Dân Chúa Âu Châu

 

 
Một bảy chín mươi sinh ra (1790)
Quỳnh Lưu, Thuận Nghĩa tên là Đăng Khoa
Nghệ An, Thượng Hải, là nhà
Thị Hoan là mẹ, bố là Đình Tân
 
Gia đình đạo hạnh chuyên cần
Khi lên tám tuổi học vần hán văn
Cha Hòa thấy cậu hiền lành
Dạy thêm tiếng Pháp cho anh hàng ngày
 
Đăng Khoa học rất hăng say
Học hành tấn tới mỗi ngày một thêm
Tính tình hiền hậu êm đềm
Sau vào chủng viện học thêm tu hành
 
Một tám hai mươi trở thành (1820)
Linh mục thiên chức gương lành tiến thăng
Trông coi Vĩnh Phước, Lu Đăng
Cồn Dừa, Bố Chính, tài năng hơn người
 
Lúc nào ngài cũng tươi cười
Siêng năng cầu nguyện bao người mến thương
Đời ngài là một tấm gương
Tình yêu Thiên Chúa người lương theo về
 
Bao nhiêu công việc nặng nề
Ngài luôn vui vẻ chẳng hề than van
Hăng say mùa gặt miên man
Mười tám năm thợ cao sang"Nước Trời"
 
Mùa màng đang lúc tuyệt vời
Bỗng dưng có lệnh ngược đời phán ra
Vua truyền bắt hết các cha
Những người truyền đạo đem ra tử hình
 
Bao nhiêu tàn sát bất minh 
Gieo bao tang tóc dân tình khổ đau
Bao nhiêu chủng viện nhà chầu
Quan quân đốt sạch của thâu cướp về
 
Qua bao khổ ải nhiêu khê
Cha Khoa chẳng ngại vẫn về giúp dân
Biết bao tín hữu đang cần
Về ban "Bí Tích" tinh thần ủi an
 
Mồng mười tháng bảy quanh bàn
Lê Sơn, Bố Chính, nồng nàn lễ dâng
Bỗng tên Tú Khiết vô luân
Đang giữa thánh lễ dẫn quân ập vào
 
Hất tung "bánh lễ rượu đào"
Buông lời hỗn láo xông vào bắt cha
Thầy Khang, Thầy Đức Cha Khoa
Lê Sơn, Đồng Hới giải qua Quảng bình
 
Bao nhiêu tra tấn cực hình
Mong sao cho hết chung tình theo CHA
Qua hơn bốn tháng khảo tra
Bao nhiêu tra tấn chẳng ra được gì
 
Quan đành viết sớ gởi đi
Lệnh vua Minh Mạng tức thì tới nơi
Mau mau xử tử tức thời
Quan quân liền tới giải người đi ra
 
Ngài đi miệng hát câu ca
Hiên ngang anh dũng đi ra pháp trường
Hiến dâng đến cuối đoạn đường
Tân Ninh là chỗ pháp trường thăng hoa
 
Ba hồi trống lệnh vừa qua
Dây thừng thắt lại hồn cha về trời
Vào ngày hai bốn khắp nơi (24.11.1838)
Trên hàng "Hiển Thánh" cả trời ngợi ca.
 
Trầm Hương Thơ 
 
Ngày 27 tháng 5 năm 1900, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã tôn phong các ngài lên bậc chân phước và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng các ngài lên hàng hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.
 
Ngài sinh năm 1790 tại Thượng Hải làng Thuân Nghiã, Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, cha là Phaolô Vũ Đình Tân Mẹ là Maria Nguyễn Thị Hoan. PhêrôVũ Đăng khoa là con thứ ba trong bảy người con.
 
Tử đạo ngày 24.11.1838 tại pháp trường Tân Ninh, Đồng Hới Quảng Bình.