng Ngâm, không dính dáng gì đến lầu ông Hoàng ở Phan Thiết - tặng bạn, dán ở trước cửa lều mà Cô chỉ nhớ hai câu đầu:
Một lều trăng gió ngó lôi thôi Mái lủng tường xiêu cũng sướng rồi…
Chú Ngâm là người báo tin cho Cô biết Hàn Mạc Tử đau nặng và xin Cô gởi thư thăm hỏi người xưa. Cô rất thương cảm nhưng cũng chỉ viết đôi dòng hỏi thăm sức khỏe sau một tấm ảnh phong cảnh mua ở hiệu chụp hình Tăng Vinh, Huế, mà cũng chỉ gởi nhờ chú Ngâm trao lại. Em lấy chồng, bài thơ ở trang cuối của tập Gái Quê, thi sĩ đề “tặng Thanh Trai họ Hoàng”. Thanh Trai là biệt hiệu của Hoàng Tùng Ngâm.
H.T.Q.H (SH296/10-13)
..................................................... (1) Phần phụ lục trong cuốn hồi ký của Quách Tấn do Quê Mẹ xuất bản 1988, bà Như Lễ, chị ruột Hàn Mạc Tử, phiền trách ông Trần Thanh Mại đã đưa ra những điểm sai sự thật về gia đình thi sĩ trong cuốn sách của ông. Lời bà Như Lễ: “Trần Thanh Mại nói về trường hợp sanh Hàn Mạc Tử một cách hết sức xuyên tạc! Ông nói rằng bà thân chúng tôi đã uống rượu lậu của ông thân chúng tôi bắt được, và say sưa lướt khướt. Do đó sanh ra Tử thiếu tháng. Cho nên Tử sanh ra chỉ bằng con nhái chàng nằm lỏng lẻo trong bàn tay một người lớn.” (tr. 156). (2) Võ Đình Cường, Huyền thoại về người tình đầu tiên của Hàn Mạc Tử và bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ, tr 45 trong Tập Thành Đạo, PL 2535 (số 22 tháng 1/1992). (3) Quách Tấn, Đôi nét về Hàn Mạc Tử, tr 65, Nxb. Quê Mẹ, 1988. (4) (6) Võ Đình Cường, Mấy tư liệu chính xác về Mối tình giữa Hàn Mạc Tử và Hoàng Thị Kim Cúc trong Tập văn Phật đản P.L. 2536 của Ban Văn Hóa Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam số 23 tháng 5, 1992. (5) Quách Tấn, Đôi nét về Hàn Mạc Tử, tr 64.